Chiến tranh Việt Nam và những phong trào phản chiến
Phong Vũ

Nếu chúng ta đồng ư đời là một cuộc tranh đấu th́ trước hết chúng ta phải xác định chúng ta tranh đấu để được ǵ. Hơn nữa trong một cuộc tranh đấu tất nhiên phải có hai thế lực đối đầu, chúng ta lại phải minh bạch chúng ta ủng hộ thế lực nào và chống lại thế lực nào. Khoan nói chuyện đúng sai của cái mục đích mà ta đang tranh đấu, nhưng nếu ta không khẳng định một cách minh bạch những điều vừa nói ngay từ bước đầu th́ cuộc tranh đấu của ta sẽ chẳng đi tới đâu, v́ nó mất phương hớng, và v́ vậy không có hiệu quả. Trong thế giới đầy hỗn loạn này, suốt thế kỷ 20, qua những ǵ khả tín của lịch sử (lại thêm một vấn đề nữa về độ khả tín của lịch sử, nhưng đó là vấn đề khác, không phải chuyện ở đây) và qua những ǵ diễn ra mà chúng ta là những nhân chứng sống, chúng ta đă chứng kiến, và thậm chí trải nghiệm nhiều cuộc tranh đấu, ủng hộ điều này, chống điều kia.

Đất nước của chúng ta có quá nhiều cuộc chiến tranh. Không kể những cuộc chiến xa xưa trong suốt cà ngh́n năm dựng nước, chỉ kể những cuộc chiến gần đây, ở hậu bán thế kỷ 20, cũng đủ làm cả thế giới phải biết đến cái tên nước Việt Nam. Ở đây mỗi khi tôi trả người da trắng “I'm from Vietnam”, hầu hết đều “Ah, Vietnam war.” Thế đấy.

Và suốt cuộc chiến tranh Việt Nam đó có khá nhiều phong trào phản chiến đă có cơ hội dấy lên, ngay trong ḷng nước Việt và trên thế giới. Đó là những phong trào chống chiến tranh, kêu gọi ḥa b́nh. Tôi tin tưởng rằng, đối với một người dân b́nh thường của bất cứ một quốc gia nào, th́ chiến tranh là một tai họa, không một người dân nào muốn chiến tranh cả. Và một điều quan trọng hơn cả thường bị quên lăng, khiến cho mọi phong trào chống chiến tranh thường trật đường rầy và không hiệu quả, và c̣n phục vụ cho những thế lực phát động chiến tranh.

Vâng , cái điều quan trọng bị quên lăng đó mà tôi muốn nói là lực lượng phát động chiến tranh. Khi những chiếc xe tăng Đức vượt biên giới Đức-Ba Lan, th́ đó chính là hành động đốt ng̣i nổ khởi đầu phát động một cuộc chiến tranh thế giới toàn diện. Sau đó là gót giày của đội binh Đức quốc xă lần lượt dẵm nát lănh thổ của hầu hết các quốc gia chấu Âu, biến những đất nước đang hưởng thái b́nh thành chiến trường đẫm máu, những vùng đất chất ngất đau thương ngập tràn khói lửa đao binh.

Giả dụ như bạn muốn hô hào chống chiến tranh vào lúc này, th́ bạn sẽ kêu gọi những ǵ? Bạn sẽ chống ai đây? Bạn chống quốc xă Đức hay bạn chống Pháp, Ba Lan? Đúng ra bạn muốn kêu gọi tất cả mọi phe phái tham gia đều buông súng, phải thế? Tôi không phản đối bạn cái thiện chí đầy tính nhân đạo này. Bạn muốn yêu thương thay v́ chém giết, hận thù. Đúng vậy, ai lại không muốn thế. Tuy nhiên tôi tin rằng bạn cũng thừa biết, đa số những thế lực phát động chiến tranh đều có mưu đồ tham vọng, và cái tham vọng quyền lực này luôn được nuôi dưỡng phát triển ngày càng lớn mạnh. Chúng không bao giờ từ bỏ những giấc mộng điên cuồng đó cả. Lịch sử loài người cho thấy chúng chỉ bị bắt buộc từ bỏ mà thôi. Thế cho nên, mọi cái gọi là phong trào chống chiến tranh không hề gây một ảnh hưởng ǵ, dù là nhỏ nhất, đối với những thế lực phát động chiến tranh cả.

Trở lại với cuộc chiến tranh Việt Nam. Ngay sau 1954, những người cộng sản đương quyền bắt đầu ra tay để củng cố quyền lực bằng bạo lực cách mạng. Họ t́m cách thanh trừng mọi đảng phái khác, những thành phần mà trước đây trong kháng chiến họ đă kêu gọi “đại đoàn kết” th́ nay họ t́m cách loại bỏ, tiêu diệt càng tốt. Về mặt xă hội, họ cũng t́m cách “ổn định” bằng bạo lực với liên tục những cái gọi là “chiến dịch”, từ cải cách ruộng đất đến triệt tư sản, cho đến trấn áp trí thức và văn nghệ. Sau một thời gian ngắn, khi họ đă tạm yên chí là tất cả đều ngoan ngoăn v́ sợ hăi, không c̣n lo những thế lực phản động trỗi dậy được nữa, và họ bèn sực nhớ đến miền Nam!

Đại Hàn cũng rơi vào một hoàn cảnh tương tự, nhưng dân Nam Hàn may mắn hơn, v́ chính quyền Bắc Hàn dù hung hăn nhưng không có mưu đồ thôn tính miền Nam (Đại Hàn); mà nếu có th́ v́ một lư do nào đó Bắc Hàn đă không thực hiện. Hơn nữa, kể từ sau khi hiệp định ngừng bắn chia đôi đất nước Triều Tiên, Mỹ đă duy tŕ căn cứ và quân đội trên đất nước này nhưng Bắc Hàn vẫn thể dùng cớ đó là sự “xâm lược của đế quốc Mỹ” mà tiến hành cuộc “chiến tranh giải phóng” như ở Việt Nam.

Việt Nam th́ khác; mưu đồ “thống nhất” đă manh nha ngay từ phút ban đầu ngay sau khi kư kết hiệp định Geneva. Sau khi chính quyền miền Nam “bội ước” không thực hiện cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước v́ nghĩ rằng, sự kiểm soát tính công b́nh và minh bạch cho một cuộc tổng tuyển cử trên toàn lănh thổ vào thời điểm như thế, trong một hoàn cảnh như thế sẽ là bất khả thi. Đó là một hành động “chơi ăn gian” nếu có thể cho là thế, nhưng nhờ vậy mà toàn miền Nam lại tránh đuợc nguy cơ bị nhuộm đỏ sớm hơn hai mươi năm, cái khoảng thời gian hai mươi năm đầy ư nghĩa của sự phát triển và xây dựng một quốc gia mang tên Việt Nam Cộng Ḥa vô cùng non trẻ, mà dù trong một hoàn cảnh đầy biến động cùng với chiến tranh tàn phá khắp nơi lại có những bước tiến mà không ai có thể phủ nhận được (từ xă hội, văn hóa, kinh tế.)

Chiến tranh nổi dậy lật đổ chính quyền tay sai

Ai cũng biết là ngay sau khi miền Nam “bội ước”, cung đ́nh miền Bắc chia làm hai phe nhóm có hai khuynh hướng khác nhau về cách giải quyết miền Nam. Có nhóm th́ chủ trương dùng thương thảo chính trị để giải quyết vấn đề thống nhất, có nhóm th́ chủ trương bạo lực, có nghĩa là phát động chiến tranh để cướp lấy chính quyền. Và bất hạnh cho Việt Nam là nhóm sau lại có nhiều thế lực khuynh đảo, và kế hoạch cho cuộc “nam tiến” được đưa ra bàn thảo tiến hành, và cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam ra đời. Với một tên gọi như thế, nhà cầm quyền miền Bắc muốn cho mọi người hiểu rằng đây chính là “nhân dân miền Nam nổi dậy” muốn lật đổ chính quyền tay sai miền Nam, miền Bắc chỉ có vai tṛ “ủng hộ” mà thôi.

Thực ra th́ toàn bộ kế hoạch cho đến thực hiện từ A tới Z đều do họ “lập tŕnh” và cái gọi là MTGPMN là một “software” không hơn không kém. Chuyện đó không c̣n ǵ là bí mật nữa. Thế là ở miền Nam, chiến tranh bắt đầu bột phát từ đấy, từ một căn cứ nhỏ gọi là Cục R, điểm xuất phát cho một cuộc binh đao đầy máu lửa trên quê hương Việt Nam. Thế là đường ṃn Hồ Chí Minh là con đường tiếp vận, vũ khí, binh đội, xâm nhập miền Nam. Trong quyết định thôn tính miền Nam này, chắc chắc có sự tham vấn của hai ông anh cả Nga Hoa của thế giới CS, và đă được hai ông anh này vỗ vai khuyến khích

Chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam

Thế là chỉ sau chưa đầy mười năm kể từ sau khi kư kết hiệp định Geneva, gọi là hiệp định văn hồi ḥa b́nh tại Đông Dương, th́ chiến tranh ngày càng leo thang lên đến tột đỉnh. Trong cuộc chiến tranh lạnh toàn cầu, người Mỹ thấy rơ ư đồ của những thế lực phát động chiến tranh tại miền Nam Việt Nam. Làn sóng đỏ đe doạ toàn bộ khu vực Thái B́nh Dương, mà Việt Nam chính là cái bao lơn Thái B́nh Dương vậy. Hai đàn anh Nga Hoa dốc toàn lực hổ trợ, miền Bắc tăng cường mức độ chiến tranh, tăng cường xâm nhập vũ khí và quân số, chiến tranh tiếp tục leo thang. Sau một thời gian hỗ trợ cho chính quyền miền Nam để chống lại làn sóng đỏ, mà chiến tranh th́ càng lúc càng lan rộng và cường độ càng lúc càng tăng, người Mỹ tỏ ra nôn nóng và họ tưởng họ sẽ giúp miền Nam giải quyết cuộc chiến này nhanh hơn nếu như họ gửi quân tham gia trực tiếp vào cuộc chiến. Đây là một quyết định sai lầm của Mỹ. Hà Nội chụp lấy cơ hội ngàn vàng và đổi ngay tên gọi cho cuộc chiến. Bây giờ th́ không c̣n là cuộc nổi dậy của nhân dân chống lại chính quyền tay sai nữa mà là một cuộc chiến tranh vệ quốc chống đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam! Toàn bộ sự nổ lực tuyên truyền tập trung vào “chủ đề mới” này với công suất tối đa, tranh thủ dư luận quốc tế cả trong nước, và quả thật họ đă đạt được những thành quả đáng kể.

Cuộc chiến tiếp tục leo thang, số thanh niên Mỹ ngă xuống trên chiến trường miền Nam Việt Nam cũng ngày càng cao. Sự dự đoán đầy tính lạc quan của Mỹ về sự giải quyến nhanh chóng cuộc “xung đột” ở Việt Nam không xảy ra như mong đợi. Giới truyền thông Mỹ khai thác tin tức từ chiến trường Việt Nam chủ yếu làm sao có tin tức giựt gân và thu hút khách hàng, vô h́nh chung gây hiệu ứng sợ hăi, kinh hoàng trong quần chúng Mỹ, nhất là những gia đ́nh có con em đang chiến đấu ở VN. Thế là có phản ứng từ phía công chúng Mỹ có chiều hướng hoàn toàn bất lợi cho sự tham gia của phía Mỹ trong chiến tranh VN. Và phong trào phản chiến bắt đầu nổ ra. Đầu tiên phát sinh trong giới thanh niên, sinh viên, học sinh, rồi lan toả rộng ra các giới trong quần chúng. Những phong trào phản chiến này không hiểu v́ sao không biết, hay biết một cách hời hợt về nguyên nhân sâu xa và nguồn gốc của những thế lực phát động chiến tranh Việt Nam. Trên TV, báo chí, h́nh ảnh của người lính Mỹ được vũ trang tận răng trên cánh đồng êm ả của miền Nam, lác đác h́nh bóng của những nông dân, ngực trần tay trơn đă gây một ấn tượng tức th́ cho những phong trào phản chiến Mỹ. Cộng với nỗ lực tuyên truyền hiệu quả của CS, những phong trào phản chiến ở khắp nơi, không ai bảo ai, nhất tề chỉa mũi dùi tấn công trực diện chính phủ và quân đội Mỹ về chiến tranh VN. Thế là có một lúc ở Mỹ, người người phản chiến, nhà nhà phản chiến, phong trào hippie, beatnik, các nghệ sĩ nhập cuộc: ca nhạc sĩ như Bob Dylan, ngôi sao điện ảnh như Jane Fonda, nhà văn, nhà thơ tuần tự gia nhập phong trào. Có thể nói chưa bao giờ mà ban văn hóa thông tin miền Bắc lại hể hả và măn nguyện như những tháng ngày này; họ có nằm mơ cũng không dám nghĩ chiều hướng dư luận lại thuận lợi đến như vậy.



Thật là một nghịch lư đă diễn ra trên chiến trường miền Nam VN. Hăy tưởng tượng nếu như vào lúc thế chiến thứ 2 đang diễn ra, bỗng nhiên có những phong trào phản chiến chống lại sự phản công của đồng minh, th́ sự thể sẽ ra sao đây? Nói thế th́ các “đồng chí” ngoài kia sẽ rống miệng lên căi lại là, ấy ấy, nhân dân ḿnh chống đế quốc Mỹ xâm lược mà lại, ḿnh có “chính nghĩa sáng ngời”. Cả thế giới đều biết mà. Thôi cho can đi, đến giờ này th́ kiểu tuyên truyền như thế xưa rồi, chẳng lừa được ai nữa đâu. Nếu anh ở yên ngoài Bắc từ sau 1954, như Bắc Hàn, nếu như anh đừng “lập tŕnh” để cho ra đời cái software MTDTGPMN, nếu anh đừng vét sạch mấy thế hệ thanh niên miền Bắc để “hy sinh” đi B không ngày về, th́ làm ǵ có sự có mặt lính Mỹ ở miền Nam? Th́ làm ǵ có bom đạn Mỹ đem vào “xài” ở chiến tranh VN cơ chứ; v́ đơn giản lúc ấy có chiến tranh quái ǵ đâu mà t́m thấy vũ trang cùng lính tráng. Nhưng những điều đơn giản đó lại không được những phong trào phản chiến nhận ra. Thế cho nên, những ǵ họ muốn tranh đấu để đạt được th́ họ lại làm cho cơ hội đó bị đánh mất. Nói một cách khác, sự tranh đấu của họ tạo thành một hiệu ứng phản tác dụng với mục đích của họ: Chấm dứt chiến tranh.

Hiệp định Paris được kư kết giữa Mỹ và Bắc Việt đă bán đứng miền Nam có một phần đóng góp cực kỳ quan trọng của những phong trào phản chiến. Hiệp định được bốn bên kư kết long trọng có hiệu lực cho tất cà các phe phái tham gia phải buông súng kể từ đầu năm 1973. Vậy mà, như ta đă thấy, và đă nói ở trên, mức độ và cường độ chiến tranh càng trở nên khốc liệt hơn trước. Như đă nói ngay ở đầu bài, những thế lực phát động chiến tranh không bao giờ từ bỏ tham vọng của họ ngoại trừ trường hợp bị bắt buộc phải từ bỏ. Mỹ quay lưng, cái áp lực đáng kể có khả năng khiến họ từ bỏ tham vọng đó giờ đây không c̣n nữa, th́ quả là không c̣n ǵ hả hê hơn thế. Hiệp định Paris là một món quà bất ngờ mà người Mỹ đă trao tặng không điều kiện cho CS Bắc Việt vậy.

Graham Green, nhân ngày kỷ niệm mười năm “đại thắng mùa xuân” đă nói,

“...tôi đă sai lầm khi viết “The quiet American”, bây giờ có muốn đính chánh lại những sai lầm khi xưa th́ đă quá muộn. Ảnh hưởng cuốn sách quá lớn, không thể chỉ vài câu nói là có thể tẩy sạch những di chứng của nó, mà bây giờ th́ tôi đă quá già, không thể làm ǵ hơn...”

C̣n Jane Fonda? Sau này bà đă phải lên tiếng trên những phương tiện truyền thông, chính thức tạ lỗi v́ những hoạt động “phản chiến” khi xưa.

Nói ǵ th́ nói, tất cả đă trở thành lịch sử, cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam để tránh thảm họa Cộng Sản đă không như ư nguyện, cả đất nước ch́m trong làn sóng đỏ. Chiến tranh chấm dứt, mà không cần đến một phong trào phản chiến nào. Tham vọng của những thế lực phát động chiến tranh ngày nào đă đạt được. Chính những con người đó, giờ đây tiếp tục nuôi dưỡng tham vọng to lớn hơn, nhưng lần này, để đạt được mục tiêu của tham vọng họ lại tránh né chiến tranh cho đất nước.

Lần này th́ quê hương có khả năng tránh được tai họa chiến tranh, nhưng dân tộc có khả năng vướng vào một thảm họa mới, không kém bi đát: đưa dân tộc vào ṿng nô lệ!

http://www.dcvonline.net/modules.php...ticle&sid=9137