Page 4 of 4 FirstFirst 1234
Results 31 to 40 of 40

Thread: Tác giả / Tác phẩm

  1. #31
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Văn Cao: một thiên tài bị lưu đày
    Trần Mạnh Hảo (Danlambao) -
    P2




    Nhà thơ NGHIÊM BẰNG - THU HÀ ghi
    http://vietbao.vn/Van-hoa/Mua-xuan-d.../40186268/181/

    Nhạc sĩ Văn Cao (Ảnh: thethaovanhoa.vn)

    Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong tác phẩm “ Đêm giữa ban ngày”, kể lại lời Văn Cao nói với ông về Tố Hữu hay Trường Chính chủ trương đánh “Nhân Văn”, kể lại chuyện ông lănh tụ Trường Chinh cho gọi Nguyễn Tuân và Văn Cao lên cảnh cáo sau vụ “ Nhân Văn – Giai Phẩm” < *1 *> (xem thú thích dưới bài)

    Ảnh: nhạc sĩ Văn Cao viết “Tiến quân ca” lúc 21 tuổi - Ảnh do tác giả cung cấp

    Xuân Diệu đấu tố Văn Cao là trùm phản động, là đầu sỏ chống cộng < *2*> (xem chú thích cuối bài)

    Với tất cả tội trạng tày trời do Xuân Diệu đấu tố Văn Cao công khai trên báo chí, tội của Văn Cao có khi c̣n to hơn tội của bà nhà văn Thụy An và ông Nguyễn Hữu Đang (cùng bị án 15 năm tù giam, 05 năm quản thúc v́ hai người này bị cho là đầu sỏ gây ra vụ án chống đảng “ Nhân văn – giai phẩm”). Sở dĩ Văn Cao thoát tù mọt gông v́ ông chính là tác giả Quốc ca.

    Ngay sau vụ “Nhân Văn”, nhà nước cộng sản tính lấy một bài hát “Cách mạng tiến quân” của Đỗ Nhuận làm bài quốc ca, thay bài “Tiến quân ca” của Văn Cao nhưng việc không thành. Mấy năm sau, năm 1981 nhà nước mở cuộc thi quốc ca trong suốt hai năm, quyết thay bài hát của tên phản động đang bất đắc dĩ dùng làm quốc ca; nhưng mấy trăm bài dự thi thay đổi quốc ca, không bài nào được chọn (v́ quá tẻ nhạt) để thay thế bài ca lịch sử của Văn Cao.

    Nếu không có bài quốc ca che chắn, có lẽ Văn Cao có thể đă chết trong tù Cộng sản? Một Văn Cao mềm mỏng, nồng nàn, say đắm, lăng mạn tận cùng (với các ca khúc bất diệt: “Buồn tàn thu”, “Suối mơ”, “Bến xuân”, “Trương Chi”, “Thiên Thai”...) trong một Văn Cao tỉnh bơ, quyết liệt, lạnh băng, thần kinh thép, thậm chí dữ dằn, sắt máu: “thề ăn gan uống máu quân thù”... “đường ta đi xây xác quân thù”... đến cùng tận khi một ḿnh một xe đạp, đến tiệm hút thuốc phiện ở Hải Pḥng, dương khẩu súng lục số 7165 của tổ chức (do Nguyễn Đ́nh Thi trao) nhắm thẳng vào đầu Đỗ Đức Phin (bị Việt Minh cho là tay sai của Nhật) tuyên án từng lời đanh thép: tao bắn mày v́ mày là Việt gian tay sai giặc Nhật! Đoạn, Văn Cao bóp c̣ súng cái đoàng, đầu Đỗ Đức Phin nức toác, tóe máu; rồi ông thủng thẳng nhét súng vào thắt lưng, đủng đỉnh đạp xe đi như đang dạo mát...

    Sau này, cả cuộc đời c̣n lại, Văn Cao vô cùng ân hận v́ đă bắn chết một con người là Đỗ Đức Phin. Đến nỗi, sự sám hối quằn quại khôn xiết này đă khiến ông không c̣n dám gơ lên piano những giai điệu lăng mạn tuyệt đẹp thuở ban đầu kiểu “Suối mơ”, “Bến xuân”... nữa; v́ ông có cảm giác tay ḿnh c̣n nhuốm máu đồng loại. Thế mà, có những kẻ vô lương tâm, can dự vào việc giết chết hàng chục triệu đồng bào vô tội của ḿnh mà vẫn vênh mặt tự hào, chẳng một chút ăn năn sám hối!

    Nghe nói Văn Cao c̣n bắn sẩy (bắn hụt) hai mật thám Nhật tại Hà Nội là Cung Đ́nh Vạn và Vơ Văn Cẩm (không biết có phải v́ ông căm thù quân Nhật từng giết bố vợ ḿnh là cụ Nghiêm Xuân Huyến - một chủ báo, chủ xuất bản lớn Hà Nội từng bị Nhật thủ tiêu trong tù?). Một con người như thế không dễ ǵ thỏa hiệp, đầu hàng, thà chết cho điều ḿnh tin yêu hơn là phải sống như một chiếc bóng trong suốt hơn ba mươi năm bị giam lỏng trong án tù thả rông: “Nhân văn - Giai phẩm”...

    Có lần, Văn Cao kể cho người viết bài này (trong một bàn rượu đơn sơ “cuốc lủi”, lạc rang, đậu phụ mắm tôm, với bạn tâm giao: nhà văn Mạc Phi, nhà văn Sơn Tùng...) rằng: “Sau vụ Nhân Văn, anh em “chống đảng” chúng tôi, ngoài mấy người bị án tù 15 năm, tất cả đều bị đi cải tạo lao động trên Tây Bắc. Trong chặng đường đi đày trên tàu hỏa, dù tôi đang đau dạ dày nặng sắp chết vẫn bị điệu đi, mấy lần tôi đă toan nhảy xuống đường tự tử khi tàu chạy, nhưng h́nh bóng đàn con lóe lên trong đầu như ánh chớp, h́nh bóng bà Băng (bà Nghiêm Thúy Băng – phu nhân nhạc sĩ) c̣ng lưng nuôi đàn con bơ vơ mất bố, tôi liền bỏ ư định tự sát để tiếp tục sống hèn mà trở về nuôi con...”

    Có lẽ men “cuốc lủi” làm Văn Cao cảm động, tay ông run run, kể tiếp: “Thảm nhất là khi ở nơi cải tạo lao động, đến bữa ăn, cứ thấy ḿnh ngồi bàn nào là anh em (cùng bị đi đày lao động) lại t́m sang bàn khác ngồi, không ai chịu ngồi cùng bàn ăn với kẻ đầu sỏ Nhân Văn, đến nỗi chị nuôi trại đi đày phải xẻ một suất cơm ôi cá thối cho tôi ngồi một ḿnh một bóng mà ăn cho khỏi chết đói chứ nào có ngon lành ǵ...”

    Ngày 30 tháng tư 1975, ngày kết thúc 30 năm chiến tranh, theo mấy người con và mấy người bạn thân của nhạc sĩ kể lại, Văn Cao im lặng không nói ǵ, không reo mừng ḥ hét vỗ tay vỗ chân rầm rập trong hàng ngh́n ca khúc khẩu hiệu điếc tai như phần lớn đồng nghiệp đă hét. Có lẽ, ông nghĩ rằng, nhờ chiến thắng này mà có thể thân phận “tù tại ngoại” của ông cũng sẽ được giải phóng, thoát án giam lỏng nhân văn chăng?

    Dồn nén khát vọng tự do mấy chục năm, dồn nén khát vọng ḥa b́nh mấy chục năm, dồn nén khát vọng mùa xuân mấy chục năm, dồn nén khát vọng thoát khỏi “nhà giam tư nhân” mấy chục năm, dồn nén khổ đau buồn hận mấy chục năm, dồn nén oan ức bị chà đạp mấy chục năm, chợt một sáng cuối đông, đầu xuân năm 1976, vỡ ̣a cảm xúc, vỡ ̣a nước mắt nhỏ giọt yêu thương, nhỏ giọt mật đắng nghẹn ngào lên từng phím đàn thành giai điệu Văn Cao “Mùa xuân đầu tiên” chăng?

    Thành ra, “Mùa xuân đầu tiên” chính là lời reo vui của đắng cay, niềm rưng rưng kiếp nạn giải thoát, nỗi hoan ca ngục tù gặp nắng gió mênh mông...?

    Xin xem thêm tài liệu tổng kết vụ án “Nhân Văn - Giai Phẩm” (NVGP) của đại tá công an A 25 Thái Kế Toại đă in công khai trên rất nhiều trang mạng, để thấy thân phận của Văn Cao suốt ba mươi năm dưới chế độ “ưu việt gấp triệu lần tư bản” thê thảm là dường nào < *3 *> (xem chú thích cuối bài)

    Qua lời tự thú của vị đại tá công an phụ trách theo dơi văn hóa văn nghệ trên, ta thấy số phận kẻ trọng tội NVGP bị lưu đày trong chính căn pḥng ḿnh, trên chính quê hương ḿnh của Văn Cao và các bạn hữu NVGP của ông hầu như đă bị tước quyền công dân, tước hết quyền sáng tạo nghệ thuật, bị “giam tại nhà”, bị đấu tố, bị làm nhục, bị cải tạo lao động hà khắc; không khác mấy so với những kẻ thua trận Việt Nam cộng ḥa bị tù tội trong danh phận học tập cải tạo sau năm 1975...

    Không thấu hiểu hoàn cảnh sống bị chà đạp, bị lăng nhục, vùi dập, bị đói khổ, bị mất hết tự do nơi Văn Cao suốt ba mươi năm, chúng ta sẽ không cảm nhận được hết nỗi vui của người tù vừa t́m thấy một khe hở gió nắng, được vụt lóe với khói trên sông, với tiếng gà trưa hiu quạnh trong nỗi đau nghẹn ngào “Mùa xuân đầu tiên” này...

    Chính nỗi đau buồn kia đă đẩy Văn Cao tới chân tường của cô đơn, lưu đày ông vào ly rượu và khói thuốc. Chứng nghiện rượu đă giúp Văn Cao phần nào quên đi thực tại thê thảm, giúp ông có nghị lực để sống qua thời thương khó. Nhiều đêm, không ngủ được, thức khuya để t́m ảo giác trong men rượu, thấy bóng ḿnh in trên tường, Văn Cao chợt rùng ḿnh hoảng sợ, ngỡ là công an mật nửa đêm xuyên tường đến hỏi cung ông, suưt nữa làm ông co cẳng ù té chạy...

    Suốt một đời Văn Cao không chạy thoát khỏi bóng ḿnh, không thoát khỏi kiếp lưu đầy thiên bẩm của một nghệ sĩ lớn mà thời đại dường như không đủ chỗ cho ḿnh tỏa bóng. Đành thu bóng lại như con mèo nghệ thuật nằm cuộn tṛn trong đống tro tàn cải tạo tại gia mà ăn năn hối cải về tội chống đảng của ḿnh.

    Đâu rồi chàng trai Văn Cao yêu đời, yêu người, tự do tự tại, thanh b́nh, phiêu lăng miền thiên giới, thần tiên sống lẫn con người, lăng mạn tới tận cùng chân trời góc bể trong những ca khúc tiền chiến tuyệt tác? Xin cùng nghe lại bản nhạc đầu tay tuyệt diệu của trang thiếu niên 16 tuổi, và xem lại lời của ca từ “ Buồn tàn thu”:

    Buồn Tàn Thu

    Ai lướt đi ngoài sương gió, Không dừng chân đến em bẽ bàng, Ôi vừa thoáng nghe em mơ ngay bước chân chàng, Từ từ xa đường vắng. Đêm mùa thu chết, nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng. Em ngồi đan áo ḷng buồn vương vấn, em thương nhớ chàng. Người ơi c̣n biết em nhớ mong, T́nh xưa c̣n đó xa xôi ḷng. Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên Chim với gió bay về, chàng quên hết lời thề. Áo đan hết rồi, cố quên dáng người, Chàng ngày nào t́m đến? C̣n nhớ đêm xưa kề má say sưa Nhưng năm tháng qua dần, mùa thu chết bao lần. Thôi t́nh em đấy, như mùa thu chết rơi theo lá vàng.

    “Buồn tàn thu” một nỗi buồn đẹp, trong veo dù t́nh em tưởng “chết rơi theo lá vàng”. Cái buồn của t́nh yêu “ em thương nhớ chàng” Văn Cao kết hợp hồn nhạc ngũ cung với chất khải huyền Thánh ca Thiên Chúa giáo rất cổ thi; như người chinh phụ nhớ chinh phu “ Chinh phụ ngâm” Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm, như thần thiếp nhớ quân vương “ Cung oán ngâm khúc” Nguyễn Gia Thiều, Kiều nhớ Thúc Sinh trong mùa thu chết “Rừng phong thu đă nhuốm màu quan san” Nguyễn Du thuở lục bát “ người lên ngựa, kẻ chia bào” của “ bụi hồng dặm cuốn chinh an”...

    Cái buồn của con người gặp cái buồn của trời đất, rất “ mang mang thiên cổ sầu” Văn Cao. Chàng thiếu niên 16 tuổi đă kư thác đời ḿnh trong vàng thu lá chết, lấy lá vàng mùa thu làm chiếc diều của của nghệ thuật muôn đời siêu thoát. Chàng tự lưu đày ḿnh vào mùa thu một cách tự nguyện. Chàng chết đuối theo vàng thu ch́m nghỉm để bất tử trong giai điệu du dương, sang trọng, như danh họa Nga gốc Do Thái Levitan phó linh hồn cho mùa thu Nga vĩnh cửu sơn dầu...

    Ngay từ 16 tuổi, bằng sự lăng mạn tận cùng qua “ Buồn tàn thu”, Văn Cao đă sung sướng được đắm ch́m vào vương quốc Cái - Đẹp. Chàng dùng nỗi buồn làm rượu, làm lương thực hằng sống nuôi dưỡng những giai điệu du dương lăng mạn đẹp nhất của nền tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu trong năm kiệt tác vô song:” Buồn tàn thu”, “ Suối mơ”, “ Bến xuân” (lời Phạm Duy) “ Trương Chi” và “ Thiên Thai”...

    Dường như năm bản nhạc lăng mạn trên là năm bản thánh ca của tâm hồn con người, đưa ta thoát mọi phàm tục để được thánh hóa, được thăng hoa tới muôn vàn mê đắm, thoát khỏi hận thù mà bất tử với thương yêu? Bản t́nh ca của nỗi buồn, của Cái - Đẹp ban sơ được hát lên cùng thiên giới thiêng liêng niềm hoài niệm trần thế; nơi suối nguồn róc rách mê ly chảy ra từ năm ḍng kẻ nhạc Văn Cao, theo giai điệu thiên thần réo rắt thanh tao kia mà rót vào hồn ta hơi thở đất trời, rót vào tai ta chất men say của niềm ham sống, của tin yêu và hoài vọng. Âm nhạc Văn Cao nâng cánh con người bay lên cơi đẹp, cơi mê, cơi thần tiên, cơi hằng sống là v́ thế chăng?

    Chừng như Văn Cao đă ngầm kư gửi thân phận ḿnh vào hai ca khúc lăng mạn một cách siêu nhiên có phần kỳ bí, huyền nhiệm: “ Thiên thai” và “ Trương Chi”, vừa mang phong cách cao sang, nền nă, cổ điển của nghệ thuật Apollon - thần ánh sáng và thi ca, vừa mang phong cách ma mị, xuất thần, cuồng si của nghệ thuật Dionysos - thần rượu nho (theo quan niệm về bi kịch Hy Lạp của Nietzsche)?

    Văn Cao, ngay từ độ đôi mươi, đă tự đày ải ḿnh lên miền thiên giới trong đại kiệt tác “ Thiên Thai”. Cuộc nhập “Thiên Thai” ấy không chỉ có hai chàng Lưu Nguyễn mà thực ra đă có ba chàng: người tham gia khí muộn vụ thiên hành lên cơi tiên ấy chính là Văn Cao:

    Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
    Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên
    Kià đường lên tiên, ḱa nguồn hương duyên
    theo gió tiếng đàn xao xuyến
    Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền
    Mấy cung tŕu mến như nước reo mạn thuyền

    Âm ba thoáng rung cánh đào rơi
    Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
    Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
    Quê hương dần xa lấp núi ngàn
    Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền
    Ai hát trên bờ Đào Nguyên

    Thiên Thai chốn đây Hoa Xuân chưa gặp Bướm trần gian
    Có một mùa đào ḍng ngày tháng chưa tàn qua một lần
    Thiên Tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
    Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn

    Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quyên
    đây đó nỗi ḷng mong nhớ
    Này khúc bồng lai
    là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi
    Đàn xui ai quên đời dương thế
    Đàn non tiên đàn khao khát khúc t́nh duyên

    Thiên Thai! Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
    Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần

    Gió hắt trầm tiếng ca tiếng phách ṛn lắng xa
    Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn ḷng ta

    Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn quên trần hoàn
    Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
    Nhớ quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về
    Tiên nữ ơi!
    Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về
    T́m Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao?
    Những khi chiều tà trăng lên
    Tiếng ca c̣n rền trên cơi tiên

    Văn Cao và hai chàng Lưu Nguyễn đă nhập “Thiên Thai” nghệ thuật. Nơi đó, Cái Đẹp chính là tiên nữ, khởi nguồn mọi xúc cảm hồn người. Nghệ thuật, nói cho cùng KHÔNG VỊ BẤT CỨ ĐIỀU G̀, v́ nó là cái chân thiện mỹ đă được thánh hóa, được đóng dấu thiên giới cao sang. Tột cùng của nghệ thuật là sự thoát tục, sự thăng hoa con người lên những thế giới khác, tâm hồn khác, rung động khác, mê ly khác, ảo diệu khác... do con đ̣ của tưởng tượng chở ta sang bờ bên kia của sự thật, bờ bên kia của thế giới.

    Những giai điệu thần tiên mê ly hết mực Văn Cao đă đưa hồn ta du nhập cùng ba chàng lăng tử Lưu - Nguyễn - Văn vào cơi trời. Thiên Thai ấy, tiên nữ ấy, nghê thường ấy hóa ra không ở đâu xa, lại ở chính nơi hồn ta khi được âm nhạc thiên tài Văn Cao đánh thức...

    Văn Cao hóa thân vào bi kịch nghệ thuật Trương Chi, hay chính hồn chàng Trương Chi đă ám lấy cuộc đời Văn Cao trong một ca khúc hay đến rợn người, hay đến ngờ có ma trong giai điệu du dương ch́m lắng, thê lương, rờn rợn liêu trai, khuya khoắt ngồi nghe một ḿnh có thể nổi da gà:

    Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ
    Trầm trầm không gian mới rung thành tơ
    Vương vất heo may hoa yến mong chờ
    Ôi, tiếng cầm ca thu tới bao giờ.

    Ḷng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang,
    Chập chùng đêm khuya thức ai pḥng loan
    Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng
    Đây đó từng song the hé đợi đàn.

    Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân
    Ḥ khoan mơ bóng con đ̣ trôi
    Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi, lả lơi bên trời

    Anh Trương Chi
    Tiếng hát vọng ngàn xưa c̣n rung,
    Anh thương nhớ.
    Oán trách cuộc từ ly năo nùng.

    Đ̣ trăng cắm giữa sông vắng.
    Gió đưa câu ca về đâu?
    Nh́n xuống đáy nước sông sâu.
    Thuyền anh đă ch́m đâu!
    Từng khúc nhạc xa vời
    Trong đêm khuya d́u dặt tiếng tơ rơi.
    Sương thu vừa buông xuống
    Bóng cây ven bờ xa mờ xóa ḍng sông

    Ai qua bến giang đầu tha thiết,
    Nghe sông than mối t́nh Trương Chi
    Dâng úa trăng khi về khuya,
    Bao tiếng ca ru mùa thu.

    Ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn
    C̣n nghe như ai nức nở và than,
    Trầm vút tiếng gió mưa
    Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng?
    Ḷng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn
    Về phương xa ai nức nở và than,
    Cùng với tiếng gió vương,
    Nh́n thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đ̣ xưa.

    Đ̣ ơi! Đêm nay ḍng sông Thương dâng cao
    Mà ai hát dưới trăng ngà
    Ngồi đây ta gơ ván thuyền,
    Ta ca trái đất c̣n riêng ta.
    Đàn đêm thâu
    Trách ai khinh nghèo quên nhau,
    Đôi lứa bên giang đầu.
    Người ra đi với cuộc phân ly,
    Đâu bóng thuyền Trương Chi?

    Bi kịch Trương Chi chính là bi kịch của nghệ thuật, bi kịch cuộc đời, hơn nữa là bi kịch của thiên tài và thời đại, bi kịch của Văn Cao và chế độ…H́nh như Văn Cao đă đổi vai cho chàng ca sĩ thiên tài Trương Chi trong câu chuyện cổ diễm t́nh, được kể lại bằng hồn Văn Cao với giai điệu bi ca, khốc ca, hú ca, Mỵ Nương ca?

    Hồn Trương Chi u uẩn, u u trong gió sương vương vấn trên sông, đêm đêm đă lấy đi hết nước mắt nàng Mỵ nương ân hận ngh́n đời. Nay hồn ấy, t́nh đơn phương yêu đến chết ấy lại nhập vào hồn Văn Cao với giai điệu sầu thương, nức nở, lấy đi bao giọt khóc của người nghe nhạc hôm nay.

    Thương thay chàng Trương Chi Văn Cao đă dâng hiến cả tâm hồn và thân xác ḿnh cho t́nh yêu con người, cho t́nh yêu thời đại, yêu đến nỗi cuồng điên kiểu Xuân Diệu: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” nhưng đă bị thời đại đáp lại bằng “cú đớp chính trị” Nhân Văn Giai Phẩm tàn mạt cả một đời.

    Nàng Mỵ Nương cuộc đời, nàng Mỵ Nương thời đại không chấp nhận t́nh yêu đơn phương tận hiến ấy, yêu và ca hát như con ve tới chết cho nàng, v́ nàng, một t́nh yêu phi điều kiện, phi chính trị. Cũng như Trương Chi, Văn Cao đă bị nàng Mỵ Nương - Thời đại phụ t́nh, hớp hết hồn chàng, rút hết gan ruột chàng trong các ca khúc kháng chiến bất hủ: “Trường ca Sông Lô”, trong “ Tiến quân ca”, trong “ Làng tôi”, trong “Tiến vế Hà Nội”, trong “ Ngày mùa”… ăn ốc đổ vỏ, rồi nhốt chàng vào mật thất cô đơn như một huyệt mộ của tự do trá h́nh có tên là căn gác chật hẹp 108 Yết Kiêu, Hà Nội, thuê 15 đồng một tháng (ở tù tại gia mà phải thuê a?)...

    Trương Chi đă yêu, đă chết cho mối t́nh lư tưởng đơn phương, thân xác tan vào sông nước và hồn hóa thành đá quư làm chén ngọc cho Mỵ Nương gieo nước mắt thương t́nh thành sông. Văn Cao không ném thân xác ḿnh vào cát bụi để được chết v́ yêu như Trương Chi; nhưng linh hồn ông, âm nhạc ông đă đang và măi măi sẽ được người đời yêu thương đón nhận. Hồn Văn Cao c̣n hát măi tiếng tuyệt vời Trương Chi trên ḍng sông âm nhạc, nơi sẽ có hàng ngh́n Mỵ Nương xinh đẹp mong ước chàng sống lại để hậu thế được yêu chàng như lời thơ R. Tagore vẽ hộ t́nh yêu mai sau dành cho chàng Trương Chi - Văn Cao:

    “Nàng ơi / tất nhiên là nàng sẽ ra đời / trong một thế kỷ nào đó / xin nàng tha thứ cho / nếu quả v́ tôi kiêu hănh / vẽ dáng nàng đang đọc thơ tôi / khi trăng rọi im ĺm qua khe chữ / tôi biết đêm nay / dưới trăng mờ / nàng thắp đèn chờ / dù nàng biết chẳng bao giờ nhà thơ (nhạc sĩ - chua thêm TMH) đến nữa …” (bản dịch từ tiếng Anh của Cao Huy Đỉnh)

    Tiền bối Văn Cao ơi!

    Âm nhạc sang trọng bậc nhất nước Việt của ông c̣n sống măi. Những bài hát rất hay, rất quư phái cao sang đầy chất thánh ca của ông vẫn hằng tụng ca con người, tụng ca Cái Đẹp, như một cứu cánh góp phần cứu chuộc dân tộc ta, đất nước ta đang có cơ bị diệt vong bởi chính sự băng hoại của những tà thuyết phi nhân. Xin được gọi ông bằng tên gọi thường nhật tŕu mến nhất mà thế hệ đi sau ông vẫn hằng được gọi thầm tên ông: ANH VĂN; như ngày xưa thi thoảng được hầu rượu ông nơi quán rượu gần rạp xiếc. Vâng, anh Văn suốt một đời sống chết cũng chỉ v́ hai chữ Nhân Văn thiêng liêng, cao cả này mà thôi...

    Sài G̣n ngày 23-01-2013

    Trần Mạnh Hảo
    danlambaovn.blogspot .com

    ____________________ _____________

    Phần chú thích:

    Chú thích <*1*>:

    “Tố Hữu ấy à? Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa ḿnh, có làm khổ ḿnh thật, do ḷng đố kỵ mà ra. Ḿnh cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói ǵ th́ nói, trong ḷng Tố Hữu vẫn c̣n một chút ǵ của nhà thơ chứ. Bề ngoài th́ thế đấy - Tố Hữu lănh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn - Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê b́nh thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche (tiếng Pháp, có nghĩa là cuộc quân hành dài, ư nói Trường Chinh) mới là kẻ sáng tác ra vụ Nhân văn - Giai phẩm. Để chạy tội Cải cách ruộng đất. Để tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của Lúy[2] vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai khác. Đừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp! Longue Marche c̣n cho mời ḿnh và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế - bất cần đời. Đôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Ḿnh nói với Longue Marche: "Nếu trong vườn hồng có sâu th́ ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Đổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy th́ chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được!" Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi ḿnh đến c̣n có ư này nữa: Lúy muốn ḿnh phải hiểu - tôi đă chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ c̣n cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?.
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_t...i_Ph%E1%BA%A9m

    Chú thích <*2*>:

    "Những tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhăn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đă thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lư và tiến bộ. (...)

    Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối mùa đồi trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đă ngộ độc rất nặng. (...)

    Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái khinh bạc tột độ của ḿnh, không coi nhân quần ra cái ǵ hết, chỉ có một ḿnh ḿnh trên trái đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm khí nặng nề:

    Ngồi đây ta gơ mạn thuyền
    Ta ca trái đất c̣n riêng ta! (...)

    Những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, những ư nghĩ phiêu lưu, t́m thi vị xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng nhiều người; mơ ước “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một trạng thái của ḷng yêu nước.

    Nhưng ta phải giật ḿnh khi nhớ lại những lời hát:

    Ta là đàn chim bay trên mây xanh
    Mắt nh́n trong khói những kinh thành tan...
    ...Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng

    Ta không trách tŕnh độ chính trị của ta và của tác giả khi đó c̣n thấp. Chúng ta giật ḿnh v́ cái lối bay để mà bay, tự say lấy ḿnh đó là tiền thân của cái lối “Hăy đi măi” của Trần Dần; chúng ta giật ḿnh hơn nữa là cái máu anh hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nh́n thấy “những kinh thành tan” dưới bom đạn mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại là của “không quân Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ!

    Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ư tốt, nhưng cũng bộc lộ cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan ră, như bài "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc", hay như bài "Ngoại ô mùa đông 46" (Văn nghệ số 2, tháng 4-5/1948):

    Ta đi trong nhà đổ
    Nghe thời gian đă nhạt khúc ân t́nh
    Tuy pḥng the chiếc áo trẻ sơ sinh
    C̣n xiêm hài dành hương phấn cũ…
    ...
    Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp
    Gió lạnh khi qua viện tàng thư
    Cháy cong queo, b́a giữ chút di từ
    Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche… (...)

    Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói ǵ. Văn Cao gọi ai là “chúng nó”? Đối lập với ai là “chúng ta”?

    Bao giờ nghe được bản t́nh ca
    Bao giờ b́nh yên xem một tranh tĩnh vật
    Bao giờ
    Bao giờ chúng nó đi tất cả (...)

    Trên đất nước ta, “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm; chúng nó là thế đấy (...)

    Những con người của chúng ta, từ Cách mạng tháng Tám đến nay, xuất hiện, trưởng thành dần dần và mănh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, dù chúng ta có c̣n khuyết điểm, nhược điểm ǵ, cả Trái đất cũng biết chúng ta vĩ đại!" (Xuân Diệu, Dao có mài mới sắc Nxb Văn học, Hà Nội 1963, tr. 101-114. Bản điện tử do Lại Nguyên Ân cung cấp, tài liệu Talawas)
    http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/2010...n-xiii-van-cao

    Chú thích <*3*>:

    “VỤ NHÂN VĂN – GIAI PHẨM TỪ GÓC NH̀N CỦA ĐẠI TÁ CÔNG AN
    Được đăng bởi nguyentrongtao và VANDANVIET.COM

    NTT: Nhà văn Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo giơi văn nghệ sĩ và văn hóa) đă gửi tới NTT.ORG một chuyên luận dài về Nhân Văn Giai Phẩm, và chúng tôi đă đăng làm 5 kỳ từ đầu tháng 8/2010, được nhiều trang mạng đăng lại. Nay tác giả đă chỉnh sửa lại bài viết của ḿnh và nhờ NTT.ORG đăng lại trọn vẹn bài viết này. Các bạn hăy đọc nó như đọc một “góc nh́n” về sự thật.

    VỤ NHÂN VĂN – GIAI PHẨM MỘT TRÀO LƯU DÂN CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH TÂN VĂN HỌC KHÔNG THÀNH - LÊ HOÀI NGUYÊN
    Xin trích một số đoạn trong tài liệu này, để chứng minh phong trào Nhân Văn Giai Phẩm 1955 -1958 chỉ là một trào lưu t́m dân chủ, t́m tự do cho văn học nghệ thuật, không hề mang tính phản động, lật đổ chế độ như chính quyền cộng sản đă vu cáo, để đàn áp các đồng chí của Văn Cao một cách khốc liệt, như từng xảy ra mà đại tá công an A 25 Thái Kế Toại đă chứng minh và kết luận một cách khoa học, thấu t́nh đạt lư, khiến kẻ viết bài này miễn b́nh luận:

    “Tác giả (tức đại tá công an A 25 Thái Kế Toại) tin rằng Nhân Văn – Giai Phẩm (NVGP) không phải là một vụ án gián điêp phản động. Các văn nghệ sỹ trí thức NVGP không có mục đích lật đổ chế độ. Họ chỉ mong muốn ĐCSVN, chính phủ sửa chữa những sai lầm và xây dựng ngay một nền dân chủ pháp trị, một đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một đời sống văn học nghệ thuật tự do sáng tạo…

    …C̣n vụ án được đem xét xử công khai có thể nói đấy là một vụ án xử v́ mục đích chính trị chưa đủ chứng cứ cấu thành tội danh hoạt động gián điệp mà động cơ của nó có thể có sự lợi dụng để khuất lấp tai tiếng và bảo vệ vị trí của chính những người lănh đạo Đảng đă mắc sai lầm trong CCRĐ

    …Nội dung bản án kết tội NVGP trong phiên xử án như sau:

    “Chúng là những tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành,hoạt động có tổ chức, thực hiện âm mưu của địch, tiến hành những hoạt động chiến tranh tâm lư đê hèn nhất, những hoạt động phá hoại thâm độc nhất, để cuối cùng lật đổ chế độ chúng ta ở miền Bắc…”

    …- Nhà nước cộng sản huy động hầu hêt các phương tiện thông tin đại chúng của chính quyền tham gia phê phán. Báo Nhân Dân, Hà Nội Mới, Quân Đội Nhân dân, Tạp chí Học Tập, Tạp chí Văn Nghệ, Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Văn Nghệ Quân Đội, Tạp chí Điện Ảnh… Đặc trưng của các cơ quan ngôn luận cộng sản là chỉ cho phép sự phê b́nh chính thống, không cho phép người bị phê b́nh được nói lại…

    …-Huy động các cơ quan quản lư trí thức, văn nghệ sỹ tổ chức các cuộc kiểm thảo, phê b́nh đấu tố những người tham gia NVGP, sau khi đấu tố đương sự phải viết bản tự thú tội để công khai hóa trên các phương tiện tuyên truyền…

    …-Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của hệ thống công an để bắt bớ, đàn áp...

    …-Sử dụng các biện pháp quản lư hành chính như khai trừ Đảng, khai trừ BCH khai trừ hội viên các hội VHNT, treo bút không cho xuất bản tác phẩm có thời hạn hoặc vĩnh viễn, cách chức, chuyển công tác, hạ lương, đưa ra khỏi biên chế, bắt buộc cư trú ở những vùng xa Hà Nội, đưa đi cải tạo bằng lao động chân tay ở nông trường, nhà máy, hợp tác xă nông nghiệp…

    …- Ngoài ra gia đ́nh các đối tượng c̣n phải chịu sự đối xử khắc nghiêt của các cơ quan quản lư xă hội và toàn xă hội như việc học hành, thi cử, phân công công tác, lấy vợ lấy chồng…

    …Đáng lẽ có những h́nh thức kỷ luật chỉ có thời hạn vài ba năm nhưng cuối cùng kéo dài cho tới thời kỳ đổi mới. Các đối tượng hết hạn tù và quản chế đang là công dân b́nh thường nhưng vẫn bị quản lư như người mất quyền công dân…

    Nói chung là cái biện pháp tổng hợp ấy có một mănh lực vô h́nh ghê gớm, nó làm tê liệt ṃn mỏi sức lực và tinh thần của một bộ phận trí thức tinh hoa trong thời gian dài 30 năm…

    …Năm 1958 là năm đen tối của họ (NVGP), bị đấu tố, kỷ luật, ngồi tù, cải tạo lao động…

    …Trong thời gian này Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô, Mông Cổ, CHDCND Triều Tiên có ghé thăm Bắc Kinh, chứng kiến và có thể học hỏi các kinh nghiệm tổ chức phong trào đánh phái hữu. Việt Nam cử Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường sang học tập kinh nghiệm, chính sách của Trung Quốc…

    ... Bản thân Trường Chinh cũng không thể đẩy cao hơn tốc độ cuộc chiến chống NVGP v́ ông ta không c̣n đầy đủ quyền lực như trước nữa…

    …Phải nói rằng ngôn ngữ văn học miền Nam đă đi trước hiện đại hóa so với ngôn ngữ văn học miền Bắc mấy chục năm. Phải chăng đó là hậu quả của việc thủ tiêu cuộc cách mạng văn học của NVGP?”

    (hết trích bài của đại tá công an A 25 Thái Kế Toại)
    http://dotchuoinon.com/2011/04/10/v%...chu%E1%BA%A9n/

  2. #32
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Trầm Tử Thiêng
    “Bước Chân Việt Nam”, bản quốc ca cho những người Việt Nam thống khổ, lưu vong



    * HUY PHƯƠNG

    Tính đến ngày 25 tháng 1-2013 năm nay, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng bỏ chúng ta ra đi đúng 13 năm. Trầm Tử Thiêng là một người đă sống một cuộc đời khắc khổ, đạm bạc pha đôi chút cô đơn, lúc ra đi b́nh thản, lặng lẽ nhưng đă để lại cho đời một kho tàng âm nhạc vĩ đại, vĩ đại không ở chỗ nhiều người nghe, nhiều người thuộc như các tác giả thời danh khác, mà ở ông tấm ḷng của một người lưu lạc, luôn luôn tin tưởng vào đất nước một ngày mai. Nơi ông, suốt đời và nhất là những năm cuối cùng, hai chữ Việt Nam luôn luôn như một lời réo gọi chứa chan thương yêu ngọt ngào và đầy hy vọng.



    Nguyễn Văn Lợi (tên thật của ông) ra đời tại quận Đại Lộc, Quảng Nam năm 1937, đă lớn lên và trải qua thời thơ ấu trong Liên Khu Tư Nam Ngăi, những năm tháng chiến tranh và ông đă hiểu thế nào là một đời sống trong chế độ Cộng Sản nhất là với tuổi ấu thơ. Khi mảnh đất này được tự do, ông vào Saigon theo học trường Sư Phạm Nam Việt và trở thành một thầy giáo, chăm sóc đám trẻ thơ của đất nước. Bản chất của ông cũng như nghề nghiệp đă đào tạo Trầm Tử Thiêng thành một người nhân hậu nhưng thẳng thắn, cương quyết đi đến tận cùng, nếu cần để tranh đấu cho lẽ phải.

    Những ca khúc đầu tay cũng như những sáng tác trong thời gian bị động viên: “Mưa Trên Poncho”.”Đêm Di Hành”, “Quân Trường Vang Tiếng Gọi” đă đưa ông từ quân trường về Cục Tâm Lư Chiến, nơi ông có thể đành tất cả thời gian cho việc sáng tác và sinh hoạt âm nhạc của ông. Tuy ở trong một môi trường mà những ca khúc của ông có thể phổ biến mạnh mẽ trên thị trường để đem lại no ấm cho ông như các nhạc sĩ thời thượng vào lúc bấy giờ, Trầm Tử Thiêng đă chọn con đường đi của ḿnh. Đó là Trầm Tử Thiêng, nhạc sĩ của thời đại với những nỗi buồn vui chung, không phải của riêng ai. “Đưa Em Vào Hạ”, “Chuyện Một Chiếc Cầu Đă Găy”, “Hương Ca Vô Tận”, “Bài Vinh Thăng Cho Một Loài Chim”... là những ca khúc của một thời chinh chiến mà những người như Trầm Tử Thiêng đă sống và cảm nhận, trang trải với những âm thanh làm xúc động ḷng người.

    Tháng 4 năm 1975, bản thân của Trầm Tử Thiêng hoà vào niềm đau chung cua cả dân tộc, ông là một trong những người vượt biển, tù đày, bị lao động cưỡng bức trên nông trường. Đây là giai đoạn ông viết “ Tâm Ca Của Người Tù Vượt Biển”, “Hành Ca Trên Nông Trường Oan Nghiệt”, “Du Ca Trên Thành Phố Đỏ”...Bối cảnh những cuộc vượt biển, chia ly, chết chóc thể hiện trong: “Gởi Em Hành Lư”, “Người Ở Lại Đưa Đ̣. “Mẹ Hậu Giang”, “Trại Tỵ Nạn Galang”.

    Mười năm sau biến cố điêu linh của đất nước, Trầm Tử Thiêng đến được bến bờ của Tự Do, “Mười Năm Yêu Em” mang ẩn dụ mười năm khao khát được thấy ánh sáng ư nghĩa của cuộc đời nhưng đồng thời cũng cùng với những đắng cay của nó. Trầm Tử Thiêng đă sống qua thời thơ ấu trong chiến tranh, lớn lên cùng chiến tranh và người nhạc sĩ này đă đi theo nhịp bước của những con người Việt Nam b́nh thường, khoác áo trận, ngă nghiêng v́ vận nước, tù đày, xót xa cùng thân phận chung của những người vượt biển, bỏ nước ra đi.

    Được đến bến bờ tự do dù là muộn màng, Trầm Tử Thiêng, người nghệ sĩ chân chính, không lo chuyện cơm áo mà thấy ḿnh có bổn phận của con người nhớ đến con người. Trầm Tử Thiêng c̣n biết nh́n lại những trại cấm, đêm ngày đang vẳng tiếng kêu siết của những người đói tự do, đuổi người trở lại biển khơi hay trói người trả lại nơi khổ nhục mà nơi đó họ đă ra đi, trong chiến địch “cưỡng bức hồi hương” để viết nên “Nói Với Hồng Kông”, hay “Thà Chết Nơi Này”. Người nhạc sĩ đă thoát ra từ nỗi khổ đau của riêng ḿnh, để hoà nhập trải ḷng ra với những nỗi khổ đau của con người, đó là lúc ông nghĩ đến những đồng bào đang “mắc cạn” trên những ḥn đảo trong Thái B́nh Dương, mà giấc mơ nh́n thấy ánh sáng tự do tàn phai cùng năm tháng. Tấm ḷng của Trầm Tử Thiêng lại giạt dào : “Ta Hát T́nh Thương Về Biển Đông”!

    Cho tới khi Trầm Tử Thiêng gặp được Trúc Hồ, con người sinh ra sau ông gần một thế hệ mà gần gũi như một người bạn tri kỷ (tuổi Trầm Tử Thiêng ngang với tuổi Trúc Giang, thân phụ của Trúc Hồ). Cả hai cùng nh́n về những người bất hạnh hơn họ, nh́n về những đứa trẻ thơ thiếu may mắn hơn tuổi thơ của họ, sinh ra và lớn lên trong ṿng rào kẽm gai của những trại tỵ nạn, không hề có tương lai. Xúc cảm, Trúc Hồ đă viết nên những ḍng nhạc chan chứa yêu thương, và Trầm tử Thiêng đă diễn dạt bằng lời hát ngọt ngào, kêu gọi “Bên Em Đang Có Ta”. Đây không là một bản t́nh ca của một người, mà là bản t́nh ca nhân ái dành cho đồng loại.

    Cũng với tấm ḷng đó, trước khi qua đời, Trầm Tử Thiêng muốn thành lập một “foundation” mang tên ca khúc “Bên Em Đang Có Ta” dành cho những em bé tỵ nạn đang c̣n bơ vơ trong các trại cấm. “Có Tin Vui Giữa Giờ Tuyệt Vọng” nói lên giai đoạn “cưỡng bách hồi hương” đă chấm dứt, khi đồng bào đă t́m được đất dung thân trên đất Phi, và đó cũng là lời tiên tri cho những năm tháng sau cùng, nhờ sự vận động của Luật sư Trịnh Hội và các tổ chức thiện nguyện ở hải ngoại tiếp tay cứu vớt họ đến bến bờ tự do.

    Đánh dấu 20 năm bỏ nước ra đi của người Việt tỵ nạn, trung tâm Asia đă thực hiện chương tŕnh “Cuộc Hành Tŕnh Vượt Biển” như một tác phẩm đánh dấu nỗi gian nguy, ghi nhớ những người đă khuất cũng như ngơ lời cám ơn những bàn tay rộng lượng khắp năm châu đă dang tay đón nhận những người tỵ nạn. Đó là “Bước Chân Việt Nam”, do Trầm Tử Thiêng và Trúc Hồ viết chung, như một bản quốc ca cho những người Việt Nam thống khổ, lưu vong. Trong niềm tin tất yếu vào tương lai, người nghệ sĩ khẳng định về một ngày mai của đất nước, một ngày mai có tự do, dân chủ và nhân quyền, “Một Ngày Việt Nam” hợp soạn giữa hai nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng & Trúc Hồ chính là nỗi mơ ước ấy. Chính chúng ta, những người Việt lưu vong sẽ bước trở về theo nhịp bước đồng hành reo vui của “Một Ngày Việt Nam”như nỗi ước mơ của bao người, thế hệ này không thành th́ hy vọng đến đời sau.

    Trầm Tử Thiêng đóng góp cho phong trào du ca không phải là ít, nhất là từ khi ra hải ngoại, tuy ông không muốn đứng trong phong trào du ca, nhưng ông vẫn sáng tác đều và tham gia hoạt động du ca nối dài là “hát cộng đồng”, rất được giới trẻ tham gia, phong trào rất được phổ biến vào cuối thập niên 90 tại Hoa kỳ, nhất là vùng California. Về phương diện chính trị, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng có thái độ đứt khoát, như lời thổ lộ với bạn bè: “Cộng Sản là Cộng Sản.Không có việc Cộng Sản ngày hôm nay tốt hơn ngày hôm qua”.

    Ông tách rời với bằng hữu nếu những người này bày tỏ quan điểm mập mờ thân Cộng hay đi về tŕnh diễn ở Việt Nam và ông quan niệm Cộng Sản là nguyên nhân gây nên nỗi khổ đau của người Việt hiện đang sống trong nước và phải sống ly hương ngày nay. Trong giới ca nhạc, ông lấy chữ tín làm đầu, và là người biết “trọng nghĩa khinh tài”, ông đă từng yêu cầu một ca sĩ đừng đến thăm ông lúc ông bệnh, đừng dự đám táng ông, đừng hát nhạc ông v́ tư cách người này đă đi ngược lại những nguyên tắc căn bản của ông đă đề ra trong cuộc sống.

    Nh́n lại toàn bộ nhạc phẩm của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, chúng ta thấy con người của ông h́nh như sinh ra để sống và viết cho người khác hơn là cho cơi riêng tư của ông, và nếu có th́ cơi riêng tư đó cũng mang niềm vui hay đau xót chung của cả dân tộc. Từ một bài hát từ quân trường của ngày nhập ngũ đến ca khúc bát ngát tấm ḷng nhân ái đối với con người và đất nước, Trầm Tử Thiêng đă đi hết con đường trong gai góc của chiến tranh, tù đày, vượt biển và lưu vong, cho nên có thể nói toàn bộ nhạc phẩm của người nhạc sĩ này phản ánh đời sống và tâm trạng của một con người Việt Nam lưu vong.

    Trầm Tử Thiêng ra đi vào ngày 25 tháng 1 năm 2000 sau một thời gian chữa bệnh nan y theo cách riêng của ông và đă chết v́ kiệt lực khi mỗi ngày chỉ nhấp vài viết giọt nước. Trước đó, Trầm Tử Thiêng đă viết bài “Tưởng Niệm” như một định mệnh, cũng như bài “Hẹn Nhau Năm 2000”, nhưng ông đă bỏ bạn bè quá sớm.

    Trầm Tử Thiêng chết không trẻ, giữa lúc ông đă đến tuổi 64, nhưng h́nh như nơi ông, chúng ta t́m thấy h́nh ảnh một ông thầy giáo khắc khổ, sống đạm bạc và cô đơn cho tới lúc cuối đời, hơn là một người nghệ sĩ nổi tiếng hiện diện giữa đám đông hay dưới ánh đèn sân khấu. Trầm Tử Thiêng ít bộc lộ cuộc đời riêng của ông, những mối t́nh ít người biết cũng như cả bệnh tật ông mang vào những ngày cận tử. Nhưng dưới mắt bạn bè, Trầm Tử Thiêng là một người đạo đức nhân hậu, rộng răi và thẳng thắn, nóng nảy, nhất là đức tính trọng nghĩa khinh tài.

    Trầm Tử Thiêng ra đi là một niềm mất mát lớn, trong phạm vi nhỏ là với những trung tâm băng nhạc ông đă cộng tác, mà nhất là Asia. Nếu mai sau, đất nước không c̣n Cộng Sản, không c̣n thù hận, đố kỵ giữa con người chung một quê hương, th́ những bản nhạc của riêng ông hay viết chung với Trúc Hồ là những bản nhạc mang tính chất lịch sử, phải được đời sau nhắc nhở.

    Có thể nói, Trầm Tử Thiêng chết đi cho đến giờ này, mười ba năm sau, cho tới giờ này, hải ngoại vẫn chưa ai có thể thay thế ông.

    Ông không c̣n sống để chờ những “tin vui giữa giờ tuyệt vọng”, nhưng ông đă trao lại cho thế hệ trẻ tuổi niềm tin vào một buổi sáng b́nh minh của đất nước, để chúng ta có thể trở về như lời tiên tri của ông:“người về một giờ một đông hơn!” trong bài “Kinh Khổ”.

    (Bài viết năm 2007- Sửa chữa năm 2013 nhân ngày giỗ của Trầm Tử Thiêng, 25 tháng 1 Dương Lịch.)

  3. #33
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Nửa Hồn Thương Đau!
    Nhạc sĩ Phạm Đ́nh Chương




    Vào những năm của thập kỷ 60, báo chí Sài G̣n xôn xao vụ ly dị của vợ chồng ca nhạc sĩ Phạm Đ́nh Chương - Khánh Ngọc. Có thể nói rằng sự tan vỡ của một gia đ́nh tiếng tăm thời bấy giờ được dư luận quy cho môt cuộc t́nh vụng trộm giữa ca sĩ Khánh Ngọc và "t́nh địch" không ai chính là nhạc sĩ Phạm Duy. Nỗi đau dày xe tâm can và sự tan nát của một đai gia đ́nh nghệ sĩ đă "đánh gục' nhạc sĩ Phạm Đ́nh Chương khi ông phát hiện ra , vợ ḿnh đă yêu người anh rể Phạm Duy. Hay nói cách khác, rể và dâu trong một nhà đă đến với nhau, vượt ra ngoài luân lư đạo thường, vốn là một điều cấm kỵ trong văn hoá gia đ́nh Việt Nam.



    Ca sĩ Khánh ngọc, với thân h́nh bốc lửa, kiều diễm đă được nhiều người biết đến với biệt danh "ngọn núi lửa", cô đă từng làm chao đảo, đắm say nhiều văn nghệ sĩ danh tiếng và khán giả nam rất ái mộ. Khánh Ngọc thành danh trong làng nhạc từ những năm giữa thập niên 1950 đến đầu thập niên 1960. Cô c̣n là một diễn viên điện ảnh nổi tiếng trước cả Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Trang Thiên Kim, Kiều Chinh...và là một trong những ngôi sao thuộc thế hệ đầu tiên sáng chói trong làng điện ảnh Sài G̣n. Khánh Ngọc thường đóng cặp với nam tài tử Lê Quỳnh trong các bộ phim do người Mỹ thực hiện trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam.

    Năm 1961, Khánh Ngọc sang Hoa Kỳ để học thêm về ngành điện ảnh và gặp một du học sinh Việt Nam, hai người đă kết hôn và có được ba người con. Hiện Khánh Ngọc sống với gia đ́nh ở Los Angeles.

    Nhờ khả năng diễn xuất của ḿnh, Khánh Ngọc tŕnh bày những bản nhạc rất hấp dẫn. Khi hát bản "Cerisier Roses et Pommiers Blances" lời Việt, vào câu đầu : "Vườn xuân ong bướm, ngất ngây ngất ngây ḷng ta..." Khánh Ngọc lim dim mắt, thở dài, tay đè lên quả tim. Cô mở mắt liếc khán giả, nở một nụ cười vừa lẳng lơ vừa khả ái làm khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt...

    Đớn đau thay cho Phạm Đ́nh Chương , người "si t́nh" và cũng "thành công" nhất trong việc chinh phục người đẹp chính là nhạc sĩ Phạm Duy.

    Trước khi đâm đơn ra toà, Phạm Đ́nh Chương đă nghe phong phanh dư luận. Với t́nh yêu nồng thắm buổi ban đầu, ông không thể nào tin vào sự ngoại t́nh đă được đồn thổi. Điều thương tâm nhất là ông vẫn yêu thương, tin tưởng vợ và bỏ ra ngoài tai những điều không tốt lành của giới văn nghệ sĩ tại Sài G̣n. Và như thế, vào một buổi tối định mệnh, Phạm Đ́nh Chương cùng với những người bạn thân "bắt tại trận" cuộc t́nh vụng trộm của đôi t́nh nhân tại quán chè ở Nhà Bè - Gia Định.

    Trời đất như sụp đổ dưới chân người nhạc sĩ tài hoa, anh gần như đứng không vững, bạn bè d́u quay trở lại nhà, nơi đứa con thơ dại đang ở nhà một ḿnh ngóng chờ ba, mẹ về ...

    Ngay lập tức, sáng hôm sau, một loạt bài phóng sự đều tra nóng bỏng của các báo được phát hành và "cháy số", đắt đỏ nhất là tờ "Nhật báo Sài G̣n mới" của bà Bút Trà. Vụ "ăn chè Nhà Bè" được tung ra với những h́nh ảnh rất "thời sự" của các thành viên trong gia đ́nh Phạm Đ́nh Chương.


    Khanh Ngoc

    Cả Sài G̣n gần như biết hết !

    Cho dù Phạm Duy cầu cứu đến Bộ Thông Tin xin các báo cho ngưng các bài điều tra, phóng sự nhưng "hoạ vô đơn chí", trong cuộc đời này, cái ǵ càng dấu diếm bao nhiêu, càng được "bùng nổ" và thêu dệt lên bấy nhiêu. Tan nát ! Không c̣n cách nào khác, Phạm Đ́nh Chương gạt nước mắt đau thương, nộp đơn ly dị lên toà án. Vụ việc kết thúc và Phạm Đ́nh Chương được quyền nuôi đứa con trai lúc bấy giờ khoảng 4-5 tuổi.

    Trong đau khổ tột cùng, không c̣n tâm trí nào để đi biểu diễn với các nghệ sĩ trong Ban hợp ca Thăng Long, Phạm Đ́nh Chương quay về sống đơn độc và ít giao thiệp với bên ngoài. Kể từ đó, những bản t́nh ca bất hủ ra đời trong nước mắt, trong thương đau vô bờ bến và những hoài niệm xót xa: "Đêm cuối cùng", "Người đi qua đời tôi", "Khi cuộc t́nh đă chết", "Thuở ban đầu", "Khi tôi chết hăy đem tôi ra biển"...

    Một đêm mưa tầm tả ở Sài G̣n, ông t́nh cờ gặp lại Khánh Ngọc trên một sân khấu Đại Nhạc Hội, ông có nhă ư muốn đưa cô vợ đă ly dị về nhà nhưng khốn thay, ông bị từ chối. Trong mưa rơi, ông lặng lẽ trở về căn nhà kỷ niệm một thời sống cùng Khánh Ngọc, nh́n qua màn mưa trắng xoá, nhớ về những ngày hạnh phúc giờ đang trôi theo ḍng nước.... , Phạm Đ́nh Chương quyết định quyên sinh và giă từ cơi đời này, nơi đă đem đến cho ông quá nhiều nỗi bất hạnh.

    May thay, tiếng khóc như xé ḷng của đứa con trai đưa ông về hiện tại. Từ đáy tâm thức, một lời nhắn nhủ khuyên ông hăy cố gắng sống tiếp quăng đời c̣n lại để nuôi đứa con thơ dại. Ông bừng tỉnh và từ bỏ ư định tự tử. Ngay đêm đó, "Nửa hồn thương đau" được khai sinh ở ranh giới giữa sự sống và cái chết của người nhạc sĩ. Trong nước mắt thương đau, sự ră rời, tan nát của tâm can, ngồi nh́n vầng trán thơ ngây của đứa con trai, Phạm Đ́nh Chương đă viết hết nốt nhạc cuối cùng của ca khúc bất hủ này.

    Nếu đă một lần nghe bài hát này, chúng ta sẽ hiểu được tâm hồn của con người chỉ có thể chịu đựng đến một giới hạn nhất định. Khi nhắc tới Phạm Đ́nh Chương, người ta lại nghĩ ngay đến "Nửa hồn thương đau" bởi trong ca khúc này là sự chung thủy tuyệt vời của một người đàn ông.

    Gần 50 năm trôi qua, trong góc khuất nào đó của cuộc đời, nghe người em gái của ông, ca sĩ Thái Thanh, hát ca khúc này, chúng ta mới thấy được nỗi đớn đau tột cùng của người nhạc sĩ tài hoa, bất hạnh và đầy nhân cách này.


    Nửa hồn thương đau
    (thơ Thanh Tâm Tuyền)



    Nhắm mắt cho tôi t́m một thoáng hương xưa.

    Cho tôi về đường cũ nên thơ.

    Cho tôi gặp người xưa ước mơ.

    Hay chỉ là giấc mơ thôi.

    Nghe t́nh đang chết trong tôi.

    Nghe ḷng tiếc nuối xót thương suốt đời
    Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau.

    Ôi sao ngàn trùng măi xa nhau.

    Hay ta c̣n hẹn nhau kiếp nào.

    Em ở đâu?

    Anh ở đâu?

    Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu
    Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt.

    Chỉ thấy ḷng nhớ nhung chất ngất.

    Và tiếng hát và nước mắt.

    Đôi khi anh muốn tin.

    Đôi khi anh muốn tin.

    Ôi những người ôi những người.

    Khóc lẻ loi một ḿnh ...
    TBOnline

  4. #34
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Một thoáng Hoàng Tiến
    Thùy Linh (Buudoan.com)
    -



    Bác cũng là một trong những nhà văn đầu tiên đấu tranh cho dân chủ. Một nhà dân chủ sớm bậc nhất nước như nhiều người đánh giá. V́ chính bác thường lấy câu của nhà văn quá cố Nguyễn Minh Châu viết trong một bức thư gửi bạn trước lúc qua đời để răn ḿnh: “Làm một thằng nhà văn Việt Nam lúc này mà lẩn tránh vấn đề dân chủ là thiếu tư cách...”

    *

    Ḿnh biết rất ít về bác. Bởi khi bác bị phê là “ăn phải bả tư sản” và “xét lại” th́ ḿnh c̣n bé xíu. Sau này tác phẩm của bác không được in nên tên tuổi bác như khá nhiều nhà văn thời can qua đó ch́m vào im lặng.

    Tới một ngày chợt biết về một nhà văn Hoàng Tiến thường lên tiếng đấu tranh cho dân chủ, viết các bản kiến nghị gửi chính quyền, phê phán những độc đoán, chuyên quyền, tham nhũng, xấu xa, kêu gọi cho tự do và dân chủ ở Việt Nam, lên tiếng cho Giáo hội Phật giáo thống nhất…th́ ḿnh bắt đầu chú ư đến bác. Cũng chỉ là sự chú ư đến tấm gương của những người không biết cúi đầu trước cường quyền…


    Dạo đó ḿnh hay la cà ở một quán cơm chay của một người đàn bà sống với một cậu con trai nhỏ lên 4 tuổi vào giờ nghỉ trưa. Đến, rồi thấy thích, rồi nhờ hữu duyên mà thành gắn bó với hai mẹ con chị từ khi nào. Hầu như cứ đến trưa là ḿnh từ cơ quan đi xe ra đó. Ăn, tụ bạ với đám thanh niên chưa hề quen biết nhưng rất thân thiện. Ít lâu sau thành bạn bè. Trưa nào không ra đó là thấy thiêu thiếu…

    Người đàn bà chủ quán dù có vẻ tất bật nhưng không mấy lam lũ. C̣n cậu con trai bé bỏng rất thông minh, dĩnh ngộ khác thường, và cá tính rất đặc biệt. Sau mới biết chị đă từng là nghiên cứu sinh ở Nga. Khi có bầu cậu bé này th́ chia tay chồng, về nước sinh con một ḿnh.

    Cậu bé này lạ lắm. Mới 9 tháng tuổi đă tự quyết chuyện ăn chay của ḿnh. Cho ăn cháo mặn là nhè ra. Nhất quyết chỉ ăn chay trường. Sau này đi học bán trú, mẹ thường phải nhờ người đưa cơm chay đến trường để chú ăn. Mẹ bỏ việc mở quán cơm chay cũng v́ chiều con. Khi c̣n bé chưa biết chữ, cậu đă nói với mẹ về sở nguyện của ḿnh: mẹ mở quán cơm chay để mọi người tránh sát sinh và có tiền giúp các em bé mồ côi. Sau này chị tâm sự với ḿnh, tiếc là chỉ thành tựu được một sở nguyện của con trai.

    Khi cậu bé lên 5 tuổi, nhiều lần đến quán cơm, ḿnh thường gặp một bác đứng tuổi ngồi bên cậu bé, quyển vở mở trước mặt. Không dám đến gần sợ phiền nên bao giờ ḿnh cũng chọn chiếc bàn ở nơi xa. Tiệt không nghe thấy hai ông cháu nói ǵ với nhau, chỉ thấy cậu bé vui lắm, cười suốt…C̣n ông th́ thầm th́, âu yếm.

    Mấy lần như vậy nên có lần ḿnh hỏi người mẹ. Chị cười bảo, ông Hoàng Tiến, nhà văn đấy…Ḿnh ̣a ra. V́ trước đó đọc nhiều những bản kiến nghị của ông và biết cả việc ông bị gây khó dễ như thế nào.

    Những lần sau, mỗi khi gặp ông, ḿnh bao giờ cũng cúi đầu chào như đă quen. Chỉ là không dám sáp lại chuyện tṛ. Không phải v́ sợ phiền phức mà lo ông e ngại né tránh…

    Nghiệp duyên đưa đẩy thế nào mà có lần vô t́nh ông ghé quán cơm chay nên quen hai mẹ con. Mến cậu bé thông minh, vốn tính thiền từ bé nên ông trở thành người nhà của họ. Như là ông ngoại của cậu bé. Mỗi tuần ông đi từ Thanh Xuân ra quán dạy chữ Hán cho cậu bé khi cậu lên 5 tuổi. Ngoài chữ là những câu chuyện về đạo Phật, về ḷng nhân nghĩa, từ bi, hỉ xả…Mẹ cậu nói rằng, ông là người đă dạy dỗ cậu bé, tác động đến sự h́nh thành tâm lư, nhân cách của cậu bé sau này. Và chị rất biết ơn ông.

    Lại kể, từ bé lúc mới 3, 4 tuổi cậu đă có ư muốn vào chùa. Hai mẹ con đă từng đến mấy ngôi chùa để t́m nơi gửi gắm cậu. Sáng sáng, cậu bé 3 tuổi cầm cây chổi cao hơn người quét sân chùa…Không hiểu v́ sao một bận cậu đem chuông của sư phụ trao cho thả xuống ao, nói với mẹ: “Trong chùa không có Phật. Mẹ, về thôi...” Mẹ con lại dắt díu nhau về nhà trọ, lần hồi kiếm sống bằng quán cơm chay. Rồi cậu đi học và học rất giỏi.

    Lễ cầu siêu theo sở nguyện của bác Hoàng Tiến

    Chỉ có một lần ḿnh nói chuyện với ông khi t́nh cờ gặp ông cũng ở một nhà hàng cơm chay khác, sau mấy năm xa. Cái lẽ ông rời xa mẹ con cậu bé cũng khá ngậm ngùi…

    Năm 2005, lần đầu tiên Sư ông Thích Nhất Hạnh về Việt Nam, Phật tử theo nghe giảng pháp rất đông. Cậu bé lúc đó 13 tuổi xin nghỉ học để đi theo. Sau buổi giảng pháp này, cậu đă xác quyết cho ḿnh con đường xuất gia ngay năm đó.

    Ông ngoại Hoàng Tiến không c̣n cơ hội dạy chữ Hán cho cháu ngoại. Nhưng chú tiểu đă có thể đọc và tụng được kinh Phật bằng chữ Hán…

    Mẹ cậu, sau một năm chèo chống quán cơm chay cũng xin xuất gia. Quán cơm chay sang tên người khác. Ḿnh không c̣n chỗ thân t́nh đi lại. Bạn bè thường lấy quán tụ bạ, chuyện tṛ cũng tứ tán…

    Phát nguyện qui y của hương linh Hoàng Tiến


    Một lần sư cô (chị chủ quán cơm chay năm xưa) có việc về qua Hà Nội. Hẹn ḥ gặp gỡ. Đến quán đă thấy bác Hoàng Tiến ở đó. Vẫn nụ cười nhẹ hiền.

    Lần này ḿnh cởi mở hơn để ngồi nói chuyện với bác. Loanh quanh chuyện thế sự. Chả nghe thấy những thù hằn, bực bội, sân si…Bác nói về những ǵ bác bất b́nh cũng nhẹ như những ǵ bác yêu thương. Nhưng ḿnh hiểu cốt cách đó nhất định không thể đứng cùng với những quyền lực, tham vọng, độc quyền, ác hiểm…Nhớ câu thở nhẹ của bác: “Cũng là khổ thôi cô ạ. Họ chả sung sướng ǵ đâu”.

    Mấy lần hẹn sư cô đến nhà bác chơi nhưng sư cô bận phật sự nên lần lữa măi. Mà điện thoại nhà bác bị cắt, không liên lạc được. Cứ như thể bác đă từ biệt cơi tạm từ rất lâu, cả khi chưa chết…

    Nhưng bất chợt đâu đó, bác lại xuất hiện như một chiến binh qua những kiến nghị thẳng tưng.

    Năm 2011, khi có các cuộc biểu t́nh phản đối Trung Quốc bị đàn áp, lập tức bác lại lên tiếng: “Tất cả các triều đại ở Việt Nam, tất cả các chính quyền ở các nước trên hoàn cầu, đếu lấy việc nuôi dưỡng, cổ xúy ḷng yêu nước của người dân, để xây dựng đất nước và bảo toàn lănh thổ chủ quyền. Không ai lại đi đàn áp những cuộc biểu t́nh yêu nước, trong khi kẻ thù đang rập ŕnh ngoài ngơ. Tôi mong các vị lănh đạo hăy tỉnh táo lại. Kinh Phật có câu: “Quay lại là bờ” (hồi đầu thị ngạn). Hăy đặt quyền lợi của dân tộc trên hết, hăy biết tôn trọng người dân, là mọi việc giải quyết sẽ êm như ru. Đừng đẩy người dân vào thế đối địch với chính quyền. Tôi đề nghị một giải pháp: chính quyền Hà Nội hăy đối thoại với những người biểu t́nh. Hăy dừng ngay bạo lực”.

    Chút ngậm ngùi trước già chia tay

    Bác cũng là một trong những nhà văn đầu tiên đấu tranh cho dân chủ. Một nhà dân chủ sớm bậc nhất nước như nhiều người đánh giá. V́ chính bác thường lấy câu của nhà văn quá cố Nguyễn Minh Châu viết trong một bức thư gửi bạn trước lúc qua đời để răn ḿnh: “Làm một thằng nhà văn Việt Nam lúc này mà lẩn tránh vấn đề dân chủ là thiếu tư cách...”

    Ta sĩ rách hề, sinh buổi nhiễu nhương
    Mượn cây bút hề, tỏ chí ngoan cường
    Đường chông gai hề, ta không lùi bước
    Đời đen bạc hề, ḷng ta bi thương.

    Ngẫm thế sự hề, đầu ta sớm bạc
    Nghĩ nhân t́nh hề, miệng ta cười vang
    Múa cây bút hề, ta thay đao kiếm
    Phá dối lừa hề, thông thoáng thế gian.

    Bài thơ này bác làm năm ngoài 30 tuổi. Trong một lần bị thẩm vấn, bác đă đọc cho các an ninh viên nghe. Một câu trả lời đủ cho tất cả các câu hỏi khi đó đă đặt ra cho bác.

    Cậu bé ngày xưa giờ đă là sư chú đĩnh đạc 20 tuổi, sắp được thọ giới tỳ kheo. Sư chú có tâm hồn lăng mạn như một nghệ sỹ, sáng tác nhạc, thiền ca. Ca từ đượm chất thiền mà vẫn tỏa rạng hào hoa, nét đặc trưng của lớp nhà văn Hà Nội cũ mà chú thừa hưởng từ ông ngoại Hoàng Tiến.

    Bác đă tồn sinh trong tâm hồn nhiều người khác một cách lặng lẽ, vững chắc.

    Sư cô nhắc lại chút kỉ niệm về cha nuôi...

    Trưa nay một lễ cầu siêu nho nhỏ do sư cô Tùy Nghiêm – chị chủ quán cơm chay khi xưa, cô con gái nuôi của bác ngày trước làm chủ lễ. Chỉ gần hai mươi người trong gia đ́nh, bạn bè thân thiết. Tâm nguyện qui y cửa Phật của bác cũng được thành tựu sau lễ cầu siêu.

    Và với ḿnh, không nhiều người được gọi là nhà văn đă và đang sống. Bác Hoàng Tiến là người trong số hăn hữu đó.

    Lời Khai thị của lễ cầu siêu ứng với cuộc đời bác hơn bao giờ hết:

    Tôi là sự sống thênh thang
    Tôi chưa bao giờ từng sinh mà cũng
    chưa bao giờ từng diệt
    Nh́n kia biển rộng trời cao
    Muôn vàn tinh tú lao xao
    Tất cả đều biểu hiện tôi từ
    nguồn linh tâm thức
    Tự muôn đời tôi vẫn tự do
    Tử sinh là cửa ngơ ra vào
    Tử sinh là tṛ chơi cút bắt
    Hăy cười cùng tôi
    Hăy nắm tay tôi
    Hăy vẫy tay chào để rồi
    tức th́ gặp lại
    Gặp lại hôm nay
    Gặp lại mai sau
    Chúng ta đang gặp nhau
    nơi suối nguồn
    Chúng ta sẽ gặp nhau từng
    giây phút trên muôn ngàn nẻo sống


    Thùy Linh

    http://www.buudoan.com/2013/02/mot-t...oang-tien.html

  5. #35
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc phỏng vấn bác sĩ kiêm ca sĩ Trung Chỉnh

    Do Darlena Trần thực hiện

    Vietnamese American Heritage Foundation & Vietnamese American Oral History Project, UC Irvine



    DT: Dạ cho cháu hỏi, chú tên ǵ ạ?

    HVC: Tôi tên là Huỳnh Văn Chỉnh, tôi có sinh hoạt văn nghệ từ những năm 1966 ở Việt Nam và với cái tên là Trung Chỉnh.

    DT: Cho cháu hỏi chú sinh ra ở đâu?

    HVC: Tôi sinh ra ở Mỹ Tho, Việt Nam.

    DT: Dạ ở Mỹ Tho có (lớn) không chú, chú có thể diễn tả cho cháu biết?

    HVC: Mỹ Tho là một tỉnh miền Nam của [Việt Nam], cách Sài G̣n khoảng 72 cây số và tỉnh chúng tôi tương đối nổi tiếng v́ có đệ nhất phu nhân là bà Nguyễn Văn Thiệu. Từ hồi nhỏ, những năm mà tôi chừng bảy tám tuổi, lúc nào tôi bịnh th́ mẹ tôi hay dắt tôi ra ngoài nhà của bà Thiệu, tại v́ ông thân của bà Thiệu là một thầy thuốc Bắc rất nổi tiếng, rất giỏi, lần nào ra đó hốt thuốc Bắc về uống th́ cũng khỏi. [Tỉnh] chúng tôi cũng có bến Bắc Rạch Miễu. Bây giờ họ xây cầu đi ngang qua Cồn Phụng, tức là chỗ của ông đạo dừa, đi qua Bến Tre đó. Tôi nghĩ, đại khái Mỹ Tho của chúng tôi là vậy.

    DT: Dạ bây giờ chú có thể suy nghĩ lại thời thơ ấu của chú, tỉnh Mỹ Tho thường có những ǵ và chú thường chơi những tṛ chơi ǵ lúc chú c̣n nhỏ?

    HVC: Dĩ nhiên là với một cái xứ tương đối nghèo th́ cái tṛ chơi thông thường nhất vẫn là đá banh. Chúng tôi có một sân banh lớn ở đường Hùng Vương, là con đường h́nh như dắt ra toà tỉnh trưởng. Chiều chiều [chúng tôi] hay ra đó đá banh. Chúng tôi có một trường tôi học gọi là Cầu Bắc. Trường tiểu học Cầu Bắc ở bên kia đường rày xe lửa, và ngay nhà bà tổng thống Thiệu ở bên đây đường rày xe lửa, trường chúng tôi ngay bên kia. Tôi học những năm tiểu học ở đó xong rồi [học] trường tư một thời gian rồi tôi lên trường Nguyễn Đ́nh Chiểu học ở đó cho đến hết trung học.

    DT: Vậy Nguyễn Đ́nh Chiểu là ở đâu?

    HVC: Nguyễn Đ́nh Chiểu là ở Mỹ Tho, một trường trung học nổi tiếng từ những năm ba mươi mấy, bốn mươi mấy. [Lúc đầu] người ta đặt tên là Le Myre De Villers (03:11) là tên của một vị thống đốc của Nam Kỳ thời đó. Sau đó, đổi tên lại là trường trung học Nguyễn Đ́nh Chiểu. Trường chúng tôi cũng có những người nổi tiếng [như là] phụ tá tổng trưởng bộ giáo dục, giáo sư Nguyễn Thanh Liêm, hồi xưa cũng từng dạy ở đó.

    DT: Chú có anh chị em ǵ không?

    HVC: Tôi có hai người anh ruột nhưng rất tiếc là hai người đó mất sớm, c̣n ba mẹ tôi đă mất hết rồi.

    DT: Dạ ba mẹ của chú mất khi nào?

    HVC: Ba tôi mất khi tôi mới bảy tuổi, khi đó là năm 1950. c̣n mẹ tôi th́ mất sau khi tôi qua Mỹ năm 1979, bà mất năm 80.

    DT: Ở Việt Nam, hai anh em của chú cùng mất lúc chú c̣n nhỏ hay là?

    HVC: Khi tôi đi vượt biên th́ hai người đó tiễn tôi ra bến tàu. Người anh thứ hai của tôi, tôi qua Mỹ cuối năm 79 th́ mất, c̣n người anh cả mười năm sau cũng mất, tức là năm 1989.

    DT: Cho cháu hỏi, khi ở Việt Nam, gia đ́nh chú làm nghề ǵ?

    HVC: Mẹ tôi buôn bán thôi, gia đ́nh tôi nghèo thành ra người anh của tôi phải nghỉ học sớm. Tôi hồi nhỏ th́ học không giỏi giắn ǵ cho nên thi măi vào trường công không đậu nên phải ra học trường tư. Trường tư thục nhỏ lắm, có tên là Trúc Giang. Tôi học ở đó 4 năm. Lúc tôi vào học đệ thất th́ tôi không hiểu sao, giống như ông trời ổng mở trí ḿnh, tôi học rất giỏi, những năm đó tôi học rất là xuất sắc, tốt nghiệp đệ nhất cấp. Năm đó nhận được rất nhiều phần thưởng. Xong rồi đậu trung học, bấy giờ,trường Nguyễn Đ́nh Chiểu họ cho ghi danh. Họ cho những người học trung học xong được vào học trong Nguyễn Đ́nh Chiểu, tôi ghi danh vào th́ được nhận. Những lớp gọi là trung học đệ nhất cấp đó, đệ nhị cấp th́ những năm đó là những năm 60 đến 63. Năm đầu là năm đệ tam th́ cũng thường thường thôi. Đến năm đệ nhị tôi học khá nổi tiếng. Đến năm đệ nhất th́ tôi học nổi tiếng nhất trường. Sau năm đệ nhất tôi đậu tú tài, đậu xong rồi th́ thi vào trường y khoa Sài G̣n và học y khoa luôn cho tới lúc ra trường.

    DT: Dạ vậy chú ra trường vào lúc nào?

    HVC: À, cô muốn nói ra trường nào?

    DT: Dạ, năm nào, của những trường nào?

    HVC: Trường nào? Tôi ra trường Nguyễn Đ́nh Chiểu năm 63 và học hết đại hoc y khoa cho tới cuối năm 1971 th́ ra trường, tức là tốt nghiệp ngành y khoa bác sỹ đó. Sau đó, tới đầu năm 72 tôi gia nhập vào Thuỷ quân lục chiến, tức là bác sỹ của Thuỷ quân lục chiến tham dự trận đánh mùa hè đỏ lửa ở Quảng Trị từ 1972 tới 1975.

    DT: Chú có thể cho con biết hành tŕnh, process mà chú tham gia vào quân đội trong khi vừa mới ra y khoa bác sỹ?



    HVC: Dạ vâng, từ năm 1966 tôi thi đậu vào trường quân y của Sài G̣n, trường quân y nhiều người cứ tưởng rằng trường quân y th́ dạy về y khoa cho sinh viên nhưng thực ra trường quân y họ chỉ quản lư về vấn đề hành chánh và huấn luyện về vấn đề quân sự cũng như là Anh ngữ, c̣n học y khoa th́ vẫn phải ra ngoài trường y khoa đại học Sài G̣n để học, học trường dân sự. Chung quy chỉ có cái lợi là họ cho ḿnh lương để ḿnh học. Khi ḿnh ra trường (th́) phục vụ cho quân đội. Những người không có điều kiện về tài chánh như chúng tôi th́ phải vào trường quân y để có phương tiện tiếp tục công việc học hành. Cho nên tôi vào từ những năm 1966, tới năm 1971, cuối năm 71 tui ra trường. Sau đó, năm 72 tui chọn vào ngành Thuỷ quân lục chiến, tức là làm bác sỹ của sư đoàn Thuỷ quân lục chiến.

    DT: Dạ bây giờ chú có thể nói cái tiến tŕnh để thi đậu rồi qua mấy năm, cái test nó như thế nào?

    HVC: Dạ, bắt đầu từ năm 60, tôi không nhớ rơ chính thức là từ năm nào, 61 hay là 62, trường y khoa có tổ chức một lớp, gọi là dự bị y khoa. Hồi trước đó, họ không có lớp này, hồi đó là họ dạy một lớp gần như lớp sinh hoá, tức là về bio, animal , bio chemistry, biology đó, đại khái là như vậy. Những sinh viên đó họ học tự do sau đó khi mà họ đậu được chứng chỉ sinh hoá, c̣n gọi là HBTN(?) (PCB=Physics, Chemistry and Biology), th́ rồi những người đó họ mới nộp đơn vào trường y khoa. c̣n sau tới những năm tôi không [nhớ] chắc lắm, chắc là từ năm 62, th́ trường y khoa tổ chức một lớp gọi là dự bị y khoa, tức là ḿnh thi trực tiếp vào cái lớp đó, xong rồi ḿnh vô, coi như ḿnh chính thức đậu vào trường y khoa, gọi là dự bị y khoa. Sau lớp dự bị y khoa th́ ḿnh sẽ đi lên. Mỗi năm đều phải thi lên, gọi là thi lên năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ nam, thứ sáu. Hết năm thứ sáu th́ là ḿnh ra trường.

    DT: Vậy là sáu năm?

    HVC: Bảy năm, kể cả năm dự bị y khoa. Năm tôi thi (tú tài) là năm 63, v́ tôi tốt nghiệp là năm 63. Tôi nộp đơn đi thi, lên đó thi được 2 ngày th́ tôi nhớ có lẽ vào những ngày cuối tháng 10 hay ǵ đó, đang thi th́ sinh viên biểu t́nh dữ dội lắm. Năm đó là năm đảo chánh tổng thống Diệm - năm 1963. Họ làm dữ lắm, sinh viên biểu t́nh rồi th́ trong trường đại học khoa học lúc bấy giờ, chúng tôi học dự bị y khoa (nhưng học bên trường Khoa học, bắt đầu năm thứ nhất mới qua trường y khoa học) th́ họ phải đóng cửa pḥng thí nghiệm v́ họ sợ [sinh viên] lấy acid rồi tạt tùm lum, rất nguy hiểm. Những năm tôi đi thi, tôi nhớ có cô Ngô Đ́nh Lệ Thuỷ đi thi. Cô ta là con ông bà Ngô Đ́nh Nhu. Tôi nhớ măi cô tới ngay trước cổng trường đi vào. Cô đi chiếc xe hơi…(11:04), có bốn người cận vệ đi theo. Ngày cuối cùng, chúng tôi thi được 2 bữa, tới ngày thứ 3, cô tới th́ người ta không tổ chức thi, cô ta phải đi về và bỏ thi. Cho tới khi đảo chánh ông Diệm xong, ngày 1 tháng 11 năm 1963 đó, có lẽ là giữa tháng 11 hay là đầu tháng 12 họ kêu chúng tôi đi thi tiếp. Tui đậu, tôi vào y khoa từ những năm đó.

    DT: Vào những năm mà chú đi thi th́ nước Việt Nam ḿnh đang ở trong chiến tranh?

    HVC: Ừ, thời kỳ sôi nổi về chính trị nữa.

    DT: Dạ chú có thể diễn tả cho cháu và những cháu sau này nh́n lại có thể biết một ngày b́nh thường của đời sống sinh viên như thế nào, mọi vật xung quanh ra sao? Xă hội như thế nào?

    HVC: Thật ra th́ đó là năm đó biến động chính trị. Ngày 1 tháng 11 coi như là đảo chánh tổng thống Ngô Đ́nh Diệm xong, dĩ nhiên những ngày sau đó nó có những biến động khác, khoảng chừng 1 tháng sau trung tướng Dương Văn Minh, sau lên đại tướng, ông đảo chánh ông tổng thống Diệm ông lên làm quốc trường hay ǵ đó tui không nhớ rơ nhưng rồi có một ông tướng tiếp theo là tướng Nguyễn Khánh, tướng Nguyễn Khánh gọi là chỉnh lư, tức là đảo chánh ông Dương Văn Minh để ổng lên làm thủ tướng, đại khái như vậy. Lúc bấy giờ th́ vấn đề chính trị của Việt Nam ḿnh nó rất là hỗn loạn, phần lớn vấn đề đảo chánh là do những tướng quân sự làm chính trị, gọi là đứng đầu của một nước hoặc là thủ tướng, hoặc là quốc trưởng. Sau thời gian hỗn loạn đó, cuối cùng mới có sự xuất hiện của thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ và trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, hai người nắm vận mệnh chính trị lúc đó cho tới lúc ổn định. Lúc bấy giờ, trung tướng Nguyễn Văn Thiệu trở thành tổng thống và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ trở thành phó tổng thống. Hai vị đó đứng đầu nước Việt Nam ḿnh cho tới lúc ḿnh mất nước tháng 4 năm 1975. Đó, cái hỗn loạn chính trị trong thời gian đó diễn ra như vậy. Chúng tôi học năm 63 học, 64, 65. Những năm 66, 67 tôi nhớ măi là năm 66, tôi bắt đầu lên năm thứ nhất y khoa th́ lúc bấy giờ sinh viên biểu t́nh, biểu t́nh dữ lắm, sinh viên rồi th́ kể cả những thường dân chẳng hạn như là những người đạp xích lô, những người buôn gánh bán bưng cũng tham gia biểu t́nh, lúc đó rất là hỗn loạn và lộn xộn lắm, chúng tôi đi học, chúng tôi không biết ǵ về vấn đề biểu t́nh ở ngoài v́ ḿnh học ở trong trường y khoa. Nhưng những lúc biểu t́nh hỗn loạn quá th́ lúc bấy giờ tổng thống Thiệu ra lệnh đóng cửa tất cả các trường học, v́ cứ mở trường học cho sinh viên tới để học th́ (họ) biểu t́nh, cho nên tôi nhớ măi có một đêm nằm nghe radio nghe tổng thống Thiệu loan báo trong đài phát thanh - hồi đó thường thường th́ đài phát thanh nhiều hơn, ông nói rằng: “Nay tôi ra lệnh đóng cửa tất cả các trường học từ lớn chí nhỏ” - ḿnh nói từ lớn chí nhỏ tức là từ đại học tới tiểu học là đóng cửa hết. Chúng tôi hồi đó đi học mà nghe đóng cửa trường học th́ mừng lắm, tối đó [chúng tôi] đi mua bia về uống ăn mừng, vui lắm. Nói vậy cho vui chứ thực ra khi [trường] đóng cửa th́ không có việc ǵ làm, đại khái là như vậy. Lúc đó bấy giờ rất hỗn loạn về chính trị.

    DT: Lúc đó gia đ́nh chú như thế nào?

    HVC: gia đ́nh chúng tôi ở Mỹ Tho, tôi th́ tôi đi học ở Sài G̣n, vẫn sinh hoạt b.nh thường vậy thôi, v́ (ở) tỉnh không có xáo trộn như ở Sài G̣n. Tất cả những xáo trộn đều nằm ở Sài G̣n.

    DT: Ngày mà Việt Nam ḿnh mất nước ngày 30 tháng 4 năm 1975 th́ lúc đó chú đang làm ǵ và đang ở đâu?

    HVC: Dạ cái đoạn đường mà trước khi nói đến chuyện mất nước đó, đoạn đường chinh chiến của tôi rất là gay cấn, nếu mà chúng ta có dịp quay trở lại lúc đó th́ tôi sẽ kể lại cái vấn đề đó. À sau năm 75, tháng 4 năm 75, cũng giống như một sỹ quan của quân lực Cộng Hoà, tôi cũng phải đi tŕnh diện, gọi là học tập cải tạo nhưng thực ra là đi cải tạo ở Trảng Lớn, Tây Ninh. Lư do tui được đi Trảng Lớn là v́ tôi đă được thăng cấp đại úy nhưng tôi chưa có cái thẻ căn cước của đại uư cho nên tôi tŕnh diện với tư cách là trung uư. Chứ nếu mà tôi tŕnh diện là đại u. th́ chắc là họ đưa tôi ra ngoài Bắc rồi. Những người cấp tương đối mà cao th́ thường thường họ đưa ra ngoài Bắc. Tôi tŕnh diện trung uư nên được đưa lên Trảng Lớn. Tôi ở đó một thời gian th́ được đưa về Thủ Đức. Sau đó, họ thả tôi ra khoảng giữa năm 1976. Tức là tôi ở khoảng 1 năm th́ về và làm việc tại bệnh viện Phước Kiến ở Chợ Lớn, bây giờ ḿnh gọi là bệnh viện Nguyễn Trăi. Tôi làm đó 3 năm cho tới cuối tháng 5 năm 1979 th́ đi vượt biên. Tôi đi vượt biên th́…, con đường vượt biên của tôi cũng rất là gay cấn, đi, gọi là boat people, đi trên biển cũng gọi là gian nan, vạn nan, tôi cũng có kể trên này là đại khái chúng tôi cũng mất (chết) 18 người ở trên biển. Chúng tôi phải bỏ họ lại trong cái mền hay là cái chiếu (rồi) ném họ xuống biển v́ ḿnh đâu có thích chở xác người trên tàu đi măi hoài được.

    DT: Vấn đề vượt biên th́ lát nữa cháu sẽ nhắc tới tiếp. Bây giờ cho cháu xin hỏi là cái kinh nghiệm chiến tranh của chú, có thể kể một tư xíu về đời sống của một người lính?

    HVC: Khi tôi ra trường là năm 1971, th́ giữa tháng 2 năm 1972, tôi chính thức gia nhập Thuỷ quân lục chiến. Lư do mà chưa có gia nhập liền v́ (phải) đi qua một cái lớp thụ huấn, gọi là cấp cứu hồi sinh ở bệnh viện Cộng Hoà, sau đó hết tháng giêng rồi th́ qua tháng 2 đó là chúng tôi được gởi thẳng, tại v́ chúng tôi chọn, tôi chọn, tôi cùng với hai vị bác sĩ nữa, ba người chúng tôi chọn về Thuỷ quân lục chiến, chúng tôi chính thức gia nhập Thuỷ quân lục chiến. Thế th́ ở Thuỷ quân lục chiến tôi nhớ hoài, ở khoảng giữa cuối tháng 2, chúng tôi ở khoảng cuối tháng ba th́ được orientation, cũng giống như được huấn luyện sơ khởi ở binh chủng Thuỷ quân lục chiến, nhưng đúng ra khi được huấn luyện, chúng tôi ở trong bệnh viện Lê Hữu Sanh, tức là bệnh viện riêng của binh chủng Thuỷ quân lục chiến ở Thủ Đức, chúng tôi ở đó đâu khoảng một tháng hơn th́ cuối tháng ba, ngày 29 tháng ba năm 1972, binh sỹ của bộ đội cộng sản ở miền Bắc tổng tấn công các tiền đồn ở Bến Hải, họ đánh các tiền đồn ở Bến Hải, như những đơn vị trung đoàn, tôi không biết trung đoàn nào, nhưng tôi biết là hai trung đoàn của sư đoàn 3 bộ binh của Việt Nam Cộng Hoà bị thất thủ, họ phải bỏ những tiền đồn ở ngoài đó, ngoài Bến Hải, để rút về Quảng Trị, căn cứ gọi là căn cứ Ái Tử. Cô nghe, xin lỗi cô Darlena có nghe ca sỹ Duy Khánh hát bài: “mẹ thương con ra cầu Ái Tử, vợ trông chồng lên núi Vọng Phu?”. Đó là căn cứ Ái Tử, là một căn cứ rất lớn hồi xưa Mỹ từng đóng ở đó. Sau này làm căn cứ của sư đoàn 3 bộ binh của ḿnh. Hai sư đoàn thất thủ lui về đó, th́ ngày 29 tháng 3 bị tổng tấn công rồi tới ngày 30 tháng 3, rồi ngày 31 tháng 3, chúng tôi được lệnh ra Quảng Trị, chỉ mới có 2 ngày thất trận là chúng tôi được lệnh ra Quảng Trị liền.

    DT: Năm đó là năm 1972?

    HVC: Năm 1972, th́ tôi nói là tôi ra trường cuối năm 1971, năm 1972 tôi gia nhập Thuỷ Quân lục chiến rồi. Và chúng tôi gia nhập hầu như ngay từ đầu mùa cuộc chiến của Quảng Trị năm 1972, tức là 31 tháng 3, tôi và 2 bác sỹ mà chúng tôi mới kể, 3 anh em chúng tôi được lệnh ra Quảng Trị, thế nhưng hôm đó, chắc là cô Darlena và anh cũng biết là Việt cộng không những tấn công Quảng Trị mà họ c̣n tấn công An Lộc, nổi tiếng, địa danh An Lộc sau này biệt kích dù là những đơn vị tử thủ cùng với các đơn vị ở tại địa phương đó cho nên mới đặt ra cái câu thơ: “An Lộc địa sử ghi chiến tích, biệt kích dù vị quốc vong thân”. Lúc đó những người đánh ở đó rất là tử chiến. Họ đă nằm đó để giữ vững An Lộc, c̣n ở ngoài Quảng Trị th́ các đơn vị đă thất thủ. Thuỷ quân lục chiến được lệnh là ra trấn giữ Quảng Trị. Ngày 31 tháng 3, tôi đi không được là v́ phi cơ lúc bấy giờ được dùng tăng phái để mà tiếp viện cho An Lộc, [đó là vào] ngày 31 tháng 3 năm 1972. Thành ra chúng tôi phải trở về ngày 1 tháng 4 là chúng tôi đă có mặt tại Huế rồi. Tôi được lệnh ra tận căn cứ Ái Tử lên gần tới Đông Hà, Đông Hà là một địa danh giữa Quảng Trị và Đông Hải. Đông Hà bây giờ phồn thịnh lắm tại v́ đây là một địa danh người ta buôn bán, đi ngang qua Lào. Dân chúng bây giờ sống rất trù phú, tui chưa tới đó, nghe nói cất nhà cất cửa, linh đ́nh phố xá lắm. Đại khái khi tôi ra gần tới Đông Hà th́ tôi gia nhập, nhập vào chứ không phải gia nhập, nhập vào, tại v́ lúc bấy giờ cái tiểu đoàn 6 Thuỷ quân lục chiến ở trong, gọi là căn cứ Barbara, họ kéo ra, từ trong núi họ kéo ra. Lúc bấy giờ tiểu đoàn 6 chưa có bác sỹ mà có một người trợ y giống như một người physician assistant của ḿnh bây giờ. Thành ra tôi được lệnh ra (để) thế cho người trợ y, v́ thế tôi gia nhập với tiểu đoàn 6 thuỷ quân lục chiến ngày 1 tháng 4 năm 1972 và chúng tôi bắt đầu tham gia trận đánh khốc liệt ở ngoài Quảng Trị. Quảng Trị th́ thuỷ quân lục chiến và dù - nhảy dù cùng những đơn vị của tiểu đoàn biệt động quân tăng phái, chúng tôi đă quần thảo với lính của miền Bắc - bộ binh chính quyền miền Bắc. Đánh những trận đánh rất là nảy lửa, tôi nghĩ là ngay cả những binh lính của miền Bắc họ cũng phải phục chúng tôi, tôi nghĩ vậy.

    DT: Dạ cho cháu hỏi khi chú gia nhập Thuỷ quân lục chiến th́ chú đă có gia đ́nh chưa?

    HVC: Lúc đó có gia đ́nh rồi.

    DT: Không biết là có gia đ́nh và con hay là ?

    HVC: Lúc đó th́ tôi có một cháu trước, một cháu gái sinh năm 1970. Dạ vâng tôi lập gia đ́nh năm 1969 th́ năm 70 chúng tôi có một cháu gái. Lúc tôi ra hành quân phải thêm một chút xíu nữa th́ là 1 tháng 4, để tham dự mặt trận ở Quảng Trị. Tôi nghĩ là khoảng 2 tuần lễ tức là ngày 12 tháng 4 th́ ở Sài G̣n, báo đăng tui chết. Báo Sài G̣n đăng tôi chết. Tôi có cầm được tờ báo đó, nhưng lúc đó chúng tôi c̣n ở trong núi quần thảo cùng với lại binh sỹ (địch) mà ḿnh gọi là Việt Cộng. Chúng tôi đánh, ngày nào cũng đụng trận, cho tới ngày 17 tháng 4 th́ có 2 người phóng viên chiến trường [từ] Sài G̣n ra, họ đi ra tận ngoài chiến trường giống như họ lấy tin tức hoặc phỏng vấn. Họ gặp ông tiểu đoàn trưởng của tôi lúc bấy giờ là thiếu tá Đỗ Hữu Tùng rất là nổi tiếng, ông là một trong hai vị tiểu đoàn trưởng chỉ huy đánh, lấy lại thành Quảng Trị tháng 9 năm 1972. Ông đẹp trai lắm. Ông cũng rất là thân cận với cô Khánh Ly. ḿnh cần phải nói chuyện một chút về chuyện đó nữa. Hai người phóng viên này vô gặp ông tiểu đoàn trưởng của tôi là ông Đỗ Hữu Tùng, tôi có qua và nói chuyện với họ, họ gặp tôi. Một anh tôi không nhớ rơ, nói rằng: “Báo Sài G̣n đăng ông chết rồi.” Tôi nói: “ông giỡn chơi?”. [Họ trả lời]: “Không, thiệt [mà],báo Sài G̣n đăng ông chết rồi.” Tôi mới lấy tờ giấy tập giống như của Dalerna, viết mấy chữ [rồi] nói [với họ]: “bây giờ tôi đương bận hành quân, lúc nào anh về Sài G̣n làm ơn đem cái thơ này về gia đ́nh tôi cho vợ con tôi biết là tôi vẫn c̣n sống”. Tôi viết mấy chữ cho ảnh th́ ảnh giữ cái thư đó. Nhưng tới ngày 19, chúng tôi được lệnh về nghỉ dưỡng quân. [Chúng tôi] đánh quần thảo từ ngày 7 tháng tư chúng tôi đụng trận với họ những trận đánh nảy lửa, cho tới ngày 19 tháng tư th́ coi như đă là 12 ngày, ngày nào cũng đụng trận. Chúng tôi kéo về Ái Tử nghỉ dưỡng quân. Tôi về Huế ngày 23 th́ gặp đại tá Bùi Thế Lân, lúc đó, ổng chưa lên tướng, ổng đương chỉ huy sư đoàn Thuỷ quân lục chiến. Lúc bấy giờ trung tướng Lê Nguyên Khang không c̣n tham dự trực tiếp chỉ huy Thuỷ quân lục chiến nữa, ông Bùi Thế Lân chỉ huy. Khi tôi về th́ đại tá Bùi Thế Lân cho tôi về Sài G̣n để mà đi cải chính báo chí họ đăng tui chết. Ông bảo tôi về đó kiếm một vài cô ca sỹ ra hát để hát uỷ lạo cho chiến sỹ. Tôi nói tôi cố gắng kiếm nhưng chưa chắc Đại tá Bùi Thế Lân nói: “Kiếm được th́ tốt, không kiếm được th́ thôi”. Ngày 24 tôi đă về tới Sài G̣n, lúc bấy hai anh phóng viên chiến trường c̣n đương đi quay phim tùm lum họ chưa về tới nhà, họ chưa đưa cái thơ cho vợ tôi nữa. Khi tôi về, nhà tôi mừng lắm tại v́ nghe tin tôi chết nên [nhà tôi] lên căn cứ của Thuỷ quân lục chiến là bộ chỉ huy đó - ở tại [đường] Lê Thánh Tôn, hồi đó cũng c̣n bộ chỉ huy tại căn cứ Sóng Thần trên Thủ Đức th́ ai cũng nói tôi b́nh yên, không có sao, hồi xưa đâu có cell phone mà cầm cái cell phone gọi về, khó khăn lắm, không có dễ dàng. Nhà tôi hỏi thăm ở đó th́ ai cũng nói tôi b́nh yên không có sao cả nhưng nhà tôi đâu có tin, nhà tôi nói rằng sợ là người ta giấu nên tới lúc tôi được về bằng xương bằng thịt th́ nhà tôi mới mừng. Tôi về ngày 24 th́ ngày 25, tôi lên vũ trường Tự Do của cô Khánh Ly, tôi mời cô Khánh Ly đi. Lần đó tôi mời được cô Khánh Ly và Ngọc Minh, hai người ra Quảng Trị hát uỷ lạo cho chiến sỹ. Tui c̣n cái h́nh để tại pḥng mạch chụp chung với mấy người đó.

    DT: Cho cháu hỏi cái này, căn cứ vô đâu mà báo Sài G̣n biết chiến sỹ nào chết mà đăng lên?

    HVC: Cái đó là một câu hỏi mà tôi nghĩ là quư vị làm báo thời đó đó là năm 1972, tôi không biết Darlena lúc đó ra đời chưa?

    DT: Dạ chưa.

    HVC: Tôi nghĩ là những người làm báo của ḿnh họ chỉ nghe đâu đó rồi họ lấy đó họ đăng, họ không có bằng cớ nào cả, họ đăng họ cứ đăng thôi, tại v́ những cái tin nào giật gân mà họ đăng th́ sẽ được người ta mua nhiều , giống như là ḿnh gọi là breaking news bây giờ ở đây vậy đó, tin giật gân vậy đó. Thế th́ tôi về tôi có cầm được tờ báo, tôi không nhớ là (báo nào v́) báo Sài G̣n đó nhiều lắm, chắc quư vị cũng biết ḿnh có nào là báo Thành Chung, báo ǵ đó, nhiều báo lắm, đủ thứ báo. Rồi th́ tôi có cầm tờ báo, tôi không nhớ báo ǵ đăng, tôi nhớ măi tôi coi cái hàng tựa, cái hàng tít đó, “Thêm một tài năng vừa nằm xuống ở Quảng Trị, bác sỹ kiêm ca sỹ Trung Chỉnh”, tôi nhớ măi, không nhớ hết chi tiết của cái bài đăng như thế nào. Tui vô toà soạn nhật báo đó nói rằng là cái tin này không phải, tôi c̣n sống, th́ họ đồng ư là họ cải chính. Nhưng mà về sau họ cải chính (ở) một cái mục nhỏ xíu bên trong nói là bác sĩ Trung Chỉnh c̣n sống, vậy thôi. Nhưng mà tôi nghĩ là họ nhầm tôi với một nhạc sỹ tên là Dzũng Chinh, không biết quư vị có biết Dzũng Chinh không? Dzũng Chinh là ông đặt cái bài nổi tiếng lúc bấy giờ gọi là “Những Đồi Hoa Sim”, đó là của nhạc sỹ Dzũng Chinh. Ông mất trước khi tôi đi Quảng Trị, tôi nghĩ là trước đó một vài năm ǵ đó. Người ta nhầm tôi với ông nhạc sỹ Dzũng Chinh (nên) họ nói là Trung Chỉnh chết rồi.

  6. #36
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc phỏng vấn bác sĩ kiêm ca sĩ Trung Chỉnh
    P2



    DT: Trong quân đội th́ có bộ kiểm soát nào để biết ai đi đánh trận, ai đă qua đời, ai đă bị thương không?

    HVC: Có chứ ngay tại bộ chỉ huy của quân đội ḿnh đều có chứ và mỗi ngày người bị thương ngoài đơn vị và người chết đó đều đánh điện về Sài G̣n để họ cập nhật.

    DT: Vậy th́ từ năm 72 đến năm 75. Chú có thể cho cháu biết cái tâm trạng của một người chiến sỹ đang đánh trận?

    HVC: Tôi nghĩ rằng là dân Việt Nam ḿnh đă trải qua bao năm trong chiến tranh, chúng ta sinh ra trong chiến tranh, chết trong chiến tranh, giải ngũ hay là bị thương rồi những thế hệ tiếp theo nó cũng vậy thành ra ḿnh nghĩ đó là chuyện b.nh thường, ai mà không lo sợ. Tôi nghĩ ngay cả con em của những người Mỹ của chúng ta bây giờ có gia nhập quân đội Mỹ đi đánh giặc ở những chiến trường như là Iran hay là Afghanistan cũng lo sợ chứ, ai cũng vậy cả. Nhưng ḿnh nghĩ lúc bấy giờ đó là bổn phận của những người trai, thành ra bây giờ ḿnh lớn lên như chúng tôi th́ học xong ra trường th́ phải trả nợ gọi là trả nợ cơm áo là phải gia nhập quân đội, tức là ḿnh phải đi đánh giặc thôi, đó là chuyện b́nh thường. Nhưng mà ra trân [có] sợ không? Sợ chứ, ḿnh nói ḿnh không sợ đó th́ không đúng, thành ra là những cái sinh hoạt hàng ngày của quân đội cũng cảm thấy đó là sinh hoạt trong những cái sinh hoạt thôi. Tôi là một bác sĩ cho nên không trực tiếp chiến đấu, gọi là cầm cái súng bắn mấy người Việt cộng hay là binh sĩ đối phương của ḿnh. Mặc dù tôi có súng nhưng tôi lại cầm ống chích, tôi ở ngoài chiến trận th́ tôi ở ngay (ngoài) chiến trận, v́ ngay ngày đầu tiên là bảy tây [7/4/1972] chúng tôi ra tới Phượng Hoàng là căn cứ mà chúng tôi giữ, chấn đóng ở đó của tiểu đoàn 6 lúc bấy giờ. th́ ngày chín tây (9/4) là chúng tôi đụng ngay trận đầu tiên và chúng tôi bị tăng của Việt cộng rượt, chúng tôi chạy, tôi ở ngay chiến trường nhưng mà ở chung với bộ chỉ huy, tức là ở cạnh ông tiểu đoàn trưởng và cái đơn vị của chúng tôi gọi là trung đội quân y, chúng tôi gồm trên dưới mười người y tá cùng phụ với tôi, hễ mà bệnh nhân, binh sĩ nào bị thương đưa về là chúng tôi săn sóc ngay, băng bó rồi cho họ chích thuốc, vô nước biển, đại khái là như vậy. ḿnh gọi là primary care, tức là ḿnh săn sóc ngay tại chỗ trước khi đưa những người đó về đàng sau để cho họ chuyển những thương binh đó về những bệnh viện ở đàng sau, nhiệm vụ của chúng tôi là như vậy đó. Thành ra không lúc nào ngơi nghỉ, đành giặc từ sáng tới chiều th́ chúng tôi bận bịu từ sáng tới chiều bởi v́ ra ngoài chiến trận th́ binh sĩ bị thương và tử thương cũng khá nhiều.

    DT: Trong lúc chiến trận có khi nào chú suy nghĩ cho tương lai của ḿnh, cho gia đ́nh ḿnh không?

    HVC: À, chúng tôi có nghĩ tới nhưng thực t́nh mà nói cái cuộc chiến của ḿnh nó dai dẳng, nó kéo dài lâu quá, cũng không biết được cái số phận của ḿnh trong tương lai như thế nào, tại v́ sự sống chết ở ngoài mặt trận rất là mong manh, một người sống buổi sáng, buổi chiều đă thấy bó trong cái bông xô rồi, thành ra cái tương lai đó ḿnh không nghĩ ra được. Sau này tới ngày 27 tháng giêng năm 1973, chính thức kư hiệp ước đ́nh chiến th́ lúc bấy giờ ḿnh mới cảm thấy có cái ánh sáng trong tương lai chứ c̣n trước đó th́ ngày nào cũng vùi đầu đi tham chiến th́ ḿnh không nghĩ đến chuyện tương lai.

    DT: Vậy th́ lúc đó căn cứ chú ở đâu, năm 1973 đó?

    HVC: À, 73 đ́nh chiến th́ chúng tôi vẫn đóng quân ở ngoài đó, v́ nói là đ́nh chiến nhưng vẫn c̣n đụng trận lai rai, phía bên thuỷ quân lục chiến chúng tôi th́ đụng ít hơn nhưng c̣n phía bên dù th́ hầu như họ đụng rất là nhiều, nói chung họ là đụng dài dài, đụng hoài.

    DT: th́ chú ở Quảng Trị cho tới năm 75 luôn hay sao?

    HVC: Cho tới năm 75, tới khoảng cuối tháng 2 năm 75 th́ tui được đổi về bệnh viện Long Khánh, tiểu khu Long Khánh. tới chín tây [9] tháng 4 th́ Việt Cộng lại đánh Long Khánh, th́ chúng tôi lại bỏ Long Khánh chạy về Sài G̣n.

    DT: Trong lúc mà biết mất nước th́ chú có cái cảm giác ǵ không, sau mấy năm chú đă chinh chiến để bảo vệ miền Nam, khi mà biết những thứ mà chú bảo vệ đă bị sụp đổ th́ lúc đó chú có cảm tưởng như thế nào?

    HVC: Lúc đó là năm nào?

    DT: Năm 1975

    HVC: Vào [năm] 75 ngày 9 tháng 4 Việt cộng đánh Long Khánh th́ chúng tôi bỏ Long Khánh chạy cho tới 11 tháng 4 th́ tôi về được tới Sài G̣n, 12 tháng 4 chúng tôi tŕnh diện cục quân y th́ họ gởi chúng tôi lên Biên Hoà, gọi là tŕnh diện cái đơn vị trực thuộc của tổng chỉ huy quân y gọi là vùng 3, người chỉ huy lúc đó là Trung tướng Lương Khánh Trí. Ông coi cả vùng 3, họ muốn gởi chúng tôi trở về Long Khánh là cái chỗ đương đánh dữ dội, cái mặt trận cuối cùng của sư đoàn 18. Nhưng mà sau này v́ vấn đề không có phương tiện vận chuyển nên chúng tôi được ở dưới này. Những cái ngày đó cho tới lúc gần mất nước bấy giờ tôi trở về trường y khoa th́ được biết đă có một số người đă được đăng kư, họ đi một cách chính thức. Tôi không biết họ đăng kư bằng cách nào mà ḿnh không hỏi ḍ được đường dây.

    DT: Đi đâu chú?

    HVC: Đi Mỹ, lúc bấy giờ Mỹ có bốc một số các bác sỹ Việt Nam ḿnh đi. Mà cái đường dây bốc thế nào th́ ḿnh không biết, thành ra ḿnh vào trong đó hỏi thăm th́ không ai biết và người ta nói với nhau rằng trước sau ǵ cũng mất nước.

    DT: Chú đă đoán được là sẽ mất nước?

    HVC: Đúng.

    DT: Chú có chuẩn bị ǵ không?

    HVC: Thật t́nh mà nói tôi cũng muốn kiếm đường đi tại v́ tôi biết là Việt cộng nó vào th́ tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn rắc rối. Tôi cũng [muốn] kiếm đường mà không kiếm được. Tôi hỏi thầy cô tôi là những người dạy tôi trong trường đại học y khoa th́ nhiều người họ không muốn đi. Họ nói đi Mỹ rồi, nên không thích đi Mỹ nữa. Tôi có một người mẹ nuôi rất giàu có, bà ở dưới Chợ Lớn, tôi hỏi bà đi không th́ bà nói là không muốn đi. Những người mà tôi quen biết không người nào đi hết. Tôi có người bạn thân, là đại uư bên giang cảnh, tức là ảnh coi về chi đoàn về tuần giang trên sông, ảnh có nhiều tàu lắm. Bấy giờ ảnh bị bệnh lao màng óc. Dù là hơi yếu nhưng ảnh cũng khá, tôi hỏi ảnh đi không, ảnh nói ảnh không đi. Tôi năn nỉ ảnh đi, ảnh nói ảnh không chịu đi, chứ nếu ảnh đi th́ chúng tôi vào cơ sở hải quân sớm, chúng tôi cũng có thể đi được tại v́ ảnh quen biết trong đó rất nhiều. Mà ảnh không đi th́ thành ra tôi không biết t.m đường nào để đi hết. Thành ra cuối cùng ḿnh phải kẹt lại thôi. Tôi phải chịu ở lại. Cái ngày mất nước là cái ngày 30 tháng 4 là cái ngày đau thương, cái ngày hôm đó ở Sài G̣n trời vần vũ, mây đen, pháo kích của Việt cộng vào Sài G̣n ầm. ở vùng ǵ Vấp, Tân Sơn Nhất. Dân chúng kéo nhau lũ lượt từ ǵ Vấp, Tân Sơn Nhất, họ gồng gánh, đầu này th́ một đứa con nít, đầu kia th́ mấy túi đồ ăn, họ gánh trông thê thảm lắm. Cái ngày hôm đó đúng là cái ngày đau buồn. Cho tới khoảng trưa, tôi nhớ khoảng 11, 12g trưa ǵ đó th́ ông Dương Văn Minh tuyên bố trên đài là yêu cầu binh sỹ hăy buông súng đầu hàng. Lúc đó buồn lắm, người nào cũng buồn cả, tôi lúc đó buồn ghê lắm, nhà vợ tôi ở đường Phan Đ́nh Phùng, ở trong hẻm, bề ngang cái nhà nhỏ thôi, chừng ba thước, tôi ngồi trong một cái xó góc nhà buồn lắm, tôi ngồi trong đó nói: “Ḿnh mất nước thật rồi sao?”, tôi hỏi vậy đó, mà đúng, ḿnh mất nước thật. Nhiều người rủ tôi ra ngoài bến tàu kiếm một cái tàu nào đó đi ra, [tới hải phận] th́ [sẽ] có một hạm đội nào đó vớt, nhưng tôi cũng chẳng tha thiết ǵ hết. Nhưng thực sự lúc đó ra bến tàu có thể đi được. Mà rồi tôi chịu, tôi ở lại luôn. Đó là cái tâm trạng của tôi là như vậy.

    DT: Rồi sau cái ngày 30 tháng 4 đó th́ chú làm ǵ?

    HVC: Ừ th́ sau cái ngày 30 tháng 4 th́ tới tháng 6, 26 tháng 6, tôi nhớ h́nh như vậy th́ tôi phải đí tŕnh diện để đi cải tạo. Tôi phải đi cải tạo, tức là tối hôm đó th́ tôi tŕnh diện ở trường v́ Trường Toản, họ bảo là đem mười ngày đồ ăn, ai cũng nghĩ đem mười ngày đồ ăn là ở mười ngày rồi th́ đi về. Chúng tôi tŕnh diện đông lắm, người nào cũng không có vẻ ǵ băn khoăn lo nghĩ nhiều cả v́ ai cũng nghĩ là chỉ đi có mười ngày thôi. Khuya hôm đó th́ họ tập trung tất cả những người sỹ quan lại, họ đưa lên các xe nhà binh chở đi đông lắm. Khi chở đi, họ [hạ] cái bạt xuống nên chúng tôi không có thấy đường nhưng mà chúng tôi cũng đoán là họ chở chúng tôi đi về hướng Tây Ninh. Khi tới gần sáng th́ chúng tôi tới nơi gọi là Trảng Lớn, th́ họ cho xuống. Chúng tôi may mắn là v́ đoàn của chúng tôi xuống tới đó th́ họ cho vào trong đó, tôi nghĩ là có 14, 15 ngàn người ǵ đó. th́ lúc bấy giờ là coi như ở đó hết chỗ chứa rồi những cái đoàn sau họ chở thẳng lên Cà Tum, gần biên giới của Việt Miên, những người trên đó cực hơn chúng tôi nhiều tại v́ ở chỗ Trảng Lớn là cái căn cứ của sư đoàn, h́nh như là sư đoàn 5 hay là ǵ đó. Lúc bấy giờ tụi Mỹ cũng có ở đó, họ có lập một cái phi trường, là phi trường tương đối đơn giản, họ để những cái miếng PSB là những miếng sắt làm tạm cái phi trường trên đó. Căn cứ lớn lắm, nằm đáng sau có cái vườn cao su và ngó thẳng ra núi Bà Đen ở Tây Ninh, chúng tôi ở trong đó và (rồi) tôi được đổi về Thủ Đức, sau đó th́ được thả.

    DT: Bao lâu là chú mới được [chuyển] về Thủ Đức?

    HVC: Tôi nhớ là khoảng chừng đầu năm 76 ǵ đó, th́ họ đưa về Thủ Đức mấy tháng th́ họ thả.

    DT: Trong Trảng Lớn đó th́ chú làm ǵ?

    HVC: À, họ giao ḿnh đi công tác, chẳng hạn như vác những tấm vỉ sắt, đi đốn củi, đi làm những công việc tạp dịch, đi đào hố. Tại v́ trong đó cũng có người chết, mấy anh em chết v́ bệnh, có người tự tử, chẳng hạn như vậy, có khi đi dẫy mả. Trước khi tôi về vài tháng th́ mấy anh em họ thương họ bầu tôi làm anh nuôi tức là đi nấu ăn, tui được nấu ăn, lúc bấy giờ th́ nấu ăn cũng chẳng có ǵ nhiều đâu, đi nấu ăn th́ vẫn sướng hơn đi tạp dịch, tức là đi lao động.

    DT : Thưa là năm 76 là chú về trại Thủ Đức hay là chú ra khỏi?

    HVC: Không, về trại Thủ Đức, chỗ đó có cái trại của Thủy quân lục chiến đó, họ giữ mấy người sắp thả th́ họ đưa về đó.

    DT: Rồi trong trại Thủ Đức đó nó có khắt khe hơn hay là sao?

    HVC: Tương đối là thong thả hơn, họ cũng cho ḿnh ăn rồi th́ có gia đ́nh lên thăm trước khi họ cho ḿnh về.

    DT: Chú có biết cái tiến tŕnh khi gia đ́nh vô thăm những người trong đó ra sao?

    HVC: Không có ǵ đâu, lúc bấy giờ nhà tôi c̣n ở Đà Lạt chưa về th́ chị vợ tui th́ chị... Lúc bấy giờ họ cho viết thư về gia đ́nh cho biết là tui ở đó th́ chị tui mới làm đơn cũng như xin với chính quyền địa phương lên thăm, đó là một [thủ tục] thông thường thôi, họ giữ những người sỹ quan ở Thủ Đức đông lắm.

    DT: Vậy th́ chú ở Thủ Đức bao lâu?

    HVC: Tôi không nhớ rơ, chừng ba bốn tháng ǵ đó.

    DT: Ba bốn tháng rồi chú được thả ra?

    HVC: Được thả th́ tôi về (th. phải) tŕnh diện, gọi là chính quyền địa phương đó, tôi về tŕnh diện xong rồi th́ ở tại nhà chị vợ. tŕnh diện xong th́ sau đó tôi về gặp mẹ, người mẹ đỡ đầu của tôi ở dưới Chợ Lớn, bả cũng không có đi, bà ở lại. th́ ba đỡ đầu của tui là chủ tịch nhà thương Phước Kiến lúc bấy giờ ḿnh gọi là nhà thương (Nguyễn) Trăi. Nhờ như vậy mà tôi xin vào làm th́ được nhận vào làm ở trong đó và tôi làm ở trong đó luôn cho tới cuối tháng 5 năm 1979 th́ vượt biên.

    DT: Quyết định nào mà dẫn đưa chú để có định đi vượt biên?

    HVC: Tôi nghĩ rằng chắc là Darlena và mọi người đều biết rằng ở Việt Nam thời bấy giờ ai cũng muốn đi cả, đến nỗi người ta nói cây cột đèn biết đi th́ nó cũng đi nữa mà. Thành ra tôi không thể nào ở lại được và tôi không thể nào sống dưới cái chế độ cộng sản được. Ở chỗ tôi ở đó ngày nào th́ họ cũng có bắt loa lên nói cả ngày, họ nói ra rả rằng là cái huyện này sản xuất được 200 phần trăm chỉ tiêu, tức là sản xuất nhiều lắm. Cái huyện kia sản xuất được 200, 300 phần trăm, tôi nói thí dụ như vậy, mà lúc bấy giờ chúng tôi không đủ cơm ăn. Thành ra ḿnh biết là họ nói láo, cái nghề nói láo là cái nghề của cái người cộng sản, ḿnh biết chắc như vậy thành ra ḿnh nghe ḿnh cảm thấy ḿnh tức lắm, ḿnh không dám nói, thành ra nếu mà tôi ở lại th́ hoặc là tôi ức mà chết hai là tới một lúc nào đó tôi tức mà nghĩ tới cái chuyện chống đối họ th́ họ cũng giết tôi chết thành ra chỉ có cách là phải đi thôi. Xin được kể lại cái câu hỏi của Darlena là cái l. do nào mà tôi ra đi. th́ lúc bấy giờ th́ ngày nào th́ cái bộ phận tuyên truyền của chính quyền cộng sản ở tại địa phương họ cũng đều làm, bắt cái loa họ lên họ nói cả ngày, họ nói là huyện Đông Xuân th́ được 200% chỉ tiêu, đạt được chỉ tiêu, huyện ǵ Vấp th́ được 300% chỉ tiêu, đại khái như vậy, nhưng mà lúc bấy giờ chúng ta không đủ gạo ăn cho đến nỗi mà có khi họ phát cho ḿnh gọi là bo bo thế cho gạo, có khi mua th́ khoa m., khoai lang,đại khái như vậy, c̣n lúa th́ có khi là lúa mục, cái lúa ở ngoài đồng nhiều khi chưa chín tới mà họ cũng gặt, họ đem về ẩm, đâu có ăn được. Họ phát cho ḿnh rồi th́ ḿnh đem ra chợ ḿnh đổi, gạo ǵ họ cũng có cả nhưng mà cái gạo chính quyền họ phát cho ḿnh th́ toàn là cái gạo ǵ không. Ra đó ḿnh đổi th́ tôi không nhớ là nhà tôi đổi như thế nào, đại khái th́ là ḿnh đổi gạo thường ḿnh ăn được, c̣n mấy cái gạo đó th́ họ bán để nuôi heo, nấu ra nuôi heo chứ sao mà ăn được, nó đâu có chín tới đâu, đó th́ là vậy, cho nên là tôi ở lại mà ḿnh làm việc mà ḿnh là một bác sỹ làm việc th́ lương của chúng tôi bấy giờ th́ họ trả cho chúng tôi là tôi nhớ khoảng 17, 18 đồng rưỡi một tháng cho một người bác sỹ. Mà lúc bấy giờ thịt heo là 60 đồng một kư. Lương tui lănh ra nhiều lắm là mua được 1 kư thịt heo th́ làm sao mà sống. Rồi cộng lại th́ thành ra ḿnh tức, ḿnh nghe nếu ḿnh không phản đối th́ ḿnh ấm ức rồi ḿnh cũng chết. Nếu mà ḿnh làm ǵ mà ḿnh chống đối họ th́ họ cũng giết chết, thành ra chỉ có cách là ḿnh phải đi thôi.

    HVC: Đúng vậy, có nhiều vị quen biết với bạn bè là những người tổ chức, họ gọi là đi chui.

    Đi như vậy rất là nguy hiểm, nhiều người chết nửa chừng, trên đoạn đường khi chưa tới được chiếc tàu nữa. Tôi cũng là nhờ ơn trên thương, có những người bạn tổ chức đi cho người Hoa, v́ tôi làm việc ở Chợ lớn. Lúc báy giờ chính quyền cộng sản muốn cho mấy người Hoa đi ra khỏi nước, nên chúng tôi đi dưới cái tên người Hoa, mà ḿnh hay gọi là đi bán chính thức. ḿnh trả tiền cho họ rồi ḿnh đi dưới cái h.nh thức đó. Dĩ nhiên là phải đi một cách lén lút chứ không đi một cách công khai được. Chúng tôi đều được đặt cho những cái tên người Hoa. Họ lấy tờ khai gia đ́nh của những người đă đi trước, rồi điền tên chúng tôi thế vào. Tôi nghĩ phần lớn họ đều đi bằng cách đó. Lúc bấy giờ tôi đă có đứa con thứ tư rồi, là cháu Việt lúc đó mới có 3 tháng, chúng tôi lên tàu đi, chúng tôi bắt buộc phải đi thôi.

    DT: Dạ, tức là đi nguyên gia đ́nh?

    HVC: Đi hết nguyên gia đ́nh.

    DT: c̣n lúc, ồ, ba mẹ chú đă qua đời sớm.

    HVC: Đúng rồi.

    DT: Chú bắt đầu đi ở đâu?

    HVC: Chúng tôi về Mỹ Tho để đi, tại v́ họ tổ chức ở đó. Từ Mỹ Tho, vào nửa đêm chúng tôi đi ra biển. Con đường đi nó thiên nan vạn nan, chúng tôi đi một lần mà thành hai. Chúng tôi không được may mắn v́ thứ nhất là cái tàu của chúng tôi, họ định đi chỉ 200 người thôi. Thế nhưng người chủ tàu tham lam, họ lấy tới 338 người tức là chở thêm một trăm mấy chục người nữa. Tất nhiên người lớn th́ trả tám cây vàng, con nít bốn cây. Họ chở đông người thành ra cái tàu không vững, ra khơi có khi nó muốn ch́m. Thế nhưng cũng may mắn là trời tháng 5, thực t.nh mà nói, cuối tháng 5 qua tháng 6 th́ biển êm lắm. Biển êm lắm nhưng người tài công là trung úy hải quân nhưng anh không có kinh nghiệm về hải hành. Anh chỉ là sỹ quan ở trên bộ, chuyên môn về vấn đề hành chánh thôi. Anh không biết nhiều về hải hảnh nên anh không biết vẽ đường đi cho tới nơi tới chốn. Chúng tôi cứ đi lạc m.i cho đến nỗi bị cướp Thái Lan ăn cướp 2 lần. Cho tới ngày thứ 8 chúng tôi đi vô tới địa phận của Mă Lai. Lúc bấy giờ chúng tôi vô cái tỉnh đó gọi là Kotabaru, tức là nó nằm ở miền nam Thái Lan, miền Bắc của Mă Lai, cách biên giới Thái Lan 10 cây số. Thực ra, không dễ dàng vô đâu. Lính nó canh bờ biển mà. Họ biết người Việt Nam lúc bấy giờ đổ vào rất nhiều. Mà lúc đó đổ vào nhiều thật. Khi vô tới nơi đó th́ mấy người mà gọi là trưởng ban tổ chức của tàu bị lính Mă Lai nó đánh, nó đánh dữ lắm. Sau đó th́ chúng tôi phải đục tàu v́ (như vậy) nó không có lư do nó đuổi ḿnh trở ra tàu được.

    DT: Đục tàu là sao?

    HVC: Đục tàu cho nó ch́m.

    DT: Ồ.

    HVC: Cho tàu nó ch́m th́ nó đâu có lư do ǵ nó bảo ḿnh trở ra tàu để ḿnh đi nữa, Phần lớn tàu vô Mă Lai mà bị lính canh đều đục tàu cho ch́m hết. Chúng tôi lội vô. Nó ngập cỡ lưng chừng ở cổ, tui đưa vợ con vào được tới nơi an toàn. Sau đó th́ họ tập trung chúng tôi vào một cái làng ở trong cái tỉnh đó, canh giữ ḿnh như tù vậy, tại v́ họ nói ḿnh là những người xâm nhập bất hợp pháp. Họ giữ chúng tôi ở đó 16 ngày, ở cái tỉnh gọi là Kotabaru, Keratang.

    DT: Cho cháu hỏi, cái thuyền 338 người trên một chiếc thuyền th́ cái thuyền nó lớn bao nhiêu?

    HVC: Cái thuyền nó lớn bề ngang 3 thước rưỡi, bề dài nó được 7 thước rưỡi.

  7. #37
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc phỏng vấn bác sĩ kiêm ca sĩ Trung Chỉnh
    P3


    DT: Một thước là một yard đúng không chú?

    HVC: Một thước là một yard hơn một chút. Phần lớn thanh niên thiếu nữ c̣n sức khỏe th́ chủ tàu bắt họ xuống dưới khoang, tức là dưới đáy tàu nằm ở dưới, c̣n đàn ông, đàn bà lớn tuổi, con nít th́ cho ở trên phía trên, chở tổng cộng là 338 người, chật ních cái tàu, không đi lại được. Darlena nhớ cái tàu mà đàng trước nó open, đàng sau có cái máy nó gọi là cái khoang. Bộ phận chỉ huy, máy móc nằm ở đàng sau. Nhưng mà ở đàng sau nó giống như cái nhà bếp, ở giữa là bộ phận văn pḥng chánh để cho người ta lái tàu, rồi mấy ông chủ tàu tính toán vẽ họa đồ trong đó. Hai bên là hai cái hành lang để cho ḿnh đi tới đi lui, đi ra bếp này kia nữa. Thế nhưng, hai bên hành lang họ ngồi chật ních, không có đường đi, thành ra tui là bác sỹ th́ tui ở trên mui, lúc nào có người gọi tui chích thuốc th́ tui phải leo xuống.

    DT: Lúc đó có thuốc không chú?

    HVC: Có, ḿnh mang theo đầy đủ, mang theo rất nhiều thuốc. Bộ phận ống nghe ống chích, tôi mang rất nhiều, tôi mang cho cả tàu mà. Khi tôi phải leo ra, mấy người bệnh đàng trước th́ không nói làm ǵ, những người đàng sau nhà bếp th́ tôi phải leo tại v́ họ ngồi chật ở dưới hành lang th́ làm sao ḿnh đi được, không có chỗ đi. Tôi phải leo lên trên những cái chấn song, leo vô tới đàng sau, chích thuốc cho họ, rồi khi ra tôi cũng phải leo ra.

    DT: th́ chú có nói là thuyền của chú bị hải tặc hai lần.

    HVC: Đúng rồi.

    DT: Bị hải tặc của Thái Lan, bây giờ gọi là pirate, hải tặc, nhưng mà tụi cháu không thể tưởng tượng được nó như thế nào, chú có thể diễn tả cho cháu cái cảnh hải tặc trên cái thuyền 338 người đang di tản, diễn tả cho cháu chuyện ǵ xảy ra không?

    HVC: Dạ vâng.Tôi nhớ rằng là họ có 2 cái tàu, một tàu chận đầu chúng tôi lại, một tàu họ nhảy qua tàu chúng tôi. Trước khi qua, một người có một cây súng lục, họ đưa lên trời, cũng giống như dọa cho chúng tôi biết. Rồi một đám thủy thủ tôi đoán cũng chừng mười người thôi, họ cầm nào là búa nào là dao, họ nhảy qua tàu chúng tôi. Sau đó, cũng giống như thị oai xong rồi, họ bắt chúng tôi, tất cả những người bên tàu chúng tôi họ bắt qua tàu của họ. Họ cặp sát lại, họ bắt chúng tôi qua tàu của họ để trống tàu bên này, họ đi lục soát, họ đi kiếm tiền. Sau khi họ lục xong hết rồi, họ qua bên tàu của họ v́ chúng tôi qua tàu của họ hết rồi. Họ lục soát chúng tôi ở bên đó. Họ không có xét trên đầu nhưng họ biết đầu tóc th́ không có ǵ (nhưng cũng có người giấu được một vài chỉ vàng trong tóc ) rồi họ xét trong quần, trong áo, kể cả quần lót của ḿnh Họ xét coi ḿnh có giấu tiền bạc quần áo hay ǵ trong đó không, c̣n nhẫn hay ǵ họ cởi hết rồi, đồng hồ cởi hết cho họ rồi, c̣n trong túi có cái ǵ th́ họ lục lấy hết rồi.

    DT: c̣n thuốc thang chú đem vào?

    HVC: Đó, thuốc tôi để trên mui th́ sau này khi mà họ đi rồi, [chuyện họ đi cũng không phải dễ dàng] tôi lên thấy họ lục tùm lum hết, họ lấy đồ nghề cùa tôi, ống chích, đồ đo áp xuất máu này nọ họ cũng lấy hết. Máy châm cứu của tôi họ cũng lấy luôn. Thuốc men th́ họ làm tung tóe hết, không c̣n xử dụng được cái ǵ cả. Nói cái chuyện họ bỏ đi cũng là hy hữu và may mắn. Tôi nghĩ họ lục chúng tôi từ khoảng 2g chiều cho tới 5g chiều, 3 tiếng đồng hồ, họ cứ lục tới lục lui. Lúc bấy giờ có một cái tàu ở xa lắm, tàu buôn hay ǵ ở xa lắm. Họ thấycái tàu đó đi gần như tới cái hướng của họ nên họ hối chúng tôi trở về tàu của chúng tôi, họ đuổi chúng tôi trở về tàu của chúng tôi, rồi họ chặt dây bỏ đi. Tại v́ họ cột tàu của ḿnh vô nên họ chặt dây ra khi họ bỏ đi. Nhờ vậy mới thoát được cái cảnh hải tặc, chứ nếu mà họ c̣n tiếp tục lục lọi nữa th́ ḿnh không biết chuyện ǵ nó xảy ra, có thể họ bắt đàn bà con gái , những thiếu nữ họ hiếp giống sau này họ làm, có thể như vậy, hay là đàn ông th́ họ giết, cũng chưa biết cái chuyện ǵ xảy ra. Cái đó cũng là ơn trên thương lúc bấy giờ.

    DT: Bị hải tặc là lúc chú ở trên biển 8 ngày, đúng không?

    HVC: Đúng, đó là lần đầu tiên đó.

    DT: Lần đầu tiên bị hải tặc đó là vào ngày thứ mấy?

    HVC: Tôi nghĩ nó là ngày thứ tư hay thứ năm ǵ đó.

    DT: Thứ năm?

    HVC: Ừ, mấy ngày đầu đi th́ chưa gặp họ mà phải mấy ngày sau mới gặp họ.

    DT: c̣n lần hải tặc thứ hai th́ sao?

    HVC: Lần hải tặc thứ hai, tương đối họ hiền hơn. Họ gặp chúng tôi th́ họ cho nước uống, rồi chúng tôi c̣n được bao nhiều tiền th́ phải đưa cho họ, họ nấu cháo cho chúng tôi ăn. Cuối cùng họ kéo chúng tôi vào trong một cái tỉnh của Mă Lai, rồi họ chặt dây, họ biểu chúng tôi chạy vào trong đó.

    DT: Vậy là họ, họ là hải tặc đó hả chú?

    HVC: Nếu mà ḿnh không cho tiền họ,tôi nghĩ họ cũng cướp ḿnh, nhưng mà đại khái th́ họ tương đối hiền hơn cái đám đầu. Cho nên chúng tôi vào đó, được 16 ngày th́ chính quyền Mă Lai nói là sẽ đưa chúng tôi đi Bidong. Họ lập danh sách chúng tôi rồi họ chích ngừa này kia đủ thứ Nghe họ nói sẽ đưa chúng tôi đi Bidong th́ mọi người đều hớn hở , v́ ở đó (nơi đang ở) là một cái tỉnh nhỏ, không có cơ quan bộ phận nào của Liên hiệp quốc cả.

    DT: Bidong ở đâu chú?

    HVC: À, Bidong là một cái đảo tị nạn tại Mă Lai. Chỗ đó là cái chỗ mà chính phủ Mă Lai để người tị nạn ở đó, chính thức để ở đó cho các nước trên thế giới tới đó phỏng vấn. Người nào nộp đơn xin đi Mỹ th́ có phái đoàn Mỹ tới phỏng vấn, người nào muốn đi Úc th́ có phái đoàn Úc, đại khái là như vậy. Đó là đảo chính thức, rất là nổi tiếng, ai nghe nói Bidong cũng thích cả , tại v́ tới đó mới có phái đoàn quốc tế tới phỏng vấn, chứ c̣n ở tại cái tỉnh nhỏ này đâu ai biết tới đâu. Chính quyền Mă Lai họ cũng không thích giữ ḿnh lâu nữa. Khi chúng tôi ở đó chúng tôi có nghe là chính quyền Mă Lai cho tàu kéo những cái thuyền tị nạn ra biển bỏ, chặt dây (cho trôi giạt tự do). Chúng tôi đă nghe như vậy rồi nhưng lúc bấy giờ cũng không ai để tâm trí nhiều vào vấn đề đó nữa. Bây giờ nghe nói họ kéo ḿnh đi, họ đưa ra ngoài đó th́ ḿnh mừng lắm (tưởng được đi Bidong). Lúc bấy giờ ở đó th́ ḿnh có đồ ăn của Liên hiệp quốc cho, những lon đồ ăn, rồi gà, rồi thịt cũng có, đại khái là họ cho ḿnh ăn, có cả cơm. Họ cũng cho ḿnh nấu cơm mỗi ngày ăn. Thành ra khi họ kéo ḿnh đi, họ bỏ lên tàu, họ kéo ḿnh đi theo thứ tự thôi. Tức là những cái tàu mà hồi xưa nhiều tàu họ bỏ lại đó, bây giờ họ sửa lại cho nó không bị lủng, họ sửa cho nó c̣n nguyên, rồi họ bỏ người lên, kéo đi, v́ máy nó không có chạy nữa. Lần tôi đi là lần sau, không phải trên tàu của tôi, mà là tàu Rạch Giá Kiên Giang , họ cứ chất lên đầy là họ kéo đi thôi. Họ kéo chúng tôi đi như vậy là coi như hai ngày, ba đêm. Họ kéo chúng tôi đến một vùng biển vắng, họ chặt dây, họ bỏ chúng tôi ở ngoài đó, họ tính họ cho chúng tôi chết ở ngoái đó mà. Khi chúng tôi ở ngoài đó th́ câu chuyện nó c̣n gian nan, vạn nan lắm. Chúng tôi trôi như vậy đến ngày thứ 13, chúng tôi chết thêm 10 người nữa ở trên tàu. Lần đầu chúng tôi chết 8 người rồi. Tới ngày thứ 13 th́ gặp một cái tàu, gọi là tàu chở dầu, mà lúc đó họ chưa chở dầu. Họ thấy tàu chúng tôi th́ người thuyền trưởng đó nghe nói là một người Anh, c̣n thuỷ thủ đoàn là người Hồng Kông. Người Tàu họ thấy người Tàu, họ nói chuyện với nhau, họ thông cảm, họ mới nhờ ông đó năn nỉ ông thuyền trưởng kéo chúng tôi, giúp chúng tôi. Sở dĩ mà chúng tôi gặp được cái tàu đó cũng không phải là chuyện dễ dàng là tại v́ họ, tàu Mă Lai họ bỏ chúng tôi trên biển vắng cơ mà. Tàu chúng tôi có cây cột to lắm, bằng bắp chân của ḿnh vầy, ḿnh dùng cây cột đó làm cột buồm. ḿnh đem theo mấy tấm bạt che nắng kết nó lại thành ra như một cái buồm vậy đó, thành ra tàu mới chạy đi được. Nhờ nó đi như vậy, đi về hướng Nam, cuối cùng nó tới nơi mà nhiều tàu ngoại quốc đi qua đi lại. Đi như vậy đó mà tới ngày thứ mười ba, (sau 10 trôi giạt) mới tới chỗ đó.

    DT: Vậy, trong thời gian đó, thiếu đồ ăn th́ ḿnh có thể nhịn đói được, nhưng đồ uống th́ sao?

    HVC: Đấy, cái câu hỏi đó rất hay. Chúng tôi biết là bị bỏ rồi, chúng tôi mới đi kiếm. Chúng tôi gởi một toán thanh niên chừng trên dưới một chục người, đi lục hết tất cả nước có ở trên tàu. Tại v́ những người đi đó, họ ở Kotabaro, nghe nói đi Bidong th́ họ đem theo nhiều nước lắm. Có người đem theo, rồi có người buổi sang dậy xúc miệng rồi gội đầu nữa mà đâu có dè nó bỏ ḿnh ra ngoài biển đâu. Họ đem nhiều nước, họ đem từng gallon, gallon nước. Chúng tôi gom lại hết rồi đổ vô cái thùng phuy, chúng tôi đổ vô 2 cái thùng lớn đó. Thùng phuy của ḿnh hồi đó khoảng 200 liters. Xong rồi chúng tôi cứ mỗi gia đ́nh, lập danh sách ra, canh theo đầu người để được phát nước, phát đồng đều hết, mỗi ngày phát chừng 3 lần, sáng trưa tối, mỗi gia đ́nh chúng tôi canh, phát bao nhiêu lần nước vậy đó. Tôi lănh nước rồi th́ tôi chỉ nếm chút xíu, phần c̣n lại tôi đưa cho nhà tôi với mấy đứa nhỏ uống cầm cự, không ai dám ăn. Ban đầu th́ c̣n ăn chứ lúc sau không ai dám ăn, v́ đồ ăn nó mặn, mặn quá mà không có nước uống th́ không chịu nổi.

    DT: Rồi như vậy th́ chú tới đâu?

    HVC: Đó, rồi sau đó họ mới kéo, cái tàu dầu đó, họ kéo chúng tôi vô một cái đảo gọi là Bolaoloop. Nó là một cái đảo của Nam Dương, xa lắm. Họ đưa chúng tôi tới đó là 3giờ sáng. Trên đường đi cũng gian nan lắm, tại v́ cái đêm đầu tiên họ kéo tôi đi đó là có băo, băo lớn lắm. Những thuỷ thủ ở trên tàu kéo chúng tôi nghĩ là ( tàu chúng tôi) sẽ ch.m nhưng mà may mắn sao tàu chúng tôi vẫn nổi được. Và ngày hôm sau, tới giữa đêm th́ sóng yên biển lặng. Họ kéo chúng tôi vào gần tới cái đảo đó vào lúc 3 giờ sáng. Họ kéo tới chỗ đó th́ họ chỉ cách canh (nhắm chừng), canh cái nước ( thủy triều ), canh cái gió... Họ biểu đến gần sáng th́ căng buồm lên, rồi chiếc tàu nó sẽ tự động trôi vô trong đảo.

    DT: Rồi cuối cùng làm sao mà chú qua Mỹ được?

    HVC: Chúng tôi ở trên đảo gọi là đảo Bolaoloop, chúng tôi chết thêm 10 người nữa. Tại v́ lên đó đói, dân địa phương họ đâu có dư cho ḿnh nhiều, mà chính quyền đại phương chỗ đó cũng là một tỉnh nhỏ mà. Rồi đói, bệnh sốt rét. Hồi đó sốt rét kinh khủng, cả gia đ́nh tui bị sốt rét, thành ra có nhiều người bị sốt rét, đói chết, nhà tôi tưởng là phải chết trên đảo đó. Cuối cùng, họ thấy chết nhiều quá mới đánh điện về trung ương. Trung ương mới gởi tàu, gọi là Seasweep (tàu lớn lắm, chuyên đi vớt mấy người trên biển đó) lên trên đảo đón mấy người trên đảo đi nơi khác. Họ đưa tất cả về trại gọi là đảo Galang. Cái đảo tị nạn đó là của Nam Dương, c̣n cái đảo Bidong là đảo tị nạn bên Mă Lai. Tôi qua tui ở Galang. Lúc tôi ở Galang th́ ở đó mới có 1000 người thôi. Chúng tôi nhập với họ trên đó cho tới cuối tháng 11 th́ tui đi Mỹ.

    DT: Vậy là chú ở đảo Galang mấy tháng?

    HVC: Tôi ở đảo Galang vậy là từ cuối tháng 7 cho tới tháng 11.

    DT: Rồi khi chú mới qua Mỹ th́ chú đi tới đâu?

    HVC: Đầu tiên là chúng tôi tới Denver, Colorado. Tôi ở đó, v́ lúc bấy giờ người sponsor của chúng tôi ở đó. Tôi đi học lại. học Anh Văn, rồi học chuyên môn , rồi đi thi. Cũng may là cái trường y khoa của chúng tôi (ở VN) giống như trường y khoa Mỹ, hay là bộ phận y tế của Mỹ, nó công nhận cái bằng của tôi v́ vào những năm 68 trở về sau, Mỹ gởi những giáo sư đại học qua để dạy cho sinh viên Việt Nam. Thế là họ công nhận cái bằng đó để chúng tôi dùng cái bằng đó đi thi bằng y khoa của Mỹ, tức là ḿnh không phải học lại từ đầu.

    DT: Dạ rồi, vậy c̣n cái phần tiếng Anh nó có vấn đề ǵ? Tại v́ bên Việt Nam ḿnh đâu nói tiếng Anh.

    HVC: Chúng tôi học tiếng Anh bên nhà, hồi c̣n trong trường quân y. Ở trường y khoa ,chúng tôi đều có học tiếng Anh, mà cái lối học bên nhà nó không giống như bên này. Tôi học ngay cả y khoa bằng tiếng Anh trong trường quân y nữa, có giáo sư Mỹ dạy nữa, nhưng mà một tuần họ dạy chừng hai buổi chẳng hạn, th́ ḿnh đâu học được ǵ nhiều đâu. Những người giỏi tiếng Anh th́ phần lớn là những anh chị xuất thân từ những trường Tây, học bên trường Tây , giống như là (10:08 PART4), họ dạy tiếng Tây, học thêm tiếng Anh th́ đối với họ rất là dễ dàng, thành ra họ rất lưu loát, cả hai ngôn ngữ. c̣n chúng tôi học ở trường Việt th́ cái vấn đề học tiếng Pháp với tiếng Anh rất là sơ đẳng. Ngay cả hồi trung học các thầy dạy mỗi người cũng nói một cách nữa, thành ra qua tới Mỹ, sinh ngữ vẫn làm cho chúng tôi lúng túng.

    DT: Rồi khi chú qua được bên này th́ cái cảm nghĩ về chiến tranh, về chính sách của Mỹ về chiến tranh Việt Nam, chú có nghĩ ǵ không?

    HVC: À, có nhiều người nghĩ rằng người Mỹ có bổn phận giúp đỡ người Việt Nam, tôi không nghĩ như vậy. Tôi rất là đơn sơ. Ban đầu tôi xin đi Úc nhưng chính phủ Úc họ không nhận v́ họ nghĩ rằng chính phủ Úc dư bác sĩ rồi. Họ nói rằng nếu tôi đi Úc th́ tôi phải bỏ nghề bác sĩ th́ họ mới nhận. Nhưng mà tôi không muốn bỏ nên nộp đơn đi Mỹ, và được phái đoàn Mỹ nhận. Chúng tôi nghĩ rằng tới đây chúng tôi có cơ hội để theo đuổi nghề nghiệp của ḿnh, nên ḿnh cố gắng học để ḿnh lấy bằng hành nghề thôi. c̣n cái chuyện chiến tranh Việt Nam th́ ḿnh coi như nó thuộc về dĩ văng rồi, nó là quá khứ. Vả lại vào những năm 80 lúc đó tôi đă ở Mỹ rồi th́ cái chuyện liên lạc với Việt Nam rất là xa vời, gởi một cái thơ nhiều lúc 6 tháng mới tới. Tại v́ có khi gởi (thư) về Việt Nam th́ nó đi Cananda, rồi từ Canada nó đi qua bên Việt Nam, rồi bên Việt Nam chính phủ giữ lại họ kiểm duyệt, họ đọc đủ thứ chuyện trong đó rồi họ mới cho chuyển về cho thân nhân. Thành ra lâu lắm mới nhận được cái thư.

    DT: Vậy chứ ngọn gió nào mà từ Denver Colorado chạy qua California chú?

    HVC: À, con đường nó cũng dài lắm, sau khi chúng tôi thi, cũng vất vả lắm mới đậu được cái bằng y khoa căn bản của Mỹ , sau đó mới đi xin đi học ở những trường nội trú của những trường y khoa của Mỹ. Tui lớn tuổi rồi nên đi kiếm những cái trường nào tương đối nhỏ mà ít có người xin. Chúng tôi xin về cái trường ở một cái tỉnh nó gọi là Leuo (12:41) thuộc bang Louisiana. Tôi được nhận về đó, và tôi xuống đó học. Tôi vô học nội trú, làm một sinh viên nội trú, bác sĩ nội trú trong đó. Tới năm 1986 tôi xong chương tŕnh ở dưới đó, rồi tui đi xin việc. Tui gởi thư xin việc, tôi gởi tất cả mọi nơi. Trong khi chờ đợi đó th́ có một bác sĩ ở trên Pennsylvania họ cần một người bác sỹ. Cái chỗ đó, cái tỉnh đó nhỏ lắm, gọi là John Town. Tôi lên đó chuẩn bị làm việc cho ổng. Khi kư hợp đồng, giao kèo rồi th́ Oklahoma gọi. Họ c̣n một cái chỗ trống nên gọi tôi về interview, tức là họ phỏng vấn đó. Chưa bắt đầu làm việc ở trên PA, nên tôi mới nói với ông bác sỹ mới mướn tôi rằng bây giờ vợ tôi với 4 đưá con ở nhà vất vả lắm, không có ai coi chừng con cái, bây giờ họ kêu tôi về để mà coi việc gia đ́nh, bây giờ ông cho tôi về coi vấn đề việc gia đ́nh sao đă. Tôi nói dối với ông như vậy nhưng kỳ thực tôi về Okhlahoma City để mà đi phỏng vấn cái job ở đó. Tại v́ tôi nghĩ nếu tôi ở Okhlahoma City tôi về Louisiana gần hơn. Tui về đó phỏng vấn th́ họ nhận. Tui bay trở lên Pennsylvania xin lỗi ông bác sỹ đó, tui nói là vợ con tôi không có tôi là không ai săn sóc được con cái hết. th́ ổng bực ḿnh lắm, ổng nói là tôi về sẽ không có ai giúp ổng, tại v́ trên đó chỗ vắng lắm, kiếm một người bác sỹ khó khăn lắm. Tui về Okhlahoma City ,làm việc từ năm 86 cho tới 2004, về hưu ở bên đó rồi mới về đây. Tại v́ tôi có đứa con út ra trường xong nó về đây năm 2000, ở trên Los Angeles. c̣n mấy đứa con khác th́ nó ở rải rác các nơi khác. Chúng tôi quyết định về đây.

    DT: Dạ vậy trong thời gian mà chú đi học để lấy bằng y sỹ bên này, th́ tiền đâu mà chú có thể đóng tiền học để mà đi học?

    HVC: Đúng rồi, câu hỏi đó hay. À thực ra như tôi nói hồi năy đó là chúng tôi không cần phải học lại từ đầu, chúng tôi chỉ cần dùng cái bằng y khoa của Việt Nam, lấy cái đó nộp lên gọi là tín chỉ, để ḿnh nộp ḿnh đi lấy cái bằng y khoa của Mỹ. Đó, thành ra ḿnh không cần phải học lại từ đầu. Nhưng mà ḿnh phải học là v́ tôi ra trường cuối năm 71, rồi 72 gia nhập đơn vị, đánh giặc triền miên cho tới năm 75 mất nước, rồi đi ở tù cải tạo, rồi về làm trong nhà thương Phước Kiến những năm 76 tới năm 79. Trong khoảng thời gian dài như vậy đó, không học được cái ǵ cả, không có cái ǵ mới hết. Nhưng mà làm trong nhà thương th́ ḿnh có một số kinh nghiệm làm trong nhà thương. Lúc bấy giờ học hỏi được như vậy nhưng mà cũng chẳng có nhiều là bao nhiêu tại v́ tất cả tài liệu sách vở y khoa làm ǵ có. Những cái mới đó, mà y khoa của Mỹ hay thế giới, sau 6 tháng hay 1 năm th́ họ đă có nhiều cái mới lắm rồi, thành ra chúng tôi qua th́ chúng tôi học lại. Những người có tuổi chút xíu học lại vất vả lắm. Có nhiều cái rất mới thành ra ḿnh cũng vừa học và nhờ may mắn th́ ḿnh cũng thi đậu, cũng phải trầy vi tróc vẩy lắm mới thi đậu. Sau khi thi đậu 2 cái bằng, cái bằng đầu tiên th́ ḿnh gọi là cái bằng ECFMG, cái bằng thứ hai nó gọi là National Board. Cái board th́ phải thi 3 ngày khó lắm. Sau khi thi đậu được 2 cái bằng đó rồi th́ ḿnh mới đi nộp mấy cái trường đại học để ḿnh xin đi học nội trú. Thành ra cái khoảng thời gian đó th́ chúng tôi nhờ hưởng trợ cấp. Sau đó, tới năm 81 th́ nhà tôi được vào làm ở bưu điện, tiền lương tương đối cũng khá. Tôi th́,ngoài vấn đề học tôi làm cho sở xă hội Denver. Chỉ làm mấy tháng thôi rồi th́ lo học, nào là học Anh Văn, học chuyên môn. Chuyên môn nó có những lớp luyện thi. ḿnh không cần phải học từng năm như ở ngoài mà có lớp luyện thi th́ ḿnh học những lóp luyện thi để ḿnh đi thi.

    DT: Dạ cho cháu hỏi, những lúc mà chú qua bên này năm 79 đó th́ các con của chú khoảng chừng mấy tuổi?

    HVC: À th́ đứa lớn 9 tuổi, đứa kế đó là 6 tuổi, rồi đứa ba tuổi và thằng út th́ mới có 10 tháng thôi.

    DT: Dạ th́ trong lúc đó con của chú vẫn c̣n nhỏ và khi lớn lên th́ đối diện với hai nền văn hóa, văn hóa cúa cha mẹ, văn hóa Việt Nam và văn hóa của người Mỹ khi đang lớn lên th́ làm sao mà chú ǵn giữ cái truyền thống của Việt Nam và cũng cùng một lúc dạy dỗ cho các con của chú sống trong môi trường mới?

    HVC: Cái tôi nghĩ đó là cái khó khăn của chúng tôi ở cái thế hệ của chúng tôi đó. Bây giờ tôi nghĩ ở những cộng đồng lớn như ở đây [CA] th́ có những địa điểm, có những lớp dạy Việt ngữ cho các cháu, dạy văn hóa, rồi có những sinh hoạt văn hóa th́ nó dễ. Ở đây các cháu lớn khôn không quên nhiều vấn đề văn hóa Việt Nam. Chúng tôi ở trên mấy cái tỉnh tương đối nhỏ th́ làm ǵ có những cái đó. Lúc bấy giờ cũng đâu có nhiều người Việt Nam, thành ra là cái... với lại tôi vẫn thường nói với nhà tôi và những người bạn đó là chúng tôi, hồi đó ḿnh c̣n nhỏ, ḿnh ở trong một cái tỉnh nghèo, cha mẹ chúng tôi đâu có học hành nhiều. Điều đó là tự nhiên, các anh của tôi cũng vậy nữa. Xung quanh chúng tôi là những đứa nhỏ như chúng tôi cũng chẳng có học hành nhiều, thành ra vấn đề được giáo dục một cách đàng hoàng th́ không có. Người lớn th́ hầu như truyền cho những đứa nhỏ những chuyện không được tốt đẹp. Cỡ chín mười tuổi mà hút thuốc hay là uống rượu th́ người ta cho là cái chuyện b.nh thường. Thành ra ngay cả khi chúng tôi lớn rồi, lập gia đ.nh, th́ cũng đâu có ai dạy ḿnh cái cách phải làm chồng,làm cha thế nào cho nó đàng hoàng đâu. Chúng tôi gặp khó khăn lắm. Qua tới đây rồi nếu người nào không thức thời, vẫn cứ nghĩ rằng ḿnh làm cha làm chồng th́ ḿnh có quyền độc tài, ḿnh muốn cái ǵ th́ người dưới cũng phải nghe ḿnh th́ điều đó rất là sai lầm. Phần lớn thế hệ già nua như chúng tôi là như vậy, cho nên mới có những cái sự găy đổ trong gia đ́nh.

    DT: Dạ th́ chú đă có làm ǵ để truyền xuống truyền thống văn hóa phong tục Việt Nam cho các con của chú không?

    HVC: Chúng tôi nói tiếng Việt với nhau ở nhà. Cho tới giờ này th́ con út của tôi, hồi đó qua Mỹ mới có 11 tháng thôi, nó lớn lên cho tới giờ này, nó vẫn nói tiếng Việt với chúng tôi được. Có những năm chúng tôi ở Oklahoma City, lúc mấy cháu c̣n nhỏ học tiểu học,chúng tôi có cho mấy cháu đi học những lớp tiếng Việt của trường công giáo ở đó, họ có dạy vào mùa hè. Học được 2 năm, tôi không nhớ 2, 3 năm ǵ đó, sau đó th́ thôi, nhưng đứa con gái lớn của tôi c̣n viết tiếng Việt được, bây giờ nó nói tiếng Việt rất rành. Thằng con trai th́ nói tiếng Việt rành lắm nhưng không nhớ được chữ Việt. c̣n đứa con gái thứ ba th́ nó nói tiếng việt rất rành nhưng đọc tiếng Việt th́ chữ được chữ không. Thằng út nói tiếng Việt khá lắm nhưng mà (viết) chữ th́ hoàn toàn không biết.

    DT: Dạ, cho con hỏi câu cuối cùng là kinh nghiệm nào của chú mà chú rút tỉa được trong cả cuộc đời gian nan từ trước chiến tranh, sau chiến tranh, lỡ mà sau này thế hệ mai sau muốn nh.n lại cuộc đời của Việt Nam, muốn nh́n lại cái lịch sử Việt Nam th́ chú có kinh nghiệm ǵ chú rút tỉa được và muốn nhắn nhủ cho thế hệ mai sau không?

    HVC: Dạ vâng, tôi nghĩ niềm tin là cái quan trọng. Cái niềm tin đây là niềm tin về số phận của ḿnh, và niềm tin nơi tôn giáo nữa. Trong lúc vượt biên, mọi người đều cầu nguyện. Người Phật giáo th́ cầu Phật, người Công giáo th́ cầu Chúa. Với lại, chúng tôi gặp những gian nan như vậy th́ có những cái mà tôi nghĩ là, nếu Darlena hỏi những người nào đi vượt biên, tôi nghĩ có lẽ phần lớn người ta sẽ kể cho Darlena, có những cái màu nhiệm trong nhiều chuyến đi đó. Chúng tôi cũng trải qua như vậy. Niềm tin về số phận của ḿnh là một, niềm tin nơi đấng Thiếng Liêng là hai. Sau đó, khi ḿnh đến được bến bờ tự do, ḿnh cũng không bỏ được niềm tin đó. Mà càng sống lâu th́ chúng tôi thấy rằng, nếu ḿnh sống một cách đạo đức th́ tôi nghĩ rằng là ḿnh sẽ vượt qua được những gian nan, sẽ có một cái màu nhiệm nào đó che chở cho ḿnh. Chúng tôi thấy điều đó rất rơ. Chúng tôi thấy rằng những người làm không tốt th́ kết quả họ gặp nhiều cái trắc trở dữ lắm. Người nào làm nhiều việc tốt th́ tôi thấy rằng dù là gặp những cái khó khăn th́ họ được cứu vớt, nhất là nếu họ có cầu nguyện. Điều đó thấy rất rơ. Nhưng tuổi trẻ nhiều khi không nghĩ tới được điều đó, tại v́ họ chưa trải qua những kinh nghiệm đó. Chúng tôi là những người đă trải qua những sự sống chết gần trong gang tấc như vậy đó, và chúng tôi đă thấy được những điều đó. À, rồi cái cuối cùng là lúc nào ḿnh cũng phải phấn đấu, không thể nào không phấn đấu được. Trong cuộc sống của ḿnh, bất cứ chuyện ǵ ḿnh cũng phải phấn đấu, ḿnh phải chiến đấu, phải phấn đấu cho tới cùng, không bỏ cuộc, ḿnh cố gắng, ḿnh vừa dùng cái khả năng của ḿnh. Dĩ nhiên ḿnh phải biết ḿnh ở đâu, chẳng hạn như một người b.nh thường mà bảo rằng là để tôi học đễ thành bác học, bác sĩ mà chưa có ǵ hết th́ rất khó khăn. Dĩ nhiên ḿnh biết cái sức của ḿnh tới đâu, khả năng của ḿnh tới đâu, ḿnh phấn đấu, khi ḿnh có cơ hội may mắn ḿnh chụp lấy, tui nghĩ trước sau ǵ ḿnh cũng thành công.

    DT: Trước khi kết thúc cuộc phỏng vấn này th́ chú có câu hỏi ǵ muốn hỏi cháu không ?

    HVC: Tui có thấy sơ qua là những người được phỏng vấn có tŕnh bày một số ư nghĩ của họ. Tui nghĩ rắng tôi có lẽ là một trong những điều mà cơ quan của Darlena muốn truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm của những người đi trước. Tôi cũng muốn nhắn nhủ lại những cái điều như vậy, mong rằng (thế hệ) mai sau biết được những chuyện xảy ra cho cha ông của họ, và đừng quên nguồn gốc của ḿnh, v́ dù sao ḿnh cũng, [qua cái dáng vẻ của ḿnh] không phải là một người Mỹ chính gốc th́ đừng có quên nguồn gốc của ḿnh, đừng quên cộng đồng của ḿnh. ḿnh phải cố gắng, ḿnh ở trong cái xứ sở này th́ có cái bổn phận với cái xứ sở này là đương nhiên, nhưng mà cũng đừng quên nguồn gốc của ḿnh, cộng đồng của ḿnh. Như vậy, tôi nghĩ là cuộc sống của ḿnh nó có nghĩa hơn.

    DT: Cám ơn chú

    HVC: Vậy xong rồi ha

    TBOnline

  8. #38
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Thế Lữ làm báo



    Hoàng yên Lưu
    TBOnline



    Độc giả thường chú ư tới Thế Lữ-Thi nhân mà không để ư tới Thế Lữ là một nhà báo, đă góp nhiều dư luận phẩm b́nh cho các tờ Phong Hóa và Ngày Nay. Ngoài mục tin thơ, Thế Lữ với bút hiệu Lê Ta c̣n là một cây bút đả kích có thực lực theo chủ trương đổi mới của Tự lực văn đoàn với mục điểm tin dí dỏm và những bài nghị luận xuất sắc.



    Như đă biết, Thế Lữ là một trong những nhà thơ đầu có công xây dựng nền móng cho Thơ mới và người nghệ sĩ tiền phong trong làng thơ thế hệ 32-45 này đă ra sức bênh vực thơ mới và đả kích thơ cũ. Trên tờ Phong Hóa số 148 ra ngày 10-05-1935, nhà báo Lê Ta trong mục điểm sách đă phê b́nh cuốn thơ xuất bản năm 1935 ở Vinh của hai tác giả Tường Vân và Phi Vân. Thi phẩm mới bày bán dù ở vị trí khiêm tốn trên kệ sách nhưng cũng làm cho những ai bênh vực Thơ mới gai mắt. Tác phẩm có tên Những bông hoa trái mùa tuy có cái tên không mấy khoe khoang nhưng lại là vũ khí bút chiến v́ hai tác giả muốn dùng nó để minh chứng thơ cũ có giá trị và đả kích làng thơ mới là:



    Chẳng khác anh mù lại nói mơ

    Chẳng qua một bọn dốt làm thơ



    Rồi hô hào các nhà thơ đừng chạy theo thời thượng là thơ Pháp hăy trở về với cái cũ “tinh hoa dân tộc” đúng tôn chỉ khuôn vàng thước ngọc “ta về ta tắm ao ta”. Thế Lữ khi nào chịu bỏ qua những thiên kiến, cổ hủ của phái bảo thủ tấn công Thơ Mới, ông đă dùng mục điểm sách để chứng minh thơ của Tường Vân và Phi Vân đúng là trái mùa không hề có giá trị văn chương mà chỉ là những cóp nhặt, mô phỏng cổ nhân với những lời vụng về, sáo ngữ mà thôi. Chúng ta hăy đọc mục điểm sách của Lê Ta để thấy nhiệt t́nh và giọng châm biếm sâu sắc của một nhà báo có khiếu thẩm mỹ bén nhạy và hiểu biết văn chương thấu đáo:



    Mục điểm sách: Những bông hoa trái mùa

    “Sau khi góp sức chế tạo ra được ngót ba mươi trang thơ (Những bông hoa trái mùa) hai nhà văn Tường Vân và Phi Vân ‘một ngày tốt đẹp kia’, đem in thành sách. In sách để tỏ cho thiên hạ biết hai ông cũng có triết lư về cuộc đời, mà hai ông coi như một buổi hát:



    C̣n lạ lùng chi cái thói đời.

    Trăm năm cũng một lớp tuồng thôi

    (Cuộc đời)



    “Để trách trăng, trách gió, trách người bạn gái, khóc ư trung nhân và để than cái nỗi đời xoay chuyển măi, ‘dặm liễu’ đă ṃn chân ‘ngựa kư’ mà ‘đường mây’ chưa thẳng cánh ‘chim đồng’ cho nên ‘anh hùng’ c̣n thẹn mặt trần ai, luống lo tưởng đến ‘nợ kiếm cung’ (!) chưa biết đến bao giờ trả được.

    “Tác giả thực là người có tâm huyết, có khí khái, có t́nh cảm và có những giọng cụ đồ cổ bất đắc chí ngồi cạy ghét móng tay mà giận đời không biết đến ḿnh.

    “Bởi thê, cái mới là cái đáng thù, cả sự chân thực cũng vậy. Đứng trên núi cao trông cảnh giang sơn dưới ánh trăng vằng vặc, các ông ngẫm, các ông cảm động bằng đôi mắt và trái tim của Bà Huyện Thanh Quan:



    Tuế nguyệt thành xưa trơ lớp đá,

    Tang thương ngơ cũ nhạt làn meo.

    (Trên núi Thiên nhẫn)



    “Các ông tả cái sắc đẹp của giai nhân trên thuyền bằng văn Cung oán:



    Cá dưới nước ra chiều lảng bảng,

    Hoa trên ḍng ra dáng lênh đênh.

    Hoa kia ngơ ngẩn với t́nh,

    Cô kia ngơ ngẩn như h́nh ai nghe.

    (Trên mặt Hồ tây)



    “Các ông phục cái khí phách của Bà Triệu Ẩu bằng lời của một nhà làm thơ cũ, tôi quên mất tên, nhưng vẫn nhớ kỹ cái nghệ thuật dở hơi và kiểu cách:



    Dăi nắng dầm mưa đôi má phấn,

    Xông tên đột pháo một đầu voi

    (Triệu Ẩu)



    “Các ông khen âm điệu thơ cũ thánh thót âm thầm như tiếng đàn năm cung. Không ai căi hai ông, nhưng tiếc rằng khi nghĩ đến đàn, các ông lại nghĩ đến t́nh h́nh của người khác, các ông lại xúc động bằng tâm hồn của người khác v́ trong ḷng các ông không có một thi cảm riêng nào.

    “Thi sĩ Nguyễn Du tả tiếng đàn như thế này:



    Trong như tiếng hạc bay qua,

    Đục như nước suối mới sa nửa vời;

    Tiếng êm như gió thoảng ngoài,

    Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.



    “Các ông liền lấy những ư trên lặp lại. Các ông cũng viết:



    Trong như tiếng hạc mới bay qua,

    Đục tựa lưng vời nước suối pha,

    Êm ái tiếng khoan như gió thoảng,

    Tiếng mau sầm sập lại mưa sa.



    Cái tài của các ông là cái tài xào nấu lại những món ăn cũ. Các ông lấy lời văn, ư tưởng, t́nh cảm của người khác làm của ḿnh. Trong văn thơ các ông đầy rẫy những cảnh tuyết, mai, thông, liễu, ở những chỗ sông Tần, vườn Thúy, chơi sông đêm trăng các ông bắt chước người ta nhớ câu thơ Xích Bích, ngắm Hồ Tây các ông cũng chỉ nghĩ đến cảnh ba quân xô xát với truyện con trâu vàng. Các ông đi sau cổ nhân để lượm nhặt những rơm rác ấy là ‘Những bông hoa trái mùa’.

    “Các ông đem hoa không đáng gọi hoa kia dùng làm thứ khí giới để công kích lối thơ chân thực dồi dào, phóng khoáng mà người ta thường gọi là thơ mới.

    “Là v́ các ông không làm được thơ mới.

    “Các ông không phải là người biết t́m cái đẹp mới mẻ, biết tả đúng tâm sự ḿnh trước cảnh vật, cái cảm hứng của các ông không thể ra ngoài khuôn sáo, chỉ quanh quẩn ở những điển tích mà đă mấy ngh́n lần người ta nhắc đến, nghe quen tai quá, chẳng khác ǵ những lời chúc tụng của bọn người hát ‘súc sắc súc sẻ’ đầu năm.

    “Các ông trách lối thơ bây giờ không theo niêm luật cũ, v́ các ông không biết rằng thơ bao giờ cũng có luật. Không phải cái luật hẹp ḥi hạn câu, chọn chữ vốn là một cái lối rất tiện cho những người khúm núm thi thố cái tiểu xảo của ḿnh. Nhưng thơ phải có thứ luật cao siêu hơn: ḿnh biểu lộ cảm tưởng, tâm trạng ḿnh một cách êm ái, tha thiết hay hùng tráng du dương theo cái bản lĩnh riêng ḿnh, không bao giờ chịu theo tư tưởng, t́nh cảm của người khác. Như thế th́ trái với cái biệt tài của hai ông lắm, nên hai ông không bằng ḷng.

    “Các ông chỉ ưa và chỉ t́m được những lời văn hoa sẵn có để tra vào cái khuôn khổ sẵn có. Khi tiễn đưa, tất nhiên phải dùng đến những chữ: ‘chuốc chén quan hà’ với ‘duổi dong dặm kư’; tả sắc đẹp tất nhiên phải chắp nhặt những tiếng: ‘sắc nước hương trời’. Mà cuộc đời bao giờ cũng là ‘tấn tuồng’ cũng như lúc mặt trời về chiều, bao giờ cũng là ‘ác tà chênh chếch’, ‘giọt sương’ dùng để chỉ nước mắt, ‘lá ngô vàng rụng’ để tả mùa thu. Các ông cũng không quên những chữ cành biếc, bụi hồng, mắt xanh, không quên những câu:



    Lơ thơ dăm cụm lục chen hồng,

    Thượng uyển là đây có phải không?

    Hương ngự (!) ngạt ngào đôi khóm cúc,

    Nhạc thiều (!) réo rắt mấy cành thông (trang 15)



    “Để tả những cảnh... trong vườn bách thú (!). Nghĩa là những câu thơ có thể tả được bất cứ cảnh vườn nào, mà tả cảnh vườn nào cũng rỗng, cũng sáo, cũng không có nghĩa lư chi hết.

    “Ấy thế mà các ông đi công kích bọn làm thơ lối mới; các ông lấy những giọng oanh liệt để mắng họ:



    Lạy bác xin đừng nói đến thi,

    Nghĩa thi chưa hiểu hăy im đi.



    “Và gọi họ là bọn mù:

    Chẳng khác anh mù lại nói mơ,
    Chẳng qua một bọn dốt làm thơ...



    “Vâng, họ dốt vô cùng, dốt v́ không biết theo kinh điển, v́ không nhai lại những lời cổ nhân mà các ông quư trọng, v́ không biết để cho cái khuôn khổ buồn cười của thơ (bát cú) ḱm kéo, thắt buộc tính t́nh, cảm hứng của họ.

    “Vâng họ dốt và họ mù lắm, họ không thể sáng như hai ông Tường Vân và Phi Vân được, mà như thế, theo ư tôi, th́ thực là may cho quốc văn.

    “V́ quốc văn cần phải tiến. Quốc văn không phải tṛ chơi dí dỏm ở trong ấy có luật lệ bày ra để một ít người thợ khéo chắp nhặt cái tiểu xảo nọ để ghép vào cái tiểu xảo kia. Thơ văn của ta bây giờ mới biết theo khuynh hướng mới cũng đă quá chậm rồi, không cần phải có bọn văn sĩ như hai ông Tường Vân và Phi Vân với cô Bích Ngọc ngăn cản lại.

    “Nói đến cô Bích Ngọc, người đề tựa cho quyển ‘Những bông hoa trái mùa’ tôi lại tưởng tượng đến một bậc nữ lưu đoan trang, trầm mặc. Tôi c̣n tưởng tượng lên thêm một bực nữa, tuy không được vừa ư cô nhưng tôi cũng cứ mạn phép cô tôi nói: tôi tưởng tượng ra một bực nữ lang... bà già.

    “Bởi v́ những ư tưởng của cô cũng đă già như cây cổ thụ.

    “Cô cũng đồng ḷng với hai nhà thi sĩ của cô ham muốn cái cổ, coi lối thơ luật cũ rích như những bông hoa thơm, cô lại viết một bài thơ tám câu, cố ư cho chúng tôi thấy thí dụ. Cái cụm hoa là bài thơ quư hóa ấy cũng có đủ những biền ngẫu: nhị vàng đi đôi với cành thắm, ḷng bướm với kiếp hoa, giậu cúc với cành hồng, nghĩa là những chữ sáo đi đôi với những chữ sáo.

    “Cô thực là người biết yêu trọng quốc hồn, quốc túy. Nhất thiết cái ǵ là mới, là lạ, cô đều ghét cay ghét đắng, lấy lẽ rằng cái mới lạ ấy không phải là của nhà. Câu phong dao:

    Ta về ta tắm ao ta,

    “Có lẽ là câu châm ngôn của cô. Cô thiết tha khuyên người ta chê bỏ và tự ḿnh chê bỏ ‘ao ngoài’ , để về tắm ao nhà ‘dù ao nhà ấy đầy những bùn, những vẩn’.

    “Tôi buồn rằng người ‘thục nữ’ có duyên đến thế lại kém vệ sinh”.

  9. #39
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Mathilde Tuyết Trần, người phụ nữ của quá khứ, hiện tại, và tương lai



    .
    Tôi chỉ mong mỏi là các thế hệ sau ở nước ngoài là đều biết nói, biết đọc Tiếng Việt th́ không có ǵ hạnh phúc hơn cả.


    Hồng Hoa


    Cho dù sống ở đâu nhưng có lẽ nếu ai mang trong ḿnh ḍng máu Việt, hay đặc biệt được ít nhất một lần sống trong không khí những ngày Tết thực sự, th́ đều mong ngóng và chờ đợi tới dịp lễ này. Tuy nhiên, dường như chỉ có tới dịp Tết, hai tiếng Việt Nam mới được nhắc tới nhiều nhất và không khí Việt mới trở nên tưng bừng, rộn ràng, và rơ nét hơn bao giờ hết. Nhưng có một người, dù là Tết Nguyên Đán hay ngày thường, dù là trong quá khứ, hiện tại, hay tương lai, trong suốt hơn 40 năm định cư và sinh sống ở Châu Âu, vẫn luôn dành không ít thời gian để cống hiến cho Việt Nam qua những công tŕnh nghiên cứu lịch sử Việt Nam đầy tâm huyết, qua những cuốn sách ghi lại những chuyến hành tŕnh dọc miền đất nước, và qua những bài viết chứa đựng những trăn trở, nỗi niềm rằng liệu những thế hệ Việt trong tương lai có thể giúp bảo tồn những nét văn hóa như những thế hệ hiện giờ đang làm hay không. Đó là nữ văn sĩ Mathilde Tuyết Trần.

    Bà Mathilde trước khi đi du họcBà Mathilde trước khi đi du học
    ​​Cô nữ sinh học ban Văn chương Triết học của trường Gia Long cách đây hơn 40 năm đă trở thành một trong số ít nữ sinh Việt Nam đầu tiên du học tại Cộng ḥa Liên bang Đức, theo ngành khoa học kinh tế. Vào thời điểm nước Đức vẫn phân chia Tây Đức và Đông Đức, trong số 1000 sinh viên ở Tây Đức th́ có 80 nữ sinh viên rải rác trên các đại học toàn Tây Đức và chỉ có vỏn vẹn ba nữ sinh viên Việt Nam. Trong khi đa số những nữ sinh khác học hóa học, chỉ có ḿnh nữ sinh Mathilde Tuyết Trần chọn học kinh tế. Khi được hỏi về quyết định du học Đức, bà Mathilde Tuyết Trần nói:

    “Trước hết tôi xin kính chào Hồng Hoa và xin kính chào thính giả của đài Voice of America. Xin chúc tất cả một năm mới 2013 cũng như năm Quư Tỵ mọi sự tốt lành và hạnh phúc. Ở Việt Nam tôi học chương tŕnh Pháp-Anh, dù tôi không biết một chữ tiếng Đức và phải học tiếng Đức cấp tốc trong vài tháng để thi vào trường nhưng v́ hoàn cảnh nên sau khi sang Pháp, sang Bỉ, th́ tôi lại sang Đức. Nước Đức thời ấy không bắt đóng học phí, việc học hoàn toàn miễn phí, đó là lư do lớn nhất tại sao tôi sang Đức. Nước Đức cũng có trợ cấp cho sinh viên cho nên qua Đức học đỡ được nhiều nỗi lo và bớt được nhiều khó khăn.”

    Khởi đầu học về ngành xă hội, bà Mathilde Tuyết Trần cho biết khi chuyển sang học khoa học kinh tế th́ khó khăn lớn nhất của bà là toán cao cấp và toán thống kê nhưng cuối cùng bà cũng vượt qua được. Nhưng tại sao bà lại chọn cho ḿnh một hướng đi hoàn toàn mới mẻ và khác biệt như vậy? Bà nói:

    “Cái thích cá nhân của ḿnh là một việc, nhưng hoàn cảnh thực tế lại là một việc khác. Lúc tôi đi học, th́ lúc đó là nước ḿnh là đang có chiến tranh, cho nên cái vấn đề xă học lúc ấy lùi lại một tí tại v́ ngày nào cũng thế, chúng tôi ngồi theo dơi tin tức chính sự ở Việt Nam, cho nên khi ấy cái chú ư về kinh tế, chính trị nổi hơn lên. Lúc ấy tôi đă chọn ưu tiên học về kinh tế. Sau khi học xong, đi làm cũng thế. Thời gian, trách nhiệm, và bổn phận không cho ḿnh cái khả năng chèo hai ba cái thuyền cùng một lúc.”

    Vượt qua những năm tháng đầy vất vả khi phải cân bằng giữa học tập và làm thêm, cộng thêm những khó khăn về ngôn ngữ khi tiếng Đức không hề dễ học, bà đă tốt nghiệp thạc sĩ Kinh tế quản trị tại trường Đại học Kỹ thuật Aachen và công tác một thời gian dài trong lĩnh vực tài chính, nhân sự của chính quyền thành phố Cologne, Đức. Từ những trải nghiệm với tư cách là một phụ nữ đạt được thành quả lớn như vậy trong thời gian trước, bà đă chia sẻ về những thuận lợi và khó khăn cho phụ nữ khi đó:

    “Thực t́nh mà nói, một ngày chỉ có 24 tiếng, sức người cũng chỉ có giới hạn, cho nên là có đôi lúc tôi cảm thấy tôi hoàn toàn kiệt sức. Nói chung phụ nữ c̣n bị xă hội thử thách nhiều, ngay cả ở Châu Âu cũng thế. Cho nên khi thấy và khi biết có những phụ nữ xuất sắc, nhất là phụ nữ Việt Nam trong các lĩnh vực khoa học, tri thức th́ tôi rất mừng. Cái việc phụ nữ ḿnh biết nhiều ngoại ngữ, giỏi trong lĩnh vực chuyên môn của ḿnh, bền bỉ, kiên nhẫn, khéo léo, đó là những đức tính thuận lợi của ḿnh, của người phụ nữ. Khó khăn là ḿnh phải có một cái ǵ xuất sắc hơn người khác th́ ḿnh mới t́m được công ăn việc làm, v́ họ vẫn ưu tiên cho người dân của nước sở tại và những ứng viên nam.



    Ở Đức có khi là phụ nữ phải cam kết miệng, điều này họ không thể viết trong văn bản được, đó là không sinh đẻ trong mấy năm đầu làm việc, v́ gia đ́nh, con cái cũng là một thử thách cho phụ nữ. Tôi nhớ là lúc ấy, hai câu hỏi căn bản mà các bạn đồng học nữ với tôi thời ấy đó là, đơn giản lắm: Lập gia đ́nh lúc nào? Có con khi nào, khi đi học hay khi đi làm?

    Cho nên người phụ nữ mà gọi là một cổ hai tṛng, một mặt phải dành hết sức lực, trí tuệ để bảo đảm công ăn việc làm, sự tiến bộ của ḿnh trong nghề nghiệp, một mặt phải lo toan cho chồng, cho con vui khỏe, hạnh phúc, đó là hai gánh nặng và trách nhiệm rất lớn.”

    Bất chấp những khó khăn, bà Mathilde cho biết những năm tháng công tác trong lĩnh vực tài chính, kinh tế, đảm nhận những trọng trách lớn, đă giúp bà có một cái nh́n thẳng vào nhiều vấn đề sự kiện, cũng như hiểu được ít nhiều mặt trái của các vấn đề sự kiện. Bà nói rằng đằng sau một con mắt văn chương xă hội mang ít hay nhiều tính chất thơ mộng, th́ bà có một con mắt khác, một con mắt phân tích khoa học thực tế, cân nhắc, và suy nghĩ. Với những vốn sống và trải nghiệm đa dạng được tích lũy đă đóng góp một phần lớn vào công việc viết sách hiện giờ của bà.



    Bà Mathilde bên cạnh giếng nước của tư thất của nhà thơ cổ điển Pháp Jean de La Fontaine, tại Château-Thierry, vào cuối thu 2012Bà Mathilde bên cạnh giếng nước của tư thất của nhà thơ cổ điển Pháp Jean de La Fontaine, tại Château-Thierry, vào cuối thu 2012

    Nội dung, kiến thức cho những cuốn sách th́ có thể dần dần tích lũy, nhưng khi được hỏi về thần tượng văn chương hay nguồn cảm hứng định h́nh phong cách viết, bà đă nói:

    “Trời sinh mỗi người có một văn phong khác nhau, không ai có thể viết giống ai cả, mà muốn bắt chước giống người ta cũng không được. Thế nên người Pháp họ mới có một câu nói là Văn Tức Là Người, tâm hồn ḿnh ra sao th́ cái câu văn của ḿnh cũng như thế. Văn phong của ḿnh chính là cái dấu ấn của người viết. Cho nên khi mà tôi bị người khác sửa văn của ḿnh hay là bị biên tập lại th́ tôi luôn luôn có cảm giác là cái văn ấy không c̣n là của ḿnh nữa.”

    Bà nói cảm hứng viết lách của bà phát sinh từ nhiều nguồn, từ thiên nhiên, phong cảnh, con người, hay vạn vật. Bà nói, rất nhiều điều đơn giản cũng có thể gây cho ḿnh một cảm hứng bất chợt để thành một bài văn hay một bài thơ. Tuy nhiên, những điều này dường như cũng không mấy liên quan trực tiếp tới những cuốn sách nghiên cứu lịch sử mà bà đă cho xuất bản như cuốn Dấu Xưa tản mạn lịch sử nhà Nguyễn (khảo cứu lịch sử) năm 2010. Vậy cơ duyên dẫn tới việc xuất bản những cuốn sách về lịch sử của bà là do đâu? Bà cho biết:

    “Tôi đến với việc nghiên cứu lịch sử là một chuyện rất t́nh cờ. Tôi khám phá ra được là ở Pháp có trữ rất nhiều tư liệu, kho tàng về lịch sử Việt Nam. Nghiên cứu lịch sử là cái bể học không bao giờ cạn, luôn luôn có rất nhiều điều để khám phá nếu mà ḿnh có phương tiện. Khi đi nghiên cứu ở các kho tàng văn khố th́ ḿnh phải có một sự say mê. Nếu không có say mê, thích thú, và kiên nhẫn th́ ḿnh không thể nào ngồi đọc một chỗ, tám, chín tiếng đồng hồ một ngày. Nhiều khi ḿnh t́m hai ba năm mà ḿnh t́m không ra. Hoặc nhiều khi ḿnh đi t́m điều này th́ bất chợt phát hiện ra một đề tài khác cũng hấp dẫn.”

    Kiên nhẫn và phải dành nhiều thời giờ không phải là thử thách duy nhất. Bà đă kể thêm về những khó khăn trong quá tŕnh nghiên cứu lịch sử:

    “Khó khăn thứ nhất là khó khăn vật chất, tức là ḿnh phải có điều kiện, phương tiện để đi nghiên cứu dài ngày một đề tài nào đó ở một nơi nào đó. Cái khó khăn thứ hai là vấn đề sinh ngữ. Trong văn khố lưu trữ của nhiều nước trên thế giới có lưu trữ một phần lịch sử Việt Nam, như ở Đức, Pháp, Hà Lan, Trung Hoa, Hoa Kỳ v..v.. Cho nên người đi tham khảo là phải biết nhiều ngôn ngữ. Khó khăn thứ ba là các cản trở về hành chính để được tham khảo các tư liệu. V́ có nhiều rào cản hành chính, thí dụ như ḿnh không được tham khảo hay là chỉ được tham khảo một số tư liệu giới hạn mà thôi, cho nên kết quả của ḿnh cũng có giới hạn.

    Những ai mà đam mê về lịch sử, nghiên cứu về lịch sử, dạy lịch sử, và học lịch sử, th́ cho đời nhiều hơn là ḿnh nhận lại được

    Mathilde Tuyết Trần

    Khó khăn thứ tư, đó là ḿnh cần có thày, là người đi trước, hướng dẫn, chỉ dẫn cho ḿnh vài điều. Ḿnh cần có bạn để làm bạn đồng hành, giúp đỡ, trao đổi. Khó khăn thứ năm là cái nản của chính ḿnh. Nhiều khi làm việc 4,5,6,7 năm, cuốn sách mới được in ra và đến tay độc giả. Cái khó khăn cuối cùng là, người đi học sử, viết sử sách ḿnh đầu tư về thời gian sống, về sức khỏe, về t́nh cảm, về hi vọng, và cả tiền bạc nữa. Cho nên tôi có thể nói rằng, những ai mà đam mê về lịch sử, nghiên cứu về lịch sử, dạy lịch sử, và học lịch sử, th́ cho đời nhiều hơn là ḿnh nhận lại được.”

    Gần đây, theo thông tin từ nhiều trang báo Việt Nam, t́nh trạng học sử của học sinh từ tiểu học lên đến trung học phổ thông đang trở nên báo động. Tuy không có nhiều thông tin về t́nh trạng dạy và học sử hiện tại trong nước, nhưng là một người yêu thích lịch sử và dựa vào kinh nghiệm thực hiện các dự án giáo dục trước đây khi bà c̣n làm việc cho chính quyền Cologne, bà cho biết:

    “Về việc học sử, th́ tôi có tiếp xúc với vài bạn trẻ học sử ở Việt Nam th́ tôi thấy họ có cùng những khó khăn như bản thân tôi, tức là thiếu sách, thiếu tư liệu, thiếu điều kiện và phương tiện nghiên cứu, thiếu người hướng dẫn mở đường… dù họ cũng có đam mê như tôi về sử.

    Tôi học ở Đức, nên tôi bị ảnh hưởng quan niệm giáo dục của Đức, tức là học phải đi đôi với hành. Hiểu lư thuyết là việc thứ nhất, rồi phải thấy và hiểu sự áp dụng của lư thuyết trên thực tế là việc thứ hai. Trong thời gian học về kinh tế, giáo sư thường tổ chức những chuyến đi thực tế đến các hăng, xưởng. Lúc tôi làm luận án tốt nghiệp th́ tôi phải đi làm không công sáu tháng trong một hăng để có căn bản thực tế cho luận án. Dạy sử và học sử cũng thế, nên mở rộng giáo tŕnh và thư mục tham khảo, cũng như nên có những chuyến đi thực tế. Dạy về Nguyễn Trung Trực th́ phải về Rạch Giá, nói về Hai Bà Trưng th́ phải về Mê Linh chẳng hạn…như thế học sinh mới có cảm nhận rằng lịch sử là đời thật đă qua, không phải là chuyện hoang đường khó nuốt, khó nhớ.”


    Cuốn hồi kư du lịch Từ Lũng Cũ đến Đất Mũi của bà mới được phát hành cuối tháng 1/2013Cuốn hồi kư du lịch Từ Lũng Cũ đến Đất Mũi của bà mới được phát hành cuối tháng 1/2013

    ​​Ngoài những bài viết về lịch sử, bà Mathilde c̣n dành nhiều thời gian trở về Việt Nam để khám phá những nét đẹp và sự đổi thay của quê hương trong hiện tại. Cuối tháng 1 vừa rồi, bà vừa cho xuất bản cuốn hồi kư du lịch “Từ Lũng Cú đến Đất Mũi” sau một thời gian dài ấp ủ.

    Lịch sử không thể thay đổi mà chỉ có thể t́m ṭi, nghiên cứu. Hiện tại th́ có thể tiếp tục quan sát và ghi lại. Nhưng tương lai th́ không thể đoán trước. Cũng chính v́ vậy mà dường như chưa khi nào bà thôi trăn trở về việc liệu thế hệ người gốc Việt tương lai sinh sống và làm việc ở nước ngoài có thể giữ ǵn và bảo tồn nhiều giá trị truyền thống, trong đó có việc học và sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ hay không:

    “Ngôn ngữ là để trao đổi, để hiểu người, và để cho người ta hiểu ḿnh. Ḿnh có ngôn ngữ th́ ḿnh mới thu nhập kiến thức và ḿnh mới truyền bá được kiến thức. Cứ xem hoàn cảnh của những dân tộc khác, tỉ dụ người da đỏ Châu Mỹ, hay là thổ dân Châu Úc chẳng hạn, ngôn ngữ của họ bị mai một. Số người biết nói, viết, đọc ít dần đi, th́ khả năng truyền đạt lại văn hóa dân tộc của họ cũng bị mai một theo từng thế hệ. Cái nh́n về bảo tồn văn hóa, về bảo tồn bản sắc, hay là bản tồn ngôn ngữ, phải là một cái nh́n xa và về lâu về dài cho nhiều thế hệ nối tiếp. Ḿnh không thể nào chỉ nghĩ đến thế hệ của ḿnh và thế hệ con ḿnh được.

    Tôi có một ông bạn học cũ, ông có một đứa cháu ngoại, mà đứa cháu ngoại mang trong người sáu gốc tích của sáu ḍng máu. Khi cháu lớn lên th́ cháu không thể chỉ là một người Việt được, mà cháu sẽ là một người của thế giới, một người đa dạng. Thành ra, một người như cháu mà có được một ít vốn liếng của Tiếng Việt, hiểu được một chút văn hóa của người Việt th́ ḿnh c̣n là một người Việt. Tôi chỉ mong mỏi là các thế hệ sau ở nước ngoài là đều biết nói, biết đọc Tiếng Việt th́ không có ǵ hạnh phúc hơn cả.”

    Quư vị vừa nghe câu chuyện Phụ nữ tuần này với nhân vật nữ văn sĩ Mathilde Tuyết Trần. Nhân dịp năm mới, xin kính chúc quư thính giả một năm mới an khang thịnh vượng, vạn sự như ư.

  10. #40
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hôn nhân, t́nh yêu,t́nh bạn của Hồ Xuân Hương



    - Lư Anh



    Theo các nhà nghiên cứu Hồ Xuân Hương như ông Nguyễn Hữu Tiến (1874-1941 – nhà báo, nhà văn, hiệu Đông Châu); ông Dương Quảng Hàm (1989-1946 – nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo dục Việt Nam, hiệu Hải Lượng); nữ sĩ Hồ Xuân Hương là con ông Hồ Phi Điền (c̣n có người nói là Hồ Sĩ Danh) ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An.

    Hồ Phi Điền thi đậu tú tài năm 24 tuổi, dưới triều vua Lê Dụ Tông (1679-1731). Nhà nghèo, không thể tiếp tục học, ông để vợ ở lại quê nhà, đến tỉnh Hải Dương làm nghề “gơ đầu trẻ” kiếm sống. Thương thầy đồ sống độc thân, một phụ nữ họ Hà người Bắc Ninh t́nh nguyện làm vợ lẽ hầu hạ. Hồ Xuân Hương là kết tinh của cuộc t́nh duyên đó.

    Trước khi Hồ Xuân Hương chào đời, thầy đồ Điền cùng người vợ họ Hà dọn đến sinh sống tại phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, (nay là Hồ Tây, Hà Nội). Hồ Xuân Hương đến tuổi đi học, gia đ́nh thầy đồ dọn về thôn Tiên Thị, tổng Tiên Tục, huyện Thọ Xương (nay là phố Lư Quốc Sư, Hà Nội). Mặc dù Xuân Hương là phận nữ nhi, thầy đồ Điền vẫn cho con gái học chữ “thánh hiền”. Năm Xuân Hương 13 tuổi, thầy đồ mắc bệnh từ trần. Là một cô gái thông minh sáng dạ, Xuân Hương được đi học một thời gian, sau đó phải ở nhà giúp mẹ chăm lo cuộc sống gia đ́nh. Từ đó Xuân Hương phải tự học và làm thơ. Ngoài học chữ và làm thơ, cô gái họ Hồ cũng được học tam ṭng tứ đức (tại gia ṭng phụ, xuất giá ṭng phu, phụ tử ṭng tử và công dung ngôn hạnh). Bài thơ Bánh trôi nước dưới đây chứng minh Hồ Xuân Hương là một cô gái con nhà nền nếp:



    Bánh trôi nước

    Thân em thời trắng phận em tṛn,

    Bảy nổi ba ch́m với nước non,

    Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn,

    Mà em vẫn giữ tấm ḷng son.



    Đây là bài thơ tứ tuyệt làm theo lối thơ “vịnh vật”, xuất hiện vào thời Lục Triều ở Trung Quốc (thế kỷ III và IV), thịnh hành ở nước ta với thơ chữ Nôm của Nguyễn Trăi. Đặc biệt trong Hồng Đức quốc âm thi tập, tuyển tập thơ chữ Nôm của Lê Thánh Tông và triều thần, sáng tác khoảng niên hiệu Hồng Đức (1460-1497). Các “vật” được vịnh bao gồm động vật như con hạc, con bướm, con ve... thực vật th́ có mai, đào, trúc... đồ vật như đàn, bút, quạt... con người th́ có vua chúa, mỹ nhân... Thơ vịnh vật có 2 yêu cầu: Một là miêu tả thật giống con vật, hai là kư thác tâm t́nh, mượn sự vật gửi gắm t́nh cảm, ư chí và tư tưởng. Thơ “vịnh vật” càng giống càng khéo, gửi gắm tâm t́nh càng sâu càng hay.

    Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương là một bài vịnh độc đáo, vịnh món ăn dân tộc được nhiều người yêu thích. Nếu không có một tài năng và tâm hồn nghệ sĩ như Hồ Xuân Hương, chưa chắc bánh trôi nước đă đến được với thơ văn.

    Bài thơ cho thấy tác giả là một thiếu nữ chín chắn, khiêm nhường, cùng với bề ngoài tṛn trặn hấp dẫn, bên trong có một tâm hồn trong trắng...

    Là một thiếu nữ con nhà gia giáo, tâm hồn trong trắng, Xuân Hương cũng muốn có một t́nh yêu chân thành. Tâm trạng đó của nàng đă được thể hiện qua bài thơ:



    Miếng trầu

    Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,

    Này của Xuân Hương đă quệt rồi,

    Có phải duyên nhau th́ thắm lại,

    Đừng xanh như lá bạc như vôi!



    Xuân Hương là cô gái khao khát một t́nh yêu trong trắng và chân thật, oái oăm thay, ông tạo lại bắt nàng phải chịu nhiều nỗi éo le: Đă lấy chồng muộn, lại phải chịu cảnh lẽ mọn, không được hạnh phúc như trăm ngàn cô gái khác. Nỗi đau của người phụ nữ phải làm vợ lẽ đă được nhà thơ thể hiện trong bài thơ:



    Làm lẽ

    Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,

    Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.

    Năm th́ mười họa hay chăng chớ,

    Một tháng đôi lần có cũng không.

    Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,

    Cầm bằng làm mướn, mướn không công.

    Thân này ví biết đường này nhỉ,

    Thà trước thôi đành ở vậy xong.

    (Bài thơ này c̣n có tựa đề Cảnh làm lẽ hay Lấy chồng chung).



    Bài thơ trên hay ở t́nh cảm chân thành, nồng nàn, tư tưởng sâu sắc, tinh thần phản kháng quyết liệt. Nghệ thuật diễn đạt tài t́nh, những điều khó nói của “kiếp lấy chồng chung” nhà thơ đă nói một cách thanh tao, gợi cảm. Những thành ngữ tiếng Việt đă chắp cánh cho thơ Xuân Hương, thuần hóa thơ Đường thành một h́nh thức thơ giàu âm điệu dân tộc. Bài thơ Làm lẽ đă đánh thẳng vào chế độ đa thê của xă hội phong kiến một đ̣n chí mạng. Để nói lên những bất công trong chế độ đa thê, để đ̣i quyền sống, quyền hạnh phúc lứa đôi, Hồ Xuân Hương đă phải trả giá cả cuộc đời ḿnh. Càng nghĩ chúng ta càng cảm thấy yêu mến, kính nể Hồ Xuân Hương.

    Bài thơ Làm lẽ không những nói lên số phận hẩm hiu của ḿnh, c̣n là tiếng nói căm giận cất lên từ nỗi uất ức khổ đau của bao nhiêu phụ nữ chịu cảnh lẽ mọn. Có thể nói quan niệm của Hồ Xuân Hương về con người và hạnh phúc đă có những nét cách tân: Cách nh́n, lối sống, quan hệ nam nữ, hôn nhân và gia đ́nh của người phụ nữ thời đó. Bởi vậy, thời bấy giờ có người cho Hồ Xuân Hương là nhà thơ “nổi loạn”. Thực ra th́ con người bà gắn liền với thời đại, không hề cách biệt với cuộc sống của số đông chị em phụ nữ thời bấy giờ.

    Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là con gái một người vợ lẽ, lại làm lẽ 2 người đàn ông. Những thảm cảnh làm lẽ của mẹ bà, của bà và của bao người đàn bà bất hạnh khác trong chế độ đa thê đáng nguyền rủa dưới chế độ phong kiến, đă dồn nén thành một khối thuốc nổ trong bài thơ Làm lẽ. Bài thơ này có sức công phá mănh liệt vào chế độ đa thê, lớn tiếng đ̣i quyền sống, đ̣i hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.



    Như chúng ta đă biết, Hồ Xuân Hương làm lẽ đến hai lần: Thứ nhất là Tổng Cóc, người thứ hai là ông Phủ Vĩnh Tường. Về ông Tổng Cóc, có nhiều tài liệu nói khác nhau. Một số người nói Tổng Cóc là một tên ác bá, ngu dốt. Làm lẽ Tổng Cóc là nỗi đau buồn của Hồ Xuân Hương. Tuy nhiên, cũng có người nói, nghe tiếng Xuân Hương thông minh, làm thơ hay, ông Tổng Ḱnh, tên thực là Nguyễn Công Ḥa tục gọi Tổng Cóc, mến tài của Xuân Hương, nhờ người mai mối cưới nàng làm thiếp. Theo tục truyền, chiều 30 Tết, Tổng Cóc cho người đem quà Tết đến nhà Xuân Hương, nàng liền ra câu đố bảo người đó mang về cho Tổng Cóc:



    Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới



    Mồng Một Tết, Tổng Cóc đến làm lễ xông nhà xong, lập tức họa lại:



    Sáng mồng một mở then tạo hóa để cho thiếu nữ rước xuân vào



    Nhiều người nghĩ có thể Xuân Hương mến mộ người đàn ông này có khiếu văn chương nên mới nhận lời làm lẽ ông ta.

    Tổng Cóc thương yêu và mến tài Xuân Hương, từng bảo nàng làm thơ viết vào gỗ rồi sơn lên để giữ cho bền. Hiện nay tại nhà thờ ông Kiều Phú ở tỉnh Phú Thọ c̣n tấm ván gỗ mít ghi những nét thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương như sau:



    Thảo lai băng ngọc kinh,

    Xuân tận hóa công hương,

    Độc bảng đan quế thượng

    Hào phóng bích hoa hương



    Tạm dịch:



    Nói đến tấm gương bằng ngọc,

    Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân

    Chỉ bằng lúc vin cành quế đỏ,

    Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm



    Xuân Hương là một nghệ sĩ giao thiệp rộng, lại phải sống trong cảnh lẻ mọn, bị vợ cả Tổng Cóc ức hiếp đủ điều, không tránh khỏi va chạm hằng ngày, Tổng Cóc lại là người nhu nhược, bà đành phải chống lại bằng cách bỏ nhà ra đi.

    Từ giă gia đ́nh Tổng Cóc đi t́m cuộc sống tự do, nhà thơ vẫn không tránh khỏi số phận hẩm hiu trong cuộc sống t́nh cảm, vẫn phải làm lẽ người thứ hai, đó là ông Phủ Vĩnh Tường. T́nh Cảm của ông Phủ Vĩnh Tường đối với Xuân Hương yêu quư và trân trọng hơn Tổng Cóc, nữ sĩ đă làm bài thơ từ giă người chồng trước:



    Khóc Tổng Cóc

    Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!

    Thiếp bén duyên chàng có thế thôi.

    Ṇng nọc đứt đuôi từ đây nhé

    Ngh́n vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!



    Bài thơ Khóc Tổng Cóc gây nhiều dư luận trong giới văn học. Tuy nhiên hầu hết đều khẳng định bài thơ này Xuân Hương làm để khóc cho t́nh duyên giữa hai người, không phải khóc người chồng (Tổng Cóc) đă quá cố. Một số người t́m hiểu về giai thoại Hồ Xuân Hương c̣n cho biết, sau khi làm lẽ Tổng Cóc, Xuân Hương bị người vợ cả chia rẽ duyên trời, bị họ hàng nhà Tổng Cóc uy hiếp, mới làm thơ giễu Tổng Cóc lúc c̣n sống, không phải khóc Tổng Cóc khi đă qua đời.

    Xuất giá lần thứ hai, Xuân Hương kết duyên cùng ông Phủ Vĩnh Tường, vẫn phải làm vợ lẽ. Tuy nhiên, ông Phủ là người tốt bụng, t́nh cảm dạt dào, rất mực thương yêu Xuân Hương, coi bà là người bạn văn chương, t́nh duyên không đến nỗi bẽ bàng. Tiếc thay, hai người chỉ chung sống với nhau được 27 tháng th́ ông qua đời. Lần này Xuân Hương mới thật sự làm thơ khóc chồng:



    Khóc ông Phủ Vĩnh Tường

    Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi!

    Cái nợ ba sinh đă trả rồi,

    Chôn chặt văn chương ba thước đất,

    Ném tung hồ th́ bốn phương trời,

    Cán cân tạo hóa rơi đâu mất,

    Miệng túi càn khôn khép lại rồi.

    Hăm bảy tháng trời đă mấy chốc,

    Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi!



    Có thể nói cuộc đời Hồ Xuân Hương thật là “bảy nổi ba ch́m chín lênh đênh”. Lấy hai người chồng đều phải chịu cảnh lẻ mọn. Duyên trời bất hạnh đó đă khiến nhà thơ chịu nhiều đau khổ, nhiều người đặt câu hỏi: “Tại sao cuộc sống t́nh cảm của Hồ Xuân Hương phải chịu nhiều cay đắng? Không lẽ duyên trời là hậu quả oan nghiệt của con người như đại thi hào Nguyễn Du từng viết trong Truyện Kiều: Chữ tài liền với chữ tai một vần?”.



    Ngoài hôn nhân phải chịu cảnh éo le, nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng có t́nh yêu, t́nh bạn chân thành và quư báu. Nhà thơ từng làm một số bài thơ nói về t́nh yêu, t́nh bạn khá gợi cảm và lăng mạn.

    Trong bài thơ Cảm cựu kiêm trinh Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu (Nhớ người cũ viết gửi Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu), dưới đầu đề bài thơ, tác giả ghi thêm câu: “Hầu, Nghi Xuân, Tiên Điền nhân” (Hầu người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân). Như vậy, Nguyễn Hầu đúng là Nguyễn Du tiên sinh. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền ghi rơ mùa hè năm Kỷ Tỵ (1809), Nguyễn Du được bổ làm cai bạ Quảng B́nh. Tháng 2 năm Quư Dậu (1813) ông được phong Cần chánh điện học sĩ, rồi được cử làm chánh sứ đi Trung Quốc tuế cống.

    Bài thơ này bà viết gửi thi hào Nguyễn Du (1765-1820) được thăng chức Cần chánh Đại học sĩ vào năm Quư Dậu (1813):



    Dặm khách muôn ngàn nỗi nhớ nhung,

    Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.

    Chữ t́nh chốc đă ba năm vẹn,

    Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.

    Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,

    Phấn son càng tủi phận long đong.

    Biết c̣n mảy chút sương siu mấy,

    Lầu nguyệt canh năm chiếc bóng chong.



    Trước kia 3 chữ cuối trong câu “Biết c̣n mảy chút sương siu mấy” là “sương đeo mái”, giáo sư Hoàng Xuân Hăn đổi lại là sương siu mấy. Theo ông, “sương siu” có nghĩa là bịn rịn.

    Một số nhà nghiên cứu Hồ Xuân Hương cho rằng, dựa vào nhan đề nói rơ chức tước của Nguyễn Du, người ta có thể biết bài thơ được sáng tác vào năm 1813. Nhưng... như vậy th́, mối t́nh kéo dài “ba năm vẹn” giữa hai người xảy ra vào lúc nào? Giáo sư Hoàng Xuân Hăn đoán mối t́nh này xảy ra vào khoảng 1792-1795, lúc Nguyễn Du chưa đến 30 tuổi. Lư do là, kể từ năm 1802, sau khi ra làm quan, ít khi Nguyễn Du có mặt lâu ở Hà Nội. Hết làm tri huyện Phù Dung lại làm tri phủ Thường Tín, rồi vào Huế, sau làm Cai Bạ ở Quảng B́nh. Nếu ông ra Bắc th́ cũng chỉ ở lại một thời gian ngắn. Dù sao, đây cũng chỉ là giả thuyết. Cái gọi là mối t́nh “ba năm” ấy không nhất thiết là gần gũi trọn vẹn ba năm. Ở xa, nhưng thỉnh thoảng gặp nhau, cũng là t́nh yêu.

    Đọc bài thơ trên chúng ta thấy, dù trong ḷng cảm thấy chua chát, Hồ Xuân Hương vẫn c̣n yêu Nguyễn Du. Vẫn c̣n băn khoăn không biết Nguyễn Du c̣n nhớ thương ḿnh nữa không? Riêng Hồ Xuân Hương vẫn nhớ người cũ, một ḿnh một bóng, chong đèn ngồi suốt năm canh.

    Ngoài t́nh yêu với Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương c̣n có nhiều bạn thơ, trong đó có Trần Hầu. Ông là vị quan trông coi trấn Sơn Nam Thượng, gồm phần đất của Hà Nội và Hưng Yên. Trong bài thơ với đầu đề Kư Sơn Nam Thượng Trấn hiệp trấn Trần Hầu (Gửi ông Trần Hầu, Hiệp trấn Sơn Nam Thượng) có hai đoạn, nhiều người cho đoạn I của Hồ Xuân Hương, đoạn II là thơ họa của Trần Hầu:



    Kư Sơn Nam Thượng Trấn hiệp trấn Trần Hầu

    I

    Vác cắm đàn tao một ngọn cờ,

    Ấy người thân đấy phải hay chưa?

    Lắc đầy phong nguyệt lưng bầu rượu,

    Dắt lóng giang hồ nửa túi thơ.

    Đ́nh Nguyệt góp người chung đính lại

    Trời Hoan mở mặt nước non xưa

    Bấy nay tài tử bao nhiêu tá

    Thèo đánh khen ai kẻ đặt cho.



    (Đ́nh Nguyệt là Cổ Nguyệt Đường của Hồ Xuân Hương. Trời Hoan: Trời Hoan Châu tức Nghệ An, quê cha đất tổ của Hồ Xuân Hương)



    II

    Trận bút xông pha quyết giật cờ,

    Tài t́nh ai đă biết cho chưa?

    Giấc Vu man mác năm canh nguyệt,

    Duềnh Ngự lênh đênh một lá thơ.

    Tơ liễu đă khoe tài lạ trước,

    Nguồn đào học hỏi lối quen xưa.

    Giai nhân tài tử dường nào đấy,

    Hay nợ b́nh sinh chưa giả cho.



    Ngoài hai bài thơ trên, Hồ Xuân Hương và Trần Hầu c̣n có nhiều đoạn thơ xướng họa trong bài Dữ Hiệp trấn quan Trần Hào xướng họa (Xướng họa cùng ông Trần Hào – quan Hiệp trấn Sơn Nam Thượng).

    T́nh bạn giữa Hồ Xuân Hương và Tốn Phong cũng khá đậm đà. Tốn Phong là ai chưa thể nói chắc được, nhưng có người nói ông họ Phan, tên Huân, nghĩa là “Nam Phong” (Gió Nam), cũng gọi là Tốn Phong, Nham Giác là tên hiệu, Nham Giác phu là “anh chàng ẩn ở núi nhưng hiểu sự đời”. Trong thơ Hồ Xuân Hương có ba bài liên quan đến Tốn Phong. Một bài họa lại thơ của Tốn Phong và hai bài ngụ ư gửi Tốn Phong.



    Họa Tốn Phong nguyên vận

    Kiếp này chẳng gặp nữa th́ liều,

    Những chắc trăm năm há bấy nhiêu.

    Nghĩ lại luống đau cho phận bạc,

    Nói ra thêm nhẹ với thân bèo.

    Chén thề thuở nọ tay c̣n dính,

    Món tóc thời xưa cánh vẫn đeo.

    Được lứa tài t́nh cho xứng đáng,

    Ngh́n non muôn nước cũng t́m theo.



    Ngụ ư Tốn Phong, kư nhị thủ

    I

    Chốn bước may đâu khéo hẹn ḥ

    Duyên chi hay bởi nợ chi ru?

    Sương xoa áo lục nhồi hơi xạ,

    Gió lọt cành lê lướt mặt hồ.

    Muốn chấp chỉ đào thêu trường gấm,

    Mà đem lá thắm thả ḍng Tô.

    Trong trần mấy kẻ tinh con mắt,

    Biết ngọc mà trao mới kể cho.



    II

    Đường hoa d́u dặt bước đông phong

    Nghĩ kẻ t́m thơm cũng có công.

    Lạ mặt gió quen cùng gió nước,

    Nặng ḷng nên nhẹ đến non sông

    Da trời nắng nhuộm tươi màu biếc,

    Pḥng gấm trăng in găi thức hồng.

    Ai nhớ lấy cho ḷng ấy nhĩ,

    Trước trăm năm hẵn nợ chi không?



    Hồ Xuân Hương c̣n thường họa thơ với một người bạn thơ tên gọi Chiêu Hổ, tức Phạm Đ́nh Hổ (1768-1839), nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa và xă hội Việt Nam. Tự Tùng Niên và Bỉnh Trực, hiệu Đông Dă Tiều, người tỉnh Hải Dương. Nhưng cũng có người nói: “Chiêu Hổ là ai hiện vẫn chưa rơ”. Dưới đây là những bài thơ hai người viết đi và họa lại:



    Trách Chiêu Hồ (1)

    Anh đồ tỉnh, anh đồ say

    Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?

    Này này chị bảo cho mà biết,

    Chốn ấy hang hùm chớ mó tay!



    Chiêu Hồ Họa lại:

    Này ông tỉnh, này ông say,

    Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày!

    Hang hùm ví bẵng (bằng) không ai mó,

    Sao có hùm con bổng (bồng) tróc tay.



    Trách Chiêu Hồ (2)

    Sao nói rằng năm lại có ba?

    Trách người quân tử hẹn sai ra.

    Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,

    Nhớ hái cho xin nắm lá đa!



    Bài Trách Chiêu Hồ (2) Xuân Hương giễu Chiêu Hồ “nói dối như Cuội”, Chiêu Hồ họa lại:



    Rằng gián th́ năm, quư có ba,

    Bởi người thục nữ tính không ra,

    Ừ rồi, thong thả lên chơi nguyệt,

    Cho cả cành đa, lẫn củ đa.



    (Gián và quư trong bài thơ họa này đều là đơn vị đồng tiền thời đó. Tiền gián có giá trị bằng 36 đồng kẽm. Tiền quư trị giá bằng 60 đồng kẽm. Tính ra 5 đồng gián hay 3 đồng quư đều bằng 180 đồng kẽm. Có thể cách hỏi vay của Hồ Xuân Hương với Chiêu Hồ không rơ ràng, cũng có thể là Chiêu Hồ bị trách rồi nói như thế để chữa thẹn).



    Trách Chiêu Hồ (3)

    Những bấy lâu nay luống nhắn nhe,

    Nhắn nhe toàn những sự gùn ghè.

    Gùn ghè nhưng vẫn c̣n chưa dám,

    Chưa dám cho nên phải rụt rè.



    Chiêu Hồ họa lại:

    Hỡi hỡi cô bay tố hăo nhe,

    Hăo nhe không được gậy ông ghè.

    Ông ghè không được ông ghè măi,

    Ghè măi lâu rồi cũng phải rè.



    Qua những bài thơ trên, có thể thấy t́nh bạn giữa Hồ Xuân Hương và Chiêu Hồ vừa khăng khít vừa chống đối nhau.

    Hồ Xuân Hương c̣n có người bạn là Mai Sơn Phú. Hai người cũng từng làm thơ trao đổi t́nh bạn. Bà từng làm 2 bài thơ gửi bạn tỏ ḷng quyến luyến nhớ thương:



    Ḥa Sơn phủ Chi tác

    (Họa lại thơ Mai Sơn Phủ)

    Này đoạn chung t́nh biết mấy nhau,

    Tiễn đưa ba bước cũng nên câu.

    Trên tay khép mở tanh chiều nhạn,

    Trước mặt đi về gấp bóng câu.

    Nước mắt trên hoa là lối cũ.

    Mùi hương trong nệm cả đêm thâu.

    Vắng nhau mới biết t́nh nhau lắm,

    Này đoạn chung t́nh biết mấy nhau.



    Thuật ư kiêm tŕnh hữu nhân Mai Sơn Phú

    Hoa phiêu phiêu,

    Mộc tiêu tiêu,

    Ngă mộng hương t́nh các tịch liêu,

    Khả cảm thị xuân tiêu.



    Lộc ao ao,

    Nhạn ngao ngao,

    Hoan hảo nhất kỳ tại nhất triêu,

    Bất tận ngă tâm miêu.



    Giang bát bát,

    Thủy hoạt hoạt,

    Ngă tư quân hoài tương khế khoát,

    Lệ ngân chiêm hạ cát.



    Thi tiết tiết,

    Tâm thiết thiết,

    Nồng đạm thốn t́nh tư lưỡng đạt,

    Dă ủng quân bút phát,



    Phong ngang ngang,

    Nguyệt mang mang,

    Phong nguyệt không linh khách đoạn tràng,

    Hà xứ thị Đằng vương?



    Vân thương thương,

    Thủy ương ương,

    Vân thủy na kham vọng nhất trường,

    Nhất trường dao vọng xúc hoài mang.



    Nhật kỳ kỳ,

    Dạ tŕ tŕ,

    Nhật dạ thiên hoài lữ tứ bi,

    Tứ bi ưng mạc ngộ giai kỳ.



    Phong phi phi,

    Vũ phi phi,

    Phong vũ tần thôi thái bút huy,

    Bút huy đô thị phó t́nh nhi.



    Quân hữu tâm,

    Ngă hữu tâm,

    Mộng hồn tương luyến liễu hoa âm.



    Thi đồng ngâm,

    Nguyệt đồng châm,

    Nhất tự sầu phân ly,

    Hà nhân noăn bán khâm.



    Mạc đàn ly khúc oán tri âm,

    Trực tu khí trí thử dao cầm,

    Cao sơn lưu thủy văn tương tầm,

    Ứng bất hận ngâm thán cổ câm.



    Quân hà kỳ,

    Ngă hà kỳ,

    Lữ đ́nh lai đắc lưỡng thê tŕ.

    Minh tần phi,

    Bút tần huy,

    Nhất trường đô bút thiệt,

    Hà xứ thị t́nh nhi?

    Hảo bằng tâm thượng khách tương tri,

    Dă ưng giao thác thử duyên đề,

    Phương tâm thệ bất phụ gia kỳ.

    (Giang nam điệu)



    Bản dịch của Đào Thái Tôn



    Kể ư ḿnh gửi bạn là Mai Sơn Phú



    Hoa xiêu xiêu,

    Cây xiêu xiêu,

    Giấc mộng t́nh quê thảy tịch liêu,

    Đêm xuân cảm khái nhiều.



    Hươu ao ao,

    Nhạn ngao ngao,

    Vui sướng hẹn nhau một sớm nào,

    Tả hết được t́nh sao!



    Sông bát ngát,

    Nước ào ạt,

    Ư thiếp ḷng chàng cùng vu khoát,

    Lệ rơi thêm mặn chát.



    Thơ da diết,

    Ḷng tha thiết,

    Đậm nhạt tấc ḷng ai thấu hết,

    Liệu bút chàng tả xiết?



    Mây lang thang,

    Trăng mênh mang,

    Trăng gió xui ai luống đoạn tràng,

    Đâu là gác Đằng vương?



    Mây tơ vương,

    Nước như sương,

    Mây nước trôi đâu chỉ một đường,

    Một đường xa khuất rộn ḷng thương.



    Ngày chậm ŕ,

    Đêm chậm ŕ,

    Sáng tối chạnh buồn lữ khách si,

    Nhớ thương đừng lỡ hẹn, sai kỳ.



    Mưa trôi đi,

    Gió trôi đi,

    Mưa gió dục hoàn cất bút thi (thơ),

    Viết thi gửi tới khách “t́nh si”.

    Chàng có tâm,

    Thiếp có tâm,

    Mộng hồn lưu luyến bóng hoa râm,



    Thơ cùng ngâm,

    Rượu cùng trăng,

    Tự lúc buồn chia biệt,

    Ai người ấm nửa chăng?

    Chờ đàn ly khúc oán tri âm,

    Đành xem như hết tiếng dao cầm.

    Hẹn nhau nơi non nước muộn mằn,

    Chớ buồn mà than thở cổ câm (kim).



    Chàng hẹn ǵ,

    Ta hẹn ǵ,

    Hai ta đều muộn nói mà chi,

    Trà mà chi,

    Bút mà chi

    Cũng là thiên lư cả,

    Ai là kẻ t́nh nhi

    Hiểu nhau trong dạ khó khăn ǵ,

    Hăy nên trao gửi mối duyên đi,

    Ḷng son ai nở phụ giai kỳ.



    Theo giáo sư Hoàng Xuân Hăn, có thể Mai Sơn Phú là người cùng làng cùng huyện với Xuân Hương.



    Qua những bài thơ trên chúng ta có thể thấy Hồ Xuân Hương là một phụ nữ dạt dào t́nh cảm, đối với t́nh yêu hay t́nh bạn đều vô cùng thắm thiết. Nhưng... duyên phận của bà vô cùng hẩm hiu, cuối cùng phải làm vợ lẽ hai người đàn ông, nên đă làm hai bài thơ than trách số phận của ḿnh:



    Tự thán

    I

    Con bóng đi về chốc bấy nay,

    Chữ duyên nào đă chắc trong tay,

    Nghĩ cùng thế sự ḷng như đốt,

    Trông suốt nhân t́nh dạ muốn say.

    Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn,

    Một đời riêng mấy kiếp chua cay,

    Nỗi ḿnh nổi bạn dường bao nả,

    Dám hỏi han đâu những cớ này.



    II

    Lẩn thẩn đi về mấy độ nay,

    V́ đâu đeo đẳng với nơi vầy.

    Ấm trà tiêu khát c̣n nghe giọng,

    Chén rượu mừng xuân dạ thấy say.

    Điếm lữ trông chừng mây đạm nhạt,

    Ḍng thu xem cỡ nước vơi đầy,

    Thương ai hẵn lại thương ḷng lắm,

    Này nợ này duyên những thế này.



    Bàn về thơ Hồ Xuân Hương trong dịp Xuân về Tết đến, không thể không t́m hiểu những bài thơ nữ sĩ viết về mùa xuân. Thơ Hồ Xuân Hương không có nhiều bài viết về mùa xuân, chỉ có 2 bài nói đến mùa xuân, nhưng cũng rất “độc đáo”. Các nhà thơ khác làm thơ đón xuân về, Hồ Xuân Hương lại làm thơ tiễn biệt mùa xuân.



    Cảm cựu tống Tân xuân chi tác

    I

    Xuân này nào phải cái xuân xưa,

    Có sớm ư? Thời lại có trưa.

    Cửa động hoa c̣n thưa thớt bông,

    Buông thoa oanh khéo dập d́u tơ.

    Phong lưu trước mắt b́nh hương nguội,

    Quang cảnh trong đời chiếc gối mơ.

    Cân vành nửa khắc xuân lơ lửng,

    Phố liễu trăm đường khách ngẩn ngơ.





    II

    Mới biết vị đời chua lẫn ngọt,

    Mà xem phép Tạo nắng th́ mưa.

    Tri âm đắp nữa chăn c̣n ngắn,

    Bức vách nghe thầm tiếng đá thưa.

    Nếm mía vụ này ngon những ngọn,

    Trông gương này nó bẵng như tờ.

    Xưa nay c̣n có đâu hơn nữa,

    Hay những từ đây, phải thế chưa?



    Đầu đề bài thơ hơi lạ. Người ta thường nói “Tống cựu nghênh tân” (tiễn năm cũ, đón mừng năm mới), nhà thơ lại làm thơ để “Tống tân xuân” (tiễn mùa xuân mới). V́ thế có người dịch đầu đề bài thơ chữ Hán Cảm cựu tống Tân xuân chi tác thành Làm tưởng nhớ thời xưa, tiễn đưa xuân mới.

    Hai bài thơ này, tác giả cho rằng mùa xuân đến cũng không có ǵ khác lạ, con người vẫn phải chịu cảnh éo le. Trong bài I, mùa xuân đến mà lại nhớ xuân xưa: Xuân này nào phải cái xuân xưa... Mùa xuân đến mà trong nhà: Phong lưu trước mắt b́nh hương nguội, Quang cảnh trong đời chiếc gối mơ, Cân vành nửa khắc xuân lơ lửng, Phố liễu trăm đường khách ngẩn ngơ. Không khác ǵ câu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

    Câu Nếm mía vụ này ngon những ngọn trong bài II khiến người đọc phải suy nghĩ. Mía chính vụ vào dịp heo may, trước Tết. Sau Tết người ta “bồng gốc” làm tơi đất, bón tưới, thúc mầm cho mía lên. Tục ngữ có câu: Mía tháng ba ngọt ra đầu ngọn. Tháng ba, mía c̣n non; họa chăng c̣n sót lại chút mía măng, ăn chẳng ra ǵ. Nếm mía vụ này ngon những ngọn là nếm mía vào tháng mía trái vụ. Tác giả dùng h́nh ảnh này để tả nỗi quá lứa lỡ th́ của người con gái.



    Lư Anh

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 4
    Last Post: 21-07-2011, 09:47 AM
  2. Replies: 14
    Last Post: 13-07-2011, 06:23 AM
  3. Replies: 1
    Last Post: 24-01-2011, 05:43 PM
  4. Phải Phá Bỏ Cái Ṿng Lẩn Quẩn!
    By Hoai Nam in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 20-12-2010, 10:40 AM
  5. Replies: 6
    Last Post: 11-12-2010, 05:34 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •