Page 21 of 23 FirstFirst ... 1117181920212223 LastLast
Results 201 to 210 of 229

Thread: Mật Thư Tội Ác của Chủ Nghĩa Cộng-Sản _Tác giả: Stéphane Courtois et al.

  1. #201
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Mặc dù người ta chưa kiểm chứng tất cả tài liệu, nhưng cũng có vài văn thư cho thấy vào năm 1950-1952 đă xảy ra 16 vụ nổi loạn quan trọng. Mỗi cuộc nổi loạn có cả hàng trăm tù nhân tham dự.

    Các viên thanh tra của Bộ Trưởng Nội Vụ Krouglov báo cáo hồi năm 1951 t́nh trạng suy đồi ở các trung tâm Goulag v́ kỷ luật không được thi hành nghiêm khắc. Trong năm 1951 ban giám đóc trại tù đă làm mất 1.000.000 ngày lao động v́ các tù nhân từ chối làm việc. Đồng thời trong trại xảy ra nhiều cuộc va chạm giữa cán bộ quản giáo và tù nhân. Năng xuất sản xuất suy giảm rất nhiều.

    Theo nhận xét của Ban quản trại, các vụ xung đột thường xảy ra giữa các băng đảng. Một bên chống lại lịnh lao động và bên kia là các phần tử tù nhân chịu thi hành lịnh lao động. Các nhóm tù gia tăng thù địch và thường thanh toán nhau. T́nh h́nh ở các trại v́ thế trở nên rối loạn. Con số chết v́ thế không phải chỉ do bệnh tật hay đói khát mà v́ do hai bên giết nhau.

    Vào tháng 12 năm 1951, một cuộc họp giữa các nhân viên quản trại đă được tổ chức tại Mạc Tư Khoa. Trong phiên họp, họ thừa nhận là cho đến nay họ đă khéo léo đạt được những thắng lợi do sự xung đột giữa các phe nhóm tù nhân mà họ dần dần mất quyền quản lư. Ở một vài trung tâm, một số băng đảng đùng ra nắm quyền điều hành trại. Để tiêu diệt các băng đảng, họ phải thuyên chuyển một số tù phạm từ trại này qua trại khác và thường xuyên tái tổ chức các toán phạm nhân trong các trung tâm lao động. Con số tù phạm lao động trong các trung tâm này rất đông, từ 40.000 đến 60.000 người.

    Bên cạnh sự náo loạn của các băng đảng đă làm khó khăn cho giới hữu trách, c̣n có một số vấn đề cần phải thay đổi đó là cải tổ chế độ lao tù, cơ cấu giam cầm và quy chế lao động sản xuất đối với tù nhân.

  2. #202
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Theo các bản phúc tŕnh củaTướng Dolguikh, chỉ huy trưởng các khu Goulag vào đầu năm 1952 và của Đại Tá Zverev, chỉ huy vùng Norilsk nơi có tất cả 69.000 tù nhân, người ta thấy có một số biện pháp sau đây:

    1./ Cô lập các thành viên của băng đảng. Nhưng v́ các băng đảng có quá nhiều thành viên nên chỉ có thể cô lập các thành phần chủ chốt.
    2./ Giải tán các vùng sản xuất rộng lớn v́ không đủ nhân viên quản lư tù nhân.
    3./ Tổ chức các đơn vị sản xuất nhỏ để ban quản giáo dễ theo dơi và kiểm soát.
    4./ Xin gia tăng quản giáo nhưng nhà nước không thể cung cấp đầy đủ. Hiện con số nhân sự đang thiếu 50%.
    5./ Đề nghị tách rời công nhân không bị kết án ra khỏi công nhân tù bị kết án. Nhưng v́ nhu cầu sản xuất tập trung của vùng Norilsk, ban quản trị trại không thể có nhà đủ để hai nhóm này cư ngụ khi tách rời.

    Nói một cách tổng quát, muốn có hiệu suất lao động tăng cao, th́ phải phóng thích trước thời hạn 15.000 tù nhân với điều kiện là họ không được phép rời khỏi nơi mà họ đang lao động.

    Đề nghị cuối cùng của Đại Tá Zverev không được coi là hợp lư trong bối cảnh lúc bấy giờ.
    Vào đầu tháng giêng năm 1951, Bộ Trửơng Bộ Nội Vụ Tứơng Krouglov đă xin Béria cho phóng thích 6000 tù nhân trước thời hạn và cho phép họ trở thành công nhân tự do, rồi chuyển họ đến làm việc ở các công trường lớn như trung tâm thủy điện Stalingrad. Nơi đây hiện có 25.000 tù nhân đang lao động khổ sai, nhưng không gia tăng mức sản xuất.

  3. #203
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Hiện tượng phóng thích trước thời hạn các tù nhân có tay nghề giỏi thường xảy ra vào các năm đầu của thập niên 50.
    Vấn đề kiểm soát hiệu năng kinh tế trong các trại tù với số lượng to lơn như vậy thật là khó khăn cho ban quản trại.
    Với con số 208.000 nhân viên quản trại, nhà nước không thể nào kiểm soát được bộ máy hành chánh này. V́ thế có rất nhiều báo cáo ma về năng suất lao động của tù nhân.

    Để giải quyết vấn đề này, cơ quan quản trại có hai biện pháp để thi hành:

    Hoặc là khai thác triệt để con số nhân công tù, không sợ thất thoát v́ thương vong hay bệnh yếu.
    Hoặc chỉ khai thác một cách hợp lư con số công nhân tù c̣n đầy đủ sức khỏe.

    Cho đến cuối năm 1948, người ta đă áp dụng giải pháp đầu. V́ thế đến cuối thập niên 40, con số nhân công tù c̣n sống sót để lao động rất thấp. Và v́ chiến tranh đă làm tiêu hao dân số, cho nên nhà nước buộc ḷng phải khai thác một cách tiếc kiệm nhân công. Để khuyến khích họ gia tăng sản xuất, nhà nước phát phần thưởng, tăng lương và tăng khẩu phằn ăn cho nhân công. Nhờ đó mà con số tử vong của nhân công tù giảm từ 2 đến 3%.

    Vào cuối thập niên 50, các cơ cấu hạ tầng cơ sở của nhà nước hoàn toàn tê liệt. Không có ngân sách canh tân cơ sở. Hàng chục đơn vị trại tù giam giữ hàng chục ngàn tù phạm trên một phạm vi quá rộng lớn. Các đơn vị này được thành lập từ những năm 1930 và 1940 với mục đích là để khai thác triệt để nguồn nhân lực của các tù nhân. Mặc dù sau đó có lịnh cải tổ từ năm 1949 nhưng phải đến năm 1952 với biện pháp thành lạp các đơn vị lao động nhỏ mới đạt được chỉ tiêu quy mô.

    Công nhân tù nhận lương hàng tháng vài trăm Rúp. Số tiền nay rất là nhỏ, 14 hay 15 ít hơn so với các công nhân tự do có cùng việc làm. Sự kiện này đă làm cho nhân công tù chán nản trong lao động, cho nên năng suất không được gia tăng. Từ đó lại nảy sinh băng đảng trong nhóm công nhân tù, gây rối loạn trong các trại lao động.

  4. #204
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Nếu tổng kết các sự kiện trong các bản phúc tŕnh của hai năm 1951 và 1952, người ta nhận thấy t́nh h́nh ở các trại tù Goulag trở nên bất trị. Các công tŕnh xây dựng vĩ đại như công tŕnh thủy điện ở Stalingrad, kinh đào Turkménistan và Volga-Don vào thời cuối của Staline đều tiến hành chậm trễ so với kế hoạch đă dự trù.

    Để thực hiện đúng chỉ tiêu, nhà nước phải chuyển một số công nhân tự do đến các đại công tŕnh này, đồng thời phải phóng thích trước thời hạn măn tù, những tù nhân nhân công tỏ ra siêng năng, làm việc tốt.

    Sau ngày Stalin qua đời, ngày 27 tháng 3 năm 1953, Beria ra lịnh ân xá 1.200.000 tù nhân. Điều này đă nói lên sự khủng hoảng trong chính sách lao tù Goulag.Ngoài các nguyên nhân chính trị và kinh tế, những người kế thừa Staline phải hiểu rằng t́nh trạng bắt giữ quá nhiều tù nhân cũng là một trong những nguyên nhân của sự khủng hoảng. Do vậy họ chấp thuận cho thi hành biện pháp ân xá.

    Trong lúc các cơ quan quản lư các trại tù Goulag đ̣i giảm tù nhân và giảm nhân viên quản giáo, th́ Staline ngày càng kiêu căng, nghi ngờ và ích kỷ. Staline đang chuẩn bị một cuộc đại thanh trừng, một cuộc đại khủng bố.

    Những ngày cuối cùng của Staline, t́nh h́nh trở nên căng thẳng. Sự chống đối mỗi lúc một gia tăng và mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng.

  5. #205
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767

    Phần 1. Chương 14: ÂM MƯU CUỐI CÙNG--

    .
    Nhựt báo " Sự Thật" số ra ngày 13 tháng giêng năm 1953 loan tin:

    Khám phá một âm mưu của bọn Bác Sĩ y khoa khủng bố.
    Lần thứ nhất chỉ nêu lên 9 Bác sĩ nhưng sau đó con số Bác sĩ tăng lên 15 người. Họ là những chuyên gia y tế giỏi, đa số gốc người Do Thái. Họ bị truy tố v́ đă lợi dụng chức vị cao cấp làm việc trong điện Cẩm Linh, âm mưu làm giảm tuổi thọ của Andrei Idanov, một thành viên của Bộ Chính Trị Trung Ương, chết ngày 8 tháng 5 năm 1948 và Alexander Chtcherbakov, chết vào năm 1950, và âm mưu ám sát các tướng lănh cao cấp của Hồng Quân theo lịnh của cơ quan t́nh báo Anh và của Ủy Ban Bảo Trợ Người Do Thái.

    Người đă đùng ra tố cáo là Bác sĩ Timachouk. Nhà nước đă tặng cho ông ta giải thưởng Lenine là một trong những giải thưởng cao quư nhất của Xô Viết.
    Trong các lần điều tra, các Bác sĩ đă khai lời thú tội. Và cũng như thời kỳ 1936-1938, bên ngoài nhà giam là những đám biểu t́nh đ̣i hỏi phải trừng trị các Bác sĩ phạm tội, phải tiếp tục điều tra và phải lưu tâm đến thành phần Bônsêvich.

    Sau khi phát hiện âm mưu của các vị lương y áo trắng, liên tục trong nhiều tuần lễ, báo chí loan tin về những diễn biến của thời kỳ đại khủng bố. Báo chí lên tiếng phải thanh toán dứt khoát các thành phần đầy tội ác nằm trong hàng ngũ Đảng. Báo chí tung ra các âm mưu rộng lớn của tập hợp trí thức, của các người Do Thái, của các quân nhân, các đảng viên cao cấp đang ở trong các ngành kinh tế, hành chính nhà nước của các Cộng Ḥa không thuộc gốc người Nga. Và báo chí cũng báo động là các âm mưu này đang gia tăng. Nó giống như cái thời điểm tệ hại nhất của thời Iejovschina.

    Các văn khố cho tham khảo các tài liệu cho thấy đó là thời kỳ quyết liệt nhất của chế độ Staline sau thế chiến thứ hai. Giai đoạn này ghi lại thành quả của chiến dịch chống lại các ảnh hưởng của ngoại lai. Có nghĩa là chiến dịch chống lại người Do Thái, phát xuất từ năm 1946-1947 và chính thức công bố vào năm 1949. Đây chỉ là một kế hoạch sơ khởi, mở đầu cho một chiến dịch Đại Khủng Bố mới. Nhưng vài tuần lễ sau khi Staline qua đời, những người thừa kế đă hủy bỏ chiến dịch khủng bố.

  6. #206
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Vào thời điểm này cũng đă xảy ra các cuộc tranh quyền giữa cơ quan thuộc Bộ Nội Vụ và Bộ An Ninh. Hai Bộ này tách rời ra từ năm 1946. Các cuộc tranh quyền diễn ra ác liệt để đưa người của ḿnh vào các chức vụ lănh đạo đảng. Cao điểm là vụ công khai hóa về các trại diệt chủng dân của Đức Quốc Xă. Một bên cho rằng đó là kế hoạch của Nga Hoàng có tính bài Do Thái, trong khi đó nhóm người Bônsêvich chống lại. Như vậy âm mưu này là trái với chủ trương của Staline ở trong giai đoạn cuối cùng của nó.

    Chúng tôi không muốn đi vào chi tiết về cái âm mưu đó, nhưng chuyện ǵ đă xảy ra trong giai đoạn cuối cùng?
    Vào năm 1942, chính quyền Cộng Sản muốn làm áp lực với người Mỹ gốc Do Thái hầu mong những người này làm áp lực chính quyền Mỹ để mở mặt trận thứ hai ở Âu Châu chống Đức Quốc Xă. Nhờ đó mà một lực lượng chống Đức Quốc Xă ở Nga dưới quyền lănh đạo của giám đốc nhà hát lừng danh Yiddish là ông Salomon Mikhoels.

    Hàng trăm nhà trí thức có tên tuổi gốc Do Thái tham gia vào lực lượng chống Đức. Như văn hào Illia Ehrenbourg, thi sĩ Samuel Marchak và Peretz Markish, nghệ sĩ dương cầm Emile Guilels, nhà văn Vassili Grossman, nhà vật lư học Piotr Kapitza,...

    Từ vai tṛ tuyên truyền, lực lượng này đă trở thành trung tâm sinh hoạt của người Nga gốc Do Thái.
    Tháng hai năm 1944, một số lănh tụ như Mikhoels, Fefer và Epstein đă gỡi cho Staline một văn thư đề nghị Staline cho thành lập một Cộng Ḥa lấy tên là Cộng Ḥa Do Thái Tự Trị ở bán đảo Crimee. Mục đích là để thay thế vụ thí nghiệm thất bại trong năm 1930 khi chính quyền Cộng Sản đưa 40.000 dân Do Thái vào vùng hẻo lánh Birobidjan, thuộc vùng biển đông Siberie, giáp với Trung Quốc.

    Ủy Ban người Do Thái tiến hành thu thập các dữ kiện và nhân chứng về các vụ tàn sát tập thể người Do Thái dưới thời Đức Quốc Xă. Thực ra đó chỉ là những h́nh thức để ám chỉ các vụ biễu t́nh chống người Do Thái, hiện vẫn c̣n đang diễn ra ở Ukraine và một vài vùng khác.

  7. #207
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Ở các vùng phía Tây, nơi mà Nga Hoàng chiếm ngự, nhiều người Do Thái cũng được sinh sống ở vùng này. Từ khi các cuộc chiến tranh mới khởi diễn và lúc mà Hồng Quân bắt đầu thua trận, dân chúng đă nổi lên chống sự hiện diện của người Do Thái.

    Cơ quan An Ninh Nội chính đă tung ra raất nhiều tin cho rằng ở hậu tuyến có rất nhiều phần tử nhiều tầng lớp nhân dân đă tuyên nhiễm các lời tuyên truyền của quân Đức Quốc Xă. Theo đó, th́ quân Đức chỉ tiến đánh người Do Thái và người Cộng Sản mà thôi.

    Tại các vùng bị quân Đức chiếm đóng như Ukraine dân Do Thái bị tàn sát khủng khiếp trước mặt người dân, nhưng không tạo ra một xúc động nào cả. Quân Đức thu nhận thêm 80.000 Ukraine vào quân đội Đức để tiêu diệt người Do Thái. Nhà nước Cộng Sản đă mở nhiều chiến dịch kêu gọi hậu phương chống lại cuộc xâm lăng của Đức để bảo tồn đất nước. Nhưng họ không đề cập đến sự tàn sát độc ác của quân Đức đối với người Do Thái. Sự êm lặng này của chính quyền Xô Viết đă tạo ra thêm ư thức câm thù người Do Thái từ trên thượng tầng Trung Ương Đảng.

    Vào tháng 8 năm 1942, Ủy Ban người Do Thái đă gởi cho Bộ Nội Vụ tŕnh bày vai tṛ nồng cốt của người Do Thái trong các lănh vực nghệ thuật, văn chương và truyền thông. Chính quyền Cộng Sản tỏ ra không hài ḷng về các hoạt động của Ủy Ban người Do Thái.

    Năm 1945, thi sĩ Peretz Markish bị cấm phát hành tập thơ của ông ta. Các tài liệu do Ủy Ban Do thái sưu tầm về tội ác của Đức Quốc Xă đối với Người Do Thái cũng bị hủy bỏ. Lư do là tài liệu chỉ lên án Đức Quốc Xă gây chiến tranh trên đất Nga chỉ nhằm mục đích duy nhất là tiêu diệt người Do Thái.

    Theo như văn thơ đề ngày 12 tháng 10 năm 1946 do Bộ Trưởng An Ninh Nội Chính Abakoumov gởi cho Bộ Chính trị, th́ Ủy Ban Do Thái có khuynh hướng Quốc Gia khi mở mặt trận chống Phát xít Đức.

  8. #208
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Nhưng v́ nhu cầu cần phải có một chính sách đối ngoại thuận lợi cho việc thành lập một nước DO THAI , cho nên Staline không có phản ứng. Chỉ sau khi Liên Hiệp Quốc và Liên Bang Xô Viết bỏ phiếu chấp thuận chia các phần đất Palistine, diễn ra ngày 29 tháng 11 năm 1946, Abakoumov mới được ủy quyền rộng lớn để giải tán Ủy Ban của người Do Thái.

    Ngày 14 tháng 12 năm 1947, các thành viên của Ủy Ban Do Thái bị bắt giam. Vài tuần lễ sau, ngày 13 tháng 01 năm 1948, Solomon Mikhoels bị giết chết trong thành phố Minsk. Theo như lời tuyên bố chính thức của nhà nước, ông ta tử nạn trong một tai nạn lưu thông.

    Vài tháng sau, ngày 21 tháng 11 năm 19489, Ủy Ban Do Thái chính thức bị giải tán với lư do tổ chức này là trung tâm chống Xô Viết. Cơ quan ngôn luận của tổ chức Do Thái là tờ Einikait viết bằng tiếng Yiddish, tiếng Do Thái cũ, bị tịch thu và cấm phát hành. Nhiều thanh niên gốc Do Thái bị bắt giam.

    Tháng 2 năm 1949, nhà nước mở chiến dịch chống tư tưởng ngoại lai của người Nga gốc Do Thái. Báo chí lên án ngành sân khấu của các người Nga Gốc Do Thái. Họ cho rằng kịch nghệ không phản ảnh được tinh thần người Nga.
    Trên tờ báo Sự Thật của đảng Cộng Sản, số ra ngày 2 tháng 2 năm 1949, các kư gỉa đặt câu hỏi ông Gourvitch hay ômg Iozovski có biết ǵ là tinh thần người dân Nga không?

    Và từ đầu năm 1949, có hàng trăm người Do Thái sống trong các thành phố Mạc Tư Khoa và Leningrad bị bắt giam.

    Tờ Neva loan các tin về vụ kết án ở Lenigrad vào ngày 7 tháng 7 năm 1949. Các ông Archille Grigorievitch Leniton, Illia Zeilkovitch Serman, Rulf Alexandrovna Zevina bị kết án 10 năm tù chỉ v́ các ông ấy đă nhận xét tư tưởng của Marx cùng với tư tưởng phản cách mạng, về tội ca ngợi các tư tưởng ngoại lai và có luận điệu xuyên tạc về vấn đề quốc tịch. V́ lư do chống án, họ bị toà án Tối Cao Sô Viết gia tăng thêm thời gian ở tù từ 10 năm lên đến 25 năm. Ṭa án Tối cao khuyến trách ṭa án Lenigrad là đă không nghiêm chỉnh kết án các bị can. Họ là các phần tử phản cách mạng, có nhiều định kiến và cho rằng các nước khác hay hơn tốt chính quyền Liên Bang Sô Viết.

  9. #209
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Chính sách sa thải các cán bộ gốc Do Thái được thi hành có phương pháp, nhất là trong các ngành thông tin, báo chí, văn hóa, trung tâm xuất bản, trung tâm y tế. Đó là các ngành nghề then chốt mà người Do Thái đang điều hành. Các cuộc lùng bắt diễn ra liên tục và nhắm vào mọi giới. Nhiều chuyên viên kỹ thuật bị ghép vào tội phá hoại bị bắt ở các khu hầm mỏ kim loại Stalino bị hành quyết vào ngày 12 tháng 8 năm 1952.

    Vợ của ngoại trưởng Molotov là người Nga gốc Do Thái, tên là Paulina Jemtchoujina, giữ vai tṛ chính trong ngành kỹ nghệ dệt, bị bắt giam vào ngày 21 tháng 1 năm 1949 v́ bị kết án về tội đánh mất tài liệu bí mật của nhà nước. Bà bị kết án 5 năm tù lao động khổ sai.

    Một người khác, vợ của ông Alexandre Polskrebychev, thư kư riêng của Staline, cũng là người gốc Do Thái , bị bắt và bị xử bắn hồi tháng 7 năm 1952 v́ tôi làm gián điệp. Trong khi đó Molotov và ông Alexandre vẫn tiếp tục phục vụ cho Staline, như không có chuyện ǵ xảy ra.

    Các cuộc thẩm tra các bị can trong tổ chức chống phát xít của người Do Thái vẫn tiếp tục kéo dài. Các cuộc xử án kín bắt đầu từ đầu tháng 5 năm 1952, tức là gần hai năm rưỡi sau khi những người Do Thái bị bắt. Tại sao phải cần thời gian quá lâu vậy?

    Ngày nay, nhờ một số tài liệu, mặc dù chưa đầy đủ cho lắm, cũng cho chúng ta thấy có hai lư do để giải thích cho việc kéo dài xử án người Do Thái.
    Thứ nhất là Staline vẫn chủ trương các vụ án phải được xử trong ṿng bí mật. Ông ta coi phong trào chống Phát Xít của người Do Thái có liên hệ đến một âm mưu khác, gọi là âm mưu Leningrad, một cuộc thanh trừng vĩ đại cuối cùng.

    Song song với mục đích đó, Staline cho cải tổ sâu rộng các cơ quan an ninh. Ông ra lịnh cho bắt ông Bộ Trưởng Nội An Abakoumov vào tháng 7 năm 1951. Ông cũng nhắm vào một nhân vật rất có quyền lực lúc bấy giờ là ông Beria, phó chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng và cũng là Ủy viên Trung Ương Đảng.

  10. #210
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Vụ án Ủy ban chống Phát Xít của người Do Thái chỉ là cái cớ trong chiến dịch thanh trừng nội bộ Đảng Cộng Sản đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn đến cuộc đại khủng bố lần thứ hai, nhắm vào những người mà Staline gọi là '' Âm mưu của các vị choàng áo trắng'', các vị trong ngày Y dược.
    Trong cuộc thanh trừng về vụ '' Âm mưu Leningrad''đă có rất nhiều nhân vật lănh đạo cao cấp trong Đảng Cộng sản bị giết mà cho đến ngày hôm nay vẫn c̣n nằm trong bí mật.

    Ngày 15 tháng 2 năm 1949, văn pḥng Bộ chính trị ra một nghị quyết: Các đảng viên Kouznetsov, Rodinov và Popkov, Voznessenski và Gosplan, chủ tịch đảng tại thành phố Leningrad, v́ có hành động chống đảng nên bị sa thải ra khỏi đảng. Staline luôn luôn nghi ngờ tổ chức đảng của thành phố Leningrad, là thành phần chống đối ông ta. Vào tháng 8 và 12 tháng 9 năm 1949, Staline ra lịnh cho bắt giam tất cả các đảng viên cao cấp ở thành phố Leningrad về tội có liên lạc với t́nh báo của Anh nhằm chống lại đảng.

    Ông Abakoumov c̣n phát động cuộc lùng bắt các lănh tụ đảng cộng sản đang giữ các chức vụ quan trọng trên khắp lănh thổ Nga hay trên các Cộng Ḥa khác. Hàng trăm đảng viên trong thành phố Leningrad bị bắt. Có trên 2000 đảng viên bị loại ra khỏi đảng và bị đuổi ra khỏi sở làm.

    Tháng 8 năm 1949, nhà cầm quyền ra lịnh đóng cửa Viện Bảo Tàng Pḥng Thủ thành phố. Nơi đây là dấu vết của cuộc tử thủ oai hùng của quân Nga chống lại các cuộc tấn công của quân Đức Quốc Xă. Vài tháng sau, ông Mikhail Sonlov, Ủy Viên đặc trách Tư Tưởng của Bộ Chính Trị, được bổ nhiệm thành lập Tiểu Ban Giải tán Viện Bảo Tàng. Tiểu Ban này làm việc cho đến cuồi tháng 2 năm 1953 th́ giải thể.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •