Page 2 of 4 FirstFirst 1234 LastLast
Results 11 to 20 of 40

Thread: Tác giả / Tác phẩm

  1. #11
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Nhạc sĩ Lê Hoàng Long và nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh





    Nhạc sĩ Lê Hoàng Long với “Gợi giấc mơ xưa”
    Lê Hoàng Long sinh năm 1930 tại Sơn Tây. Ông đă từng học violon với nhạc sĩ Lă Hữu Quỳnh rồi với nhạc sĩ Lương Ngọc Châu, và học nghệ thuật ḥa âm với Giáo sư Tạ Phước. Từ năm 1950, Lê Hoàng Long học tại Trường Âm nhạc Việt Bắc ở Tuyên Quang do nhạc sĩ Văn Cao làm hiệu trưởng, nhạc sĩ Tô Vũ làm giáo sư ḥa âm, sau đó ông trở về Hà Nội, chơi nhạc tại các vũ trường.

    Năm 1954, Lê Hoàng Long di cư vào Sài G̣n rồi chuyển ra Huế. Ở Huế được hai năm, ông lại quay vào tiếp tục sống tại Sài G̣n.
    Nhạc phẩm Gợi giấc mơ xưa được ông viết tại Sài G̣n năm 1955, khi người yêu của ông đi lấy chồng. Gia đ́nh cô gái không đồng ư với t́nh yêu của hai người v́ ông chỉ là một nhạc sĩ violon.

    Lời BảnNhạc Gợi Giấc Mơ Xưa

    Ngày mai lênh đênh trên sông Hương
    Theo gió mơ hồ hồn về đâu?
    Sóng sầu dâng theo bao năm tháng
    Ngóng về đường lối cũ t́m em!

    Thương em th́ thương rất nhiều, mà duyên kiếp lỡ làng rồi
    Xa em! ḷng anh muốn nói bao lời, gió buông lả lơi
    H́nh bóng đă quá xa mờ dần theo thời gian
    Kiếp sau xin chắp lời thề cùng sóng bước lang thang.

    Em ơi! t́nh duyên lỡ làng rồi c̣n đâu nữa mà chờ
    Anh đi ḷng vương vấn lời thề nhớ kiếp sau chờ nhau
    Tha hương ḷng luôn nhớ ngày nào cùng tắm nắng vườn đào
    Gió xuân sang anh buồn v́ vắng bóng người yêu.

    Thương anh th́ thương rất nhiều, mà ván đă đóng thuyền rồi
    Đa đoan trời xanh cắt cánh vịnh cảnh khiến chim ĺa đôi
    Chiều xuống mưa gió tiêu điều reo trên gịng Hương
    Tháng năm chưa xóa niềm sầu v́ dứt khúc tơ vương.

    Anh ơi, đời đă lỡ hẹn thề th́ đâu có ngày về
    Xa anh đời em tắt nụ cười héo hắt đôi làn môi
    Đêm đêm đèn le lói một ḿnh ngồi ôm giấc mộng t́nh
    Kiếp sau đôi tim ḥa chào đón ánh b́nh minh.

    Gợi giấc mơ xưa trở thành một nhạc phẩm rất nổi tiếng, được nhiều thế hệ ca sĩ tŕnh bày. Lê Hoàng Long cũng là người có nhiều bài viết về tiểu sử các nhạc sĩ Việt Nam. Sau đây là cuộc phỏng vấn của phóng viên một tờ báo tại Sài G̣n với vị nhạc sĩ nay đă ngoại bát tuần (82 tuổi) nhưng vẫn c̣n khỏe mạnh đó.

    PV: Thưa nhạc sĩ, “Gợi giấc mơ xưa” là một bản nhạc có âm hưởng... thất t́nh. Nhạc sĩ có thể hé mở đôi chút về mối t́nh này không?
    LHL: Tôi bây giờ đă già, con cái đă trưởng thành rồi, c̣n người ấy cũng đă cùng con cái cháu chắt ở tận phương trời. Thành thử tôi chẳng ngại ǵ mà giấu giếm. Khi c̣n ở Sài G̣n năm 1954, tôi có quen và yêu một người con gái tên là Lê Thu Hiền. T́nh yêu đang đẹp th́ bỗng có người đến xin cưới nàng. Ngay lập tức, nàng dẫn tôi đến gặp bố ḿnh. Gặp ông, tôi chính thức xin được làm rể, nhưng ông bảo: “Để hỏi ư kiến xem em nó thế nào đă”. Không ngờ khi tôi ra về, ông quát mắng con gái: “Nếu bằng ḷng lấy anh giám đốc trường dạy lái xe Ecole Mayer th́ c̣n bố mẹ, gia đ́nh. C̣n nếu lấy anh chàng chỉ biết chơi violon tối ngày th́ không có cha con, ḍng họ ǵ hết”. Và thế là thủ tục cưới hỏi tuần tự diễn ra. Hôm đó là một ngày Chủ nhật cận tết Ất Mùi năm 1955, tôi đau đớn chứng kiến người yêu lên xe hoa. Ngồi chờ đoàn xe đưa cô dâu về nhà chồng trong một quán cà phê ở đường Hiền Vương (nay là đường Vơ Thị Sáu), tôi thấy nàng ôm bó hoa màu trắng trong lễ phục cô dâu, cùng chú rể bước lên xe hoa. Đoàn xe ngang qua chỗ tôi ngồi, bánh xe lăn trên đường như nghiến nát tâm hồn tôi. Ngay lúc đó, tâm trí tôi đă hiện lên ư nhạc. Khi đoàn xe đi khuất, tôi trở về căn gác nhỏ ở đường Lư Thái Tổ và hoàn tất bản Gợi giấc mơ xưa, cả phần nhạc lẫn phần lời chưa đầy 10 phút.

    PV: Câu chuyện xảy ra ở Sài G̣n, tại sao bài hát lại bắt đầu bằng câu “Ngày mai lênh đênh trên sông Hương...”?
    LHL: Đang làm ở Sài G̣n nhưng tôi quyết định xin ra Huế, xa những con đường, góc phố để t́m quên. Tuy vậy, sau hai năm sống với sông Hương, núi Ngự, tôi vẫn không sao quên được h́nh bóng cũ. Giă từ Huế trở lại Sài G̣n, chiều chiều tôi lại lang thang trên lối cũ như một kẻ bị tâm thần giữa Sài G̣n hoa lệ.

    PV: Rồi nhạc sĩ có gặp lại cố nhân không?
    LHL: Có, nhưng chỉ vô t́nh gặp giữa đường phố. Hai người chỉ trao đổi ít lời ngắn ngủi về cuộc sống rồi chia tay. Biết nàng đă tay bế tay bồng nên tôi không muốn gặp thêm lần nào nữa để khỏi khuấy động hạnh phúc của nàng. Tôi lập gia đ́nh sau đó và có 6 người con. Vợ tôi mất đột ngột vào năm 1975. Đến năm 1981, tôi tục huyền và có thêm một con gái. Chỉ có cô con út này là có máu văn nghệ như bố, cháu hát khá hay và đă đoạt giải nhất cuộc thi hát với organ năm 1999.

    PV: Thưa, h́nh như nhạc sĩ là bạn thân với nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, tác giả bản nhạc “Nỗi ḷng” rất nhiều người biết, hiện nay nhiều ca sĩ cỡ lớn vẫn c̣n tŕnh bày và được ưa chuộng. Nhạc sĩ có thể cho biết đôi điều về nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh?
    LHL: Thật ra, Nguyễn Văn Khánh không phải chỉ có một bản Nỗi ḷng mà c̣n vài bản khác, ví dụ bản Chiều vàng chẳng hạn, rất nổi tiếng trong khoảng những năm 1950, tài tử Ngọc Bảo hay tŕnh diễn trên Đài Pháp-Á. Vâng, để tôi xin kể một số kỷ niệm đối với Nguyễn Văn Khánh giúp mọi người hiểu rơ về tác giả này.

    Sau đây là lời kể của nhạc sĩ Lê Hoàng Long.



    Nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh và bản “Nỗi ḷng”
    Năm 1952, khi tôi cộng tác viết loạt bài phê b́nh âm nhạc trên nhật báo Giang Sơn, chủ nhiệm là bác sĩ Hoàng Cơ B́nh—ở phố Hàng Trống Hà Nội. Tôi chơi thân với một nhạc sĩ rất nổi tiếng lúc bấy giờ là nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, tác giả các bản nhạc được nhiều người ưa thích: Chiều vàng, Nỗi ḷng v.v...
    Lúc ấy, Nguyễn Văn Khánh là công chức Sở Tài Chính thành phố Hà Nội. Con người Nguyễn Văn Khánh ai gặp cũng thấy mang tính chất nghệ sĩ, từ mái tóc, cách ăn nói cho tới dáng dấp thanh tao. Nguyễn Văn Khánh ít nói, nhưng khi đă nói th́ thật dí dỏm, có duyên. Nhà Khánh ở trong ngơ, phố Khâm Thiên, phố toàn nhà hát cô đầu, tuy ở trong ngơ nhưng đất rất rộng. Khu ăn chơi này, trong một bài thơ mô tả cảnh chết đói 2 triệu dân năm Ất Dậu 1945, nhạc sĩ Văn Cao gọi là phường Dạ Lạc (bài thơ Chiếc xe xác đi qua phường Dạ Lạc), đă làm xúc động nhiều người.
    Trong khuôn viên nhà Nguyễn Văn Khánh có cả một chiếc ao nuôi cá. Bởi vậy vào các ngày chủ nhật, Nguyễn Văn Khánh thường có cái thú ngồi uống rượu, câu cá. Nguyễn Văn Khánh có lối uống rượu khá lạ. Uống bao nhiêu cũng không say, càng uống lại càng tỉnh táo. Như vậy, cách uống rượu của Khánh có thể gọi là tiên tửu, không giống như loại “tục tửu”—rượu vào lời ra, ăn nói lỗ măng, nhiều khi dẫn đến gây gổ, đánh lộn.
    Hằng tuần, cứ vào các tối thứ năm, Khánh thường hay đến vũ trường chơi với tôi. Tôi là trưởng ban nhạc trong đó. C̣n tôi th́ cứ khoảng 10 giờ sáng chủ nhật là xuống uống rượu, câu cá và hàn huyên tâm sự với Khánh.
    Có một lần, tôi đến thăm Khánh vào một buổi sáng chủ nhật, gần Tết, mùa đông trời rét như cắt ruột. Khánh đang đứng phụ giúp vợ chiên một con cá chép rất lớn trên bếp. Ở ngoài Bắc, thời ấy có cá chép chiên là rất quư. Thấy tôi đến, Khánh dừng tay, kéo tôi lên nhà trên, quạt lửa ở cái ḷ cho cháy lớn, bảo tôi hơ tay sưởi cho đỡ lạnh. Hôm ấy trời rét mà lại mưa phùn lất phất nên chúng tôi không ra ngoài ao câu cá mà ngồi chuyện tṛ với nhau trong nhà.
    Một lúc sau, Khánh vào bên trong ôm ra một chiếc hũ sành khá lớn, đặt lên trên chiếc ḷ rồi cười và nói:
    - Ḷng ḿnh lúc nào cũng lạnh. Mùa đông mưa phùn gió bấc lại càng lạnh hơn. Nên bữa nay tụi ḿnh phải đổ “nước sôi” (rượu hâm nóng) vào cho ấm. Cậu phải uống thật nhiều, say th́ nằm đắp chăn mà ngủ đến chiều. Tối tôi đưa cậu đi làm ở trên tiệm nhảy.
    Khánh vừa dứt lời th́ bà xă Khánh bưng mâm lên, đặt vào bộ ván ngựa rồi mời tôi và Khánh ngồi vào đối ẩm. Vậy là hai chúng tôi ngồi trên bộ ngựa, vừa uống vừa tán dóc đủ thứ chuyện trên trời dưới biển, từ sáng đến chiều.
    Được vài hôm, tôi được ban tổ chức Hội Chợ Mừng Xuân Quư Tỵ (1953), tổ chức tại bờ hồ Hoàn Kiếm, nhờ lo giùm một cuộc thi hát. Tôi nhận lời và trước hết là thành lập ban giám khảo. Người đầu tiên tôi mời là nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, sau đó tới nhạc sĩ Hoàng Trọng và nhạc sĩ Hùng Lân, ba người tất cả.
    Trong số thí sinh tham dự cuộc thi hôm ấy, cho đến bây giờ đă bao nhiêu năm qua rồi, tôi vẫn c̣n nhớ một trong những thí sinh được giải thưởng, đó là anh Khuất Duy Trác. Sau này anh trở thành ca sĩ Duy Trác rất nổi tiếng vào khoảng những năm 1960-1970, đồng thời c̣n là luật sư Khuất Duy Trác tại Ṭa Thượng Thẩm Sài G̣n.

    Dù rất thân với Nguyễn Văn Khánh nhưng tôi chưa lần nào có dịp thuận tiện để “móc” anh bộc lộ t́nh cảm của ḿnh, là tại sao anh lại có những mối tơ vàng óng ả để dệt nên những ca khúc Chiều vàng và Nỗi ḷng bất hủ?
    Thế rồi, cho đến một buổi chiều thứ bảy, vào dịp lễ Các Thánh (ngày 01 tháng 11 hằng năm), đột nhiên anh đến chơi, rủ tôi đi lễ nhà thờ mặc dầu cả hai đứa chúng tôi đều không có đạo.
    Trước lễ Các Thánh kỳ ấy hai ngày, lúc đó tôi c̣n độc thân, tôi đă cùng người yêu có đạo của tôi đi lễ tại nhà thờ Hàm Long. Nhân buổi lễ đó, tôi viết được bài Cầu Xin Đức Mẹ, bèn lấy ra hát cho Nguyễn Văn Khánh nghe.
    Anh lắng nghe xong, tủm tỉm cười, nheo mắt:
    - Đi lễ với người đẹp, mắt cậu sáng lên như đèn ô tô nên mới nh́n thấy Đức Mẹ mà làm ra bản này hả? Được đấy, nghe có âm hưởng nhạc đạo lắm, được lắm!
    Sau này, sau ngày đất nước chia đôi, mỗi lần vào dịp mừng Lễ Giáng sinh, Đài Phát thanh Sài G̣n tŕnh bày bản đó tôi lại nhớ tới lời phê b́nh của Nguyễn Văn Khánh.
    Chúng tôi lững thững đến Nhà thờ Hàm Long. Sau buổi lễ, hai đứa tôi băng qua đường, vào quán cà phê Bằng. Trong khi đang nhâm nhi ly cà phê nóng hổi, từ cặp loa khuếch âm trên tường phát ra ca khúc Nỗi ḷng: “Yêu ai, yêu cả một đời... T́nh những quá khắt khe khiến cho đời ta đau tủi cả ḷng... V́ yêu ai mà ḷng thầm nhớ...”, khiến cho tất cả các khách trong quán đều im lặng thưởng thức.
    Khi giọng ca chấm dứt, tôi mở lời:
    - Cuộc t́nh tha thiết nào đă làm cho cậu có được bản Nỗi ḷng và bản Chiều vàng buồn tê tái đến thế?
    Khánh im lặng một lát với nét mặt đượm buồn, đưa hồn trôi về quá khứ rồi nho nhỏ tâm sự với tôi.
    Khánh là con người đa sầu đa cảm, biết yêu rất sớm. Mới bước vào năm thứ hai ban Thành chung (tương đương với lớp 7 hiện nay) Khánh đă để ư, thầm yêu trộm nhớ cô bé láng giềng. Cô này cũng c̣n cắp sách đến trường, con gái út của một ông thông phán làm trong Phủ Thống sứ Bắc Kỳ.
    Những đêm trăng sáng, Nguyễn Văn Khánh ra đằng sau vườn nhà, mang cây đàn ghi-ta ra hát các bản nhạc tiếng Pháp Cest à Capri, Jai deux amours, Madelon v.v... chứ tân nhạc lúc ấy chỉ mới có được vài ba bản của các nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Văn Chung, Dzoăn Mẫn... nhưng chưa được phổ biến rộng răi. Tiếng đàn quyện với tiếng hát trong đêm khuya thanh vắng vọng tới tai cô gái nhà bên. Về sau, cứ đúng giờ Nguyễn Văn Khánh lại ra vườn mà hát nghêu ngao. Có lẽ hai bên đều “t́nh trong như đă” nên cứ sau buổi học, chiều về đến nhà là cả hai cùng ra vườn sau, cách nhau mấy cụm mía thưa, để nh́n thấy nhau. Muốn làm hiệu, Nguyễn Văn Khánh cứ ra tới vườn là cất tiếng hát lớn. Một lát sau, nh́n sang vườn bên kia, chàng thấy bóng dáng mỹ nhân cũng ra, giả vờ làm việc ǵ đó nhưng bốn mắt thường “vô t́nh” gặp nhau.
    Một buổi chiều ra vườn, Nguyễn Văn Khánh hái trên cây một quả cà chua chưa chín rồi vứt nhẹ qua hàng rào. Vứt xong, Khánh lên tiếng nhờ người đẹp nhặt giùm v́ chàng với tay không tới. Cô bé cũng ranh mănh, nhặt xong lúc đưa cho chàng bèn nói bâng quơ:
    - Quả c̣n xanh thế này sao tự nhiên lại rụng được?
    Khánh cũng láu lỉnh hỏi lại:
    - Phải là quả chín mới rụng hở cô? Cám ơn cô nhiều lắm.
    Lúc ấy bốn mắt liếc nhẹ nh́n nhau như thầm trao gởi t́nh cảm.
    Đêm hôm ấy, Nguyễn Văn Khánh thao thức không sao chợp mắt được. Nằm trong giường chàng chỉ mong cho chóng sáng. Nhưng ở đời, càng mong thời gian lại càng trôi qua rất chậm. Chàng nằm chán lại ngồi dậy, ngồi chán lại nằm xuống, giờ giấc cứ ỳ ạch gần như ngừng trôi.
    Thế rồi chuông chiếc đồng hồ quả lắc treo trên tường ngân nga đổ 4 tiếng. Chàng ngồi dậy, bước xuống đất, vặn to cây đèn dầu trên bàn cho sáng rồi ngồi vào bàn, lấy giấy bút ra định viết bức thư. Viết rồi lại xé. Xé rồi lại viết. Chàng không biết viết cái ǵ nên mơ ước ḿnh có tài, làm được một bản nhạc thật hay hát cho người con gái đó nghe và nàng sẽ cảm động, phục tài chàng sát đất...
    Chuông đồng hồ điểm 5 tiếng. Thư chẳng có mà nhạc cũng không, bất đắc dĩ Khánh phải ra vườn sau để cầu may xem có được gặp “người đẹp” hay không...
    Bất ngờ, không hiểu vô t́nh hay hữu ư, “người đẹp” cũng dậy sớm, đang múc nước giếng để chuẩn bị đánh răng rửa mặt. Nguyễn Văn Khánh lách đám mía thưa, bước sang, hỏi trước:
    - Cô lấy nước sớm nhỉ?
    - Vâng ạ, em vẫn có thói quen dậy sớm.
    Chàng nh́n chiếc thùng kéo nước sóng sánh ánh trăng rồi lại nh́n lên trời và nói:
    - Giờ này mà hăy c̣n trăng. Cô có thấy cô múc cả ánh trăng đổ vào trong chậu hay không?
    Cô gái bật cười, khẽ nói:
    - Tại anh có tâm hồn nghệ sĩ nên mới nh́n thấy em múc ánh trăng đổ vào trong chậu chứ em th́ chỉ thấy em kéo nước dưới giếng lên thôi. - Và cô khẽ đọc nho nhỏ hai câu thơ của thi sĩ Bàng Bá Lân: “Hỡi cô tát nước bên đàng, sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”.
    Nguyễn Văn Khánh nói:
    - Cô thuộc thơ quá, lúc nào tôi phải làm một bài thơ tặng cô mới được.
    - Không, em thích nghe anh hát cơ. Anh hát hay lắm, các bản Cest à Capri, J ai deux amours, Madelon...
    - Cô thích nghe hát?
    - Vâng...
    Sau lần đối thoại đầy t́nh tứ ấy, Nguyễn Văn Khánh và cô gái nhà bên đă có những buổi hẹn ḥ bên hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Chùa Láng, Quảng Bá, Nghi Tàm—và có lần lên cả Bác Cổ để tâm t́nh.
    Cuộc t́nh thơ mộng, trong sáng kia kéo dài tới hơn hai năm mà cả hai gia đ́nh không hề ai biết chuyện. Cho tới khi Nguyễn Văn Khánh học năm thứ tư ban Thành chung, đi thi Diplôme, chàng nhớ rơ buổi sáng đầu tiên thi một bài luận viết tiếng Pháp (Rédaction Francaise), ai đủ điểm từ trung b́nh trở lên th́ ngày thứ 3 mới thi Toán và các môn kế tiếp. Đó là thi Viết (Écrit). Nếu đậu thi viết mới được vào thi Vấn đáp (Oral). Mỗi kỳ thi Diplôme có 2 khóa, cách nhau gần 3 tháng. Khóa 1 (Première session) vào đầu tháng 6. Khóa 2 (Deuxième session) vào cuối tháng 8. Một thí sinh nếu đậu thi viết của khóa 1 nhưng thi rớt vấn đáp th́ khóa 2 chỉ phải thi lại phần vấn đáp đó thôi. Nhưng nếu khóa 2 lại thi rớt vấn đáp nữa th́ phải học lại (gọi là học “đúp” – doublé) năm sau sẽ thi lại hoàn toàn.
    Kỳ thi Diplôme năm ấy, Nguyễn Văn Khánh mắc lo t́nh yêu nên thi rớt. Cô em nhà bên buồn lắm, nói với Khánh:
    - Anh bị trượt khóa 1 rồi, ba tháng hè này phải đặt hết tâm trí vào việc học để đậu khóa 2 chứ nếu phải học lại năm nữa th́ thêm khó ra. Em nhất định không gặp anh đâu, để anh chú tâm vào việc học!
    Nguyễn Văn Khánh năn nỉ, hứa khóa 2 thế nào cũng đậu nhưng xin nàng cho gặp mỗi tuần một lần vào chiều chủ nhật. Mới đầu nàng không bằng ḷng nhưng anh nói măi nàng cũng đồng ư và giao hẹn: “Nếu khóa 2 anh mà không đỗ th́ em chia tay luôn đấy. Em không chờ đợi được đâu!”
    Quả nhiên khóa 2 năm ấy Nguyễn Văn Khánh đậu thật. “Người đẹp” mừng lắm nhưng đúng lúc ấy th́ ông thông phán phải đổi lên Thái Nguyên, cách Hà Nội hàng trăm cây số, gia đ́nh phải chuyển đi theo.
    Đêm cuối cùng ở Hà Nội, hai người gặp gỡ, chia tay tạm biệt. Sáng hôm sau, Nguyễn Văn Khánh thẫn thờ nh́n theo chiếc xe đưa người yêu xa rời cố đô Thăng Long ngược lên miền núi.
    Nói tới đất Thái Nguyên, người miền xuôi ai cũng sợ, cho đó là nơi “đường ngược” rừng thiêng nước độc. Có người c̣n xếp Thái Nguyên vào một trong những địa phương sản sinh ra bệnh sốt rét ngă nước: “Lử khử lừ khừ, không phải Đại Từ th́ cũng Vũ Nhai”. Đại Từ và Vơ Nhai là hai huyện của tỉnh Thái Nguyên. Đại Từ cách thị xă Thái Nguyên 35 cây số. Vơ Nhai cách thị xă Thái Nguyên 42 cây số. Bởi vậy, Nguyễn Văn Khánh vừa thương vừa lo cho người yêu.
    Thời đó, phương tiện giao thông c̣n ít, chỉ có xe lửa từ Hà Nội lên Lạng Sơn, muốn đi Thái Nguyên phải xuống tại ga Bắc Giang, rồi đi xe đ̣ ngược lên, mà mỗi ngày chỉ có một chuyến. Dù xa xôi vất vả nhưng thứ bảy nào Nguyễn Văn Khánh cũng đều đặn lên thăm nàng.
    Thế rồi có kẻ đánh tiếng xin hỏi cưới nàng làm vợ. Hai gia đ́nh hết sức môn đăng hộ đối và chàng thanh niên kia cũng là người có học, nhưng v́ đă thề non hẹn biển với Khánh nên nàng luôn luôn t́m cách thoái thác, hẹn lần hẹn lữa. V́ thế, mỗi lần gặp nhau, hai người đều tâm sự qua hai hàng nước mắt.
    Trong hoàn cảnh đau khổ ấy, một lần trên chuyến xe đ̣ từ Thái Nguyên về ga Bắc Giang, tự nhiên Nguyễn Văn Khánh nảy ra ư nhạc nói lên tâm sự của ḿnh đối với nàng: “Yêu ai yêu cả một đời... T́nh những quá khắt khe khiến cho đời ta đau tủi cả ḷng. V́ yêu ai mà ḷng hằng nhớ...”.
    Rồi khi trên xe lửa từ ga Bắc Giang về tới Hà Nội, chàng đă làm xong bản nhạc mà chàng đặt tên là Nỗi ḷng. Tuy nhiên, có lẽ bản nhạc này là điềm báo trước một điều ǵ đó không trọn vẹn: “Dù sao, dù sao nếu có một ngày, một ngày ai gieo tim ta, là t́nh yêu kia ly tan, mà ḷng vẫn thương vẫn nhớ. T́nh đó khiến xui ḷng ta đau. Rồi với bao ngày lặng lẽ sống, nỗi đau trong ḷng người yêu vẫn yêu hoài...”.

    Sau lần lên Thái Nguyên ấy, Nguyễn Văn Khánh bận việc nhà nên hai tuần lễ liên tiếp không đi được. Nửa tháng trời không gặp nhau, ḷng Khánh nóng như lửa đốt và chỉ có 15 ngày thôi mà Khánh cảm thấy thời gian lâu bằng một thế kỷ. Lần này, Khánh lên Thái Nguyên như mọi lần. Đến nơi, tới nơi hẹn cũ, chờ măi chẳng thấy bóng dáng nàng. Chờ đến chiều, Khánh đánh liều đi bộ đến gần nhà nàng để hỏi ḍ tin tức. Gặp bà chủ quán nước ở gần đấy, Khánh khôn khéo hỏi thăm. Bà chủ quán cho biết một tin sét đánh: cách đây khoảng chừng 10 ngày, không hiểu cô ấy bị bệnh ǵ, người nhà nói là trúng gió, đưa vào nhà thương nhưng sau 1, 2 ngày cô ấy đă mất. Gia đ́nh xin xác về, chôn cô trên đồi thông cách đây khoảng một cây số.
    Nghe xong, Khánh kinh hoàng, lật đật rời khỏi quán, bước như kẻ không hồn đi thẳng về phía đồi thông, nơi ấp ủ h́nh hài người yêu.
    Mấy hôm ấy trời mưa phùn gió bấc, không hiểu sao chiều hôm đó lại tạnh, mặt trời ló ra vàng vọt, yếu ớt như mới trải qua cơn bệnh. Nguyễn Văn Khánh t́m thấy mộ nàng. Mắt chàng nḥe lệ, chàng ngồi sụp xuống, ghé sát vào nấm đất, th́ thầm hát cho nàng nghe bản nhạc mà chàng đă làm v́ nàng, cho nàng: “Yêu ai, yêu cả một đời... T́nh những quá khắt khe khiến cho đời ta đau tủi cả ḷng, v́ yêu ai mà ḷng hằng nhớ... Năm tháng trôi lạnh lùng hoài... T́nh đó nhắc nhớ luôn đến ta t́nh ai. Nhớ cả một trời... T́nh yêu kia mà ḷng nào quên...”.
    Hoàng hôn xuống dần. Nguyễn Văn Khánh u sầu, lê bước trở về quán trọ. Giữa khung cảnh bi ai trầm lắng đó, bản nhạc Chiều vàng đă h́nh thành với những ca từ năo nề, ai oán: “Trên đồi thông, chiều đă xuống dần. Mặt trời lấp ló sau đồi. Chiều vàng... giờ đây vương thầm hồn cố nhân. Năm tháng trôi qua sóng gió đời, chiều chiều nhớ em ḷng khôn nguôi...”.
    Kể xong câu chuyện, Khánh rủ tôi về nhà anh ăn cơm tối. Về tới nhà, anh lấy ra một cái hộp vuông trong đó có đựng một cái khăn len quàng cổ do nàng đan tặng Khánh và xấp thư t́nh của nàng.
    Năm ấy có kỳ thi tuyển nhân viên Sở Tài chính thành phố Hà Nội. Khánh đang học ban tú tài nhưng cũng dự thi, bất ngờ trúng tuyển và trở thành một công chức, “sáng vác ô đi, tối vác về”.
    Đầu năm 1954, có lệnh tổng động viên của Quân đội Liên hiệp Quốc gia Việt Nam (tức quân đội của vua Bảo Đại kết hợp với quân đội Pháp), tôi bị kẹt trong lệnh đó. Khánh và tôi rủ nhau đi uống cà phê để giă từ. Rồi đến 20/07/1954, kư kết Hiệp định Genève ngưng chiến tại Việt Nam. Sau ngày này, tôi theo quân đội chuyển vào trong Nam c̣n Nguyễn Văn Khánh th́ bị kẹt ở Hà Nội.
    Cho măi tới sau 30/04/1975, gặp lại một số nhạc sĩ ngoài Bắc vô chơi trong Nam tôi mới biết tin là sau năm 54 được vài năm, Nguyễn Văn Khánh đă trút hơi thở cuối cùng tại căn nhà xưa. Tôi không ngờ buổi cà phê hơn 20 năm trước lại là lần cuối cùng chia tay với người bạn thân thiết, tác giả của bản Nỗi ḷng bất hủ.

    Đoàn Dự ghi chép

  2. #12
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và mối t́nh đầu


    Thưa quư bạn, đầu tháng 06/2010, bạn bè ở nước ngoài có mail cho Đoàn Dự một bài của ông Nam Minh Bách ở Virginia, cháu gọi Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước bằng bác họ. Thấy bài này có nhiều điểm đặc biệt có lẽ nhiều người chưa biết về vị Nhạc sĩ tài hoa, sáng tác những bản nhạc rất hay, bản nào cũng trở thành bất hủ nhưng rất kín tiếng đó, Đoàn Dự bèn nghiên cứu thêm rồi mạn phép ông Nam Minh Bách thuật lại để quư bạn rơ. Sau đây là lời kể của tác giả Nam Minh Bách với sự đóng góp bổ sung của Đoàn Dự. Xin mời quư bạn thưởng thức.



    Dương Thiệu Tước & mối t́nh thời đi học

    Năm 2000, tôi về thăm Hà Nội, bạn bè cho đọc một bài báo trên tờ Công An, bài này đă từng làm dư luận dân chúng Hà Nội lúc đó xôn xao. Nhân dịp năm thứ 5 kỷ niệm ngày vĩnh biệt Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, ông được ca ngợi là một Nhạc sĩ đă có công ḥa hợp cổ nhạc và tân nhạc, đặt nền móng cho tân nhạc Việt Nam phát triển mạnh mẽ cho tới ngày nay. Và trong mấy ḍng tiểu sử, bài báo đó có nhắc tới mối t́nh đầu của chàng trai “con cụ Thương tá Hưng Yên Dương Tự Nhu” và nàng con gái con cụ Tổng đốc Hưng Yên Vi Văn Định. Chàng và nàng yêu nhau thắm thiết và hai gia đ́nh đă trao đổi trầu cau, nhưng t́nh duyên của họ dang dở v́ có một chàng trai bằng cấp đầy ḿnh nhào vô, loại được anh chàng Nhạc sĩ tài hoa nhưng lúc đó chưa nổi tiếng này ra khỏi ṿng chiến.

    (H́nh 1: Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước)

    Theo báo Công An, con người có diễm phúc chiếm được nàng là chàng bác sĩ tây học từ Paris trở về, họ Hồ Đắc, con của một vị đại thần lớn nhất triều đ́nh Huế.

    Sau khi tờ báo tung ra, gia đ́nh Hồ Đắc phản ứng ngay lập tức. Bà Vi Kim Phú - tức Hồ Đắc Di phu nhân, con gái của vị cựu Tổng đốc Hưng Yên và Thái B́nh Vi Văn Định ngày trước - nói rằng nhà báo nói láo ăn tiền, bà không hề có chuyện nhận trầu cau, sêu tết hay đính hôn với Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước bao giờ cả.

    Báo Công An im lặng không trả lời, v́ họ Hồ Đắc cả thời Pháp thuộc lẫn thời này vẫn rất mạnh, chính tờ báo này đă từng có bài đề cao Quận công Hồ Đắc Trung – Thượng thư bộ Lễ, “quốc trượng” (bố vợ) vua Khải Định, thân sinh của Bác sĩ Hồ Đắc Di – là nhà chí sĩ ái quốc. Bác sĩ Hồ Đắc Di trước đây là người sáng lập đồng thời cũng là Khoa trưởng Đại Y khoa Hà Nội. C̣n “lệnh ái” Hồ Thể Lan – con gái của Bác sĩ Hồ Đắc Di – năm 2000 đang là Vụ trưởng Vụ Báo chí và cũng là vợ của Vũ Khoan, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng chính phủ CS Hà Nội.

    Nhưng tờ báo không xin lỗi, cũng không đính chính, bởi v́ họ chỉ lầm có... một nửa. Tổng đốc Vi Văn Định có hai người con gái. Người em là Vi Kim Phú, lấy Bác sĩ Hồ Đắc Di năm 1935 khi mới 17 tuổi. Người chị là Vi Kim Ngọc, lấy Giáo sư Nguyễn Văn Huyên, Tiến sĩ Văn chương Đại học Sorbonne, từ Pháp về, cưới vào năm 1936, khi nàng 20 tuổi. Báo Công An lầm ở chỗ người trả lại trầu cau cho Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước là bà chị, vợ ông Nguyễn Văn Huyên, chứ không phải bà em, vợ Bác sĩ Hồ Đắc Di. Cả hai chị em đều đẹp lộng lẫy như nhau và đều nổi tiếng Bắc Hà về nhan sắc cũng như về gia thế. Đến năm 1944, một người cháu nội của ông Vi Văn Định tên Vi Nguyệt Hồ, 15 tuổi, được gả cho Bác sĩ Tôn Thất Tùng (sau này làm Thứ trưởng Bộ Y tế Việt Minh). Năm 1946, khi bà Vi Nguyệt Hồ sinh con trai đầu ḷng ở vùng thượng du Bắc Việt, ông Hồ đến thăm và đặt tên là Tôn Thất Bách (sau này cũng là bác sĩ, mới mất tại Hà Nội cách đây hai năm).

    (H́nh 2 : Bác sĩ Hồ Đắc Di)

    (H́nh 3 : Chú rể Huyên và cô dâu Kim Ngọc)

    Dân chúng Hà Nội không ai lạ ǵ ông Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng Giáo dục 30 năm của chính phủ Phạm Văn Đồng. Hồi thập niên 30, họ gọi ông Nguyễn Văn Huyên và người bạn của ông tên Nguyễn Mạnh Tường là “Nghè Huyên” và “Nghè Tường”, v́ hai ông đều đậu tiến sĩ bên Pháp.

    Báo Công An nói lộn về người nhận trầu cau của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Bà Vi Kim Phú (bà em), phu nhân của cố Bác sĩHồ Đắc Di phản ứng. Thiên hạ bàn tán quá v́ họ biết người trả trầu cau là bà Vi Kim Ngọc (bà chị), vợ của ông “Nghè Huyên” họ Nguyễn. Đến lượt con cháu họ Nguyễn ra tay. Chỉ con cháu thôi, bởi v́ năm 2000 những người trong cuộc đă thành thiên cổ. Bà Nguyễn Kim Hạnh, con gái của ông bà Nguyễn Văn Huyên-Vi Kim Ngọc, xuất bản cuốn sách “Hồi ức về Nguyễn văn Huyên”, trong đó có trích những đoạn nhật kư của thân mẫu, tức bà Kim Ngọc:

    “Cha mẹ tôi làm đám cưới với nhau vào ngày 12/4/1936. Mẹ tôi ghi lại những ngày đầu quen biết giữa cha và mẹ trong nhật kư như sau:

    “Em đi chơi cùng cha mẹ vào Huế, khắp Trung Kỳ rồi Lục tỉnh Cao Mên, Thái Lan... Nhiều khách quốc tế trầm trồ khen ngợi em là giai nhân”.

    “Đôi ta gặp nhau ở Huế, trong lễ hội Nam Giao. Sau đó em tiếc không từ biệt anh. Khi lên xe, cha đưa thư của anh do anh Toại trao giùm (tức bác Phan Kế Toại, chồng cô Măo là chị của cha tôi - K.Hạnh) cho em xem. Đó là thư cầu hôn giữa anh và em ”.

    “Sau đó bà ngoại mấy lần nhận điện từ Hà Nội gửi vào cầu hôn.Khi có thư trực tiếp của anh viết cho ông ngoại gửi lời thăm em “người đáng yêu nhất” th́ em mới nhận lời cho nhà trai xuống Thái B́nh cầu hôn”.

    Tác giả Kim Hạnh ghi tiếp:

    “Mẹ tôi kể là năm mẹ tôi 16 tuổi, ông ngoại tôi nhận lời gả mẹ tôi cho người họ Dương Thiệu. Năm 19 tuổi, khi biết điều này, mẹ tôi nhất định đ̣i ông tôi phải trả lại sêu tết ba năm. V́ mẹ tôi không chấp nhận cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Mẹ tôi ghét cay ghét đắng chuyện năm thê bảy thiếp trong chế độ phong kiến”.

    “Năm 1977, sau khi cha tôi mất được 2 năm, mẹ tôi viết: “Ước mơ của em khi đôi tám xuân xanh là quyết chọn người tài đức mới trao thân. Nếu không gặp được nam nhi hào hùng đó th́ ở một ḿnh suốt đời. Thế mà em đă măn nguyện”.

    Và trang sau, nhật kư nhắc tới Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước:

    “Năm 1976, được tin của một người bạn cũ ở Đà Lạt nói rằng có gặp ông Dương Thiệu Tước và vợ của ông là bà Minh Trang lên chơi Đà Lạt”.

    Đoạn này rất sơ lược, h́nh như vô t́nh nhớ tới th́ ghi nhật kư vậy thôi, không có ǵ quan trọng.

    Trong cuốn “Hồi ức về Nguyễn văn Huyên”, nói về Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, tác giả Kim Hạnh ghi: “Bác Tước là cháu nội cụ Nghè Dương Khuê, chúng tôi thường gọi là bác Cả Tước, không thể ví với người đă đậu Tiến sĩ Văn chương Đại học Sorbonne, Bộ trưởng Giáo Dục 30 năm. Năm 1954, bác di cư vào trong Nam, làm chủ sự Ban Âm nhạc Đài Phát thanh Sài G̣n, cả đời sống thanh bạch và rất lương thiện”.

    Rất rơ, như vậy người quen biết Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước là “bà chị” Vi Kim Ngọc, vợ ông Nguyễn Văn Huyên, chứ không phải “bà em” Vi Kim Phú, vợ của Bác sĩ Hồ Đắc Di. Bây giờ chúng ta thử xem xét về vị Nhạc sĩ tác giả Đêm Tàn Bến Ngự, Ơn Nghĩa Sinh Thành..., nhất là bản Ngọc Lan được ông sáng tác với nhiều kỷ niệm. Ông thường giải thích với các ca sĩ là hai chữ Ngọc Lan viết hoa, nhưng ít người hiểu, đa số đều nghĩ rằng ông ca ngợi loài hoa ngọc lan.

    Tiểu sử Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước

    Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước (1915–1995) quê ở làng Vân Đ́nh, huyện Sơn Lăng, phủ Ứng Ḥa, tỉnh Hà Đông (nay là một quận của Hà Nội). Xuất thân trong một gia đ́nh Nho học truyền thống, ông là cháu nội cụ nghè Vân Đ́nh Dương Khuê, nguyên Đốc học tỉnh Nam Định, tác giả bài hát nói “Hồng Hồng Tuyết Tuyết” danh tiếng, đến nay các nghệ sĩ hát ả đào vẫn c̣n sử dụng. Và ông cũng là bác ruột của Nhạc sĩ Dương Thụ hiện nay.

    Thuở nhỏ ông học tại Hà Nội. Trong thập niên 1930, ông gia nhập nhóm nghệ sĩ tài tử Myosotis (Hoa Lưu ly) gồm Thẩm Oánh, Lê Yên, Vũ Khánh... Dương Thiệu Tước cũng là người có sáng kiến soạn “nhạc Tây theo điệu ta”. Những nhạc phẩm đầu tay của ông thường viết bằng tiếng Pháp. Mặc dầu theo học nhạc Tây, nhưng nhạc của ông vẫn thắm đượm tinh thần dân tộc. Trong một tác phẩm viết tay, ông ngỏ ư: “Theo tôi, tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rơ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rơ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền”.

    Ông di cư vào Nam năm 1954. Tại Sài G̣n, ông làm chủ sự Pḥng Văn nghệ Đài Phát thanh Sài G̣n, đồng thời được mời làm giáo sư dạy Tây Ban Cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Sau năm 1975, nhạc của ông bị cấm và ông cũng không được dạy tại trường Quốc Gia Âm Nhạc nữa.

    Vợ chính thất cũng là vợ đầu của ông là bà Lương Thị Thuần, hiện con cái đang sống tại Đức và Hoa Kỳ. Vợ sau của ông là bà Minh Trang, một ca sĩ nổi tiếng thập niên 1950, có con riêng là ca sĩ Quỳnh Giao. Đầu thập niên 1980, ông về chung sống với bà Nguyễn Thị Nga tại quận B́nh Thạnh, có một con với bà này và được bà chăm sóc chu đáo.

    Ông mất ngày 01 tháng 08 năm 1995 tại Sài G̣n. Gần đây, sau thời kỳ đổi mới, nhạc của ông đă được lưu hành lại trên khắp nước Việt Nam và ông rất được ca ngợi.

    Các sáng tác nổi tiếng của ông gồm: Áng Mây Chiều, Bến Xuân Xanh, Bóng Chiều Xưa, Cánh Bằng Lướt Gió, Chiều (phổ thơ Hồ Dzếnh), Đêm Tàn Bến Ngự,Kiếp Hoa, Ngọc Lan, Ôi Quê Xưa, Ơn Nghĩa Sinh Thành, Thuyền Mơ, Tiếng Xưa, Ước Hẹn Chiều Thu.

    Mối t́nh đầu

    Năm đó là đầu thập niên 1930, ở tỉnh lỵ Hưng Yên, chàng 18 tuổi và nàng 17 tuổi. Chàng là con cụ Thương tá Dương Tự Nhu, sau này lên Bố chánh (coi về hành chánh; c̣n tổng đốc th́ trông coi toàn bộ, cả dân sinh, an ninh lẫn các quan lại trong tỉnh; Bố chánh tương đương với phó tỉnh trưởng hành chánh- ĐD), và nàng là con cụ Tổng đốc Vi Văn Định. Tư dinh hai nhà gần nhau, phía trước là một chiếc hồ rộng lớn, ngăn đôi bởi một con đường nhỏ, hai bên hồ thông nhau bằng một con lạch, có một chiếc cầu gỗ vồng cao lên bắc ngang qua, sơn màu đỏ. Quang cảnh rất tĩnh mịch, rất nên thơ, nhất là khi có ánh trăng êm dịu tỏa xuống.

    Chiếc cầu đỏ trên hồ là nơi trẻ con vui chơi, câu cá khi băi trường. Chàng học ở Hà Nội. Nàng học tại tỉnh nhà. Hai dinh thự gần nhau, mỗi lần chàng về, họ gặp nhau. Nàng đang tuổi dậy th́, cực kỳ xinh đẹp, c̣n chàng th́ khôi ngô tuấn tú, đang học trung học, cháu nội của cụ nghè Dương Khuê, sử dụng được 7 loại nhạc cụ kể cả nhạc “Tây” lẫn nhạc “ta”, trong đó thông thạo nhất là Tây Ban Cầm (Guitare) và Hạ Uy Di Cầm (Guitare Hawaienne), lại hát rất hay, có tiếng ở Hà Nội.

    Việc ǵ xảy ra là phải xảy ra, chàng và nàng yêu nhau thắm thiết với sự trong trắng và bồng bột của mối t́nh đầu. Họ Vi biết rơ cậu cả cháu nội cụ Dương Khuê này, gia đ́nh quan Bố chánh Dương Tự Nhu bèn đem trầu cau sang đính ước.

    Nhưng mối t́nh trong sáng đó có những đám mây đen kéo tới. Nhà gái dần dần biết Dương học Tú tài chỉ là phụ mà việc Dương ưa thích nhất là học âm nhạc tại trường Ecole Francaise de Musique en Extrême Orient tại Hà Nội, cùng với Nguyễn Xuân Khoát. Khoát chuyên về Dương cầm, c̣n Dương chuyên về Tây Ban Cầm. Đồng thời, bà mẹ vợ tương lai với trực giác nhạy cảm của phụ nữ cũng nhận ra nguy cơ cho con gái: anh chàng này đẹp trai quá, đàn hát lại hay, sẽ là một tai họa cho con ḿnh.

    Trong khi đó, trường Ecole Francaise de Musique en Extrême Orient sau ba năm hoạt động phải đóng cửa v́ kinh tế khủng hoảng, Dương lâm vào cảnh dang dở. Phía bên nhà gái có những bà đă bắt đầu chê bai: “Cậu Tước mặt mày sáng rỡ, đẹp trai như Phan An Tống Ngọc mà chỉ có bằng Diplôme, thi rớt Tú tài”.

    Rồi họ Vi chuyển từ Hưng Yên sang làm Tổng đốc Thái B́nh. Xa mặt cách ḷng, đúng lúc ấy th́ “nghè Huyên” có sự gặp gỡ. Và rồi, ngày 14-02-1936 nàng lên xe hoa về nhà chồng. Lúc ấy nàng 20 tuổi c̣n chàng 21 tuổi.

    Chàng buồn, bèn đem tâm hồn ḿnh viết thành bản nhạc “NgọcLan”bất hủ (xin nhắc lại: nàng tên Vi Kim Ngọc): Ngọc Lan, ḍng suối tơ vương, mắt thu hồ dịu ánh vàng. Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng nghiêng, tà mấy cánh phong, nắng thơm ngoài song... Nhưng măi tới năm 1953 bản nhạc này mới được xuất bản và phổ biến rộng răi với giọng ca Thái Thanh tại Hà Nội.

    Nói tóm lại, chàng sinh năm 1915, yêu nhau năm 1934, tan vỡ năm 1935, nh́n người yêu đi lấy chồng năm 1936, lúc ấy chàng 21 tuổi. C̣n nàng, sinh năm 1916 (kém chàng 1 tuổi), yêu nhau năm 17 tuổi và lấy chồng năm 20 tuổi.

    Suy cho cùng, hôn nhân có lẽ là do duyên số nhưng một người tính t́nh nghệ sĩ, không coi trọng bằng cấp như Dương Thiệu Tước, giả sử nếu lọt vào làm rể gia đ́nh ông Vi Văn Định th́ cũng khó sống. Ông là người Nùng, con trai của quan Tri châu Vi Văn Lư. Đối với người dân tộc thiểu số, quan Tri châu cũng giống như “ông vua” ở vùng thượng du. Họ kính trọng ngài và tuân lời ngài răm rắp chứ không cần biết Toàn quyền Pháp hay triều đ́nh Huế là ai cả. Ngoài ra, chức vị này có tính cha truyền con nối. Khi Vi Văn Lư qua đời, Vi Văn Định nối nghiệp và được Pháp chuẩn y cho giữ chức Tri châu. Nhưng Vi là “ông trời con”, dân chúng người Tày, người Nùng cả vùng Cao Bằng, Lạng Sơn vừa sợ vừa coi ngài như ông thần. Ngài lập rất nhiều chiến công cho... thực dân Pháp: dẹp giặc nổi loạn, đánh giết nghĩa quân yêu nước chống Pháp... Công lao và uy tín mỗi ngày một lớn, người Pháp sợ nếu cứ để như thế, e rằng ngài sẽ xưng hùng xưng bá, chiếm riêng cho ḿnh vùng thượng du hiểm trở để lập triều đ́nh theo kiểu Nùng Trí Cao ngày trước th́ rất nguy hiểm. Bởi vậy họ “điệu hổ ly sơn”, thăng chức cho ngài, đưa ngài về làm tổng đốc các tỉnh đồng bằng để ngăn ngừa hậu hoạ. Bây giờ chúng ta thử xem sau khi về dưới xuôi, ngài vẫn “hét ra lửa” như thế nào và lư do tại sao sau khi Việt Minh cướp chính quyền năm 1945, các ông Phạm Quỳnh, Ngô Đ́nh Khôi, Khái Hưng, Tạ Thu Thâu v.v...đều bị giết chết, c̣n ngài, một tên đại Việt gian, đại tàn ác như thế mà vẫn tồn tại măi đến năm 1975, khi ngài 96 tuổi (ngài sinh năm 1879, mất cùng năm với ông con rể lớn Nguyễn Văn Huyên).

    Cụ Đặng Hữu Thụ, nguyên Chánh thẩm Ṭa Thượng thẩm Sài G̣n trước năm 1975, hiện định cư tại Pháp, quê ở làng Hành Thiện, Nam Định, kể:

    “Vi Văn Định là người Nùng, làm Tổng đốc Hưng Yên, sau đó làm Tổng đốc Thái B́nh, nổi tiếng hống hách nên dân chúng rất sợ. Vi bắt quan lại dưới quyền phải cởi giày để ở ngoài văn pḥng mỗi khi vào ra mắt Vi, phạt chánh tổng, lư trưởng phải ăn bèo tây (bèo lục b́nh) khi Vi ra lệnh vớt mà sai thời hạn hoặc vớt không hết, vẫn c̣n sót lại ở các sông ng̣i (bèo lục b́nh phát triển rất mạnh, nhất là về mùa hè, phải vớt kẻo tắc sông ng̣i - ĐD). Vi cấm các hàng rong từ 12:30 đến 14:30 là giờ của Vi ngủ trưa, không được rao hàng khi quẩy gánh hàng qua dinh Vi. Có một anh hàng phở gánh, quên mất luật lệ, khi đi qua dinh, rao lớn, bị Vi ra lệnh cho lính bắt vào, nện cho một trận rồi bắt phải gánh gánh phở đi ṿng chung quanh sân dinh, rao từ trưa đến tối mới cho về.

    Vi có người con trai là Vi Văn Lê, đang học Luật tại Pháp, là bạn của ông Nguyễn Thế Truyền, đảng viên đảng Việt Nam Độc Lập do ông Tạ Thu Thâu lănh đạo. Năm 1929, Lê gia nhập đảng Việt Nam Độc Lập. Cây đắng mà sinh trái ngọt chăng?

    Khi Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu hưu trí, Vi Văn Định đổi qua thay thế, trong dân gian truyền tụng câu: “Hoàng trùng đi, Vi trùng lại. Suy đi xét lại, Vi hại hơn Hoàng”. Hoàng trùng ám chỉ Hoàng Trọng Phu, Vi trùng ám chỉ Vi Văn Định. Hoàng Trọng Phu là con trai Tổng đốc Hoàng Cao Khải và là con rể Tổng đốc Đỗ Hữu Phương ở Nam Kỳ, toàn những tay sai khét tiếng của Pháp cả, nhưng “Vi hại hơn Hoàng” th́ chúng ta đủ hiểu Tổng đốc Vi Văn Định đáng sợ như thế nào”.

    Khi việc cướp chính quyền xảy ra năm 1945, Vi bị Việt Minh bắt nhưng ông Hồ chẳng những không giết mà c̣n cho tạm lánh trong một biệt thự ở Hà Nội, đăi ngộ như thượng khách chỉ v́ Vi là một “ông vua Nùng” mà ông Hồ và đảng của ông vẫn c̣n cần đến. Cũng có người cho rằng sở dĩ ông Hồ tha chết cho Vi, v́ Vi là nhạc phụ của hai nhà đại khoa bảng đang phục vụ trong chính phủ Việt Minh là Bác sĩ Hồ Đắc Di (được Toàn quyền Pháp ở Đông Dương Decoux phong giáo sư) và Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên. Ngoài ra, Vi c̣n là ông nội của tiểu thư Vi Nguyệt Hồ, vợ của Bác sĩ Tôn Thất Tùng, Thứ trưởng Y tế VM nữa. Bác sĩ Tôn Thất Tùng tốt nghiệp Y khoa tại Pháp, rất nổi tiếng về môn giải phẫu tim và gan.

    Những mối t́nh sau

    - Bà Lương Thị Thuần: Sau khi mối t́nh đầu tan vỡ, Dương rất buồn. Rồi phụ thân Dương Tự Nhu cũng mất sớm, gia đ́nh có bề sa sút. Sau khi hết tang và Dương cũng tạm có công ăn việc làm tại Hà Nội (điều khiển ban nhạc trong các tiệm khiêu vũ và cộng tác với Đài Pháp Á cùng Nguyễn Xuân Khoát), gia đ́nh bèn cưới cho ông người vợ chính thức là bà Lương Thị Thuần, nhưng người ta ít biết về bà này và cũng không hiểu nguyên nhân của sự ly tán. Hiện nay các con của bà đang sống tại Đức và Hoa Kỳ.

    - Bà Minh Trang: Tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Trâm, sinh năm 1921 (kém Dương 6 tuổi) tại Huế. Thân phụ bà là ông Nguyễn Hy, một công chức cao cấp trong Bộ Lại (tương đương với Bộ Nội vụ) của triều đ́nh Huế. Thân mẫu bà là con gái của công chúa Mỹ Lương (thường gọi là Bà Chúa Nhứt), chị cả của Vua Thành Thái.

    Trong nhà Bà Chúa Nhứt có riêng một ban nhạc (loại nhạc cung đ́nh) tới mấy chục người và một ban ca Huế. V́ thân phụ thường phải đi công cán xa trong thời gian lâu, có khi đem cả gia đ́nh đi theo nên cô bé Ngọc Trâm thường ở nhà bà ngoại. Nhờ vậy, ảnh hưởng của ca nhạc đă thấm sâu vào tâm hồn cô bé từ thời thơ ấu. Mới bảy tuôi cô đă thuộc ḷng những đoạn ca Huế trong các tiết điệu Nam Ai, Nam B́nh, Kim Tiền, Lưu Thủy...

    Tuy thân phụ là người Quảng Ngăi nhưng thân mẫu là người Huế, ḍng dơi hoàng tộc, nên “tính chất Huế ” và “giọng nói Huế” hoàn toàn chiếm hữu con người cô bé Ngọc Trâm. (Chúng ta nên nhớ Dương Thiệu Tước là người Bắc nhưng nhiều tác phẩm của ông, như bản Đêm Tàn Bến Ngự chẳng hạn, mang đặc tính chất Huế th́ đủ hiểu ông yêu “người vợ Huế” đó như thế nào).

    Thuở nhỏ, Ngọc Trâm theo học tại trường Jeanne d’ Arc, một trường ḍng danh tiếng ở Huế và bắt đầu làm quen với những phím đàn dương cầm do các sơ dạy đồng thời cũng học hát nữa. Lên trung học, cô theo gia đ́nh ra Hà Nội. Vào khoảng năm 1941, thân phụ trở về nhậm chức tại Bộ Lại ở Huế, cô lại theo về Huế và học tại Lycée Khải Định (sau này, từ thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, đổi tên là trường Quốc học Huế).

    Tại Lycée Khải Định, cô gặp Giáo sư Ưng Quả – thầy dạy môn Văn chương Việt Nam và cũng là người dạy tiếng Việt cho Thái tử Bảo Long. Hai thầy tṛ tâm đầu ư hợp. Mặc dầu Giáo sư Ưng Quả là người góa vợ, đă có hai con trai, nhưng hai gia đ́nh rất môn đăng hộ đối: cha của Giáo sư Ưng Quả là con trai của Tuy Lư Vương; cha của Ngọc Trâm là con của Diên Lộc Quận công. Hai bên tiến tới hôn nhân và sinh được hai người con, một trai, một gái. Người con trai tên Bửu Minh (vai chú của Vua Bảo Đại) người con gái tên Công tằng Tôn nữ Đoan Trang (tức ca sĩ Quỳnh Giao sau này). Bà Ngọc Trâm dùng tên hai người con ghép lại làm tên trong ngành âm nhạc của ḿnh.

    Năm 1951, Giáo sư Ưng Quả đang làm Giám đốc Nha Học chánh Trung Phần th́ đột nhiên bị bệnh, qua đời. Bà Minh Trang đem hai con vào Sài G̣n sinh sống và kiếm được chân vừa làm xướng ngôn viên vừa làm biên tập viên tin tức (tiếng Pháp) trong Đài Pháp Á (France-Asie).

    Sự việc sau đó bà Minh Trang trở thành ca sĩ hết sức t́nh cờ. Trong một chương tŕnh ca nhạc hằng tuần của Nhạc sĩ Đức Quỳnh trên Đài Pháp Á, ca sĩ chính không đến hát được, bắt buộc Minh Trang phải “hát giùm” thế chỗ. Bà chỉ thuộc có mỗi một bản nhạc Đêm Đông của Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương là tiếng Việt, c̣n ngoài ra là thuộc tiếng Pháp (bà rất giỏi tiếng Pháp). Mà chương tŕnh của Đức Quỳnh lại là tiếng Việt, vậy là Minh Trang bèn hát “Đêm Đông”.

    Nhờ giọng ca thiên phú và cái “duyên” bất ngờ nói trên, dần dần Minh Trang trở thành một ca sĩ chính của Đài Pháp Á (sau này là Đài Phát Thanh Quốc Gia tức Đài Sài G̣n). Từ đấy, Minh Trang c̣n đi hát phụ diễn trên các sân khấu, một dạng tŕnh diễn rất thịnh hành hồi đó tại các rạp chiếu bóng trước khi cuốn phim chính được tŕnh chiếu.

    Tiếng hát của Minh Trang bay ra Hà Nội và được các Nhạc sĩ đương thời ngoài đó, như Vũ Thành, Hoàng Giác, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Thiện Tơ v.v... yêu mến và họ thường gởi tác phẩm vào cho Minh Trang hát mặc dầu chưa biết mặt.

    Trong một lần Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí tổ chức hội chợ tại Hà Nội, ông mời Minh Trang và nhiều nghệ sĩ khác ra hát với phần nhạc đệm của Ban Việt Nhạc. Người đứng đầu Ban Việt Nhạc là Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, người mà Minh Trang rất ngưỡng mộ. Họ gặp nhau và tiến tới hôn nhân.

    Hai nghệ sĩ Minh Trang-Dương Thiệu Tước kết hôn năm 1951 tại Sài G̣n nhưng vẫn sống cách xa nhau cho đến năm 1954, khi ông Dương Thiệu Tước di cư vào Nam, họ sống với nhau. Họ sinh được năm người con, một trai, bốn gái: Dương Hồng Phong, Vân Quỳnh, Vân Khanh, Vân Ḥa, Vân Dung. Cũng như Bửu Minh và Đoan Trang, các con của ông bà đều được theo học trường Quốc Gia Âm Nhạc với sự d́u dắt của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.

    Sau này, Quỳnh Giao và Vân Quỳnh trở thành ca sĩ. Dương Hồng Phong tốt nghiệp vĩ cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc c̣n, Bửu Minh th́ du học tại Pháp năm 1961 và nay giữ địa vị pianiste chính trong ban đại ḥa tấu “Staatsphihlarmonic Rheinland Plalz” của Đức.

  3. #13
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tác giả / Tác phẩm
    Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và mối t́nh đầu
    P2


    Sau biến cố tháng 04-1975, hai cô con gái lớn đă lập gia đ́nh th́ theo gia đ́nh nhà chồng ra đi. Ông bà Dương Thiệu Tước và hai cô nhỏ bị kẹt ở lại. Ngoài ra, người con trai duy nhất của ông bà là ông Dương Hồng Phong - được gọi đi sĩ quan Thủ Đức năm 1972 - bị bắt tại mặt trận và cũng đang kẹt trong tù tại Chu Lai. Cùng lúc đó, với số lương 64 đồng/tháng nhưng Giáo sư Dương Thiệu Tước dạy Guitare classique trong trường Âm nhạc-Kịch nghệ (trường QGAN ở đường Nguyễn Du, mới đổi tên) cũng không được dạy nữa, nhạc th́ bị cấm, cuộc sống vô cùng khó khăn.

    Năm 1978, Thiếu úy Dương Hồng Phong được ra tù, bà nghĩ đến việc phải rời đất nước. Tới chuyến, Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước lúc ấy đang ốm nên không thể đi. Tiền bạc có bao nhiêu th́ đặt cọc hết rồi, ông đành hy sinh ở lại.

    Bà Minh Trang cùng ba con đến Thái Lan vào cuối năm 1979, sau đó được định cư tại Virginia.

    Hiện nay, bà và các con ở Quận Cam, riêng Bửu Minh ở Đức và Dương Hồng Phong ở New York.

    Năm nay, bà đă 89 tuổi (bà sinh năm 1921) nhưng tương đối vẫn c̣n khỏe mạnh. Bà nói: “Tôi thích nghe nhạc và theo dơi tin tức thời sự, không cần nấu nướng ǵ cả, v́ các con ở gần “có bát canh cần nó cũng đem cho”.

    Năm 1995, khi ông mất, bà và mấy người con – kể cả ca sĩ Quỳnh Giao - có về dự đám tang.

    - Bà Nguyễn Thị Nga

    Năm 1982, trong một cuộc nói chuyện về âm nhạc ở Sài G̣n, ông Dương Thiệu Tước gặp lại bà Nguyễn Thị Nga, một học viên cũ tại trường QGAN ngày trước, người vẫn hâm mộ và thầm yêu “thầy”. Nay bà Nga đă có một cơ sở buôn bán rất tốt về các sản phẩm âm nhạc nhưng vẫn c̣n độc thân. Ông về sống với bà và có với nhau được một con trai.

    Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước mất ngày 01 tháng 08 năm 1995, tại Sài G̣n, thọ 80 tuổi. Các tác phẩm của ông vẫn c̣n tồn tại và sẽ măi măi bất hủ với thời gian, trong đó có bản Ngọc Lan.

    Đoàn Dự ghi chép Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và mối t́nh đầu
    шаблоны сайтов
    joomla

    Details
    Created on Wednesday, 26 September 2012 00:01
    Published Date
    Category: Chuyện Bên Nhà

    Print
    Email

    Thưa quư bạn, đầu tháng 06/2010, bạn bè ở nước ngoài có mail cho Đoàn Dự một bài của ông Nam Minh Bách ở Virginia, cháu gọi Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước bằng bác họ. Thấy bài này có nhiều điểm đặc biệt có lẽ nhiều người chưa biết về vị Nhạc sĩ tài hoa, sáng tác những bản nhạc rất hay, bản nào cũng trở thành bất hủ nhưng rất kín tiếng đó, Đoàn Dự bèn nghiên cứu thêm rồi mạn phép ông Nam Minh Bách thuật lại để quư bạn rơ. Sau đây là lời kể của tác giả Nam Minh Bách với sự đóng góp bổ sung của Đoàn Dự. Xin mời quư bạn thưởng thức.



    Dương Thiệu Tước & mối t́nh thời đi học

    Năm 2000, tôi về thăm Hà Nội, bạn bè cho đọc một bài báo trên tờ Công An, bài này đă từng làm dư luận dân chúng Hà Nội lúc đó xôn xao. Nhân dịp năm thứ 5 kỷ niệm ngày vĩnh biệt Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, ông được ca ngợi là một Nhạc sĩ đă có công ḥa hợp cổ nhạc và tân nhạc, đặt nền móng cho tân nhạc Việt Nam phát triển mạnh mẽ cho tới ngày nay. Và trong mấy ḍng tiểu sử, bài báo đó có nhắc tới mối t́nh đầu của chàng trai “con cụ Thương tá Hưng Yên Dương Tự Nhu” và nàng con gái con cụ Tổng đốc Hưng Yên Vi Văn Định. Chàng và nàng yêu nhau thắm thiết và hai gia đ́nh đă trao đổi trầu cau, nhưng t́nh duyên của họ dang dở v́ có một chàng trai bằng cấp đầy ḿnh nhào vô, loại được anh chàng Nhạc sĩ tài hoa nhưng lúc đó chưa nổi tiếng này ra khỏi ṿng chiến.

    (H́nh 1: Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước)

    Theo báo Công An, con người có diễm phúc chiếm được nàng là chàng bác sĩ tây học từ Paris trở về, họ Hồ Đắc, con của một vị đại thần lớn nhất triều đ́nh Huế.

    Sau khi tờ báo tung ra, gia đ́nh Hồ Đắc phản ứng ngay lập tức. Bà Vi Kim Phú - tức Hồ Đắc Di phu nhân, con gái của vị cựu Tổng đốc Hưng Yên và Thái B́nh Vi Văn Định ngày trước - nói rằng nhà báo nói láo ăn tiền, bà không hề có chuyện nhận trầu cau, sêu tết hay đính hôn với Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước bao giờ cả.

    Báo Công An im lặng không trả lời, v́ họ Hồ Đắc cả thời Pháp thuộc lẫn thời này vẫn rất mạnh, chính tờ báo này đă từng có bài đề cao Quận công Hồ Đắc Trung – Thượng thư bộ Lễ, “quốc trượng” (bố vợ) vua Khải Định, thân sinh của Bác sĩ Hồ Đắc Di – là nhà chí sĩ ái quốc. Bác sĩ Hồ Đắc Di trước đây là người sáng lập đồng thời cũng là Khoa trưởng Đại Y khoa Hà Nội. C̣n “lệnh ái” Hồ Thể Lan – con gái của Bác sĩ Hồ Đắc Di – năm 2000 đang là Vụ trưởng Vụ Báo chí và cũng là vợ của Vũ Khoan, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng chính phủ CS Hà Nội.

    Nhưng tờ báo không xin lỗi, cũng không đính chính, bởi v́ họ chỉ lầm có... một nửa. Tổng đốc Vi Văn Định có hai người con gái. Người em là Vi Kim Phú, lấy Bác sĩ Hồ Đắc Di năm 1935 khi mới 17 tuổi. Người chị là Vi Kim Ngọc, lấy Giáo sư Nguyễn Văn Huyên, Tiến sĩ Văn chương Đại học Sorbonne, từ Pháp về, cưới vào năm 1936, khi nàng 20 tuổi. Báo Công An lầm ở chỗ người trả lại trầu cau cho Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước là bà chị, vợ ông Nguyễn Văn Huyên, chứ không phải bà em, vợ Bác sĩ Hồ Đắc Di. Cả hai chị em đều đẹp lộng lẫy như nhau và đều nổi tiếng Bắc Hà về nhan sắc cũng như về gia thế. Đến năm 1944, một người cháu nội của ông Vi Văn Định tên Vi Nguyệt Hồ, 15 tuổi, được gả cho Bác sĩ Tôn Thất Tùng (sau này làm Thứ trưởng Bộ Y tế Việt Minh). Năm 1946, khi bà Vi Nguyệt Hồ sinh con trai đầu ḷng ở vùng thượng du Bắc Việt, ông Hồ đến thăm và đặt tên là Tôn Thất Bách (sau này cũng là bác sĩ, mới mất tại Hà Nội cách đây hai năm).

    (H́nh 2 : Bác sĩ Hồ Đắc Di)

    (H́nh 3 : Chú rể Huyên và cô dâu Kim Ngọc)

    Dân chúng Hà Nội không ai lạ ǵ ông Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng Giáo dục 30 năm của chính phủ Phạm Văn Đồng. Hồi thập niên 30, họ gọi ông Nguyễn Văn Huyên và người bạn của ông tên Nguyễn Mạnh Tường là “Nghè Huyên” và “Nghè Tường”, v́ hai ông đều đậu tiến sĩ bên Pháp.

    Báo Công An nói lộn về người nhận trầu cau của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Bà Vi Kim Phú (bà em), phu nhân của cố Bác sĩHồ Đắc Di phản ứng. Thiên hạ bàn tán quá v́ họ biết người trả trầu cau là bà Vi Kim Ngọc (bà chị), vợ của ông “Nghè Huyên” họ Nguyễn. Đến lượt con cháu họ Nguyễn ra tay. Chỉ con cháu thôi, bởi v́ năm 2000 những người trong cuộc đă thành thiên cổ. Bà Nguyễn Kim Hạnh, con gái của ông bà Nguyễn Văn Huyên-Vi Kim Ngọc, xuất bản cuốn sách “Hồi ức về Nguyễn văn Huyên”, trong đó có trích những đoạn nhật kư của thân mẫu, tức bà Kim Ngọc:

    “Cha mẹ tôi làm đám cưới với nhau vào ngày 12/4/1936. Mẹ tôi ghi lại những ngày đầu quen biết giữa cha và mẹ trong nhật kư như sau:

    “Em đi chơi cùng cha mẹ vào Huế, khắp Trung Kỳ rồi Lục tỉnh Cao Mên, Thái Lan... Nhiều khách quốc tế trầm trồ khen ngợi em là giai nhân”.

    “Đôi ta gặp nhau ở Huế, trong lễ hội Nam Giao. Sau đó em tiếc không từ biệt anh. Khi lên xe, cha đưa thư của anh do anh Toại trao giùm (tức bác Phan Kế Toại, chồng cô Măo là chị của cha tôi - K.Hạnh) cho em xem. Đó là thư cầu hôn giữa anh và em ”.

    “Sau đó bà ngoại mấy lần nhận điện từ Hà Nội gửi vào cầu hôn.Khi có thư trực tiếp của anh viết cho ông ngoại gửi lời thăm em “người đáng yêu nhất” th́ em mới nhận lời cho nhà trai xuống Thái B́nh cầu hôn”.

    Tác giả Kim Hạnh ghi tiếp:

    “Mẹ tôi kể là năm mẹ tôi 16 tuổi, ông ngoại tôi nhận lời gả mẹ tôi cho người họ Dương Thiệu. Năm 19 tuổi, khi biết điều này, mẹ tôi nhất định đ̣i ông tôi phải trả lại sêu tết ba năm. V́ mẹ tôi không chấp nhận cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Mẹ tôi ghét cay ghét đắng chuyện năm thê bảy thiếp trong chế độ phong kiến”.

    “Năm 1977, sau khi cha tôi mất được 2 năm, mẹ tôi viết: “Ước mơ của em khi đôi tám xuân xanh là quyết chọn người tài đức mới trao thân. Nếu không gặp được nam nhi hào hùng đó th́ ở một ḿnh suốt đời. Thế mà em đă măn nguyện”.

    Và trang sau, nhật kư nhắc tới Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước:

    “Năm 1976, được tin của một người bạn cũ ở Đà Lạt nói rằng có gặp ông Dương Thiệu Tước và vợ của ông là bà Minh Trang lên chơi Đà Lạt”.

    Đoạn này rất sơ lược, h́nh như vô t́nh nhớ tới th́ ghi nhật kư vậy thôi, không có ǵ quan trọng.

    Trong cuốn “Hồi ức về Nguyễn văn Huyên”, nói về Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, tác giả Kim Hạnh ghi: “Bác Tước là cháu nội cụ Nghè Dương Khuê, chúng tôi thường gọi là bác Cả Tước, không thể ví với người đă đậu Tiến sĩ Văn chương Đại học Sorbonne, Bộ trưởng Giáo Dục 30 năm. Năm 1954, bác di cư vào trong Nam, làm chủ sự Ban Âm nhạc Đài Phát thanh Sài G̣n, cả đời sống thanh bạch và rất lương thiện”.

    Rất rơ, như vậy người quen biết Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước là “bà chị” Vi Kim Ngọc, vợ ông Nguyễn Văn Huyên, chứ không phải “bà em” Vi Kim Phú, vợ của Bác sĩ Hồ Đắc Di. Bây giờ chúng ta thử xem xét về vị Nhạc sĩ tác giả Đêm Tàn Bến Ngự, Ơn Nghĩa Sinh Thành..., nhất là bản Ngọc Lan được ông sáng tác với nhiều kỷ niệm. Ông thường giải thích với các ca sĩ là hai chữ Ngọc Lan viết hoa, nhưng ít người hiểu, đa số đều nghĩ rằng ông ca ngợi loài hoa ngọc lan.

    Tiểu sử Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước

    Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước (1915–1995) quê ở làng Vân Đ́nh, huyện Sơn Lăng, phủ Ứng Ḥa, tỉnh Hà Đông (nay là một quận của Hà Nội). Xuất thân trong một gia đ́nh Nho học truyền thống, ông là cháu nội cụ nghè Vân Đ́nh Dương Khuê, nguyên Đốc học tỉnh Nam Định, tác giả bài hát nói “Hồng Hồng Tuyết Tuyết” danh tiếng, đến nay các nghệ sĩ hát ả đào vẫn c̣n sử dụng. Và ông cũng là bác ruột của Nhạc sĩ Dương Thụ hiện nay.

    Thuở nhỏ ông học tại Hà Nội. Trong thập niên 1930, ông gia nhập nhóm nghệ sĩ tài tử Myosotis (Hoa Lưu ly) gồm Thẩm Oánh, Lê Yên, Vũ Khánh... Dương Thiệu Tước cũng là người có sáng kiến soạn “nhạc Tây theo điệu ta”. Những nhạc phẩm đầu tay của ông thường viết bằng tiếng Pháp. Mặc dầu theo học nhạc Tây, nhưng nhạc của ông vẫn thắm đượm tinh thần dân tộc. Trong một tác phẩm viết tay, ông ngỏ ư: “Theo tôi, tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rơ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rơ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền”.

    Ông di cư vào Nam năm 1954. Tại Sài G̣n, ông làm chủ sự Pḥng Văn nghệ Đài Phát thanh Sài G̣n, đồng thời được mời làm giáo sư dạy Tây Ban Cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Sau năm 1975, nhạc của ông bị cấm và ông cũng không được dạy tại trường Quốc Gia Âm Nhạc nữa.

    Vợ chính thất cũng là vợ đầu của ông là bà Lương Thị Thuần, hiện con cái đang sống tại Đức và Hoa Kỳ. Vợ sau của ông là bà Minh Trang, một ca sĩ nổi tiếng thập niên 1950, có con riêng là ca sĩ Quỳnh Giao. Đầu thập niên 1980, ông về chung sống với bà Nguyễn Thị Nga tại quận B́nh Thạnh, có một con với bà này và được bà chăm sóc chu đáo.

    Ông mất ngày 01 tháng 08 năm 1995 tại Sài G̣n. Gần đây, sau thời kỳ đổi mới, nhạc của ông đă được lưu hành lại trên khắp nước Việt Nam và ông rất được ca ngợi.

    Các sáng tác nổi tiếng của ông gồm: Áng Mây Chiều, Bến Xuân Xanh, Bóng Chiều Xưa, Cánh Bằng Lướt Gió, Chiều (phổ thơ Hồ Dzếnh), Đêm Tàn Bến Ngự,Kiếp Hoa, Ngọc Lan, Ôi Quê Xưa, Ơn Nghĩa Sinh Thành, Thuyền Mơ, Tiếng Xưa, Ước Hẹn Chiều Thu.

    Mối t́nh đầu

    Năm đó là đầu thập niên 1930, ở tỉnh lỵ Hưng Yên, chàng 18 tuổi và nàng 17 tuổi. Chàng là con cụ Thương tá Dương Tự Nhu, sau này lên Bố chánh (coi về hành chánh; c̣n tổng đốc th́ trông coi toàn bộ, cả dân sinh, an ninh lẫn các quan lại trong tỉnh; Bố chánh tương đương với phó tỉnh trưởng hành chánh- ĐD), và nàng là con cụ Tổng đốc Vi Văn Định. Tư dinh hai nhà gần nhau, phía trước là một chiếc hồ rộng lớn, ngăn đôi bởi một con đường nhỏ, hai bên hồ thông nhau bằng một con lạch, có một chiếc cầu gỗ vồng cao lên bắc ngang qua, sơn màu đỏ. Quang cảnh rất tĩnh mịch, rất nên thơ, nhất là khi có ánh trăng êm dịu tỏa xuống.

    Chiếc cầu đỏ trên hồ là nơi trẻ con vui chơi, câu cá khi băi trường. Chàng học ở Hà Nội. Nàng học tại tỉnh nhà. Hai dinh thự gần nhau, mỗi lần chàng về, họ gặp nhau. Nàng đang tuổi dậy th́, cực kỳ xinh đẹp, c̣n chàng th́ khôi ngô tuấn tú, đang học trung học, cháu nội của cụ nghè Dương Khuê, sử dụng được 7 loại nhạc cụ kể cả nhạc “Tây” lẫn nhạc “ta”, trong đó thông thạo nhất là Tây Ban Cầm (Guitare) và Hạ Uy Di Cầm (Guitare Hawaienne), lại hát rất hay, có tiếng ở Hà Nội.

    Việc ǵ xảy ra là phải xảy ra, chàng và nàng yêu nhau thắm thiết với sự trong trắng và bồng bột của mối t́nh đầu. Họ Vi biết rơ cậu cả cháu nội cụ Dương Khuê này, gia đ́nh quan Bố chánh Dương Tự Nhu bèn đem trầu cau sang đính ước.

    Nhưng mối t́nh trong sáng đó có những đám mây đen kéo tới. Nhà gái dần dần biết Dương học Tú tài chỉ là phụ mà việc Dương ưa thích nhất là học âm nhạc tại trường Ecole Francaise de Musique en Extrême Orient tại Hà Nội, cùng với Nguyễn Xuân Khoát. Khoát chuyên về Dương cầm, c̣n Dương chuyên về Tây Ban Cầm. Đồng thời, bà mẹ vợ tương lai với trực giác nhạy cảm của phụ nữ cũng nhận ra nguy cơ cho con gái: anh chàng này đẹp trai quá, đàn hát lại hay, sẽ là một tai họa cho con ḿnh.

    Trong khi đó, trường Ecole Francaise de Musique en Extrême Orient sau ba năm hoạt động phải đóng cửa v́ kinh tế khủng hoảng, Dương lâm vào cảnh dang dở. Phía bên nhà gái có những bà đă bắt đầu chê bai: “Cậu Tước mặt mày sáng rỡ, đẹp trai như Phan An Tống Ngọc mà chỉ có bằng Diplôme, thi rớt Tú tài”.

    Rồi họ Vi chuyển từ Hưng Yên sang làm Tổng đốc Thái B́nh. Xa mặt cách ḷng, đúng lúc ấy th́ “nghè Huyên” có sự gặp gỡ. Và rồi, ngày 14-02-1936 nàng lên xe hoa về nhà chồng. Lúc ấy nàng 20 tuổi c̣n chàng 21 tuổi.

    Chàng buồn, bèn đem tâm hồn ḿnh viết thành bản nhạc “NgọcLan”bất hủ (xin nhắc lại: nàng tên Vi Kim Ngọc): Ngọc Lan, ḍng suối tơ vương, mắt thu hồ dịu ánh vàng. Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng nghiêng, tà mấy cánh phong, nắng thơm ngoài song... Nhưng măi tới năm 1953 bản nhạc này mới được xuất bản và phổ biến rộng răi với giọng ca Thái Thanh tại Hà Nội.

    Nói tóm lại, chàng sinh năm 1915, yêu nhau năm 1934, tan vỡ năm 1935, nh́n người yêu đi lấy chồng năm 1936, lúc ấy chàng 21 tuổi. C̣n nàng, sinh năm 1916 (kém chàng 1 tuổi), yêu nhau năm 17 tuổi và lấy chồng năm 20 tuổi.

    Suy cho cùng, hôn nhân có lẽ là do duyên số nhưng một người tính t́nh nghệ sĩ, không coi trọng bằng cấp như Dương Thiệu Tước, giả sử nếu lọt vào làm rể gia đ́nh ông Vi Văn Định th́ cũng khó sống. Ông là người Nùng, con trai của quan Tri châu Vi Văn Lư. Đối với người dân tộc thiểu số, quan Tri châu cũng giống như “ông vua” ở vùng thượng du. Họ kính trọng ngài và tuân lời ngài răm rắp chứ không cần biết Toàn quyền Pháp hay triều đ́nh Huế là ai cả. Ngoài ra, chức vị này có tính cha truyền con nối. Khi Vi Văn Lư qua đời, Vi Văn Định nối nghiệp và được Pháp chuẩn y cho giữ chức Tri châu. Nhưng Vi là “ông trời con”, dân chúng người Tày, người Nùng cả vùng Cao Bằng, Lạng Sơn vừa sợ vừa coi ngài như ông thần. Ngài lập rất nhiều chiến công cho... thực dân Pháp: dẹp giặc nổi loạn, đánh giết nghĩa quân yêu nước chống Pháp... Công lao và uy tín mỗi ngày một lớn, người Pháp sợ nếu cứ để như thế, e rằng ngài sẽ xưng hùng xưng bá, chiếm riêng cho ḿnh vùng thượng du hiểm trở để lập triều đ́nh theo kiểu Nùng Trí Cao ngày trước th́ rất nguy hiểm. Bởi vậy họ “điệu hổ ly sơn”, thăng chức cho ngài, đưa ngài về làm tổng đốc các tỉnh đồng bằng để ngăn ngừa hậu hoạ. Bây giờ chúng ta thử xem sau khi về dưới xuôi, ngài vẫn “hét ra lửa” như thế nào và lư do tại sao sau khi Việt Minh cướp chính quyền năm 1945, các ông Phạm Quỳnh, Ngô Đ́nh Khôi, Khái Hưng, Tạ Thu Thâu v.v...đều bị giết chết, c̣n ngài, một tên đại Việt gian, đại tàn ác như thế mà vẫn tồn tại măi đến năm 1975, khi ngài 96 tuổi (ngài sinh năm 1879, mất cùng năm với ông con rể lớn Nguyễn Văn Huyên).

    Cụ Đặng Hữu Thụ, nguyên Chánh thẩm Ṭa Thượng thẩm Sài G̣n trước năm 1975, hiện định cư tại Pháp, quê ở làng Hành Thiện, Nam Định, kể:

    “Vi Văn Định là người Nùng, làm Tổng đốc Hưng Yên, sau đó làm Tổng đốc Thái B́nh, nổi tiếng hống hách nên dân chúng rất sợ. Vi bắt quan lại dưới quyền phải cởi giày để ở ngoài văn pḥng mỗi khi vào ra mắt Vi, phạt chánh tổng, lư trưởng phải ăn bèo tây (bèo lục b́nh) khi Vi ra lệnh vớt mà sai thời hạn hoặc vớt không hết, vẫn c̣n sót lại ở các sông ng̣i (bèo lục b́nh phát triển rất mạnh, nhất là về mùa hè, phải vớt kẻo tắc sông ng̣i - ĐD). Vi cấm các hàng rong từ 12:30 đến 14:30 là giờ của Vi ngủ trưa, không được rao hàng khi quẩy gánh hàng qua dinh Vi. Có một anh hàng phở gánh, quên mất luật lệ, khi đi qua dinh, rao lớn, bị Vi ra lệnh cho lính bắt vào, nện cho một trận rồi bắt phải gánh gánh phở đi ṿng chung quanh sân dinh, rao từ trưa đến tối mới cho về.

    Vi có người con trai là Vi Văn Lê, đang học Luật tại Pháp, là bạn của ông Nguyễn Thế Truyền, đảng viên đảng Việt Nam Độc Lập do ông Tạ Thu Thâu lănh đạo. Năm 1929, Lê gia nhập đảng Việt Nam Độc Lập. Cây đắng mà sinh trái ngọt chăng?

    Khi Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu hưu trí, Vi Văn Định đổi qua thay thế, trong dân gian truyền tụng câu: “Hoàng trùng đi, Vi trùng lại. Suy đi xét lại, Vi hại hơn Hoàng”. Hoàng trùng ám chỉ Hoàng Trọng Phu, Vi trùng ám chỉ Vi Văn Định. Hoàng Trọng Phu là con trai Tổng đốc Hoàng Cao Khải và là con rể Tổng đốc Đỗ Hữu Phương ở Nam Kỳ, toàn những tay sai khét tiếng của Pháp cả, nhưng “Vi hại hơn Hoàng” th́ chúng ta đủ hiểu Tổng đốc Vi Văn Định đáng sợ như thế nào”.

    Khi việc cướp chính quyền xảy ra năm 1945, Vi bị Việt Minh bắt nhưng ông Hồ chẳng những không giết mà c̣n cho tạm lánh trong một biệt thự ở Hà Nội, đăi ngộ như thượng khách chỉ v́ Vi là một “ông vua Nùng” mà ông Hồ và đảng của ông vẫn c̣n cần đến. Cũng có người cho rằng sở dĩ ông Hồ tha chết cho Vi, v́ Vi là nhạc phụ của hai nhà đại khoa bảng đang phục vụ trong chính phủ Việt Minh là Bác sĩ Hồ Đắc Di (được Toàn quyền Pháp ở Đông Dương Decoux phong giáo sư) và Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên. Ngoài ra, Vi c̣n là ông nội của tiểu thư Vi Nguyệt Hồ, vợ của Bác sĩ Tôn Thất Tùng, Thứ trưởng Y tế VM nữa. Bác sĩ Tôn Thất Tùng tốt nghiệp Y khoa tại Pháp, rất nổi tiếng về môn giải phẫu tim và gan.

    Những mối t́nh sau

    - Bà Lương Thị Thuần: Sau khi mối t́nh đầu tan vỡ, Dương rất buồn. Rồi phụ thân Dương Tự Nhu cũng mất sớm, gia đ́nh có bề sa sút. Sau khi hết tang và Dương cũng tạm có công ăn việc làm tại Hà Nội (điều khiển ban nhạc trong các tiệm khiêu vũ và cộng tác với Đài Pháp Á cùng Nguyễn Xuân Khoát), gia đ́nh bèn cưới cho ông người vợ chính thức là bà Lương Thị Thuần, nhưng người ta ít biết về bà này và cũng không hiểu nguyên nhân của sự ly tán. Hiện nay các con của bà đang sống tại Đức và Hoa Kỳ.

    - Bà Minh Trang: Tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Trâm, sinh năm 1921 (kém Dương 6 tuổi) tại Huế. Thân phụ bà là ông Nguyễn Hy, một công chức cao cấp trong Bộ Lại (tương đương với Bộ Nội vụ) của triều đ́nh Huế. Thân mẫu bà là con gái của công chúa Mỹ Lương (thường gọi là Bà Chúa Nhứt), chị cả của Vua Thành Thái.

    Trong nhà Bà Chúa Nhứt có riêng một ban nhạc (loại nhạc cung đ́nh) tới mấy chục người và một ban ca Huế. V́ thân phụ thường phải đi công cán xa trong thời gian lâu, có khi đem cả gia đ́nh đi theo nên cô bé Ngọc Trâm thường ở nhà bà ngoại. Nhờ vậy, ảnh hưởng của ca nhạc đă thấm sâu vào tâm hồn cô bé từ thời thơ ấu. Mới bảy tuôi cô đă thuộc ḷng những đoạn ca Huế trong các tiết điệu Nam Ai, Nam B́nh, Kim Tiền, Lưu Thủy...

    Tuy thân phụ là người Quảng Ngăi nhưng thân mẫu là người Huế, ḍng dơi hoàng tộc, nên “tính chất Huế ” và “giọng nói Huế” hoàn toàn chiếm hữu con người cô bé Ngọc Trâm. (Chúng ta nên nhớ Dương Thiệu Tước là người Bắc nhưng nhiều tác phẩm của ông, như bản Đêm Tàn Bến Ngự chẳng hạn, mang đặc tính chất Huế th́ đủ hiểu ông yêu “người vợ Huế” đó như thế nào).

    Thuở nhỏ, Ngọc Trâm theo học tại trường Jeanne d’ Arc, một trường ḍng danh tiếng ở Huế và bắt đầu làm quen với những phím đàn dương cầm do các sơ dạy đồng thời cũng học hát nữa. Lên trung học, cô theo gia đ́nh ra Hà Nội. Vào khoảng năm 1941, thân phụ trở về nhậm chức tại Bộ Lại ở Huế, cô lại theo về Huế và học tại Lycée Khải Định (sau này, từ thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, đổi tên là trường Quốc học Huế).

    Tại Lycée Khải Định, cô gặp Giáo sư Ưng Quả – thầy dạy môn Văn chương Việt Nam và cũng là người dạy tiếng Việt cho Thái tử Bảo Long. Hai thầy tṛ tâm đầu ư hợp. Mặc dầu Giáo sư Ưng Quả là người góa vợ, đă có hai con trai, nhưng hai gia đ́nh rất môn đăng hộ đối: cha của Giáo sư Ưng Quả là con trai của Tuy Lư Vương; cha của Ngọc Trâm là con của Diên Lộc Quận công. Hai bên tiến tới hôn nhân và sinh được hai người con, một trai, một gái. Người con trai tên Bửu Minh (vai chú của Vua Bảo Đại) người con gái tên Công tằng Tôn nữ Đoan Trang (tức ca sĩ Quỳnh Giao sau này). Bà Ngọc Trâm dùng tên hai người con ghép lại làm tên trong ngành âm nhạc của ḿnh.

    Năm 1951, Giáo sư Ưng Quả đang làm Giám đốc Nha Học chánh Trung Phần th́ đột nhiên bị bệnh, qua đời. Bà Minh Trang đem hai con vào Sài G̣n sinh sống và kiếm được chân vừa làm xướng ngôn viên vừa làm biên tập viên tin tức (tiếng Pháp) trong Đài Pháp Á (France-Asie).

    Sự việc sau đó bà Minh Trang trở thành ca sĩ hết sức t́nh cờ. Trong một chương tŕnh ca nhạc hằng tuần của Nhạc sĩ Đức Quỳnh trên Đài Pháp Á, ca sĩ chính không đến hát được, bắt buộc Minh Trang phải “hát giùm” thế chỗ. Bà chỉ thuộc có mỗi một bản nhạc Đêm Đông của Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương là tiếng Việt, c̣n ngoài ra là thuộc tiếng Pháp (bà rất giỏi tiếng Pháp). Mà chương tŕnh của Đức Quỳnh lại là tiếng Việt, vậy là Minh Trang bèn hát “Đêm Đông”.

    Nhờ giọng ca thiên phú và cái “duyên” bất ngờ nói trên, dần dần Minh Trang trở thành một ca sĩ chính của Đài Pháp Á (sau này là Đài Phát Thanh Quốc Gia tức Đài Sài G̣n). Từ đấy, Minh Trang c̣n đi hát phụ diễn trên các sân khấu, một dạng tŕnh diễn rất thịnh hành hồi đó tại các rạp chiếu bóng trước khi cuốn phim chính được tŕnh chiếu.

    Tiếng hát của Minh Trang bay ra Hà Nội và được các Nhạc sĩ đương thời ngoài đó, như Vũ Thành, Hoàng Giác, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Thiện Tơ v.v... yêu mến và họ thường gởi tác phẩm vào cho Minh Trang hát mặc dầu chưa biết mặt.

    Trong một lần Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí tổ chức hội chợ tại Hà Nội, ông mời Minh Trang và nhiều nghệ sĩ khác ra hát với phần nhạc đệm của Ban Việt Nhạc. Người đứng đầu Ban Việt Nhạc là Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, người mà Minh Trang rất ngưỡng mộ. Họ gặp nhau và tiến tới hôn nhân.

    Hai nghệ sĩ Minh Trang-Dương Thiệu Tước kết hôn năm 1951 tại Sài G̣n nhưng vẫn sống cách xa nhau cho đến năm 1954, khi ông Dương Thiệu Tước di cư vào Nam, họ sống với nhau. Họ sinh được năm người con, một trai, bốn gái: Dương Hồng Phong, Vân Quỳnh, Vân Khanh, Vân Ḥa, Vân Dung. Cũng như Bửu Minh và Đoan Trang, các con của ông bà đều được theo học trường Quốc Gia Âm Nhạc với sự d́u dắt của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.

    Sau này, Quỳnh Giao và Vân Quỳnh trở thành ca sĩ. Dương Hồng Phong tốt nghiệp vĩ cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc c̣n, Bửu Minh th́ du học tại Pháp năm 1961 và nay giữ địa vị pianiste chính trong ban đại ḥa tấu “Staatsphihlarmonic Rheinland Plalz” của Đức.

    Sau biến cố tháng 04-1975, hai cô con gái lớn đă lập gia đ́nh th́ theo gia đ́nh nhà chồng ra đi. Ông bà Dương Thiệu Tước và hai cô nhỏ bị kẹt ở lại. Ngoài ra, người con trai duy nhất của ông bà là ông Dương Hồng Phong - được gọi đi sĩ quan Thủ Đức năm 1972 - bị bắt tại mặt trận và cũng đang kẹt trong tù tại Chu Lai. Cùng lúc đó, với số lương 64 đồng/tháng nhưng Giáo sư Dương Thiệu Tước dạy Guitare classique trong trường Âm nhạc-Kịch nghệ (trường QGAN ở đường Nguyễn Du, mới đổi tên) cũng không được dạy nữa, nhạc th́ bị cấm, cuộc sống vô cùng khó khăn.

    Năm 1978, Thiếu úy Dương Hồng Phong được ra tù, bà nghĩ đến việc phải rời đất nước. Tới chuyến, Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước lúc ấy đang ốm nên không thể đi. Tiền bạc có bao nhiêu th́ đặt cọc hết rồi, ông đành hy sinh ở lại.

    Bà Minh Trang cùng ba con đến Thái Lan vào cuối năm 1979, sau đó được định cư tại Virginia.

    Hiện nay, bà và các con ở Quận Cam, riêng Bửu Minh ở Đức và Dương Hồng Phong ở New York.

    Năm nay, bà đă 89 tuổi (bà sinh năm 1921) nhưng tương đối vẫn c̣n khỏe mạnh. Bà nói: “Tôi thích nghe nhạc và theo dơi tin tức thời sự, không cần nấu nướng ǵ cả, v́ các con ở gần “có bát canh cần nó cũng đem cho”.

    Năm 1995, khi ông mất, bà và mấy người con – kể cả ca sĩ Quỳnh Giao - có về dự đám tang.

    - Bà Nguyễn Thị Nga

    Năm 1982, trong một cuộc nói chuyện về âm nhạc ở Sài G̣n, ông Dương Thiệu Tước gặp lại bà Nguyễn Thị Nga, một học viên cũ tại trường QGAN ngày trước, người vẫn hâm mộ và thầm yêu “thầy”. Nay bà Nga đă có một cơ sở buôn bán rất tốt về các sản phẩm âm nhạc nhưng vẫn c̣n độc thân. Ông về sống với bà và có với nhau được một con trai.

    Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước mất ngày 01 tháng 08 năm 1995, tại Sài G̣n, thọ 80 tuổi. Các tác phẩm của ông vẫn c̣n tồn tại và sẽ măi măi bất hủ với thời gian, trong đó có bản Ngọc Lan.

    Đoàn Dự ghi chép

  4. #14
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Nguyễn Hiến Lê: kẻ sĩ thời đại!





    Nguyễn Hiến Lê, một tác giả của hơn một trăm cuốn sách, một nhà biên khảo có nhiều công tŕnh to lớn, một dịch giả chuyển ngữ được những tinh túy văn chương ra Việt ngữ, một học giả được nhiều nể trọng của văn giới, và cũng là một người đă trung thực khi viết hồi kư. Đọc những tác phẩm về văn học, về triết học, về xă hội học, về sử học, về ngôn ngữ học, hay các sách học làm người, chúng ta mới thấy được sự sâu sắc phong phú nhưng lại được diễn tả bằng một văn phong rơ ràng chính xác nhưng đơn giản nên nhiều vấn đề khúc mắc phức tạp trở thành dễ hiểu.

    Thế mà, ông lại khiêm tốn nói rằng ông cầm bút viết để tự học hỏi. Không biết có phải đó là một điển h́nh kẻ sĩ để mấy vị hay cao ngạo khoe khoang phải suy nghĩ?

    Đọc hồi kư “Đời Viết Văn của Tôi”, chúng ta thấy được ǵ? Có phải qua những tác phẩm, ông muốn bày tỏ tấm ḷng của ḿnh với văn chương chữ nghĩa. Nh́n và quan sát người khác dễ hơn là quan sát nhận định về chính ḿnh. Ông cũng hiểu rất rơ điều ấy và trong phần mở đầu cuốn hồi kư ông đă rất khiêm nhượng :

    “… Chép hồi kư về đời ḿnh, lại càng dễ bị nhiều người chê là chỉ nêu lên những cái hay của ḿnh mà giấu những cái xấu; ngay khi tự vạch những cái xấu của ḿnh ra th́ nếu không phải do ḷng tự cao cũng là để tự biện hộ. Dù là tập Confessions của JJ Rousseau hay tập Autobiography của Bertrand Russel th́ cũng chỉ đáng tin một phần nào mà thôi.

    Tôi lại nhận thấy bây giờ chép lại tuổi thơ và thiếu niên, tôi bỏ đi gần hết những điều tôi đă chép năm 1935; mà tập tôi mới viết xong đây nếu chép lại từ 1974, đầu năm 1975, th́ nội dung tất khác bây giờ nhiều, nếu trái lại tôi được sống đến năm 1985-1990 và lúc đó mới chép th́ nội dung cũng lại khác, có thể khác xa nữa.

    Tôi đă ghi t́nh cảm suy tư của tôi lúc này về một số ciệc đă xảy ra trong đời tôi mà tôi đă được nghe và thấy. Có nhiều chỗ tôi đă vô t́nh chép sai sự thực, hoặc bỏ sót, điều đó không sao tránh được. Lỗi ở lư tính con người, nó bị t́nh cảm sai khiến, lại thêm ở tuổi bảy mươi như tôi, nó suy giảm nhiều rồi..”

    Ở trong nước vừa in Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê, gồm bốn cuốn b́a cứng toàn bộ gần bốn ngàn trang với Tập 1 : Triết học, Tập 2 : Sử học, Tập 3 : Ngữ học và Tập 4 : Văn học. Thật ra, như vậy vẫn chưa đầy đủ lắm với văn nghiệp của ông. Vẫn c̣n nhiều thiếu sót, dù bộ sách đă có bề dầy. Những công tŕnh của ông, là những tài liệu khả tín cho những người lớp sau để có thể phác họa ra được một thực tế văn học của một thời đại nhiều đặc biệt.

    Nguyễn Hiến Lê sinh năm 1912 và trong suốt cuộc đời đă trải qua rất nhiều biến cố của đất nước và dân tộc Việt Nam. Ông lớn lên khi lối học cổ điển “chi hồ dă dă“ bị suy vi và trường học đă dạy bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Ông cũng có một thời học chữ Nho và sau đó vào trường học. Người cha mất sớm nên trong gia đ́nh mẹ góa con côi có lúc ông đă lêu lổng trốn học nhưng sau đó lại tu tỉnh và học hành tiến bộ hơn. Có lẽ, ông chịu ảnh hưởng của hai nền giáo dục và đó cũng là một điểm đặc biệt của ông.

    Nguyễn Ngu Ư trong ‘Sống và Viết“ đă có nhận định về Nguyễn Hiến Lê:

    “Trong làng văn nước nhà, có lẽ không ai dự bị vào nghề lâu như anh : trên mười năm trời và thời hậu chiến chưa có tác giả nào viết, dịch đều và có sách xuất bản nhiều như anh; bốn mươi bốn quyển đă in và có độ một chục cuốn đang in hoặc sẽ in. Anh cũng lại là nhà văn mà nhiều người thắc mắc. Đă có hơn một người hỏi tôi :

    - Anh Lê thuộc về lớp cổ hay lớp mới?

    Quen anh trên mười năm mà tôi chưa từng tự hỏi như vậy bao giờ và tôi đă lúng túng không trả lời được.

    Cứ xét lối làm việc th́ anh là người mới : có tổ chức, có phương pháp như một nhà khoa học; nhưng xét lối sống, lối cư xử th́ lại như một người cổ : thanh bạch, giản dị, chỉ ưa sách và hoa, ghét sự ồn ào, nhất là sự ồn ào của danh vọng ; tính t́nh có vẻ như hơi nghiêm ; đối với bạn bè th́ chân thành nhưng cũng có cái vẻ đạm bạc của nhà Nho. Sách anh viết và dịch th́ có những cuốn về tân kiến thức như thuật về Tổ Chức, về Tân Giáo Dục, về ngữ pháp, về kinh tế (học thuyết Fourastié); về Chính Trị (cuốn Xung Đột trong Đời Sống Quốc Tế) ; mà lại có những cuốn về cổ học như Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc hay Đại Cương Triết Học Trung Quốc. Anh rất trọng cái thực học mà có lúc đề cao đạo học; trọng lối tổ chức làm việc của Âu-Mỹ mà lại ghét lối sống Âu-Mỹ thích cái tinh thần tri túc, thanh đạm của phương Đông. Trong cuốn Một Niềm Tin anh khuyên thanh niên phải xằn tay áo và thắt bụng lại, sản xuất gấp đôi mà tiêu pha bớt đi để nước nhà mới có cơ thịnh vượng được ; nhưng riêng anh có nhiều cơ hội làm giàu một cách lương thiện th́ anh lại gạt đi. Anh viết cuốn ”Tổ Chức Công Việc theo Khoa Học” rồi lại dịch cuốn “The Importance of Living” (Một quan niệm sống đep) của Lâm Ngữ Đường. Anh rất thích ít bài cổ văn Trung Quốc như A pḥng Cung phú, Đằng Vương Các Tự, Bắc Sơn Di Văn mà lại cũng rất thích các tác giả mới như Marcel Proust. Anh theo dơi những trào lưu tư tưởng mới cuả thế giới mà cũng vẫn đọc những tác phẩm của cổ nhân, đọc cả sách về Đông Y, về Tử Vi, Tử B́nh, bói Dă Hạc, về Địa lư (môn phong thủy hồi xưa, mà đọc trong bản chữ Hán, đọc để biết. Văn anh viết có bài nửa biền nửa tản như bài Hương Sắc Trong Vườn Văn, có đoạn lại làm gợi nhớ tới lối hành văn của Michel Butor như đoạn cuối bài Đuổi Bắt Ảo Ảnh, nhưng xét chung th́ anh rất ưa sự b́nh dị.

    Cho nên bảo anh là cổ th́ không đúng, mà bảo anh là mới th́ anh cũng không mới hẳn. Anh có mâu thuẫn với anh chăng? Trong con người anh có hai phần chăng? Một phần chịu ảnh hưởng của gia đ́nh, một phần chịu ảnh hưởng của học đường chăng? Nhưng bảo là mâu thuẫn th́ có đúng không? Thế nào là mâu thuẫn? Thế nào là dung ḥa? Tôi không biết được mà có lần đem ra hỏi lại anh, th́ anh cũng không trả lời được, cho rằng đó là tùy theo nhận xét của mỗi người.,,”

    Với tôi, tôi ngưỡng phục tác phẩm của ông. Với cách tŕnh bày trong sáng, đơn giản nhưng không qua loa, người đọc dễ lănh hội được những điều mà tác gỉa gửi gấm trong chữ viết. Và bàng bạc, trong chữ nghĩa, trong ư tưởng là cái tâm thẳng thắn và ư hướng giúp những người muốn học hỏi có dịp để đạt cho bằng được những kiến thức cần thiết cho đời sống.

    Nhưng, tôi không thích ông ở ư hướng chính trị. Sống ở miền Nam nhưng ḷng ông lại hướng về miền Bắc. Trong hồi kư ông viết :

    “Cho tới năm 1974 tôi đă được biết ba xă hội : xă hội nông nghiệp của ông cha chúng ta, xă hội tư bản của Tây phương do ảnh hưởng của Pháp và vài nét xă hội tiêu thụ (societé de consommation) ở htời hậu kỹ nghệ (post-industriel) của Mỹ; ba xă hội đó tôi đă phác qua trong các phần trên. Từ năm 1975 tôi lại được biết thêm một xă hội nữa mà người ta gọi là xă hội Xă Hội Chủ Nghĩa.

    Tôi vốn có cảm t́nh với Việt Minh, với Cộng Sản, ghét thực dân Pháp, Mỹ, nhất là từ 1965 khi Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, tôi khinh những chính phủ bù nh́n của Pháp, Mỹ. Tôi phục tinh thần hy sinh có kỷ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có htể giúp họ được ǵ th́ tôi sẵn ḷng giúp..”

    Ông Nguyễn Hiến Lê đă viết thẳng thắn ra như vậy. Ông vẫn c̣n bị chiêu bài kháng chiến chống thực dân lôi cuốn mà không nh́n ra cái nguyên do của cuộc chiến ủy nhiệm của các thế lực cường quốc trên thế giới gây ra cuộc nội chiến tương tàn nối da xáo thịt. Cái tâm lư ấy khá thông thường với người miền Nam chưa bị nếm mùi cải cách ruộng đất, chưa bị đảng trị một cách lộ liễu như ở miền Bắc.

    Một hành động chống đối bất hợp tác với chính quyền VNCH là ông đă từ chối Giải Tuyên Dương Sự Nghiệp Văn học Nghệ Thuật năm1973 của Phủ QuốcVụ Khanh Văn Hóa. Cũng như trước đó ông đă từ chối Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1967 khi ông được giải cùng với ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn. Ông từ chối với lư do là dùng hiện kim ấy để giúp đỡ nạn nhân chiến cuộc và bản thân ông không tham dự giải...

    Nhưng, sau khi đă sống với chế độ Cộng sản từ sau năm 1975. Ông nhận ra được sự thực và trong cuốn hồi kư đă giành ra một phần khá quan trọng nhận xét về thực trạng xă hội Việt Nam. Phần viết trong hồi kư ấy chỉ có bản in ở hải ngoại do nhà xuất bản Văn Nghệ của ông Từ Mẫn Vơ Thắng Tiết là có, c̣n bản in ở trong nước của nhà xuất bản Hội Nhà Văn th́ bị cắt xén và “biên tập” tơi bời…

    Trong Tự Điển Văn học (bộ mơi) xuất bnả ở Sai G̣n năm 1992, Nguyễn Q. Thắng đă tóm gọn sự nghiệp văn học của ông Nguyễn Hiến Lê như sau :

    “Ng̣i bút Nguyễn Hiến Lê đề cập đến nhiều lĩnh vực mà ở lĩnh vực nào cũng có căn cứ khoa học, am tường cặn kẽ về cácd đối tượng, sâu sắc về các vấn đề được nhắc tới và không thiếu tính nghệ thuật.

    Tác phẩm của ông bao gồm nhiều chủ đề như :

    1- Văn học : Gồm một số tác phẩm đặc sắc và công phu như Hương Sắc Trong Vườn Văn ( 2 cuốn, 1962) Luyện Văn (3 cuốn, 1953), Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc (3 cuốn, 1954-1966), Tô Đông Pha (1970).. giới thiệu được những tinh hoa của văn học Trung Quốc cũng như nghệ thuật văn chương Việt Nam.

    2- Ngôn ngữ học : Để Hiểu Văn Phạm (1952), Khảo Luận về ngữ pháp Việt Nam (1963) Chúng Tôi Tập Viết Tiếng Việt.. có nhiều phát kiến mới về ngôn ngữ học Việt Nam đồng thời vận dụng được những tiến bộ mới nhất của ngữ học hiện đại vào ngữ pháp tiếng việt.

    3- Triết Học : Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc (2 cuốin 1966) Nho Giáo Một Triết Lư Chính Trị (1958), Liệt Tử và Dương Tử (1972) một Lương Tâm Nổi Loạn (1970), Bertrand Russel (1971).. tŕnh bày được một hệ thống triết học cổ điển Trung Hoa cũng như những tấm gương lớn về chân dung các triết gia Tây Phương hiện đại.

    4- Sử Học : Gồm một số tác phẩm về lịch sử và văn minh sử thế giới như : Lịch Sử Thế Giới (4 cuốn, 1955), Bài Học Isarael (1968), Bán Đảo Ả Rập (1969), Bí Mật Dầu Lửa (1969) Bài Học Của Lịch Sử (19720, Nguồn Gốc Văn Minh(1974), Văn Minh Ả Rập (1969) Sử kư Tư Mă Thiên (1970), Chiến Quốc Sách (1968), Đông Kinh Nghĩa Thục (1954), Sử Trung Quốc (3 cuốn, 1982).. là những cái nh́n xuyên suốt về lịch sử văn minh sử thế giới và lịch sử cận đại Việt Nam.

    5- Gương Danh nhân : gồm có một số tác phẩm viết về Gương hy Sinh (1962), Gương Kiên Nhẫn (1964) Gương Chiến Đấu (1966) Ư Chí Sắt Đá (1971), Những Cuộc Đời Ngoại Hạng (1970), Einstein (1971).. là những bài học thiết thực cho nhiều lớp người nhất là thành phần thanh thiếu niên đang ở ngưỡng cửa của cuộc đời.

    6- Giáo Dục : tŕnh bày những quan điểm về giáo dục về các lớp tuổi trong đời sống gia đ́nh Việt Nam. Loại này gồm : Thế Hệ Ngày Mai (1953), T́m Hiểu Con Chúng Ta (1966) Tự Học Để Thành Công (1954) Tự Học Một Nhu Cầu Của Thời Đại (1964), Làm Con Nên Nhớ (1968), Sống 24 Giờ (1956)

    7- Tự luyện đức trí : Tác giả vừa dịch vừa nghiên cứu về các chuyên đề giáo dục có tính cách xă hội như Tương lai Trong Tay Ta (1962), Luyện Lư Trí (1965), Rèn Nghị Lực (1956), Ư Cao T́nh Đẹp (1967) Loại này có trên hơn 20 cuốn có giá trị. Trước năm 1975 số ấn bản lên đến hàng vạn cuốn. Hiện nay các nhà xuất bản trong toàn quốc đang tiếp tục tái bản.

    8- Cảo luận : là một số chuyên đề về văn chương, văn hóa, văn nghệ như Nghề Viết Văn (1956), Vấn Đề Xây Dựng Văn Hóa (1967), Mười Câu Chuyện Văn Chương (1975), Con Đường Ḥa B́nh (1971) là những đóng góp sáng giá của ông vào văn chương đạo đức và cảm thụ học thuật cho độc giả yêu mến văn nghệ.

    9- Dịch thuật : Nguyễn hiến Lê có một khả năng dịch thuật rất sung măn. Từ khi bắt đầu cầm bút cho đến khi cuối đời ông có hằng chục công tŕnh dịch thuật sáng giá nhất là các bộ tiểu thuyết lớn phương Tây như Chiến Tranh và Ḥa B́nh (4 cuốn, 1968), cầu trên Sông Drina (1972),Câu Chuyện Thương Tâm (1956) Kiếp Người (1962), Một Mùa Hè Vắng Bóng Chim (1990), Cổ Văn Trung Quốc.. và một số lượng tác phẩm biên khảo viết bằng chữ Pháp, chữ Hán cổ cận thế giới.

    10- Du Kư : gồm một số quyển ghi chép lại các lần đi thực địa ở các địa phương. Loại này không phải là những tác phẩm thuần túy văn chương mà là những đóng góp thiết thực cho khoa học tự nhiên, xă hội, văn học nữa như Bảy Ngày trong Đồng Tháp Mười (1954), Đế Thiên Đế Thích.. cùng một số sách về Quản Trị công nghiệp, kinh tế, gióa khoa toán, Bên cạnh ông c̣n viết hơn 300 chuyên đề trên các tạp chí chuyên ngành (trong các tạp chí ở Sài G̣n trước 1975)..”

    Thật là một công tŕnh văn học nghệ thuật đồ sộ. Ông là một học giả có nhiều uy tín trong giới trí thức và sau năm 1975, chế độ Cộng sản cũng có nhiều cư xử đặc biệt với ông. Những người như ông, như B́nh Nguyên Lộc được níu kéo để tham gia vào sinh hoạt văn học nhưng đều bị cự tuyệt một cách khéo léo.

    Năm 1981, ông Nguyễn Hiến Lê viết xong bộ hồi kư. Ở trong nước, nhà xuất bản Văn học in năm 1993. Ở hải ngoại, nhà xuất bản Văn nghệ của ông từ mẫn Vơ Thắng Tiết in ra làm ba tập. Tập 1 xuất bản năm 1990, tập 2 xuất bản năm 1990, và tập 3 xuất bản năm 1988. So sánh hai bảm in ở trong nước và ở hải ngoại, thấy sự khác biệt rất lớn. Bản in ở hải ngoại th́ tôn trọng bản thảo không sửa chữ nào quan trọng trong khi bản in ở trong nước th́ bị cắt xén và “biên tập “ tơi bời, nhất là những nhận định trung thực của tác giả Nguyễn Hiến Lê về t́nh trạng văn hóa, xă hôi, chính trị, kinh tế ở trong nước. Ông phê phán chính xác, nói có sách mách có chứng và bằng chứng là chính thực tế của cuộc sống. Do đó, bản ở trong nước không có những phần ấy là một điều cố nhiên của nền văn học hiện thực xă hội chủ nghĩa.

    Trước 1975, ông đă đọc những bài tố Cộng cũng như đă nghe những người từ Bắc di cư vào Nam kể lại thời cải cách ruộng đất. Hay đă đọc những cuốn sách viết về đời sống ở Nga, với sự kềm kẹp của mật vụ và những vụ khủng bố trắng thời Stalin. Hoặc biến cố tết Mậu Thân năm 1968 với vụ thảm sát ở Huế. Cũng như ông đă đọc những lời chỉ trích chế độ Cộng sản của nhà văn Soljenitsyne và nhà bác học Sakharov cha đẻ ra bom nguyên tử của nga. Rồi những André Gide, Bertrand Russel, mới đầu thiên Cộng nhưng sau lại chỉ trích nặng nề, hay những Koestler, Georghiu, Djilas,.. mới đầu là đảng viên trung kiên nhưng sau phản tỉnh chống đối gay gắt.

    Dù vậy nhưng Nguyễn Hiến Lê vẫn thiên về miền Bắc và hy vọng rằng sau hiệp ước Paris sẽ có ḥa b́nh và sẽ có chính phủ ba thành phần.

    Nhưng, khi đă sống với Cộng sản, ông đă nh́n ra tất cả những khuyết điểm của một chế độ vô sản chuyên chính. Ông có những nhận xét rất xác thực, về đời sống người dân trong thời kỳ đó. Ông phân tích rơ ràng từ hệ thống hành chánh phường khóm, từ tinh thần làm việc bê trễ đến hệ thống giấy tờ phiền nhiễu phức tạp, cũng như nạn nhũng lạm, ức hiếp dân chúng. Ông kể chuyện những ngày đổi tiền, biết bao nhiêu người trở thành tay trắng v́ thủ đoạn ăn cướp tài sản người dân một cách công khai. Rồi ông nhận xét về kinh tế, về công nghiệp, nông nghiệp, … mặt nào cũng đều thất bại thê thảm. Những công ty quốc doanh không tạo được sản phẩm, lại lối quản trị, làm việc lề mề, nên trở thành gánh nặng cho quốc gia. Những nông trường khai hoang, hoặc vùng kinh tế mới, làm theo chỉ thị và lấy có nên không có kết quả, và có thể là nơi lưu đày của những người sống ở thành phố. Về phân phối hàng hóa, th́ ngăn sông chắn chợ, gây phiền hà cho dân. Rồi chiến dịch đánh tư sản, kiểm kê tài sản, những cuộc vơ vét, tịch thu của cải. Tóm lại, là cả một xă hội xuống cấp trầm trọng, tự do hạn chế, dân chúng nghèo khổ,..

    Đọc Hồi kư Tập 3 của Nguyễn Hiến Lê, tôi có cảm giác như đang đọc một bản cáo trạng buộc tội chế độ Cộng sản một cách rất nặng nề. Trong hơn 200 trang giấy, ông viết thật chân thành, nêu lên những sự thực và gửi theo những nỗi niềm đau ḷng của một người đă thức tỉnh dù hơi muộn màng. Dù được kể vào hàng nhà văn tiến bộ, và được chế độ mới dành cho nhiều ưu đăi cũng như mời mọc để tham dự các buổi lễ cũng như các sinh hoạt văn hóa nhưng ông tránh né và luôn luôn làm người đứng ngoài.

    Đọc những đoạn văn, viết thẳng thắn, không sợ sệt, không né tránh sự thực, tôi mới thấy cái tư cách kẻ sĩ ṿi vọi của ông. Có những người, hồi trước thiên Cộng, nay muốn thay đổi suy tư mà vẫn chưa dám mạnh dạn, vẫn c̣n nói quanh nói co, không dám chấp nhận cái sai sót của ḿnh. C̣n với ông Nguyễn Hiến Lê, nghĩ ǵ viết nấy, không có áp lực nào làm ông thay đổi được thái độ.

    Hăy đọc đoạn ông viết về phong trào vượt biên :

    “Từ năm 1977, người ta dùng đường biển, phong trào vượt biên phát triển rất mạnh tới mức một bà già nông dân miền Tây phải nói ”Cây cột đèn nếu đi được th́ cũng đi” Dù phải gian lao khổ cực tới mức nào hễ ra khỏi được nước là sướng rồi, làm mồi cho cá mập vẫn c̣n hơn ở lại trong nước mà chết lần chết ṃn, người ta nghĩ vậy..” (trang 109)

    Hay : ”Người ta nhận định sai về t́nh trạng miền Nam.Trước ngày 30 - 4 -1975, miền Nma rất chia rẽ, nhiều giáo phái đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kỹ thuật, nghệ thuật, văn hóa nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc.., cả về đạo đức nữa, v́ đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham ( tôi nói số đông) ít chịu làm cái công việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm chứ đừng nói tới người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đă kể ở trên. Tôi c̣n nhận thấy v́ người Nam bị coi là ngụy hết nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau : cùng là ngụy với nhau mà!..” (trang 115)

    Hoặc : ”làm cho người dân tưởng rằng chỉ phải đi cải tạo nửa tháng mà rốt cuộc là phải đi 5-6 năm, có thể là 10 năm, bảo là cho họ đi học tập, cải tạo tinh thần mà sự thật để hành hạ, để trả thù, như vậy làm sao dân tin được chính quyền. Lệnh trung ương ban hành, địa phương không theo, làm ngược hẳn lại, lương hưu trí không phát, tiền tiết kiệm gửi ngân hàng không cho rút ra mà không thẳng thắn cho họ biết lư do, cứ làm thinh để dân chờ hết ngày này qua năm khác, chờ chán th́ tuyệt vọng thôi không đ̣i hỏi nữa; cho người ta vượt biên bán chính thức, thu của mỗi người bao nhiêu lượng vàng rồi bỗng nhiên ngưng lại hết mà không trả đủ vàng lại cho người ta; thâu thuế của người ta và cho phép bán ở chợ trời rồi đột nhiên bao vây cả một khu, tịch thu hết hàng hóa; khi chưa nắm chính quyền th́ hứa sẽ bỏ hết các thuế chợ, chia đất cho dân cày,, nắm chính quyền được ít lâu th́ thuế chợ c̣n nặng hơn trước, mới chia đất cho dân th́ đă bắt đầu vào hợp tác xă nông nghiệp, bỏ quyền làm chủ miếng đất của họ mà làm chủ tập thể ; tuyên bố với quốc dân và thế giới rằng miền Nam theo chế độ dân chủ, trung lập, rồi một năm sau đă thống nhất quốc gia, hủy bỏ chế độ đó, bắt miền Nam theo chế độ xă hội chủ nghĩa như miền Bắc; báo chí, các đài phát thanh chỉ thông tin một chiều, không cho dân biết sự thực, đến nỗi chính các cán bộ ở bưng về cũng phàn nàn rằng báo chí nói láo hết, như vậy làm sao dân tin chính quyền được..” (trang 119-120)

    Và rất nhiều những đoạn tương tự như thế trong tập hồi kư. Viết hồi kư có phải là ghi lại trung thực những sự kiện. Tôi nghĩ như thế. Và xa xôi hơn, trong hoàn cảnh lúc đó, trong sự theo dơi nghặt nghèo như vậy, ông Nguyễn Hiến Lê đă viết được những trang sách để đời. Những người lớp sau, đọc những trang sách ấy, không c̣n bị che dấu bởi những lối viết mập mờ của những người viết không dám nói lên sự thực. Ngay như một người đi theo Cộng sản đến cuối đời như Thiếu Sơn Lê Sĩ Quí mà c̣n nói : “Thời trước ḿnh viết, ngụy nó bỏ tù ḿnh cũng không sao, bây giờ mà viết để cho cách mạng bắt giam ḿnh th́ kỳ quá mà lại kẹt cho họ nữa”

    Tôi là một người đọc rất nhiều sách của tác gỉa Nguyễn Hiến Lê, hầu như trên lănh vực nào tôi cũng học hỏi được rất nhiều. Với tôi, ông là một ông thầy lớn, một học giả uyên bác, một người khảo cứu sâu sắc và cẩn trọng. Nhưng, c̣n một điều quan trọng hơn nữa là tôi kính phục cái tư cách kẻ sĩ của ông. Qua bộ hồi kư, ông tỏ lộ được cá tính của ḿnh, của một người trí thức không bẻ cong sự thực. Và, ông đă can đảm nói lên cái nhầm lẫn của ḿnh khi chưa sống với Cộng Sản. Ông là một trí thức đúng nghĩa trí thức …

    Tu Cam Tran

  5. #15
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tác giả / Tác phẩm

    Tác giả / Tác phẩm
    Nhạc sĩ Trần Trịnh qua đời




    Irvine, California: Theo các nguồn tin báo chí ở Cali, nhạc sĩ Trần Trịnh vừa mới qua đời hôm thứ tư ngày 10 tháng 10 năm 2012 tại bệnh viện UCI ở California, hưởng thọ 76 tuổi.

    Nhạc sĩ Trần Trịnh tên thật là Trần Văn Lượng, sinh năm 1937 tại Hà Nội.Ông học nhạc với thầy Remy Trịnh Văn Phước, nên mới lấy bút hiệu là Trần Trịnh.

    Tác phẩm đầu tay của ông là Cung Đàn Muôn Điệu, được cho ra đời vào năm 1945. Nhạc phẩm sau cùng mà ông sáng tác là bàn Tiếng Hát Nửa Vời vào năm 1975.



    Ông là tác giả bài hát nổi tiếng Lệ Đá, phổ từ thơ của Hà Huyền Chi.





    Ông cũng hợp tác viết chung nhạc với nhạc sĩ Nhật Ngân và lấy tên chung là Trịnh Lâm Ngân, trong thời gian cộng tác với hăng dĩa Sóng Nhạc ở Saigon. Chữ Lâm là tên của Lâm Đệ, con trai của chủ hăng dĩa Sóng Nhạc. Những tác phẩm nổi tiếng của hai nhạc sĩ Trinh Lâm Ngân là Xuân này con không về, Thu Xuân trên rừng cao, Mùa Xuân của Mẹ..v.v.

  6. #16
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tác giả / Tác phẩm
    Hồ Biểu Chánh và tiểu thuyết tiêu biểu “Con nhà nghèo”


    - Đoàn Dự ghi chép



    Thưa quư bạn, Hồ Biểu Chánh (1884-1958) là nhà văn lớn của miền Nam nói riêng và của cả nước Việt Nam nói chung. Với 64 cuốn truyện dài, 12 tập truyện ngắn, 2 tập truyện dịch, 12 tác phẩm hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện bằng thơ, 28 tập khảo cứu, phê b́nh và nhiều bài diễn thuyết khác, tổng cộng 123 tác phẩm, nếu chỉ tính riêng về số lượng, có lẽ các nhà văn Việt Nam từ xưa đến nay ít ai làm được chuyện đó.

    Trong lời nói đầutập truyện ngắn Gió Đầu Mùa của ḿnh, nhà văn Thạch Lam nói rằng đối với bất cứ thứ nghệ thuật nào, điều quan trọng là phải hấp dẫn trước đă, sau đó là tính xây dựng. Một vở kịch dù triết lư cao siêu đến đâu nhưng nếu không hấp dẫn, không có người xem th́ không truyền thụ cái cao siêu đó cho ai được. Như vậy, theo nhà văn Thạch Lam, ông đề cao tính hấp dẫn và tính xây dựng. C̣n nhà văn B́nh Nguyên Lộc (1914-1987), nhà văn tiêu biểu của miền Nam Việt Nam trước năm 1975, th́ nói rằng một nhà văn chuyên nghiệp th́ phải đặt nặng cả vấn đề bề rộng lẫn bề sâu. Ông giải thích bề rộng nghĩa là viết nhiều, có viết nhiều th́ mới sống được, c̣n bề sâu là viết hay, viết hấp dẫn, có ư nghĩa tốt; nếu viết hay, viết hấp dẫn nhưng ư nghĩa không tốt th́... xổ toẹt! – Nói cho cùng, cái bề rộng của nhà văn B́nh Nguyên Lộc chính là số lượng, c̣n bề sâu lại chính là tính hấp dẫn và tính xây dựng, trùng hợp với ư kiến của nhà văn Thạch Lam.

    Như trên chúng ta đă nói, về “bề rộng”,nhà văn Hồ Biểu Chánh viết tới 64 cuốn tiểu thuyết, từ xưa tới nay chưa ai qua mặt được ông. Thế c̣n tính hấp dẫn và tính xây dựng? Xin thưa, hết sức hấp dẫn, hết sức xây dựng. Nếu đă đọc quen tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, chúng ta bị cuốn hút theo các nhân vật, người này có hoàn cảnh này, người kia có hoàn cảnh kia, người đáng thương, kẻ đáng ghét, chẳng ai giống ai. Họ sống cách chúng ta hàng trăm năm (tác phẩm “Ai làm được” của Hồ Biểu Chánh, do NXB Cà Mau in lần đầu tiên năm 1912, cách đây đúng 100 năm), từ cách sống, cách ăn mặc cho tới ngôn ngữ của họ có nhiều điểm khác với chúng ta, vậy mà chúng ta vẫn thông cảm với họ, vui theo niềm vui của họ, buồn theo nỗi buồn của họ, thấy như họ đang sống trước mắt ḿnh, đó chẳng phải là sức hấp dẫn trong các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh hay sao? Trước năm 1975, người ta xuất bản truyện của Hồ Biểu Chánh, đọc truyện của Hồ Biểu Chánh, làm phim theo truyện của Hồ Biểu Chánh. Sau 1975, không kể những năm túng đói phải ăn bo bo, khoai lang, khoai ḿ, bây giờ

    người ta lại tái bản truyện của Hồ Biểu Chánh, đọc truyện của Hồ Biểu Chánh, và các hăng phim tư nhân lại thi nhau làm phim theo tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh như: Chúa tàu Kim Quy, Con nhà giàu, Con nhà nghèo, Ḷng dạ đàn bà v.v... Cứ làm phim theo tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là bảo đảm doanh thu chắc chắn, được khán giả ủng hộ, chẳng phải lo lắng ǵ cả. C̣n về tính xây dựng th́ khỏi phải nói, hầu như tất cả các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đều có tính đạo lư rất cao, yêu thương dân nghèo, kết thúc có hậu.

    Nhiều người nói văn của Hồ Biểu Chánh cổ điển, có những từ ngữ và những câu văn khó hiểu, khó đọc: ổng, bả, thẩy, ảnh, chỉ... hoặc: “Chiều xuống, mặt trời sắp lặn, mấy đứa mục đồng ngồi trên ḿnh trâu thổi tiếng sáo ̣ e, bầy trâu lội nước ní na ní nần...” (Cha con nghĩa nặng). “Ổng, bả, thẩy...” là ông ấy, bà ấy, thầy ấy v.v... th́ dễ rồi nhưng “bầy trâu lội nước ní na ní nần...” là ǵ, rất khó hiểu. Thật ra, ở thời đại của Hồ Biểu Chánh, dân chúng miền quê nói như thế th́ ông viết như thế. Các tác phẩm của ông hầu hết đều lấy bối cảnh của đồng quê miền Nam trong thời Pháp thuộc, nếu ông cũng viết trau chuốt, văn chương cao cấp như Tự Lực Văn Đoàn cùng thời kỳ đó ở ngoài Bắc th́ Hồ Biểu Chánh không c̣n là Hồ Biểu Chánh, cây bút số một miền Nam nữa.

    Sau đây chúng ta xem qua tiểu sử của Hồ Biểu Chánh, sau đó t́m hiểu nội dung cuốn “Con nhà nghèo”– một cuốn tiểu thuyết thuộc loại “b́nh thường”, không nổi tiếng lắm của ông nhưng cũng rất hay, mới được làm thành phim và được nhiều người thích. Cuối cùng, từ tiểu thuyết “Con nhà nghèo”, chúng ta liên hệ tới một câu chuyện thuộc về hôm nay. Có ǵ bất hợp lư trong t́nh cảm của những người trẻ tuổi yêu nhau trong thời đại @ này? Có ǵ đáng trách giữa những người đó? Xin mời quư bạn xem qua cho biết...

    1. Tiểu sử

    Hồ Biểu Chánh, tên thật là Hồ Văn Trung, tên tự là Biểu Chánh, biệt hiệu Thứ Tiên; là nhà văn tiên phong của miền Nam Việt Nam ở đầu Thế kỷ 20. Ông sinh năm 1884 tại làng B́nh Thành, tỉnh G̣ Công (nay thuộc huyện G̣ Công Đông, tỉnh Tiền Giang– tức Mỹ Tho cũ).

    Ông xuất thân trong một gia đ́nh nông dân nghèo, thuở nhỏ học chữ Nho, sau chuyển qua học Quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài G̣n.

    Chúng ta hăy xem một đoạn trong tập hồi ức của ông viết năm 1957 tại Phú Nhuận, trước khi ông mất một năm (bản đánh máy, con cháu giữ):

    “Từ 8 đến 12 tuổi, ta học nhấp nhem chữ Nho với thầy giáo dạy trong làng. Đến 13 tuổi, nhờ cha mẹ dời về ở chợ Giồng Ông Huê, ta mới bắt đầu học Quốc ngữ và chữ Pháp tại trường tổng Vĩnh Lợi, rồi xuống trường tỉnh G̣ Công học tiếp 3 năm, thi đậu học bổng. Được vào trường Trung học Mỹ Tho học 2 năm (1902 và 1903) rồi được lên trường Trung học Chasseloup-Laubat ở Sài G̣n học thêm 2 năm nữa. Cuối năm 1905 thi đậu bằng Thành Chung” .

    Và một đoạn khác, cho thấy gia đ́nh ông rất nghèo:

    “C̣n hai bữa nữa tới ngày ta phải đi học, mẹ ta than hết tiền, cha ta mới kiếm người đặng mượn tiền cho ta đi. Ta lo quá, sợ không đi được. Bữa chót, đến tối mà cũng không thấy cha ta về. Ta than nếu có một đồng bạc th́ đủ cho ta đi. Mẹ ta khuyên ta đừng lo... Thiệt khuya, mẹ ta gói một cặp áo hàng, đi bộ với ta xuống chợ mà cầm. Chủ tiệm chịu cầm ba đồng. Mẹ ta xếp giấy gói bỏ vô túi, c̣n bạc th́ đưa hết cho ta. Ta lấy hai đồng mà thôi. Mẹ ta không chịu, ép phải lấy hết, rồi đưa ta xuống tàu. Lúc tàu mở dây mà chạy, ta đứng ngó mẹ ta trên cầu tàu, ta chảy nước mắt...”.

    Năm 1905, sau khi đậu bằng Thành Chung, ông thi vào ngạch Kư lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm Kư lục, Thông ngôn, rồi thăng dần đến Đốc Phủ sứ (tức Phó tỉnh trưởng), đă từng giữ chức Chủ quận (tức Quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn nổi tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ.

    Tháng 08 năm 1941, sau khi về hưu, ông được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lư Thành phố Sài G̣n, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt.

    Sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ năm 1946, lập “Nam Kỳ Quốc tự trị” do Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh đứng đầu, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được vài tháng, Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh biết là ḿnh bị Pháp lừa, chính phủ không có quân đội, không có lương bổng, không có văn pḥng (ông phải lấy pḥng mạch của ḿnh làm nơi họp Hội đồng Nội các), bèn tự tử bằng cách thắt cổ. Chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, Hồ Biểu Chánh lui về nhà ở Phú Nhuận sống ẩn dật (từ năm 1946) và dành trọn những năm tháng c̣n lại cho sự nghiệp văn chương. Ông có 8 người con đều rất thành đạt, đa số sống ở Pháp.

    Ông mất ngày 04 tháng 09 năm 1958 tại Phú Nhuận, Sài G̣n, thọ 74 tuổi.

    Lăng mộ ông hiện nay được con cháu xây cất tại khu lưu niệm đặt tên là An Tất Viên, rộng hơn 3,500 mét vuông, ở đường Thống Nhất, phường 11 quận G̣ Vấp.

    2. Nội dung tiểu thuyết “Con nhà nghèo”

    Cai tuần Bưởi nhà nghèo, làm tá điền cho bà Cai Hiếu – vợ ông Cai tổng Hiếu đă mất từ lâu – rất giàu có nhưng cũng rất đanh nọc, thuộc khu vực Đập Ông Canh tỉnh G̣ Công. Bưởi có vợ tên là Thị Tố với 5 đứa con c̣n nhỏ lít nhít và hai người em ruột, em trai tên Cam, em gái tên Lựu. Cam đi ở đợ, đánh xe ngựa cho ông Hai Thu. Một hôm, ngựa sanh chứng, lồng lên, xe đổ, bánh xe găy. Cam bị ông Hai Thu mắng chửi, hắn tự ái bèn bỏ quê hương ra đi biệt tích. Về phần Lựu, con gái 18 tuổi, xinh xắn, tánh nết hiền lành, ngoan ngoăn, bị cậu Hai Nghĩa con trai bà Cai Hiếu dụ dỗ, gần như ép buộc phải ăn nằm với y. Có lần, Thị Tố trông thấy, Hai Nghĩa hứa rằng nếu Lựu mang bầu, Nghĩa sẽ cho tiền và khi sanh con, y sẽ trông nom bảo bọc đứa con đó, lớn lên sẽ cho đi học. Thị Tố tin lời nên giữ kín, không cho chồng biết.

    Lựu có bầu, thú thật với anh chị. Thị Tố giục chồng lên nhà bà Cai Hiếu báo cho Hai Nghĩa biết ?a(.ng coi “cậu Hai” xử trí ra sao. Khó khăn lắm Bưởi mới gặp được Hai Nghĩa và bị “cậu Hai” mắng cho một trận: “Mầy không biết dạy em, nó có bầu với thằng nào rồi đổ thừa cho tao phải không?”. Sợ vợ đi lễ chùa về biết chuyện, “cậu Hai” bèn sai đầy tớ lôi Bưởi ra ngoài và thả chó cho cắn. Bưởi có cây dù trắng, dùng dù chống đỡ, bị chó cắn rách.

    Về nhà, vợ hỏi, Bưởi kể lại mọi chuyện, Thị Tố tức lắm, định làm to chuyện nhưng Bưởi bảo thôi, cậu Hai đă trở mặt như vậy, phận ḿnh là tá điền, như trứng chọi với đá, lỡ cậu Hai giận, lấy lại ruộng và bắt dỡ nhà không cho ở trên đất của bà Cai nữa th́ chết đói, em ḿnh dại mà lại bị cậu Hai ép buộc th́ đành chịu vậy chớ biết sao bây giờ. Lựu khóc, nói muốn chết chớ không muốn sống làm cho anh chị bi. nhục nhă. Thị Tố la: “Việc ǵ mà chết! Cái đứa khốn nạn cậy nó là con chủ điền, nội cái làng nầy con cái tá điền cứ thấy đứa nào vừa mắt là nó dụ dỗ, ép buộc phải ăn nằm với nó th́ nó mới nhục chớ ḿnh việc ǵ mà nhục. Sanh con th́ nuôi, mầy không nuôi để đó tao nuôi!...”. Hai Bưởi nói: “Tao cũng ngu, biết vậy năm trước tao gả đại mầy cho thằng Cu th́ bây giờ đâu có chuyện ǵ xảy ra!...”.

    Vơ Văn Cu là cậu thanh niên mồ côi ở xóm trên, nhà nghèo, ở đợ cho ông Hương cả Trí. Cậu khỏe mạnh, làm việc siêng năng nên ông Cả Trí rất quư mến. Khi cha mất, rồi đến mẹ mất, cậu đều mượn trước của ông Cả Trí mỗi lần hai chục đồng bạc để lo việc ma chay, chôn cất, sau đó làm để trừ dần. Bây giờ đă trả hết nợ, cậu định chờ thêm một năm nữa, dành dụm được tiền th́ sẽ cưới Lựu. Không ngờ...

    Dù chồng đă khuyên can nhưng Thị Tố vẫn c̣n tức. Nhân Hai Bưởi mắc đi gặt lúa ngoài đồng, thị kêu Lựu trông các con cho ḿnh rồi lén lên gặp cậu Hai Nghĩa, định mần cho cậu một trận đặng hả nư giận v́ chính cậu đă hứa với thị là sẽ giúp đỡ, bảo bọc cho Lựu. Cậu Hai la mắng, sai người làm bịt miệng thị, lôi thị ra ngoài, đóng cổng lại, c̣n cậu th́ lên pḥng nằm.

    Thị Tố ra ngồi bên lề đường. Thị vẫn c̣n tức nên không về được. Bất ngờ trông thấy chiếc xe ngựa của bà Cai Hiếu và mợ Hai Nghĩa đi đâu về, tự nhiên thị nghĩ ra một cách rất độc là ra đứng giữa đường, chận xe ngựa lại, chắp tay xá mỗi người mấy xá. Mợ Hai không biết nên hỏi Thị Tố là ai và có chuyện ǵ. Thị Tố thưa ḿnh là vợ Hai Bưởi, tá điền trên đất bà Cai và kể rơ chuyện cậu Hai ăn nằm với Lựu, có bầu, chỉ mấy tháng nữa là sanh. Tức th́ mợ Hai nổi giận tam bành, mợ kêu: “Mầy vô đây, vô đây!”. Mợ kéo Thị Tố vào trong nhà, hét người làm gọi chồng xuống, tát chồng bốp bốp, chửi chồng một trận khủng khiếp rồi khóc lu loa: “Thằng khốn nạn, thứ đồ ngủ với tá điền tá thổ mà không biết nhục!...”. Rồi mợ khóc với bà Cai: “Đó, má muốn làm sao th́ làm! Tui về nhà tui, hổng thèm ở với thằng khốn nạn đó nữa!...”. Mợ là con gái quan huyện ở bên Chợ Gạo, Mỹ Tho, nhà giàu hơn cả nhà bà Cai nữa, nên dù mợ rất xấu, tướng như đàn ông nhưng bà Cai rất cưng chiều. Bà đấu dịu: “Hổng phải vậy đâu, tại bọn khốn kiếp nầy nghèo, nó âm mưu với nhau bày đặt chuyện đặng làm tiền ḿnh. Để đó, má xử cho tụi nó biết tay!...”.

    Bà kêu người làm đi kêu Hương quản tới, bắt Hương quản trói Thị Tố, đem ra nhà làng đóng trăng (tức cùm chân), để nhịn đói và bắt cả Hai Bưởi nữa. “Thưa bà, thằng Bưởi nó mắc đi gặt, nó không biết chuyện nầy”. “Chú muốn mất chức không? Chú phải đóng trăng, làm tờ tŕnh, rồi gông cổ cả vợ chồng nó với con Lựu, giải tụi nó lên huyện đặng quan bỏ tù tụi nó. Tui liệng ra vài trăm bạc là cả nhà tụi nó chết hết”.

    Hương quản giải Thị Tố về nhà làng, đóng trăng nhưng lúc tra hỏi lại đóng chặt cửa đặng không ai nghe thấy rồi bảo Thị Tố khai rơ mọi chuyện. Thị Tố khai xong, Hương quản nói: “Chuyện con Lựu có bầu với ai đó th́ cả làng nầy đều biết rồi. Nhưng thím dại lắm, trứng chọi với đá th́ chọi sao nổi? Bây giờ chỉ c̣n cách là lúc nào Hai Bưởi tới thăm, thím biểu chú ấy kiếm cái lễ tới lạy bà Cai, xin lỗi bả rồi tối tui tới nhà bả, liệu lời nói với bả giùm”.

    Lúc Hương quản trói Thị Tố đem về nhà làng th́ Cu vô t́nh trông thấy. Ngay lập tức, Cu chạy ra đồng báo cho Hai Bưởi biết. Hai Bưởi hết hồn, lật đật chạy về, ra nhà làng hỏi thăm tin tức th́ được Hương quản cho vô thăm vợ. Thị Tố thuật lại lời Hương quản mách nước. Bưởi bèn đem lễ tới nhà bà Cai, lạy bà để xin lỗi nhưng bà sai đầy tớ lôi ra ngoài: “Tao c̣n bỏ tù cho tụi bây chết chớ không phải chỉ có vậy đâu...”. Buổi tối, Hương quản tới, bà hỏi Hương quản đă làm tờ tŕnh để giải Thị Tố lên quan chưa, Hương quản nói chưa rồi lựa lời khuyên bà Cai là chuyện đă lỡ, Thị Tố tuy có lỗi nhưng nếu bỏ tù nó, vừa tốn tiền cho quan lại vừa mang tiếng tùm lum, lỡ bên thông gia trên Chợ Gạo biết, bất lợi. Bà Cai xiêu ḷng: “Thôi ?ược, chú liệu đóng trăng nó dăm bữa nửa tháng rồi tha cũng được. Nhưng tui sẽ đuổi vợ chồng nó, không cho làm tá điền cho tui nữa”.

    Thị Tố bị đóng trăng, giam tại nhà làng bảy ngày rồi được tha về.

    Mùa màng gặt hái đă xong, năm ấy được mùa, Bưởi thu hoạch được hơn 420 giạ lúa (mỗi giạ tức một thùng 40 lít -ĐD). Nạp cho bà Cai 300 giạ cũng c̣n được hơn 120 giạ. Bưởi giê thật sạch nhưng lúc đem nạp bà vẫn sai đầy tớ bắt giê lại và phải bù vào đó thêm 5 giạ nữa. Lựu sanh con trai, thằng nhỏ nặng tới 3.1 kư, trông rất xinh xắn. Thị Tố nói kêu nó tên “Hiếu” cha của Hai Nghĩa cho bơ ghét, nhưng Hai Bưởi không dám, kêu nó tên Hai. Lựu bị bịnh thũng, mặt mũi chân tay sưng phù. Thầy lang nói phải uống 10 thang thuốc và uống thêm 10 thang nữa, tốn tổng cộng hai chục đồng bạc, th́ mới khỏi bịnh. Lúc ấy đang mùa, chưa bán được lúa, nhà không có tiền, Cu đem tới 20 đồng, nói cho mượn đặng cô Lựu uống thuốc.

    Rồi dần dần sắp đến tết. Đúng khi đó, bà Cai không cho Bưởi làm tá điền nữa và ra lệnh nội mo^.t tuần lễ phải dỡ nhà đi ngay lập tức, nếu không bà sẽ cho người tới cào nhà. Bưởi quỳ xuống lạy nhưng năn nỉ thế nào bà vẫn khăng khăng một mực.

    Bưởi về, mặt mũi buồn so. Lựu khóc: “Chỉ v́ em mà anh Hai chị Hai phải khổ. Em muốn tự vận chết đi cho rồi...”. Thị Tố nói: “Không việc ǵ phải chết. Bả lấy lại ruộng th́ mướn chỗ khác, bộ cứ hổng có bả là đói hay sao?”.

  7. #17
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tác giả / Tác phẩm
    Hồ Biểu Chánh và tiểu thuyết tiêu biểu “Con nhà nghèo”
    P2



    Nhưng hỏi chỗ nào cũng không ai dám nhận lời, họ nói rằng bà Cai đă đe hễ ai dám cho Bưởi mướn ruộng th́ sẽ biết tay bà. Cuối cùng, không làm sao được, Thị Tố nói: “Bán nhà đi, lên B́nh Phú Tây dựng nhà khác trên đất của thằng Ba Rạng em trai tui, rồi nhờ nó mướn ruộng ở trển cho mà mần th́ con mẹ Cai không làm ǵ được”. Hai Bưởi nghe vợ nói có lư nên bèn lên B́nh Phú Tây thăm ḍ ư kiến Ba Rạng. Nghe anh rể kể lại mọi chuyện, Ba Rạng tức lắm, hậm hực: “Được, anh chị cứ dọn lên trên nầy, đất đấy, muốn dựng nhà chỗ nào th́ dựng rồi tui mướn ruộng cho mà mần. Cái thể tui không gây được cho mẹ con thằng chả biết mặt chớ nếu không th́ tui cũng gây”.

    Không ai dám mua nhà của Hai Bưởi v́ sợ bà Cai. Thị Tố nói: “Hổng bán được th́ đốt, lên trển mua cây, mua lá làm nhà khác”. Nhưng Hai Bưởi tiếc, bán bớt lúa rồi dỡ nhà, thuê xe ḅ chuẩn bị ra đi. Hôm Hai Bưởi dỡ nhà, Cu đến làm phụ và nói: “Tui xin phép ông Cả cho nghỉ thêm một bữa nữa đặng theo anh chị lên trển cho biết nhà, khi nào rảnh thỉnh thoảng tới thăm anh chị với cô Lựu”. Bưởi mới bán lúa, có tiền nên trả lại Cu hai chục đồng đă mượn cho Lựu uống thuốc nhưng Cu nhất định không nhận: “Được mà anh Hai, anh em cần t́nh nghĩa chớ tiền bạc th́ làm ǵ. Bây giờ anh đang phải lo nhiều chuyện, khi nào có dư anh đưa cũng được”. “Qua mới bán lúa có tiền, sợ lúc khác không có mà trả cho em”. “Không có th́ thôi, không sao”.

    Nhà làm xong, đă ở tạm yên nhưng chưa mướn được ruộng. Ba Rạng định nhín bớt phần đất của ḿnh cho anh rể làm, Hai Bưởi không chịu: “Đất của dượng đâu có bao nhiêu mà nhín”. Bưởi vô tuốt trong chợ Giồng Ông Huê kiếm chỗ mướn chèo ghe lúa. Ông Ba Thơ là người chuyên nghề mua lúa, xay ra gạo rồi chở lên Chợ Lớn bán. Nhà ông có hai chiếc ghe bầu chở lúa gạo.V́ Hai Bưởi đă từng đi ghe cho lái ở Ụ Giữa, bởi vậy tài công của Ba Thơ biết mặt, nên khi anh ta vô xin đi ghe th́ người ta mướn liền.

    Bưởi đi ghe lănh tiền từng chuyến, chớ không phải lănh tháng. Mỗi chuyến chừng bốn bữa, lănh được một đồng hai. Chuyến nào cũng vậy, hễ ghe về, tới ông Ba Thơ lănh tiền rồi về B́nh Phú Tây thăm nhà và đưa tiền cho vợ.

    Một hôm, ghe đậu ở Xóm Củi gần cầu Chà Và. Bốc vác gạo lên giao cho các đại lư xong, Bưởi với mấy người bạn đi lang thang coi Chợ Lớn th́ thấy có một chiếc ô tô đậu bên lề đường. Người tài xế đứng dựa vô xe hút thuốc lá té ra lại là Ba Cam. Anh em nhận ra nhau, Ba Cam mừng rỡ hỏi chuyện gia đ́nh rồi kể cho anh nghe là sau khi ḿnh bỏ nhà ra đi, bèn lên Sài G̣n, may mắn gặp được ông trạng sư Tô Lê, ổng mướn làm người hầu cận, giữ ngựa cho ổng. Khi ông trạng sư sắp mua ô tô, ông rất quư Ba Cam nên cho Ba Cam đi học lái xe rồi làm tài xế cho ổng. “Chị Hai với con Lựu hồi nầy ra sao, có được khỏe không?”. “Chị Hai vẫn vậy c̣n con Lựu th́ có con rồi”. Ba Cam mừng rỡ: “Nó có con rồi hả? Anh gả nó cho đứa nào vậy?”. Có mấy người bạn đứng đấy nên Bưởi không tiện nói nhiều mà chỉ vắn tắt: “Chuyện dài lắm, khi nào mầy về chơi tao sẽ kể tiếp. Bây giờ tụi tao không ở Đập Ông Canh nữa mà dọn lên B́nh Phú Tây, chỗ nhà thằng Ba Rạng, em ruột của chỉ. Hồi trước mầy đă biết nhà Ba Rạng rồi, khi nào mầy về cứ đến đó mà kiếm”. Ba Cam định hỏi thêm nữa nhưng thấy ông Tô Lê sắp ra nên bèn móc bóp đưa cho Bưởi hai đồng: “Anh đem về mua quà cho mấy đứa nhỏ. Ít bữa nữa thế nào tui cũng về chơi rồi sẽ giúp anh chị với vợ chồng con Lựu sau”.

    Hơn một tháng sau, Ba Cam về chơi. Ông trạng sư mắc ra nhà bạn ngoài Cấp Xanh Giắc (Vũng Tàu) nghỉ mát một tuần lễ nên cho phép Cam về thăm gia đ́nh. Cam cho quà tụi nhỏ rồi hỏi: “C̣n con con Lựu đâu, bồng ra đây coi”. Lựu rất sợ bị anh rầy cái tội ḿnh chửa hoang nên cứ len lét trong buồng, bấy giờ bắt buộc phải ẵm con ra. Ba Cam bế cháu và cười: “Thằng nhỏ coi được quá chớ! C̣n cha nó đâu sao không thấy?”. Thị Tố và Bưởi thay nhau kể lại chuyện Lựu bị Hai Nghĩa con bà Cai Hiếu ép buộc, có con, rồi bà Cai Hiếu đuổi không cho ḿnh làm tá điền nữa, phải dọn nhà về trên nầy, Lựu bị bịnh, Cu cho mượn hai chục đồng uống thuốc v.v... Ba Cam trầm nét mặt, lâu lâu lại khẽ lắc đầu: “Thiệt, quân khốn kiếp! Tui phải cho thằng Hai Nghĩa một trận mới được, đặng từ giờ nó không c̣n dám làm hại con gái nhà người ta nữa”.

    Buổi tối hôm ấy Ba Cam nằm trên vơng ngoài hiên hút thuốc lá, coi bộ suy nghĩ lung lắm rồi đưa cho Hai Bưởi bốn chục đồng: “Đây, 40 mươi đồng bạc đây. Anh cầm lấy 20 mươi đồng trả tiền con Lựu uống thuốc, c̣n lại 20 đồng th́ tôi cho con Lựu 10 đồng, sắp nhỏ của anh 10 đồng đặng sắm quần áo cho tụi nó bận”. Đoạn anh ta day qua nói với em gái: “Lựu à, anh Hai dở lắm, ảnh không dám binh vực em. Tuy vậy mà em đừng lo. Từ nay trở đi có qua. Qua thề có ngọn đèn làm chứng, qua sẽ bảo vệ em đến cùng. Qua quyết t́m cách rửa nhục cho em, rồi khi về trển, qua liệu thế đem em lên Sài G̣n ở với qua”.

    Hôm sau, Ba Cam trở xuống Đập Ông Canh t́m kiếm Hai Nghĩa. Người ta nói mới thấy Hai Nghĩa cỡi con ngựa kim, đi chơi đâu đó vô trong chợ Giồng.

    Từ Đập Ông Canh vô chợ Giồng chỉ có một con đường đất duy nhất khá rộng băng ngang qua cánh đồng. Ba Cam chờ ở đấy, đợi Hai Nghĩa ra. Khi thấy con ngựa kim đi tới, Ba Cam đứng giữa đường chắn lối, nắm lấy dây cương rồi cúi đầu thật thấp: “Chào cậu Hai. Xin mời cậu Hai đứng xuống tui nói chút chuyện”. Hai Nghĩa không nhận ra Ba Cam nên nh́n trân trân: “Chú là ai?”. “Tui là Ba Cam, em Cai tuần Bưởi, anh ruột con Lựu, cậu Hai quên tui rồi sao?”. Mặt Hai Nghĩa tự nhên biến sắc: “Tui nhớ ra rồi, nhưng chú muốn ǵ?”. “Cậu leo xuống đă rồi tui sẽ nói”. Ba Cam lôi Hai Nghĩa xuống. “Cái tội của cậu là cậu lấy em gái tui có chửa rồi cậu bỏ. Đă vậy bà Cai má cậu c̣n đuổi gia đ́nh anh Hai tui giữa lúc năm hết tết đến. Cậu đă thấy cậu có lỗi chưa?”.

    “Nó lấy thiên hạ có con rồi bây giờ chú biểu tôi mắc lỗi, lỗi đâu mà kỳ vậy?”.

    Hai bên găng nhau. Ba Cam tức giận trợn mắt:

    “Hai Nghĩa! Năy giờ tao lấy lời phải nói cho mầy nghe, mầy đă không biết ăn năn lại c̣n kiếm chuyện mà nói nhục thêm cho em tao nữa. Nó lấy thiên hạ là ai đâu, mầy kể cho tao nghe thử coi! Mầy thiệt là đứa khốn nạn, tao phải trị cho mầy một trận đặng mầy chừa cái thói phá hoại danh giá của con nhà nghèo...”.

    Ba Cam vừa nói dứt lời, liền rút con dao trong lưng ra hất rớt cái nón nỉ của Hai Nghĩa rồi chém trên mặt cậu hai dao, đá thêm một đá, cậu té nhào xuống ruộng, ôm mặt kêu la chói lói...

    Mấy người nhổ mạ với người xới đất năy giờ không để ư, chừng nghe la làng mới áp nhau lại, người th́ ôm Ba Cam, giữ dao, người th́ đỡ cậu Hai Nghĩa mà đem lên lộ. Ba Cam thấy người ta sợ ḿnh chém Hai Nghĩa nữa th́ cười và nói: “Tui có thèm giết thằng nầy đâu. Tui chỉ muốn rạch lên mặt nó vài cái thẹo thiệt lớn cho thiên hạ hễ ngó thấy th́ nhớ nó là đứa chuyên đi cưỡng ép con gái nhà người ta. Nếu tui muốn giết nó th́ nó chết rồi, mấy người tiếp cứu sao cho kịp”.

    Ba Cam bị bắt giải lên huyện. Cả Hai Bưởi cũng bị bắt v́ có máu mủ ruột thịt với Ba Cam. Sau đó, Hai Bưởi được thả c̣n Ba Cam th́ bị đưa lên Mỹ Tho đặng sẽ ra ṭa. Khi ông trạng sư Tô Lê từ Vũng Tàu về, biết chuyện, ông thân hành xuống Mỹ Tho làm giấy tờ nhận căi cho Ba Cam và bảo lănh cho Cam được tạm thời tại ngoại.

    Kết quả của vụ án là với sự can thiệp của trạng sư Tô Lê, ṭa Mỹ Tho chỉ tuyên phạt Ba Cam 25 quan tiền vạ và 1 tháng tù treo. Ba Cam được trở về nhà, vẫn làm tài xế cho ông Tô Lê như cũ.

    Mọi việc yên tĩnh. Một hôm, Thị Tố mắc mưa, đứng đụt ở cổng nhà Hương thân Chiểu. Ông Hương thân đă lớn tuổi, ra mời vô nhà uống nước rồi than phiền rằng vợ ông đă mất mấy tháng nay, con cái th́ c̣n lúc nhúc, nhờ Thị Tố làm mai cho ông lấy Lựu, nếu được ông sẽ xin chịu tiền cưới một trăm đồng bạc.

    Thị Tố về nhà kể cho chồng và Lựu nghe. Lựu nói: “Thân em đă ra thế nầy th́ c̣n lấy chồng ǵ nữa. Nếu lấy em chỉ lấy anh Cu thôi, ảnh thương em chớ Hương thân Chiểu lớn tuổi rồi, ổng bỏ ra một trăm đồng bạc là mua em về làm mọi cho đám con của ổng chớ cưới hỏi cái ǵ...”.

    Một buổi tối Cu tới thăm, Thị Tố đem lời nói của Lựu học lại với Cu. Cu mừng rỡ: “Nếu cô Lựu thương tui như vậy, xin anh chị gả cổ cho tui”. “Nhưng nó có con rồi mà?”. “Con của cổ là con của tui. Người ta bỏ tui nuôi. Thằng nhỏ đó không có cha, tui lănh làm cha của nó”.

    Chỉ có vậy thôi, hai người nên vợ nên chồng, rồi Cu cũng dọn về B́nh Phú Tây, cất một căn nhà nhỏ bên cạnh nhà Hai Bưởi, chung sống với Lựu.

    Hai Nghĩa có người em gái là cô Ba Nhân, người rất phúc hậu, vợ của Hương chủ Khanh, nhà cũng giàu nhưng không có con. Một hôm, cô Ba Nhân t́m tới th́ thấy Cu đang bế con, chơi giỡn với nó. “Xin lỗi, cô là cô Ba Nhân, con của bà Cai ở dưới Đập Ông Canh?”. “Đúng rồi, c̣n chú là ai, sao chú biết tui?”. “Tui là thằng Cu, chồng của Tư Lựu, hồi trước cũng ở dưới Đập Ông Canh”. “Ủa, Tư Lựu có chồng rồi sao? C̣n đứa nhỏ nầy, nó là...”. “Nó là con của tui”. “Không, con anh Hai tui, tui là cô ruột nó”. Trước th́ cô Ba đ̣i bắt đứa nhỏ, Cu không chịu, sau cô năn nỉ: “Tui nói thiệt, vợ chồng tui hổng có con, bề ǵ nó cũng là máu mủ của anh Hai tui, chú cho tui nuôi, tui sẽ biếu chú với cô Lựu hai hay ba trăm đồng bạc”. “Cô cho một ngàn tui cũng không ưng. Con tui, tui nuôi. Thôi, cô Ba về đi, đừng tới đây nữa”.

    Cô Ba về, nét mặt buồn hiu. Cô giữ kín, không cho ai biết ḿnh tới xin con của Lựu.

    Một hôm, vợ chồng Bưởi nhận được thơ của Ba Cam cho biết ông trạng sư Tô Lê mua 800 mẫu đất ở dưới Bạc Liêu, đang cần tá điền. Bạc Liêu đất rộng minh mông, ông lấy tô rất nhẹ, chỉ bằng một phần mười ở trên G̣ Công, lại cho tiền xe và có đất cho tá điền làm nhà nữa. Ba Cam khuyên mọi người nên tính toán, xuống Bạc Liêu làm ruộng th́ có cơ khá được chớ ở G̣ Công đất hẹp, khó cất đầu lên nổi. Nếu đi, Ba Cam sẽ nhận tiền ứng trước của ông trạng sư, gởi về cho mà đi, c̣n nếu không đi cũng cho biết tin.

    Ba Rạng đă có đất do cha mẹ để lại cũng tạm tạm nên không đi. Hai Bưởi th́ con đông, dụ dự không muốn đi. Riêng vợ chồng Cu, bàn tính với nhau là ở đây đất ḿnh cũng ở nhờ, ruộng chưa thuê được phải đi làm mướn tối ngày, thà xuống dưới đó đất rộng như thơ anh Ba nói th́ có cơ khá hơn. Họ quyết định đi.

    Vợ chồng Cu xuống làng Vĩnh Mỹ, cất cḥi ở yên nơi rồi th́ tới mùa gặt. Xứ Bạc Liêu ruộng nhiều mà nhân công th́ ít, bởi vậy người ta mướn công gặt rất cao. Cu đi gặt thuê, suốt mùa vốn liếng được tới bạc trăm, lại trong nhà có được vài chục giạ lúa. Qua năm sau, anh ta được lănh một trăm công ruộng của ông trạng sư (cứ 10 công là một mẫu tức một héc-ta). Năm ấy may gặp mưa gió điều ḥa, lúa trúng hơn các năm khác. Cu làm 100 công mà chừng đạp lúa rồi, số lúa đong được tới 1,200 giạ. V́ vợ chồng Cu không vay bạc chủ điền, lúa ruộng lại phải trả mỗi công (1,000 m2) có 1 giạ, nên trừ mọi chi phí như mướn trâu cày, công gieo mạ, xạ lúa, gặt xong cũng c̣n dư được tới hơn 800 giạ.

    Cu lấy làm toại chí nhưng không biết chữ nên lật đật mướn người viết thơ gởi cho anh vợ. Trong thơ Cu khoe ruộng đất Bạc Liêu tốt mà mướn lại rẻ, thiệt dễ mần ăn, thế nào anh Hai cũng phải đem vợ con xuống đặng làm ruộng cho ông thầy kiện.

    Bưởi hay tin Cu làm mới có một mùa mà dư tới hơn 800 giạ lúa nên không c̣n do dự ǵ nữa, bèn dắt vợ con xuống Vĩnh Mỹ.

    Năm đầu, Cu giúp vốn cho Bưởi làm ăn nên Bưởi khỏi vay. Tới mùa gặt, Bưởi dư được vài thiên lúa (ở miền Tây cứ 100 giạ gọi là một “thiên” -ĐD). Cu cũng có thêm ít thiên nữa. Anh em tuy ở riêng song giúp đỡ nhau từng chút như cùng một nhà.

    Bưởi v́ đông con nên làm ăn cũng chăm chỉ nhưng khó giàu như mọi người được. C̣n Cu th́ chỉ có một ḿnh thằng Hai thôi, Lựu không sanh nữa. Hai vợ chồng tiện tặn, không se sua lăng phí, bởi vậy làm được mười năm th́ Cu sắm được một sở ruộng hơn 200 công, rồi cày cấy ruộng nhà, khỏi mướn đất của ông thầy kiện nữa. Làng thấy Cu có của mới cử làm hương chức, ban đầu làm nhỏ, lần lần thăng lên tới Hương sư (một chức vị cao hơn Hương thân, chỉ sau Hương chủ và Hương cả. Người biết chữ, dạy học trong làng gọi là Hương giáo - ĐD).

    Cả làng Vĩnh Mỹ, trừ vợ chồng Hai Bưởi ra th́ chẳng ai biết Cu với thằng Hai là cha con ghẻ. Chừng thằng Hai tới tuổi đi học th́ trong nhà Cu đă khá lắm rồi, làng đă cử làm Hương thân. Cu thấy con sáng láng mới bàn tính với vợ rồi đem con lên chợ Bạc Liêu, gởi nó ăn cơm trọ ở nhà thầy giáo đặng nó đi học.

    Thằng Hai siêng năng chăm chỉ, học trường tỉnh tới 15 tuổi th́ đứng nhất lớp. Lúc ấy quan Đốc học (tức Hiệu trưởng) buộc thằng Hai phải nạp giấy khai sanh đặng cuối năm đi thi. Nhân dịp đó Cu hỏi thăm mấy thầy giáo rồi làm đơn vô Ṭa xin lập giấy khai sanh cho con. Ṭa lên án, nhận thực thằng Hai là Vơ Văn Hai con của Vơ Văn Cu và Lê Thị Lựu. Từ nay thằng Hai đă có cha và chú Hương thân Cu cũng đă có con theo đúng pháp luật.

    Cuối năm ấy thằng Hai thi đậu bằng Tiểu học rồi đậu vô trường Trung học Mỹ Tho. Cu thấy con thông minh th́ càng hăng hái, nhứt quyết cho con ăn học đến cùng, không quản hao tốn.

    Thằng Hai lần lượt thi đậu Thành chung, Tú tài I, Tú tài II rồi xin cha cho ra thi vô ngành Kinh lư (Kỹ sư Điền địa) ở ngoài Hà Nội. Bốn năm sau, nó tốt nghiệp, trở thành quan Kinh lư rồi được nhà nước bổ vô Sài G̣n, sau đó được Sở Điền Địa Sài G̣n cử về G̣ Công, đo đạc, lập sơ đồ và giải quyết các vụ tranh chấp, kiện tụng thuộc về ruộng đất tại G̣ Công.

    Ở vùng Đập Ông Canh, bà Cai tổng Hiếu đă mất mười mấy năm rồi, tá điền tới lui khỏi phải hầu hạ bà, mà ai ra lănh chức Hương quản cũng khỏi bị bà sai khiến nữa. Cậu Hai Nghĩa năm nay trên 50 tuổi, mái tóc đă hoa râm, da mặt nhăn nhúm chút đỉnh nhưng tai hại nhất là hai vết dao của Ba Cam chém ngày trước, vẫn rành rành trên g̣ má và nằm ngang từ trên trán xuống tới mí mắt, nên bây giờ cậu làm Hội đồng địa hạt mà những người ghét cậu họ vẫn gọi ngầm cậu là “Hội đồng Thẹo”.

    Vợ chồng Hội đồng Nghĩa có ba người con. Người thứ nhứt là cô Hai Diệu,
    gả cho con trai ông Hương chủ Khoán ở trong Long Hựu. Cô về nhà chồng được ba năm, có được một đứa con th́ cha chồng mất, chồng mê say bài bạc, phá tan cơ nghiệp. Vợ chồng Hội đồng Nghĩa thấy nhà con rể đă suy sụp, sợ nó phá lây tới gia tài của congái ḿnh nên lật đật bắt cô Diệu về. Cô Hai Diệu ở nhà cha mẹ, lâu lâu chồng cũng tới thăm nhưng cô ghẻ lạnh, coi như người ngoài.

    Người thứ hai là cậu Ba Tư th́ đă chết hồi năm ngoái, nếu c̣n sống, năm nay cậu được 20 tuổi. Lúc cậu c̣n nhỏ, vợ chồng ông Hội đồng Nghĩa tưng tiu như cục vàng, mà cũng muốn cho cậu nên người nên gởi cậu lên G̣ Công cho cậu ăn học. Cậu học th́ ít mà phá th́ nhiều nên đi thi mấy lượt mới lấy được cái bằng Sơ đẳng Tiểu học. Cha mẹ mừng rỡ hết sức, làm tiệc tạ ơn trời đất rồi cho cậu lên Sài G̣n học tiếp. Mới được một năm th́ cậu mang bệnh ăn chơi mà chết, làm cho ông Hội đồng không người kế nghiệp, ông rầu rĩ muốn chết mà bà Hội đồng c̣n cứ rầy là chồng bắt con học thêm nên nó mới chết, c̣n cô Ba Nhân th́ nói tại cậu Hai Nghĩa ăn ở thất nhơn ác đức, bỏ đứa con trai nên trời phạt không cho có con trai.

    Người con út là cô Tư Thục, năm nay 17 tuổi, nước da không trắng nhưng đôi mắt rất lanh, càng trông càng có duyên. Đặc biệt là cô rất nết na, ngoan ngoăn, thứ con gái ấy hễ trai trông thấy th́ ưa liền.

    Hương chức làng khi nhận được giấy tống đạt từ trên tỉnh gởi xuống là có quan Kinh lư sắp tới, sẽ ở nhiều ngày để lập họa đồ, thanh tra ruộng đất th́ ai nấy xôn xao, ông Hương cả ra lệnh phải tiếp đón quan và hai nhân viên thật nồng hậu đặng quan vui ḷng.

    Khi quan Kinh lư và hai nhân viên tới, mọi người rất ngạc nhiên v́ trông quan c̣n trẻ, mới chừng 25-26 tuổi, ăn nói có vẻ hoạt bát, thân thiện chớ không quan cách một chút nào cả: “Chào các ông. Tui là Kinh lư Hai, được trên cử xuống làm việc với các hương chức trong làng. Sao, các ông khỏe chớ? Mùa màng xứ ḿnh năm nay có khá không?...”. Quan đi bắt tay suốt lượt, điều nầy hơi lạ v́ ở nơi quê mùa, các hương chức chưa quen với việc bắt tay. Tới Hương chủ Khanh, ông nh́n quan chăm chăm, h́nh như quan có những nét ǵ đó rất quen nhưng ông không nghĩ ra. “Thưa quan Kinh lư, chúng tôi đă sắp xếp chỗ nghỉ ngơi và làm việc cho quan Kinh lư nhưng chưa hiểu bà có xuống không nên mạn phép phải hỏi lại đặng c̣n lo liệu”. Quan Kinh lư cười: “Bà nào? Nếu ư ông muốn nói bà là vợ quan Kinh lư th́ tui xin trả lời là chưa, tui chưa có ai hết, đi đâu cũng chỉ ḿnh ên không hà!”. Mọi người đều cười, thấy quan Kinh lư tuy cao sang nhưng tánh rất vui và rất b́nh dị...

    Đến đây là phần cuối cuốn tiểu thuyết. Trở lại tiểu thuyết “Con nhà nghèo”của Hồ Biểu Chánh, phần này tác giả viết rất khéo, rất tài t́nh về t́nh yêu tự nhiên giữa cô tiểu thư 17 tuổi tên Thục với chàng thanh niên trí thức, Kỹ sư Điền địa, thời ấy kêu là quan Kinh lư. Họ chưa nói với nhau một câu nào cả song “t́nh trong như đă, mặt ngoài c̣n e”. Bên cạnh đó là sự vơ vào, nhất quyết gả đứa cháu gọi bằng cô mà ḿnh rất yêu thương cho quan Kinh lư ḿnh rất quư mến. Nhưng, họ là anh em cùng cha khác mẹ. Cuối cùng, quan Kinh lư xin đổi về Sài G̣n, người khác xuống thay. Trước khi chia tay, cô Ba cố hỏi một câu cuối cùng: “Ông thân bà thân có nói cho quan biết quan là con của ai không?”. Quan Kinh lư khẽ gật đầu: “Có. Nhưng tôi chỉ biết có cha mẹ tôi, người đă nuôi dạy tôi từ nhỏ mà thôi, không dám nghĩ đến một điều ǵ khác”.

    Đấy là đạo lư nói chung của nhà văn Hồ Biểu Chánh.

  8. #18
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tác giả / Tác phẩm
    Từ Yeo-Thomas tới James Bond 007 - Ian Fleming


    Chu Nguyễn



    James Bond là nhân vật huyền thoại trong làng gián điệp và phản gián nhưng không hoàn toàn là điệp viên hư cấu mà là bóng h́nh của một tay gạo cội trong làng t́nh báo anh Wing Commander Forest “Tommy” Yeo-Thomas. Phát giác mới đây do một sử gia người Anh là Sophie Jackson. Bà này đă lục t́m trong kho thư tịch ở London và thấy có đủ chứng cớ để khẳng định nhà văn Ian Fleming khi sáng tạo nhân vật James Bond đă gợi hứng từ hành vi xuất quỷ nhập thần của điệp viên Yeo-Thomas thời Đệ nhị Thế chiến.



    * * *

    Phần sau đây lược dịch từ bài The True Identity of Agent 007 (Lư lịch thực của điệp viên 007) đăng trên tờ National Post số cuối tháng 9, 2012.
    Một điệp viên nổi tiếâng là hào hoa phong nhă, chung quanh chẳng mấy khi vắng bóng hồng nhan, c̣n là kẻ vào sinh ra tử không hề nao núng, với trí mưu có một không hai, lại có khả năng tay không giết đối thủ mà không hề chớp mắt. Không phải là James Bond, điệp viên mang bí số 007 mà chúng ta quen biết trong tác phẩm của Ian Fleming hay trên màn ảnh với những tài tử như Sean Connery, George Lazenby, Roger Moore, Timothy Dalton và Pierce Brosnan... Điệp viên muốn nói ở đây có thực mang bí danh Thỏ Trắng (White Rabbit) và là một sĩ quan trực thuộc Không quân Hoàng gia Anh có tên là Forest Yeo-Thomas.

    Vài nét về Forest Yeo-Thomas
    Forest Yeo-Thomas sinh ngày 17 tháng Sáu 1902, tuy gốc Anh nhưng trưởng thành ở Dieppe và Paris. Vào tuổi 16, Yeo-Thomas khai man tuổi và gia nhập quân đội Mỹ và sau đó vào binh đoàn Ba Lan chống Soviet xâm lược vào năm 1920. Bị Nga bắt làm tù binh và dự định xử tử, Yeo-Thomas t́m cách vượt ngục trốn về Pháp sau khi bóp cổ một lính gác.
    Vào 1925, Yeo-Thomas lập gia đ́nh với Lillian Walker, một cô gái Paris mang hai ḍng máu Anh-Đan Mạch, và làm nhiều việc khác nhau từ ngân hàng cho tới văn pḥng của hăng thời trang Molyneux vào 1932. Dù có hai con gái nhưng cuộc hôn nhân tan vỡ. Chiến tranh thế giới bùng nổ vào năm 1939, Yeo-Thomas nhờ thông thạo Anh-Pháp ngữ nên được Không lực Hoàng gia Anh tuyển mộ làm văn pḥng. Khi Pháp bị Đức chiếm đóng, vào năm 1942 Yeo-Thomas được chuyển sang đơn vị hành động đặc biệt cũng của không quân, một bộ phận trực thuộc lực lượng SOE (Special Operations Executive) chuyên ḍ thám, phá hoại phe Trục. Trong nhiệm vụ mới, ông hợp tác với lực lượng đặc nhiệm kháng chiến của tướng de Gaulle.
    Điệp vụ quan trọng đầu tiên mà Yeo-Thomas tham dự có bí danh là SEAHORSE. Như sắp xếp, ông ta cùng hoạt động với “đại tá Passy” của cơ quan t́nh báo kháng chiến Pháp và nhà báo Pierre Brossolette. Bộ ba được nhảy dù xuống đất Pháp t́m cách liên lạc với các tổ kháng chiến độc lập ở nhiềâu nơi trên đất Pháp và kết quả nối kết được các tổ này và truyền đạt được lệnh của Đồng Minh. Thành công, bộâ ba trở về Anh an toàn vào tháng 4, 1943. Tháng 9, Yeo-Thomas và Brossolette lại nhảy dù xuống đất Pháp trong điệp vụ có bí danh là MARIE CLAIRE để thu thập t́nh h́nh các cơ sở kháng chiến, của phe Đức và trao mệnh lệnh mới cho kháng chiến quân, sau khi đặc phái viên của de Gaulle là Jean Moulin bị Đức bắt. Điệp vụ này cực kỳ nguy hiểm v́ công việc không bảo toàn bí mật và Gestapo đă chăng lưới bắt gián điệp khắp nơi. Yeo-Thomas lúc này tuy chưa lộ mặt nhưng bí danh Con Thỏ trắêng của Churchill (Churchill's White Rabbit) bị Đức truy lùng ráo riết. Trong lúc bôn đào, ông đă được một máy bay đồng minh cứu thoát mang về Anh, c̣n Brossolette kẹt lại và sau đó bị bắt tại duyên hải Brittany.
    Biết bạn bị bắt và sợ tiết lộ bí mật, Yeo-Thomas lại dấn thân vào điệp vụ thứ ba có bí danh là ASYMTOTE và được thả dù xuống đất Pháp vào giữa tháng Hai 1944 nhưng lần này có sự phản bội của một người Pháp, chỉ năm ngày sau, Yeo-Thomas bị Gestapo bắt. Trong lúc chờ đợi lên giá treo cổ ở nhà tù Buchenwald th́ Yeo-Thomas lại t́m cách thoát ngục, không phải một lần mà hai lần v́ lần thứ nhất bị bắt lại. Hành tŕnh t́m tự do vô cùng dũng cảm và trí mưu, nào là lấy lư lịch của một nhân viên y tế trong trại tập trung đă chết, nào là phải băng qua băi ḿn và dù bệnh hoạn và kiệt sức, nhưng cuối cùng đă tới được nơi Mỹ đóng quân và trở về Paris vào tháng 5, 1944.
    Cái gương dũng cảm của Yeo-Thomas kết thúc bằng Huân chương George (George Cross) của chính phủ Anh và những tác phẩm ca ngợi ông là “kẻ dũng cảm nhất trong những người dũng cảm” (Bravest of the Brave). Nhưng rồi kẻ anh hùng cũng rơi dần vào cát bụi nếu không có cây viết Ian Fleming.
    Trong đống hồ sơ mới đây được xếp bỏ, sử gia Sophie Jackson đă t́nh cờ t́m được một bản ghi nhớ mà Ian Fleming, ngày đó cũng là sĩ quan t́nh báo Anh, thông báo với đồng nghiệp về tin Thỏ trắng Yeo-Thomas đă thoát khỏi nhà tù Đức quốc xă. Fleming và Yeo-Thomas làm ở hai bộ phận khác nhau trong sở t́nh báo Anh và đây là lần đầu người ta t́m thấy có mối liên hệ giữa hai nhân vật này.
    Sophie Jackson nhận xét: “Tài liệu tôi t́m được chứng tỏ Fleming chú ư tới Yeo-Thomas và câu chuyện về ông ta ngay từ lúc chưa cầm bút viết về huyền thoại 007”.
    Bà nói thêm: “Có nhiều chi tiết tương đồng giữa James Bond và Yeo-Thomas như cả hai đều bay bướm với phụ nữ và có những cuộc phiêu lưu ly kỳ”.
    Nói rơ hơn, Sophie Jackson nhắc nhở, cứ mang hoạt động t́nh báo của Yeo-Thomas ra so sánh với hoạt động của James Bond trong tiểu thuyết th́ thấy nhiều việc tương đồng.
    Nổi bật nhất là khi Yeo-Thomas lọt vào tay Gestapo và bị tra khảo bằng đủ cực h́nh th́ có khác ǵ trong tiểu thuyết Casino Royale của Fleming kể lại cảnh James Bond bị tra tấn dă man khi lọt vào tay đối thủ.
    Trong một điệp vụ trước đó, trên chuyến xe lửa tốc hành Lyon tới Paris, Yeo-Thomas t́nh cờ ngồi bên cạnh trùm Gestapo Đức quốc xă Claus Barbie. Ngồi ở vị trí cuối cùng trong toa hàng ăn, Thỏ trắng giật ḿnh khi thấy người ngồi bên cạnh là chỉ huy Gestapo. Đúng vào lúc Gestapo đang lùng sục Yeo-Thomas, nhưng điệp viên Anh vốn nói tiếng Pháp rất sơi, đă chuyện tṛ tự nhiên với Barbie và đóng vai một người ủng hộ việc Đức chiếm đóng Pháp.
    Cuộc gặp gỡ này có khác chi một cảnh trong From Russia With Love, trong đó James Bond trên chuyến tàu Orient Express đă dùng bữa tối với một điệp viên thù nghịch.
    Thực sự, nhiều kỹ thuật gián điệp và phản gián mà Yeo-Thomas sử dụng để thoát hiểm, sát nhân hay lẩn tránh kẻ thù như ẩn ḿnh trong xe tang hay nhảy từ trên tàu xuống, hoặc được máy bay câu lên cứu nguy, cũng tương tự như hành động của Bond trong tiểu thuyết sau này.
    Một lần Yeo-Thomas nhử kẻ thù tới Paris Bridge và ẩn ḿnh chờ đợi. Khi kẻ thù đuổi tới, Yeo-Thomas đă tấn công địch bằng quyền thuật và bắn chết đối phương ở cự ly gần, sau đó vức xác xuống gịng Seine.
    Yeo-Thomas nổi tiếng là có khả năng giết người bằng tay không. Vào năm 1920, ông ta t́nh nguyện tham gia vào quân đội Ba Lan chống lực lượng xâm lược Nga, ông ta thoát khỏi nhà ngục của Nga bằng cách bóp cổ chết một lính gác. Những thủ đoạn đă kể ta có thể dễ dàng gặp ở James Bond trong truyện của Fleming cũng như trong phim ảnh.
    Sophie Jackson cũng tin rằng tích cách của Bond có cốt cách của Yeo-Thomas. Điệp viên thực thụ trong đời đẹp trai và có khả năng quyến rũ nữ giới và trong cuộc sống riêng tư của ông đầy những bóng hồng vào ra. Trước chiến tranh, ông ta từng làm việc tại một cửa hàng thời trang ở Pháp và nổi tiếng là chàng trai đa t́nh rất mực.
    Tuy nhiên, Yeo-Thomas không hề lập gia đ́nh, kể cả với người t́nh thắm thiết như Barbara chỉ v́ ông ta không thể ly dị bà vợ Lillian, lúc đó sống trong vùng Đức chiếm đóng.
    Sau chiến tranh, Yeo-Thomas bị khủng hoảng tinh thần và bệnh hoạn do sau những năm vào sinh ra tử và căng thẳng thần kinh. T́nh trạng này có khác chi khía cạnh mà nhà tiểu thuyết mô tả về Bond có lúc rơi vào tư tưởng hắc ám (darker) và tinh thần rối loạn (psychologically troubled), có thể khác với Bond trong phim ảnh lúc nào cũng lạc quan và vui tươi.
    Yeo-Thomas qua đời vào tuổi 62 vào năm 1964, c̣n James Bond th́ bất tử đối với người nghiện phim gián điệp.

  9. #19
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Phạm Huấn, tháng mười tưởng nhớ



    Tạp ghi văn nghệ Nguyễn Mạnh Trinh
    Một nhà báo lừng lẫy. Một nhà văn lăng mạn. Một phóng viên chiến trường yêu nghề. Một người lính yêu binh nghiệp. Chân dung Phạm Huấn đa diện phong phú. Nhưng bao trùm tất cả là những nỗi buồn, những cuốn sách ghi lại một thời binh lửa. Từ “Một Ngày tại Hà Nội” đến“Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975”, rồi “Những Uất Hận Trong Cuộc Chiến Mất Nước” hay “Điện Biên Phủ 1954 Ban Mê Thuột 1975” và “Trận Hạ Lào 1971”. Tất cả phát xuất từ một chứng nhân, từ một người lính chuyên

    nghiệp có những hạnh ngộ bất ngờ để hiểu biết được những hỏa mù của thời thế và mặt sau của thời cuộc. Và chính v́ hiểu biết nên ông đă đau nỗi đau của những người dân nhược tiểu, đau đớn bất lực nh́n cuộc chiến mà bao nhiêu xương máu của chiến sĩ của những người lính vô danh bị hy sinh oan uổng. Viết sách như một người chứng nhưng lại đau nỗi đau của người trong cuộc, bởi v́ ông cũng là một người lính và luôn hiểu được vị trí và trách nhiệm của ḿnh.
    Tháng 11 năm 1974, Phạm Huấn lên Pleiku để chỉ vài tháng sau chứng kiến ngày quỵ ngă của Cao Nguyên với cuộc di tản ngày 17 tháng 3 mà ông gọi là “cuộc triệt thoái Cao nguyên”, những ngày dài nhất của 21 năm trên chiến trường này. Là một nhà báo tinh nhạy, lại ở một vị trí của một người biết nhiều t́nh h́nh kể cả hai mặt trái và phải nên những ghi chép lại trong tác phẩm này biểu hiện được nhiều sự thực.
    Nếu Hoàng Khởi Phong viết “NgàyN+” với tư cách của một sĩ quan thừa hành trong cuộc di tản th́ Phạm Huấn viết với tư cách của một người nắm vững t́nh h́nh tổng quát hơn và có những nhận xét ở trên cấp cao hơn và những bí mật, những bề trái của cuộc chiến được bày tỏ rơ rệt hơn.
    Cuốn sách mở đầu: “...Tự nhiên tôi thoáng nghĩ, nếu đây là một chuyến bay định mệnh, chuyến bay kết thúc những người yêu vơ nghiệp như Tướng Phú, như Vinh, th́ quả là oan trái phi lư!
    Nhưng rồi những nguy hiểm cũng qua đi. Lúc gần hết xăng, bằng những kinh nghiệm nghề nghiệp, người phi công đă lái con tàu của ḿnh thoát khỏi những tầng mây đen. Qua khung kính mù mịt tôi thấy được mỏm núi nhỏ gần phi trường Cù Hanh. Mọi người thở phào nhẹ nhơm.
    Phi cơ càng xuống thấp, mỏm núi càng gần lại và thấy rơ hơn. Đó là “h́nh dáng” cái phần kín đáo và đẹp nhất của người đàn bà.
    Thời tiết xấu xuống phi trường Cù Hanh - Pleiku theo kinh nghiệm của các Pilốt vận tải - cần phải thấy “mỏm” núi đó mới thấy yêu đời và đáp an toàn được.
    Khi chiếc C-47 chở tướng Phú tiến vào chỗ đậu, tiếng vỗ tay vang dội. Trời vẫn mưa như trút nước.
    Đi trong đám đông những anh em đồ trận sũng nước tôi nghe được tiếng nói của một người quân nhân cao niên:
    - Đó là người mang... giông băo tới”.

    Và chấm dứt cuốn sách là một trời tâm sự đầy phẫn nộ:
    “Tôi xin chịu trách nhiệm về những điều tôi viết trong cuốn sách. Tôi cũng sẵn sàng chấp nhận mọi sự phê phán mọi chuyện xảy ra bất cứ từ đâu tới. Đây là việc làm tôi đă suy nghĩ trong một thời gian dài trước khi quyết định phổ biến mọi bí mật mà tôi biết về “cuộc rút quân Tây nguyên” và những ngày cuối cùng trên chiến trường Quân Đoàn II.
    Trong cái nhục của một người quân nhân bại trận, hèn nhát trốn chạy qua đây, tôi đă muốn quên đi tất cả. Nhưng, những h́nh ảnh của trận chiến sau cùng luôn luôn chờn vờn ẩn hiện trước mắt tôi. Tôi rất đau đớn và vô cùng phẫn nộ khi phải nghe, phải đọc hoặc có ai nhắc đến câu “Tan hàng bỏ chạy. Chưa đánh đă chạy...” Đó là một sỉ nhục chung cho cả tập thể QLVNCH. Điều đó không đúng. Xin hăy kết tội phê phán những sai lầm của các tướng lănh, các cấp chỉ huy lănh đạo đất nước, chỉ huy quân đội và cả kết tội cả tôi đă làm mất nước đă thua trận đă hèn nhát. Nhưng hăy để yên cho những người đă chiến đấu và đă chết sau trận chiến sau cùng được yên nghỉ...”

    Một cuốn sách khác “Một Ngày tại Hà Nội” của Phạm Huấn cũng gây cho tôi nhiều cảm xúc. Với tôi, Hà Nội chỉ là một thế giới xa lạ nhưng đầy tưởng tượng. Năm 1954, khi di cư vào Nam, lúc ấy tôi c̣n quá nhỏ để có một kư ức. Phần đông, kỷ niệm trong đời sống của ấu thơ tôi đều là Sài G̣n, thành phố mà tôi lớn lên và trưởng thành. Mỗi con phố, mỗi ngơ hẻm, đều in dấu những tháng ngày trải qua, luôn sinh động trong bộ nhớ. Thành phố ấy, có thể như một phần đời sống...
    Nhưng, Hà Nội, lại là một thành phố trong tưởng tượng với tôi. Và, v́ không thực nên có những nét đẹp huyền ảo của vẽ vời suy tư, của những nhân vật được phác họa bằng tất cả những nét lung linh nhất.
    Trong văn chương, tôi đọc những cuốn sách, để thấy lại cả một khung trời tưởng nhớ, một thánh địa để nghĩ đến và t́m về. Những Thạch Lam, Vũ Bằng, Hồ Hữu Tường,... thời tiền chiến đến Mai Thảo, Nguyễn Đ́nh Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn,... của 20 năm Văn học miền Nam, đă làm rực rỡ hơn trong tôi những nồng nàn của một thế giới thơ mộng đă mất hút xa nhưng thật gần gũi trong tâm tưởng.
    Nhưng khi đọc “Một Ngày tại Hà Nội, 18-2-1973” của Phạm Huấn, tôi như đi lạc vào một thế giới khác mà nỗi bồi hồi cảm xúc đă lan ra từ những ḍng chữ, những biểu tỏ. Không phải như trường hợp “Hồi hương ngẩu thư” sao lại giống như trong suy nghĩ. “Chắc chắn trong buổi trùng phùng cũng có nỗi xúc động ứa lệ” tác giả đă nói như thế trong buổi phỏng vấn. Hạ Tri Chương ngày xưa “Thiếu tiểu ly gia lăo đại hồi. Hương âm vô cải mấn mao thôi. Nhi đồng tương kiến bất tương thức. Tiếu vấn: 'khách ṭng hà xứ lai'”. (Xa nhà ấu thơ, về đă già. Quê mùa giọng cũ, tóc sương pha. Bạn cũ thân quen nay mặt lạ. Cười hỏi: “Khách về tự chốn xa?”)…
    Phạm Huấn th́ khác. Về chốn xưa, nhưng trong một cung cách khác. Của một người đi nói chuyện với những người tuy cùng máu mủ đồng bào nhưng là đối thủ dàn ra hai trận tuyến. Về, với cái đón tiếp lạnh lùng đầy nghi kỵ. Về, với cái tâm trạng vỡ ̣a của một người vừa làm vỡ một cái ǵ trân quí nhất. Cái tâm trạng của người vừa đánh mất một phần đời sống ḿnh. Trong t́nh cờ của lịch sử, những người mặc quân phục VNCH trở về nơi chốn mà ḿnh đă rời bỏ thời gian trước. Có một phút nao ḷng với những tâm tưởng cũ nhưng cũng có nỗi rưng rưng của cuộc trùng phùng không ngờ tới được trong thời điểm ấy. Sau Hiệp đinh Paris, quân Mỹ đă rút về nước nhưng chiến tranh vẫn c̣n, vẫn c̣n cảnh những người đồng bào gh́m súng hầm hè nhau trong những cuộc chiến sinh tử. Miền Nam, miền Bắc, hai phía vẫn chưa ngừng cuộc chiến ủy nhiệm thời chiến tranh lạnh. Tác giả, trong “Một Ngày tại Hà Nội”, đă có nỗi niềm chua chát đắng cay của những người đă đặt niềm tin vào một điều ǵ rồi bị phản bội một cách trắng trợn. Thành phố đă đổi, những xưa cũ đă mất đi và những cảnh tượng mới làm quặn ḷng người trở về.
    Ông viết: “... ngồi trên chuyến xe di chuyển từ Gia Lâm về Hà Nội, nh́n thấy Hồ Gươm, tháp Rùa, tôi có trong ḷng một nỗi xao xuyến muốn làm ứa lệ.
    Tôi biết rằng, nh́n thấy Hà Nội đây, là nh́n thấy hàng triệu đôi mắt của người xa Hà Nội năm nào. Tôi đang di chuyển an lành trên những đường phố Hà Nội đây, là đ̣i hỏi bằng xương máu của bao nhiêu bạn hữu, bao nhiêu huynh đệ, bao nhiêu người quen biết và không quen biết, đă chết và c̣n sống, của 17 triệu dân miền Nam yêu nước đang trông ngóng một ngày ḥa b́nh, thống nhất nhưng không phải là ḥa b́nh với bất cứ giá nào, thống nhất với bất cứ giá nào. Tôi hiểu được tại sao con người có t́nh riêng nhưng không thể tách rời ra khỏi tập thể. Con đường này, xưa chúng tôi hằng ngày đi qua, cắp sách đến trường. Căn nhà này, xưa, tôi đă ở. Bạn bè tôi xưa, những ai c̣n, ai mất?
    Người yêu tôi xưa, bây giờ bao tuổi, bao già? Tôi có thể gọi tên từng đứa bạn, gọi tên từng người con gái đẹp của Hà Nội khi xưa, tôi có thể chỉ đúng căn nhà họ ở, bây giờ họ c̣n ở đây chăng? Ngồi trên máy bay nh́n xuống, Hà Nội giống như một khuôn mặt kiều diễm. Tháp Rùa chẳng khác cái nốt ruồi của thành phố! Tôi biết rằng, nếu biết được tôi nghĩ như thế, có ai sẽ mỉm cười. Cái cậu con trai nhảy chân sáo trên lối đi này khi xưa là tên vẫn c̣n ẩn núp trong tôi thật sao? Tôi mừng biết bao, khi nhận ra, với ba mươi năm liền nghe súng nổ, nh́n thấy khói, ngửi mùi tử khí, tai tôi chưa điếc, mắt tôi chưa mờ, mũi tôi vẫn c̣n phân biệt được những mùi hương phảng phất của sương mù tháng giêng Hà Nội.
    Nỗi nhớ thương Hà Nội đă choáng ngập tâm trí đến độ trong khoảnh khắc tôi không c̣n nhận ra Hà Nội Đă Không C̣n Là Hà Nội Nữa…”

    Nếu tôi trở về lại Sài g̣n, chắc chắn tôi sẽ có cảm xúc y hệt như vậy. Những người muôn năm cũ. Hồn ở đâu bây giờ? Câu hỏi ấy, trong âm hưởng tạo thành nao nao cảm giác trong da trong thịt. Một thi sĩ nào đó, đă gọi thành phố mất tên trong buổi trở về như một níu kéo để t́m về những kỷ niệm cũ, những h́nh bóng xưa. Thi sĩ ấy, chắc cũng đồng điệu với tác giả “Một Ngày tại Hà Nội” dù viết về Sài G̣n. Tự nhiên, như là lời tâm sự của riêng tôi, trong lời thơ diễn tả... Thơ chia sẻ như một tri âm với người tri kỷ…

    “Khi trở lại tôi kêu tên Sài G̣n
    Như ba mươi năm qua thường buổi sáng
    Uống ly cà phê không đường đen đậm
    Quán cóc hẩm hiu lưỡi đắng nụ cười
    Khi trở lại phố xưa tuổi đôi mươi
    Ngọn dốc cầu cao nghe chừng khác lạ
    Bánh xe nào hằn dấu vết ră rời
    Những hẻm cụt giấc khuya về vội vă.
    Khi trở lại tôi gọi hoài tuổi trẻ
    Như mắt em nồng nàn ánh mặt trời
    Buổi sáng áo bay trong buồn lặng lẽ
    ai gọi ai cho héo úa t́nh phai
    con kinh nước đen mùi bùn vương vấn
    cỗ xe già nua về lại bến ven đường
    mưa như trút buổi chiều nào địa chấn
    em xa tôi ḷng buốt xót vết thương
    khi trở lại tôi làm người dừng bước
    hai ven đường ngọn cỏ mọc dửng dưng
    chân lạ lắm đă hết rồi tiếng guốc
    cửa nhà em đóng lại rất lạnh lùng
    Sài G̣n vẫn nhớ hay là trong quên lăng
    Khách lạ tôi tạm trú dưới hàng cây
    Thấy con sẻ ríu rít hoài dĩ văng
    Ba mươi năm thoáng ngủ giấc hao gầy…”

    Hà Nội - Sài G̣n. Những nơi chốn tràn đầy kỷ niệm. Mỗi một người tha hương, đọc những trang sách, ngâm những câu thơ, như bước chân hành hương trở về thánh địa tâm hồn. Những lúc trời trở gió, trong cái gào thét lồng lộn của đất trời, tự nhiên nghe trong ḷng mênh mang những rung cảm làm nặng nề vuông ngực. Ở xứ người, chỉ một tên gọi, dù Hà Nội hay Sài G̣n, cũng chứa đựng đầy và mênh mang niềm nhớ.

    Bài mở đầu cuộc phỏng vấn người về từ một nơi chốn mà hành tŕnh không ngờ trước được trong cái t́nh cờ của thời thế có âm vọng của những bàn tay vẫy gọi. Rất văn chương nhưng cũng thật chân thành, ngôn ngữ như mở ra một cánh cửa để tưởng tượng ùa vào, để nỗi niềm người ly xứ như tượng h́nh bằng những chi tiết thực:
    “... Hà Nội, bài hát của Hoàng Dương là Hà Nội 20 năm trước. Hà Nội của một triệu người rời bỏ vào năm 1954. Hà Nội với tà áo màu tung gió, với những tiếng guốc reo vui. Hà Nội mà những người đứt ruột bỏ đi, đă nuôi nấng một mong ước, giữ chặt một niềm tin. Hoàng Dương đă nói trong bài hát của ông “hăy tin ngày ấy anh về”. Hà Nội 36 phố phường, Hà Nội mà nhạc sĩ Trần Văn Nhơn của chúng ta đă gọi là “Trái Tim của Việt Nam” Hà Nội mà với mùa thu cuối cùng ta bỏ đi xanh xao như mất máu đó Hà Nội bây giờ ra sao? Trong hai mươi năm chiến tranh tàn phá, trong hai mươi năm người Hà Nội bỏ đi, hai mươi năm Hà Nội sống dưới chế độ Cộng sản, cái trái tim của Việt nam đó đă đập như thế nào? Những Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bông, Hàng Gai, Hồ gươm, Hồ Trúc Bạch, Hồ Bẩy Mẫu,... những ǵ thay đổi? Người Hà nội bây giờ sinh sống ra sao?…”

    Trong những câu hỏi, Phạm Huấn đă trả lời thành thực bằng tấm ḷng của ḿnh. Tâm cảm của một thanh niên Hà Nội bao giờ cũng tiềm ẩn nét lăng mạn, của một thời hoa mộng được dệt bằng những nỗi nhớ thương mong manh nhưng lại bền chặt nhất. Mấy ai quên được một thời đă qua, mấy ai bỏ đi được những bóng h́nh khắc sâu trong tâm tưởng. Về mái nhà xưa, nhưng chẳng được vào, để cảnh cũ như những dấu tích của tang thương của biển dâu thay đổi.
    Trả lời câu hỏi: Thế anh đi bằng con đường đó, cây cột Đồng Hồ ở đường Bờ Sông có c̣n không?
    Phạm Huấn đáp: “Cây cột Đồng Hồ vẫn c̣n. Tôi có thể nói ngay với các anh là trung tâm thành phố Hà Nội, ngoài Ṭa Tổng Lănh sự Pháp ở đường Trần Hưng Đạo (Gambetta cũ) bị sập, c̣n tất cả những đường phố chính mà trước kia biết rất đẹp như đường Lư Thường Kiệt, Gia long, Tràng Tiền, Tràng Thi, chung quanh Hồ Hoàn Kiếm v.v... th́ c̣n nguyên vẹn. Nhưng rất tiếc tôi không hiểu tại sao thủ đô Hà Nội sau 19 năm dưới chế độ Cộng Sản, bây giờ tiêu điều và xơ xác quá. Không có một kiến trúc nào đặc biệt tại Hà Nội so với trước năm 1954. Tôi tưởng Hà Nội tiêu điều nhưng không ngờ đến quá sức tưởng tượng như tôi nghĩ. Khu trung tâm thành phố như Gia Long, Tràng Thi,Tràng Tiền... nhà cửa trông rất là cũ kỹ, không được sửa sang quét vôi ǵ hết. Tôi có cảm tưởng như đă 10, 15 năm nay không được quét vôi lại. Đi trên những con đường đó, nh́n thấy dân chúng phơi quần áo, tôi xin lỗi được tả chân, phơi cả những cái quần đen, những áo màu cháo ḷng trên cửa sổ th́ c̣n ǵ là phố xá, nhà cửa của Hà Nội?
    Hỏi: Anh có đi ngang qua căn nhà mà anh ở khi xưa không?
    Đáp: Tôi có được đi ngang qua căn nhà trước khi di cư vào nam tôi trọ học. Tôi xúc động lắm, muốn khóc được. C̣n y hệt nhưng tiêu điều xơ xác trông thật buồn thảm. Ở góc đường Lư thường Kiệt và Gia Long gần trường trung học Nguyễn Trăi...”

    Trước khi đọc “Một Ngày tại Hà Nội” tôi đă đọc “Đêm Giă Từ Hà Nội” của Mai Thảo, “Ung Thư” của Thanh Tâm Tuyền, “Áo Mơ Phai” của Nguyễn Đ́nh Toàn, “Nhớ về Hà Nội” của Nguyễn Mạnh Côn,... Thế mà, sao kỳ lạ, vẫn chung một cảm giác. Hai chữ Hà Nội như có một tính linh thiêng kỳ bí nào lôi cuốn. Giở những trang sách, như thấy lại những khung cảnh cũ…
    Mấy ngày hôm nay, ở Cali, trời trở lạnh. Tôi nhớ buổi sáng đi làm, đă phải mặc áo ấm và ngoài trời sương mù dày dặc. Thời tiết làm tâm hồn bâng khuâng hơn. Tầm nh́n mờ đục trước mặt như có một nỗi niềm nào dàn trải. Tôi nhớ lại lúc ấy, nghe trên đài phát thanh, tin nhà báo Phạm Huấn vừa từ trần. Thực ra, Phạm Huấn làm rất nhiều công việc: viết văn, làm báo, làm lính, làm phóng viên chiến trường và cả làm diễn viên điện ảnh nữa. Tôi được nghe ông chú tôi là bạn khá thân của anh Phạm Huấn từ nhiều chục năm nay kể về những chi tiết của cuộc đời anh và riêng trong suy nghĩ tôi anh là một mẫu người đặc biệt. Thế mà, cuộc đời có nhiều cái bất ngờ không hiểu nổi. Ông chú tôi nói một người mạnh khỏe đẹp trai như Phạm Huấn mà cuối đời bị căn bệnh quái ác khiến kư ức trở thành quên lăng muôn năm.
    Tôi nhớ có lần ḿnh đă viết về cuốn sách “Những uất hận trong trận chiến mất nước 1975” đă dẫn nhập bằng thơ Nguyễn Bắc Sơn và có trích đoạn những câu đối đáp giữa một ông Tướng tư lệnh vùng và người lính binh nh́ trong chiến trận ở phi trường Phụng Dực. Nhà văn Phạm Huấn có lần điện thoại nói chuyện với tôi tỏ ư thích những chi tiết ấy. Tôi có nói rằng em chưa gặp anh nhưng biết về anh rất nhiều. Ông hỏi tại sao và tôi có nói tên người chú mà cũng là người bạn của ông. Ông cười và tâm sự rằng trong đời ông mê nhất vẫn là vai tṛ phóng viên chiến trường. Và, ông đă làm được công việc mà ông ưa thích ấy. V́ hoàn cảnh, nhiều khi ông đă phải làm chứng nhân cho những biến cố lịch sử ngặt nghèo và từ đó thấu hiểu nhiều hơn thân phận của nước nhược tiểu. Không ai là không yêu nước nhưng có những bó buộc làm quyết định cá nhân nhiều khi là những điều mà thật t́nh trong thâm tâm những người trong cuộc không muốn…
    Bây giờ, tất cả những điều ấy anh đă quên từ trước. Trong hoàn cảnh bỏ nước lưu vong, ai mà chẳng có nỗi niềm. Chắc hành trang ra đi của anh sẽ nhẹ tênh. Ngày 21 tháng 10 năm 2005, chuyến song loan đưa anh về thiên cổ đă một lần chuyển bánh. Vĩnh biệt người phóng viên chiến trường Phạm Huấn. Có phải anh sẽ trở về. Về Hà Nội như anh đă trở về vào ngày 18 tháng 2 năm 1973, cách nay hơn ba chục năm. Hay là trở về Pleiku, về Ban Mê Thuột,... những chiến địa xưa, nơi “hồn tử sĩ gió ù ù thổi. Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi…”….

  10. #20
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Trần Vàng Sao, ngôi sao vàng cô độc
    Mặc Lâm, biên tập viên RFA
    2012-11-24

    Chương tŕnh VHNT kỳ này, chúng tôi xin được giới thiệu nhà thơ tài năngTrần Vàng Sao nhưng bị vùi dập v́ không nói theo tiếng nói chung của đảng.

    Photo courtesy of Văn Nghệ Quảng Trị

    Nhà thơ Trần Vàng Sao

    Vào tháng 4 năm 2005, hai tập nhật kư của Đặng Thùy Trâm, một bác sĩ của quân đội miền Bắc chết trong chiến tranh được một sĩ quan quân báo Hoa Kỳ là Frederic Whitehurst mang trả lại cho gia đ́nh của bà đă làm cho diễn đàn văn học Việt Nam nóng lên v́ nội dung cảm động trong hai tập nhật kư được xem là cẩm nang cho những người tuổi trẻ mang lư tưởng Chủ nghĩa Xă hội trong ba lô của ḿnh khi chiến đấu trong cuộc chiến Việt Nam. Cuốn sách ngay sau đó được dịch nhiều thứ tiếng và phát hành tại Pháp kể cả trong các nước cộng sản anh em.
    “Tôi bị bắt”

    Cũng trong năm 2005, một cuốn hồi kư khác được nhà nghiên cứu lư luận Lữ Phương tung ra trong dư luận trong và ngoài nước. Đó là hồi kư mang tên “Tôi bị bắt” của nhà thơ Trần Vàng Sao. Cuốn hồi kư mỏng 134 trang đánh máy được gửi từ Huế vào Sài G̣n cho Lữ Phương được ông giới thiệu trong lời nói đầu như sau:

    “Cuốn hồi kư này kể lại cái tai họa đó khi từ chiến khu, anh được đưa ra miền Bắc trị bệnh: ở nơi đây, sau một thời gian quan sát, anh đă ghi lại những suy nghĩ của ḿnh về cái gọi là “hậu phương xă hội chủ nghĩa” đó, bằng nhật kư và chính v́ những suy nghĩ ghi thành chữ viết này, anh bị các đồng chí của ḿnh truy bức, nguyền rủa, phỉ nhổ, cô lập, đến chỗ như anh cho biết anh không c̣n được coi là con người mà đă thành “một con vật, một con chó”.

    Bằng nhật kư và chính v́ những suy nghĩ ghi thành chữ viết này, anh bị các đồng chí của ḿnh truy bức, nguyền rủa, phỉ nhổ, cô lập, đến chỗ như anh cho biết anh không c̣n được coi là con người mà đă thành “một con vật, một con chó”.

    Ô. Lữ Phương

    Trong rừng, tôi đă nghe biết một số trường hợp những trang nhật kư bị tố cáo, nhưng chưa thấy có trường hợp nào sự tố cáo lại dẫn đến một cuộc hành hạ, trừng trị độc địa như trường hợp của Trần Vàng Sao.”

    Theo ông Lữ Phương sự tâng bốc thái quá Đặng Thùy Trâm và sự độc ác trong cách đối xử với Trần Vàng Sao đă làm cho ông quyết tâm phổ biến nhật kư của Trần Vàng Sao làm đối trọng với những ǵ mà nhà nước vận động, tuyên truyền. Khi được hỏi điều ǵ trong nhật kư của Trần Vàng Sao gây ấn tượng cho ông nhất, tác giả Lữ Phương cho biết:

    “Rơ ràng đây là sự thất vọng trầm trọng của một người trí thức ở miền Nam khi họ bỏ lên rừng. Nguyên nhân chánh khiến họ “lên núi” là có sự hiện diện của quân đội Mỹ tại đây. Chính điều này làm cho hầu hết anh em tham gia với cộng sản, mặt trận thôi thúc bởi cái chuyện hiện diện của người Mỹ đem bom đạn tàn phá đất nước nên thường thường anh em chịu không nỗi phải đứng ra chiến đấu chống lại. Cuối cùng th́ ma đưa lối quỷ đưa đường cuối cùng cũng theo cộng sản, mặt trận. Họ theo và tin tưởng mơ hồ vào nếu thay đổi th́ cũng đỡ khổ hơn ít nhất là nó không có bom đạn.

    Thế nhưng anh Trần Vàng Sao khi ra miển Bắc - lúc ấy tôi cũng đang ở miền Bắc - th́ anh ấy thấy Xă hội chủ nghĩa miền Bắc hoàn toàn thất vọng. Đó là một xă hội nghèo khổ và rất ác liệt, nhất là sự nghi ngờ… Anh Vàng Sao khi ra đó, ảnh viết hồi kư và nó không phải phát biểu công khai mà là nỗi niềm riêng nhưng nó bị chỉ vẽ và đem ra đấu tố. Cái chủ đề của anh ấy trong cuốn nhật kư là thất vọng, một sự thất vọng tuyệt đối đối với Xă hội Chủ nghĩa ở miền Bắc, nó đối nghịch hoàn toàn với Đặng Thùy Trâm, đó là lư do tôi muốn đưa ra để bà con có dịp so sánh đối trọng.”
    Nhà thơ Trần Vàng Sao


    Nhà thơ Trần Vàng Sao. Ảnh: Phanxipăng/tienve.org.
    Nhà Thơ Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính sinh năm 1941 tại Thừa Thiên. Từ năm 1965 tới năm 1970 ông lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành Ủy Huế. Năm 1970 ông được đưa ra miền Bắc an dưỡng và trong thời gian này do quan sát cuộc sống và sinh hoạt chính trị tại Hà Nội khiến ông viết nhật kư miêu tả lại những suy nghĩ thất vọng của ḿnh về điều mà ông được tuyên truyền trước đây. Chính tập nhật kư này khiến ông bị bắt và kéo dài nhiều năm khốn khó trong ḷng chế độ.

    Trần Vàng Sao nói với chúng tôi về tác phẩm một cách ngắn ngủi v́ ông không c̣n nhớ nhiều chi tiết và quan trọng hơn, ông không thích nhắc lại những ngày đau buồn ấy:

    “Bây giờ tui cũng không nhớ nữa, nhưng bản thảo tôi c̣n giữ ở đây. Giải phóng xong chỉ năm sau là tôi viết liền, khoảng năm 76 hay 77 ǵ đó kẻo quên. Nguyên nhân như thế này: Có thằng đồng chí với ḿnh, hắn ở chung với ḿnh nhưng hắn lục nhật kư với thơ của ḿnh hắn xem rồi hắn đem tŕnh với cấp trên. Rồi họ vô… thôi nói tắt như vầy: họ lục vali của tôi họ lấy tất cả. Tôi bị bắt sau đó viết ra mọi chuyện, rồi anh em họ lấy họ đi photo copy v́ lúc ấy không có vi tính ǵ như bây giờ.

    Họ đưa cho bạn bè và cuối cùng th́ lọt vào Sài G̣n. Thỉnh thoảng có mấy người ở đâu đó họ nói, ui chao, có viết hồi kư không? Tôi nói dạ, viết chớ sao lại không? Viết v́ ḿnh biết chữ biết nghĩa nên phải viết. Cuốn nhật kư th́ khi ở trên rừng năm nào cũng viết hết. Tôi ở trên rừng như vậy là 6 năm. Nó bắt 4 năm, trên rừng 6 năm, toàn bộ là 10 năm. Cho tới năm 1975 tôi mới về Huế.”

    Cũng trong năm 2005, một bài thơ của Trần Vàng Sao được chọn đứng chung với 100 bài thơ hay nhất của Thế kỷ 20 đó là bài “Bài thơ của một người yêu nước ḿnh”.

    Nói về bài thơ này Trần Vàng Sao cho biết:

    “Bài đó làm trong rừng, năm đó tôi bị thương nằm dưới hầm trong trạm xá và viết. Mấy đứa nhỏ bây giờ có đứa nào theo Việt cộng sớm như tôi đâu. Không có chi hối hận cả. Câu hỏi này anh em hay hỏi là có hối hận khi theo Việt cộng không? Không! Không có ǵ hối hận cả, có chi phải hối hận?”

    Bài thơ của một người yêu nước ḿnh

    Buổi sáng tôi mặc áo đi giầy ra đứng ngoài đường
    Gió thổi những bông mía trắng bên sông
    Mùi tóc khô c̣n thơm lúa mùa qua
    Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà
    Những đứa trẻ đứng nh́n ngấp nghé
    Tôi yêu đất nước này như thế
    Mỗi buổi mai
    Bầy chim sẻ ngoài sân
    Gió mát và trong
    Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng
    Tôi vẫn sống
    vẫn ăn
    vẫn thở
    như mọi người
    đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
    một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu
    một vết bùn khô trên mặt đá
    không có ai chia tay
    cũng nhớ một tiếng c̣i tàu
    Mẹ tôi thức khuya dậy sớm
    năm nay ngoài năm mươi tuổi
    chồng chết đă mười mấy năm
    thủa tôi mới đọc được i tờ
    mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần
    nước sông gạo chợ
    nhà hai buổi nhà không khi nào vắng người đ̣i nợ
    sống qua ngày nên phải nghiến răng
    cũng không vui nên mẹ ít khi cười
    những buổi trưa buổi tối
    ngồi một ḿnh hay khóc
    vẫn thở dài mà không nói ra
    thương con không cha
    hẩm hiu côi cút
    tôi yêu đất nước này xót xa
    mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng
    thương tôi nên ở goá nuôi tôi
    những đứa nhà giàu hàng ngày chửi bới
    chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc như cho một đứa hủi
    ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới
    thắp ba cây hương
    với mấy bông hải đường
    mẹ tôi khóc thút thít
    cầu cha tôi phù hộ tôi nên người
    con nó c̣n nhỏ dại
    trí chưa khôn chân chưa vững bước đi
    tôi một ḿnh nuôi nó có kể chi mưa nắng
    tôi yêu đất nước này cay đắng
    những đêm dài thắp đuốc đi đêm
    quen thân rồi không ai c̣n nhớ tên
    dĩ văng đè trên lưng thấm nặng
    áo mồ hôi những buổi chợ về
    đời cúi thấp
    giành từng lon gạo mốc
    từng cọng rau, hột muối
    vui sao khi c̣n bữa đói bữa no
    mẹ thương con nên cách trở sông đ̣
    hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc
    đêm nào mẹ cũng khóc
    đêm nào mẹ cũng khấn thầm
    mong con khôn lớn cất mặt với đời
    tôi yêu đất nước này khôn nguôi
    tôi yêu mẹ tôi áo rách
    chẳng khi nào nhớ tuổi ḿnh bao nhiêu
    Tôi bước đi
    mưa mỗi lúc một to
    sao hôm nay ḷng thấy chật
    như buổi sáng mùa đông chưa có mặt trời mọc
    con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua
    nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước
    chim đậu trên cành chim không hót
    khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may
    tôi yêu đất nước này những buổi mai
    không ai cười không tiếng hát trẻ con
    đá đất cỏ cây ơi
    mười ba năm có héo ṃn
    đá đất cỏ cây ơi
    ḷng vẫn thương mẹ, nhớ cha
    ăn quán nằm cầu
    hai hàng nước mắt chảy ra
    mỗi đêm cầu trời khấn Phật cho tai qua nạn khỏi
    ngày mai mua may bán đắt
    tôi yêu đất nước này áo rách
    căn nhà dột phên không ngăn nổi gió
    vẫn yêu nhau trong từng hơi thở
    ḷng vẫn thương cây nhớ cội hoài
    thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai
    tôi yêu đất nước này như thế
    như yêu cây cỏ trong vườn
    như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương
    nuôi tôi thành người hôm nay
    yêu một giọng hát hay
    có bài mái đẩy thơm hoa dại
    có sáu câu vọng cổ chứa chan
    có ba ông táo thờ trong bếp
    và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen
    tôi yêu đất nước này và tôi yêu em
    thủa tóc kẹp tuổi ngoan học tṛ
    áo trắng và chùm hoa phượng đỏ
    trong bước chân chim sẻ
    ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi
    hay nói chuyện huyên thuyên
    chuyện trên trời dưới đất rất lạ
    chuyện bông hoa mọc một ḿnh trên đá
    cứ hay cười mà không biết có người buồn
    sáng hôm nay gió lạnh vẫn c̣n
    khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại
    ngó cây cam cây cải
    thương mẹ già như chuối ba hương
    em chưa buồn
    v́ chưa rách áo
    tôi yêu đất nước này rau cháo
    bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu
    áo đứt nút qua cầu gió bay
    tuổi thơ em hăy giữ cho ngoan
    tôi yêu đất nước này lầm than
    mẹ đốt củi trên rừng và cha làm cá ngoài biển
    ăn rau ŕu, rau éo, rau trai
    nuôi lớn người từ ngày mở đất
    bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
    một tấc ḷng cũng trứng Âu Cơ
    một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng
    Tôi đi hết một ngày
    gặp toàn người lạ
    chưa ai biết chưa ai quen
    không biết tuổi không biết tên
    cùng sống chung trên trái đất
    cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam
    cùng có chung tên gọi Việt Nam
    mang vết thương chảy máu ngoài tim
    cùng nhức nhối với người chết oan ức
    đấm ngực giận hờn tức tối
    cùng anh em cất cao tiếng nói
    bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đ̣i độc lập tự do
    bữa ăn nào cũng phải được no
    mùa lạnh phải có áo ấm
    được ca hát, nói cười, yêu đương không ai cấm
    được thờ cúng những người ḿnh tôn kính
    hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định
    Tôi trở về căn nhà nhỏ
    đèn thắp ngọn lù mù
    gió thổi trong lá cây xào xạc
    vườn đêm thơm mát
    bát canh rau dền có ớt ch́a vôi
    bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc
    mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái Tử
    đất nước hôm nay đă thấm hồn người
    ve sắp kêu mùa hạ
    nên không c̣n mấy thu
    đất nước này c̣n chua xót
    nên trông ngày thống nhất
    cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam
    cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc
    ḷng vui hôm nay không thấy chật
    tôi yêu đất nước này chân thật
    như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
    như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
    và yêu tôi đă biết làm người
    cứ trông đất nước ḿnh thống nhất

    Giống như các nhà văn nhà thơ trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, sau khi nhiều tiếng nói cất lên đ̣i hỏi trả lại công bằng cho, họ nhà nước đă lặng lẽ cho in lại những tác phẩm của nhiều người trong đó có Phùng Quán, Trần Dần, Lê Đạt hay Hoàng Cầm; tuy nhiên những nạn nhân này không hề được một lời xin lỗi cho những năm tháng tù đày oan ức của họ dù công khai hay ở chốn riêng tư.

    Trần Vàng Sao cũng vậy, một bài thơ được công nhận có thể đối với nhiều người là quá đủ nhưng đối với một nhà thơ họ cần nhiều điều hơn thế.

    Trong kỳ tới chúng tôi sẽ giới thiệu thêm những bài thơ khác của Trần Vàng Sao để thính giả hiểu rơ hơn nhân cách và sự sáng tạo của một nhà thơ tài năng nhưng bị vùi dập v́ không nói theo tiếng nói chung của đảng.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 4
    Last Post: 21-07-2011, 09:47 AM
  2. Replies: 14
    Last Post: 13-07-2011, 06:23 AM
  3. Replies: 1
    Last Post: 24-01-2011, 05:43 PM
  4. Phải Phá Bỏ Cái Ṿng Lẩn Quẩn!
    By Hoai Nam in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 20-12-2010, 10:40 AM
  5. Replies: 6
    Last Post: 11-12-2010, 05:34 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •