Page 23 of 23 FirstFirst ... 131920212223
Results 221 to 229 of 229

Thread: Mật Thư Tội Ác của Chủ Nghĩa Cộng-Sản _Tác giả: Stéphane Courtois et al.

  1. #221
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Trong bản phúc tŕnh mật đọc vào đêm 24 tháng 2 năm 1956 nhân kỳ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 20, ông Chroutchev chỉ lên án một phần nhỏ của chủ nghĩa Staline. Ông ta không đặt lại vấn đề và những lư do chính v́ sao Đảng đă quyết định hồi năm 1917. Ông đưa ra các sự kiện lịch sử sai lầm có hệ thống của chủ nghĩa Staline khởi đi từ năm 1934. Bản phúc tŕnh mật không đề cập đến các tội ác của Staline trong chính sách cưỡng bách kinh tế tập thể hoá.

    Ông cũng không nói đến vụ hàng triệu người chết trong những năm 1932-1933 v́ đói kém, do chính sách kinh tế sai lầm của Staline. Ông ta chỉ liệt kê con số nạn nhân của Staline là những đảng viên cộng sản, những người dưới tay của Staline, mà không hề đề cập đến hàng triệu dân chúng, chính là những nạn nhân trực tiếp của chế độ. Chroutchev đă khéo léo không trả lời câu hỏi chính: trách nhiệm của đảng cộng sản đối với nhân dân kể từ khi đảng cộng sản lên nắm chính quyền từ năm 1917.

    Sau đại hội đảng lần thứ 20, nhiều biện pháp cụ thể đă được thi hành. Các biện pháp này đă bổ túc cho một số chính sách trước đây.
    Trong tháng 3 và 4 năm 1956, các người bị đưa đi khẩn hoang đặc biệt thuộc thành phần sắc tộc, hay bị t́nh nghi hợp tác với Đức , bị bắt vào những năm 1943-1945 đều được các cơ quan thuộc bộ Nội Vụ giảm bỏ các thủ tục kiểm soát hành chánh. Nhưng họ cũng chẳng được quyền đ̣i hỏi lại những tài sản của họ, bị nhà nước tịch thu trước đây.

    Biện pháp ân xá nửa chừng này chỉ gây thêm sự phẩn nộ. Một số lớn không chịu kư tên xin ân xá khi họ bị buộc phải chấp nhận là không đ̣i lại tài sản và cũng không xin trở về nguyên quán. Người ta nhận thấy chính phủ có phần nhượng bộ. Điều này chứng tỏ có thay đổi trong chính sách của chính quyền vào lúc bấy giờ.

    Ngày 9 tháng 1 năm 1957, nhà nước cho thi hành nghị quyết nhằm giải tán các cộng ḥa và các vùng tự trị của các sắc dân, trừ cộng ḥa Tatars ở vùng Crimee.
    Suốt trong 3 thập niên, người Tatar quyết tâm tranh đău để đ̣i cho được trở về quê quán của họ.

  2. #222
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Từ năm 1957, đă có hàng chục ngàn người thuộc các sắc dân Karakchais, Kalmouks, Balkars, Tchetchenes và Ingouches lục đục trở về quê hương của họ. Nhà nước không trợ giúp họ tái định cư. Nhiều vụ chống đối giữa những người tù trở về quê cũ và những người Nga đến đang chiếm ngự nhà cửa của họ.

    Những người Nga này trước kia cư ngụ ở những vùng lân cận, được nhà nước chuyển về các khu vực này định cư, khi dân ở đây bị nhà nước bắt đi lưu đày. Khi những người tù trở về v́ không có hộ khẩu nên không thể đăng kư chính quyền địa phương để có nơi cư ngụ chính thức. Họ phải tự t́m chổ ở bằng cách cất cḥi, lều vải hay bằng nhà tạm bợ bằng gỗ thông thường. Họ sống trong t́nh trạng bị đe dọa thường xuyên. Họ bị bắt và bị truy tố về các tội không có giấy thông hành, không hộ khẩu. Chính quyền địa phương không chịu cung cấp cho họ các loại giấy tờ hợp pháp đó. Với các lư do đó, họ có thể bị 2 năm tù.

    Tháng 7 năm 1958, tại thủ đô Grozny của xứ Tchetchene đă xảy ra vụ thảm sát đẫm máu giữa dân Nga và dân Tchetchene. Sau đó nhà nước phải chấp nhận cất nhà ở cho dân tù Tchetchene. Từ đó quan hệ giữa hai sắc dân tạm thời lắng dịu.

    Nhưng phải đợi măi đến tháng giêng năm 1960, quy chế của người dân đi khẩn hoang đặc biệt mới chính thức băi bỏ. Những người lưu đày thuộc sắc dân Ukraine và dân vùng Baltique là những người được phóng thích sau cùng. Nhưng v́ hệ thống hành chánh quá rườm rà và gặp quá nhiều trở ngại trong lúc lập thủ tục ân xá, cho nên có rất nhiều người chán năn, đành phải ở lại chọn nơi này làm quê hương; trong khi một số khác ít hơn quá bán lên đường trở về quê nhà.

    Một số lớn tù nhân bị ghép vào tội phản cách mạng chỉ được ân xá sau kỳ đại hội đảng lần thứ 20.
    Có chừng 90.000 người được trả tự do trong năm 1954-1955.

    Vào năm 1956-1957 có gần 310.000 tù nhân thuộc diện phản cách mạng đựơc hồi hương.
    Tính đến đầu năm 1959, chỉ c̣n 11.000 tù nhân chính trị c̣n bị giam.

  3. #223
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Để tiến hành nhanh chóng thủ tục ân xá và hồi hương, nhà nước đă thành lập 200 uỷ ban tư pháp về các trại giam. Nhưng được phóng thích ra khỏi trại giam không có nghĩa là được phục hồi quyền công dân để hưởng được các quyền lợi khác.

    Trong hai năm, 1956-1957, chỉ có chừng 60.000 người trở về được phục hồi quyền công dân. Con số đông c̣n lại phải chờ nhiều năm sau, có khi hàng chục năm mới được cấp giấy chứng minh nhân dân cần thiết này. Trong tác phẩm '' Mọi việc rồi sẽ qua đi'' nhà văn Vassili Grossman gọi năm 1956 là năm của '' các cuộc trở về''. Ông đă dùng nhóm từ '' các cuộc trở về'' thật là đầy đủ ư nghĩa, thật là vĩ đại. Nó phản ảnh sự êm lặng hoàn toàn về phía nhà nước và chính nó đă gợi lại trong đầu của những người đă không có cơ hội để trở về nơi chôn nhau cắt rún của ḿnh. Nó gây chấn thương tâm lư trong quần chúng và đă làm xáo động trong đời sống của người dân.

    Trong tác phẩm '' Hai nước Nga đối diện '', nhà văn Lydia Tchoukovskaia đă cái thảm kịch mặt đối mặt trong cùng một xă hội. Một nước Nga cầm tù và một nước Nga bị cầm tù. Trong cái khung cảnh thù hận đó, chính quyền quyết định không giải quyết các thư tố cáo cá nhân, thư tố cáo các viên chức, trước đây có nhúng tay bất hợp pháp trong các vụ đàn áp, tra tấn và đưa đi tù đày. Cơ quan duy nhất có quyền tái cứu xét các bản án đó là Ủy ban kiểm soát của đảng cộng sản.

    Trong các văn thư của nhà nước gởi đến các văn pḥng biện lư có rất nhiều phần đề cập đến vấn đề ưu tiên giải quyết cho các cán bộ cộng sản và quân nhân.

    Sau khi cho ân xá tù chính trị, các trại giam sau thời kỳ Staline đă giảm xuống đến con số tương đối ổn định.
    Vào năm 1959-1960 có chừng 900.000 phạm nhân, trong đó có chừng 300.000 người thuộc diện cứng đầu. Những người này hoặc đă tái phạm hay bị kết án tù nhiều năm. Con số c̣n lại 600.000 người thuộc diện thường tội.

  4. #224
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Vai tṛ chính ở các Goulag là dùng nhân lực của tù nhân để khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở các vùng Cực Bắc và vùng Viễn Đông của nước Nga. Nhưng rồi theo t́nh thế, vai nhiệm vụ này của Goulag cũng biết mất dần. V́ các trại tù dưới thời Staline được phân tán mỏng ra cho nên các địa h́nh của Goulag cũng bị biến thể. Một số trại tù về sau được tái thiết lập ở vùng nằm về khu vực của Nga nằm trong lục địa Ău Châu.

    Mặc dù có cải thiện hệ thống nhà tù sau khi Staline qua đời, nhưng chính sách quản trị các trại tù vẫn c̣n xa lạ với hệ thống luật pháp của nhà nước pháp trị. Nó vẫn c̣n dấu vết của thời kỳ giam cầm trong chế độ Sô Viết đưới thời Staline. Con số tù vẫn tiếp tục gia tăng khi nhà nước mở chiến dịch bài trừ du đảng, rượu chè, không nhà không cửa, thất nghiệp,..và nạn nhân của các điều lệ 70 và 190 của bộ h́nh luật mới vừa cho áp dụng từ năm 1960.

    Chiếu theo các điều lệ trong bộ h́nh luật mới, các biện pháp khác nhau về việc trao trả phạm nhân thay đổi liên tục.
    Một trong các biện pháp cải tổ đầu tiên sau thời Staline được ban hành vào ngày 25 tháng 4. Đó là hủy bỏ điều lệ chống lại công nhân của năm 1940. Theo điều lệ này, trước đây nhà nước cấm công nhân đ́nh công hay bỏ sở làm. Nhà nước dùng phương pháp cải tổ từng phần để dẫn dư luận quần chúng đến việc chấp thuận đạo luật về những điểm căn bản mới của Bộ H́nh Luật, ban hành ngày 25 tháng 12 năm 1958. Các điểm căn bản này đă thay đổi toàn toàn các cụm từ của Bộ H́nh Luật trước. Như '' kẻ thù của nhân dân''; '' tội ác phản cách mạng''..

    Hơn thế nửa, người dân chỉ chịu trách nhiệm trước pháp luật khi đúng 16 tuổi trở lên, thay v́ 14 tuổi như trước kia. Công an không được tra tấn trong lúc hỏi cung. Các bị can khi ra ṭa đều có luật sư , tham khảo tài liệu trước khi bào chửa cho bị can. Ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, đa số các phiên ṭa đều được xử công khai có quần chúng tham dự.

    Nhưng Bộ H́nh Luật năm 1960 vẫn c̣n giữ lại một số điều lệ nhằm trừng phạt mọi h́nh thức '' sai lệch định hướng chính trị và ư thức hệ''. Chiếu theo đều 70 của Bộ H́nh Luật này, bất kỳ người nào có ư tuyên truyền để làm giảm uy tín của chế độ và quyền lực của nhà nước Liên Sô đều bị trừng phạt từ 6 tháng cho đến 7 năm tù và sau đó bị đưa lưu đày từ 2 đến 5 năm.

    Điều 130 lên án những ai biết các hoạt động chống lại chế độ mà không chịu đi tố cáo. Những người này sẽ bị tù từ 3 đến 5 năm và bị phạt lao động không công cho nhà nước.

  5. #225
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Trong hai thập niên 1960-1970, nhà nước đă cho áp dụng sâu rộng hai điều luật 70 và 190 là điều luật nói về các h́nh thức '' đi lạc hướng chính trị và ư thức hệ.''Có đến 90% thường dân bị bắt giam v́ những lời phát biểu hay có hành động chống lại chính quyền Sô Viết.

    Trong những năm thay đổi đường lối lănh đạo chính trị cũng như cải thiện đời sống kinh tế, người ta thấy dường như có rất ít hay không có xảy ra các h́nh thức tranh cải hay bất đồng ư kiến. Có lẻ là do cái quá khứ bị đàn áp ghê tợn vẫn c̣n ghi đậm trong kư ức của người dân, cho nên chẳng ai muốn phản kháng.

    Lần thứ nhất trong 5 năm đầu của chế độ, một bản báo cáo của KBG được ghi nhận như sau:
    Năm 1961 có 1300 vụ chống đối; năm 1962 , 2500 vụ; năm 1964, 4500 vụ và năm 1965 1300 vụ.

    Ở vào thời điểm của những năm 1960-1970, cơ quan KBG có nhiệm vụ theo dơi ba loại người.
    Nhóm nhất nhất là những người thiểu số hoạt động trong các Tôn Giáo;
    Nhóm thứ hai là nhóm thiểu số có khuynh hướng quốc gia như các người gốc Baltique, gốc Tatar ở vùng Crime, người Đức, người Ukraine,..
    Nhóm thứ ba là giới trí thức, tham gia vào các phong trào ly khai vào những năm 1960.

    Năm 1957, nhà nước mở chiến dịch chống Tôn Giáo. Một số tín đồ bị bắt giam và đóng cửa các giáo đường, nhà thờ mà trước đây trong thời kỳ chiến tranh với Đức được phép hành đạo.

    Sự hợp tác của Giáo Hội Chính thống Giáo với nhà nước không c̣n nữa. Sự xung đột gia tặng. Cơ quan KBG đặc biệt lưu ư đến nhóm người thiểu số sinh hoạt trong các Tôn Giáo v́ nhà nước cho rằng những người này được sự trợ giúp của các tổ chức Tôn Giáo của nước ngoài. Một vài dẫn chứng cho thấy các sự kiện này đă diễn ra . Năm 1973-1975, KBG bắt gia 116 tín đồ Tin Lành; năm 1984 có đến 200 người bị bắt giam trung b́nh từ một năm tù trở lên.

  6. #226
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Ở vùng phía Tây Ukraine, chính sách Sô Viết hóa đă gặp nhiều khó khăn. Có lúc phải ngưng lại v́ sự chống đối của nhóm người quốc gia, trước kia có chân trong phong tráo kháng chiến OUN. Một số người trong tổ chức ở các vùng Ternopol, Zaporojre-Ivano-Frankovsk, Lviv bị phát hiện và bị trừng phạt vào những năm 1961-1973. Họ bị kết án từ 5 đến 10 năm tù.

    Tại Ltuanie thuộc vùng Baltique, từ năm 1940 bị xáp nhập vào Liên Sô, vào những năm 1960-1970 đă có nhiều vị Linh Mục Thiên Chúa Giáo bị bắt giam.
    Cho đến ngày Liên Bang Sô Viết tan ră, vấn đề của người Tatars thuộc vùng Crime vẫn chưa được giải quyết. Họ bị Staline đưa đi lưu đày tập thể vào năm 1944.

    Vào những năm cuối của thập niên 1950, phần lớn dân Tatars định cư ở vùng Trung Á . Khi t́nh h́nh chính trị ở Liên Sô bắt đầu thay đổi, họ phát động chiến dịch, đưa kiến nghị, đ̣i được trở về quê cha đất tổ của họ.

    Vào năm 1966, một thỉnh nguyện thơ với 130.000 chữ kư của dân Tatars đă được chuyển đến Đại Hội Đảng lần thứ 23.

    Tháng 9 năm 1967, văn pḥng Chủ Tịch Sô Viết Tói Cao ra nghị quyết bải bỏ tội '' phản bội tập thể'' mà nhà nước trước kia đă kết án.
    Ba tháng sau, một nghị quyết khác thừa nhận quyền tự trị của dân Tatars. Họ được quyền chọn nơi sinh sống nhưng phải tôn trọng luật pháp của nhà nước. Họ được cấp thẻ thông hành nội địa và như vậy họ được hưởng các quy chế lao động cũng giống như những người khác.

    Từ năm 1968 đến năm 1978 chỉ có 15.000, tức là khoảng 2% người Tatars đủ tiêu chuẩn pháp lư để được cấp giấy thông hành nội địa.

    Một Tướng lănh trong quân đội Nga ông Grigorenko, ủng hộ phong trào tự trị của dân Tatars. Ông bị bắt vào tháng 9 năm 1969 trong lúc đó ông ta đang phục vụ ở Tachkent thuộc Cộng Ḥa Ouzbekistan. Ông bị đưa vào bịnh viện tâm thần. Sau này mỗi năm, nhà nước Cộng Sản cũng bắt giam khoảng 10 người chống đối khác trong các nhà thương điên như trên.

  7. #227
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Nói một cách tổng quát, sau thời kỳ Staline, các vụ án chính trị đều được xử công khai và dân chúng có quyền tham dự.
    Như vụ án nhà văn Andrei Siniaviski và Iouri Daniel diễn ra vào tháng 2 năm 1966. Cả hai bị kết án 5 năm tù và 7 năm lao động cưỡng bách.
    Các nhà viết sử đánh giá bản án này khởi đầu cho một phong trào ly khai.

    Ngày 5 than1g 12 năm 1965, vài ngày sau tin hai nhà văn bị bắt, một cuộc biểu t́nh có chừng 50 người tham dự để bày tỏ ủng hộ tinh thần hai nhà văn tại công trường Pouchkine ở Mạc Tư Khoa.

    Từ năm 1960, có chừng trăm người trong nhóm ly khai. Mười năm sau, con số này tăng lên 2000 người. H́nh thức chống đối của nhóm người này khác với các h́nh thức trước kia. Thay v́ đ̣i hỏi bải bỏ chế độ, họ đ̣i nhà nước phải thi hành nghiêm chỉnh các nghị quyết, hiến pháp và các hiệp ước quốc tế mà Liên Ban Sô Viết đă kư kết. Nhóm ly khai thay đổi h́nh thức đău tranh. Họ không hoạt động bí mật nữa. Họ hoạt động công khai và quảng bá các h́nh thức đău tranh của họ đến quần chúng, trong các xí nghiệp. Họ thường tổ chức các cuộc họp báo và nếu được nhà nước cho phép họ mời các nhà báo ngoại quốc đến tham dự.

    Về phương diện tương quan quyền lực th́ con số vài trăm người trong nhóm ly khai chẳng thể nào so sánh với bộ may cai trị khổng lồ và đầy quyền lực của nhà nước. Do vậy thông tin quốc tế là vũ khí quyết định của họ. Như sự xuất hiện tập hồi kư của nhà văn Alexandre Soljenitsine vào năm 1973, quyển '' Quần đảo ngục tù Goulag'' cùng với sự trục xuất nhà văn lừng danh này đă làm cho nền chính trị của Liên Sô lung lay.

    Trong ṿng hai năm, nhờ các hoạt động của nhóm người này mà vấn đề nhân quyền đă trở thành vấn đề quan trọng mang tính cách quốc tế trong cuộc hội nghị về vấn đề An Ninh và Hợp Tác Âu Châu vào đầu năm 1973 tại thủ đô Helsinki của Phần Lan. Văn kiện của cuộc hội nghị này đă đưực Liên Sô kư tên và điều này đă làm gia tăng tiếng nói của nhóm người ly khai. Ngay sau đó, các nhóm người ly khai đă rầm rộ thành lập các uỷ ban để theo dơi sự thi hành hiệp ước Helsinsk tai các thanh phố Mạc Tư Khoa, Leningrad, Kiev, Vilnus,..
    Họ thông báo cho quốc tế biết về các hành động vi phạm nhân quyền của nhà nước như đă ghi trong hiệp ước.

  8. #228
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Trong bối cảnh quốc tế hóa vấn đề nhân quyền ở Liên Sô đă làm cho cơ quan công an KBG tê liệt. Khi Công an bắt người nào đó, th́ lập tức cả thế giới biết đến. Sự việt bắt bớ không c̣n là vấn đề bí mật của nhà nước nữa. Qua các dữ kiện chính trị và con số bị bắt, người ta lưu ư đến sự liên hệ giữa biến chuyển bên ngoài và sự bắt bớ ở bên trong nước Nga.

    Trong những năm 1968-1972 và trong năm 1979-1982, con số người ly khai bị bắt nhiều hơn so với những năm 1973-1976.
    Cho tới giờ này, người ta chưa có được con số chính thức về những người ly khai chính trị bị bắt giam trong những năm 1960 đến 1985.
    Các nguồn tin do nhóm người đối lập chính trị cho biết là có chừng vai trăm người bị bắt giam trong những năm căng thẳng nhất.

    Trong nâm 1970, trong tờ Biên Niên Sử, người ta đọc thấy có đến 600 người bị kết án. Trong số này có 21 người bị giam trong các nhà thương Tâm Thần với lư do là để pḥng ngừa.

    Qua năm 1971, con số tù chỉ có 85 người và 24 đi nhà thương Tâm Thần.

    Trong những năm 1979-1982, là những năm căng thẳng v́ đối đầu với các vấn đề quốc tế, nhà nước Liên Sô cho bắt giam trên 500 người.
    Ở trong một quốc gia mà nhà cầm quyền luôn luôn xa lạ với dư luận tự do, những diễn đạt của sự bất đồng ư kiến không phù hợp chánh sách của nhà nước, hiện tượng đối lập chính trị, hiện tượng chống đối cấp tiến, nhân quyền, không thể có ảnh hưởng trực tiếp đến việc h́nh thành một xă hội.

    Một sự thay đổi thực sự c̣n tùy thuộc ở một số điều kiện nào đó. Nó bắt nguồn từ một nền văn hóa và một xă hội tự trị, xuất hiện vào những năm 1960, những năm 1970, kéo dài nhiều năm trong thập niên 1980 và cùng với sự phản tĩnh chính trị của các phần tử cấp tiến ưu tú cần thiết như những ǵ đă diễn ra trong năm 1953.

  9. #229
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767

    Phần 1. Chương 16: KẾT THÚC PHẦN NHÀ NƯỚC CHỐNG LẠI NHÂN DÂN---

    .
    Trong lúc tổng hợp các chương trên, mục đích của chúng tôi không phải là nêu lên các hành động tàn bạo và các biện pháp đàn áp mà nhà nước Liên Sô đă chủ trương trong suốt thời gian chế độ này ngự trị. Cũng không phải để nêu lên sự khác biệt trong cái nh́n của các sử gia trước và sau khi được phép tham khảo tài liệu mật khi viết về cường độ và hậu quả của các cuộc khủng bố và đàn áp.

    Ngược lại, khi được phép tham khảo, chúng tôi muốn thiết lập một bản thống kê toàn bộ các diễn tiến có tính cách hệ thống theo thời gian về số lượng cũng như phương thức áp dụng bạo lực, và ư nghĩa của những lời dẫn giải khác nhau.

    Trong suốt 10 năm gần đây, có nhiều cuộc nghiên cứu sâu rộng đă xảy ra ở Nga cũng như ở Âu Châu. Với chính sách '' mở cửa''- cho dù chỉ mới hé mở- các sử gia cũng đă bắt đầu sưu tầm các tài liệu của các văn kiện trước kia được coi như là '' bất b́nh thường'' mà ngày nay được cho phép truy lục. Nhờ vậy, nhiều sử gia, nhất là sử gia người Nga đă tung ra nhiều tài liệu , làm nền tảng cho các cuộc nghiên cứu sâu rộng đang diễn tiếp.

    Nhiều lănh vực nghiên cứu được đặt lên hàng đầu. Đặc biệt là các trung tâm tù vĩ đại; các cuộc nổi dậy của nhân dân chống lại nhà nước; chính sách, các h́nh thức ban hành các đạo luật và thực thi các quyết nghị của nhà nước Cộng sản.

    Hai sử gia người Nga, ông V.N. Zemsov và N. Bougai viết một bản thống kê về số lượng của tất cả các cuộc lưu đày trong suốt thời gian Staline cai trị, nghĩa là từ khi Lenine cho đến khi Staline tắt hơi thở cuối cùng.

    Các ông V.P Danliov ở Nga và ông A. Graziosi ở Ư viết về các cuộc đụng độ liên tục của nông dân với tân chế độ Sô Viết.
    Dựa theo tài liệu của Trung ương đảng, sử gia O. Klevniouk đă đưa ra ánh sáng về các cuộc hợp ṿng tṛn ở điện Cẩm Linh. Nghĩa là tất cả những ǵ trước khi cho thi hành đều có sự quyết định và được sự đồng ư của các lănh tụ Bônsêvích.


    (C̣n tiếp.....)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •