Page 5 of 6 FirstFirst 123456 LastLast
Results 41 to 50 of 58

Thread: Chiến tranh biên giới Việt-Trung

  1. #41
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Sự hy sinh cần được trả công xứng đáng
    Mặc Lâm, biên tập viên RFA
    2012-12-17

    Một bản đề nghị gửi tới lănh đạo cao cấp nhất Việt Nam vừa đựơc công khai trên mạng sau hai tháng không nhận được hồi báo. Bản kiến nghị nêu ra năm điểm có liên quan tới sự hy sinh của bộ đội, chiến sĩ và nhân dân trong các cuộc chiến tranh từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

    Photo by Lê Quang Nhật

    H́nh đăng trên bài báo của Huy Đức trên tờ Sài G̣n Tiếp Thị-2009 (đă bị gỡ xuống). Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên hoang vắng, quạnh quẽ.


    Bản kiến nghị nêu ra năm điểm có liên quan tới sự hy sinh của bộ đội, chiến sĩ và nhân dân trong các cuộc chiến tranh từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

    Kư tên trong kiến nghị là: Thiếu tướng Lê Duy Mật, nguyên Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu 2, Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Giang. Đại tá Cao Sơn, nguyên Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu 2, Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Giang. Đại tá Quách Hải Lượng, nguyên Tùy viên Quân sự ĐSQ Việt Nam tại Trung Quốc. Đại tá Phạm Xuân Phương, nguyên chuyên viên Tổng Cục Chính trị. Nhà báo, nhà văn Phạm Viết Đào nguyên Trưởng pḥng Thanh tra hành chính chống tham nhũng của Bộ Văn Hóa.

    Những cuộc chiến sau năm 1975

    Mặc Lâm có bài phỏng vấn Đại tá Phạm Xuân Phương và nhà văn Phạm Viết Đào để biết thêm chi tiết bản kiến nghị này. Trước tiên Đại tá Phạm Xuân Phương cho biết:

    Đại tá Phạm Xuân Phương : Chúng tôi dựa vào một nghị định của chính phủ. Đó là Nghị Định số 23 mà chúng tôi đánh giá cao về một số chế độ đối với người tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc từ sau 1975 đến nay. Chúng tôi nghĩ rằng nghị định này đă chứng tỏ đây là nghị định thực hiện chỉ thị của Bộ Chính Trị - Tháng 4/2012. Đă xác định những thời hạn mà chúng tôi hoàn toàn đồng t́nh, tức là chiến đấu trên biên giới phía Nam từ tháng 5/1975 đến ngày 7/1/1979.

    Chiến đấu chống quân FULRO Tây Nguyên từ tháng 5/1975 đến tháng 12/1992. Thứ ba là làm nghiệm vụ quốc tế giúp bạn từ tháng 1/1979 đến 31/8/1989. Từ khi chúng ta hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia, và chiến cuộc trên biên giới phía Bắc và biển đảo Hoàng Sa – Trường Sa từ 17/2/1979 đến 31/12/1988. Việc tính toán thời gian để tính chế độ cho anh em th́ chúng tôi cho là một cách tính toán chính xác, nó phản ánh đúng thực tế đă xảy ra.

    Chiến đấu chống quân FULRO Tây Nguyên từ tháng 5/1975 đến tháng 12/1992. Thứ ba là làm nghiệm vụ quốc tế giúp bạn từ ...1979 đến ...1989. Từ khi chúng ta hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia, và chiến cuộc trên biên giới phía Bắc và biển đảo Hoàng Sa – Trường Sa

    Đại tá Phạm Xuân Phương


    Chuyển quân từ chiến trường Campuchia ra biên giới phía Bắc. Source bmt9x.com
    Mặc Lâm : Xin Đại Tá cho biết kiến nghị nhắm vào những điều ǵ bên cạnh những mặt tích cực của nghị định 23 đă được chính phủ cho lưu hành trong toàn bộ các cơ quan truyền thông?

    Đại tá Phạm Xuân Phương : Phải nói rằng từ sau 1975 chúng ta đă chuyển sang một h́nh thái chiến tranh mới. Nếu chúng ta xâu chuổi tất cả những sự kiện đó lại, tức là chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Đáng tiếc rằng nghị định 23 này mới chỉ giải đáp một phần nhỏ của vấn đề chiến tranh này.

    Đây là cuộc chiến tranh có 5 đặc điểm lớn mà đặc điểm thứ nhất là ngay sau 30 tháng 4, sáng 1 tháng 5 bè lũ tay sai của đám bành trướng bá quyền Đại Hán Bắc Kinh th́ chúng ta đă tiếp nhận một cuộc chiến tranh với đội quân mà sau này chúng ta gọi là đội quân diệt chủng. Đội quân Pol Pot diệt chủng của Khmer Đỏ đấy. Sáng mùng 1 tháng 5 họ đă bắt đầu tấn công ta, tức là Trung Quốc đă sử dụng đội quân này để tấn công chúng tôi. Ngày 1 tháng 5 họ đă tấn công rồi cho nên đấy là đặc điểm mà chúng ta phải thấy ngay.

    Cuộc chiến tranh đó kéo dài và diễn ra trên quy mô toàn quốc, từ Nam tới Bắc. Trên cả đất liền cũng như trên biển và hải đảo, trên cả hai đất nước bạn là Lào và Campuchia, mà chủ yếu là Campuchia. Đấy là đặc điểm thứ hai.


    Cán binh CSVN bị bắt làm tù binh trong cuộc chiến biên giới 1979. Để ư, có nhiều súng M79 và súng tiểu liên của Mỹ, bị TQ thu. Source báo chí TQ
    Đặc điểm thứ ba là chúng ta đă phải chiến đấu ṛng ră với một đội quân xâm lược đă được động viên, tổ chức từ năm 1972. Đội quân đó chính là đội quân của Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc thuộc nhiều đại quân khu, và khi họ tiến công chúng ta vào tháng 2/1979 th́ họ đă chuẩn bị từ năm 1972. Đội quân này được sử dụng với 60 vạn tên.

    Đặc điểm thứ tư là chúng ta bị buộc phải bước vào một loại h́nh chiến tranh mới với một đối tượng tác chiến chiến thuật đặc biệt mà ta chưa hiểu rơ. Trong hoàn cảnh chúng ta vừa kết thúc chiến tranh và chưa kịp hàn gắn các vết thương. Trong một bối cảnh khu vực và bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp, đan xen nhiều mối quan hệ chồng chéo các lợi ích quốc gia, lợi ích hai phe, lợi ích từng phe, thậm chí c̣n bị cấm vận và cô lập. Đấy là đặc điểm thứ tư.

    Cuộc chiến tranh đó kéo dài và diễn ra trên quy mô toàn quốc, từ Nam tới Bắc. Trên cả đất liền cũng như trên biển và hải đảo, trên cả hai đất nước bạn là Lào và Campuchia, mà chủ yếu là Campuchia

    Đại tá Phạm Xuân Phương

    Đặc điểm thứ năm là mặc dầu chịu nhiều thiệt hại và tổn thất làm chậm lại công cuộc khôi phục kinh tế, xây dựng và phát triển đất nước, nhưng rốt cuộc quân dân ta đă giành được thắng lợi. Tức là thế nào ? Tức là chúng ta đánh bại được cuộc chiến tranh này, giữ vững chủ quyền và bảo vệ toàn vẹn lănh thổ, đặc biệt là đă tiêu diệt bọn Pol Pot và chế độ diệt chủng man rợ mà cả loài người tiến bộ toàn thế giới lên tiếng ủng hộ.

    Cuộc chiến bị lăng quên?

    Mặc Lâm : Xin cám ơn đại tá Phạm Xuân Phương. Chúng tôi sẽ quay lại với ông ở câu hỏi thứ hai. Thưa nhà văn Phạm Viết Đào, xin ông chia sẻ thêm chi tiết những điểm được đưa ra trong bản kiến nghị này là ǵ, thưa ông?

    Nhà văn Phạm Viết Đào : Bản kiến nghị có 5 điểm, chủ yếu là 4 điểm về nội dung, mà nội dung thứ nhất là nhân Nghị Định 23 do Thủ Tướng ban hành theo chỉ thị của Bộ Chính Trị, đấy là chỉ thị xác định mốc giới cuộc chiến tranh và ghi nhận lệnh nhà nước là các cuộc chiến tranh sau năm 1975.

    Doanh trại CSVN bị lính Trung Cộng chiếm năm 1979.
    Doanh trại CSVN bị lính Trung Cộng chiếm năm 1979. RFA file
    Có rất nhiều cuộc chiến tranh mà quan trọng nhất là cuộc chiến tranh với Trung Quốc. Nh́n chung tôi thấy đây là lần đầu tiên công khai bằng một nghị định, chúng tôi nghĩ cái nghị định ấy là một phần thôi mà cần phải làm rơ hơn, đó là bài học của các cuộc chiến tranh ấy cần phải tổng kết. Mà tổng kết không phải chỉ riêng về mặt sử học, về mặt các văn bản, mà tôi đề nghị cần phải tổng kết về mặt chiến dịch, chiến thuật và những bài học lịch sử chiến tranh. Đấy là kiến nghị thứ nhất.

    Kiến nghị thứ hai là sau khi cuộc chiến tranh kết thúc th́ Việt Nam – Trung Quốc có hoạch định đường biên giới, mà theo tôi biết th́ một số đoạn đường biên giới đă nắn lại, không theo đường biên giới cũ, cho nên có t́nh trạng là có một số những trận chiến đấu, lúc ấy ḿnh chiến đấu trên đất ḿnh nhưng khi hoạch định biên giới rồi th́ nó trở thành của Trung Quốc, thành ra rất nhiều những hài cốt liệt sĩ bây giờ nắm trên đất Trung Quốc.

    Nhân dân cũng rất nhiều người bị lâm hoàn cảnh này và tôi biết rất nhiều vùng của nhân dân ḿnh bây giờ cũng thành ra đất Trung Quốc.

    Bây giờ chuyển sang dân sự th́ thôi nhưng về mặt các liệt sĩ ḿnh hy sinh nằm lại bên đó th́ cần phải có chính sách để đưa về. Một số cao điểm ở vùng Hà Giang, Cao Bằng trong chiến tranh xảy ra đánh nhau rất là ác liệt, hài cốt anh em ḿnh nằm ở đấy không lấy về được, mà chung quanh c̣n bom ḿn c̣n nhiều.

    Những năm kỷ niệm sự kiện lớn là ḿnh phải có những mốc giới để ghi lại cái đó, cũng như sự kiện Đống Đa, sự kiện Điện Biên Phủ trên không. Tại sao sau cuộc chiến tranh với Trung Quốc chúng ta lại không làm

    nhà văn Phạm Viết Đào

    Về phía nhà nước th́ Bộ Quốc Pḥng có dự án rà những chỗ bom ḿn ở phía bên phần đất của ḿnh để anh em cựu chiến binh t́m lại hài cốt đồng đội ḿnh. Vừa rồi một số đơn vị t́m lại hài cốt đồng đội cũ nhưng người ta tự đi theo những con đường mà họ biết có những trận đánh hy sinh hàng trăm hàng ngh́n bộ đội ở vùng biên giới. Những hài cốt ấy cần phải được đưa về bằng một chính sách.

    Điều thứ ba là cần phải bạch hóa các cuộc chiến tranh này và phải đưa vào lịch sử, đưa vào các văn kiện.

    Cái thứ tư là phải tổ chức kỷ niệm, xác nhận đấy là cuộc chiến tranh. Đây là cuộc chiến tranh kết cấu bằng xương máu của đồng bào chiến sĩ th́ về mặt lịch sử cần phải có những kỷ niệm, những ngày lễ chính. Những năm kỷ niệm sự kiện lớn là ḿnh phải có những mốc giới để ghi lại cái đó, cũng như sự kiện Đống Đa, sự kiện Điện Biên Phủ trên không. Tại sao sau cuộc chiến tranh với Trung Quốc chúng ta lại không làm ?

    Cho nên bốn vấn đề đấy là những vấn đề chúng tôi rất là bức thiết.

    Mặc Lâm : Xin cám ơn nhà văn Phạm Viết Đào. Quay lại với Đại tá Phạm Xuân Phương, xin Đại Tá cho biết là sau hai tháng gửi đi và không nhận được hồi báo, lúc gần đây th́ quư vị có nhân được dấu hiệu tích cực nào hơn hay không, thưa ông?

    Đại Tá Phạm Xuân Phương : Chúng tôi phối hợp tất cả các cách để yêu cầu những người lănh đạo có liên quan phải trả lời. Theo anh Vinh thông báo với tôi th́ ông Lê Hồng Anh đă có điện thoại cho anh Lê Duy Mật và hẹn sẽ làm việc. Chúng tôi đang chuẩn bị để chờ buổi làm việc này đấy anh.

    Là những người trực tiếp nên chúng tôi rất sốt ruột. Chúng tôi nghĩ thế này, 37 năm đă qua rồi thế mà cái nghị định này mới đáp ứng được một phần thôi, c̣n một loạt vấn đề lớn cần phải đặt ra.

    Mặc Lâm : Xin được cám ơn Đại tá Phạm Xuân Phương và Nhà văn Phạm Viêt Đào

  2. #42
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Phỏng vấn TT Lê Duy Mật nhân dịp 34 năm cuộc chiến Biên Giới Việt - Trung
    Mặc Lâm, biên tập viên RFA
    2013-02-17

    Đúng 34 năm về trước, ngày 17 tháng Hai năm 1979 Trung Quốc xua quân tấn công Việt Nam trên toàn biên giới phía Bắc và chiếm giữ các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và một số thị trấn dọc biên giới.

    AFP PHOTO

    Quân đội Việt Nam tại cuộc chiến biên giới Việt Trung năm 1979, ảnh chụp hôm 23-02-1979.

    Theo tướng Ngũ Tu Quyền của Trung Quốc th́ Việt Nam thiệt hại 50 ngàn bộ đội c̣n Trung Quốc chết tại chiến trường là 20 ngàn. Trong khi đó sự thay đổi trầm trọng trong cách ứng xử của chính quyền VN đối với những chiến sĩ, đồng bào đă hy sinh để bảo vệ biên thùy đang gây bức xúc cho người trong cuộc và buộc họ phải lên tiếng.

    Mặc Lâm phỏng vấn Thiếu tướng Lê Duy Mật nguyên Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân khu 2, Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Giang để biết thêm nguyện vọng của một tướng lĩnh trong vấn đề gay gắt này.

    Mặc Lâm: Thưa Thiếu tướng, chúng tôi được biết là ông cùng với bốn vị nữa đă kư tên vào một kiến nghị có tên là “Kiến nghị 5 điểm” nhằm đánh động việc cuộc chiến biên giới phía Bắc có thể bị bỏ quên, xin ông cho biết kiến nghị đă được gửi tới đâu và có bất cứ phản hồi nào hay không ạ?

    TT Lê Duy Mật: Tôi đă có thơ cho ông Lê Hồng Anh, cho tất cả. Thí dụ như Chủ tịch, rồi Quốc hội, Chính phủ, Ban bí thư, thường trực Ban bí thư. Tôi có biên thư riêng cho Lê Hồng Anh. Tôi mới gửi đợt 2. Cái thư mới gửi đợt 2, tháng 12 thôi.
    Không hiểu ư đồ của nhà nước


    Bốn chữ "Trung Quốc xâm lược” đă bị đục bỏ trên tấm bia kỷ niệm chiến thắng tại đầu cầu Khánh Khê - Ảnh: Trường Sơn/blog Quê Choa.
    Mặc Lâm: Trong thời gian gần đây nhiều gia đ́nh liệt sĩ của cuộc chiến 1979 đă không biết hài cốt của con em ḿnh nằm tại đâu v́ sau đợt cắm mốc biên giới th́ phần đất Việt Nam chôn hài cốt liệt sĩ đă thụt sâu về phía Trung Quốc. Thiếu Tướng có nghĩ rằng nhà nước phải làm một điều ǵ đó để mang lại công bằng cho những người này hay không?

    TT Lê Duy Mật: Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói ǵ với Trung Quốc, nếu không phải bàn với ngoại giao Trung Quốc, quân đội Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc th́ mới có thể giải quyết được.

    Nói chung là có ba bốn việc phải làm. Một là liệt sĩ, hai là nhân dân của ḿnh bao nhiêu đời ở bên đây, bây giờ về đất họ. Thứ ba là cắm mốc biên giới. Thứ tư là các chính sách. Thứ năm là viết sử cho cuộc chiến đó v́ đối tượng chiến tranh với Trung Quốc là đối tượng khác, đối tượng đặc biệt không giống với thằng Pháp, thằng Mỹ đâu.

    Cho nên nếu nhà nước không làm là không có quan điểm, thiếu trách nhiệm và chính sách không tốt, ḷng người không tốt, đấy!

    Mặc Lâm: Gần đây có những bức ảnh cho thấy bia kỷ niệm liệt sĩ chống Trung Quốc đă bị chính quyền đục bỏ hai chữ Trung Quốc, tức là gián tiếp không thừa nhận cuộc chiến tranh này là cuộc chiến xâm lược do quân đội Trung Quốc tiến hành. Chính quyền cũng không cho phép tổ chức những lễ kỷ niệm vào các ngày có cuộc chiến xảy ra. Theo ông th́ việc này xuất phát từ nguyên nhân nào ạ?

    Ư đồ nhà nước thế nào thật ra tôi không rơ. Nhiều ngày lễ kỷ niệm nó cũng chẳng kỷ niệm cái ǵ. Sử sách không viết cái ǵ cả.

    TT Lê Duy Mật

    TT Lê Duy Mật: Đó là việc ngăn cấm mà tôi không hiểu ư đồ của nhà nước là như thế nào. Ư đồ của nhà nước chứ không phải của đảng. Ư đồ nhà nước thế nào thật ra tôi không rơ. Nhiều ngày lễ kỷ niệm nó cũng chẳng kỷ niệm cái ǵ. Sử sách không viết cái ǵ cả. Người ta quên cả việc đó cho nên người ta nói bậy. Thí dụ như tay Tổng Tham mưu trưởng nói bậy. Kẻ thù thế nào chẳng rơ, rồi chiến lược sách lược thế nào không rơ. Thế rồi ông Phùng Quang Thanh cũng nói chung chung dĩ ḥa vi quư thôi.

    Mặc Lâm: Thưa Thiếu tướng, có lẽ bắt đầu từ những chính sách hoàn hoăn vô giới hạn như thế cho nên nhiều người cho rằng, nếu có một cuộc chiến khác xảy ra th́ Quân Đội Nhân Dân Việt Nam sẽ không c̣n sức đề kháng v́ tâm lư lệ thuộc đă ăn sâu vào trong các sĩ quan từ dưới lên trên. Là một tướng lănh ông nghĩ ǵ về những lo lắng này ạ?

    TT Lê Duy Mật: Vấn đề đó th́ bây giờ thời b́nh cũng chẳng rơ được, nhưng lúc chiến tranh th́ dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng cho nên lúc bấy giờ quên hết, bỏ hết tất cả quá khứ mà có lẽ phải tiến về phía trước mới hiểu được bản chất của bộ đội cụ Hồ. Đồng thời chiến đấu trước gian khổ và chịu đựng cái chết, cái khổ không phải là khó. Hai là chiến tranh biên giới nó có khác cho nên vất vả lắm. Nhưng thực ra anh em vẫn giữ tốt, vẫn giữ pḥng ngự, giữ biên cương, và vẫn đánh địch, cho nên địch có đến đấy cũng không làm ǵ được.

    Mặc Lâm: Lịch sử ghi nhận rằng Trung Quốc đă lợi dụng yếu tố bất ngờ trong cuộc chiến năm 1979, thưa Thiếu tướng, ông có nghĩ rằng lúc ấy nhiều đơn vị đă mất cảnh giác khi tin rằng phía Bắc là bạn vàng, và họ không bao giờ giở thủ đoạn tấn công Việt Nam hay không ạ?


    Ảnh cùa Lê Quang Nhật.

    TT Lê Duy Mật: Vấn đề cảnh giác th́ không phải mất cảnh giác mà do nhà nước ta. Rồi chiến lược, sách lược, rồi th́ đường lối mọi cái là rơ đấy. V́ thằng Trung Quốc nó đánh ở đây để nó giải quyết nhằm thôn tính Campuchia. Người ta đánh Campuchia th́ ở đây ḿnh thôn tính. Hai là nó gây hấn ở Biển Đông để rồi bây giờ tiếp tục xâm lấn và muốn chiếm Biển Đông. Cũng do t́nh h́nh thực tế cụ thể trong bối cảnh lịch sử rồi ta mới có sách lược về chiến lược, chiến thuật và cách đánh ta nghiên cứu cho rơ. V́ đối tượng này là đối tượng người bạn láng giềng, người đồng chí, và người anh em, cho nên khó hiểu đối tượng này. Nhưng mà bây giờ th́ ta cũng đă có hiểu cũng khá hơn đấy.

    Mặc Lâm: Dưới cái nh́n của một người có kinh nghiệm chiến tranh với Trung Quốc ông có nghĩ rằng đây là lúc mà Trung Quốc có thể lập lại cuộc chiến của năm 1979, rồi họ sẽ rút quân chỉ sau vài tuần lễ để đưa Việt Nam vào cái thế phải chấp nhận những ǵ họ đưa ra hay không, thưa ông?

    TT Lê Duy Mật: Chưa, nó chưa đủ điều kiện, chưa đủ thời cơ và t́nh thế về chiến lược. Nó chưa thể đánh chiếm Hà Nội đâu. Khi xưa nó đánh để nó bàn thảo với ta rằng ta phải nhượng bộ và rút khỏi Campuchia để nó thôn tính Campuchia. Đây là vấn đề chiến tranh đă qua. Chiến tranh sắp tới th́ đối phương, là Tàu đấy, nó dùng phương thức khác, chứ không phải là chiến tranh tiến qua biên giới đâu.
    Đấu tranh cho gia đ́nh liệt sĩ

    nghia-trang-vi-xuyen-250.jpg
    Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên hoang vắng, quạnh quẽ. H́nh đăng trên bài báo của Huy Đức trên tờ Sài G̣n Tiếp Thị (đă bị gỡ xuống). Photo by Lê Quang Nhật.
    Mặc Lâm: Xin quay lại với câu hỏi đầu tiên. Thưa Thiếu Tướng, đối với vấn đề mộ phần liệt sĩ trên đất Trung Quốc cũng như các ngày lễ kỷ niệm và quan trọng hơn hết là sách giáo khoa ghi chép lịch sử cuộc chiến Biên giới phía Bắc, ông và đồng đội cũng như gia đ́nh họ sẽ có những đấu tranh ǵ đối với các chính sách lạt lẻo hiện nay, nhất là vần đề đăi ngộ gia đ́nh liệt sĩ ạ?

    TT Lê Duy Mật: Bây giờ th́ đă và đang làm, c̣n nhà nước thế nào, thái độ, quan điểm và chính sách thế nào th́ hiện nay c̣n chờ nhà nước. C̣n người cấp dưới, là tướng chỉ huy th́ chúng tôi phải đ̣i đến cùng về vấn đề cá biệt phải đưa về nơi quê hương đất tổ, về gia đ́nh người ta. Hai là nhân dân trên đó, phải xem xét thế nào để cho nhân dân khỏi khổ, biên giới có đúng hay không. Đấy, tôi th́ tôi thấy như thế thôi.

    Mặc Lâm: Một lần nữa xin cảm ơn Thiếu tướng Lê Duy Mật đă giúp chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn ngày hôm nay.

  3. #43
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Đúng vào ngày này 34 năm trước (17.2.1979),
    Trung Quốc bất ngờ tung hơn 60 vạn quân nổ súng xâm lược Việt Nam




    CLC: Báo Thanh Niên có ít nhất hai bài gọi tên Trung Quốc xua quân xâm lược Việt Nam vào 34 năm trước. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm báo chí gọi tên cuộc chiến. Một cuộc chiến bị biên tập và đục bỏ mấy chục năm qua khiến ḷng dân căm hờn. Tựa bài do CLC đặt lại.

    Đúng vào ngày này 34 năm trước (17.2.1979), Trung Quốc bất ngờ tung hơn 60 vạn quân nổ súng xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc, nhưng đă phải rút quân sau hơn một tháng gặp sự kháng cự mănh liệt của quân và dân ta, chịu nhiều tổn thất nặng nề.

    Tuy vậy cuộc chiến tranh xâm lược này cũng mở màn cho cuộc xung đột vũ trang tại biên giới giữa VN và Trung Quốc (TQ) kéo dài suốt 10 năm sau đó. Theo thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an, với độ lùi về thời gian, việc nh́n nhận lại cuộc chiến tranh này là hoàn toàn cần thiết.



    Nh́n lại chiến tranh biên giới 1979


    Thiếu tướng Lê Văn Cương



    Kể từ sau khi VN và TQ b́nh thường hóa quan hệ (1991), hai bên dường như đều không muốn nhắc lại cuộc chiến này. Từ hơn 30 năm qua, cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc gần như không được nhắc tới. Theo ông tại sao cuộc chiến lại bị rơi vào lăng quên như vậy?

    Để trả lời câu hỏi này có lẽ cần cả một hội thảo khoa học. Tôi chỉ xin lưu ư như sau, vào những năm kỷ niệm chẵn 10, 15... hay gần đây nhất là 30 năm sau cuộc chiến tranh chống TQ xâm lược (2009), báo chí, truyền h́nh của VN gần như không đưa tin ǵ về sự kiện này. Đây là một sự thiếu sót lớn trên góc độ Nhà nước. Hơn thế nữa, đó là một sự xúc phạm đến linh hồn của những đồng bào, chiến sĩ đă bỏ ḿnh để bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tháng 2.1979 và gần mười năm sau đó. Họ nằm dưới mộ có yên không? Gia đ́nh vợ con bạn bè và những người thân thích của họ sẽ nghĩ ǵ về chuyện này? Đă có ư kiến cho rằng nhắc đến những chuyện này cũng có nghĩa là kích động chủ nghĩa dân tộc. Tôi có thể khẳng định rằng nói như vậy là ngụy biện.

    Trong khi chúng ta im lặng th́ những dịp đó chúng tôi đă thống kê hệ thống phát thanh, truyền h́nh báo chí của TQ tung ra trung b́nh từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ trước VN”. Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đă vượt biên giới sang tấn công TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả. Từ hàng chục năm nay, hệ thống tuyên truyền của TQ đă nhồi nhét vào đầu người dân TQ rằng cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của VN.

    Theo tôi nghĩ, trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại, cả ở kênh nhà nước, nhân dân và trên truyền thông, chúng ta phải làm rơ và góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rơ bản chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung 1979. Đồng thời góp phần làm cho hơn 1,3 tỉ người TQ biết được sự thật rằng vào ngày đó hơn 60 vạn quân TQ đă vượt biên giới xâm lược VN. Việc chúng ta im lặng hàng chục năm qua, theo tôi là không đúng. Việc nói ra cũng không liên quan ǵ chuyện kích động chủ nghĩa dân tộc. Hăy thử so sánh chuyện đó với việc TQ tung ra hàng ngh́n bài báo xuyên tạc lịch sử từ hàng chục năm qua.



    Nh́n lại chiến tranh biên giới 1979


    Bộ đội Việt Nam đánh trả quân Trung Quốc xâm lược tại Lạng Sơn năm 1979



    Với độ lùi về thời gian, theo ông chúng ta có thể rút ra những điều ǵ từ cuộc chiến tranh này? Những điều đó có ư nghĩa thế nào trong bối cảnh hiện tại ?

    Theo tôi, khoảng thời gian 34 năm đă là khá đủ cho chúng ta nhận thức lại những vấn đề xung quanh cuộc chiến 1979. Thế nhưng đến giờ phút này tôi có cảm giác không phải lúc nào chúng ta cũng có được sự nhận thức thống nhất, nhất quán từ trên xuống dưới.

    Vấn đề thứ nhất, phải xác định rơ về mặt khoa học, cuộc chiến 1979 là cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề phải nhận thức rơ từ cấp cao nhất. Sự nhận thức ấy cũng phải được thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây là chuyện không được phép mơ hồ.

    Không chỉ nhận thức mà Nhà nước có trách nhiệm đưa câu chuyện này vào sách giáo khoa. Thực tế cho thấy phần lớn học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong 1,4 triệu sinh viên hầu như không biết ǵ về cuộc chiến tranh này. Nếu để t́nh trạng này kéo dài, trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Chắc chắn chúng ta sẽ không tránh được sự phê phán của thế hệ sau này. Hàng vạn người con ưu tú của chúng ta đă bỏ ḿnh để bảo vệ từng tấc đất biên giới phía bắc của Tổ quốc, tại sao không có một ḍng nào nhắc đến họ? Bây giờ đă quá muộn. Nhưng không thể để muộn hơn được. Theo quan điểm của tôi, Nhà nước phải yêu cầu đưa phần này vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Chúng ta không thể mơ hồ được, không thể lờ đi vấn đề lịch sử này được.



    Nh́n lại chiến tranh biên giới 1979
    Bệnh viện huyện Trùng Khánh, Cao Bằng bị quân Trung Quốc tàn phá tháng 2.1979 - Ảnh: Tư liệu



    Tôi đă nhiều lần trao đổi với các học giả nước ngoài và họ đă thắc mắc khá nhiều chuyện tại sao sự kiện chiến tranh chống quân TQ xâm lược năm 1979 lại không được nhắc đến trong các giáo tŕnh lịch sử của VN. Tôi đă phải chống chế với lư do rằng người VN muốn quên đi quá khứ và hướng đến tương lai. Nhiều học giả Hàn Quốc, Nhật Bản đă phản bác tôi v́ “Lịch sử là lịch sử. Quá khứ là quá khứ. Tương lai là tương lai”. Họ nói rằng: “Chúng tôi biết người VN rất nhân hậu, muốn ḥa hiếu với các dân tộc khác. Nhưng điều này không thể thay thế cho trang sử chống ngoại xâm này được”.

    Thứ hai, trong thế giới hiện đại toàn cầu hóa, các quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Không có quốc gia nào hoàn toàn độc lập tuyệt đối. Ngay cả Mỹ nhiều lúc cũng phải nhân nhượng các quốc gia khác. Chúng ta không có quan niệm về độc lập chủ quyền tuyệt đối trong thời đại toàn cầu hóa. Nhưng trong bối cảnh này, phải nhận thức rơ cái ǵ là trường tồn? Theo tôi có 3 thứ là chủ quyền quốc gia, ư thức dân tộc và lợi ích quốc gia. Ở đây chúng ta phân biệt chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa dân tộc nước lớn với ḷng yêu nước chân chính, ư thức tự tôn tự hào dân tộc. Hai cái đó khác nhau. Người VN có truyền thống yêu nước, có tinh thần chống ngoại xâm bất khuất, đó là điều cần được phát huy trong 92 triệu người VN trong và ngoài nước.

    Chủ quyền quốc gia, ư thức dân tộc và lợi ích quốc gia là những cái “dĩ bất biến”, những cái c̣n lại là “ứng vạn biến”. Những chuyện “16 chữ”, “bốn tốt” trong quan hệ với TQ là “ứng vạn biến”. Bài học từ cuộc chiến chống xâm lược năm 1979 cho thấy nếu không nhận thức được điều này th́ rất nguy hiểm.

    Thứ ba, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiêu chí để phân biệt người yêu nước hiện nay là anh có bảo vệ lợi ích quốc gia hay không. Trên thế giới này không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn. Năm nay chúng ta chuẩn bị tổng kết Nghị quyết T.Ư 8 (7.2003) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Tôi thấy có một quan điểm bây giờ vẫn đúng, đó là: "Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác b́nh đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh". Đồng thời, cũng phải có cách nh́n biện chứng về đối tượng và đối tác: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta, cần phải đấu tranh.



    Nh́n lại chiến tranh biên giới 1979



    Tù binh Trung Quốc bị bắt tại Cao Bằng



    Nh́n lại từ câu chuyện của 34 năm trước đến những căng thẳng hiện tại trong vấn đề biển Đông, theo ông có thể hy vọng ǵ ở tương lai trong quan hệ giữa VN và TQ ?

    Tạo ra ḷng tin, sự hữu nghị chân thật giữa hai nước là con đường tất yếu nhưng đ̣i hỏi thời gian lâu dài và từ cả hai phía. Đây không phải là điều có thể hy vọng có được trong vài ba năm tới đây. Lịch sử mách bảo chúng ta muốn giữ được ḥa b́nh, ổn định, giữ được độc lập tự chủ th́ điều quan trọng nhất là giữ được ḷng dân. Trên dưới một ḷng, có được sự đoàn kết dân tộc th́ chắc chắn không có kẻ xâm lược nào dám dại dột động đến chúng ta cả. Lịch sử VN đă cho thấy những lần mất nước đều bắt đầu từ việc chính quyền mất dân. Năm 179 trước CN An Dương Vương để mất nước là do mất dân. Một ông vua đứng đầu quốc gia mà tin vào kẻ thù th́ chuyện mất nước là không thể tránh khỏi. Năm 1406, nhà Hồ mất nước cũng v́ đă mất dân. Đến mức độ nhà Minh truy bắt cha con Hồ Quư Ly th́ chính những người trong nước đă chỉ điểm cho quân Minh. Năm 1788 Lê Chiêu Thống sang cầu viện Măn Thanh đưa 20 vạn quân sang giày xéo quê cha đất tổ cũng là ông vua đă mất dân. Đó là bài học muôn đời để bảo vệ chủ quyền quốc gia.

    Ng.Phong(thực hiện)
    Theo Báo Thanh Niên

  4. #44
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Chiến tranh biên giới - 33 năm trước



    Cập nhật: 28.02.2012

    Đúng 33 năm trước, ngày 17-2-1979, chiến tranh nổ ra trên biên giới 6 tỉnh phía Bắc nước ta. Năm nay, trong nước không có bài báo nào nhắc nhở bài học lịch sử chống bành trướng Trung Quốc, cũng không có tưởng niệm, thăm viếng nghĩa trang các liệt sỹ đă hy sinh.

    Dạo ấy, hai cuộc chiến tranh biên giới, một ở biên giới Tây Nam giáp Campuchia, một ở biên giới phía Bắc, gắn bó chặt chẽ với nhau và đều do Bắc Kinh dạo diễn nhằm thôn tính và nô dịch nước ta, thực hiện mục tiêu chiến lược bành trướng xuống phương Nam.

    Cần chỉ rơ dă tâm của thế lực bành trướng Bắc Kinh dùng nhóm Khmer đỏ Pol Pot ngay từ khi nhóm này chiếm Phnom Penh vào tháng 4-1975, gây nên phong trào tàn sát người Việt (cáp Duôn) rất man rợ, và thực hiện những cuộc lấn chiếm biên giới liên tiếp ở phía Tây Nam nước ta. Chiến sự biên giới gia tăng cường độ từ năm 1975 đến cuối năm 1978, theo nhịp độ Trung Quốc viện trợ vũ khí quy mô lớn gồm súng đạn, ḿn, cối, pháo, tàu thuyền, máy bay và huấn luyện cho quân đội Pol Pot.

    Tuần lễ cuối cùng năm 1978, khi quân đội nhân dân Việt Nam đánh thẳng vào Pnom Penh, cả 8.000 cố vấn và chuyên gia quân sự Trung Quốc vội bỏ chạy sang Thái Lan. Lúc ấy, sỹ quan Trung Quốc hầu như là người nước ngoài duy nhất có mặt ở Campuchia, ngài con số hơn một trăm chuyên gia thủy lợi Bắc Triều Tiên, c̣n lại là nhân viên ngoại giao của 5 sứ quán Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Lào, Rumania và Nam Tư. Sứ quán Trung Quốc to lớn, bề thế bao nhiêu - gồm 282 người - th́ 4 sứ quán c̣n lại lèo tèo chỉ dăm ba người.

    Những tài liệu của phe Pol Pot để lại chưa kịp hủy cho thấy 1 bản Hiệp định quân sự giữa 2 bộ tổng tham mưu về viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Campuchia trong 2 năm 1978 và 1979, gồm hàng trăm hạng mục, từ áo quần, trang phục đến súng đạn cho bộ binh, pháo binh, lựu đạn, bom, ḿn, máy ra-đa, truyền tin, máy bay các loại, tàu tuần tiễu... Cố vấn Trung Quốc trước đó đều có mặt ở 18 sư đoàn bộ binh của Pol Pot để kềm cặp và chỉ huy.

    Tập san “Cờ đỏ” của Pol Pot trong khi ca ngợi Mao hết lời, b́nh luận rằng lúc này là thời cơ tốt nhất để đánh bại Việt Nam, v́ Việt Nam đang đói to, hỗn loạn do chiến tranh mới chấm dứt, nhất là theo Nga Xô, phản bội Trung Quốc, ắt sẽ bị trừng phạt rất nặng. Campuchia sẽ nhân dịp này giành lại đất của ḿnh ở đồng bằng sông Cửu Long.

    Cái nham hiểm của Đặng Tiểu B́nh thật rơ ràng. Sự tàn bạo của Đặng cũng không có giới hạn. Đặng đă cho bộ hạ là Trần Vĩnh Quư – phó thủ tướng - và Đặng Dĩnh Siêu - phó chủ tịch nước, lần lượt sang tận Phnom Penh, ca ngợi cuộc cách mạng triệt để của chế độ này. Đó là xóa bỏ mọi vết tích của văn hóa tư sản bóc lột, đốt hết sách vở, hỏa thiêu thư viện quốc gia, xóa tiền tệ, ngân hàng, trường học, bệnh viện, đuổi hết dân về nông thôn làm ruộng, nêu cao khẩu hiệu “ có lúa là có tất cả”, dùng gậy gộc cuốc xẻng đập chết mọi kẻ chống đối, không bắn để khỏi phí đạn.

    Cái ác của Đặng về sau thể hiện càng rơ trong đêm 4 tháng 6 năm 1989 khi nhân danh bí thư Quân ủy trung ương, Đặng trực tiếp ra lệnh cho 2 lữ đoàn xe tăng xông vào quảng trường Thiên An Môn, chà xích sắt lên hàng ngàn nam nữ sinh viên không vũ trang đ̣i tự do, trong đó có thanh niên trí thức vô danh tay cầm túi sách đứng trước đoàn xe tăng, được chụp ảnh và được báo Hoa Kỳ The New York Times coi là Nhân vật năm 1989, và cũng là Nhân vật Thế kỷ XX.

    Về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nước ta, Đặng Tiểu B́nh là kẻ đề ra chủ trương và đích thân chỉ đạo từng bước. Tháng 1- 1979, đang ở thăm Hoa Kỳ, Đặng đă tuyên bố rằng “bè lũ côn đồ Việt Nam” đă hiếp đáp nước nhỏ Campuchia và Trung Quốc “có trách nhiệm dạy cho chúng một bài học.” Khi về nước chính Đặng phát biểu khi giao nhiệm vụ cho 2 tướng Hứa Thế Hữu và Dương Đắc Chí rằng đây là đ̣n trừng phạt cho nên phải đánh mạnh, giáng thẳng tay, tuy rằng hạn chế trong không gian và thời gian.

    Đặng giải thích cuộc chiến tuy nhỏ nhưng nhằm 5 mục tiêu rất lớn, đó là: trừng phạt Việt Nam, đe dọa Liên Xô, kết than với Hoa Kỳ, cứu nguy Khmer đỏ và hiện đại hóa quân đội Trung Quốc.

    Trận đánh khởi đầu sáng 17-2-1979, đến ngày 16-3 Đặng ra lệnh lui quân, với phương châm 4 chữ “cách sát vật luận”, nghĩa là giết sạch không chút đắn đo phân vân. 30 vạn quân Tàu đang bị mắc kẹt trong núi rừng lạ lẫm bị bao vây, chia cắt, tiêu hao, lo sợ…sung sướng được lệnh lui binh. Theo lệnh trên chúng lao vào tội ác như điên dại.

    Có thể khẳng định suốt mấy chục năm chiến tranh trên đất nước ta, chưa bao giờ và chưa ở đâu có cảnh giết người man rợ và phá hủy tài sản điên loạn như tại 6 tỉnh biên giới những ngày tháng 2 và tháng 3 năm 1979. Khói bom đạn chưa tan, chúng tôi lên Lạng Sơn, qua Đồng Đăng, lên Đông Khê, rồi Cao Bằng, một cảnh phá hoại triệt để vừa diễn ra. Chúng tôi lên Hà Giang rồi sang Quảng Ninh, đều thấy như vậy.

    Đường sắt từng quăng ngắn bị đặt bộc phá cắt đứt. Dinh thự đổ nát tận nền móng. Nhà trẻ bị phá hủy đến từng chiếc nôi cũng bị chặt từng mảnh. Nhà trường, bàn ghế, bảng đen đều chẻ nát thành đống củi. Xí nghiệp thổ cẩm mấy trăm máy dệt không một máy nào c̣n nguyên. Mỗi gia đ́nh cùng chung số phận. Bàn ghế giường tủ tanh bành. Áo quần, sách vở ra tro. Nồi niêu, soong chảo, bát đĩa bị đâm thủng, đập vỡ. Nghĩa là sự phá hủy có hệ thống mọi phương tiện của đời sống…Tất cả thúng mủng, thùng, chậu, lu, vại, chai, hũ…để đựng gạo, đậu, ngô, nước đều bị đập nát, chọc thủng, tan tành. Chúng vứt chuột, gà, vịt chết cho đến xác người xuống giếng nước trong, hồ ao, bể đựng nước ăn, làm cho cuộc sống thêm bội phần kinh khủng.

    Nhưng kinh hoàng hơn cả là chúng kéo phụ nữ, từ bà già đến em bé 12, 13 tuổi vào hang, thay nhau hăm hiếp rồi bắn chết, vứt xác xuống vực thẳm, giếng khơi ḥng phi tang. Đây là bộ mặt thú vật nhất của cái gọi là quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc của những Đặng Tiểu B́nh, Hứa Thế Hữu, Dương Đắc Chí…rất nên trưng ra tại Bảo tàng quân đội ở Bắc Kinh.

    Bộ Chính trị Đảng CS Việt Nam các khóa VII, VIII, IX, X, XI bị bùa mê thuốc lú ở Thành Đô – Trung Quốc (tháng 9-1991) làm cho mê muội rất nên xem kỹ lại những đoạn phim về các cảnh trên đây do các tổ làm phim phóng sự ghi lại, và ngẫm nghị về 16 chữ vàng mà họ cứ ôm giữ măi.

    Chính trong không khí kinh hoàng sôi sục căm thù uất hận nói trên mà Quốc hội họp tháng 12-1980 đă ghi trong Lời nói đầu bản Hiến Pháp năm 1980 câu sau đây: “ Vừa trải qua 30 năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có ḥa b́nh để xây dựng Tổ quốc nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở Campuchia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đă giành được thắng lợi oanh liệt trong 2 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chống bọn phản động Campuchia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lănh thổ của ḿnh”.

    Theo yêu cầu của phía Trung Quốc tại Thành Đô, cả đoạn trên đă biến mất trong bản Hiến pháp năm 1992. Nhưng làm sao họ xóa được những tội ác rơ ràng trên đây.

    Về chiến công của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống Trung Quốc và bọn tay sai diệt chủng của chúng ở Campuchia, không ǵ bằng là dẫn ra lời thú nhận của chính Đặng Tiểu B́nh hồi ấy. Đặng cay đắng thú nhận quân Trung Quốc đă bị thua thiệt khi rút chạy nặng hơn là khi tiến vào đất đối phương. Rằng phía Trung Quốc không dám dùng một chiếc máy bay hay trực thăng nào, dù rằng có hàng ngàn máy bay đủ loại. Rằng bộ binh không có sức đột phá, không biết đánh hợp đồng binh chủng, lạc hậu tột cùng khi xung phong theo tiếng kèn thổi. Do đó đưa bao nhiêu xe tăng vào cũng bị diệt; tuy mới chỉ đọ sức với chủ lực của quân khu Việt Bắc, của bộ đội địa phương các tỉnh, với dân quân du kích các xă thôn mà đă chịu thương vong nặng nề, không thể ở lâu hơn, sau 2 tuần lễ đă phải tính chuyện bỏ chạy.

    Đặng đă tỏ ra khôn ngoan, phê b́nh nặng nề Hứa Thế Hữu và Dương Đắc Chí, thú nhận sự yếu kém toàn diện của quân giải phóng với mục đích là đ̣i tăng ngân sách quốc pḥng trên quy mô lớn, đề cao sự cấp bách của phương châm 4 hiện đại hóa, trong đó cần ưu tiên cho hiện đaị hóa quốc pḥng, cấp bách nhất là bộ binh, tiếp đó là phát triển hải quân cực kỳ trọng yếu nhưng c̣n rất yếu kém, trong khi không quân, tên lửa và thông tin quân sự đều c̣n ở xa mức hiện đại, tiên tiến.

    Sau 33 năm cuộc chiến tranh biên giới, thế và lực quốc pḥng của Trung Quốc vẫn ở trong trạng thái “ lực bất ṭng tâm “. Chỗ yếu chí mạng vẫn là kỹ thuật quân sự c̣n có quá nhiều lỗ hổng và bất cập. Mới đây, Tập Cận B́nh khi gặp Tổng thống Barack Obama cũng chỉ mong phía Hoa Kỳ nới lỏng một số phong tỏa kỹ thuật. Không th́ Trung Quốc không có lối thoát.

    Dư luận thế giới hầu như nhất trí cho rằng đường lối 4 hiện đại hóa của Đặng xét cho kỹ chỉ là con đường tự sát, v́ kinh tế bắt đầu khó khăn, chạy đua vũ trang mù quáng, dốc tiền của vào chiếc thùng không đáy sẽ lắp lại con đường của Liên Xô thời Brezhnev, tự ḿnh ghè vào chân ḿnh, khi mức sống của dân Trung Quốc vẫn đang ở vào hàng thứ 97 của thế giới.

    Nhân dịp này những chiếc loa rè ở Bắc Kinh ba hoa về sức mạnh Trung Quốc, đe dọa sẽ cho “bọn Việt Nam vô ơn” một bài học nữa, sẽ nghiền nát Việt Nam, sẽ chiếm Việt Nam trong 11 ngày…Thật ra đây chỉ là những tiếng la toáng lên để tự trấn tĩnh của những kẻ yếu bóng vía sợ ma.

    Bài học 33 năm trước ở cả 2 đầu biên giới cho bọn xâm lược bành trướng vẫn c̣n nguyên giá trị.

  5. #45
    Member
    Join Date
    05-06-2011
    Posts
    132

    Ngườ dân Hà Nội kỷ niệm các chiến sĩ đă bỏ ḿnh v́ TQ năm 1979

    Xem đây th́ thấy chế độ CSVN, với đám công an côn đồ đang làm tay sai cho Trung Quốc, đàn áp đồng bào đang tưởng niệm đến các chiến sĩ đă hy sinh trong trận chiến năm 1979. Linh hồn các anh hăy trở về để phù hộ cho đồng bào ta lật đổ cái chính quyền CSVN hèn với giặc ác với dân , làm tay sai cho TQ.

  6. #46
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Chuyện hỏi cung đại đội tù binh Trung Quốc ra đầu hàng quân du kích Cao Bằng tháng 3/1979
    Nguyễn Nguyên B́nh



    Viết nhân kỉ niệm 34 năm chiến tranh Trung Quốc xâm lược Việt Nam.

    Trước cuộc tấn công 17-2, bọn Tàu xấu bụng cũng đă ít nhiều để lộ âm mưu qua một số kênh khác nhau. Chúng ta chỉ bị bất ngờ về thời điểm nổ súng của chúng, chứ chúng ta cũng đă có sự chuẩn bị nhiều mặt cho cuộc chiến đấu với ‘anh bạn vàng hay trở mặt’. Chính v́ chuẩn bị đối phó nên từ hàng năm trước, các cơ quan hữu quan ở Bộ Quốc pḥng đă t́m một số cán bộ quân đội biết tiếng Trung Quốc, tập trung nghiên cứu về đối tượng tác chiến mới này. Với truyền thống coi trọng công tác vận động binh sỹ địch ra hàng để tránh đổ máu thương vong vô ích cho cả hai bên, cơ quan địch vận cũng khẩn trương vào cuộc. Hồi đó tôi cũng được điều động về giúp việc nghiên cứu trạng thái chính trị tinh thần của quân Trung Quốc ở cơ quan địch vận. Đồng thời với việc nghiên cứu, cơ quan cũng đă chuẩn bị được một loạt câu kêu gọi ngắn gọn gửi cho các đơn vị. Một trong số đó có câu “Thấu xéng chiu sâu khoan tai”. Phiên âm như vậy chưa thật chuẩn nhưng người Trung quốc nghe cũng có thể hiểu ra, đó là lời nhắn nhủ: “Đầu hàng th́ sẽ được đối đăi tử tế.”

    Sau khi nhận được những khẩu hiệu nhỏ đó, nhiều đơn vị đă nhanh chóng cho cán bộ chiến sĩ học thuộc để vận dụng trong chiến đấu. Thế rồi, cuộc chiến mới diễn ra chừng hai chục ngày, đến đầu tháng 3-1979, từ Cao Bằng đă có tin báo về: cả một đại đội quân Trung Quốc đă ra đầu hàng! Thật là một sự kiện hiếm hoi. Chắc đây là kết quả của lời kêu gọi “Thấu xéng chiu sâu khoan tai” th́ phải?

    Tin mới này đă khiến chúng tôi phải gấp rút lên đường. Chúng tôi gặp đại đội ra hàng đó ở một trại tạm giam khi họ đă được đưa về tuyến sau. Lúc đó, quả thật tôi mới là một phiên dịch bất đắc dĩ (năm 1965, tôi vừa học xong một năm chuyên tu tiếng TQ, bị cuộc ‘cách mạng văn hóa vô sản’ của ông Mao phá đám, phải về nước học cái khác, bỏ luôn tiếng Trung Quốc cả 13 năm, nay chưa kịp ôn lại đă phải đi dịch, đành ôm theo cuốn từ điển, vừa dịch vừa tra, thật rơ khổ!)

    Thật tiếc, nhiều nôị dung khai thác được lúc đó tôi đă để rơi rụng mất kha khá, nay chỉ c̣n một ít trong trí nhớ mà thôi.

    Cái đại đội ra hàng đó là thuộc trung đoàn bộ binh 448, sư đoàn 150, quân đoàn 50, quân khu Thành Đô. Đơn vị c̣n có đầy đủ cả bộ sậu: Đại đội trưởng, chính trị viên, cả ban chi ủy, các trung đội trưởng… và đầy đủ vũ khí trang bị. Cùng đi với đại đội c̣n có hai cán bộ do trung đoàn phái xuống để đốc chiến, một ‘vị’là tham mưu phó trung đoàn, ‘vị’ kia là phó chính ủy trung đoàn. Cả đại đội c̣n đầy đủ cả trăm con người. Đơn vị này thuộc thê đội hai của chiến dịch, mới ngơ ngáo tiến vào vùng núi Cao Bằng trập trùng bí hiểm, bị quân dân địa phương dồn đuổi mấy ngày, hoang mang quá, không biết làm thế nào, đă bàn nhau (bàn trong chi ủy Đảng CSTQ hẳn hoi) kéo cờ trắng ra hàng.

    Tiếp xúc càng nhiều với đám lính ‘quân giải phóng TQ’ này tôi càng ngạc nhiên. Trước khi gặp họ, tôi h́nh dung về họ khác lắm kia. Thời gian tôi học ở Trung Quốc đúng vào lúc TQ vừa hồi phục sau thảm bại của cuộc ‘đại nhảy vọt điên rồ với hàng triệu người chết đói và một đất nước kiệt quệ bên bờ vực kinh tế. Phục hồi chưa được bao lâu, đất nước đă lại chuẩn bị bước vào một cơn co giật động trời khác, đó là cuộc ‘đại CM văn hóa vô sản’ nổi tiếng khủng khiếp trên thế giới. Thời gian đó, khắp đất nước TQ đâu đâu cũng đỏ rực những lời đao to búa lớn của lănh tụ vĩ đại. Ngày ngày người ta kêu gọi thanh niên phải “Sống ở Trung Hoa, mắt đưa khắp thế giới”, phải “coi cái chết nhẹ tựa lông hồng”, phải “tiến hành CM vô sản đến cùng để giải phóng toàn thế giới”. Đối với cán bộ chiến sĩ quân giải phóng TQ th́ đă có nguyên soái Lâm Bưu luôn đốc thúc họ phải ngày ngày tâm niệm: “Đọc sách của Mao Chủ tịch, nghe lời Mao Chủ tịch, làm theo chỉ thị của Mao Chủ tịch, làm chiến sĩ tốt của Mao Chủ tịch”. Từng ấy thứ được nghe, được thấy ở TQ lúc đó khiến tôi cứ tưởng rằng những người lính quân giải phóng TQ chí ít cũng phải thế nào chứ. Đằng này…

    Chính trị viên đại đội Phùng Tăng Mẫn, khi chưa lâm trận, ư hẳn cũng muốn phấn đấu theo lời nguyên soái nên đă đặt bí danh là Hồng Trị (Chính trị viên đỏ). Khi trở thành tù binh th́ nhũn như chi chi, chẳng thấy vai tṛ chính trị viên đâu nữa, chỉ luôn đáp ứng yêu cầu của cán bộ hỏi cung, hỏi ǵ khai nấy, lại luôn cố gắng ‘làm thân’ với cán bộ chiến sĩ trong trại. Có lần phải ra khai cung sớm, bữa sáng chưa kịp ăn, bị kiến ḅ vào. Khi trở về, thấy cơm bị kiến ḅ, anh ta khóc ngon lành, than văn măi về việc bị kiến ăn tranh mất suất cơm. Khi được hỏi có yêu cầu ǵ đối với trại, anh ta chỉ đề nghị được ăn cơm nóng một chút, thức ăn nhiều dầu mỡ muối hơn một chút, v́ người Tứ Xuyên h́nh như ăn mặn hơn người của trại!

    Đại đội trưởng Lư Ḥa B́nh, thân h́nh to cao, trông bên ngoài có vẻ chất phác, luôn cố gắng sửa bớt cái giọng Tứ Xuyên nặng chịch để cán bộ nghe được dễ hơn. Anh ta đă có kinh nghiệm khi gặp cán bộ khai thác mà cứ nói nặng tiếng địa phương là phiền lắm. Quả cái tiếng Tứ Xuyên rất khó nghe, chúng tôi nghe nhiều thành quen mới hiểu nổi, chứ vị khách nào mới đến phỏng vấn th́ nghe gà hóa cuốc là việc thường t́nh. Có lần chúng tôi lên trại, anh ta mới gặp đă khóc nức nở kể chuyện bị oan ức v́ một cán bộ mới đến nghe không rơ, cứ khăng khăng bảo anh ta ‘ngoan cố, không thành khẩn khai báo’. Anh ta sợ bị cho là không thành khẩn th́ sau này hết chiến tranh có thể sẽ không được trao trả về nước với gia đ́nh, hoặc sẽ bị đối xử kinh khủng thế nào đó chưa biết được.

    Tham mưu phó trung đoàn tên là Phó Bồi Đức, khá thạo tin về quân sự, nói giọng dễ nghe, nhiều người xác nhận thuộc loại ‘thật thà khai báo’, anh này thường nói ḿnh vốn đang mang bệnh rối loạn nhịp tim, đang xin ra quân th́ bị điều động đi đánh Việt Nam, chứ thực ḷng không muốn đi tí nào. Anh ta c̣n nói, nghe trên tuyên truyền Việt Nam khiêu khích TQ, nhiều lần quấy rối, đánh sang biên giới TQ th́ cũng biết vậy thôi, quân khu Thành Đô có ở biên giới đâu mà nói là thật hay không. Khi đơn vị đánh sang đất Cao Bằng của VN th́ trên lại bảo đấy là ‘phản kích, dạy VN bài học xong rồi sẽ rút quân’. Trên bảo đơn vị trung đoàn 448 này vào đất VN để yểm hộ bộ đội rút quân… V́ vậy, Phó Bồi Đức cứ tiếc hùi hụi, giá không mắc kẹt với bộ đội Cao Bằng th́ chẳng bao lâu nữa sẽ được lệnh rút về. Chỉ mong nhanh chóng ra quân để nghỉ ngơi và chữa cái bệnh tim thôi. (Cán bộ trại cũng đă cho thày thuốc khám bệnh, xác minh đúng anh ta có bệnh tim và đă cấp cho ít thuốc).

    Phó chính ủy trung đoàn Long Đức Xương, ngoài những tin tức quân báo đă cung cấp, khi nói chuyện có tính tâm sự với cán bộ trại, anh ta thường than thở: ḿnh nay đă quá tuổi phát triển, sức khỏe lại kém, đă thuộc vào loại cán bộ quá độ, không c̣n tiền đồ ǵ (trông anh ta quả cũng hơi hom hem, tuổi áng chừng trên 40 thật); lần này đơn vị bị điều đi đánh trận là bản thân rất bất ngờ, chưa kịp chuẩn bị ǵ, ra đi mà trong ḷng hoang mang, bối rối… Anh ta lo lắng nhiều cho sự sống chết của bản thân v́ ở nhà c̣n gánh gia đ́nh rất nặng. C̣n việc có tin hay không những tuyên truyền của chính phủ và quân đội về lư do phải ‘dạy bài học cho VN’, th́ anh ta nói: đời ḿnh đă trải qua quá nhiều phong trào, quá nhiều vận động rồi, bây giờ chẳng thiết tin hay không tin cái ǵ cả.

    Khi hỏi các binh lính (ngoài số các cán binh của đại đội nọ, trong trại c̣n có một số lính TQ bị bắt ở các nơi khác ): Tại sao đi bộ đội? Phần lớn đều nói: để hi vọng kiếm được việc làm sau khi hết thời hạn phục vụ. Nhưng nhiều người cũng có vẻ bi quan về vận may của ḿnh, họ nói: mù chữ, vô nghề nghiệp chẳng dễ mà kiếm được việc, đến đâu hay đến đấy… Chả thấy ai nói muốn trở thành quân nhân để tiến hành cách mạng vô sản đến cùng, để giải phóng toàn thế giới cả.

    Thời gian mấy tháng ở trại, binh lính TQ thường tỏ ra ‘ngoan’, không dám quấy phá chống đối ǵ đáng kể. Họ quan tâm nhiều đến bữa ăn. Khi có phái đoàn Chữ thập đỏ quốc tế đến thăm trại, một số người tố khổ:cơm ăn không đủ no, thức ăn th́ ít thịt cá dầu mỡ, rau th́ toàn loại rau ‘rỗng ruột’ (tức rau muống) với dây lá bí rợ (rau bí)… Có người cũng vặn hỏi cán bộ trại: Việt Nam nói đầu hàng th́ được đối xử tử tế, sao lại cho chúng tôi ăn như vậy? Lúc đó thật là khó giải thích cho họ hiểu, họ đâu biết hoàn cảnh khắc nghiệt về kinh tế của Việt Nam vào thời điểm ấy. Mỗi ngày họ được giành 700g gạo không độn ḿ mốc, ngô răng ngựa, bo bo hạt; lại có chút thịt cá dầu mỡ là phía ta đă cố gắng lắm rồi! Thời gian sau, khi trại được củng cố ổn định hơn, tù binh được cử người cùng đi nhận thực phẩm ở kho chung với cán bộ chiến sĩ của trại, được tận mắt chứng kiến phần thực phẩm giành cho bộ đội VN c̣n ít hơn phần của tù, họ mới hiểu ra và thừa nhận là trong hoàn cảnh đó, thực sự họ đă được đối xử tử tế.

    Ở thời điểm năm 1979 đó, mặc dù chính tai được nghe, chính mắt được thấy, nhưng tôi vẫn nghi nghi hoặc hoặc. Tôi không thể h́nh dung nổi sao lại có cái khoảng cách quá lớn giữa h́nh tượng người lính được tuyên truyền rầm rĩ ở TQ về ‘người chiến sĩ tốt của Mao Chủ tịch’ với thực trạng tù binh mà tôi đă gặp. Sau này, khi có dịp đọc một số sách của các nhà văn TQ, tôi mới hết nghi hoặc. H́nh ảnh những người lính đánh VN năm 79 trong cuốn tiểu thuyết ‘Ma chiến hữu’ của nhà văn Mạc Ngôn c̣n thảm hại, khốn khổ khốn nạn hơn cả những người lính ở trại tù binh kia. Thế th́ có lẽ các vị lănh đạo đất nước TQ chuyên xây dựng ra xă hội và con người kiểu ‘thùng rỗng kêu to’ chăng?

    Từ 1979 đến nay đă là 34 năm, quân đội Trung Quốc nghe nói giờ đă chính qui hiện đại hơn nhiều lắm, vũ khí trang bị chả thua kém cường quốc nào trên thế giới với đủ cả khí tài điện tử, máy bay tàu ḅ, hàng không mẫu hạm v.v.. Và nay kinh tế TQ cũng mới thấc lên, tham vọng của những người lănh đạo nhà nước lại bùng lên như những thời kỳ phục hồi trước đây. Họ lại lên giây cót xă hội, lại muốn ăn tươi nuốt sống cả thế giới… Nhưng thử ngẫm mà xem: vũ khí trang bị th́ đổi mới có thể nhanh chóng và không khó khăn ǵ nhiều đối với nền kinh tế đang giàu xổi của TQ; c̣n con người th́ sao? Liệu ba bốn chục năm đă đủ để xă hội con người trút khỏi cái bản tính ‘thùng rỗng kêu to’ chưa? Hơn nữa, những ‘ông vua con’ trong các gia đ́nh (kết quả của chính sách dân số mỗi gia đ́nh chỉ sinh một con) và hậu phương của họ liệu có sẵn sàng coi cái chết nhẹ như lông hồng để phục vụ cho tham vọng nuốt sống quả địa cầu không? Hay là khi lâm trận, gặp khó khăn nguy hiểm th́ lại sẵn sàng nghe theo lời kêu gọi “Thấu xéng chiu sâu khoan tai”??

    N.N.B.

    Nguồn: Blog Phạm Viết Đào

  7. #47
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    "Dĩ ḥa vi quư" hăy dĩ "hèn" vi"ghế"
    Hoàng Thanh Trúc (Danlambao)
    -



    Giữa lúc dư luận đồng bào nhân dân chưa hết ngạc nhiên, bàn luận dè bĩu, khinh bỉ, sự “hèn hạ” của hành vi hạ cấp, ném đá dấu tay, ngậm máu phun người, sau 45 năm xấu hổ ngậm miệng giờ đây khi chủ nghĩa CS khát máu bị nhân loại vạch mặt lên án nguyền rủa khắp thế giới th́ CSVN hốt hoảng trơ tráo như phường bịp bợm “ma cà bông” t́m cách “đổ vạ” ngược lại cho quân đội VNCH và Hoa Kỳ giết hại 6000 đồng bào Huế năm 68 Mậu Thân trong những tập phim “dàn dựng” bẩn thỉu, toan tính lừa bịp “chạy tội” với đồng bào trên VTV.

    Tiếp theo, như nối tiếp bản chất “vô đạo” đó, lại một hành vi “hèn mạt ” nữa của các “chóp bu” CSVN làm cho công luận nhân dân càng thêm sửng sờ:

    Đối với từng cá nhân trong tập đoàn “chóp bu” gọi là “bộ Cai Trị” CSVN chắc chắn họ, là con cái, không bao giờ dám quên ơn sinh thành và ngày “ĺa đời” của những người đă “rặn” ra, cho họ h́nh hài và cuộc sống.

    Nhưng thật lạ lùng và “quái đản” ở vị trí họ tự vỗ ngực tuyên xưng là “lănh đạo” của Tổ Quốc Nhân Dân hiện tại, th́ rất mỉa mai họ đang phủi tay, quay mặt, tuồng như không hề biết đến hàng trăm ngàn đồng bào quân dân đă nằm xuống lấy “máu ḿnh làm sông, xương ḿnh làm núi” cho tổ quốc Việt Nam trên các mặt trận trong cuộc chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược tại các nơi: Biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc 1979, Hoàng Sa 1974 và Trường Sa 1988.

    Những ngày này gần như toàn bộ báo, đài của “nhà nước, đảng CSVN” hoàn toàn im lặng, bất động, không hề nhắc đến cái “đại tang” oanh liệt gần nhất trong lịch sử truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc (17/2/1979 chiến tranh Bắc biên giới chống quân Trung Quốc xâm lược) hàng trăm ngàn quân dân đă anh dũng nằm xuống khắp các làng xă thị trấn dọc đường biên giới để chận đứng bước chân của quân xâm lược Trung quốc.

    Trong khi đó, với toàn bộ lực lượng vũ trang và quân đội “đảng ta” ráo riết bắt học tập với tuyên truyền: Không khoa trương, phải giữ t́nh đoàn kết, đồng chí anh em, lấy “dĩ ḥa vi quí” với Trung Quốc, tất cả v́ đại cục quốc gia của 2 nước?

    Nhưng đại cục cho nước nào? và “dĩ ḥa hay Dĩ hèn vi quí” cho ai? với các h́nh ảnh rất mới và cụ thể như thế này:

    6/12/2012-Quân TQ tập trận chống “đổ bộ” trên đảo Phú Lâm (Hoàng Sa)


    Lính Trung Quốc đồn trú và tập trận trái phép tại
    quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam ngày 4/12/2012


    Khai trương, khánh thành “thành phố Tam Sa”
    do Trung Quốc thành lập tại Hoàng Sa của Việt Nam..


    “Trung Quốc công bố bản đồ mới, nhấn mạnh bao gồm các biển đảo Hoa Nam và biển Đông”

    Trung Quốc đă lần đầu tiên in đậm các quần đảo trên biển Hoa Nam và biển Đông trên bản đồ chính thức ấn bản mới nhất có tỉ lệ xích tương đương với bản đồ Trung Quốc đại lục. Bản đồ mới của Trung Quốc theo định dạng dọc, (để đủ chiều dọc, kéo dài xuống hướng Nam) do Nhà xuất bản Sinomaps ấn hành, bao gồm hơn 130 ḥn đảo lớn nhỏ ở biển Nam Trung Hoa (biển Đông), hầu hết trong số đó đă không được thể hiện trên các bản đồ cũ (định dạng chiều ngang) trước đây của Trung Quốc, Tổng cục Bản đồ, khảo sát và thông tin địa lư (NASMG) loan báo hôm thứ sáu vừa qua. Các bản đồ cũ, ở định dạng chiều ngang, chỉ thể hiện các đảo như quần đảo Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa mà không có biển Đông...

    Bản đồ địa h́nh Trung Quốc do Sinomaps Press ấn bản và phát hành,
    bao gồm 130 đảo lớn nhỏ ở biển Đông, thuộc Trung Quốc- Ảnh: huanqiu.com

    “Dĩ ḥa vi quư” nghĩa thuần, là thái độ biết người, biết ta, luôn coi trọng nhân cách lấy sự ḥa thuận, êm ấm làm mối quan hệ hàng đầu. Tuy nhiên sẽ là mù quáng thiển cận nếu ta chỉ đơn phương trung thành với chính nó. “Dĩ ḥa vi quư” không phải là cách sống hèn mọn, xu nịnh hay ba phải mà chính là biết khôn khéo chủ động làm ôn ḥa các mối quan hệ, mà không hy sinh quyền lợi, phẩm giá nhân cách của chính ḿnh.

    Độc tài quyền lực, nhân dân xa lánh, không tự tin dựa vào nhân dân phải hy sinh đất trời biển đảo để mong tựa vào kẻ khác và khi mà 187 quốc gia trong Liên Hiệp Quốc, lớn nhỏ, giàu nghèo khác nhau nhưng trước tiền sảnh 187 lá quốc kỳ, duy nhất chỉ có cùng một kích cỡ bằng nhau th́ ngài Tổng Bí Thư “đảng CSVN” nhất trí lấy ngôi sao duy nhất của quốc kỳ CS/XHCN/VN gắn thêm lên trên quốc kỳ Trung Quốc ngay tại thủ đô nước ḿnh th́ đó không thể là hành vi “Dĩ ḥa vi quí” mà đích thực nó là “dĩ hèn để vi ghế”.

    Một hành vi rất khó có đảng phái hay nguyên thủ quốc gia nào trên thế giới có can đảm hay có quyền làm như vậy mà chưa có sự cho phép của Quốc Hội hay toàn dân (trừ đảng độc tài CSVN).


    Hoàng Thanh Trúc
    danlambaovn.blogspot .com

  8. #48
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến biên giới Việt - Trung nh́n từ phía bên kia


    Tiến sỹ Lư Tiểu Binh nhận định rằng thời gian tới Việt Nam và Trung Quốc 'sẽ lại trải qua những thăng trầm trong mối quan hệ'.


    Nguyễn Trung

    20.02.2013
    Trên các trang mạng xă hội hôm 17/2 đồng loạt xuất hiện h́nh ảnh hoa sim tím để tưởng nhớ các chiến sĩ Việt hy sinh trong chiến tranh biên giới năm 1979. Trong khi đó, báo chí trong nước hầu như không đề cập tới cuộc chiến mà con số thương vong vẫn c̣n gây tranh căi giữa hai nước láng giềng từng được coi là có mối quan hệ ‘môi hở răng lạnh’. C̣n tại Trung Quốc, Tiến sỹ Lư Tiểu Binh của Đại học Central Oklahoma cho VOA Việt Ngữ biết rằng giới chức quân sự nước này vẫn sử dụng cuộc xung đột xảy ra hơn 30 năm trước để khích lệ tinh thần dân tộc nhằm huy động sự hậu thuẫn chính trị. Trước hết, ông Binh nói về những bất hạnh mà chiến tranh biên giới gây ra cho cả Trung Quốc và Việt Nam.

    Tiến sỹ Lư Tiểu Binh: Hai nước hiểu lầm ư định của nhau cũng như có những tính toán sai lầm trong hoạt động quân sự. V́ thế, cả hai bên đều chịu tổn thất nặng về về sinh mạng trong cuộc chiến ngắn ngủi.

    Chỉ trong có 4 tuần, Trung Quốc thiệt hại nhân mạng là 23 ngh́n người, tức là mỗi ngày có 1.300 người chết. C̣n phía Việt Nam là 34 ngh́n người. Con số thương vong quá lớn. Đó là một cuộc chiến thảm khốc đối với cả hai phía.

    VOA: Khi phát động cuộc chiến, Trung Quốc muốn dạy Việt Nam ‘một bài học’, nhưng trong cuốn ‘Lịch sử Quân đội Trung Quốc Hiện đại’, ông viết rằng Hà Nội cũng tin là đă dạy cho quân đối phương một bài. Đó là những bài học ǵ, thưa ông?

    Tiến sỹ Lư Tiểu Binh: Chúng hàm ư nhiều điều. Các nhà lănh đạo Trung Quốc, trong đó có Đặng Tiểu B́nh, muốn ngăn không cho Việt Nam mở rộng ảnh hưởng sang các quốc gia láng giềng như Campuchia, nhất là khi Việt Nam đưa 200 ngh́n quân vào chiếm đóng nước này năm 1977 và 1978.

    Chính phủ Việt Nam khi ấy cũng có các chính sách hung hăng trên biên giới với Trung Quốc không những trên đất liền và c̣n ngoài biển khơi thuộc biển Nam Trung Hoa (tức biển Đông) cũng như các chính sách đối với các Hoa Kiều ở Việt Nam. Ông Đặng muốn chấm dứt tất cả những điều đó.

    Nhưng theo tôi, quân đội Việt Nam cũng đă dạy cho đối phương Trung Quốc một bài học. Quân đội Trung Quốc khi ấy th́ ngoài lỗi thời c̣n đánh giá thấp khả năng chiến đấu hiệu quả của quân đội Việt Nam. Ngoài ra, họ c̣n đánh giá sai tinh thần chiến đấu chống sự xâm lăng của người dân Việt. Chính v́ lẽ đó, phía Việt Nam nghĩ rằng họ đă dạy cho Bắc Kinh một bài học.

    Nhiều người sử dụng h́nh ảnh hoa sim tím để tưởng nhớ các chiến sĩ Việt hy sinh trong chiến tranh biên giới năm 1979.Nhiều người sử dụng h́nh ảnh hoa sim tím để tưởng nhớ các chiến sĩ Việt hy sinh trong chiến tranh biên giới năm 1979.
    ​VOA: Thưa Tiến sỹ, Trung Quốc thường kỷ niệm cuộc chiến biên giới như thế nào, và báo chí có đưa tin về sự kiện này không?

    Tiến sỹ Lư Tiểu Binh: Có. Hiện giờ chính phủ cho phép truyền thông đưa tin về việc quân đội Trung Quốc đă chiến đấu dũng cảm như thế nào để ca ngợi h́nh ảnh anh dũng của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa và cũng đồng thời sử dụng việc này để cảnh báo dân chúng rằng Việt Nam vẫn c̣n là một chủ đề tiềm ẩn, nếu ta không muốn nói đến từ vấn đề.

    Ngày nay đó không phải là vấn đề trên đất liền, mà xoay quanh quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trên biển Nam Trung Hoa. Họ cũng dùng cuộc chiến biên giới để cảnh báo quần chúng trong nước về khả năng xảy ra một cuộc xung đột trong tương lai giữa Việt Nam và Trung Quốc.

    Tôi biết là có những cuộc kỷ niệm quy mô nhỏ trong quân đội cho những vị tướng từng tham gia cuộc chiến biên giới. Dù cuộc chiến kết thúc nhưng xung đột vẫn tiếp diễn tới những năm 80, cho nên thế hệ lănh đạo quân sự hiện thời ở Trung Quốc là các cựu chiến binh từng chiến đấu ở Việt Nam.

    Giờ họ trở thành các chỉ huy hàng đầu. Họ ca ngợi các giá trị của họ cũng như lưu giữ thời kỳ chiến đấu v́ đó là cuộc chiến cuối cùng mà Trung Quốc tiến hành với một nước khác. V́ thế họ dùng nó để khuếch trương những ǵ họ trải qua.

    VOA: Từ cuộc chiến biên giới hơn 30 năm trước tới các vấn đề tranh chấp ở biển Đông, theo ông, Việt Nam có nên đặt kỳ vọng vào Trung Quốc?

    Tiến sỹ Lư Tiểu Binh: Việt Nam tin rằng họ có sự ủng hộ trên toàn quốc từ người dân cũng như các phương tiện truyền thông. Chính phủ tuyên bố chủ quyền đối với những quần đảo trên vùng biển đó. Chính phủ Việt Nam đă mạnh mẽ lên tiếng chống lại sự hung hăng của Trung Quốc đối với các quần đảo trên biển Đông.

    Họ tin rằng phía Trung Quốc sẽ thiết lập một hội nghị, diễn đàn, tôi không muốn dùng từ hợp tác, để bao gồm các nước tranh chấp nhằm giải quyết vấn đề mà không có sự can thiệp của bên ngoài, nhất là ảnh hưởng của Mỹ. Phía Việt Nam đă bắt đầu trao đổi với Trung Quốc nhưng họ không tin là họ được đối xử một cách b́nh đẳng.

    Việt Nam muốn có sự tham gia và ủng hộ của các nước khác như Mỹ và Nhật Bản cộng với sự ủng hộ của các nước khác để cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực.

    Họ cũng dùng cuộc chiến biên giới để cảnh báo quần chúng trong nước về khả năng xảy ra một cuộc xung đột trong tương lai giữa Việt Nam và Trung Quốc.
    Tiến sỹ Lư Tiểu Binh nói.
    VOA: Theo đánh giá của ông, liệu có khả năng Bắc Kinh lại muốn dạy cho Việt Nam một bài học mới nữa không?

    Tiến sỹ Lư Tiểu Binh: Tôi nghĩ là có. Vị thế của chính quyền hiện thời ở Trung Quốc khá mạnh. Họ lợi dụng và cổ xúy tinh thần dân tộc để huy động sự hậu thuẫn chính trị nhằm chống lại bất kỳ tuyên bố nào của Nhật Bản đối với quần đảo tranh chấp Senkaku (Điếu Ngư) hay của Việt Nam và Philippines đối với quần đảo Trường Sa.

    Họ đă thể hiện và chứng tỏ sức mạnh quân sự bằng cách triển khai cả không lực và lực lượng hải quân, trong đó hàng không mẫu hạm mới tại vùng biển lân cận. Nó cho thấy họ chứng tỏ khả năng quân sự nhằm thị uy để các nước khác không đưa ra thêm các tuyên bố chủ quyền.

    Trung Quốc đă thiết lập chủ quyền đối với với các ḥn đảo ở biển Đông. Năm 1974 quân đội Trung Quốc tấn công các chiến hạm của quân đội miền Nam Việt Nam và lên chiếm các ḥn đảo kể từ đó. Họ nói rằng nếu ai đó đến chiếm các ḥn đảo đó, họ sẽ ra tay bảo vệ lănh thổ của ḿnh.

    VOA: Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy của Việt Nam từng nói với tôi trong một cuộc phỏng vấn với VOA Việt Ngữ rằng với chủ nghĩa bá quyền và ư đồ thâu tóm biển Đông của Bắc Kinh, th́ việc đàm phán với Trung Quốc là điều không hiệu quả. Ư kiến của ông ra sao?

    Tiến sỹ Lư Tiểu Binh: Đó chỉ là một khía cạnh. C̣n có những quan điểm khác nữa. Cả hai chính phủ cần các giải pháp kinh tế cho những khó khăn trong vấn đề tranh chấp lănh hải. Họ đang t́m kiếm các nguồn lực và các cơ hội mới. Họ từng có kinh nghiệm giải quyết các vấn đề tranh chấp như thương mại vùng biên, nhập cư hay buôn bán vũ khí. Trung Quốc muốn giải quyết tranh chấp thông qua thỏa thuận song phương với Việt Nam.

    Trung Quốc có thể thiết lập bàn đàm phán và mời phía Việt Nam, dù tôi cũng không biết liệu việc đó có dẫn tới bất kỳ điều ǵ hay không. Nhưng đó là cơ hội để họ bàn thảo với nhau về chủ quyền các quần đảo. Tôi nghĩ là Trung Quốc sẽ mở đàm phán với Việt Nam trước khi tiến hành với Nhật Bản và Philippines về vấn đề chủ quyền lănh hải.

    Họ nói rằng nếu ai đó đến chiếm các ḥn đảo đó, họ sẽ ra tay bảo vệ lănh thổ của ḿnh.
    Tiến sỹ Lư Tiểu Binh nói.
    VOA: Ông đánh giá như thế nào về mối quan hệ Hà Nội – Bắc Kinh nói chung?

    Tiến sỹ Lư Tiểu Binh: Mối quan hệ này có những thăng trầm, lên xuống và trải qua cả mặn nồng lẫn chua chát. Họ đều cần tới nhau. Họ đều coi nhau là các chính phủ cộng sản.

    Nhưng mỗi nước đều có những lợi ích quốc gia riêng. Cho nên theo tôi, trong thời gian gần, cả hai nước sẽ lại trải qua những thăng trầm trong mối quan hệ, có lúc tranh căi rồi lại hợp tác.

    Theo tôi, chúng ta sẽ không chứng kiến một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng hay chiến tranh trong tương lai gần v́ cả hai nước đều gặp khó khăn về kinh tế và đang trong giai đoạn chuyển đổi chính trị. Họ đều muốn mối quan hệ này có lợi thay v́ gây tổn hại cho chính quyền.

    Toàn bộ cuộc phỏng vấn này sẽ được phát sóng trong chương tŕnh 'Câu chuyện Việt Nam' của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ vào lúc 10 giờ tối (giờ Hà Nội) ngày 23/2 trên sóng trung b́nh 256mét41, tức 1,170 KHZ. Chương tŕnh cũng được truyền trực tiếp trên mạng tại địa chỉ: www.voatiengviet.com. Mời quư vị đón nghe. Xin chân thành cám ơn quư vị.

  9. #49
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến đẫm máu của Việt Nam đánh bại Trung Quốc?
    Hồi tưởng về thời điểm một cuộc chiến mà hầu hết người Mỹ không thấy quen thuộc.



    (SALEM, Oregon) – Trung Quốc đă thất bại trong một cuộc chiến tranh quan trọng trong năm 1979 chống lại Việt Nam, dù rất nhiều người ở phương Tây không hiểu rơ lịch sử quan trọng của nó. Bên phía Việt Nam là việc công nhận hiếm hoi liên quan đến sự t́nh nguyện của nước này để đánh bại Khmer Đỏ tàn bạo ở quốc gia láng giềng Campuchia, sau chiến tranh của Mỹ tại Đông Nam Á. C̣n với Trung Quốc, cuộc xâm lược Việt Nam, chỉ thất bại và rút lui sau 29 ngày, th́ cuối cùng họ đă từ bỏ cuộc xâm lược của ḿnh.

    Hăy trở lại năm 1970, khi Mỹ đă có sáu năm bước vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, là năm mà các lực lượng Mỹ xâm chiếm Campuchia, nước có biên giới giáp với phía bắc và nam Việt Nam. Các lực lượng cộng sản chiến đấu chống lại những đơn vị quân đội Mỹ; quân đội Bắc Việt và du kích Việt Cộng, sử dụng Campuchia như là một nơi ẩn náu và chu chuyển. Họ tiến vào nước này từ phía bắc và lộ diện ở những khu vực phía nam bị Mỹ kiểm soát.

    Năm 1973, một lệnh ngừng bắn được kêu gọi ở Việt Nam. Năm 1975, các lực lượng Mỹ cuối cùng đă rút khỏi nước này, chỉ để lại phía sau POW và MIA (tù binh và người Mỹ mất tích trong chiến tranh).

    Lúc đó, toàn bộ Việt Nam đă nằm dưới sự kiểm soát của cộng sản Hà Nội và vẫn như thế kể từ ấy.

    Điều thú vị là, Việt Nam có được sự hỗ trợ chủ yếu từ Liên bang Xô Viết trong suốt cuộc chiến tranh với Mỹ, chứ không phải là láng giềng Trung Quốc như một điều hợp lư được mong đợi. Trung Quốc là một người ủng hộ chính quyền lợi của Việt Nam cho tới lúc bắt đầu chiến tranh với Mỹ, đó cũng là năm sự ủng hộ của Trung Quốc với Việt Nam chấm dứt.

    Như các thông tin của Wikipedia, đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Minh có một lịch sử lâu đời. Khi Việt Nam chiến đấu chống Pháp năm 1950, nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa vừa thành lập và Việt Minh có được mối quan hệ gần gũi. Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, và “Nhóm tư vấn quân sự Trung Quốc” dưới sự chỉ đạo của Vi Quốc Thanh đă đóng một vai tṛ quan trọng trong việc Việt Minh đánh bại quân đội Pháp.

    Quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc bắt đầu tan ră sau cái chết của nhà lănh đạo Liên Xô Joseph Stalin – người chịu trách nhiệm về việc sát hại hàng triệu người Nga. Mao Trạch Đông nói, Nikita Khrushchev đă phạm một sai lầm nghiêm trọng trong một “Bài phát biểu bí mật” lên án Stalin. Những ǵ thực sự khiến Chủ tịch Mao giận dữ là sự ủng hộ của Khrushchev về việc cùng tồn tại hoà b́nh với phương tây.

    Sự thù địch gia tăng và dẫn tới cái gọi là “chia rẽ Trung – Xô”.

    Thời điểm đó, mới chỉ bắt đầu cuộc chiến tranh Việt Nam của Mỹ, Bắc Việt vẫn ủng hộ Trung Quốc, phần lớn do sự ủng hộ của Trung Quốc với chính sách tái thống nhất của Bắc Việt; điều mà Liên Xô khi đó vẫn không để tâm.

    Trung Quốc rút khỏi sự ủng hộ từ Bắc Việt cùng năm cuộc chiến tranh Mỹ bắt đầu, năm 1964, khi đảng của Khrushchev sa thải ông và thay thế là Brezhnev ở cương vị Bí thư Thứ nhất và Alexei Kosygin đảm nhận ghế Thủ tướng.

    Bắt đầu trong năm 1965, ḷng trung thành của những người cộng sản Việt Nam chuyển hướng tới Liên Xô; khi đó cả Liên Xô và Trung Quốc đang ủng hộ vũ khí cho Bắc Việt trong cuộc chiến tranh chống lại Nam Việt Nam và Mỹ.

    Kết cục bất ngờ với Khmer Đỏ

    Cộng sản Việt Nam và Khmer Đỏ của Pol Pot từng làm việc với nhau thời kỳ đầu, nhưng mối quan hệ bắt đầu tách rời khi chế độ Campuchia yêu cầu Việt Nam trả lại những khoảnh đất cho Campuchia bị “mất” trong một số thế kỷ trước. Việt Nam không quan tâm và Pol Pot đă trả đũa bằng cách tàn phá tộc người Việt Nam trong một vụ thảm sát bên trong Campuchia.

    Điều quan trọng cần nhấn mạnh rằng, Khmer Đỏ đă phạm tội diệt chủng chống lại người dân ở các chủng tộc khác nhau bao gồm tộc người Trung Quốc, Việt Nam và người Campuchia.

    Liên Xô cuối cùng đă ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến đánh bại Pol Pot ở Campuchia, sau thời kỳ diệt chủng khét tiếng bi thảm. Sự ủng hộ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa với Pol Pot đă khiến cho Liên bang Xô viết coi đây là một cơ hội. Họ hậu thuẫn các lực lượng chiến đấu dày dạn của quân đội Việt Nam để dễ dàng đánh bại Khmer Đỏ diệt chủng.

    Người Việt Nam biết có thể có sự trả đũa từ Trung Quốc, nhưng họ chọn cách tiếp nhận ủng hộ của Xô Viết và hy vọng việc phô trương lực lượng sẽ kiềm chế được Trung Quốc. Về lâu dài, họ đă thất bại trong canh bạc của ḿnh.

    Cuộc xâm chiếm chính thức của Việt Nam tại Campuchia xảy ra vào cuối 1978. Khmer Đỏ thiếu kinh nghiệm chiến đấu, kinh nghiệm của họ là ức hiếp và giết hại dân thường, chứ không phải thực tế giao chiến quân đội.

    Ngày 7/1/1979, các lực lượng Campuchia được sự hỗ trợ của chính phủ Việt Nam đă chiếm giữ Thủ đô Phnom Penh, chấm dứt chế độ Khmer Đỏ. Pol Pot trốn vào rừng và sống ở đó trong nhiều năm. Tới năm 1997, ông và một người c̣n lại của Khmer Đỏ hoạt động ở khu vực biên giới Campuchia và Thái Lan.

    Cuộc chiến 29 ngày

    Thứ duy nhất thiếu vắng trong cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc ngày 17/2/1979 là máy bay. Trung Quốc đổ bộ vào các khu vực biên giới chính của Việt Nam với bộ binh, thiết giáp và pháo binh. 29 ngày chiến tranh của họ không đạt được thắng lợi đáng kể và thất bại trong việc phô trương lực lượng chống lại Xô Viết.

    Theo Wikipedia:

    Trong ṿng một ngày, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đă tiến sâu vào Việt Nam khoảng 8km dọc theo một mặt trận rộng lớn. Sau đó họ đă chậm lại và gần như đ́nh trệ v́ sức kháng cự mạnh mẽ của Việt Nam và những khó khăn trong hệ thống hậu cần Trung Quốc. Ngày 21/2, cuộc tiến quân được phục hồi chống lại Cao Bằng ở cực bắc và chống lại trung tâm quan trọng nhất khu vực là Lạng Sơn. Quân đội Trung Quốc tiến vào Cao Bằng ngày 27/2,nhưng thành phố hoàn toàn không được bảo vệ cho tới ngày 2/3. Lạng Sơn thất thủ hai ngày sau đó. Ngày 5/3, Trung Quốc nói rằng, Việt Nam đă bị trừng phạt thích đáng, tuyên bố chiến dịch kết thúc. Bắc Kinh toàn bố “bài học” của họ đă hoàn thành và PLA hoàn tất việc rút quân vào ngày 16/3.

    Quan điểm của Việt Nam trong sự trỗi dậy của các hoạt động chiến đấu là, Bắc Kinh đă nếm trải một thất bại quân sự nếu không phải là sự bại trận hoàn toàn.

    Theo GlobalSecurity.org:

    Cuộc tấn công 1979 đă xác định rơ nhận thức của Hà Nội về mối đe doạ Trung Quốc. Chỉ huy cấp cao Quân đội Nhân dân Việt Nam (PAVN) từ nay trở đi phải giả định, lập kế hoạch mục tiêu rằng, Trung Quốc có thể trở lại và có thể không chỉ dừng lại ở các chân đồi mà có thể tiến tới Hà Nội. Chiến tranh biên giới đă tăng cường quan hệ Xô – Việt. Vai tṛ quân sự của Xô Viết tại Việt Nam đă gia tăng trong những năm 1980 khi Liên Xô cung cấp vũ khí cho Việt Nam; hơn thế nữa, các tàu Liên Xô được quyền tiếp cận các cảng ở Đà Nẵng và vịnh Cam Ranh, máy bay do thám Liên Xô được hoạt động ở các sân bay Việt Nam. Người Việt Nam đáp trả chiến dịch của Trung Quốc bằng cách biến các khu vực giáp với biên giới Trung Quốc thành “những pháo đài sắt” có người điều khiển, được trang bị tốt và lực lượng bán quân sự được đào tạo kỹ càng. Ước tính có 600.000 quân được chỉ định để đối phó với các hoạt động của Trung Quốc và sẵn sàng cho một cuộc xâm lược khác của Trung Quốc. Kích cỡ chính xác của các hoạt động biên giới rất khó xác định, nhưng giá trị về tiền tệ với Việt Nam là đáng kể.

    Theo trang web SinoVietnameseWar.co m, di sản của chiến tranh là lâu dài, đặc biệt ở Việt Nam. Ở đất nước bị tàn phá bởi hai cuộc chiến tranh, Trung Quốc với tất cả bản chất, đă thực thi một “chính sách tiêu thổ” khi rút lui về Trung Quốc, gây ra những tổn thất trên diện rộng với vùng nông thôn và cơ sở hạ tầng của Việt Nam.

    Làng mạc điêu tàn, đường bộ và đường sắt thiệt hại trong tay của người Trung Quốc.

    Trong cuốn Defending China (Bảo vệ Trung Quốc) phát hành năm 1985, Gerald Segal kết luận rằng, cuộc chiến tranh chống Việt Nam của Trung Quốc năm 1979 là một thất bại hoàn toàn: “Trung Quốc đă không thể buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, không chấm dứt được các cuộc đụng độ ở biên giới, không tạo được sự nghi ngờ về sức mạnh của Liên Xô, không xua đi được h́nh ảnh về Trung Quốc là một con hổ giấy, và không kéo được Mỹ vào một liên minh chống Liên Xô”.

    Tuy nhiên, như Wikipedia thuật lại, Bruce Elleman lập luận rằng “một trong những mục tiêu ngoại giao quan trọng nhất đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm phơi bày rằng, những đảm bảo hỗ trợ quân sự của Liên Xô với Việt Nam là lừa gạt. Phơi bày nó ra ánh sáng, chính sách của Bắc Kinh thực tế là một thành công ngoại giao, kể từ khi Moscow không tích cực can thiệp, v́ vậy cũng cho thấy những hạn chế thực tế của hiệp ước quân sự Xô – Việt … Trung Quốc đă giành được một thắng lợi chiến lược bằng cách giảm thiểu khả năng tương lai của một cuộc chiến hai mặt trận chống lại Liên Xô và Việt Nam.

    “Các cuộc đụng độ biên giới tiếp tục trong suốt những năm 1980, bao gồm một vụ chạm trán đáng kể vào tháng 4/1984; đây là lần đầu tiên chứng kiến việc Trung Quốc sử dụng súng trường tấn công kiểu 81”, theo trang web SinoVietnameseWar.co m.

    Sau nhiều năm đàm phán không thành công, một hiệp định biên giới cuối cùng đă được kư kết giữa hai nước năm 1999. Vị trí biên giới chính xác được giữ bí mật, các vấn đề c̣n tiếp tục, và Việt Nam cuối cùng đă từ bỏ đất đai lại cho Trung Quốc.

    Có điểm lưu ư tích cực, đó là tuyên bố tháng 12/2007 về tuyến đường Hà Nội – Côn Minh; một bước ngoặt trong quan hệ Trung – Việt, sẽ được xây dựng. Con đường này sẽ đi qua vùng biên giới từng là một chiến trường giữa hai nước. Nó sẽ góp phần phi quân sự hoá khu vực biên giới, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương và hợp tác công nghiệp giữa các bên, SinoVietnameseWar.co m nhấn mạnh.

    Nguồn cho bài viết:

    Sino-Vietnamese War – From Wikipedia, the free encyclopedia

    Chinese Invasion of VietnamFebruary 1979 – GlobalSecurity.org

    SinoVietnameseWar.co m

    Người dịch: Phạm Hữu

  10. #50
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Những vùng trắng trong lịch sử



    Hàng binh Tàu ở biên giới Việt Nam 1979

    Nguyễn Hưng Quốc

    Trong bài “Viết và viết lại lịch sử”, tôi nêu lên luận điểm chính: Từ năm 1954, ở miền Bắc, và từ năm 1975, trong cả nước, đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn giành độc quyền trong việc viết sử, cả lịch sử hiện đại lẫn lịch sử cổ đại và trung đại.

    Cái gọi là độc quyền ấy bao gồm ba khía cạnh. Thứ nhất, độc quyền về quan điểm. Quan điểm này lại gồm hai nét chính: một, lịch sử, trước hết, là lịch sử của đấu tranh giai cấp; và hai, viết lịch sử cũng là một hành động đấu tranh giai cấp, nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh giai cấp mà họ đang theo đuổi. Thứ hai, độc quyền trong việc diễn dịch và giải thích lịch sử. Xin lưu ư là lịch sử (history) khác với biên niên (chronicle). Trong biên niên (một h́nh thức sử khá phổ biến ở Việt Nam ngày xưa), người ta chỉ ghi nhận và tŕnh bày các sự kiện theo tŕnh tự thời gian, cái này kế tiếp

    cái khác; mỗi sự kiện như một đơn vị biệt lập. Lịch sử th́ khác. Lịch sử là một nỗ lực t́m hiểu và diễn dịch quá khứ bằng cách phát hiện ra quan hệ nhân quả giữa các sự kiện: Điều các sử gia thường làm là xem sự kiện này là nguyên nhân hoặc hậu quả của một sự kiện khác; hơn nữa, họ c̣n so sánh và xếp hạng các sự kiện và các nhân vật theo một hoặc những tiêu chí nhất định: người này là ái quốc, người kia là phản quốc; người này là anh hùng, người kia là hèn nhát, v.v.. Thứ ba, họ cũng độc quyền trong việc sử dụng tài liệu lịch sử: Với mỗi triều đại, mỗi chế độ, hoặc cụ thể hơn, với mỗi nhân vật, họ sẽ quyết định việc khen hay chê, và dựa trên việc khen hay chê đó, họ sẽ quyết định việc chọn lựa các tư liệu thích hợp cho việc mô tả và đánh giá.

    Suốt bao nhiêu năm, đảng Cộng sản lúc nào cũng quyết liệt trong việc giành và giữ những sự độc quyền ấy. Do đó, cái lịch sử mà họ tŕnh bày trước mắt mọi người và dạy cho mọi học sinh từ tiểu học đến trung học và đại học, có thể khác hẳn với những lịch sử do người khác viết (chủ yếu là trước đó hoặc ở ngoại quốc, những lúc và những nơi họ không kiểm soát được).

    Tuy nhiên, theo dơi sinh hoạt chính trị Việt Nam trong những năm gần đây, chúng ta dễ dàng nhận thấy có những vùng nhà cầm quyền Việt Nam hoàn toàn bỏ trắng. Một trong những vùng trắng quan trọng nhất là những xung đột liên quan đến Trung Quốc từ năm 1975 đến nay. Mà những xung đột ấy lại nhiều và tàn khốc vô cùng.
    Đáng kể nhất là cuộc xâm lược kéo dài 29 ngày (từ ngày 17 tháng 2 đến ngày 16 tháng 3 năm 1979) của Trung Quốc vào các tỉnh thuộc biên giới phía Bắc của Việt Nam. Thời gian th́ ngắn nhưng đó là một cuộc chiến tranh ở quy mô rất lớn. Trung Quốc huy động đến cả 9 quân đoàn với trên 300.000 lính, một ngàn chiếc xe tăng và một ngàn rưỡi khẩu pháo (1), tấn công vào 26 địa điểm; chưa tới một tuần lễ sau, chiếm 320 làng và thủ phủ của ba trong tổng số sáu tỉnh dọc theo biên giới (Cao Bằng, Lạng Sơn và Lào Cai). Sau một tháng, số người bị giết chết, về phía Trung Quốc, khoảng 25.000 người, và phía Việt Nam, khoảng 20.000 người (2). Các chuyên gia ước tính cứ trung b́nh một người chết th́ có khoảng ba người bị thương tật; như vậy số người bị thương tật ở cả hai bên có thể lên đến cả trên 100.000. Đó là chưa kể các thiệt hại về vật chất: quân Trung Quốc đi đến đâu ở đó đều thành b́nh địa. Không có một ngôi nhà nào c̣n nguyên vẹn cả.

    Sau cuộc chiến tranh đầu năm 1979, Trung Quốc c̣n tấn công Việt Nam nhiều lần khác, với quy mô nhỏ hơn. Ví dụ, từ ngày 28 tháng 6 đến ngày 6 tháng 7 năm 1980, Trung Quốc liên tục bắn pháo vào Cao Bằng; đầu tháng 5 năm 1981, Trung Quốc xua quân đánh chiếm một số cao điểm chiến lược thuộc hai tỉnh Lạng Sơn và Hà Giang; năm 1984, Trung Quốc lại tấn công huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn (tháng 4), sau đó, huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang (tháng 7); cuối năm 1986 và đầu năm 1987, Trung Quốc lại liên tục bắn pháo vào lănh thổ Việt Nam. Quan trọng nhất, tháng 3 năm 1988, Trung Quốc đánh chiếm một số đảo và băi đá thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

    Trong lịch sử của bất cứ nước nào, chiến tranh bao giờ cũng là những sự kiện lớn; chiến tranh do ngoại xâm lại càng lớn. Lớn v́, thứ nhất, chúng tác động mạnh mẽ đến đời sống của mọi người; thứ hai, chúng ảnh hưởng sâu sắc đến các quan hệ đối ngoại; thứ ba, chúng để lại những vết thương không dễ hàn gắn trong tâm hồn của mỗi người, từ đó, để lại những ấn tượng khó phai nhạt trong kư ức của dân chúng, và những kư ức ấy, đến lượt chúng, lại góp phần h́nh thành nên bản sắc của cả một cộng đồng. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều quốc gia xem các cuộc chiến tranh như những yếu tố quan trọng trong việc định nghĩa tính dân tộc (nationhood) của ḿnh. Chiến tranh với một quốc gia láng giềng thường xuyên xâm lược ḿnh lại càng có ư nghĩa lớn: Nó c̣n là một sự cảnh báo. Người ta cần phải nhớ không phải v́ quá khứ mà c̣n v́ tương lai. Một kư ức tập thể sẽ nuôi dưỡng một sự tưởng tượng tập thể. Với cả kư ức và tưởng tượng tập thể, mọi người sẽ thấy gần gũi với nhau hơn, đoàn kết với nhau hơn, do đó, sức mạnh của dân tộc sẽ được tăng cường. Với sức mạnh ấy, người ta mới có thể hy vọng đánh thắng các cuộc xâm lược kế tiếp.

    Những phân tích trên, thật ra, hầu như ai cũng có thể hiểu. Nhà cầm quyền Việt Nam vốn trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh, và trong các cuộc chiến tranh ấy, đă từng biết sử dụng kư ức và tưởng tượng tập thể như những nguồn sức mạnh chiến lược, lại càng hiểu rơ. Trong các cuộc chiến tranh chống Pháp cũng như chống lại miền Nam và ngay cả trong cuộc chiến tranh đầu tiên chống lại Trung Quốc vào năm 1979, người ta đă biết viết lịch sử, hơn nữa, viết lại cả lịch sử trước kia, để, nói như Tố Hữu, “bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”.

    Vậy mà, lạ, trong cả hơn chục năm vừa qua, cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc năm 1979 hoàn toàn bị quên lăng. Trong lịch sử, không ai viết; trong văn học, không ai đề cập; trong truyền thông, không ai nhắc nhở; trong sinh hoạt, không một lễ tưởng niệm nào được tổ chức; thậm chí, di tích cũng không ai ǵn giữ; không những vậy, c̣n bị phá hoại. Theo nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, bia đá kỷ niệm của Sư đoàn 337 chống “quân Trung Quốc xâm lược” bị đục bỏ chữ “Trung Quốc xâm lược”; bia ghi công Nguyễn Huệ đánh tan “giặc Tàu” bị đục bỏ để thay thế bằng một “tấm bia vô thưởng vô phạt” khác; bia mộ của anh hùng liệt sĩ Trần Văn Phương hy sinh trong trận chống Trung Cộng xâm chiếm băi đá Gạc Ma năm 1988 bị đục bỏ chữ “anh hùng” (3).

    Rơ ràng là chính quyền Việt Nam muốn xoá trắng tất cả kư ức liên quan đến cuộc xâm lược tàn khốc và tàn bạo ấy.

    Tại sao?

    Xin nhường câu trả lời lại cho quư bạn đọc.

    Ở đây, tôi chỉ xin lưu ư điều này: Ở những chỗ chính quyền xoá trắng ấy, rất nhiều người yêu nước, thiện chí và nhiệt t́nh, bằng những cách thức khác nhau, cố gắng góp nhặt và ǵn giữ các kư ức về cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc năm 1979. Cứ đọc các trang mạng xă hội ở trong nước trong ngày 17 và 18/2 vừa qua th́ đủ biết. (4)

    Chỉ tiếc, những việc kỷ niệm, tưởng niệm và ghi chép lại lịch sử ấy lại bị cấm đoán (5), và những người yêu nước, nhiệt t́nh và thiện chí ấy lại thường bị phê phán là... bị xúi giục bởi các thế lực thù nghịch!

    Tại sao?

    Cũng lại xin nhường câu trả lời lại cho quư bạn đọc.

    ***
    Chú thích:
    1. Trung Quốc cũng chuẩn bị sẵn sàng khoảng 1000 chiến đấu cơ nhưng họ không sử dụng không lực trong suốt cuộc chiến này.
    2. Brantly Womack (2006), China and Vietnam, The Politics of Asymmetry, Cambridge University Press, tr. 200.
    3. Theo bài “Có một điều ǵ đó rất Lă Bất Vi” của Huỳnh Ngọc Chênh.
    4. Ví dụ, bài “Ṿng hoa tang cho truyền thống quật cường, bất khuất chống ngoại xâm” của J.B. Nguyễn Hữu Vinh
    5. Xem bài “Việt Nam cản trở các hoạt động tưởng niệm cuộc chiến Việt-Trung” của Trà Mi.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Photos: Chiến tranh biên giới Việt-Tàu 1979
    By Cu Cường in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 15-10-2011, 01:20 AM
  2. 32 Năm Chiến Tranh Biên Giới Trung Việt
    By Tigon in forum Tin Việt Nam
    Replies: 27
    Last Post: 26-02-2011, 05:24 AM
  3. Hồ sơ CIA 1979: Tranh chấp biên giới Việt-Trung (Kỳ 1)
    By Phó thường dân in forum Tin Việt Nam
    Replies: 11
    Last Post: 18-02-2011, 11:49 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 08-02-2011, 09:13 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •