Page 1 of 8 12345 ... LastLast
Results 1 to 10 of 78

Thread: Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?
    Những sự thật không thể chối bỏ
    (phần 1)




    Đặng Chí Hùng
    danlambaovn.blogspot .com



    Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến Dân Làm Báo và bạn đọc. Trên tinh thần dân chủ chúng ta đang hướng tới, tôn trọng tất cả các ư kiến trái chiều, dân chủ có nhiều con đương, mỗi người chúng ta có quyền đưa ra con đường đó để bạn đọc và nhân dân lựa chọn. Sự lựa chọn của nhân dân là ư kiến cuối cùng về con đường của dân tộc. Với tinh thần đó, tôi mong mọi người đọc hăy tiếp thu bài viết như một ư kiến cá nhân của tôi. Và như đă nói ở những bài trước, con đường dân chủ tôi chọn là con đường không có cộng sản, không c̣n cộng sản dựa trên nguyên tắc khơi lại sự thật, chấn hưng dân trí. Có người biện luận ông Hồ không phải là Thánh th́ có cái sai, nhưng cái sai của ông không phải chỉ một lần, một lỗi, nó thành hệ thống. Vậy chúng ta không thể bỏ qua nhằm trả lại sự thật cho lịch sử.

    Sau đây là bài đầu tiên của tôi về vấn đề này với nội dung nói về một tấm b́nh phong bấy lâu của đảng cộng sản Việt Nam và những kẻ dân chủ cơ hội.

    Thực ra những vấn đề tôi nêu lên và loạt bài này không phải là mới mẻ, nhiều người đă đề cập. Nhưng tôi xin phân tích, đánh giá trên cách nh́n mới và phân tích ư kiến của cá hai bên: Phản đối và ủng hộ nhân vật HCM. Qua đó chúng ta có thể thấy rơ sự thật của vấn đề nhằm trả nó về với chân giá trị vốn có đă bị đánh cắp lâu nay.

    Sự thật thứ nhất: Bác đi t́m đường cứu nước hay cứu bác?

    Trong chuỗi sự kiện về ông Hồ, xin bắt đầu từ việc đầu tiên đó là việc ông ta đi “t́m đường cứu nước”. Sự việc này sẽ xoay quanh lá thư của ông xin học trường thuộc địa của Pháp. Tôi xin xoay quanh hai vấn đề là: Có hay không là thư đó và ông viết thư với mục đích ǵ?

    Ngày 31-5-2011, tại Sài G̣n đă diễn ra cuộc Hội thảo với chủ đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Hành tŕnh t́m đường cứu nước”. Cuộc hội thảo do các cơ quan sau đây đứng ra tổ chức: Thành ủy đảng CSVN TpHCM, Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch. Những cơ quan trong ban tổ chức cuộc hội thảo đều tầm cỡ khá cao trong nước, nên cuộc hội thảo quy tụ nhiều nhân vật quan trọng của CSVN, kể cả cựu tổng bí thư Lê Khả Phiêu, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

    Trước hết là nguyên văn lời trong sách Lịch sử Việt Nam của các tác giả là người của đảng cộng sản đă viết về sự kiện thanh niên Nguyễn Tất Thành xuống tàu Amiral Latouche-Tréville ngày 5-6-1911 để ra đi như sau:

    “Sự thất bại của các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục của cuộc vận động Duy Tân và phong trào chống thuế ở các tỉnh Trung Kỳ mà Người (Hồ Chí Minh) từng tham gia khi đang học ở trường Quốc Học Huế, đă thôi thúc Người hướng về các nước Tây Âu, mong muốn được đến “t́m xem những ǵ ẩn giấu đằng sau những Tự do, B́nh đẳng, Bác ái”. Sau khi rời Huế vào Phan Thiết … Được ít lâu, lấy tên là Văn Ba, Người xin làm phụ bếp trên chiếc tàu thủy Đô đốc La Tusơ Tơrêvin (La Touche Tréville), thuộc hăng vận tải hợp nhất của Pháp, để đi ra nước ngoài “xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào…” (Nguyễn Khánh Toàn và một nhóm tác giả, Lịch sử Việt Nam, tập 2, Hà Nội: Nxb. Khoa học Xă hội, 1985, tr. 145).

    Ngoài ra trong sách Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp của nhà xuất bản Sự Thật giải thích sự ra đi của Hồ Chí Minh cũng có nội dung gần giống như sau:

    “… Ít lâu sau, Hồ Chủ tịch vào Sài G̣n. Nam Kỳ dưới chế độ thuộc địa cũng chẳng khác ǵ Trung Kỳ dưới chế độ bảo hộ và Bắc kỳ dưới chế độ nửa thuộc địa, nửa bảo hộ. Ở đâu nhân dân cũng bị áp bức, bóc lột, đồng bào cũng bị đọa đày, khổ nhục. Điều đó càng thôi thúc Hồ Chủ tịch đi sang các nước Âu tây để xem nhân dân các nước ấy làm như thế nào mà trở nên độc lập, hùng cường, rồi sẽ trở về “giúp đỡ đồng bào” đánh đuổi thực dân Pháp. Ư định ấy của Người (HCM) đă dẫn Người từng bước đi tới t́m một phương hướng mới cho sự nghiệp cứu nước của nhân dân ta.” (Ban Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư (có xem lại và bổ sung), Hà Nội: Nxb. Sự Thật, 1975, tr. 15).

    Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, cũng do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành, trả lời phỏng vấn của tác giả Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh nói về lư do ra đi như sau: “…Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta…” (Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Hà Nội: Nxb. Sự Thật, 1976, tr. 13).

    Ở đây có điều oái oăm: Trần Dân Tiên chính lại là Hồ Chí Minh. Ông Hồ dùng một tên khác viết sách tự ca tụng ḿnh. Sở dĩ nói oái oăm là ở Việt Nam cũng như trên thế giới, có nhiều người viết sách về hoạt động của ḿnh, đôi khi để tự khen ḿnh, hoặc để biện hộ cho những việc làm của ḿnh, nhưng họ đều đề tên thật, chịu trách nhiệm về những điều họ viết. Chỉ có ông Hồ Chí Minh là dùng một tên khác tự ca tụng ḿnh.

    Như vậy có thể kết luận, qua các sách của nhà cầm quyền cộng sản và qua chính những lời viết của Hồ Chí Minh, ông ta đi ra nước ngoài nhắm mục đích t́m đường cứu nước. Nhưng sự thực có phải vậy hay không?

    Bức thư xin học trường thuộc địa Pháp

    Đây là vấn đề thứ nhất. Tại sao Bác Hồ yêu nước, có tinh thần chống Pháp từ bé lại xin gia nhập trường thuộc địa này? Trong khi đó ngôi trường lại là nơi đào tạo quan lại nhằm thực hiện chính sách thực dân của Pháp ở Việt Nam.

    Đây là h́nh ảnh về hai bức thư đó:





    Đó là h́nh ảnh về hai bức thư mà trên internet bấy lâu nay không thiếu. Nó có thật hay không? Tôi xin trả lời là có thật v́ đó là điều công nhận của cả hai bên.

    Đầu tiên là phía “lề trái”: vào tháng 02/1983, hai sử gia VN, tiến sĩ Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu, đă công bố khắp thế giới, một tài liệu vô cùng quan trọng, tại văn khố Pháp duy nhất liên quan tới giai đoạn 1911 của Nguyễn Tất Thành. Đó là 2 lá thư xin nhập học Trường Thuộc Địa (Ecole Coloniale) viết ngày 15/09/1911 và một lá viết tại New York ngày 15/12/1912. Điều này chứng tỏ rằng Nguyễn Tất Thành, bỏ nước ra đi chỉ với mục đích t́m đường làm quan (làm Việt Gian tay sai cho Pháp) để giải quyết chuyện cơm ăn áo mặc của riêng ḿnh, chứ không hề có ư định cứu nước giúp dân như Trần Dân Tiên và báo của đảng cộng sản từng viết sách ca tụng.

    Nhưng để chứng minh cho đây là 2 lá thư có thật, tôi xin dẫn chứng về sự công nhận của bên “lề phải”:

    Trên trang chủ của Sachhiem.net có bài Phản hồi của một vị xưng là giáo sư Trần Chung Ngọc, ông này là người của đảng cộng sản. Bài phản hồi của ông ta về những điểm trong DVD “Sự thật về HCM”. Sau đây là nguyên văn đoạn ông ta viết về lá thư: “DVD đưa ra một tài liệu, bức thư của Hồ Chí Minh xin học ở trường thuộc địa, và đă bị giám đốc trường nầy từ chối không cho học, để chứng minh rằng mục đích của ông Hồ không phải là xuất ngoại để cứu nước mà để t́m đường làm ăn. Bức thư được ông Nguyễn Gia Phụng dịch ra tiếng Việt và đọc trong DVD. Nhưng đưa ra tài liệu này, những người làm DVD không nghĩ đến phản tác dụng của nó. Thứ nhất, họ không t́m hiểu tại sao giám đốc trường thuộc địa lại từ chối đơn xin học của ông Hồ với lư do rất đáng buồn cười: “Mục đích của ông tới đây là để kiếm sống chứ không phải là để đi học”. Như vậy ông này công nhận sự có thật của lá thư với nội dung xin học của ông Hồ. Phần nội dung tôi xin tŕnh bày sau.

    Thứ hai đó là trên tranh chủ có cái tên rất “Fan club” của HCM: http://thehehochiminh. wordpress. com/2010/01/03/1911_lathu_truong_th uocdia/

    Có đoạn nói về tác giả nước ngoài, cả bài viết trên trang đó và kư giả nước ngoài đều công nhận bức thư đó là có thật:

    William J. Duiker viết về Lá thư Nguyễn Tất Thành xin vào học trường thuộc địa (1911)

    Theo W. J. Duiker, đây là một lá thư do Nguyễn Tất Thành viết. Tuy nhiên, trong “Hồ Chí Minh toàn tập”, không thấy có lá thư này. Để tạo điều kiện bạn đọc tiếp cận và nghiên cứu, chúng tôi trích đăng ư kiến của W. J. Duiker. Hoan nghênh bạn đọc phản hồi về lá thư theo địa chỉ email: info@thehehochiminh. net

    Anh Thành đă trở lại tàu trước khi tàu nhổ neo; tàu đă đến Cảng Le Havre ngày 15.7, và vài ngày sau đă đến Cảng Dunkerque và cuối cùng trở lại Marseilles, và ở đó cho đến giữa tháng 9. Tại đây, anh đă viết một bức thư gửi cho Tổng thống nước Cộng ḥa Pháp. V́ đây là một sự kiện đáng chú ư, tôi xin chép toàn văn thư này…

    Tôi xin nêu ra dẫn chứng của cả hai phía phê phán và ủng hộ ông HCM để thấy rằng 2 bức thư đó là có thật chứ không phải bịa đặt.

    Bác viết ǵ trong thư?

    Nội dung của 2 bức thư là khá giống nhau, tôi cũng xin ghi ra đây phần dịch của cả hai phía ủng hộ và không ủng hộ để bạn đọc thấy .

    Trước tiên là lời trên trang:
    http://thehehochiminh. wordpress. com/2010/01/03/1911_lathu_truong_th uocdia/

    Có nội dung như sau về bức thư thông qua lời dịch của WILLIAM J. DUIKER

    Marseilles

    Ngày 15 tháng Chín năm 1911

    Thưa Ngài Tổng thống!

    Tôi xin hân hạnh yêu cầu Ngài giúp đỡ cho tôi được vào học nội trú tại Trường Thuộc địa.

    Hiện nay, để nuôi thân, tôi đang làm việc cho công ty Chargeurs Réunis (Tàu Amiral Latouche – Tréville). Tôi hoàn toàn không c̣n nguồn lực nào và rất thiết tha muốn có học vấn. Tôi muốn trở nên có ích cho nước Pháp trong quan hệ với đồng bào tôi và đồng thời mong muốn đồng bào tôi thu lợi được từ học hành.

    Quê tôi ở tỉnh Nghệ An, Trung Kỳ. Với hy vọng rằng Ngài sẽ phúc đáp theo hướng thuận lợi đề nghị của tôi, tôi xin Ngài Tổng thống nhận sự biết ơn sâu sắc của tôi.

    Nguyễn Tất Thành

    Sinh tại Vinh, 1892

    Con trai của Ông Nguyễn Sinh Huy (tiến sĩ văn chương)

    Học sinh tiếng Pháp và chữ nho

    C̣n sau đây là nội dung của nó dưới bút dịch của những người “lề trái”. Trong bài “Từ mộng làm quan đến đường cách mạng Hồ Chí Minh và Trường Thuộc Địa”, hai tác giả Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu đă dịch như sau:

    “Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện ḷng hảo tâm của ông ban cho tôi đặc ân được nhận vào học nội trú Trường Thuộc Địa.

    Tôi hiện đang làm công trong công ty Chargeurs Réunis để sinh sống (trên tàu Amiral Latouche-Tréville).

    Tôi hoàn toàn không có chút tài sản nào, nhưng rất khao khát học hỏi. Tôi ước mong trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được ích lợi của nền học vấn…” (Đặc san Đường Mới, số 1, Paris, tt. 8-25)

    Như vậy rơ ràng về nội dung của cả lề phải và lề trái đều giống nhau. Đó là sự thật mà đảng cộng sản hoặc những người dân chủ cơ hội phải chấp nhận.

    Trên thực tế 2 lá thư trên đều bị bác bỏ, Nguyễn Tất Thành tiếp tục hành nghề trên các tàu biển. Ngày 15-12-1912, từ New York, Hoa Kỳ, Nguyễn Tất Thành gởi đến viên khâm sứ Pháp tại Huế một lá thư rất thống thiết xin một đặc ân là ban cho cha Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Sinh Sắc, một chức việc nhỏ như giáo thụ hay huấn đạo, để ông nầy có điều kiện sinh sống trong hoàn cảnh cha của Nguyễn Tất Thành nghèo túng sau khi bị cách chức quan (do đánh chết người): “… cầu mong Ngài (chỉ khâm sứ Pháp) vui ḷng cho cha tôi (cha của Thành tức Nguyễn Sinh Sắc) được nhận một công việc như thừa biện ở các bộ, hoặc huấn đạo, hay giáo thụ để cha tôi sinh sống dưới sự quan tâm cao quư của Ngài…” (Thành Tín (tức Bùi Tín), Mặt thật, California: Nxb. Saigon Press, 1993, tt. 95-96).

    Vậy bản chất của việc Bác đi không phải là t́m đường cứu nước mà bác đi là v́ mưu sinh. Chuyện mưu sinh là chuyện thường của con người. Nhưng ông Hồ và đảng cộng sản đă bịa đặt và thần thánh hóa nó thành cứu nước.

    Tuy nhiên về phía ủng hộ ông Hồ lại có những lập luận như sau; như lời của ông Trần Chung Ngọc có viết: “Sở dĩ trường thuộc địa bác đơn xin học của ông Hồ v́ trong đơn ông Hồ “đă dại dột” viết rơ là mục đích của ông là có thể dùng nền học vấn để giúp ích cho đồng bào của ông, để cho họ được hưởng những hữu ích của nền học vấn mà ông thu thập được [“Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’instruction”]. Đó chỉ là một câu để có thể xin vào học trường thuộc địa. Trường thuộc địa là để đào tạo những tay sai phục vụ cho nước Pháp, chứ không phải để phục vụ cho dân thuộc địa. Giám đốc trường thuộc địa không phải là không biết điều này, nên đă từ chối với một lư do vốn không phải là lư do, v́ nó rất vô lư.

    Hay trên trang: http://thehehochiminh. wordpress. com/2010/01/03/1911_lathu_truong_th uocdia/ có viết: Tuy nhiên, qua việc anh Thành đă học tại Trường Quốc học ở Huế, ta thấy hành vi của anh không có ǵ đáng ngạc nhiên. Sự thù địch của anh đối với ách thống trị thực dân của Pháp ở Đông Dương dường như đă được xác định, song điều rơ ràng là anh vẫn chưa quyết định nên đi theo con đường nào để giải phóng đất nước và, theo lời kể của bản thân anh, anh vẫn thiết tha được học hành để nâng cao hiểu biết t́nh h́nh.

    Tôi xin chứng minh đó là những luận điệu biện hộ sai trái cho sự thật của ông Hồ.

    Xin nói sơ qua về ngôi trường này. Đây là ngôi trường được thành lập năm 1885 để đào tạo các quan chức phục vụ cho chính quyền ở các nước thuộc địa Pháp, trường Thuộc địa có bao gồm một “bộ phận bản xứ” dành cho thần dân thuộc địa với khoảng 20 suất học bổng cho học sinh Đông Dương thuộc Pháp.

    Việc ông Hồ lúc đó đă là thanh niên, có nhận thức rơ ràng về ngôi trường đó là dĩ nhiên. Ông ta biết nó được sinh ra để đào tạo những kẻ đàn áp nhân dân. Sao ông ta lại xin học? Ở Việt Nam, nhất là khi ông ra nước ngoài có thiếu ǵ ngôi trường học văn hóa, nâng cao hiểu biết như lời các tác giả lề phải biện hộ? Sao ông Hồ nhất định phải không chỉ một lần mà những hai lần cố xin cho được vào ngôi trường xấu xa đó, không xin vào trường khác? Vậy mục đích ơ đây không phải vào để “T́m hiểu” mà là muốn làm quan kiếm miếng cơm. Mà quan đó là quan “Ăn hiếp” nhân dân.

    Ông Trần Chung Ngọc và các tác giả biện hộ về nội dung rằng vị quan Pháp không cho học v́ sợ ông Hồ học để nâng cao dân trí cho nhân dân. Xin thưa các tác giả biện hộ cho ông Hồ. Đó là ông hiệu trưởng lúc đó có biết ông Hồ là ai? Anh hùng nào mà sợ ông ta truyền đạt cho nhân dân chống Pháp? Ngôi trường đó mở cho người Việt th́ ông Hồ có học hay không cũng là chuyện b́nh thường. Ông Hồ lúc đó chẳng là cái ǵ mà ông hiệu trưởng Pháp phải “sợ” cả. Hơn thế nữa, bất cứ một lá đơn xin học nào, nhất là trường quan trọng như trường thuộc địa lúc đó đều phải làm đơn với những quy định nhất định. Cái đơn của ông Hồ cũng không là ngoại lệ, vậy th́ việc nó viết “Tôi muốn trở nên có ích cho nước Pháp trong quan hệ với đồng bào tôi và đồng thời mong muốn đồng bào tôi thu lợi được từ học hành” cũng là điều b́nh thường chứ không phải sự “dại dột” như ông Ngọc viết. Và bạn đọc có thể thấy môi quan hệ giữa Pháp và nhân dân ta lúc đó là quan hệ của thực dân và nô lệ, vậy việc ông Hồ muốn giúp “lợi ích” cho nước Pháp trong quan hệ chính là việc dùng chức quan (nếu có) để thay người Pháp cai trị nhân dân.

    Trên đây là sự thật đầu tiên về ông Hồ. Tôi dùng cả những tài liệu, phân tích của hai phái ủng hộ và chống đối để chứng minh rằng: Ông Hồ có viết thư xin học trường thuộc địa. Việc ông xin học ở đây nhằm làm quan, có miếng cơm chứ ông chẳng có tư tưởng căm thù Pháp, không có ư định “t́m đường cứu nước” như chính ông và đảng cộng sản đă bịa đặt.

    Tại sao ông Hồ và đảng cộng sản lừa dối không công khai bức thư? Tại sao ông đi kiếm ăn lại nói dối “T́m đường cứu nước”? Đó chính là sự lừa dối không thể chấp nhận được.

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?
    Những sự thật không thể chối bỏ.
    HỒ CHÍ MINH VÀ VAI TR̉ TRONG CÔNG HÀM 1958
    (phần 2)




    Để nối tiếp chuỗi bài về những sự thật không thể chối bỏ, tôi xin tŕnh bày về các vấn đề: Có hay không công hàm 1958, công hàm đó có phải là công hàm bán nước hay không và vai tṛ của ông Hồ Chí Minh trong công hàm bán nước 1958 cho Trung cộng. Từ trước đến giờ chúng ta luôn coi nó là tác phẩm của ông Phạm Văn Đồng. Nhưng sự thực có phải thế không. Vấn đề này không mới nhưng nó được chứng minh theo hướng mới và quan trọng hơn là vai tṛ của ông Hồ trong sự kiện này. Tôi xin tŕnh bày dưới bài viết này.

    A. Sự thật về công hàm 1958:

    1. Tuyên bố của phía Trung cộng về chủ quyền ở HS-TS của VN:
    Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung cộng mà đại diện là thủ tướng Chu Ân Lai tuyên bố về chủ quyền hải đảo của Trung cộng. Tuyên bố này được thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân. Đây là các links dẫn chứng về tuyên bố này của Trung cộng:


    Bản tiếng Trung: http://www.law.hku.hk/conlawhk/sourcebook/10032.htm
    Bản tiếng Anh: http://www.law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm

    Nội dung của tuyên bố trên của Trung cộng được dịch ra tiếng Việt như sau:
    Trước hết là bản dịch của dịch giả Trần Đồng Đức:
    Công bố của chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa về lănh hải ngày 4 tháng 9 năm 1958

    Trung Hoa Nhân Dân Cộng Ḥa Quốc (Nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa)

    Đại biểu ủy viên thường vụ đại hội nhân dân toàn quốc liên quan việc phê chuẩn quyết nghị công bố lănh hải của chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa

    (Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua)

    Quyết nghị

    Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua quyết định phê chuẩn về tuyên bố lănh hải của chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa

    Đính kèm: Công bố của chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa về lănh hải

    Chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:

    * Một: Lănh hải của nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lư. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lănh thổ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các ḥn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những ḥn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những ǵ thuộc về những hải đảo của Trung Quốc.

    * Hai: Lănh hải của Trung Quốc đại lục và duyên hải của các đảo được tính theo đường thẳng nối liền những điểm mốc ven bờ làm đường biên cơ sở, thủy vực từ đường biên cơ sở này hướng ra ngoài 12 hải lư là lănh hải của Trung Quốc. Phần nước thuộc đường biên cơ sở này hướng vào bên trong, bao gồm vịnh Bột Hải, phần trong hải vực Quỳnh Châu, đều là phần nội hải của Trung Quốc. Các đảo thuộc đường biên cơ sở này hướng vào trong, bao gồm đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, đảo Mă Tổ, đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khưu, đảo Kim Môn lớn nhỏ, đảo Nhị Đảm, đảo Đông Định đều thuộc về các đảo thuộc nội hải của Trung Quốc.

    * Ba: Tất cả phi cơ và thuyền bè quân dụng của ngoại quốc, chưa được chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa cho phép, không được tiến nhập vào lănh hải vào không gian trên lănh hải. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào vận hành tại lănh hải của Trung quốc, phải tôn trọng pháp lệnh hữu quan của chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa.

    * Bốn: Dựa trên nguyên tắc quy định 2, 3 áp dụng cho cả Đài Loan cùng các ḥn đảo xung quanh, những ḥn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những ǵ thuộc về những hải đảo của Trung Quốc. Đài Loan và Bành Hồ địa khu hiện nay đang bị Mỹ dùng vũ lực xâm chiếm. Đây là hành vi phi pháp xâm phạm chủ quyền và sự toàn vẹn của lănh thổ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Bành Hồ đang chờ đợi để thu hồi, chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa sử dụng tất cả những phương pháp thích đáng tại một thời điểm thích đáng để thu phục những khu vực này, đây là chuyện nội bộ của Trung Quốc, không cho phép ngoại quốc can thiệp.
    (Chú ư ở đây: Tây Sa và Nam Sa là cách gọi của Trung Cộng về HS-TS của Việt Nam)
    Nội dung bản dịch này là chính xác bản thân chúng ta có thể kiểm chứng. Tôi xin nêu ra đây một minh chứng bản dịch này là chính xác v́ vấn đề chính trong tuyên bố Trung cộng tuyên bố về chủ quyền HS-TS đă được tờ Đại Đoàn Kết (Báo của trung ương đảng cộng sản Việt Nam công nhận). Đây là links của bài báo đó trên tờ Báo Đất Việt(Chi nhánh của BQP cộng sản):
    http://quocphong.baodatviet.vn/Home/...156665.datviet
    Trong bài viết của báo Đại Đoàn Kết có đoạn: Theo lư giải của Trung Quốc, ngày 4/9/1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đă công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lư kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).
    Kết luận 1: Trung quốc rơ ràng đă tuyên bố HS-TS là của họ trong tuyên bố 4/9/1958 của Chu Ân Lai.Cả dư luận lẫn đảng cộng sản Trung quốc, cộng sản Việt Nam công nhận.

    2. Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng:
    Ngay sau khi tuyên bố của Trung cộng về việc HS- TS là của họ th́ ông Phạm Văn Đồng lúc đó là thủ tướng Việt Nam Dân Chủ cộng ḥa (VNDCCH) tiến hành việc đưa ra công hàm kư ngày 14/9/1958. Công hàm này có bản photocopy như sau:



    Công hàm này ngoài ra thời điểm đó c̣n được các tờ báo Nhân dân thời điểm đó đưa tin (Báo nhân dân là cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Việt Nam). Đây là h́nh ảnh của Báo nhân dân đă đưa tin về sự kiện này:



    và ngay sau đó th́ sáng ngày 21.9.1958, ông Nguyễn Khang, Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng ḥa tại Trung Quốc, đă gặp Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa và đă chuyển bức công hàm của ông Phạm Văn Đồng đến ông Chu Ân Lai.



    Trước đó, năm 1956, ông Ung Văn Khiêm, nhân tiếp phái đoàn ngoại giao TQ, Thứ Trưởng bộ Ngoại Giao có tuyên bố với Li Zhimin, tham tán sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam: chiếu theo tài liệu VN th́ HS và TS thuộc về TQ.
    Ông Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào: Theo sử liệu VN th́ HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đă có đăng lại trong bài "Chủ quyền không thể tranh căi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa".
    Năm 1977 cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng giải thích quan điểm của ông về công hàm này như sau: "đó là thời chiến nên phải nói như vậy thôi".

    Sau đó ông Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Bộ Trưởng bộ Ngoại Giao, trong một cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 2 tháng 12 năm 1992 nói như sau: “Các nhà lănh đạo của ta lúc trước xác nhận về Hoàng Sa và Trường Sa như vậy là do theo hiệp định Genève năm 1954 về vấn đề Đông Dương th́ tất cả lănh thổ từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào Nam là thuộc chính quyền miền Nam, kể cả hai quần đảo này."

    Kết luận 2: Căn cứ vào nội dung đưa tin của tờ báo chính thức của đảng cộng sản Việt Nam, và những ǵ nội dung đọc được trên công văn chính thức của ông Phạm Văn Đồng th́ có thể kết luận. Những ǵ ông Đồng công nhận tuyên bố HS- TS của Trung cộng là có thật. Đây hoàn toàn là thông tin từ cơ quan của đảng cộng sản Việt Nam tuyên bố.

    3. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam lúc đó:
    Trong thời điểm Trung cộng tuyên bố chủ quyền của ḿnh tại HS-TS (vốn của Việt Nam) th́ nước Việt chúng ta chia làm hai. Miền Bắc là Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH) theo đường lối cộng sản độc tài. Miền Nam là Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) theo đường lối dân chủ tự do. Lúc này các ḥn đảo HS-TS đang thuộc quyền kiểm soát của VNCH. Chúng ta phải nh́n nhận rằng dù là VNCH hay VNDCCH nắm giữ đều có một điểm là: HS-TS là của Việt Nam. Nó chưa bao giờ là chủ quyền của Trung cộng.

    Thời điểm này, miền nam đang tiến hành chính sách “Người cày có ruộng” và phát triển kinh tế của tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Miền bắc cũng tiến hành xây dựng chủ nghĩa xă hội với sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Cộng. Ngoài ra chính phủ VNDCCH dưới sự lănh đạo độc tài của đảng cộng sản đang muốn tranh thủ sự hậu thuẫn từ LX, TC để tiến hành chiến tranh với VNCH.

    Điểm chính ở đây là cả công bố của phía Trung cộng và công hàm của ông Phạm Văn Đồng đều diễn ra sau khi VNCH tiến hành công bố tái xác lập về chủ quyền của VNCH tại HS-TS. Tuyên bố chủ quyền của VNCH diễn ra vào tháng 4 năm 1956. Như vậy VNCH đă tiếp bước các tiền nhân giữ đất biển bao đời của Việt Nam và tuân thủ việc công khai chủ quyền sau hiệp định Geneve 1954. Đảng cộng sản Việt nam đă không v́ lợi ích của dân tộc mà 2 năm sau đó, công khai ủng hộ kẻ thù cướp đoạt trái phép lănh thổ Việt Nam. VNCH chỉ chịu mất chủ quyền trên đảo HS năm 1974 sau trận hải chiến mà ai trong chúng ta cũng biết về người anh hùng Ngụy Văn Thà. Sự kiện này tôi xin không cần nhắc lại. Tôi xin cung cấp thêm về tài liệu của phía bộ ngoại giao VNCH phản đối công khai việc làm phi pháp của Trung cộng:



    4. Kết luận chung về sự kiện này:

    Tôi xin nêu lên quan điểm chứng minh rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là công hàm phi pháp và bán nước.
    Qua kết luận 1 và kết luận 2 chúng ta thấy một điều hiển nhiên. Trung cộng tuyên bố sai phạm về chủ quyền của ḿnh tại HS- TS. Ông Phạm Văn Đồng là thủ tướng VNCH lúc đó đă không những phản đối mà lại công nhận điều tuyên bố sai phạm là đúng. Như vậy đă tiếp tay cho kẻ thù xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Đây là công hàm bán nước.
    Ngoài ra, tôi xin chứng minh các luận điệu biện hộ của phía đảng cộng sản Việt Nam sau khi bị lộ tẩy công văn này là càng sai trái và ngoan cố.

    Đầu tiên, Trên trang chủ Biendong.net (trang của chính phủ và những người cộng sản Việt Nam) có bài (Links: http://biendong.net/binh-luan/236-v-...a-trng-sa.html). Trong đó có đoạn: Công hàm nêu trên của Phạm Văn Đồng có hai nội dung hết sức đơn giản và rơ ràng, đó là ông Phạm Văn Đồng ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lănh hải ra 12 hải lư và chỉ thị cho các cơ quan Việt Nam tôn trọng giới hạn lănh hải 12 hải lư mà Trung Quốc tuyên bố.

    Trong công hàm của ông Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lănh thổ và chủ quyền, không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Chu Ân Lai đă nêu.

    Do vậy, chỉ xét về câu chữ thôi cũng dễ dàng nhận thấy rằng mọi suy diễn cho rằng ông Phạm Văn Đồng đă tuyên bố từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đă thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc và không có cơ sở pháp lư.

    Bài này viện ra lư do việc ông Đồng chỉ công nhận 12 hải lư chứ không nêu rơ việc HS-TS là của Trung cộng. Tôi xin đưa ra luận giải như sau. Đúng là về câu chữ không có HS-TS của Trung quốc trong công hàm của ông Phạm Văn Đồng. Nhưng tại sao chính phủ VNDCCH không phản đối nội dung tuyên bố của phía Trung Cộng? Trong công hàm ghi rơ “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Ḥa Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung quốc."

    Về nguyên tắc công văn cấp nhà nước không thể có sự nhập nhèm đúng và sai, nhất là vấn đề lănh thổ. Vậy khi tuyên bố của đối phương bao gồm cả phần đất của ḿnh, không lư nào đảng cộng sản và chính phủ VNDCCH lại không biết. Và cũng không thể trả lời mập mờ như thế.

    Vấn đề tôi xin nêu ở đây. Nếu là chủ trương bán nước th́ đă quá rơ. C̣n nếu biện hộ là tuyên bố chung chung th́ cũng không thể được v́ một chính phủ làm việc lại vô trách nhiệm ra những tuyên bố sai trái như vậy cũng hoàn toàn không thể vô can. Dù là cố t́nh hay “Vô ư” như cách lư giải của đảng cộng sản hiện nay cũng có tội với dân tộc.
    Thứ hai, có một số ư kiến nói công hàm 1958 không được quốc hội Việt Nam thông qua.Trên biendong.net có đoạn: Sự thực là công hàm nêu trên của Phạm Văn Đồng không được đưa ra để Quốc hội Việt Nam xem xét thông qua. Cho tới nay Trung Quốc cũng không đưa ra được bất kỳ chứng cứ ǵ minh chứng là Công hàm của Phạm Văn Đồng đă được Quốc hội Việt Nam thông qua.

    Nếu viện lư do này th́ chúng ta thấy rằng ông Phạm Văn Đồng đă vi hiến và quốc hội do đảng cộng sản dựng lên cũng vô trách nhiệm. Lư do này có thể chấp nhận việc không qua quốc hội là đúng v́ thực ra quốc hội VN là của cộng sản. Các đại biểu quốc hội là nghị gật nên việc không thông qua không phải là vô lư. Việc Một thủ tướng vi hiến, một quốc hội vô trách nhiệm với đất đai của tổ quốc cũng là có tội với dân tộc, bán nước. V́ đây là vấn đề đất đai biển đảo quan trọng. Không cho phép bất cứ cá nhân nào làm việc như vậy.

    Thứ ba, Có ư kiến biện luận rằng lúc đó 2 đảo HS-TS là chủ quyền của VNCH chứ không phải của VNDCCH nên tuyên bố của ông Đồng không có ǵ sai. Trong bài báo của đại đoàn kết có viết:
    Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. V́ điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lư của Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH).

    Về lư do này chúng ta lại thấy sự sai trái của phía đảng cộng sản Việt Nam. Ở đây dù là đất của VNCH hay VNDCCH đều là phần đất của lănh thổ Việt Nam. Như vậy dù nó có quản lư dưới tay ai cũng vẫn là của người Việt Nam chứ không phải của Trung cộng.

    Đảng cộng sản tuyên bố chiến tranh với miền nam là để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Việc thống nhất này bao gồm cả việc lấy đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Vậy th́ tại sao họ đă nghĩ được phần đất miền nam là của Việt Nam thống nhất, sao lại không nghĩ chủ quyền của Việt Nam bao gồm cả HS-TS. Chỉ có một lư do duy nhất đó là HS-TS là của Trung cộng (v́ họ đă bán cho Trung Cộng) hoặc lư do thống nhất đất nước là lừa bịp. Dù lư do bán đất đảo hay lư do thống nhất lừa bịp (tôi sẽ có bài sau này) cũng có tội với dân tộc.

    Thứ tư, trong dư luận bấy lâu nay có tin rằng (không chính thức nhưng từ miệng của các bộ đội cộng sản lăo thành) lúc đó Trung Cộng mạnh, giúp VNDCCH nên công hàm trên nhằm mượn tay Trung Cộng để lấy HS-TS từ tay VNCH cho VNDCCH. Lư do này cũng sai.V́ từ trước đến nay qua 4000 năm lịch sử giữ nước chúng ta chưa bao giờ quên mộng xâm lăng của giặc Tàu. Đảng cộng sản nếu dùng mưu đó cũng là phạm tội “Cỏng rắn cắn gà nhà”, tiếp tay cho kẻ thù. Như vậy đảng cộng sản và ông Đồng đă không đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu mà chỉ đặt lợi ích của “Đảng cộng sản anh em” lên trên. Ngoài ra nếu viện dẫn lư này tại sao cho đến giờ phút này Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam không tuyên bố rơ ràng Trung Cộng xâm chiếm HS-TS hay chỉ dừng lại ở những câu chung chung như nhai lại của các phát ngôn viên ngoại giao. Hay cụ thể là việc đàn áp biểu t́nh chống xâm lược.

    Kết luận chung: Rơ ràng với công hàm 1958, đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ, ông Đồng đă bán nước cho Trung Cộng. Dù có biện luận dưới 4 lư do hiện nay đảng cộng sản đang rêu rao cũng đều hoặc vô lư, hoặc cũng có tội với dân tộc.

    B. Vai tṛ của ông Hồ Chí Minh trong sự kiện công hàm 1958:
    Công hàm th́ kư tên ông Phạm Văn Đồng, thủ tướng VNDCCH lúc đó. Từ trước đến nay chúng ta chỉ trích ông Đồng. Điều này đúng. Tuy nhiên chỉ là nửa sự thật. Vai tṛ của ông Hồ trong sự kiện này rất lớn. Tôi xin chứng minh sau đây.

    1. Về hệ thống chính trị của đảng cộng sản Việt Nam:
    Về hệ thống chính trị của Việt Nam, trên wiki:
    (links: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chính_trị_Việt_Nam) có đoạn: Cách tổ chức chính trị ở Việt Nam được sắp xếp theo trục dọc với Đảng Cộng Sản giữ địa vị trên hết, không như mô h́nh tam quyền phân lập như các tổ chức chính phủ dân chủ nghị viện khác...

    Hiến pháp 1992 tái khẳng định vai tṛ ưu tiên của Đảng Cộng sản tuy nhiên cũng theo bản hiến pháp đó th́ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là tổ chức duy nhất nắm quyền lập pháp. Cơ quan này có trách nhiệm to lớn trong việc giám sát mọi chức năng của chính phủ.

    Bộ chính trị với 15 thành viên hiện nay, được bầu ra vào tháng 1 năm 2011 và do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu, quyết định chính sách của chính phủ; Ban Bí thư gồm 10 người giám sát việc thi hành chính sách hàng ngày. Dù đă có một số nỗ lực nhằm giảm sự chồng chéo giữa các vị trí của đảng và chính quyền, cách quản lư này hiện vẫn đang được áp dụng và mở rộng.
    Như vậy bỏ qua vấn đề số thành viên (khác so với 1958) th́ lúc nào vai tṛ của đảng cộng sản cũng là số 1, mà đại diện cho đảng cộng sản cầm quyền mọi quyết định là Bộ Chính trị. Chính phủ mà đứng đầu là ông Phạm Văn Đồng không thể thông qua một quyết định một quyết định to lớn liên quan đến như vậy.
    Tôi xin dẫn chứng thêm về vai tṛ của bộ chính trị với nhà nước. Đây là đoạn trên trang của đảng cộng sản Việt Nam.
    (Links: http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/Ne...cn_id=339033):
    Nhà nước Việt Nam có vị trí và vai tṛ đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị được quy định bởi chức năng và nhiệm vụ của nó trong hệ thống chính trị, trong đời sống xă hội và được thể hiện trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xă hội trong hệ thống chính trị. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành hiến pháp, pháp luật và chính sách làm công cụ quản l‎ư nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống xă hội.

    Trong hệ thống chính trị nước ta, Nhà nước Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột, là công cụ tổ chức thực hiện ư chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lư toàn bộ hoạt động của đời sống xă hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và v́ nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lănh đạo và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lănh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
    Kết luận 1: Như vậy chúng ta khẳng định rằng quyết định của ông Đồng không thể không thông qua đảng cộng sản nhất là bộ chính trị của đảng cộng sản Việt Nam.

    2. Ông Hồ Chí Minh có vai tṛ ǵ?
    Công hàm của ông Phạm Văn Đồng thủ tướng nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, v́ vậy công hàm chỉ có thể được gởi đến Chu Ân Lai sau khi đă được thông qua, được sự đồng ư và chấp thuận của Bộ Chính Trị. Ông Hồ Chí Minh lúc đó là Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch nhà nước, nghĩa là ông đứng đầu BCT và đứng đầu chính phủ. Vậy không thể có chuyện ông Hồ không biết, không có ư kiến ǵ. Chính ông Đồng (trong trích dẫn của tôi ở phần trên đă nói: “đó là thời chiến nên phải nói như vậy thôi"). Vậy rơ ràng ông Đồng thừa nhận công hàm đó là có thật, ông phải thông qua ai nó mới được chuyển đi cho phía Trung Cộng? Đó chính là ông Hồ Chí Minh.
    Qua hệ thống chính trị và vai tṛ chúng ta đă biết ông Hồ Chí Minh trong những năm đó th́ không thể có chuyện ông Hồ không biết, không thông qua cho công hàm ông Đồng kư. Nếu giả sử ông Đồng không thông qua quốc hội, không thông qua ông Hồ và bộ chính trị liệu ông Đồng có bị trừng trị hay không? Rơ ràng là ông Đồng sẽ bị trừng trị. Nhưng trên thực tế ông Đồng lại yên vị và khỏe mạnh, không tỳ vết. Như vậy ta có thể kết luận ông Hồ đă đồng thuận với việc kư công hàm này.

    Rơ ràng Phạm Văn Đồng đă không tự ḿnh quyết định. Ông chỉ làm nhiệm vụ thông tin cho phía Trung Cộng biết “Chính phủ VNDCCH tán thành…” cho dù bản thân ông có muốn tán thành hay không. Chính phủ đó do Hồ Chí Minh đứng đầu và đó là một Chính phủ do Đảng lănh đạo! Về mặt Đảng, ông Hồ cũng là nhân vật chóp bu: Chủ Tịch kiêm Tổng Bí Thư Đảng. Quyền lực của Tổng Bí Thư Đảng cùng với BCT Đảng luôn luôn là quyền tuyệt đối.
    Tôi xin ví dụ một ví dụ nhăn tiền ngay trước mắt. Quốc hội Việt Nam bàn căi, tha hồ đưa ra nghị quyết này khác. Nhưng khi Đảng bảo rằng Đảng đă quyết, th́ chuyện Quốc Hội căi nhau, rồi đồng thuận, rồi đưa ra Nghị quyết… đều trở thành tṛ hề. Cụ thể trong vụ Bauxite Tây Nguyên là một trong trăm ngàn ví dụ.
    Ông Hồ là chủ tịch nước, kiêm tổng bí thư. Mọi quyết định nếu không do ông và bộ chính trị chỉ đạo th́ một chức vụ hữu danh vô thực (thời điểm đó) của ông Đồng không làm ǵ được.
    Vậy dù có vai tṛ chủ đạo hay chỉ là đồng thuận th́ ông Hồ cũng có tội đồng lơa với ông Đồng kư một văn bản bán nước, công nhận chủ quyền kẻ thù trên phần đất của chính quê hương.
    Ngoài ra, có một số ư kiến cho rằng thời điểm đó ông Hồ bị ông Lê Duẩn “nhiếp chính” và chèn ép. Họ đổ tội cho ông Lê Duẩn ép ông Hồ làm việc này. Tôi xin trả lời cho các bạn hai vấn đề. Thứ nhất thời điểm đó ông Duẩn chỉ là cán bộ không thực sự có vai tṛ to lớn trong lănh đạo cộng sản Việt Nam. Theo wiki(links: http://vi.wikipedia.org/wiki/Lê_Duẩn):
    Cuối năm 1957, ông ra Hà Nội, vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, chủ tŕ công việc của Ban Bí thư và là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng.

    Tháng 9/1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương.
    Như vậy th́ ông Duẩn măi năm 1960 mới có vai tṛ chính trị đáng kể, c̣n 1957 - trước 1960 ông đơn thuần chỉ là cán bộ của ban bí thư chứ chưa phải la Bí thư thứ nhất như sau này. Vai tṛ chính trị vẫn trong tay ông Hồ. Ông Hồ chỉ thực sự bị cô lập, vai tṛ ông Duẩn chỉ thực sự rơ rệt sau năm 1960.
    Tiếp theo, con người ông Lê Duẩn lại là con người có tư tưởng chống Trung cộng. Ông Duẩn cũng là một nguyên nhân chính trong cuộc chiến biên giới phía Bắc với Trung cộng. Ông Lê Duẩn chủ trương thân Liên Xô và chống Tàu nên phía Trung cộng đă rất tức giận trước các hành động cứng rắn của ông. Tất nhiên là cuộc chiến này c̣n nhiều nguyên nhân. Nhưng thực sự ông Lê Duẩn là cái gai trong mắt Trung Cộng, v́ thế bảo ông Duẩn ép ông Hồ đồng ư công hàm 1958 là điều vô lư.
    Qua bài này tôi đă chứng minh một sự thật là ông Đồng và ông Hồ đă thông qua công hàm 1958 để bán tổ quốc Việt Nam cho Trung Cộng. Vai tṛ của ông Hồ là hết sức rơ rệt trong sự kiện này. Chúng ta có thể thấy đảng cộng sản Việt Nam mà đại diện trong sự kiện này là ông Hồ và ông Đồng là những tội đồ của dân tộc.


    Đặng Chí Hùng
    danlambaovn.blogspot .com

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?
    Những sự thật không thể chối bỏ.
    HỒ CHÍ MINH VÀ VAI TR̉ TRONG CÔNG HÀM 1958
    (phần 3)






    Tôi xin tiếp tục phần ba này với việc đề cập đến lư do có công hàm bán nước 1958 và những hệ lụy của nó đến bây giờ. Rất mong đây là tiếng nói góp sức cho sự hồi sinh của dân tộc. Qua đây tôi mong sau khi các bài viết được Danlambao đăng, bạn đọc nên t́m hiểu rồi dùng chính ḿnh làm chiến sĩ thông tin như slogan của Danlambao đă gửi đến cho người thân quen của ḿnh.

    Về nội dung bài viết, tôi xin phép bạn đọc hết sức thông cảm v́ phải lấy dẫn chứng cả hai phía: Dân và Đảng để minh chứng nên bài có thể viết dài, không súc tích. Tôi xin phép dùng một quy tắc đại loại gần giống với phép quy nạp và phản chứng trong toán học để chứng minh nên bài viết sẽ dài, chia làm từng phần nhỏ để kết luận.

    Trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ xin tŕnh bày về việc ông Hồ Chí Minh bán nước với lư do muốn gây chiến với VNCH gây nên cuộc chiến sinh linh đồ thán. Có những ư kiến cho rằng ông Hồ là gián điệp Trung cộng, người Tàu. Trong khuôn khổ bài này tôi xin không đi vào phân tích việc đó v́ đó là nghi vấn cần thêm thời gian và tài liệu. Tôi tạm coi ông Hồ là người Việt Nam, đi sang Pháp định làm quan nhưng không được nhận và gặp quốc tế thứ 3 rồi về nước. Và bối cảnh trong bài này tôi cũng xin dừng lại cho đến khi có công hàm 1958 chứ xin phép không b́nh luận về những năm sau, tránh ư kiến cho rằng lúc đó Trung cộng và Mỹ có can thiệp sâu vào Việt Nam.

    Tại sao phải bán nước?

    Như đă nói ở phần 2, công hàm 14/9/1958 là một công hàm bán nước của ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản mà người đứng kư tên là ông Phạm Văn Đồng (Thủ tướng VNDCCH). Vậy tại sao họ phải bán Hoàng Sa – Trường Sa cho Trung cộng? Tôi xin đi vào phân tích ở đây.

    1. Bối cảnh lịch sử hai miền Nam – Bắc:

    a. Về đời sống và kinh tế:



    Miền Bắc trong giai đoạn này bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xă hội theo như tuyên truyền của cộng sản. Trong thời gian từ 1953-1957 xảy ra cuộc Cải cách ruộng đất man rợ, gây tang thương oan trái trong nhân dân (Tôi sẽ có bài khác về vấn đề này). Đây là cuộc đấu tố theo kiểu cách mạng văn hóa dập khuôn từ Trung cộng. Thực chất trong lúc này đảng cộng sản được các quốc gia trong phe xă hội chủ nghĩa ủng hộ về vật chất, tiền bạc, con người để khôi phục sản xuất. Nhưng có một điều ở đây chúng ta cần chú ư lúc này chủ nghĩa cộng sản đang muốn nhuộm đỏ cả thế giới, trong đó miên bắc Việt Nam là bàn đạp.



    Tại Miền Nam dưới sự lănh đạo của ông Ngô Đ́nh Diệm, cùng sự hỗ trợ của Hoa Kỳ nhằm khôi phục kinh tế và nâng cao dân trí. Trong thời điểm miền bắc có cải cách ruộng đất gây tai họa th́ miền nam cũng có cải cách điền địa và “Người cày có ruộng” mang lại niềm vui cho nhân dân. Chính v́ có những chính sách hợp lư, chế độ dân chủ nên nửa trong của Việt Nam đă phát triển nhanh chóng. Bằng chứng là Sài G̣n được coi là “ Ḥn Ngọc Viễn đồng”.

    Về mặt kinh tế và đời sống này tôi xin không cần quá dài ḍng v́ đó là sự thật với tất cả chúng ta. Sự thật ấy đă khiến cho bao người miền bắc ngỡ ngàng sau năm 1975 được vào Sài G̣n. Nói đến bối cảnh đó để nói lên một điều sự thực đó là nhân dân miền nam sống sung túc hơn miền bắc rất nhiều. Tôi xin nêu ra một ví dụ nhỏ để so sánh.

    Số liệu và nhận xét trên wiki: http://vi. wikipedia. org/wiki/Kinh_tế_Việt_Nam_Cộn g_ḥa:

    Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa đă tích cực triển khai chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dựng lên để bảo hộ một loạt ngành công nghiệp nhẹ. Kết quả phải kể đến nhà máy giấy đầu tiên ở Việt Nam: nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961) ở Biên ḥa, thỏa măn 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy trong nước [4]; hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với năng suất 13,2 triệu mét vải mỗi năm; nhà máy thủy tinh Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm; hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên, một ở Thủ Đức với năng suất 540.000 tấn mỗi năm; và đập thủy điện Đa Nhim, hoàn thành năm 1961 [5].

    Đồng thời, các loại máy móc, kim loại – những đầu vào cho các ngành được bảo hộ – được ưu tiên nhập khẩu. Trong khi hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu được khuyến khích. Một số mặt hàng xuất khẩu c̣n được chính quyền trợ cấp. Ngay cả tỷ giá hối đoái cũng được điều chỉnh thuận lợi cho xuất khẩu (thông qua trừ đi một mức phụ đảm).

    Ở nông thôn th́ Cải cách ruộng đất (lúc đó gọi là “Cải cách điền địa”) được triển khai từ năm 1955 và kéo dài tới cuối năm 1960. Những ruộng đất của địa chủ bỏ hoang sẽ bị thu hồi và cấp cho tá điền. Địa chủ không được phép sở hữu quá 100 hecta đất (riêng các đồn điền dù hơn 100 ha vẫn được phép). Số dư ngoài 100 ha sẽ bị buộc phải bán cho chính quyền để bán lại cho tá điền. Tá điền được yêu cầu lập hợp đồng khai thác ruộng đất với địa chủ, gọi là khế ước tá điền trong đó có ghi mức địa tô mà tá điền phải trả cho địa chủ. Thời hạn khế ước là 5 năm, có tái kư. Tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng.

    Về thu nhập b́nh quân, theo “số liệu kinh tế – GDP” b́nh quân, ở miền Nam vào thời trước 1975 là 150USD. Thu nhập này tuy chưa cao mấy thời đó, nhưng cao hơn ở các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ, và Pakistan. Trong khi đó 36 năm sau, GDP b́nh quân đầu người của Việt Nam là khoảng 1100 USD, thua xa Thái Lan (khoảng 4000 USD).

    Về giáo dục đại chúng, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, năm 1973, tỉ lệ dân số biết đọc, biết viết là 70%, rất cao so với các nước Á châu láng giềng hồi đó. Hiện nay, tỉ lệ dân số biết đọc và viết là 90%. Ba mươi sáu năm, chỉ tăng 20%?

    Như vậy kinh tế của VNCH khiến cho nhân dân không có ǵ phải phàn nàn so với miền bắc.



    Ngoài ra việc tự do báo chí, lập đoàn lập hội, phản kháng chính phủ cũng tạo cho VNCH một đời sống chính trị thoải mái và tự do. Ở đó con người có quyền của con người đúng nghĩa. Tuy chưa hoàn thiện nhưng so với miền bắc là cả một sự đối lập tương phản.

    Có thể kết luận: Về mặt kinh tế và đời sông, miền Nam hơn hẳn miền Bắc. Như vậy không có lư do ǵ miền Bắc có đời sống thấp kém hơn, kinh tế thấp hơn phải đi “giải phóng” cho miền Nam trù phú, giàu sức sống hơn. Lư do “giải phóng” về mặt kinh tế và đời sống là hoàn toàn bị bác bỏ.

    b. Về mặt quân sự:

    Đặc biệt về quân sự, có nhiều ư kiến cho rằng lúc đó VNDCCH lo sợ VNCH bắc tiến. Nhưng trên thực tế cho đến 1956 th́ quân đội VNCH chủ yếu lo bảo vệ đất nước là chính. Họ chưa đủ trang bị và con người để trở thành “Nguy cơ” với Bắc Việt. Ví dụ như sau 1968 th́ QLVNCH mới được trang bị M-16, trong khi đó quân đội VNDCCH lại có Ak-47 từ trước đó. Xin cho một thống kê nguồn wiki:

    http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB...%99ng_h%C3%B2a

    Năm 1956: Bộ Tổng tham mưu dời vào trại Trần Hưng Đạo, gần cổng vào phi trường Tân Sơn Nhất, và bắt đầu cải tiến toàn bộ cơ cấu tổ chức. Các tiểu đoàn bộ binh được tổ chức lại thành 4 sư đoàn dă chiến (1, 2, 3, 4) và 6 sư đoàn khinh chiến (11, 12, 13, 14, 15, 16). Mồi sư đoàn khoảng hơn 5.000 người. Pháo binh có thêm tiểu đoàn 23, 25, 34. Tiểu Đoàn 34 là đơn vị đầu tiên được trang bị đại bác 155 mm. Cùng năm 1956, mỗi sư đoàn bộ binh được trang bị thêm 2 tiểu đoàn pháo binh với 18 khẩu 105 mm. Không quân tiếp nhận thêm căn cứ Tân Sơn Nhất và căn cứ Biên Ḥa. Cả hai đổi thành Căn cứ trợ lực không quân số 2 và số 3. Hải quân bắt đầu tiếp nhận tàu chiến từ Hải quân Hoa Kỳ gồm 31 chiến hạm với 193 chiến đỉnh.

    Chú ư: với quân số 1 sư đoàn 5000 người th́ thực tế so với lúc này QLVNCH chỉ có 5 sư đoàn đúng nghĩa (Quân số khoảng 10000 người).

    Trong cuốn “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” (NXb Sự thật – Cơ quan của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) có viết:

    (links: http://www. vnmilitaryhistory. net/index. php?PHPSESSID=d5ae9d abfb9594328e836b81fb 7a991a&topic=9915.0) :

    Sự thật là sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, Mỹ không có khả năng can thiệp quân sự trực tiếp vào Đông Dương. Thái độ cứng rắn của Mỹ ở Hội nghị Giơnevơ chẳng qua là do Mỹ sợ Pháp v́ bị thua ở chiến trường, có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, tài chính, có thể chấp nhận một giải pháp không có lợi cho việc Mỹ nhảy vào Đông Dương sau này.

    Như vậy lư do có áp lực quân sự từ VNCH là không có. Người Mỹ đă không có khả năng can thiệp vào Việt Nam lúc đó như tài liệu phía cộng sản tôi vừa trích dẫn, Mỹ chỉ nhảy vào tham chiến sau này. Xét bối cảnh cho đến trước 1958 (Có công hàm bán nước) th́ về quân sự VNDCCH nắm thế chủ động và VNCH cùng Mỹ chưa đủ sức gây sức ép!

    Có thể kết luận: Về mặt quân sự, phía VNCH, Mỹ không có áp lực đáng kể nào có thể khiến cho VNDCCH phải “sợ” như các biện hộ cho việc dựa vào Trung cộng, Liên xô tiến đánh miền Nam.

    c. Kết luận:



    Về bối cảnh lịch sử cho thấy nhân dân miền Bắc có chất lượng sống không bằng miền Nam. Chúng ta phải hiểu rằng nhân dân miền Bắc có thể mù tịt thông tin trong Nam. Nhưng các vị lănh đạo th́ họ quá rơ nhờ hệ thống gián điệp chằng chịt, sách báo thông tin chỉ ḿnh họ có. Lănh đạo cộng sản cũng không phải là tay mơ. Vậy việc họ biết thừa rằng chẳng có lư do ǵ cần phải “Giải phóng” miền Nam. Nếu là một chính quyền hoạt động theo đúng tôn chỉ “V́ dân” th́ họ sẽ không tiến hành chiến tranh để làm cho nhân dân 2 miền đều khổ cực trong bối cảnh nhân dân bên phía kia sống sung sướng. Nhân dân Nam Bắc đều là nhân dân Việt Nam cả. Hơn thế nữa trong bối cảnh không chịu áp lực quân sự thực sự th́ lư do gây chiến là đâu?

    Vậy chỉ có một lư do đó là lănh đạo cộng sản miền Bắc phải có sứ mệnh cao hơn cả cuộc sống b́nh yên của nhân dân mới khiến họ nướng dân trên ngọn lửa hung tàn chiến tranh. Đó chính là: Ư thức hệ và quyền lực.



    Cuộc chiến mà đảng cộng sản tuyên truyền thực ra không “giải phóng” cho ai mà đơn thuần là cuộc chiến cho Ư thức hệ cộng sản chỉ huy bởi Liên xô và Trung cộng. Lư giải cho kết luận này tôi xin nói về câu nói nổi tiếng của ông Hồ: “Ông Diệm cũng là người yêu nước nhưng theo cách của ông ấy”. Nếu nói như ông Hồ th́ ông không thể coi ông Diệm là người phản bội dân tộc và như vậy cớ ǵ phải “giải phóng”? Cả về con người, lănh tụ, kinh tế, quân sự th́ có thể kết luận ngoài vấn đề chiến tranh cho ư thức hệ, cho quyền lực đỏ chẳng có lư do nào để giải thích cho cuộc chiến phi nghĩa ở Việt Nam.


    Thậm chí cái lư do “thống nhất đất nước” cũng không thể chấp nhận được. Nếu để thống nhất không thiếu ǵ con đường thông qua ngoại giao, ḥa b́nh. Hơn thế, khi kư công hàm 1958, ông Hồ đă cho thấy lư do “thống nhất” là một tṛ hề. Thống nhất không thể đem một phần đất đai của tổ quốc dâng cho giặc được. Câu nói nổi tiếng của ông Lê Duẩn: “Ta Đánh Miền Nam là Đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc…” đă thay cho lời kết luận của tôi.

    2. Trung Quốc trả tiền mua Đảo bằng cái ǵ?

    Trung cộng đă giúp đỡ từ vật dụng nhỏ nhất cho đến tàu chiến, xe tăng để quân đội VNDCCH có thể tiến hành cuộc chiến tranh gây đau thương cho dân tộc. Chúng ta không lạ ǵ các khẩu 12,7, kim khâu, đá lửa, mũ cối, xe tăng K63, T59… là của Trung cộng viện trợ. Sau đây là lời kể của ông Dương Danh Dy, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung cộng với tờ báo mới (Của đảng cộng sản):

    (Links: http://www. baomoi. com/Chuyen-it-biet-ve-quan-he-Viet–Trung-thoi-chong-My/122/3269339. epi)

    Những người ở lứa tuổi tôi (và trẻ hơn hai mươi, hai nhăm tuổi) hiện nay đều không quên những viện trợ to lớn của nhân dân Trung Quốc anh em cho chúng ta trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Từ vũ khí đạn dược đến gạo ăn vải mặc, từ ô tô, tầu thủy, máy bay đến chiếc xe đạp, máy khâu, từ gói ḿ chính đến cái kim sợi chỉ…, không sao kể hết.

    Tôi c̣n nhớ, từ chiếc mũ cối và đôi dép cao su Việt Nam đưa mẫu sang, các kỹ sư và công nhân Trung Quốc đă chế tạo cho quân đội ta và nhân dân ta những chiếc mũ cối và đôi dép lốp nổi tiếng một thời.

    … Ít người Việt Nam được biết những con tầu Giải phóng tải trọng chỉ có 50 tấn nhưng dùng động cơ mạnh tới 800 mă lực (nghĩa là có tốc độ rất nhanh) để có thể từ một cảng miền Bắc chở vũ khí, lương thực… vào cập bến tại một nơi ở vùng giải phóng miền Nam rồi trở lại ngay miền Bắc trong đêm đă được các kỹ sư và công nhân một nhà máy đóng tầu Trung Quốc thiết kế và chế tạo xong trong một thời gian ngắn kỷ lục theo yêu cầu của chúng ta.

    Đây chỉ là một ví dụ trong rất nhiều ví dụ về sự “giúp đỡ” của Trung cộng. Trung cộng thực chất giúp đỡ ông Hồ và đảng cộng sản nhằm 2 mục tiêu: Lan truyền đế chế cộng sản đỏ, Đổi lấy 2 đảo chiến lược và khu vực nhiều dầu mỏ của Việt Nam. Dă tâm ấy được thể hiện qua công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng dưới sự chỉ đạo của ông Hồ (Như đă chứng minh ở phần 2).

    Luận điểm này có thể hiểu rằng: Một kẻ tham lam, xấu bụng như Trung Cộng, việc giúp đỡ này không thể “vô tư”. Nó dứt khoát phải kèm theo điều kiện. Điều kiện đó là: Hoàng Sa- Trường Sa.

    3. Bác và đảng đă bán những ǵ?

    Trên thực tế, để chiến đấu cho quyền lực cộng sản “Đánh cho Liên xô, cho Trung Quốc” th́ đảng cộng sản Việt Nam cần vũ khí, tiền. Liên xô giúp đỡ nhưng họ không giúp như Trung cộng. Trung cộng với tư tưởng đại hán và mộng đô hộ Việt Nam ta suốt 4000 năm đă không bỏ qua cơ may đó. Họ đă ngấm ngầm thỏa thuận để đổi vũ khí lấy đất đai. Trong công hàm 1958 tôi đă nêu trong bài trước (bài số 2), việc bán quần đảo HS-TS là có thật, không thể phủ nhận.

    Việc mua bán này đă được chính các quan chức cộng sản thừa nhận một cách lập lờ. Chúng ta không quên việc ông Đồng đă nói kiểu lập lờ: “Lúc đó thời chiến phải nói thế”. Thực ra ở đây câu nói đó ư muốn ám chỉ việc lúc đó cần tiền, cần vũ khí để bán đảo cho Trung cộng. Như vậy việc trao đổi là hoàn toàn hợp lư. Một bên cần vũ khí chiến tranh, một bên cần đảo và dầu mỏ.

    Nhà xuất bản Sự Thật – một cơ quan thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam qua cuốn “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua”. Ở trang 73 của tác phẩm này, những người cộng sản Việt Nam đă cay đắng thú nhận: “Những người cầm quyền Trung Quốc, xuất phát từ lợi ích dân tộc, họ có giúp Việt Nam khi nhân dân Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, nhưng cũng xuất phát từ lợi ích dân tộc, họ không muốn Việt Nam thắng Mỹ và trở nên mạnh, mà chỉ muốn Việt Nam yếu, lệ thuộc Trung Quốc… Họ lợi dụng xương máu của nhân dân Việt Nam để buôn bán với Mỹ… Họ muốn chia rẽ Việt Nam với Liên Xô và các nước XHCN khác”.

    Điều này cho thấy người cộng sản chưa dám nói thẳng ra Trung cộng “lợi dụng” cái ǵ rơ rệt, họ sợ tội BÁN NƯỚC. Nhưng đây có thể coi như lời thừa nhận xương máu cho cuộc chiến tranh Nam Bắc là vô nghĩa, và cái thứ để “lợi dụng” kia chính là HS-TS.

    Trung cộng luôn lợi dụng việc “giúp đỡ” để giành đất của chúng ta. Thực ra ông Hồ và đảng cộng sản ban đầu có ư định bán cả đảo Bạch Long Vĩ. Tuy nhiên câu chuyện về ḥn đảo Bạch Long Vĩ có hơi khác v́ nó là khúc xương khó nhằn hơn HS-TS. Đó cũng là điều c̣n may mắn cho dân tộc.

    Hẳn nhiều người c̣n nhớ, năm 1955, khi quân đội Pháp thi hành Hiệp định Geneve, rút khỏi khu 300 ngày, tập kết vào dưới vĩ tuyến 17. Thời kỳ này quân đội Việt Minh từ các chiến khu trở về tiếp quản khu vực Quảng Ninh, Hải Pḥng, Kiến An chưa có lực lượng hải quân. Biết được điều đó, Trung cộng đă tự ư đổ bộ vào tiếp quản đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam. Đảo Bạch Long Vĩ nằm trong vịnh Bắc Bộ, chỉ cách cảng Hải Pḥng hơn 120 km. Trung cộng đă chuyên chở sắt thép, xi măng ra đảo, xây dựng công sự kiên cố, bộc lộ ư đồ chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ lâu dài.

    Sau đó Trung cộng đă trả lại cho Việt Nam năm 1956. Lư do Trung cộng trả lại cho Việt Nam không phải Trung cộng tốt đẹp ǵ. Chỉ bởi v́ đó là khúc xương khó nuốt. Đảo Bạch Long Vĩ không thể là của Trung cộng dựa trên luật biển (quá gần cảng Hải Pḥng), nếu chiếm sẽ thành quá lố và chịu áp lực quốc tế. Và so sánh vị trí chiến lược cũng như vàng đen th́ HS-TS hơn hắn. Và đảng cộng sản Việt Nam đương nhiên không muốn việc mất Bạch Long Vĩ. Họ làm thế sẽ lộ rơ mưu mô bán nước cho nhân dân ta, họ không dại ǵ làm điều này nên đă yêu cầu Trung cộng rút, Trung cộng nhẹ nhàng rút bỏ.

    Đây là lời phát biểu của ông Thạc sỹ Hoàng Việt (của cộng sản) với VOA: (bài viết trên biendong. net.

    Links: http://biendong. net/su-kien/375-tranh-chp-bin-ong-phng-vn-thc-s-hoang-vit-v-cong-ham-phm-vn-ng. html)

    VOA: Thưa ông, trong vài ngày qua chúng tôi đọc được trên internet lời kêu gọi của một số người Trung Quốc đ̣i thực hiện những cuộc biểu t́nh ở các thành phố lớn ở Trung Quốc, như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu… vào ngày chủ nhật tới đây để phản đối điều mà họ cho là Việt Nam xâm phạm chủ quyền biển đảo của họ ở Biển Đông. Những người này cũng nói tới chuyện gọi là “lấy lại” đảo Bạch Long Vĩ, nơi mà năm ngoái Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết đă đến thăm và đưa ra một tuyên bố cứng rắn để bày tỏ quyết tâm bảo vệ lănh thổ. Ông nghĩ sao về diễn tiến này?

    Hoàng Việt: Trước nhất, tôi không hiểu v́ sao những người đó họ nói như vậy. Bời v́ như vậy th́ có hai khả năng xảy ra: thứ nhất là họ không hiểu ǵ vấn đề liên quan tới luật pháp quốc tế cả, và thứ hai là họ có thể bẻ cong nó đi. Bởi v́ đảo Bạch Long Vĩ cho đến bây giờ chưa bao giờ có tranh căi pháp lư chính thức về chủ quyền đảo Bạch Long Vĩ cả. Bạch Long Vĩ là hoàn toàn của Việt Nam. Năm 1957 lúc đó Trung Quốc chiếm nhưng rồi trao lại cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.

    Cái lư Trung cộng “trả lại” Bạch Long Vĩ, tôi đă nói ở trên!

    Như vậy có thể kết luận lại mục đích của ông Hồ và đảng cộng sản đă dùng công hàm 1958 để bán đảo HS-TS lấy vũ khí, trang bị của Trung cộng tiến hành cuộc chiến tranh cho thế giới cộng sản và gia tăng quyền lực. Tính hiếu chiến của ông Hồ thể hiện rất rơ qua những câu thơ của ông, ví như:

    Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào

    Tiến lên, chiến sĩ đồng bào…

    Thực ra ông Hồ không thương xót ǵ cho dân tộc. Qua những bài thơ, câu nói của ông ta thấy rơ ràng việc ông chỉ muốn chiến tranh nhằm củng cố đế chế đỏ.

    Đây là nhận xét của ông Yelsin về ông Hồ: “Ông dính dáng đến nhiều sự kiện trọng đại nhất của quốc gia, gây những lỗi lầm to lớn nhất!”. Và một trong những lỗi lầm đó là “Bán nước và Gây chiến tranh phi nghĩa”.

    Ngay sau khi chiến thắng ở Điện Biên Phủ, ông Hồ đă công nhận việc ḿnh làm đơn giản không phải v́ dân tộc: “Nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng sản giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đă hoàn thành nhiệm vụ”. Ông Hồ chính là kẻ ham quyền lực đỏ và không coi dân tộc là hàng đầu.

    Có thể kết luận: Ông Hồ là người cầm đầu VNDCCH lúc đó, về hệ thống chính trị tôi đă tŕnh bày ở phần 2. Ông Hồ có quyền quyết định tất cả, ông Hồ chỉ v́ mục tiêu chiến đấu cho cộng sản. Và như vậy không có ǵ ngạc nhiên khi ông chỉ đạo công hàm bán nước để có vũ khí chiến tranh với chính dân tộc ḿnh. Một người không yêu tính mạng đồng bào, chỉ thích gây chiến cho phe nhóm cộng sản th́ không thể yêu nước, sẵn sàng bán đất đai cho giặc. Ông Hồ và đảng cộng sản là những người chịu trách nhiệm chính trong cuộc chiến Việt Nam phi nghĩa và công hàm bán nước cho Trung cộng.

    Chúng ta phải làm ǵ?

    Trong khi phía VNCH ra sức giữ đảo th́ phía VNDCCH lại dùng phần đất linh thiêng của dân tộc nhằm lấy vũ khí để thực hiện chiến tranh. Nhưng vấn đề trong công hàm của ông Phạm Văn Đồng do ông Hồ chỉ đạo để bán nước không dừng lại ở việc chúng ta có nguy cơ mất HS-TS về mặt đất đai mà c̣n là mất mát về vị trí quân sự cũng như các giếng dầu.

    Hệ lụy dẫn đến là Trung cộng ngang nhiên chiếm giữ Hoàng Sa, đ̣i Trường Sa và hiện nay liên tục bắt giữ ngư dân chúng ta trên vùng biển lẽ ra của chúng ta. Đơn cử
    chính là cái đường lưỡi ḅ man rợ. Chính phủ Việt Nam hiện nay không dám phản kháng. Họ biết rằng Bác Hồ của họ đă bán nước. Họ đành phản đối một cách gượng ép để tránh dư luận trong và ngoài nước. Câu hỏi được đặt ra có thể lấy lại được HS-TS hay không? Tôi xin trả lời là có thể.

    Trong khuôn khổ bài trước, tôi đă chứng minh việc công hàm 1958 là có thật, hành vi đó của ông Hồ và ông Đồng là hành vi bán nước. Tuy nhiên, để chiếm lại HS-TS chúng ta phải làm những việc sau.

    Việc thứ nhất, Công hàm 1958 không thông qua quốc hội như vậy vi hiến. Lúc đó HS-TS không thuộc quyền quản lư của VNDCCH. Như vậy, về pháp lư chúng ta vẫn có cơ sở để đ̣i lại. Việc này không biện hộ cho hành vi bán nước của ông Hồ, đây chỉ là khe hở pháp lư mà chúng ta cần nắm lấy.

    Việc thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam là con nuôi của Trung cộng. Lật đổ đảng cộng sản, chứng minh được hành vi vi hiến, bán nước của đảng và ông Hồ sẽ có một chính phủ hợp hiến, đồng thuận đứng lên v́ dân tộc. Việc đó sẽ giúp ích cho việc lấy lại HS-TS. Chỉ khi không c̣n kẻ nội thù là đảng cộng sản và tàn dư th́ mới có thể chống Trung cộng.

    Việc thứ ba, chính phủ dân chủ mới sẽ dựa vào Mỹ, đồng minh để đ̣i lại những ǵ vốn có của Việt Nam. Đoàn kết với đồng bào khắp nơi trên thế giới gây áp lực với Trung cộng.

    Ở bài này, tôi đă chứng minh cuộc chiến tranh từ du kích đến quy mô lớn ở Việt Nam là do ông Hồ và đảng cộng sản gây ra. Đây là cuộc chiến tranh phi nghĩa không phải theo lư do “giải phóng” dân tộc. Ông Hồ muốn chiến tranh để nâng cao quyền lực đế chế đỏ. Ông Hồ và đảng cộng sản là kẻ cầm đầu việc bán đất đai, biển đảo tổ tiên để đổi lấy vũ khí Trung cộng gây đau thương cho dân tộc.

    Chân thành cảm ơn bạn đọc và DLB!

    Chỉnh sửa, hoàn thiện: 15/06/2012

    Đặng Chí Hùng


    http://chauxuannguyen.wordpress.com/...-va-de-lam-gi/

  4. #4
    Member
    Join Date
    01-10-2010
    Posts
    229

    VC "Đỉnh cao Trí tuệ"

    Quote Originally Posted by alamit View Post

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?
    Những sự thật không thể chối bỏ. HỒ CHÍ MINH VÀ VAI TR̉ TRONG CÔNG HÀM 1958
    (phần 3)



    3. Bác và đảng đă bán những ǵ?

    Trên thực tế, để chiến đấu cho quyền lực cộng sản “Đánh cho Liên xô, cho Trung Quốc” th́ đảng cộng sản Việt Nam cần vũ khí, tiền. Liên xô giúp đỡ nhưng họ không giúp như Trung cộng. Trung cộng với tư tưởng đại hán và mộng đô hộ Việt Nam ta suốt 4000 năm đă không bỏ qua cơ may đó. Họ đă ngấm ngầm thỏa thuận để đổi vũ khí lấy đất đai. Trong công hàm 1958 tôi đă nêu trong bài trước (bài số 2), việc bán quần đảo HS-TS là có thật, không thể phủ nhận.
    ...

    Đây là lời phát biểu của ông Thạc sỹ Hoàng Việt (của cộng sản) với VOA: (bài viết trên biendong. net.

    Links: http://biendong. net/su-kien/375-tranh-chp-bin-ong-phng-vn-thc-s-hoang-vit-v-cong-ham-phm-vn-ng. html)

    ...

    Ở bài này, tôi đă chứng minh cuộc chiến tranh từ du kích đến quy mô lớn ở Việt Nam là do ông Hồ và đảng cộng sản gây ra. Đây là cuộc chiến tranh phi nghĩa không phải theo lư do “giải phóng” dân tộc. Ông Hồ muốn chiến tranh để nâng cao quyền lực đế chế đỏ. Ông Hồ và đảng cộng sản là kẻ cầm đầu việc bán đất đai, biển đảo tổ tiên để đổi lấy vũ khí Trung cộng gây đau thương cho dân tộc.

    Chân thành cảm ơn bạn đọc và DLB!

    Chỉnh sửa, hoàn thiện: 15/06/2012

    Đặng Chí Hùng


    http://chauxuannguyen.wordpress.com/...-va-de-lam-gi/


    Thường t́nh th́ kẻ tay sai phá hoại cho ai th́ người đó phải cung cấp dụng cụ và trả công,
    nhưng VC v́ ngu + tham lam nên làm chuyện đáng ghi vào "Chuyện lạ thế giới" ngây thơ đến tội nghiệp.

    Đâm thuê giết mướn cho Tàu mà phải dâng/bán tài sản Quốc Gia mua vũ khí Tàu, để được làm tay sai th́ chỉ có "Đỉnh cao Trí tuệ" mới làm được.

    Qua sự tuyên truyền Tàu cộng th́ dưới con mắt người Trung Quốc. VC Bắc Kỳ (không xứng đáng được gọi Bắc Việt) là lũ vong ơn, bội nghĩa cần phải trừng trị.

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?
    Những sự thật không thể chối bỏ: VAI TR̉ HỒ CHÍ MINH.
    Bán nước trong thân phận kẻ chư hầu.




    Ông Hồ Chí Minh có rất nhiều tội cả về cá nhân và tội với dân tộc. Trong đó, ông ta có 2 tội nặng nhất là: Bán nước và Giết người. Đó chính là 2 tội nặng nhất mà trước đến nay ít người dám đề cập và đi sâu, ngay cả trong cuốn DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” của linh mục Nguyễn Hữu Lễ. Trong khuôn khổ những bài viết của ḿnh, tôi xin nêu chủ yếu về 2 tội ác này của ông Hồ.

    Như trong phần 2, và 3 tôi đă chứng minh ông Hồ là kẻ bán nước, gây ra chiến tranh phi nghĩa. Nhưng chúng ta c̣n sẽ được thấy một khía cạnh khác của ông ta: Phận Chư Hầu. Ông Hồ làm chư hầu cho chủ nghĩa cộng sản và đặc biệt làm chư hầu cho kẻ thù của dân tộc: Trung cộng.

    Trung cộng và mưu mô bành trướng, tạo ra chư hầu



    Chúng ta hẳn không thể quên được Trung quốc chính là kẻ hàng xóm to xác nhưng rất xảo quyệt. Trải qua hơn 4000 năm lịch sử của dân tộc chúng ta đă phải đương đầu với các triều đại phong kiến Trung quốc xâm lăng Việt Nam. Dù là Hán, Đường, Tống hay Nguyên… có mạnh đến đâu cũng không thể khuất phục được ḷng yên nước của dân tộc ta. Thời nào chúng ta cũng có các anh hùng hào kiệt giết giặc thù như: Lê Lợi, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng.

    … Thằng nhăi con Tuyên Đức động binh không ngừng

    Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy

    Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại

    Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.

    Ta trước đă điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong

    Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực

    Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

    Ngày hai mươi, trận Mă Yên, Liễu Thăng cụt đầu

    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong

    Ngày hăm tám, thượng thư Lư Khánh cùng kế tự vẫn…

    (Trích B́nh Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trăi)

    Đó là truyền thống đáng tự hào của dân tộc Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ bé nhưng anh dũng, thông minh. Tuy nhiên sau này, đất nước chúng ta lại có kẻ sẵn sàng can tâm làm chư hầu cho giặc. Đó là ông Hồ Chí Minh.

    Sau khi đảng cộng sản Trung Quốc giành được thắng lợi. Trung cộng lại muốn nhuộm đỏ các nước đông nam Á trong đó có Việt Nam. Chúng nuôi mộng bá vương dựa trên quan điểm về “thế giới cộng sản” và Đại Hán bành trướng, coi ḿnh là Trung tâm vũ trụ.

    Trong cuốn sách: Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc 30 năm qua (NXB Sự Thật – Nhà xuất bản của ban tuyên giáo đảng cộng sản Việt Nam T10/79)

    (links: http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=9915.0) có đoạn:



    Đông nam châu Á là hướng bành trướng cổ truyền trong lịch sử Trung Quốc, là khu vực mà từ lâu những người lănh đạo nước Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa ước mơ thôn tính.

    Trong năm 1936, chủ tịch Mao Trạch Đông kể chuyện với nhà báo Mỹ Etga Xnâu ở Diên An về thời trẻ của ḿnh, đă bộc lộ ư nghĩ sau khi đọc một cuốn sách nhỏ nói đến việc Nhật chiếm Triều Tiên và Đài Loan, việc mất “chủ quyền” Trung Hoa ở Đông Dương, Miến Điện và nhiều nơi khác:

    “Đọc xong, tôi lấy làm thất vọng đối với tương lai đất nước tôi và tôi bắt đầu nhận thức rằng bổn phận của mọi người là phải đóng góp cứu nước”.

    Tài liệu của Đảng cộng sản Trung Quốc do chủ tịch Mao Trạch Đông viết mang tên Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc, xuất bản năm 1939 có viết:

    “Các nước đế quốc sau khi đánh bại Trung Quốc, đă chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…”

    Cuốn sách Sơ lược lịch sử Trung Quốc hiện đại xuất bản năm 1954 ở Bắc Kinh có bản đồ vẻ lănh thổ Trung Quốc bao gồm cả nhiều nước chung quanh, kể cả ở Đông nam châu Á và vùng biển Đông.

    Như vậy trong cuốn sách này đảng cộng sản Việt Nam cũng đă phải công nhận mộng xâm lăng của Trung cộng là không thể chối bỏ.

    Ư đồ bành trướng của những người lănh đạo Trung Quốc đặc biệt lộ rơ ở câu nói của Mao Trạch Đông trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963: “Tôi sẽ làm chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông nam châu Á”.

    Cũng trong dịp này, Mao Trạch Đông so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, về diện tích th́ tương đương nhưng về số dân th́ tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và nói rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Thái Lan để ở; đối với nước Lào đất rộng người thưa, chủ tịch Mao Trạch Đông cũng cho rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào để ở.

    Mao Trạch Đông c̣n khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965:

    “Chúng ta phải giành cho được Đông nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo… Một vùng như Đông nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”

    (Trích từ NXB Sự Thật – Nhà xuất bản của ban tuyên giáo đảng cộng sản Việt Nam)

    Kết luận: Kẻ thù Trung Quốc luôn có mộng xâm lăng chúng ta từ ngàn đời. Và đến thời của đang cộng sản Trung Quốc (Trung cộng) cái mộng bành trướng ấy càng rơ rệt hơn thể hiện qua nghị quyết và phát biểu cũng hành động bán vũ khí để đổi lấy HS-TS với chính phủ VNDCCH(Đă chứng minh ở 2 phần trước).

    Bán nước trong thân phận kẻ chư hầu cuồng tín



    Như tôi đă nêu ở phần đầu, Trung cộng là kẻ thù của Việt Nam. Đáng lẽ ra đảng cộng sản Việt Nam phải hiểu điều này và làm đúng chức năng của một nhà nước v́ dân tộc. Tuy nhiên họ không làm như Trần Hưng Đạo đă từng nói với vua Nhân Tông về việc chủ ḥa hay chủ chiến với giặc “Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn miếu Xă tắc th́ sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hăy chém đầu thần đi đă, rồi sau hăy hàng!!”

    Những người cộng sản ở Việt nam đă không có thái độ kiên quyết với kẻ thù mà c̣n can tâm làm thân chư hầu chính kẻ thủ của cả dân tộc. Họ sẵn sàng bán biển đảo của tổ quốc cho giặc Tàu với mong muốn nhuộm đỏ Việt Nam, tăng cường độc tài. Nhưng đồng thời với hành động bán nước qua công hàm 1958, họ lại c̣n tồi tệ hơn là bán nước trong thân phận kẻ chư hầu cho giặc.

    Bán nước là một hành động phản bội dân tộc và hèn hạ. Nhưng can tâm làm chư hầu cho giặc đă lấy đất đai của ḿnh th́ càng hèn hạ hơn. Chính ông Hồ và đảng cộng sản phải chịu trách nhiệm việc này.

    Ông Hồ là người ham mê quyền lực và cuồng tín với cộng sản. Ông ta đă thần thánh và ngoan ngoăn làm theo chỉ đạo của Trung cộng và Liên xô trong mọi hành động của ḿnh. Ở khuôn khổ bài này tôi chỉ xin đi sâu vào sự nhục nhă khi can tâm làm chư hầu của ông Hồ với Trung cộng.

    Nhà thơ cộng sản Chế Lan Viên có câu nổi tiếng: “Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao” th́ đủ hiểu ông Hồ thần thánh và tuân chỉ Trung cộng thế nào. Tôi xin phân tích vào từng giai đoạn và sự việc tại Việt Nam trong việc ông Hồ bán nước can tâm làm chư hầu cho Trung cộng.

    Đầu tiên là cuộc Cải cách ruộng đất gây bao đau thương cho dân tộc (Tôi xin tŕnh bày ở bài khác).



    Mục tiêu của cuộc Cải cách này mới thực sự là một đ̣n thâm hiểm của ông Hồ và đảng cộng sản. Mục tiêu quan trọng của việc phế bỏ quyền tư hữu đất đai là để giành giật khả năng và quyền lực chính trị khỏi tay nông dân, và tập trung quyền lực chính trị đó vào tay chế độ chuyên chính vô sản. Những người thợ và trí thức vô sản bị mất hết quyền lực chính trị v́ họ bị khống chế bởi tên chủ Cộng sản qua hệ thống hộ khẩu và chế độ b́nh công chấm điểm. Họ chỉ được đủ ăn tới một mức… lúc nào cũng c̣n đói, nếu họ tuân theo những quy luật do “tên chủ” Cộng sản đề ra. Đây cũng chính là cái bài quen thuộc mà cộng sản hiện nay đang làm với nhân dân.

    Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng Cộng sản chiếm được lục địa Trung Hoa, thành lập nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa (Trung cộng). Trung cộng thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa của Hồ Chí Minh ngày 18-1-1950. Tiếp theo, Liên Xô thừa nhận ngày 30-1-1950. Tháng 2-1950, Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh và Moscow xin viện trợ. Khi gặp Hồ Chí Minh, Stalin ra lệnh cho Hồ Chí Minh phải thực hiện ngay hai việc: thứ nhất tái công khai đảng Cộng sản và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ theo đường lối Cộng sản. Stalin chỉ đạo cho Hồ Chí Minh phải cử người sang Trung cộng học tập phương pháp CCRĐ triệt để, v́ lúc đó mối liên lạc Xô-Trung c̣n b́nh thường và v́ Việt Nam nằm sát biên giới Trung cộng.



    Sau khi về nước, Hồ Chí Minh liền triệu tập Đại hội lần 2 đảng Cộng sản Đông Dương tại chiến khu rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng Cộng sản dưới danh xưng mới là đảng Lao động ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư. Trong đại hội này, Hồ Chí Minh đă phát biểu: “Về lư luận, đảng Lao động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin… lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam… Tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin”. (Hồ Chí Minh toàn tập).

    Chẳng những thế, cũng trong Đại hội nầy, Hồ Chí Minh c̣n nhiều lần tuyên bố: “Ai có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông th́ không thể sai được”. (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào Cộng sản quốc tế, 2001, tr. 63.)

    Để tiến hành CCRĐ, sau Đại hội 2, đảng cộng sản cử người sang Trung cộng tham dự khóa học tập về chủ nghĩa Mác-Lênin tổ chức tại Bắc Kinh cho các đảng Cộng sản các nước Á Châu như Indonesia, Mă Lai, Thái Lan, Pakistan, Phi Luật Tân, Nhật Bản, chính là để học phương thức CCRĐ theo đường lối Trung cộng. Phái đoàn này trở về liền được đảng LĐ gởi tổ chức thí điểm CCRĐ, bắt đầu phát động “giảm tô, giảm tức” ở vài tỉnh Việt Bắc và ở Thanh Hóa.

    Trong khi đó, từ năm 1949, ban lănh đạo cộng sản đă đưa ra phong trào “Rèn cán chỉnh quân” trong quân đội, và “Rèn cán chỉnh cơ” về phía dân sự. “Rèn cán chỉnh quân” là rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn quân đội. “Rèn cán chỉnh cơ” là rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn cơ quan. Phong trào này không đạt được những mục tiêu do đảng cộng sản đề ra. Ông Hồ và đảng cộng sản liền theo đường lối cứng rắn quyết liệt của Trung cộng tổ chức phong trào “Chỉnh huấn” năm 1950.

    Sự việc đầu tiên đă gây bao đau thương cho dân tộc với con số hàng trăm ngh́n người bị chết oan, hàng triệu người c̣n sống trong tủi nhục. Ở đây có 2 ư, ông Hồ không chịu thấy hoặc thấy sự thất bại trong cách mạng cải cách ở Trung cộng, vẫn cố t́nh đem nó về hại dân tộc. ngoài ra, ông Hồ và đảng cộng sản không đặt lợi ích dân tộc lên ban đầu mà chỉ tin vào những kẻ theo chủ nghĩa cộng sản cuống tín. Điều tối kỵ với lănh tụ chính là không đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu.

    Việc thứ hai, đó là nhẫn nhục bán nước nhưng lại làm chư hầu cho mộng ước quyền lực của ḿnh và của Trung cộng. Sở dĩ nói như vậy v́ trong bài thứ 2 tôi đă phân tích rơ ràng việc ông Hồ và đảng cộng sản cố t́nh bán đảo HS-TS để có vũ khí gây chiến với VNCH. Hành động đó ngoài việc củng cố quyền lực cho riêng ḿnh, ông Hồ c̣n muốn chứng tỏ ḿnh là chư hầu đắc lực cho Liên xô và Trung cộng. Đặc biệt với kẻ thù không đội trời chung của dân tộc như Trung cộng th́ đó lại là hành động không chấp nhận được.

    Trung cộng thực chất muốn dùng con bài Việt cộng để đánh nhau với Mỹ. Trung cộng lợi dụng việc ông Hồ cuồng tín và ham mê quyền lực để đạt 3 mục tiêu. Mục tiêu dùng người Việt đánh Mỹ, mục tiêu thứ hai là mua thành công HS-TS và áp đặt cho Việt Nam từ đây là chư hầu của Trung cộng. Và để đáp lại mưu đồ của Trung Cộng th́ ông Hồ sẵn sàng chấp nhận thân phận này. Trong bài trước, tôi đă phân tích việc ông Hồ nhận được sự “giúp đỡ” về vật dụng, khí tài, chuyên gia của Trung cộng để đánh VNCH đó là hành động “Đổi biển đảo lấy vũ khí”. C̣n bây giờ chúng ta có thể thấy thêm việc làm chư hầu cho Trung cộng nữa.

    Ông Hồ tôn sùng Trung cộng như thân phận của nước chư hầu với thiên tử. Trong bài: “Hồ Chí Minh với Trung quốc” trên trang Vietnamnet (links: http://www.tuanvietnam.net/2010-05-1...voi-trung-quoc) có đoạn phát biểu của ông Hồ với quan hệ Việt-Trung: “Trong lĩnh vực này, tôn trọng vai tṛ và lợi ích nước lớn của Trung Quốc trong quan hệ quốc tế với Bác không có nghĩa là không tôn trọng lợi ích chung của phe xă hội chủ nghĩa của phong trào cộng sản quốc tế, của nhân dân các nước khác”. Điều này cho thấy ông Hồ rất muốn coi ḿnh như một chư hầu của Trung cộng và cả chư hầu cho chủ nghĩa cộng sản khát máu.

    Cũng trong bài báo này, tác giả lề đảng đă tái khẳng định ông Hồ muốn “cổ vũ” cho cách mạng ở Trung quốc- một hành động không v́ lợi ích của dân tộc, chỉ mang tính chất của cuộc cách mạng đỏ đầy đau thương:

    “Trong ba lần hoạt động dài ngày ở Trung Quốc, có lúc Bác tham gia chi đội Bát Lộ Quân của Diệp Kiếm Anh nhưng ngay cả những lúc chuyên hoạt động v́ cách mạng Việt Nam, Bác không quên cách mạng Trung Quốc.

    Bộ “Toàn tập Hồ Chí Minh” mà tôi có trong tay được xuất bản vào những năm quan hệ hai nước chưa b́nh thường và tôi biết có một số bài viết của Bác về Trung Quốc không được đưa vào, nhưng chỉ bằng vào những bài đă được công bố trong đó, tôi có thể mạnh dạn nói rằng ngay từ khi ở Pháp, ở Liên Xô cho đến khi hoạt động ở Trung Quốc và về Việt Nam, khi c̣n là nhà cách mạng hoạt động bí mật cho đến khi trở thành người đứng đầu một nước, Bác luôn là người nước ngoài tuyên truyền cổ vũ nhiều nhất cho cách mạng Trung Quốc.”

    Trong một cuộc họp với Trung cộng năm 1970, ông Lê Duẩn đă nói với Mao Trạch Đông: “Tại sao chúng tôi giữ lập trường bền bỉ chiến đấu cho một cuộc chiến kéo dài, đặc biệt trường kỳ kháng chiến ở miền Nam? Tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là v́ chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch… Chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu, đó là v́ Mao Chủ tịch đă nói rằng 700 triệu người Trung Quốc đang ủng hộ nhân dân Việt Nam một cách vững chắc”. (Trích trong cuốn sách: War in Viet Nam – Trung tâm lưu trữ Wilson – Mỹ – Trang 23)



    Ở một tài liệu khác, cuốn “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” (Nhà xuất bản Sự Thật của Đảng Cộng sản Việt Nam phát hành – tại trang 53), có đăng nguyên văn nội dung lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam trả lời ông Đặng Tiểu B́nh hồi năm 1966, như sau: “Sự nhiệt t́nh của một nước XHCN, với một nước XHCN khác là xuất phát từ tinh thần quốc tế vô sản. Chúng tôi không bao giờ nghĩ nhiệt tâm là có hại. Nếu các đồng chí nhiệt tâm giúp đỡ th́ chúng tôi có thể đỡ hy sinh 2-3 triệu người… Miền Nam chúng tôi sẽ chống Mỹ đến cùng và chúng tôi vẫn giữ vững tinh thần quốc tế vô sản”.

    Tuy đảng cộng sản Việt Nam đă tiến hành cuộc chiến tranh mà họ gọi là “giải phóng miền Nam”, nhưng thực chất việc này để phục vụ mục tiêu đưa cả thế giới cùng tiến lên Chủ nghĩa Cộng sản, như tuyên bố của ông Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xă hội chủ nghĩa và cả nhân loại”.

    Kết luận: Ông Hồ và đảng cộng sản đă can tâm bán nước nhưng đồng thời đưa nước ta thành một dạng nô lệ và chư hầu mới của Trung cộng.

    Hậu quả của việc bán nước trong thân phận của kẻ chư hầu

    Những hậu quả của việc bán nước và làm tay sai, chư hầu cho Trung cộng là vô cũng to lớn. Ông Hồ với vai tṛ là người đứng đầu cả nước VNDCCH, là tổng bí thư của đảng CSVN đă gây ra những đau thương khôn cùng cho dân tộc trong thời kỳ của ông ta mà c̣n để lại tàn dư cho đến ngày nay trong vấn đề quan hệ với Trung cộng.

    Trong vấn đề ông Hồ rập khuôn cải cách ở Trung cộng đă gây ra hậu quả to lớn đó là số người chết oan vô cùng nhiều.

    Dựa vào tài liệu các nước ngoài, giáo sư Lâm Thanh Liêm cho rằng số người bị giết trong cuộc CCRĐ năm 1955-1956 ở Bắc Việt có thể lên đến từ 120,000 đến 200,000 người. (Lâm Thanh Liêm, bđd., sđd. tt. 203-204).

    Theo sách Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000 tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 (tài liệu mới của đảng cộng sản Việt Nam) cho biết: cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956) được thực hiện ở 3,563 xă, có khoảng 10 triệu dân, và tổng số người bị sát hại trong CCRĐ đợt nầy lên đến 172,008 người, trong đó có 123,266 người (71,66%) sau nầy được xác nhận đă bị giết oan.

    Như vậy dù với con số nào th́ ít nhất cũng có gần 2 trăm ngàn người bị chết oan nghiệt dưới bàn tay của ông Hồ và đảng cộng sản. Ông Hồ và đảng cộng sản phải chịu trách nhiệm về hành động diệt chủng theo chủ trương của Trung cộng trong thân phận chư hầu.



    Vấn đề thứ hai đó là hàng triệu thanh niên nam bắc đă chết trong cuộc chiến tranh mà ông Hồ “đánh cho Trung cộng”. Đó là cuộc chiến tranh phi nghĩa mà người thiệt hại chỉ là nhân dân. Ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam đạt được mục đích cướp bóc và quyền lực. C̣n Trung cộng th́ có đảo HS-TS và cái thế của kẻ bề trên. Chỉ xin nêu một số những con số nho nhỏ cho thấy hậu quả của cuộc chiến tranh phi nghĩa này đă nướng nhân dân ta thế nào. Thông tin trên wiki (Links: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chiến_tranh_Việt_Nam):”Tùy theo nguồn, số người Việt Nam bị thiệt mạng trong chiến tranh Việt Nam là từ 3 đến 5 triệu, hàng triệu người khác tàn tật và bị thương. Một nửa diện tích rừng của Việt Nam bị phá hủy…”

    Vấn đề thứ ba cũng là vấn đề lớn hiện nay đó là đất đai và biển đảo của chúng ta bị Trung cộng xâm lăng trong sự im lặng làm chư hầu của đảng cộng sản.

    Như chúng ta đă biết, việc ông Hồ và ông Đồng bán nước cho Trung cộng đổi lấy vũ khí khiến cho chúng ta bị mất HS-TS. Sự lập lờ trong tuyên bố và im lặng trước việc Trung cộng hoành hành trên biển, đường lưỡi ḅ, im lặng trong việc quốc tế hóa vấn đề Biển đông của đảng cộng sản là minh chứng cho việc bán nước, làm chư hầu cho giặc.

    Ngày 26/5/2011 ba chiếc tàu Trung cộng cố t́nh chạy vào hải phận Việt Nam trong khu vực chiếc tàu của Công ty dầu khí Việt Nam đang làm việc, cắt đứt dây cáp mà tàu đang sử dụng, rồi khoảng ba giờ sau mới rời hiện trường.

    Theo Reuters, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung quốc nói: “Trung Quốc phản đối việc Việt Nam thăm ḍ dầu khí tại vùng biển thuộc quyền pháp lư của Trung Quốc”. “Lập trường của Trung Quốc về Biển Đông là rơ ràng và nhất quán. Chúng tôi phản đối các hoạt động thăm ḍ dầu khí của Việt Nam, v́ tổn hại đến lợi ích và quyền lợi pháp lư của Trung Quốc tại Biển Đông, và vi phạm thỏa thuận chung mà hai nước đă đạt được trên vấn đề này“. Theo RFI.


    Vấn đề ở đây đó là tại sao bà Khương Du lại nói “VI PHẠM THỎA THUẬN CHUNG MÀ HAI BÊN ĐĂ ĐẠT ĐƯỢC “?. Đó chính là thêm một bằng chứng nói về việc bán nước cho Trung cộng của ông Hồ và đảng cộng sản trước đó. Và bây giơ th́ nhân dân ta đang bị đảng chăn dắt để trả nợ cho đảng với Trung cộng.

    Ngoài ra việc mất đất tại ải Nam Quan hay thác Bản Giốc, cũng đă minh chứng cho việc bán nước và làm chư hầu cho Trung cộng. Trong cuốn: Vấn Đề Biên Giới Giữa Việt Nam Và Trung Quốc (NXB Sự Thật 1979 – nhà xuất bản của đảng cộng sản Việt Nam)

    (links: http://www.vnmilitaryhistory.net/ind..._next=next#new) có đoạn:

    Trên đoạn biên giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi, phía Trung Quốc đă tự tiện mở rộng xây dựng các công tŕnh để từng bước xâm lấn đất.

    Tại khu vực mốc 53 (xă Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đă công nhận sự thật đó. Ngày 20 tháng 2 năm 1970 phía Trung Quốc đă huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố pḥng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lănh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đă rồi, xâm phạm lănh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn P̣ Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc.

    Các thị trấn Ái Điểm (đối diện với Chi Ma, Lạng Sơn), B́nh Măng (đối diện Sóc Giang, Cao Bằng) vốn đă nằm sát các mốc giới 43 và 114 lại ngày càng được phía Trung Quốc mở rộng ra lấn sang đất Việt Nam từ hàng chục đến hàng trăm mét với công tŕnh, nhà cửa, trường học, khu phố…

    Bằng cách tổ chức lâm trường, trồng cây gây rừng, làm đường chắn lửa, đặt hệ thống điện cao thế, điện thoại lấn vào lănh thổ Việt Nam, Trung Quốc đă biến nhiều vùng đất khác của Việt Nam thành đất của Trung Quốc.

    Tuy nhiên trong việc mất đất đai này chúng ta chỉ thấy ở trong những cuốn sách ít người đọc và không được phổ biến rộng răi. Các lănh đạo Việt Nam luôn im lặng đến khó hiểu hoặc tuyên bố như ông Trọng “không có ǵ mới” trong vấn đề với Trung cộng. V́ sao họ không dám lên tiếng phản đối mất đất? V́ họ đă bị đảng cộng sản và ông Hồ trói buộc vào vị thế của phận làm chư hầu cho Trung cộng nhằm giữ ghế quyền lực độc tài. Họ phải im lặng v́ không thể nói “Đảng tôi đă bán nước, Bác Hồ đă bán nước”. Những minh chứng này càng rơ hơn khi nhà nước cho công an bắt bớ, đạp mặt nhân dân yêu nước biểu t́nh chống Trung cộng. Và gần đây những bằng chứng về boxit tây nguyên, vịnh Cam Ranh càng cho thấy Việt Nam đă dần từng bước thực hiện con đường làm chư hầu cho Trung cộng.

    Như vậy qua bài này, bằng những tư liệu của cả lề dân, lề đảng, nước ngoài và phát biểu của ông Hồ, ông Duẩn… chứng minh việc ông Hồ chỉ đạo đảng cộng sản bán nước, nhưng đồng thời can tâm chấp nhận đưa dân tộc ta làm nô lệ bán công khai cho Trung cộng – kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Đây là tội phản quốc không thể tha thứ.

    Chỉnh sửa và hoàn thiện: 17/06/2012

    Đặng Chí Hùng (Danlambao)
    Last edited by alamit; 18-06-2012 at 09:11 AM.

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?
    Những sự thật không thể chối bỏ - Nỗi đau Cải Cách
    (phần 1)




    Tôi xin được tŕnh bày ở bài viết này sự thật về cái gọi là “Cải cách ruộng đất” man rợ ở Miền Bắc. Nó không mới lạ với đa số bạn đọc. Nhưng lâu nay, người cộng sản hoặc bênh vực cho cộng sản đổ tội cho ông Trường Chinh, Lê Văn Lương... Điều này không sai nhưng chưa đủ. Vai tṛ và trách nhiệm của ông Hồ Chí Minh trong chiến dịch dẫn đến cái chết của gần 200,000 người dân vô tội cần được vạch rơ.

    A. Cải cách ruộng đất (CCRĐ) hay tṛ chơi với xác người?



    1. Bối cảnh lịch sử và vấn đề cải cách nông nghiệp tại miền Bắc:

    Đảng cộng sản dưới sự chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh đă thực hiện CCRĐ trong tính toán của minh và theo tinh thần của “đàn anh” Trung cộng làm trong “Cải cách văn hóa”. Đây cũng là một trong những điều chứng tỏ ông Hồ và đảng cộng sản luôn luôn đưa ḿnh vào vị thế làm chư hầu cho Trung cộng (đă tŕnh bày ở phần 4).

    Điều này cũng không có ǵ quá ngạc nhiên v́ trong các chế độ Cộng sản, bản chất của Cải cách Ruộng đất là đảo lộn toàn bộ tổ chức xă hội bằng cách phế bỏ quyền tư hữu đối với tất cả ruộng, đất, vườn, ao, hoa màu, trâu ḅ và dụng cụ sản xuất như cày, bừa, cuốc, xẻng v.v... …

    Thực chất vấn đề là nó biến cuộc nổi dậy theo cách gọi của Việt Minh thành một cuộc trả thù đẫm máu. Nó không khác ǵ một cuộc diệt chủng áp dụng lên chính đồng bào của ḿnh.

    Chiến dịch CCRĐ xảy ra vào giai đoạn mà đảng Cộng sản Việt Nam đă củng cố được địa vị lănh đạo và quyền lực. Sau khi cướp được chính quyền vào năm 1945, đảng cộng sản đă tiêu diệt các lực lượng và đảng phái quốc gia cũng như dân tộc khác từ năm 1946. Trong giai đoạn từ 1946 đến 1950, đảng cộng sản Việt Nam bị tách biệt với phong trào cộng sản Quốc tế, không thể nhận sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc và v́ c̣n yếu nên c̣n cần sự hợp tác của các thành phần không Cộng sản trong hàng ngũ Việt Minh. Khi đảng cộng sản Trung Quốc chiếm được chính quyền tại Trung Quốc tháng 10-1949, biên giới Việt Nam–Trung Hoa thông thương được. Cộng sản Việt Nam được Trung cộng viện trợ vũ khí, cán bộ huấn luyện. Lúc đó đảng cộng sản cũng đă nắm vững t́nh h́nh trong nước nên có thể thi hành biện pháp có tính cách Cộng sản mà trước đây đảng cộng sản chưa thể làm v́ chưa đủ sức chống đỡ với sự phản đối của quần chúng và các tổ chức không theo cộng sản.

    Chiến dịch Cải cách Ruộng đất và một số các chiến dịch thuộc vào giai đoạn hai trong sách lược cách mạng vô sản của đảng Cộng sản: giai đoạn đầu là Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân, giai đoạn hai là giai đoạn Cách mạng Xă hội Chủ nghĩa. Chỉ từ giai đoạn hai trở đi th́ các đặc tính của cộng sản mới lộ ra. Đây là chiêu lừa đảo rất tinh vi của cộng sản. Họ lợi dụng cách mạng dân tộc để lừa bịp nhân dân chiến đấu, đóng góp cho chế độ độc tài kéo dài đến ngày hôm nay.

    Tại văn kiện đại hội đảng để thực hiện việc cải cách ruộng đất (Nhà xuất bản chính trị đảng cộng sản việt nam- trang 5) có đánh giá: “…Việc đấu tranh giai cấp giữa địa chủ và nông dân đă được đặt ra ngay từ khi thành lập Đảng. Đây là vấn đề bức thiết cần phải thực hiện trong thời gian tới đây. Chúng ta nhận thấy rằng từ có từ 90% đến 95% dân chúng Việt Nam là nông dân, và trong số này th́ chỉ có khoảng 5% là địa chủ phú nông, c̣n đa số đều là người làm thuê, làm mướn, tá canh, tá điền. Do đó, chúng ta muốn làm cách mạng xă hội phải lôi cuốn được khối đa số đó, phải thỏa măn khối đa số đó bằng quyền lợi để tiến hành cách mạng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xă hội...".

    Như vậy, qua đây có thể thấy đảng cộng sản chỉ muốn lợi dụng số đông nông dân có dân trí kém để thúc đẩy một cuộc cướp bóc, trả thù đẫm máu với giai cấp trí thức hơn. Họ nhằm hai mục tiêu: (1) Đạt được ư nguyện cướp bóc, trả thù và (2) lợi dụng đó làm bàn đạp cho chế độ đảng trị khi trói buộc lợi ích của nông dân vào tḥng lọng giăng sẵn.

    2. Các bước thực hiện cải cách ruộng đất:



    Giai đoạn khởi động: Vào giữa năm 1949, khi sửa soạn chuyển qua giai đoạn phản công quân sự, Việt Minh đă vững mạnh ở vùng nông thôn và nhất là rừng núi Việt Bắc. Lúc đầu, Việt Minh thực hiện cuộc CCRĐ thử nghiệm, chỉ kiếm cách tăng gia sản lượng nông nghiệp nhắm cung ứng nhu cầu đội quân càng ngày càng gia tăng. Để khuyến khích nông dân ra sức cày bừa, chính phủ Việt Minh đă ra sắc lệnh số 78/SL ngày 14-7-1949 thành lập "Hội đồng giảm tô", ấn định các chủ đất (Việt Minh gọi là địa chủ) phải giảm thiểu đồng bộ tiền thuê đất (địa tô) cho tá điền là 25%, có nơi có thể giảm tối đa 35% trong trường hợp tá điền quá nghèo khổ. Sau đó, thông tư liên bộ số 33/NVI ngày 21-8-1949 đưa ra những nguyên tắc chủ yếu về việc phân chia tạm thời cho nông dân ruộng đất tịch thu của các điền chủ người Pháp và những điền chủ "Việt gian", tức là những người bị Việt Minh kết tội thân Pháp, hoặc không cộng tác với Việt Minh.

    Giai đoạn hai: Trong năm 1950, một loạt sắc lệnh nông nghiệp ra đời có tính cách mỵ dân, nhắm đẩy mạnh sản xuất, phục vụ công cuộc kháng chiến của Việt Minh, bắt đầu bằng sắc lệnh số 20/SL ngày 12-2-1950 ra lệnh tổng động viên toàn bộ "nguồn nhân lực, vật lực (gia súc, công cụ) và tài lực (tiền bạc) cho tổ quốc".

    Sau đó, ngày 22-5-1950, xuất hiện cùng một lúc hai sắc lệnh. Sắc lệnh số 89/SL quyết định xóa bỏ tất cả những hợp đồng vay nợ giữa tá điền với điền chủ kư kết trước năm 1945, và xóa bỏ cả những hợp đồng kư kết sau năm 1945 nếu con nợ đă trả đủ 100% số tiền đă vay, hoặc con nợ đă từ trần v́ sự nghiệp của Việt Minh th́ gia đ́nh khỏi trả nợ.

    Sắc lệnh thứ hai do chính phủ VM ban hành cùng ngày 22-5-1950 mang số 90/SL, quốc hữu hóa tất cả những đất đai đă bỏ hoang trong 5 năm liên tục kể từ ngày ra sắc lệnh.

    Giai đoạn ba: Giai đoạn thứ ba bắt đầu bằng sắc lệnh ngày 20-4-1953, đăng trên Công báo Việt Minh ngày 20-5-1953. Sắc lệnh nầy không có ǵ mới lạ, chỉ củng cố những "thành quả" của cuộc Cải cách trước. Lần nầy, giá thuê đất được hạ thêm 25% để "làm thế nào cho tiền thuê đất không thể vượt quá 1/3 lợi tức mùa gặt." Luật mới quy định các chủ đất không được buộc tá điền phải đóng thêm tiền cho các phí tổn khác, như tiền thuê dụng cụ hay trâu ḅ cày bừa (điều 6), cũng như cấm các chủ đất hủy bỏ những hợp đồng cũ để kư kết những hợp đồng tương tự khác (điều 14, 16). Sắc luật nầy nhắc lại việc hủy bỏ hoàn toàn tiền nông dân vay nợ trước tháng 8-1945 (điều 17), và hoăn lại những món nợ của các thành phần ưu đăi của Việt Minh (binh sĩ Việt Minh, người nghèo...) trong trường hợp những chủ nợ đang sống trong vùng do chính quyền Quốc gia kiểm soát (điều 18). Đối với những chủ nợ sống tại vùng Việt Minh, các con nợ vay sau 1945 cũng được giảm từ 18 đến 20% (điều 21). Sắc lệnh nầy quyết định tịch thu tất cả những tài sản của "đế quốc" Pháp, "Việt gian" và "địa chủ ác ôn" để phân phối lại cho những người không có đất đai nhà cửa, và ưu tiên cho những thành phần ṇng cốt của Việt Minh (điều 25 đến 30). Cuối cùng, sắc luật nầy thành lập "Ủy ban nông nghiệp" các cấp. Ở trung ương, Ủy ban nông nghiệp do thủ tướng đứng đầu, gồm bộ trưởng Canh nông, bộ trưởng Nội vụ, đại diện Mặt trận Liên Việt, và hai đại diện của Ủy ban Liên lạc Nông dân. Ở mỗi cấp hành chính, cho đến cấp xă đều có những "Ủy ban nông nghiệp" gồm những nhân vật tương tự ở mỗi cấp (điều 35, 36).

    Giai đoạn thứ tư: Vào cuối tháng 11 đầu tháng 12-1953, Việt Minh triệu tập Đại hội Đại biểu đảng Lao động, và Đại hội Trung ương đảng tại vùng chiến khu Việt Bắc. Đề tài thảo luận chính của khóa họp đảng Lao động lần này là câu khẩu hiệu "Ruộng đất cho người cày". Sau gần một tháng hội họp, kết quả thảo luận của Trung ương đảng được đưa cho quốc hội Việt Minh thông qua để có h́nh thức dân chủ, trong kỳ họp ngay sau đó. Quốc hội nầy thành lập từ năm 1946 gồm 444 người, nay chỉ có 171 đại biểu dự họp. Đảng Lao động quyết định thực hiện dần dần cuộc CCRĐ theo một kế hoạch được soạn thảo kỹ lưỡng.

    Sắc lệnh CCRĐ lần này hơi khác với đường lối cải cách của Liên Xô. Tại Liên Xô, đảng Cộng sản Liên Xô xóa bỏ hẳn sự tư hữu đất đai, và nông dân chỉ có "quyền lao động". Việt Minh theo đường lối cải cách của Trung Cộng và Bắc Triều Tiên, trên lư thuyết không xóa bỏ hẳn quyền sở hữu đất đai của nông dân mà cho phép dân cày có quyền có đất. Việc này thực sự chỉ có trên lư thuyết, chứ trong thực tế, nhà nước Cộng sản quản lư toàn bộ đất đai.

    Mở đầu, Sắc lệnh ngày 4-12-1953 nêu lên ư nghĩa và mục đích của cuộc CCRĐ lần nầy là "băi bỏ toàn diện quyền sở hữu đất đai của "Thực dân Pháp" và của tất cả những "đế quốc" khác, đồng thời thiết lập quy chế sở hữu đất đai của nông dân" (điều 1). Toàn bộ đất đai của "Thực dân Pháp", "Việt gian", "địa chủ phản động", và những "phú hộ ác ôn" đều bị tịch thu (điều 1). Đất đai của những thành phần dân chủ tiến bộ, kháng chiến và hợp tác với Việt Minh sẽ được trưng dụng. Nhà nước sẽ bồi thường hằng năm khoảng 1,5% tài sản (điều 4). Đối với những điền chủ lẩn tránh chính sách bằng cách sang, bán, chuyển nhượng đất đai sau cuộc CCRĐ lần thứ ba (20-4-1953), nhà nước xem đó là những hành động bất chính, sẽ trưng dụng đất đai và bồi thường bằng tín phiếu ngân hàng (điều 5). Cuối cùng, sắc lệnh nầy cấm đoán mọi sự phản kháng cuộc CCRĐ (điều 35), và quy định việc thiết lập ṭa án nhân dân đặc biệt để xét xử những thành phần chống lại cuộc CCRĐ của Việt Minh (điều 36).

    Giai đoạn thứ năm: Vào giữa năm 1954, nước Việt Nam bị chia hai bằng Hiệp định Genève kư kết ngày 20-7-1954, theo đó Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tức Việt Minh Cộng sản cai trị ở phía bắc vĩ tuyến 17, Quốc gia Việt Nam ở phía Nam. Nói cách khác, Cộng sản không c̣n ở rải rác trong các chiến khu khắp Bắc, Trung và Nam Việt Nam, mà tập trung tại vùng phía bắc vĩ tuyến 17 đến biên giới Trung cộng. Hồ Chí Minh và đảng Lao động muốn áp đặt một chính quyền độc tài theo chủ thuyết Mác-Lê trên lănh thổ miền Bắc. Muốn thế, họ nhắm ngay đến thành phần rộng răi chiếm đại đa số xă hội Việt Nam, đó là nông dân ở thôn quê. Nắm được nông thôn, kho lương thực của dân chúng, th́ Cộng sản sẽ nắm được thành thị không mấy khó khăn.

    T́nh h́nh ruộng đất ở Bắc Việt thay đổi lớn lao sau hiệp định Genève, v́ khoảng 1,000,000 người bỏ đất Bắc di cư vào Nam, để lại toàn bộ điền sản tại quê nhà. Sau khi tái tổ chức chính quyền, tạm ổn định t́nh h́nh, Hồ Chí Minh kư sắc luật về CCRĐ ngày 14-6-1955. Sắc luật nầy dựa căn bản trên hai sắc lệnh tháng 4 và tháng 12 năm 1953, theo đó nhà nước tịch thu toàn bộ tài sản (đất đai, nhà cửa, gia súc, nông cụ…) của những người "Thực dân", địa chủ gian ác, cường hào ác bá, "Việt gian" phản động; trưng thu không bồi thường và thu mua đất đai, nông cụ, gia súc thuộc các nhân vật "tiến bộ", các địa chủ đă tham gia kháng chiến, các địa chủ thuộc thành phần thương gia hay kỹ nghệ gia; truất hữu đất đai của các tổ chức tôn giáo như Công giáo, Phật giáo (chương 2).

    Chú ư: Tất cả các văn bản, công văn có số ở phần trên có trong cuốn: Tập hợp văn kiện văn bản của đảng trước 1975 (Nhà xuất bản văn hóa- của đảng cộng sản) và một số lưu tại thư viện quốc gia Việt Nam. Đây là các tài liệu củ đảng cộng sản, được đảng cộng sản công khai. Bạn đọc có thể kiểm chứng. Hoặc có thể truy cập vào:
    http://thuvienphapluat. vn/van-ban/Tien-te-Ngan-hang/Sac-lenh-89-SL-an-dinh-the-le-giam-tuc/36584/noi-dung.aspx
    sẽ có đầy đủ các văn bản tại phần trên (Website này là thư viện pháp luật của bộ tư pháp Việt Nam).

    3. Tiến hành:



    Từ 1949 đến 1956, Việt Minh Cộng sản mở năm đợt Cải cách Ruộng đất (CCRĐ). Sau mỗi đợt, Việt Minh tổ chức hội nghị rút ưu khuyết điểm, để rồi tiến hành tiếp đợt khác. Trong hai đợt đầu (1949 và 1950), Việt Minh thực hiện cải CCRĐ nhẹ nhàng để phục vụ nhu cầu lương thực, nuôi quân trong hoàn cảnh chiến tranh.

    Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng Cộng sản chiếm được lục địa Trung Hoa, thành lập nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa. Trung cộng thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa của Hồ Chí Minh ngày 18-1-1950. Tiếp theo, Liên Xô thừa nhận ngày 30-1-1950. Tháng 2-1950, Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh và Moscow xin viện trợ. Khi gặp Hồ Chí Minh, Stalin ra lệnh cho Hồ Chí Minh phải thực hiện ngay hai việc: thứ nhất tái công khai đảng Cộng sản và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ theo đường lối Cộng sản. Stalin chỉ đạo cho Hồ Chí Minh phải cử người sang Trung cộng học tập phương pháp CCRĐ triệt để, v́ lúc đó mối liên lạc Xô-Trung c̣n b́nh thường và v́ Việt Nam nằm sát biên giới Trung cộng. (Links : http://tennguoidepnhat.net/2012/04/0...89;c-nam-1950/). Đây là trang web của ban tuyên giáo Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.

    Sau khi về nước, Hồ Chí Minh liền triệu tập Đại hội lần 2 đảng Cộng sản Đông Dương tại chiến khu rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng Cộng sản dưới danh xưng mới là đảng Lao động ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư. Trong Đại hội nầy, Hồ Chí Minh đă phát biểu: “Về lư luận, đảng Lao động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin… lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam… Tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin”. (Trích Hồ Chí Minh toàn tập-Sách của đảng cộng sản Việt Nam). Chẳng những thế, cũng trong Đại hội này, Hồ Chí Minh c̣n nhiều lần tuyên bố: “Ai có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông th́ không thể sai được”. (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào Cộng sản quốc tế, 2001, tr. 63.)

    Để tiến hành CCRĐ, sau Đại hội 2, Việt Minh cử người sang Trung cộng tham dự khóa học tập về chủ nghĩa Mác-Lênin tổ chức tại Bắc Kinh cho các đảng Cộng sản các nước Á Châu như Indonesia, Mă Lai, Thái Lan, Pakistan, Philipin, Nhật Bản, chính là để học phương thức CCRĐ theo đường lối Trung cộng. Phái đoàn nầy trở về liền được đảng LĐ gởi tổ chức thí điểm CCRĐ, bắt đầu phát động "giảm tô, giảm tức" ở vài tỉnh Việt Bắc và ở Thanh Hóa.

    Các thành phần theo quy định của Việt Minh cộng sản Đối với các thành phần nông nghiệp, VM ra sắc lệnh vào tháng 3-1953 ấn định các thành phần xă hội ở nông thôn như sau (Bernard Fall, sđd. tr. 283):

    Địa chủ: là những người có nhiều ruộng đất mà không trực tiếp canh tác. Địa chủ được chia thành ba hạng: địa chủ thường (có khoảng dưới 5 mẫu ta, đủ ăn, không phạm tội ác ôn dưới thời Pháp thuộc), địa chủ cường hào ác bá (những người hiếp đáp, ngược đăi bần nông và bần cố nông), địa chủ phản động (quan lại phong kiến, Việt Quốc, Đại Việt, hay thân Pháp).

    Phú nông: có khoảng 3 mẫu ta đất, có một con trâu, tự đứng ra canh tác và thuê nông dân trong việc canh tác.

    Trung nông: có dưới 3 mẫu ta, trực canh, đủ sống. Trung nông chia thành 2 loại: trung nông cấp cao (có dưới 3 mẫu ta, có một con trâu hay ḅ), và trung nông cấp thấp (có dưới 1 mẫu ta ruộng).

    Bần nông: có ít sào đất, không đủ sống, phải đi làm thuê cho địa chủ hay thuê đất của địa chủ rồi trả địa tô.

    Bần cố nông: hoàn toàn không có đất, không có gia súc, không có nông cụ, làm thuê đủ thứ nghề để sống. (Lâm Thanh Liêm, bđd. sđd. tt. 187-188).



    Đường lối đấu tranh CCRĐ là: dựa vào bần cố nông, lôi kéo (tranh thủ) trung nông, cô lập phú nông, và tập trung mũi nhọn vào địa chủ. (Trích trong hồ sơ của hội đồng CCRĐ- thư viện pháp luật Việt Nam).

    Khích động khát máu - "Thà chết mười người oan c̣n hơn để sót một địch": Để khích động nông dân hưởng ứng cuộc CCRĐ, ban cải cách phải theo đúng ba giai đoạn đề ra do sắc lệnh ngày 12-4-1953 như sau:

    Thứ nhất: kích động tâm lư quần chúng chống lại các địa chủ bằng cách đưa cán bộ về thực hiện "tam cùng" hay "tam đồng" với bần nông, để "thăm nghèo hỏi khổ" và sau đó "bắt rễ, xâu chuỗi".

    Thứ hai: Sau khi len lỏi "bắt rễ xâu chuỗi", và nhờ thông tin của rễ chuỗi nầy, nắm vững t́nh h́nh các gia đ́nh trong địa bàn hoạt động, cán bộ bắt đầu đánh giá và xác định lại các thành phần xă hội đă được Ủy ban hành chánh địa phương sắp xếp theo Sắc lệnh tháng 3-1953 nêu trên. Từ đó, đội công tác mới quyết định các đối tượng sẽ bị đấu tố. Đây là cơ hội giải quyết những ân oán đă có từ trước ở trong làng, ví dụ rút địa chủ xuống hàng phú nông cho nhẹ tội, hay ngược lại đưa phú nông lên hàng địa chủ cho nặng tội.

    Thứ ba: Thiết lập ṭa án nhân dân để xét xử những kẻ có tội với nhân dân. Để việc xét xử đạt kết quả đúng yêu cầu của đảng LĐ, các bần nông được tổ chức chặt chẽ và sửa soạn kỹ càng để họ chủ động đấu tố.

    Trong năm 1953, mọi việc đă chuẩn bị đầy đủ để tiến hành CCRĐ, nhưng vào đầu năm 1954, chiến tranh đến hồi khốc liệt và sắp kết thúc, chính phủ VM bận giải quyết chiến trường, vận động ngoại giao, rồi kư kết Hiệp định Genève nên cuộc CCRĐ tạm đ́nh hoăn v́ sợ tiếng vang lan truyền khắp nơi, khiến dân chúng lo sợ bỏ di cư vào Nam. Việt Minh chỉ đ́nh hoăn chứ không băi bỏ.

    Sau Hiệp định Genève ngày 20-7-1954, đảng Lao Động cai trị phía bắc vĩ tuyến 17 (bắc sông Bến Hải, Quảng Trị). Ổn định xong t́nh h́nh, đảng Lao động mở lại cuộc CCRĐ giai đoạn 5. Lần này việc tổ chức có quy củ rơ ràng, do Ủy ban CCRĐ đứng đầu.

    Ủy ban cải cách: gồm hai cấp trung ương và địa phương.

    Cấp trung ương: do tổng bí thư đảng Lao động là Trường Chinh - Đặng Xuân Khu làm chủ tịch, có ba người phụ tá là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương (đều là ủy viên Bộ chính trị) và Hồ Viết Thắng (ủy viên Trung ương đảng). Hồ Viết Thắng giữ chức giám đốc, trực tiếp điều hành cuộc Cải cách theo mệnh lệnh của Trường Chinh. Hồ Viết Thắng đă từng đi học ở Trung cộng, được Trường Chinh giao nhiệm vụ mở "Trung tâm đào tạo cán bộ Cải cách Ruộng đất" tại chiến khu Cao Bắc Lạng.

    Cấp tỉnh: Hồ Viết Thắng bổ nhiệm những người đă được đào tạo về các tỉnh tổ chức các đoàn CCRĐ. Trung b́nh mỗi tỉnh có 10 đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100 cán bộ do một đoàn trưởng đứng đầu, quyền hạn tương đương với một bí thư đảng cấp tỉnh, nhận lệnh trực tiếp từ Ban cải cách trung ương, không qua trung gian hệ thống đảng hay chính quyền địa phương. Mỗi đoàn gồm nhiều đội, mỗi đội có khoảng 6 hay 7 cán bộ. Đội trưởng được chọn trong số bần nông hay bần cố nông, nhất là những người đă từng có kinh nghiệm tham gia các CCRĐ trước đây. Các đội có quyền hạn tuyệt đối, nhận lệnh thẳng từ Ủy ban CCRĐ, đúng như câu tục ngữ lúc đó "nhất đội nh́ trời", được quân đội bảo vệ để thi hành công tác, và được nhà cầm quyền địa phương cung cấp đầy đủ tài liệu theo chính sách của đảng và nhà nước. (Lâm Thanh Liêm, sđd., bđd. tt. 184-185).

    Nguyên tắc hành động căn bản của các Ủy ban CCRĐ là câu khẩu hiệu: "Thà chết mười người oan c̣n hơn để sót một địch" (Trích trong hồ sơ của hội đồng CCRĐ- thư viện pháp luật Việt Nam). Chính câu khẩu hiệu nầy đă đưa đến việc giết hại tràn lan biết bao nhiêu lương dân vô tội.

    Câu khẩu hiệu này xuất hiện trong bài diễn văn của luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Theo bài diễn văn luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30 tháng Mười 1956, cuộc cải cách ruộng đất được thực hiện với phương châm "thà chết 10 người oan c̣n hơn để sót một địch". Phương châm này đi ngược lại với quy tắc cơ bản của pháp luật, trong trường hợp này là "thà 10 địch sót c̣n hơn một người bị kết án oan". Cụ thể các quy tắc pháp lư đă bị xâm phạm là:

    Không xử phạt các tội đă phạm quá lâu đến hiện tại mới điều tra ra. Trách nhiệm của phạm nhân th́ chỉ một ḿnh phạm nhân chịu, không quy kết cho vợ con, gia đ́nh. Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng. Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị can. Bị can có quyền nhờ luật sư bào chữa. Phải tôn trọng bị can trong quá tŕnh truy tố và xét xử; khi bị can ra trước ṭa không được xiềng xích và không được dùng nhục h́nh.

    Đoàn và đội công tác phóng tay phát động quần chúng đấu tranh CCRĐ hoạt động theo kiểu khủng bố: Bí mật đến một địa phương nào đó, bí mật hành động... và gieo rắc tai ương khủng khiếp cho địa phương. Không những chỉ địa chủ, phú nông sợ hăi mà toàn thể dân chúng và cả các cấp chính quyền cũng như quân đội địa phương đều sợ hăi, v́ bất cứ ai cũng có thể bị dính tên vào sổ đấu tố mà không ai có thể đoán lường trước hậu quả.

    Ṭa án nhân dân: Sắc lệnh năm 1953 cũng như Sắc lệnh năm 1955 đều thiết lập ṭa án nhân dân để xét xử những tội phạm trong CCRĐ. Ṭa án nầy được tổ chức ở những vùng có cải cách, chánh án là một đội viên trong đội cải cách, biện lư (công tố) là một nông dân hay bần nông đă từng làm việc (gia nhân, tá điền…) trong nhà của bị cáo, biết rơ lư lịch khổ chủ. Các quan ṭa nầy chỉ là những kẻ dốt nát, lâu nay thấp kém, bỗng chốc được cất nhắc lên địa vị quan trọng, nên hạch sách trả thù, moi ra hay bịa đặt mọi thứ gọi là thói hư tật xấu của khổ chủ, đặc biệt là tội dâm ô, để đấu tố. Đặc biệt trong ṭa án nhân dân không có người đóng vai tṛ luật sư biện hộ, và cũng chẳng ai dám biện hộ cho bị cáo cả. Quân đội bảo vệ ṭa án và những người tham dự đều là những người do Cộng sản sắp đặt trước, ḥ hét khuyến khích người đóng vai "công tố", bằng cách chửi rủa hoặc tố cáo thêm những “tội ác”.

    4- Hậu quả của cải cách ruộng đất:

    Cộng sản độc quyền đất đai: Theo nguồn tin từ phía Liên Xô, cuộc Cải cách Ruộng đất đă tịch thu 702,000 mẫu tây ruộng đất, 1,846,000 nông cụ, 107,000 trâu ḅ, 22,000 tấn thực phẩm. Tất cả những thứ đó đă được chia lại cho 1,500,000 gia đ́nh nông dân và bần nông. Như thế mỗi gia đ́nh nhận được 0,46 mẫu tây, một nông cụ, và những gia đ́nh 13 người mới nhận được một con trâu hay ḅ. Theo tác giả Bernard Fall, một gia đ́nh nông dân bốn người cần có ít nhất 1,5 mẫu tây để bảo đảm đời sống, đó là chưa kể đến thuế nông nghiệp phải đóng hằng năm. (Bernard Fall, sđd. tt. 271, 282).

    Hoặc tài liệu của đảng cộng sản trích trong cuốn: (Những điều cần nh́n lại sau CCRĐ- NXB Văn hóa- của ĐCSVN): Cải cách Ruộng đất đă tịch thu của bọn địa chủ và cường hào 760,000 mẫu ruộng đất canh tác, 112,000 con trâu ḅ và gia súc, 26,000 tấn thực phẩm, lương thực….

    Sự phân chia đất đai theo đơn vị gia đ́nh, dựa trên số thành viên thực sự lao động và không dựa trên giới tính.

    Tuy chia đất cho nông dân, nhưng sau cuộc CCRĐ, Cộng sản tổ chức những hợp tác xă nông nghiệp, và ép nông dân phải gia nhập hợp tác xă nông nghiệp. Quá khiếp sợ trước cảnh tra tấn trong CCRĐ, không một nông dân nào dám phản đối. Thế là tất cả nông dân phía bắc vĩ tuyến 17 đều phải gia nhập hợp tác xă nông nghiệp. Khi vào hợp tác xă, ruộng đất riêng tư của nông dân đều phải nạp cho hợp tác xă, và trở thành ruộng đất tập thể của hợp tác xă. Thế là chẳng những số đất đă được chia, mà cả đất đai do cha ông để lại, cũng đều bị lọt vào tay hợp tác xă, tức vào tay nhà cầm quyền Cộng sản. Toàn thể nông dân nay trở thành vô sản, và nhà cầm quyền Cộng sản trở thành chủ nhân ông độc quyền của tất cả ruộng đồng nông thôn. Thật là một tiến tŕnh cướp đất rất hoàn hảo, mà không một nông dân nào dám lên tiếng tố cáo.

    Số lượng người bị giết: Những địa chủ “Việt gian” hay địa chủ “cường hào ác bá” đều bị tử h́nh. Trong trường hợp họ đă qua đời trước đó lâu ngày, vợ con họ bị đem ra xét xử và kết quả không khác. Những địa chủ Việt Nam Quốc Dân đảng (Việt Quốc) hay Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách), dầu đă theo Việt Minh tham gia kháng chiến cũng bị tử h́nh. Những địa chủ các đảng bù nh́n của chế độ Hà Nội như đảng Dân chủ, đảng Xă hội cũng chịu y số phận.

    Khi bị tử h́nh, bản án tử h́nh được thi hành ngay tại chỗ bằng nhiều cách: bị bắn, bị trấn nước chết, bị phơi nắng (không được ăn uống), hoặc bị đánh đập cho đến chết. Nhiều khi nạn nhân qua đời, thân nhân không được cho phép chôn cất, xác bị để phơi nắng mưa. Gia đ́nh quá đau ḷng, phải hối lộ các chức việc, rồi ban đêm đến ăn cắp xác đem đi chôn.

    Dựa vào tài liệu các nước ngoài, giáo sư Lâm Thanh Liêm, cho rằng số người bị giết trong cuộc CCRĐ năm 1955-1956 ở Bắc Việt có thể lên đến từ 120,000 đến 200,000 người. (Lâm Thanh Liêm, bđd., sđd. tt. 203-204).

    Theo sách Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000 tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 (tài liệu mới của nhà nước cộng sản Việt Nam) cho biết cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956) được thực hiện ở 3,563 xă, có khoảng 10 triệu dân, và tổng số người bị sát hại trong CCRĐ đợt nầy lên đến 172,008 người, trong đó có 123,266 người (71,66%) sau này được xác nhận đă bị giết oan

    Nền nông nghiệp bị suy sụp: Thông thường, nhà cầm quyền tổ chức CCRĐ nhắm giải quyết những sai lầm của nền nông nghiệp cũ, giúp nông gia tăng gia sản lượng nông nghiệp, thăng tiến đời sống dân chúng. Nhưng cuộc CCRĐ của Cộng sản chấm dứt năm 1956 lại đi đến kết quả ngược lại: đời sống nông dân tụt hậu, sản lượng giảm xuống rơ rệt. Lư do v́ trong các giai đoạn đầu của cuộc Cải cách, đất đai bị chia thành nhiều mảnh nhỏ. Nông dân mới nhận đất chưa có kinh nghiệm tổ chức sản xuất, thiếu tài chánh để mua trâu ḅ dụng cụ, phân bón để cày cấy. Sau đó, vào cuối giai đoạn 5, việc suy sụp kéo dài nhiều năm v́ nhà nước Cộng sản đưa ra kế hoạch hợp tác lao động, tổ chức hợp tác xă nông nghiệp và những nông trường quốc doanh tập thể từ khoảng năm 1957, 1958. (Bernard Fall, sđd. tt. 284-287).

    Đảo lộn luân lư xă hội, tiêu diệt t́nh người: Chiến dịch CCRĐ của Cộng sản đă khủng bố tinh thần dân chúng, làm cho mọi người sợ hăi khép ḿnh vào kỷ luật cai trị Cộng sản, và nhất là đánh tan nề nếp xă hội cũ, làm sụp đổ nền tảng luân lư cổ truyền của dân tộc, tiêu diệt tận gốc rễ t́nh cảm giữa người với người. Trong khi quyết tâm thực hiện phương châm “trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận ngọn” (nghĩa là tiêu diệt từ trên xuống dưới bốn thành phần trí thức, phú thương, địa chủ, cường hào), Cộng sản đă khuyến khích, ép buộc, đe dọa mọi người tố cáo, đấu tố lẫn nhau, dù đó là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Do đó, chẳng những đă xảy ra cảnh đấu tố giữa người với người ngoài xă hội, mà trong gia đ́nh cũng xảy ra cảnh đấu tố với nhau giữa cha mẹ, con cái, vợ chồng, và anh chị em.

    Dư luận lúc đó ở Hà Nội c̣n cho rằng, một nhà lănh đạo khác của đảng Lao động, tổng bí thư Trường Chinh Đặng Xuân Khu, đă đấu tố cả cha mẹ của ông ta. V́ vậy, ở Hà Nội lưu truyền một câu đối hết sức bất hủ: “Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ Mác-Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Đặng/ Hăm hại sĩ nông, đảo điên văn hóa, tội kia sách chép đứa tên Khu.”

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?
    Những sự thật không thể chối bỏ - Nỗi đau Cải Cách
    (phần 2)




    B. Kẻ chủ mưu thực sự là ai?



    Trên thực tế cuộc cải cách ruộng đất đă thất bại và là một tội ác của cộng sản. Tuy nhiên từ trước tới nay chúng ta thường biết đến Trường Chinh và các thuộc cấp của ông ta là thủ phạm. V́ lúc đó ông Trường Chinh đang là Tổng bí thư đảng Lao động. Nhưng những dẫn chứng sau đây sẽ làm sáng tỏ ai là kẻ chủ mưu thực sự.

    1. Người viết ra cương lĩnh hành động làm tiền đề cho CCRĐ:

    Ông Hồ Chí Minh đă hiểu rất rơ nguyện vọng "người cày có ruộng" của nông dân Việt Nam. Khi c̣n ở Pháp ông có viết một số bài lên án việc chiếm hữu đất đai của thực dân Pháp và của nhà thờ Công giáo. Trong thời gian hoạt động tại Trung Hoa, ông ta tiếp nhận và để tâm nghiên cứu cách mạng thổ địa tại đây. Nó vừa là một phương tiện đấu tranh giai cấp, vừa để xây dựng chuyên chế vô sản. Trong một lá thư gởi các lănh đạo Quốc tế Nông dân đề ngày 08/02/1928, ông viết: "Tôi tranh thủ thời gian viết 'những kư ức của tôi' về phong trào nông dân, chủ yếu là phong trào Hải Lục Phong, nơi có các xô-viết nông dân. Người 'anh hùng' trong 'những kư ức của tôi' chính là đồng chí Bành Bái, cựu Dân ủy nông nghiệp của Xô-viết Quảng Châu và hiện là lănh tụ của nông dân cách mạng". (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 265). Năm 1953 tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, ông lại nhắc đến : "... đồng chí Bành Bái ở Trung quốc, gia đ́nh đồng chí là đại địa chủ, đại phong kiến, nhưng đồng chí ấy đă tổ chức và lănh đạo nông dân đấu tranh rất quyết liệt chống địa chủ phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 357).

    Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam) được thành lập. Cương lĩnh của đảng này là lấy việc chống đế quốc, chống phong kiến và địa chủ, giành ruộng đất về cho nông dân làm sách lược hàng đầu. Sách lược thứ hai của Đảng cộng sản ghi rơ: "Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lănh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 297). Chương tŕnh hành động th́ hướng đến việc: "Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 299). Chúng ta nên nhớ Các văn kiện thành lập ĐCS Đông Dương đều do Hồ Chí Minh, đại diện Quốc tế Cộng sản, soạn ra.

    Ít tháng sau, ĐCS đă lănh đạo nông dân nổi dậy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Khẩu hiệu "trí - phú - địa - hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" được dùng làm tiêu đề cho cuộc đấu tranh mới - đấu tranh triệt tiêu giai cấp địa chủ và phong kiến.

    Kết luận: Ông Hồ Chí Minh là người chỉ ra đường lối của CCRĐ đẫm máu. Ông ta là người phát biểu và người viết các cương lĩnh hoạt động cho đảng cộng sản. Vậy tội của ông ta có thể xem là chủ mưu. Tuy nhiên để rơ ràng hơn xin bạn đọc chú ư các ư sau đây.

    2. Những hành động cụ thể:

    Ngày 25/01/1953, tại Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động, Hồ Chí Minh chủ tọa, đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đấu tranh chống giai cấp địa chủ phong kiến, tiến đến CCRĐ.

    Ngày 12/04/1953 Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 150 /SL về Cải Cách Ruộng Đất, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ phản động chia lại cho nông dân nghèo.

    Ngày 14/11/1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị toàn quốc của Đảng Lao động đă quyết định tiến hành CCRĐ.

    Trong báo cáo trước Quốc hội khóa I kỳ họp lần thứ ba, ông Hồ đă phát biểu "Phương châm của Cải Cách Ruộng Đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Hành động kêu gọi “ phóng tay” chính là sự cổ vũ giết người của Hồ Chí Minh.

    Cũng trong báo cáo trước Quốc hội này, Hồ Chí Minh đă ra chỉ tiêu: "Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số, mà chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất ..". (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Chính chỉ tiêu này đă giết hại không biết bao con người vô tội.

    Vụ Việc bà Nguyễn Thị Năm:



    Trong thời gian tiến hành giảm tô tiến đến CCRĐ, sáu xă tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đă được chọn làm thí điểm. Người đầu tiên bị mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà c̣n được gọi là bà Cát Hanh Long. Bà là người đă che giấu và nuôi dưỡng các lănh đạo cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản... trong thời gian Đảng cộng sản c̣n hoạt động bí mật. Hai con trai bà, ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm chính ủy trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin.

    Trong Hồi kư “Làm người rất khó, làm người xă hội chủ nghĩa khó hơn”, nguyên Phó thủ tướng CHXHCN Việt Nam, ông Đoàn Duy Thành cho biết việc bà Năm bị bắn đă làm xôn xao dư luận. Ông cho rằng việc làm này có 3 điều làm sai chính sách là:

    (1) Địa chủ kháng chiến được chiếu cố;
    (2) Địa chủ kiêm công thương được chiếu cố;
    (3) Địa chủ hiến ruộng được chiếu cố. Và một điều sai đạo lư là "... bắn một địa chủ là nữ, không phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo lư thông thường của người Việt Nam".

    Ông viết tiếp: "Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: 'Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đă can thiệp và nói đại ư: ‘ Chẳng lẽ CCRĐ không t́m được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đă phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đă hỏi cố vấn Trường Chinh và được trả lời là: 'Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!'. Và thế là cái chết đă đến với bà Năm.

    Trong hồi kư “Những kỷ niệm về Bác Hồ”, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, ông Hoàng Tùng cho biết: "Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trường Chinh. Họp Bộ Chính trị Bác nói: 'Tôi đồng ư người có tội th́ phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa.' Sau cố vấn Trường Trinh là Lê Quư Ba đề nghị măi, Bác nói: 'Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải.' Và họ cứ thế làm".

    Trước hết ông Hồ Chí Minh có lỗi lớn. Thà rằng không biết ǵ về chuyện này, và dù không biết, là chủ tịch nước, chủ tịch Đảng ông cũng phải chịu phần trách nhiệm. Huống hồ ông đă biết rơ cụ thể, ông nhận định là bà Năm bị xử trí oan, thế mà ông giữ im lặng, ông không can thiệp. Đây là thái độ vô trách nhiệm.

    Bài thơ “Địa chủ ác ghê”:

    Trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của tác giả C. B. do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955, trang 27 và 28, có bài "Địa chủ ác ghê". Bài viết này đă được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 và phổ biến lại trong tập liệu này. Đúng như nhà báo Thành Tín(ông Bùi Tín) cho biết, "các phóng viên báo chí các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đă viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi". Nhân tiện người viết xin được đăng toàn bài để bạn đọc có thể cùng suy ngẫm.

    Địa chủ ác ghê

    Thánh hiền dạy rằng: "Vi phú bất nhân". Ai cũng biết rằng địa chủ th́ ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lăi nặng, chây lười thuế khóa - thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:

    Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đă:
    - Giết chết 14 nông dân.

    - Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay c̣n tàn tật.

    - Làm chết 32 gia đ́nh gồm có 200 người - năm 1944, chúng đưa 37 gia đ́nh về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, v́ cực khổ quá, 32 gia đ́nh đă chết hết, không c̣n một người.

    - Chúng đă hăm chết hơn 30 nông dân - Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái B́nh về làm đồn điền. Cũng v́ chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đă chết ở xóm Chùa Hang.

    - Năm 1944-1945, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đă bỏ mạng.

    Như chúng ta đă biết Báo Nhân Dân là cơ quan tuyên truyền của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, bài báo phải được duyệt xét kỹ của Trung ương Đảng trước khi cho phổ biến. Khi đọc bài báo này, người viết cảm nhận một điều là bố cục, h́nh thức và văn phong của bài viết rất tương tự với bản "Tuyên ngôn Độc lập" do Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đ́nh ngày 02/09/1945, phần lên án thực dân Pháp.

    Tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất ghi rơ tên tác giả các bài viết trong đó là C. B. - đây là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh. Chỉ riêng trong tập 6 (từ 01/1951 đến 07/1954) của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập do nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội in năm 1989, người viết đă đếm được tất cả 15 bài viết của Hồ Chí Minh kư tên là C. B.

    Mặc dù bài viết này không được nhắc đến trong bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập. Tuy nhiên trong Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử tập 5 trang 418 (Sách của nhà xuất bản Sự thật- ĐCS VN) ghi rơ: "Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Địa chủ phản động ác ghê, kư bút danh Đ. X. đăng trên báo Cứu Quốc, số 2459 (ngày 02/11/1953), tố cáo tội ác của một số địa chủ phản động đă cấu kết với thực dân và bù nh́n để phản dân, phản nước, mưu phá hoại chính sách ruộng đất của Chính phủ. Chúng là bọn ‘mặt người dạ thú’ và tội ác của chúng là ‘tuyệt vô nhân đạo’". Như vậy Có thể kết luân bài viết của ông Hồ trên báo Nhân Dân đă được đăng lại trên báo Cứu Quốc.

    Ông Hồ Chí Minh gọi cuộc tắm máu nhân dân là “Chiến thắng”:

    Trong hội nghị “Tổng kết thành tích Cải cách nông nghiệp đợt 5”, Hồ Chí Minh đă gởi văn thư đề ngày 1-7-1956 cho đoàn cán bộ CCRĐ, trong đó có đoạn viết: “Bác thay mặt Đảng và chính phủ gởi lời an ủi gia đ́nh những cán bộ đă hy sinh v́ nhiệm vụ, đợt 5 Cải cách Ruộng đất rất gay go, phức tạp. Song nhờ chính sách đúng đắn của Đảng và chính phủ, nhờ nông dân hăng hái đấu tranh nên chính sách Cải cách Ruộng đất đă thu được thắng lợi to lớn… Giai cấp địa chủ đă bị đánh đổ, các tổ chức ở xă đă được trong sạch hơn v. v… và bản thân cán bộ được thử thách, rèn luyện…"

    Trong một lá thư, đề ngày 18/08/1956, gởi đến "đồng bào nông thôn" nhân dịp CCRĐ căn bản đă hoàn thành, Hồ Chí Minh xác định CCRĐ là "một thắng lợi vô cùng to lớn" và "có thắng lợi này là nhờ Đảng và Chính phủ ta có chính sách đúng đắn". Ông viết tiếp: "Cải Cách Ruộng Đất là một cuộc đấu tranh giai cấp chống phong kiến, một cuộc cách mạng long trời lở đất, quyết liệt gay go. Lại v́ kẻ địch phá hoại điên cuồng; v́ một số cán bộ ta chưa nắm vững chính sách, chưa thực đi đúng đường lối quần chúng; v́ sự lănh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ có chỗ thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc, cho nên khi CCRĐ đă xảy ra những khuyết điểm sai lầm" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 507). Riêng việc "kẻ địch phá hoại điên cuồng" đă được ông giải thích như sau: "Như con giun không biết nhảy, khi ta giẫm lên nó, nó cũng giăy trước khi chết. Giai cấp địa chủ cũng thế". (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 358).

    Vài năm sau, nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập ĐCSVN, 06/01/1960, Hồ Chí Minh lại gắn liền cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc CCRĐ, ông tuyên bố: "Buổi đầu kháng chiến, Đảng vẫn tiếp tục thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức. Nhưng đến lúc kháng chiến đă phát triển mạnh, cần phải bồi dưỡng hơn nữa lực lượng nhân dân, chủ yếu là nông dân th́ Đảng đă cương quyết phát động quần chúng Cải Cách Ruộng Đất hoàn thành thực hiện người cày có ruộng. Nhờ chính sách đúng đắn này, lực lượng kháng chiến ngày càng mạnh thêm và đă liên tục thu được nhiều thắng lợi" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, trang 596).



    Kết luận: Trong quá tŕnh thực hiện thể hiện bằng bài thơ, vụ án bà Năm hay các tuyên bố về CCRĐ coi là “thắng lợi” sau này, bài thơ “Địa chủ ác ghê” đă chứng tỏ ông Hồ Chí Minh coi CCRĐ là một chuyện b́nh thường chứ không ân hận về sai lầm như báo chí cộng sản. Bản chất của CCRĐ là màn kịch đẫm máu ông Hồ học ở Trung cộng về và những giọt nước mắt ông ta khóc sau này chỉ là “nước mắt cá sấu”.

    3. Điểm vô lư:

    Về mặt hành chính, ngày 2-11-1956, báo Nhân Dân đăng thông báo của Hội đồng Chính phủ, theo đó:

    - Ủy ban CCRĐ không có quyền chỉ đạo nữa, mọi việc sẽ thuộc chính phủ trung ương.

    - Hủy bỏ Ṭa án Nhân dân đặc biệt (tức ṭa án chuyên đấu tố).

    - Hồ Viết Thắng thôi chức Phó chủ nhiệm và Ủy viên thường trực Ủy ban CCRĐ Trung ương, cũng như Thứ trưởng Nông lâm.

    - Lê Văn Lương thôi chức Thứ trưởng bộ Nội vụ và Chủ nhiệm pḥng Nội chính Chính phủ. (Chính Đạo, I-C, sđd. tr. 106.)

    Tuy thế, chẳng bao lâu sau, Trường Chinh được cử làm Phó thủ tướng (29-4-1958), rồi Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội (7-7-1960). Hoàng Quốc Việt lẫn Lê Văn Lương về sau vẫn tiếp tục giữ những chức vụ quan trọng trong guồng máy cầm quyền Hà Nội, c̣n Hồ Viết Thắng sau đổi tên là Hồ Thắng, làm thứ trưởng bộ Nông nghiệp.

    Những điều đó chứng tỏ các người này chỉ là những kẻ thừa hành chủ trương chính sách của đảng Lao động lúc đó. Khi chủ trương đó bị dân phản đối, họ bị làm vật hy sinh để chống đỡ và cứu nguy cho đảng, tạm thời bị huyền chức một thời gian, rồi được trọng dụng trở lại. Nếu các kẻ này mà tự ư làm sai trái chủ trương của đảng Lao động, nếu không bị thủ tiêu hoặc tù tội, th́ cũng bị loại luôn, mà không bao giờ trở lại được chính trường, như trường hợp Dương Bạch Mai... trong vụ án mà cộng sản gọi là “Vụ án Tổ chức chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm t́nh báo cho nước ngoài”.

    Kết luận: Ông Hồ Chí Minh đă dùng những “kẻ thế thân” để trốn tránh tội ác của ḿnh. Thực ra ông ta là kẻ chủ mưu và chạy tội khi bị nhân dân lên án.


    Nhận xét chung:



    Cải cách ruộng đất là một cuộc hành quyết đẫm máu nhân dân vô tội. Nó không những ảnh hưởng đến đời sống nhân dân mà c̣n ảnh hường lâu dài đến kinh tế cũng như nền tảng đạo đức.

    Sự thực tôi đă chứng minh ở 3 luận điểm: Ông Hồ là người vạch ra cương lĩnh của đảng, của CCRĐ. Sự việc cụ thể khi ông xử án bà Năm, bài báo “Địa chủ ác ghê” và những tuyên bố sau CCRĐ, sự vô lư trong việc “xử lư” những người được cho là có tội trong CCRĐ chứng tỏ một điều: Nếu thực sự ông ta “ân hận” như đă nói th́ chắc chắn ông ta không tuyên bố “CCRĐ là thắng lợi” và những vị như Trường Chinh… không bao giờ có thể ngóc đầu dậy sau biến cố đó được.

    Khẳng định: CCRĐ là do ông Hồ chủ trương và điều hành. Ông là thủ phạm đứng đầu trong một chiến dịch bắt chước toàn bộ theo mô h́nh lẫn cố vấn tại chỗ của đảng cộng sản Trung Quốc, dẫn đến cái chết của gần 200,000 người dân vô tội và phá hủy toàn bộ những giá trị đạo đức, quan hệ giữ người và người mà hệ quả đă kéo dài cho măi đến ngày hôm nay.

    Chỉnh sửa và hoàn thiện: 18/06/2012


    Đặng Chí Hùng
    danlambaovn.blogspot .com

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?
    Những sự thật không thể chối bỏ (phần 6) - Dù đau đớn nhưng vẫn là sự thật!




    Không có ǵ buồn hơn khi phải khơi lại kư ức buồn. Đó là tâm trạng chung của tất cả chúng ta. Tuy nhiên, lịch sử là sự thật, cần phải tôn trọng nó. Và chúng ta phải chấp nhận cho trái tim rỉ máu khi viết về nó. Tôi muốn những nỗi đau này được khơi lại sự thật nhằm mục đích không c̣n những nỗi đau tương tự trong tương lai, là nén hương ḷng cho những oan hồn trong CCRĐ. Chấp nhận điều này chính là muốn “Đau một lần rồi thôi”. Chúng ta hăy biến nỗi đau này thành sức mạnh để đứng lên lật đổ kẻ thủ ác, như vậy nỗi đau này chỉ có một lần...!

    Tiếp theo bài trước (phần 5). Tôi xin tŕnh bày ở bài này những cay đắng mà dân tộc ta đă bị đảng cộng sản bưng bít bấy nhiêu lâu. Sở dĩ tôi gửi Danlambao 2 bài này liền nhau v́ tôi muốn bạn đọc có thể theo dơi tường tận tội ác của đảng cộng sản và ông Hồ Chí Minh gây ra cho dân tộc. Rất mong những đóng góp này đến tay những người dân c̣n tin vào những tuyên truyền bóp méo lịch sử, như là một đóng góp vào con đường dẫn đến xă hội dân chủ thực sự.

    A. Sưu cao thuế nặng và ruộng đất vào tay ai?

    Như trong phần 5 tôi đă nói sơ qua. Thực tế đảng cộng sản với cái tên trá h́nh ban đầu (Đảng Lao động) và cái tên thực sự là đảng cộng sản sau này chỉ là một thủ đoạn đánh lừa nhân dân ta. Khẩu hiệu họ trưng ra "Người cày có ruộng" khác hẳn với thực tế. Đơn giản nó chỉ là khẩu hiệu mà thôi. V́ sao nói vậy? Để có thể đánh giá chính xác lời tuyên bố đó chúng ta cần nh́n nhận dưới một số khía cạnh sau đây.

    1. Vấn đề lư thuyết và chuẩn bị:

    Về mặt chủ trương, Hồ Chí Minh đến Moscow (đầu năm 1951) nhận lệnh của Stalin và Mao Trạch Đông về làm CCRĐ. Trong hai năm chuẩn bị (1952-1953), Đảng cộng sản thực tế chỉ copy y nguyên h́nh thức đă làm tại Trung cộng, rồi luật hóa các chính sách đó để cưỡng bức người dân phải theo pháp luật mà họ đă áp đặt. Điều này chúng ta thấy rất rơ ràng việc họ ra liên tiếp hơn 10 sắc lệnh trong khoảng một thời gian ngắn khoảng 2 năm. Chúng ta nên nh́n nhận một vấn đề to lớn như CCRĐ cần phải có thí điểm, rút kinh nghiệm, bổ sung, điều chỉnh chứ sao lại có thể ra những quyết định ồ ạt mà không cần biết đến hậu quả của nó? Đơn giản v́ đảng cộng sản Việt Nam can tâm làm chư hầu cho Trung cộng, họ coi việc CCRĐ như một cuộc dạo chơi chính sách, thử nghiệm cướp đất của nhân dân. Vậy th́ làm ǵ có chuyện dân cày có đất. Đó chỉ là khẩu hiệu suông.

    Trong thời gian hai năm chuẩn bị, đảng cộng sản không hề để thời gian điều tra nghiên cứu xem thực tế t́nh h́nh ruộng đất, nhà cửa, phân bố dân cư và tŕnh độ lao động. Họ chỉ chực chờ ra quyết định để áp đặt những điều vô nghĩa.

    Điều đó cho thấy những người lănh đạo đảng cộng sản không hề nghĩ đến việc làm sao cho “người cày có ruộng” thật sự, “có ruộng” lâu dài để nền kinh tế được phát triển, để thật sự cải thiện đời sống người dân. Đơn giản, họ chỉ nghĩ rằng bây giờ đă nắm được chính quyền rồi, đă có “chuyên chính vô sản”, và đảng cộng sản muốn làm sao cũng được, người dân phải cúi đầu chịu. Chính v́ vậy phải làm một “cuộc cách mạng long trời lở đất”, để “tiêu diệt giai cấp địa chủ”, để cho mọi tầng lớp dân chúng phải khiếp đảm, tạo điều kiện thuận lợi nhằm thực hiện nhiệm vụ chính của chuyên chính vô sản như Lenin đă dạy cho họ là "xây dựng chủ nghĩa xă hội, bước đầu của chủ nghĩa cộng sản". Chính v́ thế, cái đích của Đảng cộng sản không phải là để “người cày có ruộng” mà chính là để thực hiện nhiệm vụ của chuyên chính vô sản.

    Điều này càng cho thấy đảng cộng sản là những kẻ cướp thực sự, họ muốn cướp của nhân dân ngay từ trong suy nghĩ của ḿnh. Họ chỉ nghĩ cho bản thân chủ nghĩa cộng sản, không hề có một chút t́nh thương giành cho dân tộc. Đó là một tội ác.

    2. Vấn đề thực tế trong và sau CCRĐ:

    Vấn đề thuế nông nghiệp:

    Thuế nông nghiệp tính trung b́nh 17 kg lúa trên một đầu người trong gia đ́nh (số liệu có tại cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam – xuất bản tại Hà Nội 2004). Thuế đóng bằng lúa phơi khô, quạt sạch rồi gánh đến nạp kho cơ quan thu thuế. Một điều làm cho nông dân khổ sở nữa là cách cân của các cán bộ cộng sản luôn luôn vượt quá mức quy định. Thuế này tính theo phương thức lũy tiến hằng năm, nên năm sau cao hơn năm trước. Thuế nông nghiệp có thể đóng bằng tiền, và giá lúa quy định cao hơn giá thị trường (nội dung có ghi trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam-xuất bản tại Hà Nội 2004). Nhiều nông dân không chịu nổi thuế nông nghiệp, đem trả lại đất được phân phối nhưng không ai dám nhận. Nông dân phải tiếp tục giữ đất để canh tác. Thiếu hỗ trợ về vốn, lúa giống, dụng cụ canh tác, trâu ḅ..., mức sản xuất xuống thấp hơn so với trước kia.

    Như vậy có thể thấy chính sách thuế của cộng sản đặt ra với nông dân không khác ǵ sưu cao thuế nặng thời Pháp thuộc. Vậy có thể thấy Đảng cộng sản thực chất chỉ là một dạng thực dân bóc lột kiểu mới mà thôi.

    Vấn đề sở hữu ruộng đất:

    Như đă đề cập ở phần 5, thực tế đất đai sau khi cải cách lại rơi vào tay nhà nước cộng sản. Chính quyền cộng sản tổ chức những hợp tác xă nông nghiệp, và ép nông dân phải gia nhập hợp tác xă nông nghiệp. Quá khiếp sợ trước cảnh tra tấn trong CCRĐ, không một nông dân nào dám phản đối. Thế là tất cả nông dân phía bắc vĩ tuyến 17 đều phải gia nhập hợp tác xă nông nghiệp. Khi vào hợp tác xă, ruộng đất riêng tư của nông dân đều phải nộp cho hợp tác xă, và trở thành ruộng đất tập thể của hợp tác xă. Chẳng những số đất đă được chia, mà cả đất đai do cha ông để lại, cũng đều bị lọt vào tay hợp tác xă, tức vào tay nhà cầm quyền cộng sản. Toàn thể nông dân nay trở thành vô sản, và nhà cầm quyền cộng sản trở thành chủ nhân ông độc quyền của tất cả ruộng đồng nông thôn. Thật là một tiến tŕnh cướp đất rất hoàn hảo, mà không một nông dân nào dám lên tiếng tố cáo.

    Và như đă nói tài liệu của đảng cộng sản trích trong cuốn: (Những điều cần nh́n lại sau CCRĐ- NXB Văn hóa- của ĐCSVN): Cải cách Ruộng đất đă tịch thu của bọn địa chủ và cường hào 760,000 mẫu ruộng đất canh tác, 112,000 con trâu ḅ và gia súc, 26,000 tấn thực phẩm, lương thực….

    Như vậy trong thực tế nông dân đă bị đảng cộng sản lừa bịp một cách khéo léo. Đảng cộng sản đă khích động họ bằng “người cày có ruộng “ rồi sau khi CCRĐ đă lại “sửa sai” bằng cách thu lại ruộng đất của chính những người nông dân này thông qua cái gọi là Hợp tác xă nông nghiệp.

    Trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam – xuất bản tại Hà Nội 2004 có đoạn: Năm 1959 có 55% hộ nông nghiệp vào hợp tác xă. Đến năm 1960 đă có 2.404.800 (85,83% hộ nông dân) làm việc trong 40.200 hợp tác xă cấp xóm, cấp thôn.

    Bước sang năm 1961, các hợp tác xă trên nhanh chóng sáp nhập lại để thành hợp tác xă quy mô cấp xă. Cuối năm 1960 đầu 1961, ở các thành phố, thị xă, thị trấn đă có 263.600 hộ thủ công (81%) vào hợp tác xă thủ công, 102.000 hộ tiểu thương (45,1%) vào hợp tác xă mua bán. (Trích trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam – xuất bản tại Hà Nội 2004)

    Thu nhập b́nh quân đầu người ở các hộ xă viên hợp tác xă nông nghiệp có sự bất b́nh thường về cơ cấu. Trong tổng thu nhập của họ th́ khoản thu nhập trong hợp tác xă nhỏ hơn thu nhập ngoài hợp tác xă, trong khi 95% ruộng đất và toàn bộ công cụ sản xuất (trâu, ḅ, cày, bừa…) đều nhập vào tập thể. Phần 5% ruộng đất chia về các hộ chỉ nhằm tạo thêm thu nhập phụ, mà thường là những thửa ruộng đầu thừa đuôi thẹo. Trong cuốn Những điều cần nh́n lại sau CCRĐ- NXB Văn hóa- của ĐCSVN có đoạn: Năm 1961: Tổng thu nhập b́nh quân đầu người là 11,50 đồng/tháng, trong đó thu nhập trong hợp tác xă là 4,5 đồng, c̣n thu nhập ngoài hợp tác xă là 7,0 đồng.

    Kết luận: Sau khi cải cách ruộng đất nhân dân ta ngoài việc bị giết oan vô tội vạ c̣n chịu thêm cảnh sưu cao thuế nặng từ chính quyền luôn tự xưng là cách mạng. Và sau đó họ c̣n bị nhà nước cộng sản đó cướp đất một cách “hợp pháp”. Đời sống nhân dân bị o ép thực sự khó khăn và khổ sở trong ách thống trị của đảng cộng sản.

    B. Những con số biết nói:

    Thống kê chính thức của nhà nước được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam tập hai cho biết là đă có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” nghĩa là không bị bắn tại chỗ th́ cũng bị lănh án tù rồi chết trong nhà giam.

    Con số này có thể không chính xác do vấn đề thống kê có sai số là tất yếu, nhưng số nạn nhân quyết không thể thấp hơn thế được v́ nó được ghi trong Văn kiện đảng toàn tập do nhà xuất bản chính trị quốc gia ấn hành, và v́ nó không nói ǵ đến những người bị kết án là Quốc Dân đảng thường th́ bị bắn ngay tại chỗ. Trong số này, có cả những đảng viên Cộng sản trung kiên, mà trước khi chết vẫn c̣n hô to khẩu hiệu, đảng Cộng sản muôn năm. Hơn thế nữa sai số không thể quá lớn trong một thống kê của nhà nước. Như vậy số người bị giết là khoảng gần 200 ngh́n.

    Năm 1956 cũng là năm mà ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá tŕnh thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 người bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất th́ 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế.

    Nhà thơ cộng sản Tố Hữu lúc bấy đó là trưởng ban tuyên truyền trung ương đảng sau này nhớ lại đă phải nói: “Không thể tả hết được những cảnh tượng bi thảm mà những người bị quy oan là địa chủ, ác bá (mà trong thực tế là trung nông) phải chịu đựng ở những nơi được phát động.”

    Và như trong phần 5 tôi đă nêu về 2 nguồn dữ liệu tôi xin nhắc lại ở đây:

    Dựa vào tài liệu các nước ngoài, giáo sư Lâm Thanh Liêm, cho rằng số người bị giết trong cuộc CCRĐ năm 1955-1956 ở Bắc Việt có thể lên đến từ 120,000 đến 200,000 người. (Lâm Thanh Liêm, bđd., sđd. tt. 203-204).

    Theo sách Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000 tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 (tài liệu mới của nhà nước cộng sản Việt Nam) cho biết cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956) được thực hiện ở 3,563 xă, có khoảng 10 triệu dân, và tổng số người bị sát hại trong CCRĐ đợt này lên đến 172,008 người, trong đó có 123,266 người (71,66%) sau này được xác nhận đă bị giết oan.

    Trong khuôn khổ bài này để bổ sung cho những sự thật không thể chối bỏ này, tôi xin trính bày thêm hai thống kê để thấy được tội ác của đảng cộng sản Việt Nam.

    Trên Wiki (http://vi.wikipedia.org/wiki/Cải_các...Việt_Nam) có viết:

    Tổng cộng chiến dịch Giảm tô tịch thu của địa chủ, phú nông 31.110 tấn thóc tô, 15.475 ha ruộng, 8.246 trâu ḅ. Tổng cộng chiến dịch Cải cách Ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu ḅ, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung b́nh mỗi hộ được 0,38 ha, 0,87 nông cụ, 0,071 ngôi nhà.

    Số lượng người bị giết trong chương tŕnh Cái cách Rộng đất là không thể thống kê chính xác và c̣n gây tranh căi. Nhưng theo chủ trương ở một số địa phương phải t́m cho ra tỷ lệ 5% địa chủ, "Việt gian" để mang ra đấu tố th́ con số sẽ không ít.

    Hay như trong cuốn Ownership Regimes in Vietnam có đoạn nêu lên con số người chết là: 165,230 người bị bắt oan sai và có khoảng 70% trong số này bị giết hại bằng tử h́nh tại chỗ hoặc chết trong ngục tù.

    Kết luận: Dù là với con số nào th́ đây cũng là những con số khủng khiếp mà đảng cộng sản đă gây ra ở miền Bắc Việt Nam trong CCRĐ. Với những con số đau thương này, dân tộc ta cần có cái nh́n thấu đáo hơn về đảng cộng sản Việt Nam. Họ là những kẻ diệt chủng man rợ ngay cả với đồng bào ḿnh. Điều này cho thấy họ c̣n dă man hơn cả Hitler v́ ông ta không giết người Đức.

    C. Thêm bằng chứng về kẻ chủ mưu:

    1. Hai bức thư Hồ Chí Minh gửi Stalin về cải cách ruộng đất:

    Như trong phần 5 tôi đă tŕnh bày, việc ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản thực hiện cuộc CCRĐ là do chủ trương của thế giới cộng sản. Ông Hồ nhận chỉ thị trực tiếp từ Stalin và Mao Trạch Đông để rập khuôn cuộc CCRĐ tại Việt Nam theo phương thức của Trung cộng.

    Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng Cộng sản chiếm được lục địa Trung Hoa, thành lập nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa. Trung cộng thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa của Hồ Chí Minh ngày 18-1-1950. Tiếp theo, Liên Xô thừa nhận ngày 30-1-1950. Tháng 2-1950, Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh và Moscow xin viện trợ. Khi gặp Hồ Chí Minh, Stalin ra lệnh cho Hồ Chí Minh phải thực hiện ngay hai việc: thứ nhất tái công khai đảng Cộng sản và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ theo đường lối Cộng sản. Stalin chỉ đạo cho Hồ Chí Minh phải cử người sang Trung cộng học tập phương pháp CCRĐ triệt để, v́ lúc đó mối liên lạc Xô-Trung c̣n b́nh thường và v́ Việt Nam nằm sát biên giới Trung cộng. (http://tennguoidepnhat.net/2012/04/0...89;c-nam-1950/). Đây là trang web của ban tuyên giáo Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.

    Cụ thể là ngày 31/10/1952, Hồ Chí Minh đă gửi bức thư xin chỉ thị từ Stalin với nội dung:



    Lược dịch như sau:

    Đồng chí Stalin thân mến:

    Xin gửi ngài chương tŕnh cải cách ruộng đất của Đảng lao động Việt Nam. Chương tŕnh hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San. Đề nghị ngài xem xét và cho chỉ dẫn.

    Gửi lời chào cộng sản.

    Hồ Chí Minh, 31/10/1952

    Như trong bức thư này có đoạn “Chương tŕnh hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San”. Điều này khẳng định ông Hồ Chí Minh chính là kẻ chấp nhận phận chư hầu cho Trung cộng và Liên xô chỉ đạo CCRĐ. Và quan trọng hơn cả, ông ta chính là người vạch ra chương tŕnh hành động như chính ông ta khẳng định với Stalin. Vậy càng thêm bằng chứng cho thấy ông Hồ là người cầm đầu tội ác CCRĐ.

    Bức thư thứ hai 30-10-1952, lại một bức thư nữa Hồ Chí Minh gửi thư cho Stalin về vấn đề CCRĐ.



    Lược dịch như sau:

    Đồng chí Stalin kính mến

    Tôi đă bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.

    Tôi gửi tới đồng chí một số yêu cầu, và hy vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.

    1. Cử một hoặc 2 đồng chí Liên Xô tới Việt Nam để làm quen và t́m hiểu thực trạng ở đó. Nếu như các đồng chí đó biết tiếng Pháp đủ để có thể giao tiếp với nhiều người. Từ Bắc Kinh tới chỗ chúng tôi đi đường mất khoảng 10 ngày.

    2. Chúng tôi muốn gửi tới Liên Xô 50-100 du học sinh, với tŕnh độ văn hóa lớp 9 ở Việt Nam, trong số họ có người là Đảng viên và cũng có người chưa phải là Đảng viên, độ tuổi của họ từ 17-22. Đồng chí nhất trí về vấn đề này chứ.

    3. Chúng tôi muốn nhận từ phía các đồng chí 10 tấn thuốc kí ninh (thuốc sốt rét) cho quân đội và dân thường, có nghĩa rằng 5 tấn trong nửa năm.

    4. Chúng tôi cần những loại vũ khí sau:

    (a) Pháo cao xạ 37 li cho 4 trung đoàn, tất cả là 144 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu pháo.
    (b) Pháo trận địa 76,2 li cho 2 trung đoàn, tất cả là 72 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu
    (c) 200 khẩu súng pḥng không 12,7 li và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu.

    Sau khi nhận chỉ thị của đồng chí về những vấn đề trên, tôi dự định vào ngày mùng 8 hoặc là mùng 9 tháng 11 sẽ rời khỏi Moscow.

    Gửi tới đồng chí lời chào cộng sản và lời chúc túc đẹp nhất

    Hồ Chí Minh
    30-10-1952
    đă kí

    Như vậy chúng ta thấy ở bức thư này có 2 điều khá quan trọng.

    Điều thứ nhất “Tôi bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.”. Điều này thêm khẳng định việc ông Hồ làm chư hầu và chính ông ta là kẻ chủ mưu trong CCRĐ đẫm máu. Ông ta chính là người thảo đề án khủng khiếp sau này.

    Ngoài ra, điều thứ hai cũng khá quan trọng. Trong (4) của bức thư chúng ta nhận thấy ông Hồ đă cầu xin Liên Xô cung cấp cho ḿnh. Chắc hẳn bạn đọc không quên phần 3 tôi đă chứng minh thực sự trong thời điểm trước 1960 th́ miền Bắc không chịu áp lực quân sự từ Mỹ và VNCH. Như vậy càng có thể khẳng định ông Hồ xin vũ khí chính nhằm gây chiến cho cuộc chiến huynh đề tương tàn với VNCH. Ông Hồ đă xin vũ khí trong thời điểm không chịu áp lực quân sự. Rơ ràng đây là mưu đồ nhuộm đỏ Việt Nam của phe cộng sản và ông Hồ là điều lư giải cho sự kiện này.

    Một điểm lưu ư là dưới lá thư, ông Hồ Chí Minh đă kư thêm tiếng Tàu.

    Chú ư: Hai bức thư trên có trong tài liệu của cục lưu trữ quốc gia Liên Bang Nga:
    http://www.rusarchives.ru/evants/exh...tnam1/22.shtml
    Bạn đọc hoàn toàn có thể kiểm chứng.

    Kết Luận: Ông Hồ là kẻ soạn thảo chủ trương CCRĐ theo ư chỉ của Liên Xô theo mô h́nh Trung cộng. Ông ta cũng là kẻ chủ mưu gây chiến tại Việt Nam. Thực sự ông ta có tội rất lớn trong CCRĐ và cũng có thể coi như một dạng tội phạm chiến tranh.

    2. Thêm bằng chứng về bút danh C.B là của ông Hồ Chí Minh:

    Như tôi đă nêu trong phần 5, ông Hồ là người có tội trong cái chết của bà Năm.

    Chính ông Hồ đă làm gương cho cán bộ đảng viên trong việc đấu tố nầy. Năm 1952, trong thí điểm CCRĐ tại 6 xă thuộc huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên, ṭa án nhân dân đă kết án tử h́nh bà Nguyễn Thị Năm, tức bà Cát Hanh Long, một ân nhân của đảng LĐ, người đă từng che chở, nuôi ăn chẳng những ông Hồ, mà hầu hết các nhà lănh đạo đảng LĐ. Khi bị đấu tố, bà kêu cứu đến ông Hồ. Ông ta biết chuyện nầy, nhưng ông ta đă để mặc cho bà bị giết thảm thương. Chuyện nầy của ông Hồ thật đúng với một câu tục ngữ Việt Nam: “Giúp vật, vật trả ân, giúp nhân, nhân trả oán.”

    Ông Hồ đă tố cáo cái gọi là “tội ác” của bà Năm trong bài thơ “Địa chủ ác ghê”. Phần này tôi đă tŕnh bày cụ thể ở phần 5. Trong đoạn này, tôi xin chỉ nêu thêm bằng chứng bút danh C. B trong bài thơ đó chính là của ông Hồ.

    Và đây là những h́nh ảnh của nó:












    Tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất ghi rơ tên tác giả các bài viết trong đó là C. B. - đây là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh. Chỉ riêng trong tập 6 (từ 01/1951 đến 07/1954) của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập do nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội in năm 1989, người viết đă đếm được tất cả 15 bài viết của Hồ Chí Minh kư tên là C. B.

    Kết luận: Ông Hồ đă ngoảnh mặt nh́n người có công với cách mạng chết dưới chính bàn tay của ông. Và ông ta cũng chính là người lên án bà Năm – một người có công với cách mạng. Đó là một sự ác độc và vong ân bội nghĩa, không xứng đáng với đạo đức dân tộc.

    D. Kết Luận Chung:

    Ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản phải chịu trách nhiêm trước dân tộc Việt Nam về những cái chết oan ức của nó cho gần 200.000 người vô tội. Người chủ mưu được xác định qua 2 phần 5 và 6 trong bài viết của tôi chính là ông Hồ.

    Dù là biện minh cho con số người chết th́ đó cũng là tội ác v́ không phải một người chết oan sai. Và dù cho có biện minh do tính chất dân trí thấp và nông nổi của bần cố nông cũng cho thấy là sự bao biện gượng ép. Qua hai bài viết tôi đă chứng minh cho các bạn thấy ông Hồ có viết cương lĩnh và kế hoạch hành động, có đội ngũ tổ chức từ trung ương đến địa phương, có ṭa án của đảng lập ra th́ những lư do đổ tội cho bần cố nông là cực kỳ vô lư. Chính quyền tổ chức như vậy mà lại để cho bần cố nông thực thi th́ chính quyền đó gọi là ǵ? Không! chính chính quyền đó là những kẻ giết người.

    Ông Hồ Chí Minh qua bức thư gửi cho Stalin càng chứng tỏ mộng chư hầu của ông ta với thế giới cộng sản và mộng quyền lực thông qua chiến tranh. Ông ta là người cầm đầu cho tổ chức chiến tranh sau này tại Việt Nam.

    Với những quá khứ đau thương của CCRĐ, tôi xin tŕnh bày rút gọn trong ṿng 2 bài. Sự thật c̣n rất nhiều nhưng chưa thể một lúc nêu ra hết. Tôi mong rằng đây là bài học xương máu cho dân tộc Việt Nam để có thể nhận ra mặt thật của ông Hồ và đảng cộng sản. Tác giả mong rằng chế độ cống sản nhanh chóng bị loại trừ khỏi Việt Nam, tránh cho dân tộc thêm những nỗi đau khôn xiết!.

    *
    Tác giả bổ xung bài viết sau khi Danlambao đăng tải:

    1. Links
    http://tennguoidepnhat.net/2012/04/0...89;c-nam-1950/
    về cuộc gặp bí mật của HCM và STALIN, MTĐ ở trang depnhattennguoi đă bị đảng xóa mất.

    Tuy nhiên có 1 link khác:
    http://www.thuviendongnai.gov.vn/100...eadb24d7&ID=16
    Links này của thư viện Đồng Nai, cũng của đảng có đề cập đến chuyến đi này. Nhan đề của bài viết là Chuyến đi Liên Xô, Trung Quốc đấu năm 1950 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài viết tuy không đề cập rơ như links cũ nhưng trong bài viết đó cũng mô tả việc HCM xin vũ khí và STALIN chỉ đạo về CCRĐ:

    Trong bài có đoạn: Khi được thông báo về t́nh h́nh Việt Nam, Xtalin đă đồng ư với đường lối chiến lược, sách lược của Đảng ta, song cũng ngỏ ư muốn Việt Nam phải nhanh chóng làm cách mạng ruộng đất. Về quân sự, Xtalin khuyên Việt Nam nên chú trọng toàn bộ vùng rừng núi phía tây, nắm được vùng đó, sẽ nắm được quyền làm chủ đất nước; đồng thời thỏa thuận với Trung Quốc một số giải pháp nhằm hỗ trợ cho cách mạng Việt Nam. Trước mắt, Liên Xô sẽ viện trợ cho Việt Nam một trung đoàn pháo cao xạ 37 ly, một số xe vân tải Môlôtôva, thuốc và dụng cụ quân y.

    2. Về 2 bức thư của HCM gửi Stalin có thể t́m thấy ở link sau: http://diendan.nuocnga.net/showthread.php?p=14989

    Thật ra th́ đây là sự thật có lưu ở cục lưu trữ LBN nhưng tôi muốn chỉ dùng links của lề đảng hoặc hồng vệ binh để cho chứng cứ thuuyet phục. Bản thân trang web này là của đại sự quán VN tại Nga bảo trợ. Nó thuộc lề đảng.

    3. Bổ xung thêm về việc ông HCM báo cáo với LX về việc CCRĐ (cụ thể là HTX hóa ) - vẫn ở trong link http://diendan.nuocnga.net/showthread.php?p=14989.:

    Tiếp theo là 2 văn bản có thể nói là rất quư, nếu không được phía Nga giải mật th́ chúng ta không bao giờ có dịp được đọc. Đó là biên bản ghi lại Cuộc hội đàm giữa bác Hồ và đồng chí N. Khrushev - Bí thư thứ nhất Đảng CSLX (hồi đó chưa gọi là TBT), tại Pitsunda năm 196. Hai bên thông báo cho nhau những vấn đề quốc tế cùng quan tâm và t́nh h́nh của mỗi nước. Bác Hồ thông báo với đồng chí Khrushev là 85% hộ nông dân Việt nam dân chủ cộng ḥa đă vào HTX, quy mô mỗi HTX từ 50 đến 200 hộ nông dân. N. Khrushev cũng góp ư là không nên thành lập các công xă và tránh mở rộng quá quy mô các HTX.




    Chỉnh sửa và hoàn thiện
    20/06/2012


    Đặng Chí Hùng
    danlambaovn.blogspot .com

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?
    Nguyễn Chí Vịnh: Cáo già Hà Nội lù lù xuất hiện từ bóng đêm






    Greg Torode/South China Morning Post
    Lê Quốc Tuấn. X-CafeVN chuyển ngữ

    Lối 'Ngoại giao kiểu du kích' không c̣n là một phần của bộ máy t́nh báo Việt Nam, và ông ta đang được quan sát chặt chẽ khi đang cố gắng cân bằng những mối quan hệ với Trung Quốc.

    Đối với những người từng biết đến ông, Nguyễn Chí Vịnh, là nhà tư tưởng chiến lược sắc sảo nhất của Việt Nam. Với những người khác thẳng thắn hơn. Họ nói vị thứ trưởng quốc pḥng này, là một con cáo già mưu mô nhất.

    Dù bằng cách nh́n nào th́ đấy cũng là chiến công hiển hách với một đất nước, so với các láng giềng có thể thiếu những tầng lớp kỹ trị, nhưng vẫn đầy những thu hút có tính chiến lược. Ngay cả các học sinh cũng ch́m ngập trong lịch sử và chiến thuật của những chiến thắng chống lại kẻ thù lớn hơn ḿnh nhiều, với các trận chiến chống lại chiếm đóng của Trung Quốc trong thời cổ đại và những cuộc chiến của Việt Nam trong thế kỷ 20 chống lại thực dân Pháp, Mỹ, Khmer Đỏ và sau đó là Trung Quốc (một lần nữa).Tuy nhiên, chiến trường của Thượng tướng Vịnh là trên các mối quan hệ quốc tế và những biến động của khu vực đang thích ứng với sự gia tăng của Trung Quốc. Trong những năm gần đây, ông đă nổi lên từ bóng tối của những năm tháng trong khuôn khổ bộ máy t́nh báo quân sự của Việt Nam để vận động ngành ngoại giao quân sự của ḿnh, một cái ǵ đó mới lạ đối với một trong những tổ chức bí mật nhất của khu vực.

    Với Hà Nội, điều đó có nghĩa là cố gắng để cùng lúc cải thiện quan hệ với cả Trung Quốc, Mỹ, và các cường quốc lớn khác, tất cả để củng cố những tuyên bố về chủ quyền của Việt Nam trong cuộc tranh chấp đang gia tăng ở Biển Đông.



    Hai năm trước, ông đă di chuyển ngang dọc, xuôi ngược trong khu vực để mang lại thành quả là cuộc họp các bộ trưởng quốc pḥng đầu tiên của Đông Nam Á với các đồng nghiệp từ các cường quốc lớn trong khu vực, bao gồm Trung Quốc, Mỹ và Nga - một cuộc họp chính thức sẽ được tổ chức mỗi ba năm. Đấy cũng là một bước đầu tiên có thể có trong một thỏa thuận an ninh có ư nghĩa nhằm giữ được ḥa b́nh trong một khu vực nguy hiểm.

    Gần đây hơn, Vịnh đă năng nổ, gặp gỡ hội họp với hàng chục quan chức quân sự khu vực và các phái viên nước ngoài. Đầu tháng này, ông giúp tổ chức chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc pḥng Hoa Kỳ Leon Panetta để gặp Đại tướng Phùng Quang Thanh Bộ trưởng Quốc pḥng Việt Nam, thượng cấp của ḿnh. Tuần trước, ông đă gặp Xuanyou Kông đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, trong một cuộc họp kín tại Việt Nam.

    Ngay cả khi hai bên cùng làm việc để thúc đẩy sự hợp tác, một cuộc khẩu chiến từ các khẳng định chủ quyền ở Biển Đông vẫn tiếp diễn. Những ngày gần đây cũng đang chứng kiến việc các quan chức Trung Quốc và Việt Nam chống đối nhau về vấn đề này.

    Những sắc thái đằng sau sự xử lư của tướng Vịnh về t́nh h́nh quốc tế ngày càng phức tạp của Việt Nam hiển hiện rất rơ trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi với tờ Sunday Morning Post trước chuyến thăm của Panetta, khởi sự qua cuộc trở lại lịch sử đến cảng chiến lược của Vịnh Cam Ranh. Vịnh đặt nhiệm vụ của Panetta trong bối cảnh của một sự thận trọng cùng mối quan hệ dần cải thiện với kẻ cựu thù, và dù cho những căng thẳng trong những năm gần đây, lại có vẻ như vẫn ca ngợi các liên kết quân sự với Bắc Kinh hơn.

    "Cả hai nước đều nhận thức được rằng việc tăng cường các mối quan hệ quốc pḥng có thể ngăn chặn được sự đối đầu và xung đột," ông đă tuyên bố, sau khi nói rằng các quan hệ quân sự đă được thúc đẩy mạnh mẽ hơn quan hệ Trung-Việt.

    Sau đó ông nói về một mong muốn "rất kiên quyết " để bảo vệ chủ quyền và củng cố một "mối quan hệ b́nh đẳng ". Vào những lúc khác, ông đă quyết liệt gai góc hơn. Hai năm trước, trong hội nghị ở Singapore ông tuyên bố rằng Việt Nam có tất cả khả năng để tự bảo vệ ḿnh. Năm ngoài, ngay sau khi bộ trưởng quốc pḥng Lương Quang Liệt công bố "cam kết long trọng" về ư định ḥa b́nh của Trung Quốc, ông cảnh báo rằng nếu "bất cứ bên nào leo thang tranh chấp chúng tôi sẽ không chỉ đứng nh́n".

    Không ngạc nhiên, khi hiện nay việc quan sát Vịnh là một mối chú tâm đang gia tăng giữa các phái viên và các nhà phân tích quân sự trong khu vực khi họ cố gắng t́m hiểu lập trường của ông. Ông nghiêng về Trung Quốc nhiều hơn hay Mỹ ? Với một cái nh́n vững vàng và biểu hiện hơi buồn, các tính cách của ông không cho biết ǵ nhiều hơn. Ông nói trong một phong cách chính xác, cẩn thận từng câu và sẽ trả lời loại câu hỏi vặn vẹo bằng một sự im lặng, gật gù nhẹ nhàng một cách ranh mănh. Những điếu thuốc châm đốt liên tục cho thấy sự căng thẳng đàng sau vẻ b́nh tĩnh bên ngoài của ḿnh. Vịnh c̣n được biết đến với cánh thư giăn những cuộc đàm đạo dài bằng rượu whisky.

    Một phái viên nước ngoài nói rằng Vịnh, rất khác với những công chức nghiêm khắc, là một nhà tư tưởng sâu sắc, khá chuẩn bị sẵn sàng để thách thức sự khôn ngoan bằng tính hợp lư hơn là tín điều. Sắc sảo, ông có thể vui tính, thông minh và hấp dẫn trong khi không tiết lộ ǵ nhiều.

    Một cáp ngoại giao bí mật của Mỹ do WikiLeaks công bố có nói đến các nghi vấn về quan điểm và sự vươn lên của Vịnh. Bản báo cáo được viết bởi Michael Michalak, Đại sứ Mỹ lúc ấy tại Hà Nội vào đầu năm 2010, lưu ư Vịnh từng có một quan điểm lành tính về Trung Quốc trong các cuộc thảo luận với người Mỹ, lưu ư rằng Bắc Kinh có thể là một động lực cho sự ổn định của khu vực. Nhưng báo cáo này cho biết thêm: "Vịnh đă rơ ràng bác bỏ các tuyên bố mở rộng của Trung Quốc trong Biển Đông, khi nhấn mạnh, đă khẳng định rằng Việt Nam "biết làm thế nào để chiến đấu và giành chiến thắng" và sẽ "làm những ǵ cần thiết để bảo vệ lănh thổ của ḿnh"".

    "Nếu Vịnh là con c̣ mồi của Trung Quốc, ông là người ẩn nấp giỏi," bản báo cáo kết luận.

    Tuy nhiên, vấn đề của việc ông có thể nghiêng về phía nào che khuất một điểm quan trọng. Như một trong những phái viên nước ngoài mô tả: "Ông toát ra quyền lực, tính chuyên nghiệp và luôn luôn t́m kiếm để thúc đẩy, bảo vệ lợi ích quốc gia của Việt Nam".

    Một phần sự bi ẩn được xây dựng xung quanh Vịnh, có nguồn từ lịch sử. Nhân vật 55 tuổi này được liên kết với những ngày đầu cuộc cách mạng cộng sản của Việt Nam qua người cha quá cố của ḿnh, Tướng Nguyễn Chí Thanh.

    Thanh là vị tướng cao cấp thứ hai của Việt Nam, sau Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, người cha sáng lập quân đội của đất nước. Trong việc chỉ huy các lực lượng cộng sản ở miền Nam Việt Nam chống lại Miền Nam Viêt Nam được Mỹ hậu thuẫn, Thanh liên tục thuc đẩy sự tham dự toàn diện chống lại Hoa Kỳ khi họ xây dựng lực lượng của ḿnh vào giữa những năm 1960 - một chiều hướng đă đem đến cuộc đọ sức chống lại Giáp thận trọng hơn và các cán bộ chính trị lănh đạo khác tại Hà Nội.

    Sau một cuộc tranh luận dữ dội trong nội bộ, Thanh, xuất thân từ thành phần nông dân gian khổ, đă giành được phê duyệt để khởi động tấn công trên toàn miền Nam, một sự việc sau đó đă trở thành cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 - sự kiện mà các sử gia hiện đại đă mô tả như là một thất bại quân sự lớn, nhưng là một chiến thắng về chính trị cho Hà Nội khiến đă thay đổi quá tŕnh của cuộc chiến tranh, hủy hoại ư chí của Mỹ. Tuy nhiên, Thanh, đă không c̣n sống để nh́n thấy thành công ấy, ông chết v́ một cơn truỵ tim vào năm 1967.

    Dù quá khứ lịch sử ấy phủ bóng nặng nề, nhiều suy đoán xung quanh Vịnh bắt nguồn từ những năm ông làm việc trong t́nh báo quân đội, đặc biệt là Tổng cục 2 đáng sợ - một bộ phận từng là chủ đề của những âm mưu nội bộ đáng kể trong giới chính trị chặt chẽ của Việt Nam.

    Tướng Giáp, hiện 102 tuổi và là nhân vật cao tuổi lâu đời nhất, đă là những người từng đặt câu hỏi về quyền hạn ở phía sau, sự thiếu vắng về giải thích và động lực của những sự việc trên, khiến đă nâng cao triển vọng của một mối hận thù gia đ́nh có tính lịch sử. Dù Vịnh không c̣n đứng đầu bộ phận t́nh báo này - đưa các nghi vấn đến việc ông đă thực sự c̣n mạnh mẽ ra sao - năm ngoái ông được chính thức thăng chứcvào Ủy ban Trung ương đảng. Di chuyển đó dường như để chính thức hóa ảnh hưởng đáng kể của ông và có thể đưa ông vào cuộc chay đua cho các chức vụ cao hơn.

    Các nhà Ngoại giao và phân tích khác tin rằng do căn bản quá khứ của ông trong ngành t́nh báo, chứ không phải trong chiến đấu, nên ông khó có thể là một bộ trưởng quốc pḥng trong tương lai. Nhưng các vai tṛ chính trị - quân sự khác có thể cho thấy và dù ông tương đối c̣n trẻ, Vịnh có thể là một ứng viên tương lai cho Bộ Chính Trị cầm quyền - một vị trí mà ông không thể có được nếu không có kinh nghiệm trong Ủy ban Trung ương trước. "Ông ta đến từ bóng tối và là một phần của ṿng lặp chính trị", một nhà ngoại giao nước ngoài cho biết. "Nghĩa là nếu ông ta được phục vụ ở các vị trí cao hơn trong tương lai là quan trọng, và trong dài hạn có thể làm nhẹ bớt những lo ngại của những người phê b́nh ông".

    Nguồn: South China Morning Post

    Lê Quốc Tuấn. X-CafeVN chuyển ngữ
    http://www.x-cafevn.org/node/3537

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?

    Bác và Đảng Bán Nước / Bán Những ǵ / Để làm ǵ?
    Những sự thật không thể chối bỏ (phần 7) - Trí thức cũng chẳng khá hơn



    Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Nói về Cải cách ruộng đất th́ đó là một cuộc thảm sát với phú nông, địa chủ… trong đó có phần lớn là oan sai. Nhưng nhắc đến Nhân văn Giai phẩm lại là câu chuyện khác. Lần này đến trí thức cũng bị tiêu diệt. Lư do rất đơn giản cho sự tiêu diệt đó là họ dám viết, dám nghĩ đúng với những ǵ họ nhận thấy được từ xă hội thối nát của cộng sản. Họ cần nghệ thuật gắn liền với tư tưởng tự do, dân chủ nhưng… đó là cái gai trong mắt cộng sản.

    Bài viết này chỉ nhắc lại cho chúng ta những ǵ thuộc về sự thật, những sự thật đau đớn của một chế độ muốn ngu dân để cai trị. Một chế độ phi nhân tính với những sự thật đáng hổ thẹn cho muôn đời.

    Sơ lược về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm

    Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm là phong trào được cho là có xu hướng chính trị, đ̣i tự do dân chủ của một số văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt vào tháng 6 năm 1958.



    Phong trào này có một tờ báo cho ḿnh với tên gọi Nhân Văn, đây là một tờ báo chuyên về văn hóa, xă hội, có trụ sở tại 27 Hàng Khay, Hà Nội. Đứng đầu tờ báo là ông Phan Khôi làm chủ nhiệm và ông Trần Duy làm thư kí ṭa soạn. Ngoài ra nó c̣n cùng với tạp chí Giai Phẩm, h́nh thành nên nhóm Nhân Văn–Giai Phẩm (NVGP).

    Mục tiêu hoạt động của nhóm NVGP là giúp cho sự tự do suy nghĩ, tự do trong sáng tác của các văn nghệ sĩ. Họ muốn hướng tới một quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật thực sư. Nghệ thuật theo tiêu chí của nhóm này phải tách khỏi chủ trương tô hồng cách mạng giả dối của văn nô cộng sản. Xin nêu ra đây một số ví dụ nhỏ để thấy chủ trương hết sức hợp lư của nhóm NVGP trong vấn đề trung thực, dân chủ trong xă hội VNDCCH lúc đó.

    Trong tạp chí Giai phẩm Mùa xuân được ấn hành tháng giêng năm 1956, do nhà thơ Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương, về sau bị tịch thu, có bài “Nhất định thắng” của nhà thơ Trần Dần, miêu tả hoàn cảnh đời sống miền Bắc xă hội chủ nghĩa trong những ngày đầu đất nước chia cắt, tác giả bài thơ bị qui kết chống phá, "bôi đen" chế độ, với những câu thơ nổi tiếng:

    Tôi bước đi
    không thấy phố
    không thấy nhà
    Chỉ thấy mưa sa
    trên màu cờ đỏ

    Nhân văn số 3 ra ngày 15 tháng 10 đăng bài của ông Trần Đức Thảo về mở rộng dân chủ, phát triển phê b́nh trong nhân dân. Trần Duy cũng góp tiếng nói đấu tranh cho tự do dân chủ trong Nhân văn số 4 ra ngày 5 tháng 11 năm 1956. Trong số cuối cùng, số 5 báo Nhân văn, ông Nguyễn Hữu Đang nhận xét về những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam 1946 và so sánh với t́nh h́nh thực tế lúc bấy giờ.




    Ngày 15 tháng 12 năm 1956, Ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Số 6 không được in và phát hành. Tổng cộng Nhân Văn ra được 5 số báo và Giai Phẩm ra được 4 số báo (Tháng Ba, Tháng Tư, Tháng Mười và Tháng Chạp 1956) trước khi phải ngừng xuất bản.

    Sau đó, hầu hết các văn nghệ sĩ tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm bị đưa đi học tập cải tạo về tư tưởng xă hội chủ nghĩa. Một số bị treo bút một thời gian dài: Lê Đạt, Trần Dần, số khác không tiếp tục con đường sự nghiệp văn chương, thậm chí có người bị giam giữ trong một thời gian dài và tiếp tục bị giám sát trong nhiều năm sau khi măn tù như trường hợp ông Nguyễn Hữu Đang. Dư luận chung thường gọi đây là "Vụ án Nhân Văn–Giai Phẩm".

    Trong số này đa phần là những nghệ sĩ nổi tiếng, là tinh túy của nền văn học nghệ thuật nước nhà. Họ thực sự là những tri thức đáng kính với những tư tưởng tự do, dân chủ nhưng đă bị đảng cộng sản ḱm kẹp và bức bách cả về tư tưởng lẫn thân thể. Ắt hẳn chúng ta không thể nào quên một Hữu Loan đằm thắm nhưng cương trực với “Màu tím hoa sim” bất hủ. Ấy vậy mà ông cũng như hàng chục văn nghệ sĩ ấy đă bị đảng cộng sản vu khống, chụp mũ cho tư tưởng chống đảng, phản động. Nhưng có thực sự họ có tội hay không? Tôi xin tŕnh bày ở phần sau đây.

    Họ không phải là phản động

    Nói là phản động th́ đảng cộng sản là bậc thầy về chụp mũ và quy kết. Phải hiểu đúng từ phản động thế nào. Thực tế một xă hội muốn phát triển và tiến bộ th́ phải không ngừng vận động. Phản động ở đây có nghĩa là đứng yên, không vận động, là chống lại sự tiến bộ đó. Phản động là một từ có nghĩa đen, không có nghĩa bóng, phản động mang một ư nghĩa tiêu cực. Tuy nhiên bản thân các văn nghệ sĩ ở đây hoàn toàn hoạt động nghệ thuật theo tư tưởng ôn ḥa, dân chủ, tự do. Đó không thể coi là phản động được. Bản thân sự phản ánh trung thực của họ là một sự có lợi cho tiến bộ xă hội. Nhưng đảng cộng sản đă đánh đồng khái niệm chống lại ách độc tài của họ với việc chống lại sự phát triển của xă hội. Đó là một sự vu khống vô cùng bẩn thỉu của đảng cộng sản Việt Nam.

    1. Họ đă nói ǵ?

    Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm quy tụ những người trí thức can đảm nhất ở miền Bắc Việt Nam trong thời đại của họ. Sau bài thuyết tŕnh của Nguyễn Mạnh Tường, trong hai số báo Nhân Văn vào tháng 11 năm 1956, Nguyễn Hữu Đang đă hai lần nêu cao chủ trương phải thiết lập một chế độ pháp trị. Ông nêu ra những điều trong hiến pháp năm 1946 bảo đảm các công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do hội họp, tự do cư trú, tự do đi lại, vân vân. Điều 11 nói: “Tư pháp chưa quyết định th́ không được bắt bớ giam cầm người công dân Việt Nam” nhưng ngay trong thời đó các nhà trí thức như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Đặng Đ́nh Hưng cũng bị đi “cải tạo” không thời hạn; các văn nghệ sĩ như Trần Dần, Tử Phác vô cớ bị bắt giam.

    NVGP là một đợt bột phát trào lưu tư tưởng dân chủ ở miền Bắc Việt Nam có tiền đề ngay từ khi h́nh thành nhà nước VNDCCH lưỡng sinh giữa DCTS và toàn trị cộng sản tiến dần đến mô h́nh kiểu chủ nghĩa Mao, phát sinh trên nhiều lĩnh vực đời sống xă hội nhưng mạnh mẽ nhất là lĩnh vực ngôn luận mà lực lượng hăng hái nhất là trí thức khoa học xă hội và văn nghệ sỹ, tập trung xung quanh hai ấn phẩm là báo Nhân Văn và tập san Giai Phẩm.

    Có lẽ cần phải cho mọi người nghe ư kiến của ông Nguyễn Hữu Đang trả lời Thụy Khuê ngày tháng 9- 1995 khi bà hỏi thực chất của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm là ǵ: "Thực chất phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nếu đứng về mặt chính trị, th́ đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống, không phải chống đảng cộng sản đâu, mà là chống cái chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Đông. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao trạch Đông đưa đến nhiều hiện tượng- nói là chuyên chính th́ chưa đủ- phải nói là cực quyền toàn trị, nó gay gắt ghê lắm… Nó gay gắt ghê lắm!"

    Trên báo Giai Phẩm Mùa Thu, Nguyễn Hữu Đang đă mở cuộc phỏng vấn để các nhà trí thức khác có dịp lên tiếng: Trần Đức Thảo đ̣i phải có tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu, tự do phê b́nh. Ông Đặng Văn Ngữ viết: “Dưới một chế độ độc tài không ai dám chỉ trích chính phủ th́ c̣n đâu mà thấy khuyết điểm về tự do dân chủ?”. Đào Duy Anh kêu gọi giới trí thức phải “đấu tranh” cho tự do, quyết chống lại bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân; Phan Khôi viết “bàn về lănh đạo văn nghệ” để phê b́nh toàn thể việc lănh đạo xă hội. Ông Phan Khôi dám phơi bày sự thật đó là một chế độ cộng sản độc tài như thể một biến thể của chế độ phong kiến kiểu mới. Ông nêu ví dụ đám cầm đầu văn nghệ lúc đó đả kích thơ Trần Dần viết hoa chữ “Người” là phạm tội, v́ chữ “Người” viết hoa chỉ được dùng để nói đến Hồ Chí Minh thôi. Việc này không khác ǵ việc Phạm húy trong tư tưởng phong kiến.

    Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm chứng tỏ giới trí thức Việt Nam không bao giờ lăng quên trách nhiệm với lịch sử. Ngay từ đầu thời Pháp thuộc các Nho sĩ như Nguyễn Đ́nh Chiểu, Phan Đ́nh Phùng, Nguyễn Cao đă bảo vệ tiết tháo sáng ngời. Họ muốn dùng ng̣i bút của ḿnh để nhắc nhở cho nhân dân ta những yếu tố lịch sử trung thực của dân tộc. Họ xứng đáng tiếp nối truyền thống hào hùng của biết bao đời anh linh dân tộc.

    Nhóm NVGP cũng cho thấy một điều những người trí thức Việt Nam không bao giờ quên nhiệm vụ của ḿnh là tranh đấu cho tự do và cho sự thật. Trong báo Nhân Văn, Trần Đức Thảo viết “Người trí thức hoạt động văn hóa cần tự do như khí trời để thở.” Người trí thức phải đỏi hỏi các quyền tự do được phát triển v́ đó là “nhiệm vụ số một của ḿnh cũng như của toàn dân”. Ông Trần Dần đă viết: “Biểu hiệu cao nhất của trách nhiệm người viết là thái độ tôn trọng, trung thành với sự thực… Tôn trọng, trung thành với sự thực vừa là trách nhiệm, vừa là lập trường, vừa là phương pháp làm việc của người viết… Nếu như sự thực ngược lại chính sách, chỉ thị, th́ phải viết sự thực chứ không phải là bóp g̣ sự thật vào (cho đúng) chính sách!”. Trần Dần đă viết những hàng trên trong bản dự thảo để tŕnh bày trước một hội nghị giới văn nghệ trong quân đội năm 1955. Tất nhiên bản dự thảo đó không bao giờ được công bố, nhưng nó cho thấy Trần Dần đúng là một chiến sĩ. Lê Đạt đă dùng những câu thơ để lên án chế độ độc tài chuyên chế: “Đem bục công an máy móc đặt giữa tim người – Bắt t́nh cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước!”.

    Kết Luận 1: Qua phần kết luận đầu tiên ta có thể thấy xuyên suốt nhưng tác phẩm và tuyên bố của ḿnh. Nhóm các tác giả trí thức trong NVGP đă cho thấy họ là nhưng người trung thực, can đảm và có tư tưởng dân chủ, tự do dựa trên ḷng yêu nước nồng nàn, có trách nhiệm với dân tộc. Vậy họ không thể là những người phản động như các đảng cộng sản chụp mũ.

    2. Những bằng chứng khách quan:

    Để nh́n nhận các tác phẩm của các bên về sự thật nhóm NVGP có tội hay không chúng ta cần phải nh́n thẳng vào các bài báo, cuốn sách nói về NVGP một cách trung thực nhất từ nhiều phía.

    Trước tiên là cuốn sách "Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam" (Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam) của Georges Boudarel. Georges Boudarel, nay đă qua đời, là nhà giáo, đảng viên cộng sản Pháp, 1947 sang Việt Nam với mục đích tranh đấu chống chính quyền thuộc địa. Sau hai năm dạy học tại Sài G̣n, Boudarel theo Việt Minh, đặc trách nhiệm vụ "cải tạo" tù nhân Pháp ở trại 113. Năm 1966, v́ không c̣n đồng ư với chính quyền Hà Nội, ông trở về Pháp. Trong thời gian ở Việt Nam, ông đă gặp gỡ nhiều nhà văn nhà thơ, trong đó có những thành viên NVGP và Boudarel đă mang được về Pháp những tờ Nhân Văn, Giai Phẩm, và một số báo xuất bản ở Hà Nội trong thời kỳ này.

    Cuối 1987 đầu 1988, trong bối cảnh "cởi trói văn nghệ" của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Georges Boudarel đă viết loạt bài tựa đề Dissidences intellectuelles au Viêt-Nam L'affaire Nhan Van-Giai Pham (Trí thức phản kháng tại Việt Nam, vụ Nhân Văn Giai Phẩm), in trên hai tập san Sudestasie (số 50 tháng 1/1988) và Politique Aujourd'hui en Europe (phụ bản tháng giêng năm 1989), sau tập hợp và đào sâu thành cuốn "Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam" (Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam) do Jacques Bertoin in năm 1991 tại Paris.

    Trong cuốn "Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam" có đoạn tác giả đă viết về những người bị chính quyền cộng sản Việt Nam gán ghép cho tội danh chống đảng phản bội như sau: "Sự thật họ không phải là những kẻ hèn nhát. Họ đă dám nói thật những ǵ họ thấy và họ nghĩ. Họ xứng đáng là những trí thức can đảm". Đây là sự khẳng định cho sự trung thực và hết sức thẳng thắn của tác giả Pháp (đă từng theo cộng sản này) đối với sự thật về các nhân vật trong vụ án NVGP.

    Để nói về sự tự do trong tư tưởng của nhóm này. Tác phẩm cũng có đoạn: "Họ là những nhà dân chủ về tư tưởng. Những ư thức đó dường như là quá xa xỉ với một chế độ độc đảng ở Việt Nam.". Điều này khẳng định nhóm NVGP không thể là phản động. Họ đơn thuần muốn có một sự tự do, dân chủ trong sáng tác nghệ thuật không theo khuôn mẫu của đảng cộng sản áp đặt.



    Tiếp đến là cuốn sách của tác giả Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, soạn giả “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc” (THĐNTĐB), do Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa xuất bản tại Sài G̣n, 1959. Trong tác phẩm của ḿnh ông Hoàng Văn Chí cũng đă đánh giá về những trí thức từng là chỗ quen biết của ḿnh hết sức sâu sắc. Ông khẳng đinh trong cuốn sách của ḿnh về những trí thức như sau "Thật là bất công khi định tội họ phản bội tổ quốc, họ chỉ phản đối đảng mà thôi!"

    Tác phẩm của Hoàng Văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm hoàn chỉnh nhất về phong trào NVGP. Phần lớn những thành viên khác đều có mặt trong cuốn sách này, với một tiểu sử khá đầy đủ, với những chi tiết đáng quư và những bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đặc biệt tiểu sử Phan Khôi và Văn Cao, với những chi tiết mà hiện nay không t́m thấy ở đâu. Một phần v́ Hoàng Văn Chí có liên hệ gia đ́nh với Phan Khôi, nên một số dữ kiện chỉ ông biết, mà không t́m thấy ở những tư liệu khác.

    Ngay khi tôi đang hoàn thiện bổ sung cho bài viết này th́ ngày 28/06/2012 có một cuộc hội thảo về nhà thơ Phùng Cung do Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhă Nam phối hợp cùng Trung tâm Văn hóa Pháp L’Espace tổ chức buổi tọa đàm giới thiệu tuyển tập thơ Xem đêm của ông. Cuộc tọa đàm này có sự có mặt của Nhà nghiên cứu Phạm Toàn, Nhà phê b́nh văn học Phạm Xuân Nguyên, Nhà văn Thái Kế Toại, Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha. Các bạn có thể tham khảo tại links sau:(http://bookaholicclub.com/?p=17034). Trong đoạn có đánh giá của Hoàng Cầm về những tác phẩm của Phùng Cung: "Nh́n chung ở tập Xem đêm, mối quan hệ giữa những người miền quê nghèo được Phùng Cung diễn tả chân thực đến mức không thể bỏ hoặc thay một từ nào.". Điều này càng thêm minh chứng cho bản chất của các tác phẩm trong NVGP chỉ đem lại sự thật chứ không hề có ư chống đối lại dân tộc. Đó là điều đảng cộng sản không mong muốn.

    Bản thân cuốn sách "Điều đọng lại" in năm 1992 tại nhà xuất bản Văn Hóa của đảng cộng sản Việt Nam cũng đă khẳng định việc ḱm kẹp và kết tội vô lư với những cá nhân trong NVGP là một sai lầm. Cuốn sách này có lưu trữ tại thư viên quốc gia Việt Nam có đoạn ở trang 173 "Sai lầm ở việc nóng vội kết tội NVGP là phản động dẫn đến những động thái xấu cho nền văn học cận đại ở Việt Nam. Họ không phải là những người chống lại dân tộc. Nhận định sai lầm về họ cũng là điều đáng suy ngẫm." Cũng cuốn này c̣n trích dẫn lời của ông Nguyễn Văn Linh - cựu tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam trong việc đánh giá về sai lầm trong NVGP và cởi trói trong tư tưởng của nghệ sĩ trang 265 có viết “Hăy cởi trói cho văn nghệ sĩ để tránh những sự cố đáng tiếc lặp lại của Nhân văn giai phẩm”.

    Kết luận 2: Qua các tác phẩm của các tác giả trung lập, lề dân hay lề đảng đều đánh giá sự thẳng ngay, trung thực của các tác giả, tác phẩm trong NVGP. Họ không có tội phản động như những ǵ đảng cộng sản đă ghép cho họ trong quá khứ.

    Nhận xét: Từ kết luận một và hai có thể thấy từ tư tưởng, lời nói cho đến tác phẩm của các tác giả, tác phẩm trong NVGP là thực sự tiến bộ và can đảm. Họ đă được các tác phẩm nhiều phía đánh giá đúng về sự thật: NVGP Không phải phản động, không chống đảng. Họ chỉ nói lên sự thật của xă hội miền Bắc dưới ách độc tài của đảng cộng sản thông qua nghệ thuật chân chính, không chấp nhận làm văn nô.

    Tội ác!

    Tập tài liệu tựa đề “Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước ṭa án dư luận” do Nxb Sự Thật (nay là Nxb Chính Trị Quốc Gia), in tháng 6, năm 1959, tại Hà Nội, là tài liệu đầu tiên, tập hợp những trích dẫn bài viết hoặc diễn văn tố cáo, lên án, buộc tội NVGP của đảng cộng sản Việt Nam. Trong phần cuối cuốn sách, có một chương nhỏ, trích "những lời thú tội" của các thành viên NVGP, c̣n hầu như toàn thể dành cho phía công tố "phát hiện tội", với những lời lẽ vô cùng khiếm nhă ngay từ miệng, hoặc từ ng̣i bút của giới được gọi là "trí thức văn nghệ sĩ" đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của ḿnh đă tham gia NVGP.

    Tập tư liệu dày 370 trang này - chứng tích một thời mà chữ nghĩa đă đạt tới đỉnh cao của sự bồi bút - c̣n hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, nó mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của cuộc đấu tố. Đồng thời nó cũng gián tiếp trả lời những lập luận gần đây, cố t́nh hạ thấp hoặc thu gọn tầm vóc của phong trào NVGP thành một cuộc "đánh đấm nội bộ", tranh giành thế lực cá nhân, không liên hệ ǵ đến vấn đề tự do tư tưởng.

    Trong cuốn sách đó có viết: "Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực tế là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đ̣i "tự do, độc lập" của văn nghệ, rêu rao "sứ mạng chống đối" của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.

    Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên "con người" trừu tượng, thực ra chúng đ̣i văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.

    Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" hằn học đả kích nền văn nghệ xă hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xă hội chủ nghĩa, chúng đ̣i đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.

    Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối sự lănh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đ̣i "trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ", thực ra chúng đ̣i đưa quyền lănh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.”

    Điều này cho thấy sự quy chụp táo tợn và trơ trẻn của đảng cộng sản với những văn nghệ sĩ thực thụ muốn dùng ng̣i bút nghệ thuật vào đóng góp cho dân chủ. Hành động đánh phá và quy chụp này cho thấy đảng cộng sản độc tài chính là kẻ thù không đội trời chung của tự do, dân chủ.

    Tố Hữu, khi ấy là Ủy viên Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền được coi là người dập tắt phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm. Trong cuốn “Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, nhà xuất bản Văn Hóa, 1958, mà ông là tác giả, Tố Hữu đă nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau: "Lật bộ áo "Nhân Văn - Giai Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm;" (trg 9. Sđd).

    Hay có đoạn: "Trong cái công ty phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm" ấy thật sự đủ mặt các loại "biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của ḿnh, cố t́nh chống lại cách mạng và chế độ;". (trg 17. Sđd).

    Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan điểm văn nghệ của phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm như sau:

    “Những tư tưởng chính trị thù địch Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản. Xuyên tạc mâu thuẫn xă hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lănh đạo. Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách mạng xă hội chủ nghĩa. Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, găi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.”

    Đến đây ta có thể thấy đội ngũ văn nô của đảng cộng sản đă cố t́nh nhào nặn lên một h́nh tượng ngược lại hoàn toàn với những ǵ được coi là sự thật về NVGP. Đảng cộng sản đă cố t́nh quy chụp một cách vô lư những trí thức dám nói thẳng thật về những nghịch lư trong xă hội độc tài cộng sản.

    Đối với văn nghệ do đảng cộng sản Việt Nam lănh đạo, Trường Chinh là người đă đưa các quan điểm văn nghệ của Mao Trạch Đông vào hoạt động Văn hóa Cứu quốc từ năm 1943, kiên tŕ bảo vệ nó cho tới khi đổi mới, đă tạo ra rất nhiều vụ án văn nghệ khác nữa, là nhân tố chính làm cho nền văn nghệ Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền nhưng tụt hậu so với sự phát triển chung của văn nghệ nhân loại. Trường Chinh th́ xuyên suốt các văn kiện từ khởi thủy cho đến sau này đều dựa trên các nguyên lư văn nghệ của Mao Trạch Đông: "bắt văn nghệ phục vụ chính trị, lấy mục tiêu sáng tạo văn nghệ là phục vụ công nông binh, phục vụ tuyên truyền như là một mệnh lệnh tuyệt đối cho văn nghệ sĩ". Chưa bao giờ thấy ông đưa ra các yếu tố tự do tư tưởng, tự do sáng tác, tự do ngôn luận làm điều kiện cho sự thành công của nền văn hóa xă hội chủ nghĩa. Ấy là chưa nói đến phương pháp lập luận của Trường Chinh đầy chất ngụy biện, giả dối, phản khoa học, thực dụng về chính trị. Rất nhiều mệnh đề của ông khi đưa vào vận hành quản lư văn nghệ đều đi ngược lại với tinh thần của nó. Và chính bản thân ông trong một số trường hợp cụ thể đối với một số tác phẩm đă thể hiện thái độ hẹp ḥi, thiển cận, quy chụp, trù dập văn nghệ sĩ.

    Ngược lại Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đ́nh Thi quan niệm: "…để thực hiện nền văn hóa mới, trước hết chúng ta phải củng cố nền độc lập hoàn toàn và làm thực hiện chính thể dân chủ cộng ḥa triệt để... Ban bố triệt để quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận, chính là cởi mở cho văn hóa trở nên sầm uất, và đem một luồng sinh khí mạnh mẽ thổi vào cái văn hóa bao lâu phải sống trong những pḥng ngục chật hẹp, thiếu ánh sáng, thiếu hơi nóng của mặt trời. Sách vở và báo chí được xuất bản tự do, nền văn nghệ của ta mới có thể dồi dào phong phú”.

    Chính v́ có sự khác biệt quá lớn về tư tưởng và những yếu tố chính trị trong việc tồn vong của đảng cộng sản trước những bài viết phơi bày sự thật, đảng cộng sản đă trả thù hèn hạ với những người thuộc nhóm NVGP.

    Ngày 10- 12- 1959 Ṭa án nhân dân Hà Nội khai mạc phiên ṭa xử Vụ án gián điệp hoạt động phá hoại hiện hành. Nội dung bản án kết tội như sau: "Chúng là những tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành, hoạt động có tổ chức, thực hiện âm mưu của địch, tiến hành những hoạt động chiến tranh tâm lư đê hèn nhất, những hoạt động phá hoại thâm độc nhất, để cuối cùng lật đổ chế độ chúng ta ở miền Bắc."

    Kết quả tuyên án như sau:

    Nguyễn Hữu Đang 15 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù.
    Lưu Thị Yến tức Thụy An 15 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù,
    Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức 10 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù.
    Phan Tại 6 năm tù giam, 3 năm quản chế.
    Lê Nguyên Chí 5 năm tù giam, 3 năm quản chế......

    Ngoài ra sau đó c̣n tiếp tục có những hoạt động là dư âm hậu quả của NVGP về sau này:

    Năm 1960: Phùng Cung bị bắt. Lư do: Tiếp tục sáng tác các truyện ngắn có nội dung bất măn, chống đối, phản động.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 38
    Last Post: 13-12-2012, 02:43 PM
  2. Replies: 17
    Last Post: 29-07-2011, 02:52 AM
  3. Replies: 1
    Last Post: 16-04-2011, 12:08 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •