Bác sĩ Thái Minh Trung

Định mệnh là ǵ?

Một số người tin rằng những diễn biến xảy ra trong cuộc đời đă được an bài sẵn. Khoa chiêm tinh (astrology) tin rằng những diễn biến trên quả địa cầu và tánh t́nh con người đều bị ảnh hưởng bởi những vị trí ngôi sao trên trời. Nếu ta sanh vào ngày tháng nào đó th́ sẽ bị dấu ấn của những v́ sao ảnh hưởng lên tánh t́nh và những diễn biến trong cuộc đời. Những người đó tin rằng ngay khi sanh ra là định mệnh đă an bài rồi, không ai chạy khỏi hết. Thí dụ người tuổi Sửu th́ trong cuộc sống sẽ trải qua những năm thuận và năm kị tuổi. Năm thuận và kị như những cái đèn xanh đèn đỏ của đời người. Năm thuận th́ gặp đèn xanh nhiều, làm ǵ cũng êm xuôi và năm kị th́ trường hợp ngược lại.
Người đạo Ki tô giáo tin rằng những ǵ xảy ra cho họ là do ư muốn của Đức Chúa Trời. Chúa đặt đâu ta ngồi đó. Có người Chúa đặt vào hoàn cảnh giàu sang, c̣n người khác bị lâm vào hoàn cảnh nghèo đói. Ta không căi ư Chúa được. Ta cần cầu nguyện để cho Chúa thương xót mà thay đổi hoàn cảnh cho ta. Có thể những hoàn cảnh khó khăn là những thử thách nên ta không nên than trời trách phận. Một số con chiên c̣n mang mặc cảm tội lỗi là ḿnh đă làm ǵ khiến Chúa phật ḷng nên Ngài mới đặt ḿnh vào hoàn cảnh khổ sở.
Người Phật tử th́ tin rằng định mệnh là nghiệp. Ḿnh đang ở hoàn cảnh xấu là do ḿnh tạo nghiệp xấu từ kiếp trước. Ḿnh nên "trả nghiệp" bằng cách chịu đựng một thời gian th́ nghiệp sẽ hết. Khi cái nghiệp xảy ra th́ ḿnh không thay đổi được. Nhiều người cũng không muốn thay đổi v́ e rằng làm như thế nghiệp sẽ nặng hơn. Giống như thiếu nợ th́ phải trả cho chủ nợ, cứ khất nợ hoài th́ nó chồng chất, ḿnh sẽ trả không nổi. Có nghĩa là ḿnh muốn thoát hoàn cảnh này th́ sợ gặp phải hoàn cảnh xấu hơn nữa, như tục ngữ có câu: chạy ông mồ mắc ông mả.
Những người tin hoàn toàn vào định mệnh th́ sẽ rất thụ động. Nói đúng hơn họ sợ làm cái ǵ đó khác hơn để thay đổi hoàn cảnh, nên phải đứng yên cắn răng chịu đựng. Đó là những người rất lo âu trước cái vô định của cuộc sống nên thích tin vào một đường lối đă vạch định sẵn.
Quyền lựa chọn
Khi phân tích kỹ ta thấy rằng khoa chiêm tinh không có đưa ra một định mệnh không thể thay đổi. Con người có quyền chọn lựa ngày tháng tốt để bắt đầu công việc làm ăn quan trọng, chọn lựa chồng hay vợ hạp tuổi để tránh những mâu thuẫn về tánh t́nh. Ngoài ra dân gian có câu: cái đức thắng cái số. Nếu ta ăn ở hiền lành th́ nếu gặp "năm tuổi" th́ sự xui xẻo sẽ ít hơn. Ngày nay khoa học hiểu rằng mỗi người chúng ta đều có một nhịp điệu sinh hóa (bio rhythm) thay đổi theo sức hút các ngôi sao. Ở phụ nữ, chu kỳ kinh nguyệt có nhịp điệu sinh hóa thấy rơ. Khi ta bắt đầu công việc quan trọng vào thời điểm nhịp sinh hóa cao th́ dễ thành công hơn. Tuy nhiên ảnh hưởng của nhịp sinh hóa không đáng kể so với ảnh hưởng của ư định (intention). Ngay khi ta ở giai đoạn nhịp sinh hóa cao mà có ư định xấu (tham lam, hờn giận) th́ ư định sẽ làm biến đổi nhịp sinh hóa theo chiều xấu.
Đạo Ki tô cũng thế, đề cao sự chọn lựa và ư định tốt. Chúa Jesus không lên án người đàn bà ngoại t́nh bị dân làng muốn chọi đá cho chết, như người dân làng thường tin là định mệnh của những người đàn bà ngoại t́nh. Ngược lại Chúa khuyên dân làng hăy dừng lại và có những lời khuyên đề cao sự tha thứ. Chúa khuyên chúng ta nên có ư định tốt và chọn lựa sự tha thứ để thoát khỏi định mệnh an bài. Khi hiểu được ư nghĩa câu chuyện này th́ ta thấy rơ rằng ta có quyền chọn lựa 2 con đường: con đường buộc tội và con đường tha thứ. Con đường buộc tội là con đường của định mệnh: ta buộc tội và bị người khác buộc tội lại. Con đường tha thứ là con đường của giải thoát.
Nghiệp trong Phật giáo cũng là một sự chọn lựa. Ta có quyền chọn lựa tạo dựng cơ sở của những nghiệp tốt, như cố gắng học hành để giúp ích xă hội. Ta có quyền chọn lựa nghiệp xấu như hút sách và rượu chè, như thế ta đạp phá những tiềm năng tốt. Thí dụ như uống rượu đến xơ gan làm sức khỏe suy tổn.. Thoạt đầu ta có sự tự do chọn lựa nhưng nếu ta chọn con đường rượu chè, x́ ke ma túy th́ dần dần khả năng chọn lựa của ta bị mất dần. Khi bị nghiện rồi th́ ta hoàn toàn mất sự tự do chọn lựa và trở thành nô lệ cho những thói quen xấu này. Những căn bệnh hiểm nghèo kéo đến làm khả năng thay đổi cuộc sống càng khó hơn gắp ngàn lần.
Thế nào là nghiệp?
Nghiệp (karma) không có ǵ huyền bí hết, nghiệp là tác động của những động lực. Động lực đó có thể ở dạng thân, khẩu hay ư. Bất kỳ lực (force) nào cũng gây ra phản lực (counter force). Cái mục đích của lực và phản lực là để trở lại điểm yên tịnh ban đầu (initial stillness). Thí dụ như con lật đật, ta đẩy nó qua bên phải th́ nó bật trở về bên trái. Cuối cùng là nó đứng yên một chỗ. Sự đứng yên một chỗ có thể coi là niết bàn hay thiên đàng v́ nó tượng trưng cho trạng thái b́nh thản, không căng thẳng đau khổ.
Nói về cường độ của phản lực th́ trên thế giới vật chất ta có: ư nghĩ yếu hơn lời nói, và lời nói yếu hơn hành động. Thí dụ phản ứng của ta trước lời phê b́nh mà ta không thích: ta chửi thầm người ta ghét (ư) hậu quả ít hơn là ta la lối chửi người đó trong buổi tiệc (khẩu). Hậu quả của lời chửi bới ít hơn là hậu quả ta nhảy lại đánh người đó bầm ḿnh (thân).
Xă hội chỉ có h́nh phạt khi ta làm chấn thương người khác, c̣n tôn giáo th́ muốn khuyên ta nên trị tận gốc nghiệp dữ bằng cách dừng suy nghĩ giận dữ lại. Khi ư khởi dậy th́ nó tạo một tiềm năng hành động (potential of action) rồi. Thí dụ nói theo phàm tục, khi cái ư ghét đă khởi dậy rồi th́ ta muốn chửi cho đă miệng. Chửi thầm th́ ngủ không được.. Nhưng khi chửi bằng miệng mà bị đối phương chửi lại th́ ta càng tức hơn. Nếu ta dằn không được đi đánh lộn đến bị thương tích hay bị bỏ tù, về nhà lại càng tức hơn nữa. Như thế mà ta cứ tạo nghiệp thân-khẩu-ư thành một chuỗi lực và phản lực (chain of action and reaction).
Sở dĩ chiến tranh trên thế giới xảy ra liên tục là v́ con người không có đời sống tâm linh, dùng sự giết chóc để mong cầu trở về chỗ yên tịnh ban đầu. Người lính cảm tử quân Hồi giáo có cái ảo tưởng rằng khi giết chết kẻ thù ngoại đạo họ sẽ được sống trên thiên đàng, có nghĩa là trở về chỗ yên tịnh ban đầu. Đó là sự lầm lẫn vô cùng tai hại v́ khi họ tạo một động lực căm thù th́ sẽ để lại cái phản lực căm thù, như thế cứ lưu truyền măi không ngừng trên thế gian từ thế hệ này qua thế hệ kia.
Tuy nhiên nghiệp lực, khác như dân gian nghĩ, là khi kiếp trước ta lỡ ăn trộm người nào đó 10 đồng th́ kiếp này ta phải trả lại 10 đồng chẵn. Trên phương diện tâm linh, cái điểm yên tịnh ban đầu có được không phải khi ta trả lại 10 đồng mà khi ta nhận thức ta nên vui ḷng bỏ qua khi bị người khác giựt tiền rồi thực hiện được điều đó. Khi đọc những thí dụ của nhà soi kiếp E. Cayce th́ ta thấy rằng chỉ có sự vui ḷng bỏ qua th́ con người mới "trả" được cái nghiệp.
Nói một cách khác, sở dĩ ta mang cái nghiệp (bị phản lực/quả) v́ ta không nhận thức được những đau khổ mà ta đă tạo ra cho người khác (lực đă tạo/nhân), nên cái nghiệp nó xảy ra khiến ta bị đau khổ để ta thông cảm nỗi khổ của người kia. Lúc có sự thông cảm th́ lực và phản lực sẽ trung ḥa với nhau. Nhưng nếu trong đau khổ, ta lại thù người đó th́ sanh thêm cái nghiệp nữa, và như thế sẽ tạo ra cái ṿng lẩn quẩn mà Phật gọi là bánh xe luân hồi.
Tha thứ là giải thoát khỏi định mệnh
Hiểu được lực nhân quả tương tác ở nội tâm th́ ta mới hiểu được tại sao các vị lănh tụ tôn giáo kêu gọi sự tha thứ. Nếu không có tha thứ th́ không ai có thể trở về cái vị trí an lạc ban đầu được. Ư nghĩa cứu thế của Chúa Jesus là Ngài tự nguyện tha thứ những người hại Ngài, như một gương sáng giúp nhân loại vượt qua được sự vay trả đời đời của hận thù. Thù qua ghét lại có thể coi như là tội nguyên thủy của loài người. Tha thứ mới là phép mầu nhiệm thật sự. Phép mầu này ít ai nhận thấy được v́ nó trong sáng trong sự khiêm nhượng tột bực chớ không phải là sự màu mè hào nhoáng của Superman hay điệp viên 007 làm được những điều phi thường.
Hiểu như thế Chúa cứu thế không đến với ta từ hành tinh khác mà Chúa sẽ hiện diện trong chính ta nếu ta thực hiện được sự tha thứ trong đời ta. Khi sống trong khiêm nhượng và tha thứ th́ ta như con nhộng xé được cái vỏ của ngạo mạn để trở thành con bướm muôn màu. Ta không đợi đến khi chết mới được Chúa rước. Khi ra khỏi được cái vỏ của ngạo mạn th́ ngay trong giây phút đó ta thấy Chúa hiện diện trong ḷng ta.
Phật th́ khuyên ta nên hỷ xả, có nghĩa là bỏ qua trong sự vui vẻ. Ở dưới biển, có một loài cua thích sống trong vỏ ṣ (hermit crab), khi cua lớn lên th́ nó phải vui vẻ bỏ cái vỏ ṣ nhỏ để t́m cái lớn hơn chọn làm nhà. Hỷ xả cũng như thế, là từ bỏ sự nhỏ mọn để nh́n thấy sự rộng lượng. Hỷ xả là một phương pháp trị cái bịnh của ngă (cái tôi). Nếu ta cứ bám vào tiền tài, sắc đẹp, danh lợi th́ cái ḷng tham và sân của ta càng ngày càng lớn. Khi cảm thấy ta được càng nhiều (sở đắc) th́ ngạo mạn càng tăng theo. Sự đời vô thường làm cho ta không bao giờ giữ được măi măi những ǵ ḿnh muốn v́ thế ḷng tham ngày càng tăng trưởng. Khi có ai tước đoạt những ǵ ta đang được th́ ta sanh ḷng bực tức sân hận.
Tham và sân là nguyên nhân chính của lo âu. Tham có thể hiểu theo nghĩa rộng là muốn đem về cho ta v́ sợ để lâu th́ ta sẽ hết được phần lợi đó. Sân là sự bực bội khi gặp hoàn cảnh nghịch ư ta. Bề mặt bạo động của sân là chửi bới đánh lộn, c̣n mặt thụ động là "tự ái", hờn dỗi để bụng. Bụt dạy ta nên thấy cái vô thường của cuộc đời để lúc được th́ không tham và lúc mất th́ không sân. Ta phải tập hạnh hỷ xả th́ mới phát triển từ bi được. Ta không thể nào thương được người mà ta không tha thứ!
Tại sao tôn giáo nào cũng khuyên con người bố thí? Ta có thể hiểu tham, sân, si trên lư thuyết nhưng chỉ có hành động thực hiện sự ban cho mới giúp ta nhận thức rơ những hạn chế của ta. Thí dụ như khi cho mà ta thấy c̣n quyến luyến vật ta muốn cho th́ lúc đó mới chợt nhận ra ḿnh c̣n ḷng ham muốn. Khi bớt ḷng ham muốn đem về cho ḿnh rồi th́ ḿnh mới thông cảm kẻ khác được. Đây là cách bố thí nhận thức của người có căn cơ cao. Người căn cơ thấp th́ áp dụng bố thí trao đổi chớ không phải bố thí nhận thức. Bố thí trao đổi là bố thí để được hưởng phước lộc. Ta cho để lấy ḷng đấng nào đó mà ta thờ phụng. Ta bố thí để được Chúa hay Phật ban phước lành hay phù hộ. Chỉ có bố thí nhận thức mới giúp ta phát triển tâm linh được.
Thực tập tâm tĩnh lặng
Làm người ai cũng muốn thay đổi cuộc sống cho nó tốt đẹp hơn. Khi thay đổi không được hay không dám thay đổi th́ ta đổ thừa cho số phận hay định mệnh. Hoàn cảnh rất khó thay đổi khi ta duy tŕ tập quán, thói quen cũ. Nếu ta bị tiểu đường mà không chịu bỏ cái sở thích ăn đồ béo ngọt (tham) th́ bịnh làm sao mà hết được. Một số người th́ mong có phép lạ để được cứu khỏi hoàn cảnh khổ. Có nghĩa là họ muốn ăn cho ngon miệng sau đó th́ cầu xin phép lạ không bị tiểu đường. Nếu phép lạ không đến th́ họ sẽ có hai phản ứng. Phản ứng thứ nhất là mất hết niềm tin ở một đấng nào đó mà họ tin tưởng. Thí dụ người công giáo mất niềm tin ở Chúa cứu thế, c̣n phật tử th́ mất niềm tin nơi Phật Bà Quan Âm hay Phật A Di Đà. Phản ứng thứ hai là mang mặc cảm tự ti v́ một số người nghĩ rằng họ bị tội nhiều quá hay nghiệp nặng quá nên không được cứu rỗi.
Nói về sân hận, khi ta không thay đổi ư mà ráng kềm chế miệng lưỡi hay thân thể th́ mặc dù ta không tạo nghiệp dữ nhưng cảm thấy rất khổ sở, g̣ bó khó chịu. Khi ta nuôi dưỡng những suy nghĩ bực bội sân hận chắc không có phép lạ nào giúp cho ta an tâm để ngủ ngon được. Nói theo nhân quả, ta tạo một động lực nhân th́ cái phản lực quả sẽ núp chờ đâu đó. Rồi sự căng thẳng nội tâm ngày càng tăng dần đến một lúc ta hết đè nén nổi và gây ra nghiệp qua lời nói hay hành động. Đó là lúc cái phản lực xảy ra ngoài thế giới vật chất để làm dịu bớt cái lực tư tưởng của sân hận đang bị đè nén. Tuy nhiên đa số không trở về được cái trạng thái yên tịnh an lạc ban đầu v́ lư do dễ hiểu là khi ta chửi mắng người ta ghét th́ có bao giờ họ chịu để cho ta yên thân đâu. Sớm muộn ǵ họ sẽ t́m cách trả đũa. Đó là cái ṿng lẩn quẩn của nghiệp vay trả.
Tâm lư học cho ta thấy rơ sự lư luận và tranh luận không làm giảm được tham và sân. Khi lư luận ta hiểu được mọi chuyện nhưng những hiểu biết đó không có khả năng thăng hoa (sublimation) được tham và sân thành những t́nh cảm tốt đẹp hơn. Đôi khi tranh luận đúng sai nhiều c̣n tạo thêm sân nữa. Những nghiên cứu chụp h́nh năo bộ cho ta thấy rằng khi lư luận ta chỉ xài vỏ năo bộ (cortex) và không liên kết được với những miền sâu hơn trong năo bộ, nơi t́nh cảm xuất phát. Hiện tượng này phân tâm học gọi là hợp lư hóa (rationalization). Khi ta dùng lăng kính hợp lư hóa trong cuộc sống th́ dễ sanh ra thành kiến chia rẽ con người. Thí dụ ta nghĩ màu đen là màu của tội lỗi v́ thế người da đen là kẻ xấu.
Chỉ có khi ta tập tâm tĩnh lặng th́ ta mới có khả năng hiểu qua sự cân bằng của trí tuệ và t́nh cảm. Cái hiểu này toàn diện hơn là cái hiểu qua suy luận. Suy luận thường hay trừu tượng và chỉ giúp ta hiểu được một khía cạnh nhỏ của cuộc đời. Những bậc thánh nhân đều phải trải qua giai đoạn thực tập tâm tĩnh lặng rồi mới thấy được ánh sáng của chân lư. Chúa Jesus đă vào sa mạc để cầu nguyện trong tĩnh lặng. Chỉ khi Ngài cảm nhận được ánh sáng của Thượng Đế th́ Ngài mới đủ can đảm chịu cái chết đau đớn trên thập tự. Đức Phật Thích Ca đă ngồi với tâm tĩnh lặng dưới cây bồ đề 49 ngày. Nhờ thế Ngài mới hiểu được ư đồ lừa bịp của ma vương Maya, chiến thắng ma vương và giác ngộ được chân lư. Có lẽ lúc Phật c̣n tại thế, người dân thời đó có nhiều mê tín trong việc tôn thờ nên Bụt gọi Ánh sáng chân lư là Phật tánh chớ không gọi là Thượng đế. Hiểu theo Phật giáo, Thượng đế không phải là Cha mà là Chân lư tối cao.
Hiểu bằng ư thức khi tâm tĩnh lặng rất khác với cái hiểu của suy nghĩ. Những nghiên cứu đo điện từ năo bộ (EEG) cho thấy rằng khi tâm tĩnh lặng th́ những làn sóng năo thay đổi rơ rệt, từ dạng sóng (beta waves: 15- 45 Hz) trở thành dạng sóng (alpha waves: 8-12 Hz) và (theta waves: 3-7 Hz). Sóng thường thấy ở những người suy nghĩ lăng xăng, c̣n sóng và được thấy khi ta thư giăn. Sóng c̣n được gắn liền với khả năng sáng tạo. H́nh fMRI scan cho thấy khi tâm tĩnh lặng, máu dồn về những vùng của năo bộ tạo cảm giác thoải mái hạnh phúc và có sự liên kết hài ḥa giữa vỏ năo và những vùng sâu hơn của năo. Nói một cách khác, tâm tĩnh lặng đồng bộ hóa (synchronize) nhiều vùng trong năo bộ giúp ta liên kết được nhiều mạch thần kinh và nhờ đó mà mở rộng tầm nhận thức ra.
Tóm lại
Định mệnh có hay không là do ta. Khi ta biết tập những phương pháp mở rộng nhận thức tâm linh th́ cái khả năng ta thay đổi cuộc đời rất cao. Nếu ngược lại ta thụ động đổ thừa cho số mạng hay ngồi đó chờ một phép lạ xảy ra th́ lúc đó định mệnh có thật v́ ta không tận dụng khả năng thay đổi cuộc sống của ta. Nói một cách khác, nếu ta tin có ma th́ sẽ gặp ma, ta tin có Phật hay Chúa th́ sẽ gặp những đấng mà ta tin.
Nếu có người ở tŕnh độ thấp th́ tin vào định mệnh cũng có cái lợi của nó là ḷng tin đó giúp họ chấp nhận những biến cố xấu và trải qua những đau khổ cuộc đời dễ dàng hơn. Họ không than trời trách phận hay sanh ḷng ganh ghét hoặc hận thù v́ "đó là số mệnh của ḿnh".
Tuy nhiên nếu ta có tŕnh độ cao th́ nên tập những phương pháp giúp tâm tĩnh lặng v́ đó là phương pháp nhanh và gọn để "chuyển nghiệp" dẫn ta đến hạnh phúc ngay trong đời này. Phương pháp này cũng giúp ta hiểu các tôn giáo một cách sáng tạo chớ không kẹt vào chữ nghĩa văn tự nữa.
Bất kỳ độc giả ở tôn giáo nào, khi mỗi người trong chúng ta phát triển được ư thức tâm linh qua tâm tĩnh lặng th́ ư thức này sẽ cộng hưởng với nhau. Rồi một ngày nào đó nó sẽ trở thành ư thức tâm linh cộng đồng (collective spiritual consciousness) làm xoay chuyển xă hội vật chất. Chúng tôi hy vọng sẽ có một ngày ư thức tâm linh cộng đồng sẽ phát triển đến độ mà con người sẽ nhận thức rằng những tôn giáo đều hướng về một con đường chung: đó là con đường tâm linh (spiritual way). Lúc đó con người sẽ sống hạnh phúc an b́nh ở một kỷ nguyên mới.

Nguồn:
http://saigontimesusa.com/bai/ykhoa/dinhmenh.shtml