Page 1 of 4 1234 LastLast
Results 1 to 10 of 35

Thread: Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội

    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr





    PHẦN MỞ ĐẦU
    Kể từ khi khai sinh ra Văn pḥng t́nh báo chiến lược (OSS) trong chiến tranh thế giới thứ hai cho đến nay, chính phủ Hoa Kỳ đă nhiều lần sử dụng các lực lượng đặc biệt tiến hành các hoạt động ngầm để hỗ trợ chính sách ngoại giao của Mỹ. Tuy nhiên, do tính chất bí mật cao và nhạy cảm về chính trị của các hoạt động này, mọi người biết rất ít về chúng. Chắc chắn rằng qua thời gian, nhiều mẩu thông tin về hoạt động ngầm đă lộ lọt ra ngoài, nhưng phần lớn các tài liệu và hồ sơ của các chiến dịch bí mật vẫn c̣n nằm trong các kho lưu trữ của chính phủ. Những tài liệu đó thuộc một trong những loại bí mật nhất của thời chiến tranh lạnh.
    Với sự chấm dứt của xung đột Đông-Tây, giờ đây chúng ta đă có thể nh́n xuyên qua bức màn bí mật vốn che phủ những hoạt động ngầm trong suốt nửa thế kỷ qua. Khi những kho lưu trữ được mở ra, chúng ta có thể xem xét hồ sơ của các điệp vụ thành công và thất bại trong quá khứ và rút ra những bài học cho các t́nh huống trong tương lai, trong đó các lực lượng đặc biệt có thể được sử dụng.
    Chiến dịch bán quân sự bí mật của Washington chống lại Hà Nội trong cuộc chiến tranh Việt Nam minh hoạ t́nh h́nh mới nói trên. Chiến dịch do Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy trợ giúp quân sự Mỹ ở Việt Nam (viết tắt theo tên tiếng Anh là MACVSOG hoặc SOG) là hoạt động ngầm lớn nhất và phức tạp nhất do Mỹ thực hiện kể từ khi OSS ra đời. MACVSOG đă tiến hành cuộc chiến tranh bí mật chống Hà Nội trong tám năm, bắt đầu từ tháng Giêng năm 1964 đến tháng Tư năm 1972.
    Trong khi ở các thư viện không thiếu sách viết về hầu hết các khía cạnh của cuộc chiến tranh Việt Nam, nhưng ở đó vẫn c̣n thiếu vắng những nghiên cứu, đánh giá về hoạt động và ư nghĩa chiến lược của SOG. Người ta cho rằng tất cả các cuốn sử viết về chiến tranh thế giới lần thứ hai mà viết trước thời điểm tiết lộ việc giải mă những bức điện thông tin bí mật của Đức là không đầy đủ. Điều này cũng đúng đối với các nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam. Nếu không đề cập một cách đầy đủ về chiến dịch bán quân sự bí mật do SOG thực hiện th́ lịch sử về cuộc xung đột này đă thiếu vắng những chương quan trọng. Cuốn sách: Cuộc chiến tranh bí mật chống Hà Nội đă bổ sung cho sự thiếu hụt này bằng việc cung cấp thông tin một cách hoàn chỉnh về cuộc chiến tranh bí mật - mà đúng ra sẽ không bao giờ được tiết lộ - đồng thời cho thấy những khía cạnh mới mẻ về thất bại của Mỹ ở Việt Nam.
    CHỨNG CỨ
    Cuốn sách này dựa trên kinh nghiệm và hồi ức của những người trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh bí mật chống lại Bắc Việt Nam và những quan chức cấp cao vạch chính sách và chỉ đạo chiến dịch này ở Washington. Tác giả có được sự tiếp cận đặc biệt đối với hồ sơ và những cá nhân đă điều hành một tổ chức tuyệt mật mang một cái tên hiền lành là “Nhóm nghiên cứu và quan sát". Sự tiếp cận đặc biệt này do cựu tư lệnh lực lượng hoạt động đặc biệt, Trung tướng Terry Scott dành cho tác giả khi ông nhận ra rằng những bài học của SOG vẫn được giữ kín, thậm chí với cả những người đang được giao thực hiện nhiệm vụ tương tự.
    V́ vậy, bắt đầu từ mùa hè năm 1995, một cuộc nghiên cứu toàn diện về cuộc chiến tranh bí mật chống lại Bắc Việt Nam được tiến hành. Cuộc nghiên cứu gần như tập trung chủ yếu vào các nguồn thông tin gốc, bao gồm các cuộc phỏng vấn sâu với hơn 60 quan chức đă điều hành các chương tŕnh của SOG, trong đó có năm vị tư lệnh của SOG và các quan chức chỉ đạo hoặc đồng vai tṛ quan trọng trong bốn bộ phận của SOG có nhiệm vụ vạch kế hoạch và thực hiện hàng loạt điệp vụ chống lại Hà Nội.
    Bốn nhiệm vụ chủ yếu đó của SOG bao gồm:
    1. Cài cắm và chỉ đạo các toán gián điệp và tạo ra một chiến dịch nghi binh phức tạp, trong đó có cả việc tuyển mộ tù binh của Bắc Việt Nam.
    2. Chiến tranh tâm lư- dựng nên một phong trào chống đối giả ở Bắc Việt Nam, bắt cóc và tuyên truyền công dân Bắc Việt Nam, điều hành các đài phát thanh đen, phân phát các tài liệu tuyên truyền, làm giả thư từ, tài liệu và các hoạt động bẩn thỉu khác.
    3. Hoạt động ngăn chặn trên biển: bắt giữ và phá huỷ các tàu hải quân và thuyền đánh cá của Bắc Việt Nam, đánh phá các mục tiêu ven biển, tiến hành các vụ tập kích phá hoại các cơ sở quân sự và dân sự và rải các tài liệu chiến tranh tâm lư.
    4. Hoạt động thám báo bên kia biên giới chống lại đường ṃn Hồ Chí Minh bằng các toán thám báo người dân tộc (người Thượng và người Nùng) để ngăn cản hoạt động cung cấp nhân lực và vật lực của quân đội miền Bắc, bao gồm việc xác định mục tiêu không kích, bắt cóc bộ đội, đặt máy nghe trộm, và phân phát tài liệu chiến tranh tâm lư.
    Mỗi một cuộc phỏng vấn được thiết kế nhằm làm rơ vai tṛ của từng cá nhân trong SOG. Các bảng hỏi sơ bộ được lập ra trên cơ sở thông tin có được từ tài liệu của MACVSOG hên quan trực tiếp đến điệp vụ, chiến dịch hoặc hoạt động do từng cá nhân phụ trách. Do vậy các thông tin thu thập được từ các cựu chiến binh của SOG vừa chi tiết vừa sâu sắc. Do tác giả đă nắm được quy mô, t́nh tiết hoạt động và hiệu quả của các kế hoạch do từng cá nhân thực hiện, các cuộc phỏng vấn tập trung chủ yếu vào những sắc thái và chi tiết thường không thể t́m thấy trong các hồ sơ tuyệt mật.
    Cơ sở cho việc áp dụng kỹ thuật phỏng vấn này là việc sử dụng rộng răi hai nguồn tài liệu mật quư báu. Những tài liệu này bao gồm khoảng 2.000-3.000 trang hồ sơ được giải mật vào năm 1995. Ngoài ra, Bộ Quốc pḥng và Cục T́nh báo Trung ương đă cho phép tác giả tiếp cận với 1.500 trang tài liệu có độ nhậy cảm cao hơn. Những hồ sơ này đă tạo ra một cái nh́n chi tiết và chân thực về các kế hoạch, chương tŕnh và hoạt động của MACVSOG. Chúng cũng c̣n bao gồm các báo cáo, nghiên cứu và đánh giá của bốn bộ phận nghiệp vụ của SOG.
    Những hồ sơ trên lẽ ra sẽ không bao giờ được đưa ra ánh sáng. Trong thực tế, nhiều nhân viên của SOG đă rất ngạc nhiên khi được hỏi về các vấn đề mà họ đă tuyên thệ phải giữ kín. Nhiều người chỉ đồng ư trả lời phỏng vấn sau khi đă có thư hoặc trực tiếp trao đổi với tư lệnh lực lượng quân đội đặc biệt. Chỉ sau khi có sự xác nhận cho phép của vị tư lệnh, họ mới đồng ư cho phỏng vấn.
    Cuốn sách này không những kể lại câu chuyện về chiến dịch bí mật mà SOG thực hiện chống lại Hà Nội mà c̣n hé mở cho thấy sự tham gia chặt chẽ của những người lănh đạo cao nhất trong chính quyền Kenedy và Johnson vào chiến dịch này. Khi John F. Kenedy quyết định chuyển giao nhiệm vụ tiến hành các hoạt động bí mật chống Hà Nội từ CIA sang cho Bộ Quốc pḥng vào cuối năm 1962, một đơn vị đặc biệt của Lầu Năm Góc được giao nhiệm vụ giám sát tiến tŕnh phê duyệt cho phép thực hiện các điệp vụ. Được biết đến dưới cái tên "Văn pḥng trợ lư đặc biệt về chống nổi loạn và các hoạt động đặc biệt" (viết tắt theo tên tiếng Anh là SACSA) và đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch tham mưu trưởng liên quân, nhóm này chịu trách nhiệm phối hợp tiến hành các thủ tục phê duyệt cho mọi hoạt động của SOG. Các nhân viên của "Pḥng hoạt động đặc biệt" trực thuộc SACSA đệ tŕnh các đề xuất của SOG lên những người lănh đạo cao nhất của chính phủ Mỹ.
    Khi SACSA nhận được đề xuất về một hoạt động nhất định của SOG, nhân viên của SACSA sẽ trực tiếp tŕnh yêu cầu đó cho Chủ tịch tham mưu trưởng liên quân phê duyệt. Sau khi được phê duyệt, nhân viên của SACSA phải xin ư kiến đồng ư của Bộ trưởng Quốc pḥng Mcnamara hoặc Thứ trưởng Bộ Quốc pḥng Cyrus Vance. Sau đó SACSA phải tŕnh lên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Dean Rusk hoặc Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Một nơi cần xin ư kiến nữa là Cố vấn an ninh của tổng thống Mc George Bundy. Tuy nhiên ngay cả khi Cố vấn an ninh đă kư vào bản đề xuất quá tŕnh phê duyệt vẫn có thể chưa hoàn thành. Thông thường Bundy sẽ không cho SACSA chuyển ư kiến phê duyệt cho SOG và chờ cho đến khi tổng thống Johnson xem xét lần cuối.
    V́ vậy một phần quan trọng của cuốn sách này sẽ tập trung đề cập đến sự tham gia của những nhà hoạch định chính sách cao cấp nhất của Mỹ vào các hoạt động ngầm của SOG. Các cuộc phỏng vấn nhân viên của SACSA đă làm rơ những chi tiết của tiến tŕnh phê chuẩn ở Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao và Nhà Trắng. Những nhân viên này không chỉ xác nhận việc các nhà hoạch định chính sách đă quyết định làm hoặc không làm việc ǵ - như đă thể hiện trong các hồ sơ được giải mật - mà c̣n cung cấp các căn cứ cho thấy sự ảnh hưởng của các yếu tố này đối với các quyết định của Washington về chiến tranh bí mật chống Hà Nội.
    Tác giả cũng đă phỏng vấn các quan chức cao cấp phụ trách việc giám sát và tiến tŕnh phê duyệt. Những người này gồm: Robert Mcnamara, Walt Rostow, Roger Hilsman, William Sullivan, Richard Helms, William Colby, Victor Krulak và William Westmoreland. Trong trường hợp không phỏng vấn được các thành viên cao cấp của chính quyền Kenedy và Johnson, tác giả sử dụng những ư kiến của họ c̣n lưu trong thư viện của Tổng thống. Khi có liên quan, tác giả cũng đă tham khảo thêm hồ sơ được giải mật của Hội đồng an ninh quốc gia, Bộ Ngoại giao và Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Việt Nam (MACV).
    Nói tóm lại, Cuộc chiến tranh bí mật chống Hà Nội được dựa trên nền tảng căn cứ duy nhất là các nguồn tài liệu gốc. Nếu không có sụ tiếp cận với những tài liệu và cá nhân đó, th́ sẽ không có đủ cơ sở dữ liệu cần thiết cho cuốn sách này. Với những tư liệu đó, tác giả sẽ đưa độc giả vượt qua bức màn bí mật che phủ SOG và các kho lưu trữ tài liệu để t́m hiểu cách thức mà chính quyền Kenedy và Johnson đă áp dụng để tham gia tṛ chơi theo luật chơi của Hà Nội. Tám chương và phần kết của cuốn sách sẽ tŕnh bày những chi tiết xác thực về cuộc chiến tranh bí mật chống Bắc Việt Nam.
    CÂU CHUYỆN
    Câu chuyện bắt đầu bằng quyết định của tổng thống Kenedy tháng Giêng năm 1961 giao cho CIA nhiệm vụ tiến hành điệp vụ chống Bắc Việt Nam. Tổng thống muốn gây sức ép đối với Hà Nội và làm đúng những ǵ mà họ đang thực hiện đối với đồng minh của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Hai bên đều có thể cùng chơi tṛ lật đổ, dùng thủ đoạn xấu và chiến tranh bí mật. Vào mùa hè 1962, không hài ḷng với sự bất lực của CIA trong việc thực hiện nhiệm vụ, Kenedy đă ra lệnh chuyển giao nhiệm vụ này cho quân đội và mở rộng chiến tranh bí mật. Chương một của cuốn sách mô tả những sự kiện này và giải thích tại sao Kenedy lại lựa chọn giải pháp đó.
    Phần hai của chương một mô tả Kế hoạch hoạt động 34A (viết tắt theo tên tiếng Anh là OPLAN34), nền tảng của MACVSOG. Phần này tŕnh bày quá tŕnh vạch kế hoạch, phác hoạ các phần khác nhau của 34A và trả lời câu hỏi kế hoạch này có xác định được các điểm yếu của Bắc Việt Nam mà nếu bị tác động có thể ảnh hưởng đến khả năng của Hà Nội tiến hành cuộc chiến ở miền Nam không. Bao gồm 72 loại hoạt động với tổng số 2.026 điệp vụ thực hiện trong năm 1964, OPLAN34 đă tạo cơ sở cho sự leo thang của cuộc chiến tranh bí mật của Mỹ.
    Xây dựng kế hoạch hoạt động là một chuyện, nhưng việc h́nh thành nên tổ chức để thực hiện kế hoạch đó lại là một chuyện khác. Tại thời điểm đó không hề có một h́nh mẫu tổ chức cho MACVSOG và tổ chức này được tạo nên từ con số không ở Sài G̣n. Chương hai cho thấy mức độ khó khăn trong việc thành lập và điều hành SOG, nhất là khi Washington đ̣i hỏi phải có kết quả ngay lập tức. Việc lănh đạo điều hành SOG gặp phải 5 thách thức lớn: (1) giành được sự giúp đỡ miễn cưỡng của CIA, (2) xử lư mối lo ngại của các nhà hoạch định chính sách đối với một số loại điệp vụ được nêu trong OPLAN34A, (3) tạo ra một bộ máy tổ chức có khả năng làm việc cho SOG, (4) t́m được người có đủ tiêu chuẩn, (5) tạo ra mối quan hệ làm việc giữa MACVSOG và đối tác Nam Việt Nam.
    Chương ba đến chương sáu sẽ tập trung vào các pḥng nghiệp vụ của SOG - người thực hiện cuộc chiến tranh bí mật chống miền Bắc. Hoạt động của những pḥng này nhằm vào hai mục tiêu là "trung tâm trọng lực" mà Clausewitz gọi là điểm sức ép chiến lược của kẻ thù. Nếu những điểm này bị xói ṃn hoặc tác động, kẻ địch sẽ bị mất thăng bằng và giảm khả năng tiến hành chiến tranh.
    Một "trung tâm trọng lực" mà MACVSOG muốn gây rối là sự ổn định ở hậu phương và an ninh ở bên trong miền Bắc. Các chính phủ kiểu Hà Nội rất coi trọng an ninh nội bộ và kiểm soát nhân dân, thậm chí ngay cả trong thời b́nh. Hà Nội đang chiến đấu chống lại một siêu cường và an ninh ở hậu phương là yếu tố chiến lược sống c̣n. Trung tâm trọng lực thứ hai mà MACVSOG nhằm vào là hệ thống cung cấp hậu cần, hệ thống chỉ huy kiểm soát và địa bàn đóng quân dọc theo đường ṃn Hồ Chí Minh ở Lào và Campuchia - một trong những tài sản chiến lược của Hà Nội để tiến hành cuộc chiến tranh.
    Để làm suy yếu an ninh hậu phương của Hà Nội, MACVSOG chỉ đạo hàng loạt các điệp vụ chống lại Bắc Việt Nam, trong đó có việc cài cắm các toán gián điệp. Pḥng nghiệp vụ phụ trách vấn đề này của SOG được mô tả trong chương ba. Trong khoảng thời gian từ tháng 4 năm 1964 đến tháng 10 năm 1967, khoảng 250 điệp viên được tung ra miền Bắc. Cộng với số điệp viên của CIA, tổng số điệp viên được tung đi là khoảng 500 người. Tương tự như CIA, tỷ lệ xâm nhập thành công của SOG là thấp.
    Vào cuối năm 1967, SOG nhận được tin xấu về hoạt động của các điệp viên. Chương ba lư giải sai lầm đă xảy ra như thế nào và đưa độc giả vào thế giới thủ đoạn của điệp viên đôi, đánh lửa và tṛ chơi nghiệp vụ. Nhận ra rằng mọi việc đang tồi tệ, SOG dự định tiến hành lừa lại miền Bắc. Đây là một nỗ lực nghiêm túc để gỡ gạc lại từ thất bại đau đớn. Phần cuối của chương ba tŕnh bày những chi tiết sâu kín nhất của kế hoạch đánh lừa này.
    Chương bốn mô tả chiến dịch chiến tranh tâm lư nhằm tác động vào giới lănh đạo và nhân dân Bắc Việt Nam. Điểm cốt lơi là dự định làm cho Hà Nội tin rằng phong trào chống đối giả tạo - Phong trào gươm thiêng ái quốc (viết tắt theo tiếng Anh là SSPL) - là có thật. Để làm được điều đó SOG tạo ra đài phát thanh của SSPL hướng vào Bắc Việt Nam và rải tài liệu tuyên truyền của SSPL. SOG c̣n tạo ra một vùng giải phóng giả, nơi những công dân miền Bắc bị bắt cóc được đưa đến gặp gỡ lănh đạo của SSPL và truyền bá tư tưởng theo kịch bản chuẩn bị sẵn.
    Các hoạt động chiến tranh tâm lư khác, như đài phát thanh giả, thư tâm lư chiến, giấy tờ giả và các thủ đoạn bẩn thỉu tương tự, cũng được áp dụng để khuếch đại ấn tượng của Hà Nội là họ đang có rất nhiều vấn đề an ninh. Đó là hàng loạt các kỹ thuật chiến tranh tâm lư đầy ấn tượng. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của cuộc chiến tranh tâm lư này không phải ở chỗ các biện pháp được áp dụng mà ở mục đích được đề ra và những hạn chế do các nhà vạch chính sách áp đặt. Phần cuối của chương sẽ làm rơ lư do tại sao lại như vậy.
    Pḥng nghiệp vụ thứ ba của SOG tiến hành các hoạt động bí mật trên biển dọc theo bờ biển Bắc Việt Nam. Trong những điệp vụ đầu tiên đề ra trong OPLAN34A, hoạt động trên biển được tổng thống Johnson và Bộ trưởng Quốc pḥng Mc Namara coi là có nhiều khả năng tạo ra tác động ngay và lớn nhất đối với Hà Nội. Những hoạt động này bao gồm pháo kích bờ biển, bắt giữ tù binh, ngăn chặn các thuyền bè, tập kích, phân phát hàng tâm lư chiến và bắt cóc công dân Bắc Việt Nam để cho SSPL tuyên truyền. Chương năm mô tả những hoạt động này và đánh giá tác động của chúng. Ở phần kết, chương năm sẽ phân tích tại sao sự kỳ vọng của Mc Namara và các nhà vạch chính sách khác là hoàn toàn phi thực tế.
    Pḥng nghiệp vụ cuối cùng của SOG phụ trách các điệp vụ thám báo do Mỹ lănh đạo nhằm ngăn cản việc Hà Nội sử dụng đường ṃn Hồ Chí Minh. Do thái độ thận trọng và mối lo ngại về chính trị nội bộ, Tổng thống Johnson đă rất ngần ngại khi đưa ra quyết định tiến hành các hoạt động này. Phần đầu của chương sáu bàn về cuộc tranh đấu chính trị trong gần hai năm giữa Bộ Ngoại giao và Lầu Năm Góc về việc có cho phép SOG tiến hành hoạt động chống lại con đường ṃn hay không.
    Cuối cùng th́ các hoạt động thám báo cũng được chuẩn y và các đội thám báo do Mỹ chỉ huy được tung sang Lào vào tháng 10 năm 1965. Trong ṿng ba năm, pḥng này của SOG đă mở rộng một cách nhanh chóng và sử dụng phần lớn nhân lực và trang thiết bị. Vào năm 1967, hoạt động thám báo được mở rộng sang Campuchia. Phần c̣n lại của chương sáu mô tả cuộc chiến tranh bí mật của SOG chống lại quân đội miền Bắc trên tuyến đường Hồ Chí Minh. Mục đích của các hoạt động này là nhằm ngăn chặn quân đội Bắc Việt sử dụng con đường ṃn để nhanh chóng chuyển quân từ các căn cứ ở Lào và Campuchia đến các chiến trường ở miền Nam. Như được đề cập trong chương này, Bắc Việt Nam đă tiến hành nhiều biện pháp để chống lại hoạt động của SOG.
    Trong chương bảy, câu chuyện được chuyển từ hoạt động của SOG trên chiến trường sang vị trí của SOG trong chiến lược quân sự của Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam. Chương này bắt đầu bằng việc xác định mức độ tin tưởng của các nhà lănh đạo quân sự -những người chịu trách nhiệm tiến hành cuộc chiến tranh - vào khả năng đóng góp của hoạt động bán quân sự bí mật và việc gắn kết hoạt động đó vào kế hoạch chiến tranh chung. Chương này cho thấy các nhà lănh đạo quân sự mà đặc biệt là tướng Westmoreland đă không xem xét các hoạt động của SOG theo khía cạnh này.
    Trong khi các nhà lănh đạo quân sự không coi SOG là một bộ phận cấu thành của chiến lược chiến tranh, họ đă kiểm soát hoạt động của SOG một cách chặt chẽ v́ e ngại về tính chất nhạy cảm của các điệp vụ. Phần thứ hai của chương bảy phân tích nguyên nhân của t́nh trạng này và tŕnh bày chi tiết về hệ thống chỉ huy-kiểm soát đă bó buộc SOG. Chương này xác định mức độ giới lănh đạo quân sự đă chống lại quan niệm của Kenedy về chiến tranh đặc biệt, giành giật quyền kiểm soát hoạt động bí mật và đă không gắn kết SOG với chiến lược chiến tranh.
    Chương tám, chương cuối cùng, quay về chủ đề sự kiểm soát của Kenedy và Johnson đối với chiến tranh đặc biệt. Việc sử dụng hoạt động ngầm đặc trưng bởi sự hăm hở và lương lự. Khởi đầu với tổng thống Kenedy và các quan chức cao cấp như Robert Mc Namara, Mc George Bundy, Walt Rostow, và Robert Kenedy, mọi người đều sẵn sàng sử dụng hoạt động ngầm một cách tích cực và coi đó là phương tiện để thuyết phục Hà Nội chấm dứt việc xúi giục chiến tranh ở miền Nam. Khi CIA tỏ ra không thể triển khai nhanh chóng, Kenedy giao cho Lầu Năm Góc nhận nhiệm vụ tiến hành chiến tranh bí mật chống lại Bắc Việt Nam.
    Bất chấp sự tiếp cận hăng hái của tổng thống Kenedy, hoạt động của SOG bị ḱm hăm bởi sự ngăn trở và hạn chế dưới thời tổng thống Johnson. Chương này giải thích tại sao và bằng cách nào mà sự khác biệt giữa ư định ban đầu của Kenedy và việc thực hiện các hoạt động của SOG trên thực tế của Johnson lại nảy sinh. Việc giám sát của Nhà Trắng lúc này không phải đặc trưng bởi sự sẵn sàng chấp nhận mà là lảng tránh rủi ro. Bắt đầu bằng sự xem xét OPLAN34A của tổng thống Johnson vào tháng 12 năm 1964 và trong cả quá tŕnh tồn tại của SOG, các nhà vạch chính sách cao cấp đă bác bỏ các điệp vụ có thể mang lại rủi ro chính trị. Họ đă rụt rè và hầu như không dám chấp nhận rủi ro, bất chấp việc Tổng thống Kenedy đă tích cực như thế nào trong việc tiến hành hoạt động bí mật chống lại Bắc Việt Nam.
    Tuy nhiên, mặc dù có sự e dè của Nhà Trắng, các giới hạn chính trị do Washington đặt ra, và những thất bại trong hoạt động của SOG cũng như các biện pháp đối phó của đối phương, vào năm 1968 Hà Nội bắt đầu tỏ ra lo ngại. Chính quyền đă phát động phong trào chống gián điệp để đối phó với t́nh h́nh. Tương tự như vậy, hoạt động của SOG chống lại đường ṃn Hồ Chí Minh đă làm cho Bắc Việt Nam chú ư. Hà Nội đă áp dụng hàng loạt biện pháp để bảo đảm việc sử dụng an toàn con đường này. Cuối cùng, Hà Nội đă cài cắm điệp viên của ḿnh vào trong bộ máy miền Nam Việt Nam cùng làm việc với SOG.
    SOG bắt đầu có tác động mà Kenedy đă tính toán năm 1961 và phải mất những bảy năm để đạt được điều đó. Nhưng thực tế chính trị nội bộ Mỹ có diễn biến mới. Chương tám cung cấp những chi tiết về sự tiến triển này.
    Có thể học hỏi được rất nhiều từ MACVSOG về khả năng của Hoa Kỳ trong việc thực hiện hoạt động ngầm với quy mô lớn. Cuốn sách này xác định một số cản trở đă hạn chế tính hiệu quả của SOG. Chơi theo luật chơi của Hà Nội tỏ ra nói dễ hơn làm. Tuy nhiên những ngáng trở đă gây tai hoạ cho SOG cũng có thể được t́m thấy trong các ví dụ khác của thời kỳ chiến tranh lạnh trong đó Hoa Kỳ sử dụng hoạt động ngầm. Phần kết nêu bật những kết luận của MACVSOG và so sánh chúng với các hoạt động ngầm khác mà Mỹ đă tiến hành và bị cản trở bởi những hạn chế tương tự. Việc khảo sát so sánh này làm sáng tỏ những hạn chế vốn là đặc điểm của việc sử dụng hoạt động ngầm trong các đời tổng thống Mỹ.
    Phần kết được kết thúc bằng việc giải đáp câu hỏi cuối cùng. Trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, những bài học của MACVSOG có ích lợi ǵ đối với các tổng thống tương lai nếu như họ muốn sử dụng hoạt động ngầm để đối phó với những nguy cơ mới đe doạ đến lợi ích an ninh của Mỹ?

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P1



    CHƯƠNG MỘT
    NẾU HỌ LÀM ĐƯỢC TH̀ CHÚNG TA CŨNG LÀM ĐƯỢC
    Vào buổi sáng chủ nhật, ngày 28 tháng Giêng năm 1961, tổng thống vừa tuyên thệ nhận chức John F. Kenedy chủ toạ cuộc họp đầu tiên của Hội đồng an ninh quốc gia để thảo luận về t́nh h́nh Việt Nam. Tin tức rất xấu, và do chính một người có hiểu biết sâu về Việt Nam đồng thời là một chuyên gia chống chiến tranh du kích do cộng sản phát động báo cáo.
    Edward Geary Lansdale là một chuẩn tướng không quân khác thường. Vốn là cựu binh của Văn pḥng t́nh báo chiến lược (OSS) trong chiến tranh thế giới thứ hai và một người chỉ huy giàu kinh nghiệm các hoạt động bí mật của Cục t́nh báo Trung ương (CIA), Lansdale đă trở thành huyền thoại về vai tṛ của ông trong chiến dịch chống nổi loạn rất thành công ở Philippines đầu những năm 50. Lansdale đă giúp Ramon Magsaysay đánh bại cuộc nổi loạn cộng sản Huk.
    Với những kinh nghiệm c̣n nóng hổi, ông được tổng thống Dwight D. Eisenhower cử sang Việt Nam khi chế độ thuộc địa Pháp sụp đổ, đánh dấu bằng sự đầu hàng tại Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954. Nhiệm vụ ban đầu của Lansdale là vạch kế hoạch và tiến hành chiến dịch hoạt động ngầm chống lại chế độ cộng sản mới ở Hà Nội. Mặc dù những nỗ lực này không thành công, ông tiếp tục ở lại Việt Nam cho đến năm 1956 và trở thành bạn thân và người tin cẩn của Ngô Đ́nh Diệm, tổng thống tương lai của Nam Việt Nam.
    Lansdale vừa mới trở về sau chuyến đi t́m hiểu t́nh h́nh hai tuần ở Việt Nam đầu tháng Giêng năm 1961 và được mời đến để thuyết tŕnh với Hội đồng an ninh quốc gia về những ǵ ông thu thập được. Kenedy đă đọc báo cáo chuyến đi của Lansdale và lưu ư các thành viên của Hội đồng rằng "lần đầu tiên, có một bản báo cáo cho ông cảm giác về mối nguy hiểm và tính khẩn cấp của vấn đề Việt Nam". (Quan hệ đối ngoại của Hoa Kỳ, 1961-1963: Việt Nam, Tập 1 (Washing- ton DC, Nhà in chính phủ, 1988), sau đây viết tắt là FRUS, tr.16.)
    Lansdale tŕnh bày một cách thẳng thắn. Ông nói với Hội đồng an ninh quốc gia rằng "bắt đầu từ tháng 12 năm 1959 cho đến nay, ở khắp miền Nam các hoạt động du kích và chống trả của Việt Cộng ngày càng gia tăng". Việt Cộng với sự hậu thuẫn của Hà Nội tiến hành "bắt cóc và sát hại các quan chức ở xă ấp, phục kích và tấn công vũ trang". Mục tiêu của Bắc Việt Nam là "sáp nhập Nam Việt Nam vào khối cộng sản” (Sđd. tr.5-6). Trong chuyến thị sát, Lansdale hầu như không thấy điều ǵ có thể mang lại hy vọng, Hà Nội và Việt Cộng đang áp sát và trong điều kiện đó, chính quyền Sài G̣n không thể làm chậm chứ đừng nói đến việc ngăn chặn ngày tận thế đang đến gần.
    Lansdale đệ tŕnh "Kế hoạch chống nổi loạn cơ bản cho Việt Nam" đă được toà đại sứ Mỹ ở Sài G̣n gửi cho Washington đầu tháng Giêng năm 1961(Kế hoạch này do Nhóm công tác quốc gia soạn thảo năm 1960, được phê duyệt 28-1-1961 mà không có những bất đông lớn trong Hội đồng an ninh quốc gia). Bản báo cáo đă đề nghị cần có những thay đổi cơ bản trong phương pháp đối phó với t́nh trạng nổi loạn của chính phủ Diệm. Các lực lượng chống du kích và chương tŕnh cải cách dân sự là cần thiết để đánh bại Việt Cộng và giành sự ủng hộ và trung thành của nông dân. Hoa Kỳ có thể cung cấp viện trợ cho các chương tŕnh này, nhưng Sài G̣n phải cộng tác. Trên nhiều khía cạnh, kế hoạch này phù hợp với quan điểm của Tổng thống và nhiều cố vấn thân cận của ông. Họ tin rằng giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh du kích, một cuộc chiến không giới tuyến hoặc chiến trường, đ̣i hỏi những chính sách và chiến lược mới. Mọi điều ở Nam Việt Nam cần phải được thay đổi.
    Thách thức lần này phức tạp và khó khăn hơn rất nhiều so với cuộc nổi loạn ở Philippines mà Lansdale đă giúp đánh bại. Ở Philippines, vấn đề chỉ là cuộc lật đổ cộng sản mang tính nội bộ do Huk lănh đạo và chiến tranh du kích. Ở Nam Việt Nam, Việt Cộng đang áp dụng những hoạt động tương tự, nhưng không giống như Huk, họ nhận được sự trợ giúp và chỉ đạo từ Hà Nội. Sự trợ giúp từ bên ngoài này là sự khác biệt có tính chất cốt lơi giữa hai t́nh huống.
    Kế hoạch chống nổi loạn t́m cách vô hiệu hoá và đánh bại thách thức của Việt Cộng ở Nam Việt Nam, một nhiệm vụ sẽ đơn giản đi rất nhiều nếu như sự giúp đỡ của Bắc Việt Nam bị loại trừ. Điều ǵ có thể thuyết phục Hà Nội rằng việc giúp đỡ Việt Cộng là không phù hợp với lợi ích của họ? Tại cuộc họp của Hội đồng an ninh quốc gia, Tổng thống đặt ra câu hỏi liệu hoạt động du kích có thể được tiến hành trong ḷng Bắc Việt Nam hay không. Allen Dulles, giám đốc CIA, báo cáo hiện có một số hoạt động hạn chế đang được thực hiện để giúp tổ chức du kích của Nam Việt Nam đủ khả năng quấy rối Bắc Việt Nam. Nhưng ông thừa nhận rằng mới chỉ có bốn toán, mỗi toán tám người được thành lập dưới sự giám sát của CIA và các toán này không được bố trí và hoạt động thường xuyên ở miền Bắc. Nhiệm vụ của họ là quấy phá ở vùng biên giới Bắc Việt Nam. Kenedy được báo cáo là "các toán này được phân công hoạt động ở các địa bàn phía nam" và "chuyển sang biên với Lào".(FRUSm 1961-1963, tr. 17) Đây là những nỗ lực rất hạn chế và khó có thể làm nản ḷng Hà Nội trong cuộc đấu tranh thống nhất Việt Nam.
    Kenedy không hài ḷng với những cố gắng của CIA và tuyên bố ông muốn "có du kích hoạt động ở miền Bắc" (FRUSm 1961-1963, tr. 17). Đây chính là điểm khởi đầu những ǵ về sau trở thành chiến dịch hoạt động ngầm lớn nhất và phức tạp nhất mà Chính phủ Mỹ thực hiện trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Từ 1964 đến 1972, chiến dịch này do quân đội chứ không phải CIA thực hiện và bao gồm việc tạo ra mạng lưới điệp viên, phong trào chống đối giả tạo, hoạt động đánh lạc hướng, chiến tranh tâm lư, hoạt động trên biển và các hoạt động thám báo qua biên giới.
    Chiến dịch hoạt động ngầm bắt đầu vào một sáng chủ nhật tháng Giêng năm 1961 khi vị tân Tổng thống quyết định gửi một bức thông điệp cho Hà Nội là họ sẽ trả giá cho hoạt động lật đổ ở miền Nam. Trên thực tế, điều mà John F. Kenedy muốn nói là: hăy cho miền Bắc nếm thử những ǵ họ đang làm đối với chúng ta ở miền Nam và làm ngay lập tức.
    HOẠT ĐỘNG NGẦM VÀ CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT:
    NHỮNG VŨ KHÍ MỚI CỦA CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH
    Vào những năm 1950, John F. Kenedy là một phần của dàn đồng ca gồm các nhân vật chính trị, sĩ quan quân đội, và học giả - những người tin rằng Hoa Kỳ cần triển khai những công cụ và chiến thuật mới để chiến đấu trong cuộc chiến tranh lạnh. Ở Đông-Nam Á, châu Mỹ La tinh và những nơi khác thuộc thế giới thứ ba, mối đe doạ đang nổi lên là chiến tranh du kích của cộng sản. Cuộc chiến tranh đó vạch ra ranh giới xung đột giữa Đông và Tây và Hoa Kỳ cần phải chuẩn bị sẵn sàng. Khi là tổng thống, mối quan tâm cá nhân của John F. Kenedy đối với chiến tranh du kích được nhiều người biết đến. Trong ngôn ngữ quân đội và theo học thuyết quân sự, những công cụ và chiến thuật mới bao gồm ba yếu tố: chống bạo loạn, chiến tranh không quy ước và hoạt động chiến tranh tâm lư.
    Người ta đă viết rất nhiều về sự nhiệt t́nh của chính quyền Kenedy đối với việc chống bạo loạn. Doughlas Blaufarb, cựu nhân viên cao cấp về hoạt động bí mật của CIA tại Lào và từng là trưởng trung tâm CIA tại Lào vào giữa những năm 1960 đă coi những năm dưới quyền Kenedy là kỷ nguyên chống bạo loạn. Công việc này liên quan tới những cố gắng có hệ thống để đánh bại du kích bằng việc sử dụng chính chiến thuật của họ. Một câu nói thường được nhắc đi nhắc lại trong những năm đầu 60 là bạn phải "phỗng tay trên của du kích". Một chuyên gia về các hoạt động này giải thích rơ hơn: "Điều cần thiết là phải tránh được vũ khí cách mạng, chấp nhận và cải tiến chúng theo mục đích sử dụng của ḿnh rồi dùng chính những vũ khí ấy chống lại cách mạng"(1).
    Trong khi việc chống bạo loạn được nhận sự quan tâm của công chúng, Kenedy cũng không kém phần bận rộn với chiến tranh không quy ước. Theo các nhà quân sự của đầu những năm 60, chiến tranh không quy ước được thực hiện "trong lănh thổ do kẻ địch nắm giữ và chiếm đóng" với mục tiêu "tận dụng lợi thế hoặc kích động phong trào chống đối chống lại chính phủ thù địch"(2). Đây chính là những việc mà OSS đă tiến hành trong chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu và châu Á. Đó là việc thúc đẩy các hoạt động bán quân sự ở trong lănh thổ đối phương bằng cách tổ chức và hỗ trợ phong trào chống đối du kích ở vùng dân tộc. Thông qua các hoạt động này, chiến tranh không quy ước làm suy yếu chính phủ đối phương bằng việc giảm hiệu quả hoạt động quân sự, khả năng kinh tế, sự ổn định và tinh thần của đối phương.
    Một thành tố quan trọng của chiến tranh không quy ước là chiến tranh tâm lư. Nó bao gồm "các hoạt động và chiến dịch được vạch ra và thực hiện nhằm tác động vào quan điểm, t́nh cảm, thái độ và hành vi của kẻ địch và dân chúng"(3). Thật là dễ dàng nhận thấy sự hấp dẫn của chiến tranh không quy ước đối với Kenedy. Đây cũng chính là điều ông muốn tiến hành sâu trong ḷng Bắc Việt Nam.
    Sự ủng hộ của Kenedy đối với chiến tranh đặc biệt c̣n là một phần trong việc chỉ trích chính sách an ninh quốc gia nói chung và học thuyết trả đũa hàng loạt nói riêng của Eisenhower. Chính quyền Eisenhower nhận định rằng Hoa Kỳ có thể sử dụng ưu thế về kỹ thuật và công nghệ để xác định cách thức đối phó với đe doạ và thách thức của kẻ thù. Công nghệ có thể thay thế cho nhân lực và vũ khí hạt nhân tối tân có thể ngăn chặn tất cả mọi mưu kế của Liên Xô và khối cộng sản.
    John Foster Dulles, Ngoại trưởng của Eisenhower và là người cổ động nhiệt t́nh cho học thuyết trả đũa hàng loạt đă phát biểu trước Hội đồng đối ngoại rằng: "Kẻ xâm lược tiềm tàng phải biết rằng hắn sẽ không thể áp đặt điều kiện chiến trường phù hợp cho ḿnh". Ngược lại "chúng ta sẽ tận dụng khả năng tấn công chiến lược bằng vũ khí hạt nhân tối tân để ngăn chặn mọi nỗ lực trực tiếp hay gián tiếp tổng lực hay cục bộ của cộng sản nhằm giành lợi ích đối với Mỹ"(4). Hay nói một cách khác, Hoa Kỳ chứ không phải đối phương quyết định cách thức, thời gian và chiến trường cho cuộc chiến.
    Trong từ vựng thuật ngữ quân sự, trả đũa hàng loạt là một chiến lược đa năng mà những người ủng hộ tin rằng có thể sử dụng chống lại mọi loại h́nh thách thức quân sự. Như tổng thống Eisenhower tuyên bố vào năm 1955: "Tôi không thấy có lư do tại sao vũ khí hạt nhân lại không được sử dụng tương tự như bạn sử dụng một viên đạn hoặc vũ khí khác”(5).
    Kenedy không tin như vậy. ông nghi ngờ việc học thuyết này có thể sử dụng để chống lại chiến tranh du kích và cho rằng cần thiết phải có sự đánh giá lại một cách kỹ lưỡng về mặt chiến lược. Chiến lược không cân xứng chỉ đưa ra một số ít các giải pháp cho một thế giới phức tạp của chiến tranh gián tiếp và thách thức không quy ước. Kenedy lập luận: "Những sự kiện ở Đông Dương và những nơi khác đă làm sụp đổ những luận cứ nền tảng của học thuyết trả đũa hàng loạt; việc chúng ta không tập trung đối phó với các vụ phục kích hay chiến tranh du kích mà chỉ đe doạ trả đũa hạt nhân, trên thực tế đă tạo điều kiện cho cộng sản bành trướng ở những nơi như Đông Dương thông qua những chiến thuật tấn công không đến mức làm cho chúng ta phát động chiến tranh hạt nhân"(6). Học thuyết trả đũa hàng loạt không đủ tin cậy. Liệu có ai tin rằng Mỹ sẽ dùng vũ khí hạt nhân để đối phó với chiến tranh du kích? Kenedy đă nhận xét một cách châm biếm rằng ông thật khó h́nh dung là Mỹ sẽ "phát động chiến tranh hạt nhân chống lại bạo loạn cộng sản ở Miến Điện"(7). Lời chỉ trích này là thoả đáng. Hoa Kỳ cần nhiều hơn, chứ không phải ít đi, các phương án để đối phó một cách linh hoạt với các thách thức đa dạng. Theo Kenedy, các phương án cần phải tương xứng. V́ vậy ông đă dành nhiều quan tâm cho việc tăng cường các yếu tố bí mật và công khai của chiến tranh đặc biệt. Trong hai tháng đầu của nhiệm kỳ tổng thống, việc chỉ trích Eisenhower là điểm trọng tâm để nhấn mạnh yêu cầu cần có giải pháp mới. Trong diễn văn trước Quốc hội tháng 3 năm 1961, tổng thống nhận xét: "kể từ năm 1945, chiến tranh phi hạt nhân và chiến tranh du kích đă trở thành mối đe doạ thường trực và nổi nhất đối với thế giới tự do". Chúng ta đă có "khả năng lớn hơn để đối phó với lực lượng du kích, bạo loạn và lật đổ...Giờ đây chúng ta cần phải sẵn sàng đối phó với mọi quy mô lực lượng, bao gồm cả những lực lượng nhỏ được nước ngoài hỗ trợ, và chúng ta phải huấn luyện lực lượng tại chỗ đạt được mức độ tương đương"(8 ). Tháng Sáu năm 1962, ông nói với các học viên vừa tốt nghiệp Học viện Quân sự Westpoint rằng Hoa Kỳ cần "một chiến lược hoàn toàn mới" để đương đầu với những thách thức đó(9).
    Kenedy tập hợp quanh ḿnh những cố vấn cao cấp- những người cổ vũ cho chiến tranh đặc biệt và những giải pháp hoạt động bí mật. Việc lựa chọn Maxwell Taylor làm cố vấn quân sự là một minh chứng cụ thể. Taylor là người hiểu rơ vấn đề cả về mặt lư luận và kinh nghiệm thực tiễn. Taylor đă hoạt động ở sau giới tuyến ở Ư và nhảy dù xuống Pháp trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tại Triều Tiên, ông tổ chức các hoạt động du kích ở vùng núi Chirisan năm 1953. Ông là người phê phán mạnh mẽ chiến lược của Eisenhower. Những lập luận chỉ trích của ông được tập hợp trong một cuốn sách được tuyên truyền rộng răi mà Kenedy đă đọc và thích thú. Năm 1961, trong một bài viết đăng trên tạp chí Ngoại giao, Taylor kêu gọi Mỹ phải phát triển khả năng đối phó với hoạt động lật đổ du kích ở Thế giới thứ ba. Maxwell Taylor là một vị tướng mà tân tổng thống đang t́m kiếm. Ông hiểu những ǵ cần được thực hiện.
    McGeorge Bundy là trợ lư đặc biệt của tổng thống về các vấn đề an ninh quốc gia, một cương vị mà sau đó Bundy đă xác lập lại tầm quan trọng. Kenedy chọn Bundy v́ ông mang h́nh ảnh của một nhà hoạt động năng nổ và cứng rắn mà Kenedy đang cần. Bundy thường được mô tả là người sắc sảo, xông xáo và sẵn sàng sử dụng vũ lực. David Halberstam đă viết rằng Bundy là một phần của “trường phái siêu thực cực đoan. Những người theo trường phái này tin rằng họ cứng rắn, rằng họ biết rơ thế giới thực sự như thế nào, và vũ lực cần được chấp nhận như là một yếu tố cơ bản của ngoại giao". Đối với Bundy, hoạt động ngầm là một phần của cuộc chơi, là một công cụ "của thủ đoạn chính trị ngoại giao"(10). Bundy là chủ tịch của Ủy ban 303 mà quyền hạn của nó bao gồm việc giám sát tất cả các hoạt động ngầm của Mỹ, trong đó có các hoạt động của CIA và quân đội chống Bắc Việt Nam. Uỷ ban này được thành lập năm 1961 sau sự kiện Vịnh Con lợn v́ Kenedy muốn có sự kiểm soát chặt chẽ các hoạt động bí mật.
    Bộ trưởng Quốc pḥng của Kenedy, Robert McNamara, thường được coi là người gắn liền với sự leo thang của chiến tranh thông thường ở Việt Nam kể từ năm 1965. Tuy nhiên, ông cũng là người ủng hộ tích cực việc sử dụng các biện pháp không tương xứng để đối phó với chiến tranh du kích và hoạt động ngầm của cộng sản. Trong năm 1961, McNamara, với sự thúc giục của Kenedy, đă tăng gấp đôi lực lượng đặc biệt và hướng lực lượng này vào các nhiệm vụ chống bạo loạn và chiến tranh không quy ước. Sau thất bại ở Vịnh Con lợn, McNamara đứng đằng sau quyết định chuyển giao những hoạt động ngầm có quy mô lớn từ CIA sang Bộ Quốc pḥng. Năm 1963, ông đóng vai tṛ cốt yếu trong việc dự thảo và phê duyệt một chương tŕnh hoạt .động ngầm mới do giới quân sự chỉ đạo chống lại Hà Nội.
    Người tiếp theo là Walt Rostow, phó và sau đó là người kế nhiệm của Bundy. Vốn là nhà kinh tế của Học viện công nghệ Massachusetts, ông là một gương mặt lư luận hàng đầu về chiến tranh đặc biệt và hoạt động ngầm. Cuốn sách của ông, "Các giai đoạn của tăng trưởng kinh tế", đă đề xuất một cuộc tấn công vào tận gốc của bạo loạn và lật đổ cộng sản nhằm ngăn chặn chúng trước khi xảy ra(11). Rostow lập luận rằng Hoa Kỳ cần ở vị thế tấn công chống lại những thách thức mới của cuộc chiến tranh lạnh. Những ư tưởng của Rostow về chiến tranh đặc biệt, viện trợ nước ngoài, và các chiến lược phát triển cho Thế giới thứ ba đă có ảnh hưởng đối với Kenedy trước khi ông trở thành tổng thống. Chính Rostow là người đầu tiên đọc báo cáo về chuyến thăm Việt Nam tháng Giêng năm 1961 của Lansdale và bản báo cáo đă làm ông lo lắng. Ông đă làm mọi cách để cho Kenedy đọc bản báo cáo. Sau cuộc họp của Hội đồng an ninh quốc gia ngày 28-1-1961, Rostow có quan điểm dứt khoát về Việt Nam và thúc đẩy các hoạt động ngầm chống lại Bắc Việt Nam.
    Taylor, Bundy, McNamara, Rostow không phải là những người duy nhất. Em trai của tổng thống, Robert Kenedy, cũng là người nhiệt t́nh ủng hộ việc chống bạo loạn và coi đó là giải pháp cho vấn đề ở Nam Việt Nam. Một nhân vật khác là Roger Hillsman, người khi c̣n là nhân viên của OSS đă tổ chức các đơn vị du kích ngăn chặn không cho Nhật Bản chiếm đóng Miến Điện trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Những kinh nghiệm thực tế về chiến tranh đặc biệt này cộng với sự quan tâm nghiên cứu của Hillsman đă đưa ông đến với chiến tranh đặc biệt và trở thành người ủng hộ chủ yếu cho học thuyết chống bạo loạn, coi đó như là phương cách để chặn đứng các mối đe doạ du kích của Thế giới thứ ba. William Bundy, một cựu nhân viên CIA và là anh trai của cố vấn an ninh tổng thống, cũng tin vào tầm quan trọng của các hoạt động ngầm. Ngoài ra c̣n những người khác.
    Chiến trường mới của chiến tranh lạnh là Thế giới thứ ba và học thuyết cũng như lực lượng chống bạo loạn là những công cụ quan trọng cho việc thực hiện chính sách của Mỹ trong môi trường ấy. Những nhân vật cao cấp trong chính quyền mới của Kenedy đều nhất trí về nhận định này. Điều quan trọng nhất là quan điểm của họ phù hợp và củng cố thêm quan điểm của tổng thống.
    ____________________ ____________________ ___
    1. John J. McCuen. "Nghệ thuật của chiến tranh chống lại cách mạng (Harrisburg, Pa. Stackpole Press- 1966). tr- 50
    2, 3. “Thuật ngữ của chiến tranh lạnh”-. Tập san thông tin quân đội, tháng 6-1962. tr.53 54
    4. John Forster Dulles, "Sự phát triển của chính sách đổi ngoại”, Bản tin Bộ Ngoại giao, 25-1-1954.
    5. (Tài liệu công khai của Tổng thống Dwight D. Eisenhower, (Washington DC, Văn pḥng đăng kư liên bang 1955) tr. 332)
    6, 7. John F. Kenedy, "Tuyển tập các bài phát biểu của Tổng thống trong thời gian phục vụ tại Thượng viện và Hạ viện, (Washington DC. Nhà in chính phủ Hoa Kỳ năm 1964) tr 1002- 1003 , 91
    8, 9. Tài liệu công khai của Tổng thống John F. Kenedy, (Washington DC. Nhà máy in chính phủ Hoa Kỳ, 1962). tr. 232-236, 453
    10. David Halberstam. “Những ngườí xuất sắc và thông minh nhất” (New York: Ballantine Books. bản 1992) tr. 56
    11. W W Rostow, "Các giai đoạn của tăng trưởng kinh tế”, (Cambridge: Trường đại học Cambridge xuất bản, năm 1960)

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P2



    DI SẢN HOẠT ĐỘNG NGẦM CỦA CIA
    Trước năm 1961, hoạt động ngầm bán vũ trang theo dạng Kenedy mong muốn tiến hành trong ḷng Bắc Việt Nam mang lại rất ít thành công. Các nhà điều hành của CIA gọi đây là địa bàn bị từ chối: đó là những mục tiêu rất khó xâm nhập chứ đừng nói chuyện lật đổ. Liên Xô, các nước Đông Âu, Trung Quốc cộng sản, Bắc Triều Tiên, Cu Ba và Bắc Việt Nam tất cả đều là địa bàn bị từ chối. Một nhân viên t́nh báo giàu kinh nghiệm đă gắn cho những nước này nhăn hiệu "nhà nước chống t́nh báo" v́ sự chú ư quá mức đối với an ninh trong nước và kiểm soát dân chúng(1) . Ở đó có nhiều lực lượng t́nh báo, cảnh sát đối phó với mọi đe doạ về an ninh bất kể là có thật hay được tưởng tượng ra. Việc thành lập phong trào chống đối và mạng lưới điệp viên trong ḷng những địa bàn bị từ chối tỏ ra là nhiệm vụ quá khó khăn và thường là không kết quả đối với CIA.
    Tuy nhiên kết luận này không đúng với nỗ lực đầu tiên của Hoa Kỳ trong việc sử dụng hoạt động chống đối và bán quân sự ngầm trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ngày 13-6-1942, sau những tranh luận về hành chính giữa Văn pḥng phối hợp thông tin do William Donovan lănh đạo và Hội đồng tham mưu liên quân, Văn pḥng t́nh báo chiến lược (OSS) được Tổng thống thành lập và đặt dưới sự chỉ đạo của Hội đồng tham mưu liên quân- Đây là một công việc phiền toái cho các tham mưu trưởng, những người hay ngần ngại về hoạt động bán quân sự bí mật. Những hoạt động này không được tiến hành theo những nguyên tắc quân sự truyền thống thông thường, và do đó làm cho giới lănh đạo quân đội lo ngại. Donovan cho rằng trong thời chiến, hoạt động bán quân sự cần hướng tới và phối hợp với hoạt động quân sự thông thường và OSS nên sáp nhập với quân đội Mỹ(2).
    Những hoạt động chiến tranh không quy ước trong ḷng lănh thổ đối phương bao gồm chiến tranh tâm lư, hay hoạt động tác động tinh thần - theo thuật ngữ của OSS, và việc khuyến khích các phong trào chống đối sử dụng chiến thuật du kích. Loại hoạt động thứ nhất nhằm khuyến khích sự phản kháng của người dân và làm giảm sút tinh thần của đối phương. Các biện pháp được sử dụng bao gồm thả truyền đơn, phát sóng từ đài phát thanh bí mật, và trợ giúp phong trào chống đối làm ra các loại tài liệu tuyên truyền để tung vào lănh thổ bị chiếm đóng. Chiến tranh tâm lư c̣n gồm cả những thủ đoạn "bẩn thỉu”. Trong đại chiến thế giới thứ hai, “các đường bưu điện giữa Thụy Điển trung lập và phát xít Đức được sử dụng để ngụy tạo ra mối liên hệ giữa một số người Đức được coi là tích cực chống quân đồng minh với âm mưu nổ bom ám sát Hitler ngày 20-6-1944"(3). Rơ ràng nhiều người đă bị xử tử v́ những thông tin giả này.
    OSS c̣n hỗ trợ vật chất cho các phong trào chống đối và t́m cách tổ chức và huấn luyện du kích ở lănh thổ châu Á bị chiếm đóng. Ví dụ, năm 1942, nhiều căn cứ được thành lập ở Ấn Độ, Miến Điện và Xrilanca để tiến hành các hoạt động thám báo và du kích chống lại Nhật Bản. Hoạt động này đă trở thành một phần chủ yếu của chiến tranh không quy ước. Những hoạt động tương tự cũng được tiến hành ở lănh thổ châu Âu bị chiếm đóng. Ở miền Bắc Ư, bộ phận hoạt động đặc biệt của OSS đă giúp tổ chức phong trào chống đối làm hao tổn nhân lực và vật lực của Đức. Ở Pháp, các toán OSS đă phối hợp với Maquis - Phong trào chống đối Pháp - trước và sau ngày đổ bộ để phân tán và gây rối các lực lượng chiếm đóng Đức. Không nghi ngờ ǵ nữa, những hoạt động này đă góp phần quan trọng vào chiến thắng của Đồng minh.
    Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai , OSS bị giải thể. Tổng thống Harry S. Truman t́m cách giảm thiểu sự dính líu của Mỹ vào các hoạt động bí mật. Ông lập luận: bây giờ là thời b́nh những biện pháp như vậy không c̣n cần thiết nữa. Nhưng ước vọng của ông không tồn tại lâu v́ chiến tranh lạnh h́nh thành. CIA được thành lập theo Luật An ninh quốc gia năm 1947. Năm 1948, hai chỉ thị - NSC4 và NSC4A - chính thức giao trách nhiệm hoạt động ngầm cho CIA.
    Một chỉ thị khác trong năm 1948, NSC1O-2, thành lập Văn pḥng phối hợp chính sách trực thuộc CIA để phát triển và tiến hành các phương thức hoạt động ngầm chống lại Liên Xô và đồng minh của Liên Xô. Theo văn bản này, "Hội đồng an ninh quốc gia -NSC-, sau khi xem xét các hoạt động ngầm của Liên Xô nhằm hạ uy tín và làm thất bại mục tiêu, hoạt động của Hoa Kỳ và các cường quốc phương Tây khác, đă quyết định: các hoạt động công khai ở nước ngoài của chính phủ Hoa Kỳ phải được hỗ trợ bởi hoạt động ngầm"(4).
    Hội đồng an ninh quốc gia đă giao cho CIA thực hiện hàng loạt thủ đoạn hoạt động ngầm: "Cụ thể là các hoạt động sẽ bao gồm bất kỳ hoạt động nào liên quan đến: tuyên truyền; chiến tranh kinh tế; hành động pḥng ngừa trực tiếp như phá hoại, chống phá hoại, huỷ hoại và sơ tán; và hoạt động lật đổ chống lại các quốc gia thù địch, trong đó có việc trợ giúp cho phong trào kháng chiến ngầm, du kích và các nhóm tị nạn, và hỗ trợ các phần tử chống cộng tại chỗ". Như vậy CIA đă trở thành công cụ qua đó Hoa Kỳ có thể tiến hành các hoạt động chiến tranh không quy ước chống Liên Xô và đồng minh và là giải pháp thay thế trong t́nh huống chưa đến mức "xung đột vũ trang do lực lượng quân sự thông thường tiến hành"(5).
    ____________________ ____________________ ________
    1. John Dizak, “Lịch sử của KGB", (Lexington, Mass. Lexington Books, 1988 ) tr. 1-2
    2. Anthony Cave Brown biên tập. “Báo cáo chiến tranh đặc biệt của OSS" (New York: Berkeley, 1976) Về Donavan, xin xem Thomas Troy "Donovan và CIA” (Federik Md. ấn phẩm đại học của Mỹ, 1981.
    3. John Ranelagh. "Sự vươn lên và suy yếu của CIA”. (New York: Simon và Schuster, 1988), tr. 88.
    4, 5. Chỉ thị của Hội đồng An ninh quốc gia 10/2, ngày 18-6-1948 về việc thành lập Văn pḥng các đề án đặc biệt.
    Những năm cuối thập kỷ 1940 và 1950 thường được nhắc đến như là thời hoàng kim của hoạt động ngầm, một sự đánh giá đúng mức nhưng dễ gây hiểu lầm. Chắc chắn là có những chiến dịch thành công. Những chiến tích này bao gồm sự giúp đỡ của Mỹ đối với châu Âu sau thế chiến thứ hai. Mục tiêu của chính sách đối ngoại lúc đó là ngăn cản sự bành trướng chính trị của cộng sản và xây dựng lại nền dân chủ. Các đảng chính trị, nghiệp đoàn, tổ chức văn hoá và các nhóm có liên quan đều cần giúp đỡ để chống lại đối thủ cộng sản được tổ chức và tài trợ tốt hơn. Họ đă nhận được sự giúp đỡ đó từ CIA. Cùng với sự hỗ trợ kinh tế, ngoại giao của kế hoạch Marshall, hoạt động ngầm đă góp phần quan trọng vào việc tái thiết châu Âu.
    Ở Philippines, hoạt động ngầm đóng vai tṛ thiết yếu trong việc đánh bại hoạt động nổi dậy của cộng sản những năm 1950. Từ giác độ địa chiến lược, việc không để cho cộng sản nắm giữ quyền lực ở quốc gia này là phù hợp với lợi ích của Mỹ. Sự trợ giúp bán quân sự bí mật là một phần của chương tŕnh được vạch ra nhằm khuyến khích cải tổ chính trị và phát triển kinh tế ở Philippines. Điều này đă mang lại kết quả. Với sự giúp đỡ của Edward Lansdale, Ramon Magsaysay đánh bại Huk và sau đó được bầu là tổng thống năm 1953.
    Những hoạt động gây nhiều tranh căi và bàn luận nhất trong giai đoạn này là cuộc đảo chính chống Mahamed Mossadegh ở Iran năm 1953 và chống chính phủ Jacabo Guzman Arbenz ở Guatemala năm 1954. Vào lúc bấy giờ, mỗi hoạt động đều được coi là thành công ngoạn mục trong cuộc chiến chống lại Matxcơva. Iran có vị trí địa chiến lược quan trọng đối với Mỹ và đầu những năm 1950 chính phủ của Mossadegh tỏ ra đang đi theo hướng chỉ đạo của Matxcơva. C̣n hoạt động ở Guatemala, nơi yếu tố địa chiến lược và mối liên hệ với Matxcova không rơ ràng, cuộc đảo chính đă đặt ra rất nhiều câu hỏi. Nhiều năm sau, cả hai vụ này đă tạo ra những cuộc tranh luận căng thẳng về việc hoạt động ngầm như vậy có thể được coi là chính đáng không, khi xem xét tác động lâu dài trên thực tế và ảnh hưởng đạo lư đối với những nguyên tắc dân chủ của Mỹ. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, Iran và Guatemala đều được coi là quan trọng và hoạt động bán quân sự, tuyên truyền chính trị ngầm của CIA có vai tṛ quyết định trong việc hoàn thành các mục tiêu chính sách của Mỹ.
    Những "thành tích" này đă đề cao danh tiếng của CIA như là một tổ chức có thể hành động nhanh chóng và có hiệu quả. Theo một chuyên gia t́nh báo hàng đầu, có nhiều lư do để hoạt động ngầm thành công. Một là, ở Washington, "có sự phối hợp và lănh đạo chính sách rơ ràng và nhất quán ở cấp cao nhất để chớp lấy thời cơ” sử dụng công cụ hoạt động ngầm một cách hữu hiệu. Thứ hai, "có những người vạch kế hoạch sáng tạo và hiểu biết về địa bàn, xác định được đồng minh - những người cùng chia sẻ những mục đích cụ thể của Mỹ". Cuối cùng, các nhân viên chỉ đạo có năng lực để vạch ra đề án và hiện thực hoá mục đích của đề án đó(1).
    Ở các địa bàn bị từ chối, CIA không thu được những thành tích tương tự. Trong những năm cuối 1940 và đầu 1950, CIA đă khởi xướng một số hoạt động bán quân sự bí mật nhằm gây mất ổn định và lật đổ chính quyền ở các chế độ cộng sản thuộc khối Liên Xô, bao gồm các nước vùng Ban tích: Lítva, Látvia, Etônia, Ba Lan, Ucraina và Anbani. Nhiều điệp viên được huấn luyện, cung cấp giấy tờ giả, và cài cắm vào những địa bàn bị từ chối để phát triển mạng lưới chống đối và thực hiện các hoạt động bán quân sự. Nhưng rất ít người có tin phản hồi.
    Một sĩ quan lục quân cao cấp được điều về CIA và tham gia vào các điệp vụ trên khi được hỏi về những người đă được ḿnh huấn luyện đă nhớ lại: "Tôi đến sân bay mỗi khi có một điệp viên được tung vào đối phương để kiểm tra lần cuối cùng các trang bị và chúc họ may mắn. Tôi đặc biệt nhớ một loại trang bị mà chúng tôi gọi là thắt lưng tự do. Vật này giống như một thắt lưng đựng tiền dùng để đựng những tài liệu tuyên truyền mà điệp viên sử dụng để thu hút và tuyển mộ người chống đối". Khi được hỏi có bao nhiêu điệp viên tạo được vỏ bọc và tiến hành hoạt động, viên sĩ quan - giờ đă nghỉ hưu - trả lời: "Vào lúc bấy giờ không một ai trong số tôi phụ trách có thông tin phản hồi sau khi được tung đi".
    Hai thập kỷ sau, khi là tuỳ viên quân sự ở một nước thuộc khối Liên Xô, cuối cùng th́ ông cũng đă gặp một người mà ḿnh từng phụ trách. Trong một buổi tiếp tân tối, một người đàn ông đă tiến lại từ phía đằng sau và nói thầm: "Tôi vẫn c̣n chiếc thắt lưng tự do". Khi quay lại, ông tuỳ viên quân sự chỉ c̣n kịp nh́n thấy lưng của người đàn ông đang rời khỏi pḥng. Ông ấy đă sống sót, tất cả chỉ có thế"(2).
    Câu chuyện này phản ảnh những ǵ xảy ra đối với các hoạt động ở địa bàn bị từ chối. Ví dụ vào cuối những năm 1940, CIA và cơ quan t́nh báo Anh cố gây rối t́nh h́nh Anbani. Bây giờ th́ mọi người đều biết rằng vào thời điểm đó hàng trăm người di tản đă được huấn luyện và đành trở về để thành lập phong trào chống đối và tiến hành chiến tranh du kích. Kết cục thật là thảm hoạ. Nhiều điệp viên bị xét xử công khai và hoạt động này phải chấm dứt vào năm 1953(3).
    Những vụ việc tương tự cũng diễn ra ở Ba Lan. Hàng ngàn người Ba Lan đă ở lại phía Tây sau chiến tranh thế giới thứ hai. Khi cộng sản chiếm Ba Lan, các tổ chức của người Ba Lan tị nạn mọc lên như nấm và tuyên bố rằng họ có mạng lưới tổ chức đằng sau "bức màn sắt". Phong trào độc lập và tự do, hay WIN - viết tắt theo tiếng Ba Lan - là một trong những tổ chức ấy. CIA tin rằng tổ chức này là tốt và giúp đỡ tiền, huấn luyện, và thực hiện các chuyến bay thả điệp viên, vũ khí, và các phương tiện khác cho các đơn vị WIN trong lănh thổ Ba Lan. Trên thực tế, WIN đă bị cơ quan t́nh báo Ba Lan xâm nhập từ những năm 1940. Trong lănh thổ Ba Lan, tất cả hoạt động của WIN đă bị vô hiệu hoá và được sử dụng để chống lại CIA. Đây là một thất bại khác và là một phần của thất bại tương tự của CIA tại các nước thuộc khối Liên Xô trong những năm cuối 1940 và 1950.
    ____________________ __________________
    1. Roy Godson, “Thủ đoạn bẩn thỉu hay con át chủ bài” (Washington DC: Brassey, 1995), tr. 42
    2. Theo đề nghị của người được phỏng vấn, tên của người này được giữ kín
    3. Godson, "Thủ đoạn bẩn thỉu hay con át chủ bài", tr. 47. Vào lúc bấy giờ Kim Philby được coi là nguyên nhân thất bại ở Anbani. Nhưng Godson cho thấy c̣n có những yếu tố khác dẫn đến thất bại này như điệp viên của Anbani trong số người lưu vong, việc đánh giá thấp năng lực của cơ quan phản gián đối phương, ít hiểu biết về t́nh h́nh Anbani...
    Hoạt động ngầm chống lại các địa bàn bị từ chối ngoài khối Liên Xô cũng tỏ ra khó khăn không kém. Trong chiến tranh Triều Tiên, CIA định thực hiện một loạt các hoạt động ngầm tương tự như OSS, cơ quan tiền thân của ḿnh. Dưới vỏ bọc Uỷ ban cố vấn chung ở Triều Tiên - viết tắt là JACK - cơ quan này được giao nhiệm vụ tăng cường sức ép đối với Trung Quốc cộng sản thông qua việc trợ giúp cho phong trào du kích, nhất là dọc theo tuyến đường cung cấp cho lực lượng của Trung Quốc đóng tại Triều Tiên. Một nhân viên của JACK, người một thập kỷ sau trở thành vị lănh đạo thứ ba của MACVSOG ở Việt Nam, là thiếu tá John K. Singlaub. Ông có kinh nghiệm về hoạt động ngầm khi c̣n là nhân viên của OSS trong chiến tranh thế giới thứ hai và nửa cuối của thập kỷ 1940 ở Măn châu lư. Khi đến nhận chức phó trung tâm ở Hàn Quốc, Singlaub hầu như không t́m thấy chứng cứ ǵ chứng tỏ có sự tồn tại của chiến dịch hoạt động ngầm. JACK đă tung nhiều điệp viên, những người có mối quan hệ gia đ́nh và có thể tồn tại được vào Bắc Triều Tiên. Singlaub ghi lại rằng điệp viên có "cung cấp những nguồn thông tin đáng tin cậy về sự di chuyển quân của kẻ địch". Tuy nhiên, JACK chưa bao giờ tạo nên được bất kỳ điều ǵ thực sự giống như phong trào kháng chiến kiểu Maquis ở Pháp trong thời kỳ Đại chiến thứ hai(1).
    Trong những năm cuối thập kỷ 1950, hoạt động bán quân sự của CIA chống lại địa bàn bị từ chối bao gồm Tây Tạng và Bắc Việt Nam. Trong tất cả các điệp vụ ở giai đoạn này chương tŕnh Tây Tạng là thành công nhất, ít nhất là trong một thời gian ngắn. Phong trào chống đối Tây Tạng khởi nguồn từ sự chiếm đóng và luật lệ hà khắc của Trung Quốc cộng sản. Vào năm 1954, các lực lượng của hai đảng chính trị đang đánh nhau, và vào năm 1955 ba trung đoàn của Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc bị xóa sổ. Khi cuộc nổi dậy kéo dài sang năm 1956, CIA thiết lập mối quan hệ và hợp tác. Quan hệ này bao gồm việc cung cấp rộng răi thiết bị và huấn luyện. Khi cuộc xung đột lan rộng hơn, người Tây Tạng đă tập hợp được đội quân khoảng 100.000 người. Đội quân này đă có tác động đáng kể đến nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, buộc Trung Quốc phải sử dụng một số lớn nguồn nhân lực và vật lực. Tuy nhiên vào năm 1960, quân đội Trung quốc đă thiết lập xong việc kiểm soát và phong trào chống đối nhanh chóng bị tiêu hao lực lượng, chỉ c̣n lại một vài nhóm nhỏ. Không c̣n có bất kỳ cơ hội nào để giải phóng Tây Tạng khỏi Trung Quốc cộng sản. Mọi hành động như vậy của Mỹ sẽ gây ra nguy cơ chiến tranh hạt nhân và ván bài đó không đáng để đặt cửa. Chính sách của Washington là gây rối Trung Hoa cộng sản và việc này chấm dứt vào đầu thập kỷ 60 khi quân đội Trung Quốc chiếm giữ Tây Tạng.
    Những hoạt động chống lại miền Bắc đă bắt đầu từ năm 1954 ngay sau Hiệp định Giơnevơ chia Việt Nam thành hai miền dọc theo vĩ tuyến 17: miền Nam (Cộng hoà Việt Nam) và miền Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà). Việc chia cắt này là tạm thời và tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức vào năm 1956 để thống nhất đất nước. Mặc dù không kư, nhưng Hoa Kỳ công khai đồng ư với những điều khoản của Hiệp định. Tuy nhiên, với việc không kư văn bản này, Washington đă tạo cho ḿnh một lỗ hổng pháp lư để tránh việc tuân theo Hiệp định. Lansdale đă được cử sang Việt Nam để vạch kế hoạch và thực hiện cuộc chiến tranh bí mật chống lại chính quyền cộng sản mới ở Hà Nội. Theo Hiệp định Giơnevơ, việc tập kết được thực hiện trong thời hạn 300 ngày để cho người Việt Nam ở miền Nam cũng như miền Bắc có cơ hội chuyển chỗ ở. Trước khi giai đoạn này kết thúc, Lansdale đă huấn luyện, trang bị và cài cắm một số nhóm bán vũ trang nhỏ ở Bắc Việt Nam. Các đơn vị hải quân bí mật của Mỹ đă bố trí những địa điểm cất giấu vũ khí rải rác dọc theo bờ biển. Tuy nhiên, những nỗ lực này không mang lại mấy kết quả, v́ chính quyền mới đă nhanh chóng bóc gỡ các toán cài cắm của Lansdale. Mặt khác, Hồ Chí Minh đă ra lệnh cho khoảng 10.000 nhân viên Việt Minh ở lại miền Nam, h́nh thành mạng lưới ngầm với mục đích "gây mất ổn định chính quyền mới ở miền Nam thông qua các hoạt động tuyền truyền và kích động chính trị, đồng thời tạo ra những "hạt giống" nổi dậy khi Hồ Chí Minh ra lệnh"(2).
    Năm 1953, CIA giúp thành lập " Nhóm quan sát số một", một tổ chức bán vũ trang hoạt động bên ngoài sự chỉ đạo của quân đội miền Nam. Lực lượng này do Ngô Đ́nh Diệm trực tiếp chỉ huy và có nhiệm vụ tổ chức các lực lượng du kích nằm vùng ở khu vực dưới vĩ tuyến 17 trong trường hợp miền Bắc tấn công. CIA nhận thấy "Nhóm quan sát số một" có tiềm năng tiến hành chiến tranh không quy ước ở bên kia vĩ tuyến để cắt đứt đường liên lạc của Bắc Việt Nam và thu thập tin tức t́nh báo. Năm 1958, Diệm và CIA đă kư một bản thoả thuận chung để tiến hành những điệp vụ chống lại Hà Nội. Nhưng như Giám đốc CIA Dulles chỉ ra khi trả lời câu hỏi của Tổng thống Kennedy tại cuộc họp của Hội đồng an ninh quốc gia ngày 28-1-1961, những nội dung thoả thuận này hầu như không được thực hiện. Không có một nhóm chống đối nào do Mỹ chỉ đạo hoạt động lâu dài ở trong ḷng Bắc Việt Nam.
    Nhưng những nỗ lực của Hà Nội ở miền Nam th́ khác hẳn. Năm 1957, những cán bộ nằm vùng của Hồ Chí Minh bắt đầu tiến hành tuyên truyền, tấn công vũ trang và tuyển người để h́nh thành tổ chức bí mật. Các cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 được đưa về miền Nam dọc theo tuyến đường mà về sau này được biết đến dưới tên "đường ṃn Hồ Chí Minh". Năm 1959, theo chỉ thị của Hà Nội, mạng lưới này đă phát động chiến dịch ám sát và chống trả lại quan chức Nam Việt Nam và trưởng ấp. Theo số liệu của Mỹ, có "2.500 vụ ám sát xảy ra trong năm 1959, tăng gấp đôi so với năm trước", và "hoạt động phá hoại trước đây mang tính đơn lẻ nay đă trở nên phổ biến"(3). Hà Nội đă chấp nhận cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam và, như Lansdale nói với Tổng thống Kenedy và các thành viên của Hội đồng an ninh quốc gia tại cuộc họp ngày 28-1-1961, cuộc đấu tranh này đă đặt chính phủ Ngô Đ́nh Diệm trước nguy cơ sụp đổ. Lansdale khẩn thiết đề nghị chính quyền mới "xác nhận Việt Nam đang ở trong t́nh thế nghiêm trọng và cần phải coi đây là chiến trường của chiến tranh lạnh đang đ̣i hỏi những giải pháp cấp bách"(4).
    ____________________ _________________
    1. John Singlaub, "Nhiệm vụ nguy hiểm", (New York: Summit Books, 1991) tr.182.
    2. John S. Bowman biên tập, “Almanac của chiến tranh Việt Nam” (New York: Pharos Books 1985) tr.449.
    3. John S. Bowman, Sđd, tr. 451.
    4. FRUS, 1961-1963:Việt Nam, tập 1, tr. 12
    Hơn nữa, theo quan sát của một nhân viên CIA được cử sang Sài G̣n để tiến hành các điệp vụ, Bắc Việt Nam là địa bàn bị từ chối khó khăn nhất. Trước khi nhận nhiệm vụ ở Nam Việt Nam năm 1963, Herbert Weisshart đă có 10 năm kinh nghiệm chỉ đạo các điệp vụ ở địa bàn bị từ chối chống lại Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, và Việt Nam từ các căn cứ khác nhau. Herbert biết rất rơ châu Á. Herbert Weisshart học tiếng Trung và tiếng Nhật, nghiên cứu về các vấn đề Đông Á tại trường Đại học Harvard vào cuối những năm 1940. Ông là học tṛ của giáo sư John Fairbanks và Edwin Reischauer, hai chuyên gia hàng đầu của Mỹ về Trung Quốc và Nhật Bản. Theo Weisshart, những ǵ mà tổng thống muốn chúng ta thực hiện là rất khó. "Trong tất cả các mục tiêu thuộc địa bàn bị từ chối vào lúc bấy giờ: Liên Xô, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Cộng hoà Dân chủ Đức, Bắc Triều Tiên... tôi cho rằng Bắc Việt Nam là 1 mục tiêu khó khăn nhất để tiến hành chiến tranh tâm lư và.hoạt động ngầm"(1).
    Weisshart đă nêu ra sáu lư do. Trước hết, "khác với nước Pháp bị chiếm đóng... nơi phong trào kháng chiến Maquis đă h́nh thành và nhận được sự trợ giúp tích cực từ bên ngoài, không có một tổ chức tương tự tồn tại ở Bắc Việt Nam”. Do đó Hoa Kỳ phải tạo ra một tổ chức như vậy. Thứ hai, "những nhà lănh đạo và nhân dân Bắc Việt Nam vẫn c̣n đang sống trong tâm trạng của người mới giành được độc lập từ sự áp bức thuộc địa bằng việc đánh bại người Pháp năm 1954". V́ vậy nhân dân ủng hộ mạnh mẽ chính phủ Hà Nội "để xây dựng một đất nước mạnh về kinh tế, tiến bộ về xă hội". Theo Weisshart, điều này là sự thật mặc dù Hà Nội tiến hành chương tŕnh cải cách ruộng đất rất khắc nghiệt vào cuối những năm 1950. Thứ ba, "việc kiểm soát hoạt động của dân ở các vùng biên giới, ven biển, nông thôn, thành thị là rất chặt chẽ". Thứ tư, "một khi biên giới bị đóng lại, không có ḍng di tản của những người theo đạo Thiên chúa, dân tộc ít người hoặc những kẻ bất măn - những người có thể tuyển dụng vào hoạt động ngầm". Thứ năm, "hầu như không có ḍng di chuyển của người và hàng hoá từ các nước không cộng sản đến các cảng, thành phố ở Bắc Việt Nam. Do vậy, không có cơ hội để đánh các điệp viên hoặc nhằm thu thập được tin tức t́nh báo ở Bắc Việt Nam". Sáu, "t́nh h́nh kinh tế chính trị ở Nam Việt Nam trong những năm đầu 1960 không tạo ra một sự so sánh hấp dẫn cho khán giả Bắc Việt Nam”(2).
    Không biết tổng thống Kenedy, Mac Bundy, Walt Rostow, Bob McNamara, Max Taylor, Bobby Kenedy, Bill Bundy và những người nhiệt t́nh ủng hộ hoạt động ngầm và chiến tranh đặc biệt có hiểu biết như thế nào về lịch sử hoạt động của CIA tại địa bàn bị từ chối. Họ có hiểu những khó khăn khi khơi mào cuộc chiến tranh không quy ước trong ḷng Bắc Việt Nam không? Họ có ư thức được những tiền đề để thực hiện thành công cuộc chiến tranh đó không? Như diễn biến của sự việc cho thấy, họ đă không đánh giá hết tính chất phức tạp của việc tiến hành các hoạt động ngầm ở Bắc Việt Nam.
    ____________________ ____________________
    1, 2. Phỏng vấn lịch sử với Herbert Weisshart, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với những nhân viên từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG", tr. 1, 5.
    KENEDY VÀ VIỆT NAM:
    NHỮNG BUỚC ĐI CHÍNH SÁCH BAN ĐẦU
    Mối quan tâm của Kenedy đối với Việt Nam được h́nh thành rất sớm, trước khi ông bước vào Nhà Trắng. Năm 1953, ông bày tỏ sự phản đối chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam và tuyên bố điều kiện tiên quyết cho sự can thiệp của Mỹ là "độc lập cho Đông Dương"(1). Ông chỉ trích Eisenhower đă quá thân thiện với người Pháp. Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, John F. Kenedy tham gia sinh hoạt với Hội những người Mỹ là bạn Việt Nam, một tổ chức chiết trung bao gồm các nhà học giả theo trường phái tả, các vị tướng bảo thủ, và quan chức nhà nước thuộc đủ các quan điểm chính trị. Họ hy vọng t́m ra "một con đường thứ ba hoặc giải pháp độc lập" cho Nam Việt Nam. Các hội viên bao gồm các học giả theo trường phái tự do như Max Lerner và Arther Schesinger, Jr., lănh đạo phe xă hội Norman Thomas, Leo Cherne thuộc Uỷ ban cứu trợ quốc tế, hồng y giáo chủ John Spellman, tướng William Donovan và Micheal O' Daniel, thẩm phán toà án tối cao William O. Douglas, viên thống đốc bảo thủ J. Bracken Lee, thượng nghị sĩ tự do Mike Mansfields và Joseph P. Kenedy, người thân sinh ra Kenedy - lúc bấy giờ đang là thượng nghị sĩ. Tham gia sinh hoạt c̣n có đại tá Lansdale.
    Hội những người bạn Việt Nam tin rằng Ngô Đ́nh Diệm là "người theo chủ nghĩa dân tộc độc lập" và là sự lựa chọn cần thiết để chiến đấu chống cộng sản. Họ đă tạo ra sự hỗ trợ cho Diệm ở Hoa Kỳ trong những năm cuối của chính quyền Eisenhower. Sự hỗ trợ này được thể hiện bằng việc tăng cường viện trợ nước ngoài. Nhưng thật không may, ở miền Nam, Diệm đă không chứng tỏ được ḿnh là sự lựa chọn tốt hơn so với Việt Cộng. Trên thực tế, khi Kenedy chuyển vào Nhà Trắng, hiệu quả hoạt động của chính quyền Diệm đang xấu đi rất nhanh trong khi hoạt động và sức mạnh của Việt Cộng đang tăng lên. Báo cáo của CIA trong năm 1960 (bắt đầu phản ánh kết luận là cơ sở chính trị của Diệm đă bị xói ṃn nghiêm trọng và Việt Cộng do Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hậu thuẫn đang là mối de doạ sống c̣n" đối với sự tồn tại của Nam Việt Nam(2).
    Trên cơ sở những báo cáo này, bản Báo cáo t́nh báo quốc gia về Việt Nam tỏ ra rất bi quan. Cáo báo cáo t́nh báo quốc gia được coi là sản phẩm chủ yếu của cộng đồng t́nh báo Mỹ và báo cáo về Việt Nam là tài liệu rất quan trọng. Những tin tức xấu nêu trong báo cáo ngay sau đó được khẳng định bởi báo cáo chuyến công tác của Lansdale và Kế hoạch chống nổi loạn ở Việt Nam do nhóm cố vấn quân sự Mỹ ở Sài G̣n soạn thảo. Trong những ngày đầu tiên giữ cương vị tổng thống, Kenedy đối mặt với t́nh h́nh ảm đạm và ngày một xấu đi ở Việt Nam. Kenedy muốn có những hành động ngay lập tức, nhưng sau đó ông hiểu rằng bộ máy hành chính rất ít khi chạy hết tốc lực.
    Vào đầu tháng 3, John F. Kenedy yêu cầu có báo cáo về chỉ thị của ông giao cho CIA tiến hành các hoạt động ngầm ở Bắc Việt Nam hồi cuối tháng 1. Công việc đang tiến triển ra sao? Chúng ta có đang cho Hà Nội nếm thử những ǵ họ đang làm ở miền Nam không? Ông phát hiện ra rằng trong ṿng một tháng rưỡi hầu như không có ǵ được thực hiện. Để chấn chỉnh sự tŕ trệ này, Kenedy nhanh chóng ra chỉ thị số 28 của Hội đồng an ninh quốc gia. Thay v́ yêu cầu có hành động, ông ra lệnh cho CIA phải tuân thủ theo “chỉ thị của tổng thống về việc chúng ta phải nỗ lực tiến hành hoạt động du kích ở lănh thổ Bắc Việt Nam"(3).
    ____________________ ____________________ __
    1. Kenedy, Tuyển tập diễn văn, tr. 295.
    2. Quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam, 1945-1967, Quốc hội 92 (Washington DC; Nhà in chính phủ, 1972) quyển 4, tr. 24.
    3. Quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam, Sđd, quyển 2, tr. 18.
    Tháng 4, Kenedy chỉ thị cho thứ trưởng Bộ Quốc pḥng, Roswell Gilpatric chỉ đạo lực lượng đặc nhiệm liên ngành thảo ra "Chương tŕnh hành động cho Việt Nam". Lansdale được cử làm sĩ quan điều hành, và các thành viên khác bao gồm Rostow, U. Alexis Johnson, thứ trưởng Bộ Ngoại giao, và Desmon Fitzgerald, Trưởng pḥng Viễn đông của Cục kế hoạch thuộc CIA. Mục tiêu là "đối phó với ảnh hưởng và áp lực của cộng sản đối với sự phát triển và duy tŕ một Nam Việt Nam tự do và vững mạnh"(1).
    Báo cáo của lực lượng đặc nhiệm được chuẩn bị xong vào đầu tháng 5. Bản báo cáo bắt đầu bằng những tin tức tồi tệ hơn. T́nh h́nh được đánh giá là khắc nghiệt. "Bất chấp các nỗ lực của các lực lượng Nam Việt Nam, 58% lănh thổ nằm dưới sự kiểm soát ở mức độ khác nhau của cộng sản, từ việc quấy rối, tập kích ban đêm đến kiểm soát hành chính hoàn toàn."(2). Trong khi tập trung chủ yếu vào vấn đề phát triển và an ninh nội địa ở Nam Việt Nam, các khuyến nghị của lực lượng đặc nhiệm cũng đề cập đến các hoạt động bí mật chống lại Bắc Việt Nam.
    Ngày 11-5, tổng thống xem xét bản báo cáo và phê chuẩn những khuyến nghị. Khái niệm hoạt động nêu trong đó rất rộng "Mục tiêu của Hoa Kỳ là... ngăn cản sự thống trị của cộng sản ở Nam Việt Nam; tạo ra ở đó một nền dân chủ vững chắc; và nhanh chóng đề xướng các hoạt động hỗ trợ lẫn nhau có tính chất bí mật về quân sự, chính trị, kinh tế, tâm lư nhằm đạt được mục tiêu trên"(3). Với khái niệm này và chỉ thị của Hội đồng an ninh quốc gia 52, tổng thống đă ra lệnh bộ máy hành chính phải hành động.
    Vào thời điểm này, CIA c̣n đang vạch kế hoạch hoạt động ngầm chống lại Bắc Việt Nam. Bản kế hoạch bao gồm việc xâm nhập các toán điệp viên và điệp viên đơn tuyến để thu thập t́nh báo, chiến tranh tâm lư (đài phát thanh, truyền đơn, hàng tâm lư chiến), hoạt động biệt kích ven bờ biển Bắc Việt Nam (thu thập t́nh báo, chiến tranh tâm lư, phá hoại), và tạo ra một phong trào chống đối tưởng tượng.
    Herb Weisshart, phó chỉ huy Pḥng nghiên cứu hỗn hợp của Trung tâm CIA tại Sài G̣n trong những năm đầu 1960, đă khái quát: "những hoạt động này là rất khiêm tốn. Đây là một chương tŕnh nhỏ. Tôi có thể nói rằng 90% cố gắng của CIA là ở Nam Việt Nam"(4). Tại sao chỉ là một chương tŕnh nhỏ trong khi tổng thống yêu cầu lớn hơn? Weisshart cho biết William Colby, Trưởng trung tâm CIA Sài G̣n lúc bấy giừ chính là người hạn chế các hoạt động ngầm chống lại Bắc Việt Nam v́ cho rằng những hoạt động với quy mô lớn sẽ tiêu tốn nguồn lực của CIA vốn đang cần tập trung cho Nam Việt Nam. Việc hạn chế các hoạt động ở Bắc Việt Nam không phải là "một ư tưởng tồi v́ Colby nh́n thấy tương lai ra sao và Nam Việt Nam sẽ trở thành thách thức lớn hơn đối với sự cam kết của Mỹ"(5).
    ____________________ ____________________ _____
    1. FRUS, 1961-1963: Việt Nam, tập 1, tr. 74.
    2. FRUS, 1961-1963: Việt Nam, tập 1, tr. 93-94.
    3. Các chỉ thị của Tổng thống về An ninh quốc gia từ Truman đến Clinton. (Bethesda, Md. University Publications of America, 1995), tài liệu số 180.
    4, 5. Phỏng vấn lịch sử với Herbert Weisshart, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với những nhân viên từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG", tr. 3,5, 4.
    Sự kiện Vịnh Con lợn xảy ra đúng vào lúc việc thực hiện các chỉ thị của Kenedy đang diễn ra một cách ỳ ạch. Đây là một cố gắng nữa của CIA chống lại địa bàn bị từ chối và tạo ra sự ngượng ngập chính trị lớn cho tổng thống. Trong cuộc vận động tranh cử năm 1960, Kenedy đă mô tả Cu Ba là "một trong những thất bại hiển nhiên của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ... một mối đe doạ cộng sản lại được phép tồn tại ngay trước mũi của chúng ta"(1). Tất nhiên, những ǵ mà ông muốn nói là cộng sản Cu Ba đă được phép tồn tại ngay dưới mũi của chính quyền Eisenhower. Chính quyền Castro là "một nhà kho cung cấp vũ khí và hoạt động của cộng sản ở toàn khu vực Nam Mỹ - tuyển mộ những nhóm nhỏ các nhà cách mạng do cộng sản làm hạt nhân cho cách mạng ở châu Mỹ La tinh". Cu Ba c̣n là "vệ tinh cộng sản thù địch" nhận sự "hướng dẫn, giúp đỡ và vũ khí của Matxcơva và Bắc Kinh"(2). Kenedy tuyên bố mọi chuyện sẽ khác đi khi ông là tổng thống. ông đưa ra những khẩu hiệu mạnh mẽ. Tuy nhiên vào tháng 4 năm 1961, Kenedy đă không thể hậu thuẫn những khẩu hiệu dũng cảm đó bằng hành động cụ thể. Kết quả là vụ thảm bại ở Vịnh Con lợn.

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P3



    Nhiều nhân vật lănh đạo bị thay thế. Trước hết, Giám đốc CIA Alen Dulles và Phó Giám đốc phụ trách kế hoạch, Rechard Bissell - kiến trúc sư của vụ xâm lược - bị thải hồi. Nhưng Kenedy cho rằng vấn đề không dừng lại ở Dulles và Bissell mà là ở cả thể chế. Sự kiện Vịnh Con lợn đă làm tổng thống thay đổi đánh giá về khả năng vạch kế hoạch và thực hiện hoạt động bán vũ trang bí mật của CIA. Hai tháng sau vụ thất bại, ngày 28-6-1961 Kenedy phê duyệt ba chỉ thị số 55, 56, 57 của Hội đồng an ninh quốc gia nhằm xác định lại và chuyển giao trách nhiệm thực hiện các hoạt động chiến tranh không quy ước từ CIA Sang Lầu Năm Góc.

    Chỉ thị số 55 - về quan hệ giữa Hội đồng tham mưu liên quân với tổng thống trong các hoạt động chiến tranh lạnh đă tước đi đặc quyền của CIA trong việc vạch kế hoạch và thực hiện các hoạt động bán quân sự bí mật. Phát biểu trước Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Kenedy tuyên bố: "Tôi trông chở Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân có vai tṛ lănh đạo sáng tạo và năng động góp phần vào thành công của các khía cạnh quân sự và bán quân sự trong các chương tŕnh chiến tranh lạnh"(3). Đây là bước đầu tiên của tổng thống để giảm quyền hạn của CIA đối với các hoạt động bán quân sự bí mật.
    Bước tiếp theo là Chỉ thị 56 - Đánh giá các yêu cầu bán quân sự. Chỉ thị này yêu cầu Bộ trưởng Quốc pḥng "kiểm kê những lực lượng bán quân sự hiện có và xem xét các khu vực trên thế giới, nơi mà việc thực hiện chính sách ngoại giao đ̣i hỏi phải có lực lượng bán quân sự tại chỗ, để đề ra mục tiêu của chúng ta tại những khu vực đó". Sau khi đă xác định yêu cầu về nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của chính sách, th́ "vấn đề tiếp theo là phát triển một kế hoạch để bù vào sự hẫng hụt"(4). Tướng Lansdale được giao nhiệm vụ kiểm kê, xác định sự thiếu hụt và đề xuất những nguồn lực cần được bổ sung để Lầu Năm Góc có thể thực hiện được các hoạt động bán quân sự bí mật.
    Lansdale viết rất nhiều tờ tŕnh cho Thứ trưởng Quốc pḥng Gilpatric. Một trong số đó đề cập đến thách thức về biện pháp thực hiện chiến tranh không quy ước đối với đối phương. Lansdale nhận thấy rằng "các kế hoạch chống lại Bắc Việt Nam hiện tại tỏ ra đă đạt đến mức độ cao nhất mà chính sách của Hoa Kỳ cho phép". Những ǵ ông muốn là phải thay đổi chính sách đó và mở rộng nguồn lực của Bộ Quốc pḥng. "Cần tính đến chính sách dài hạn đối với Bắc Việt Nam. Nếu cộng sản có thể thực hiện cuộc chiến tranh lật đổ để nắm giữ một đất nước th́ đă đến lúc chúng ta cho họ nhận điều tương tự".
    Lansdale đề nghị thành lập một phong trào chống đối cộng sản trong ḷng Bắc Việt Nam. Dĩ nhiên điều này không dễ dàng ǵ. Đó là công việc "lâu dài và gian khổ". Tuy nhiên, "nếu mục tiêu của chúng ta là tạo ra một t́nh h́nh tương tự như Hungary, th́ phải sẵn sàng giúp đỡ với mục tiêu là thống nhất Việt Nam", và điều cần thiết là "phải vạch ra một chương tŕnh hoạt động ngầm lớn hơn chống lại Bắc Việt Nam"(5).
    Đề nghị của Lansdale đă gây ra tranh căi, đấy là nói một cách nhẹ nhàng nhất. "Tạo ra một t́nh h́nh tương tự như Hungary" là điều khá nhạy cảm trong chính phủ Mỹ. Ví dụ, ở CIA những ư tưởng tương tự sẽ không được chào đón kể từ sau năm 1956. Một trong những đề nghị phiền toái nhất là việc thành lập một mạng lưới điệp viên trong lănh thổ Bắc Việt Nam với mục tiêu gây dựng một phong trào chống đối. Bộ máy hành chính của Washington, nhất là Bộ Ngoại giao và CIA phản đối đề nghị này. Đối với họ Hungary mang một ư nghĩa hoàn toàn khác. Họ đă rút ra bài học kinh nghiệm từ cuộc nổi loạn ở Hungary năm 1956 rằng Washington sẽ không ủng hộ những cuộc nổi loạn như vậy v́ có thể dẫn đến chiến tranh thế giới. V́ vậy, thay v́ khuyến khích, nên tránh xa các cuộc bạo loạn ở các quốc gia cộng sản.
    Điều cuối cùng và quan trọng nhất là Chỉ thị 57 đă đề ra các quy định về hành chính trong việc vạch kế hoạch và tiến hành các hoạt động bán quân sự của CIA và Bộ Quốc pḥng. Theo đó CIA được giao thực hiện hoạt động bán quân sự "hoàn toàn bí mật hoặc có thể chối bỏ được với điều kiện hoạt động đó nằm trong phạm vi khả năng b́nh thường của CIA". Ở đây cụm từ chủ chốt là "khả năng b́nh thường". Chỉ thị 57 nói rằng "các hoạt động bán quân sự lớn mang tính bí mật hoàn toàn hoặc một phần mà đ̣i hỏi một số lượng đáng kể nhân viên được huấn luyện về quân sự và thiết bị quân sự" sẽ được coi là "vượt quá nguồn lực và kinh nghiệm quân sự của CIA" và trong trường hợp đó những chương tŕnh lớn này sẽ" do Bộ Quốc pḥng chịu trách nhiệm chính với sự giúp đỡ của CIA"(6).
    Chỉ thị của Hội đồng an ninh quốc gia số 55, 56, 57 cho thấy sự không hài ḷng của Kenedy đối với CIA và quyết tâm phát triển các công cụ hoạt động để tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt chống Bắc Việt Nam và các địa bàn bị từ chối khác. ông sẽ không nhường trận địa mới cho bất kỳ ai. Bên cạnh tầm hoạt động, tư tưởng của Kenedy c̣n thể hiện rơ trong các sáng kiến chính sách. Tháng 2-1962 theo chỉ thị số 124, Nhóm Đặc biệt về chống nổi loạn được thành lập. Mục đích của nhóm này là thành lập việc giám sát ở tầm chính sách để đảm bảo "sự phát triển các chương tŕnh liên bộ đầy đủ nhằm ngăn chặn hoặc đánh bại bạo loạn lật đổ và xâm lược gián tiếp ở các nước và khu vực được giao cho nhóm đặc biệt"(7).
    ____________________ _________________
    1. John F. Kenedy, "Diễn văn, Phát biểu, Họp báo chí, và Tuyên bố từ 1-8 đến 7-11 năm 1960” trong Tự do về thông tin, Báo cáo cuối cùng của Uỷ ban Thương mại , Thượng viện Hoa Kỳ, nhiệm kỳ 87, kỳ họp thứ nhất, báo cáo số 994, phần một, trang 510-511.
    2. John F. Kenedy, Sđd, trang 511.
    3. Chỉ thị số 55 được Kenedy kư ngày 28-6-1961 cùng với chỉ thị số 56, 57. Được gửi cho chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, ngay trang đầu tiên Kenedy chỉ thị "Tôi thông báo cho Hội đồng tham mưu trưởng liên quân quan điểm của tôi về mối quan hệ giữa hội đồng và tôi trong các hoạt động chiến tranh lạnh như sau”. Xem toàn văn trong "Các chỉ thị của Tổng thống về An ninh quốc gia từ Truman đến Clinton” số hồ sơ 183 NSDDINDEX, trang 1.
    4. Sđd, NSDDINDEX, tr. 184.
    5. Xem báo cáo của Lansdale ngày 23-10-1961 gửi Maxwell Taylor, cố vấn quân sự của tổng thống Kenedy. Tiêu đề của bản báo cáo này là " Chiến tranh không quy ước”. FRUS, 1961- 1963: Việt Nam, Tập 1 , trang 421-422.
    6. Chỉ thị 57 Có tên chính thức là " Trách nhiệm trong các hoạt động bán quân sự” được Kenedy gửi cho Bộ trưởng Ngoại giao, Quốc pḥng và Giám đốc CIA". In trong "Các chỉ thị của Tổng thống về An ninh quốc gia từ Kenedy đến Clinton" NSDDINDEX, hồ sơ số 185.
    7. FRUS, 1961-1963: Việt Nam, tập 2, trang 49.
    Một nhóm cấp cao - Uỷ ban 303 - được giao nhiệm vụ kiểm soát các hoạt động ngầm, kể cả hoạt động bán quân sự(1). Thẩm quyền của Uỷ ban bao gồm tất cả các hoạt động ngầm quan trọng trên thế giới. Uỷ ban 303 chịu trách nhiệm về các hoạt động ngầm chống lại Bắc Việt Nam của CIA trong những năm 1961-1963. Năm 1964, các hoạt động ngầm do quân đội chỉ đạo chống Việt Nam trở thành công việc chính của Uỷ ban. Các thành viên của Uỷ ban bao gồm Mc George Bundy, cố vấn an ninh quốc gia, Roswell Gilpatric, Thứ trưởng Bộ Quốc pḥng, U. Alexis Johnson, Trợ lư Thứ trưởng về vấn đề chính trị, và Rechard Helm, Phó Giám đốc Cục t́nh báo Trung ương. Bundy là chủ tịch Uỷ ban. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân cũng có đại diện cao cấp. Theo Gilpatric, đó là tướng Maxwell.Taylor, Chủ tịch hội đồng. Ông cũng cho biết thêm đôi khi "McNamara cũng đến dự các cuộc họp. Mỗi khi có chương tŕnh lớn đang được cân nhắc, tôi sẽ báo và ông ấy sẽ đến dự"(2).
    Với vai tṛ ngày càng tăng của Lầu Năm Góc trong chống nổi loạn và chiến tranh bí mật, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân thành lập Văn pḥng trợ lư đặc biệt về hoạt động đặc biệt và nổi loạn (SACSA) đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch hội đồng. Văn pḥng này hỗ trợ Bộ trưởng và Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân thực hiện các yêu cầu của Nhóm đặc biệt và Uỷ ban 303. Ở Washington, Văn pḥng này giúp vạch kế hoạch và chỉ đạo những hoạt động chiến tranh đặc biệt có sự tham gia của Bộ Quốc pḥng. Tất cả mọi thành phần quốc pḥng tham gia vào các hoạt động này phải hỗ trợ Văn pḥng trợ lư đặc biệt khi được yêu cầu. Được thành lập tháng 2-1962, vị trợ lư đặc biệt đầu tiên là thiếu tướng thuỷ quân lục chiến Victor H. Krulak.
    Krulak là một người có đầu óc sáng tạo. Khi c̣n là một sĩ quan trẻ và chứng kiến hoạt động của người Nhật chống Trung Quốc vào cuối những năm 1930, ông đă thiết kế phần thân cho tàu đổ bộ, giải quyết vấn đề đổ bộ nhanh chóng các lực lượng tấn công từ biển vào đất liền. Kết quả là đă ra đời các tàu đổ bộ tiêu chuẩn được thủy quân lục chiến sử dụng ở Thái B́nh Dương trong chiến tranh thế giới thứ hai. Krulak khẳng định vị trí của ḿnh trong các trận đánh trong chiến tranh bằng việc chỉ huy các vụ tập kích lên bộ vào ban đêm đầy nguy hiểm. Trong một phi vụ, một chiếc tàu đổ bộ chở 30 lính thuỷ đánh bộ dưới quyền Krulak đâm vào đá ngầm và bị ch́m. Một chiếc tàu phóng lôi do viên trung uư trẻ tên là John Kenedy chỉ huy đă cứu thoát họ. Trung tá Krulak bày tỏ ḷng biết ơn với viên trung uư. Năm 1961, Krulak, giờ đă là thiếu tướng, và tổng thống Kenedy gặp lại nhau khi Krulak đến thăm vị tân tổng thống tại Nhà Trắng. Họ ngồi cùng nhau và nhắc lại những cuộc phiêu lưu thời thế chiến thứ hai. Mối quan hệ cũ được nối lại. Và Krulak nhanh chóng trở thành một trong những viền tướng được Kenedy yêu thích. V́ vậy, khi Kenedy cần một viên sĩ quan cao cấp để phụ trách SACSA, ông đă chọn Krulak(3). Đây là một bằng chứng nữa cho thấy Kenedy đă giám sát chính sách chiến tranh đặc biệt chặt chẽ như thế nào.
    Như vậy, khi năm 1961 kết thúc và năm 1962 bắt đầu, tổng thống Kenedy đă tiến hành nhiều bước đi hành chính và chính sách để có thể "làm tất cả để tiến hành hoạt động du kích ở lănh thổ Bắc Việt Nam". Thật không may cho tổng thống, không có ǵ ngoài sự thất vọng đang đón đợi ở phía trước.
    ____________________ _________________
    1. Một tổ chức tương tự, Uỷ ban 5412 tồn tại trong chính quyền Eisenhower. Uỷ ban này ra đời trên cơ sở "Chỉ thị của Hội đồng an ninh quốc gia về hoạt động ngầm” hay NSC5412. Xem "Các chỉ thị về an ninh quốc gia từ Kenedy đến Clinton” NSDDINDEX, hồ sơ 1964. Uỷ ban 303 thay thế Uỷ ban 5412 và mang tên theo số pḥng mà Uỷ ban tổ chức các buổi làm việc trong toà nhà văn pḥng hành pháp.
    2. Phỏng vấn trực tiếp Roswell Gilpatric, Thư viện Kenedy (tháng 5 - 1970), trang 38-39.
    3. Phỏng vấn tướng Victor Krulak ở San Diego, 5-1-1998, trang 7.
    HOẠT ĐỘNG CỦA CIA CHỐNG LẠI BẮC VIỆT NAM: QUÁ ÍT VÀ QUÁ CHẬM CHẠP
    Đánh giá của chính quyền về Việt Nam trong năm 1962 thật là mâu thuẫn và bắt đầu bằng những nhận định bi quan về t́nh h́nh. Ngày 15-1-1962, Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara khai mạc cuộc họp để đánh giá t́nh h́nh đang xấu đi và đề ra giải pháp. Bộ trưởng muốn có bước đi nhanh chóng để tăng cường nỗ lực của Mỹ ở Việt Nam. McNamara kết luận rằng cần có một bộ chỉ huy mới ở tầm hoạt động nhằm tạo ra sự thống nhất các nỗ lực và đưa mọi việc đi đúng hướng. Ngày 8-2, chính quyền thành lập Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Việt Nam (MACV), là một bộ phận trực thuộc Tổng Tư lệnh Thái B́nh Dương và được giao trách nhiệm về mọi hoạt động quân sự ở Việt Nam. Cố vấn Mỹ bắt đầu có mặt tại Việt Nam để thực hiện những giải pháp mới của McNamara nhằm đẩy lùi cơn thuỷ triều Việt Cộng.
    Vị tư lệnh MACV, tướng Paul Harkin, tin tưởng rằng sẽ đạt được điều đó trong năm 1962. Harkin chính là sự lựa chọn của Maxwell Taylor cho vị trí này. Họ là hai người bạn thân, có quan hệ từ những năm 1940 tại Westpoint khi cả hai cùng làm việc tại học viện. Khi Taylor là tư lệnh Tập đoàn quân số 8 ở Triều Tiên, Harkin là tham mưu trưởng của ông. Nhưng Harkin là sự lựa chọn không phù hợp với loại xung đột đang diễn ra ở Việt Nam. Ông không hề có kinh nghiệm về bạo loạn và nhân viên được ông chọn ở MACV cũng chẳng hơn ǵ(1). Tuy nhiên, Kenedy và McNamara chấp nhận sự lựa chọn của Taylor.
    Đối với chính quyền Kenedy, năm 1962 nhanh chóng bị hai sự kiện lấn át: cuộc khủng khoảng tên lửa Cu Ba và Lào. Việt Nam tạm bị gác sang một bên, cho dù cuối cùng th́ giải pháp Giơnevơ về Lào có tác động sâu sắc ngoài dự kiến đối với cuộc xung đột ở Nam Việt Nam. Đối với Hà Nội, đường Hồ Chí Minh ở Lào mang ư nghĩa cực kỳ quan trọng đối với cuộc chiến ở miền Nam.
    Đối với Bắc Việt Nam, con đường ṃn chính là cái mà nhà lư luận quân sự Carlvon Clausewitz gọi là "trọng tâm trọng lực". Khái niệm này chỉ "trung tâm của tất cả sức mạnh và chuyển động mà mọi thứ đều phụ thuộc vào đó" của đối phương. Clausewitz cho rằng nếu một viên tư lệnh có thể xác định và phá rối "trung tâm trọng lực" th́ sẽ làm giảm sút cơ bản khả năng duy tŕ chiến tranh của kẻ địch"(2).
    Đường ṃn Hồ Chí Minh là hệ thống thông tin và vận tải bao gồm mạng lưới cung cấp hậu cần, cấu trúc chỉ huy kiểm soát và các vị trí đóng quân của quân đội Bắc Việt Nam. Về mặt địa lư, con đường này nằm dọc theo một mạng lưới dầy đặc các tuyến đường lớn nhỏ chạy từ miền Bắc sang Lào sau đó đến miền Nam. Ngoài ra, con đường c̣n mở sang Campuchia. Con đường ṃn này là một trong những nhân tố chiến lược chủ yếu cho phép Hà Nội tiến hành cuộc chiến tranh. Đường ṃn tạo ra lợi thế hậu cần có tính chất quyết định đồng thời giúp nhanh chóng chuyển quân từ những căn cứ tập kết ở Lào và Campuchia sang các chiến trường ở Nam Việt Nam. Một trong những nhà địa lư quân sự hàng đầu, John Collins đă nhận xét “Khi mới được mở vào cuối những năm 1959, đường ṃn Hồ Chí Minh không là cái ǵ khác ngoài mạng lưới nhằng nhịt các con đường nhỏ dưới tán rừng rậm rạp. Nam nữ thanh niên xung phong đă cơng những gùi hàng nặng trĩu dọc theo những con đường ṃn này nhưng giới chức cao cấp của Mỹ và của Nam Việt Nam ở Sài G̣n đă coi thường hoạt động đó v́ số lượng hàng không đáng kể: một chút gạo, một vài khẩu súng ngắn lấy được từ người Pháp, và vũ khí tự tạo trông như đồ chơi "(3). Bức tranh này thay đổi nhanh chóng trong những năm 1960.
    Năm 1962 là năm thứ 3 mà Vơ Bẩm, một vị tướng Bắc Việt Nam và đơn vị vận tải 559 tiến hành mở các tuyến đường xâm nhập vào miền Nam. Họ bắt đầu công việc sau khi Trung ương Đảng có quyết định tháng 5-1959 tăng cường hoạt động vũ trang ở miền Nam. Đối với tướng Bẩm, đó là niềm vinh dự lớn khi được giao nhiệm vụ "tổ chức một tuyến đường quân sự đặc biệt để vận chuyển hàng cho cách mạng miền Nam". 25 năm sau, ông hồi tưởng lại "chưa bao giờ trong cuộc đời binh nghiệp vốn có rất nhiều các nhiệm vụ đặc biệt của ḿnh, tôi lại cảm thấy xúc động như lúc ấy. Tôi biết rằng một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đang chờ đón tôi"(4).
    Cho đến năm 1962, mọi việc diễn ra rất tốt đẹp đối với tưởng Bẩm và đoàn 559. Theo một báo cáo của CIA vào lùa hè năm trước, chỉ riêng trong tháng 6, Hà Nội đă đưa 1.500 lính vào miền Nam. Trong khi con số này rất nhỏ nhoi so với mấy năm sau đó, nhưng vào tháng 6-1961 nó đă gấp đôi tháng trước đó. Báo cáo c̣n bổ sung thêm rằng nếu muốn, Hà Nội có thể dễ dàng tăng cường việc xâm nhập theo đường ṃn(5).
    Hậu quả là t́nh h́nh ở Lào trở thành vấn đề lớn đối với Kenedy. Cần phải làm điều ǵ đó để ngăn cản ḍng vận chuyển. Rostow và Taylor đề nghị có một chiến dịch gồm các lực lượng hỗn hợp của Lào, Thái và Nam Việt Nam phá hoại một số đoạn quan trọng để ngăn chặn sự xâm nhập. Lực lượng đặc biệt của Mỹ sẽ đóng vai tṛ cố vấn. Rostow và Taylor c̣n đề xuất hàng loạt các hoạt động chống lại Bắc Việt Nam, kể cả ném bom(6).
    Kenedy chưa sẵn sàng cho những giải pháp này. Việc can thiệp quân sự vào Lào và ném bom Bắc Việt Nam rơ ràng là không ổn. Ông tuyên bố: "Tôi muốn có một giải pháp đàm phán Tôi không muốn dính líu về quân sự"(7).
    Những cuộc đàm phán được tiến hành ở Giơnevơ 23-7-1962 và kết quả là trung lập hoá Lào. Làm sao có được kết quả này là một câu chuyện dài và phức tạp mà khi nh́n lại th́ kết quả đó thật là thảm hại. Tuy nhiên lúc đó tổng thống ca ngợi hiệp định v́ đă cho phép Mỹ tránh được sự can thiệp quân sự.
    ____________________ ____________________ _
    1. Một sử gia của giai đoạn này viết rằng Taylor đă bỏ qua nhiều sĩ quan có kinh nghiệm. Những người này bao gồm chuẩn tướng William Yarborough, Giám đốc trung tâm chiến tranh đặc biệt ở Fort Bragg, đại tá William Peers người có kinh nghiệm về chiến tranh du kích từ OSS, và chuẩn tướng William Rossom, người trở thành trưởng pḥng chiến tranh đặc biệt thuộc Hội đồng tham mưu trưởng liên quân. Xem Andrew Krepinevich, "Quân đội và Việt Nam”. Batimore, Nhà xuất bản Trường đại học Johns Hoppkins 1986, trang 64-65.
    2. Xin trích Clausewitz "đó là những nơi mà nỗ lực của chúng ta cần hướng tới. Nếu đối phương bị mất thăng bằng, không để chúng có cơ hội phục hồi. Các cú đánh nối tiếp nhau phải được nhằm vào cùng một hướng”. Xem Carl Clausewitz, "Về chiến tranh", Nhà xuất bản trường Đại học Princeton, New York năm 1976, trang 595-597.
    3. John M. Collins, "Địa quân sự”, Nhà xuất bản Bassey's. Washington, năm 1998, trang 367.
    4. Vơ Bẩm , "Mở đường Ṃn”, trang 9.
    5. Thư viện Kenedy, Hồ sơ về an ninh quốc gia, phần hồ sơ về Việt Nam, hộp số 193, thông tin này nêu trong "Báo cáo thực điạ của CIA”.
    6. Sđd, Hồ sơ về An ninh khu vực Đông Nam Á, hộp 231A, xem “tờ tŕnh của Rostow và Taylor lên Kenedy”.
    7. Trích dẫn theo Walter Isaacson và Evan Thomas trong "Những người đàn ông khôn ngoan: sáu người bạn và thế giới do họ tạo ra”. Nhà xuất bản Simon và Schutter, 1986, trang 616.
    Nhân vật chính của hiệp định Giơnevơ là W. Averel Harriman. Sinh ra trong một gia đ́nh thuộc loại nổi tiếng và giàu có nhất nước Mỹ, Harriman kiếm được khoản tiền lớn trong chiến tranh thế giới thứ hai thông qua Công ty tàu biển. Vào giữa những năm 1920, ở tuổi 34 ông làm chủ đội tàu hàng lớn nhất nước Mỹ. Trong những năm 1930, ông mở rộng lănh địa của đế chế xe lửa của cha ḿnh và trở thành chủ tịch của Công ty Central ở Illinois năm 1931 và Pacific Union năm 1932.
    Chiến tranh thế giới thứ hai đă đưa Harriman vào chính quyền, và ông đă bắt đầu một sự nghiệp 40 năm với tư cách là một nhà ngoại giao đầy quyền lực và có tính độc lập. Trong chiến tranh, ông đại diện cho Chương tŕnh "thuê mượn" cho Anh và Nga, là đặc phái viên của tổng thống Roosevelt bên cạnh thủ tướng Churchill và Joseph Stalin. Năm 1943, Harriman được cử làm đại sứ tại Matxcơva. Và đây là điểm khởi đầu cho sự quan tâm của ông đến quan hệ Mỹ-Xô và tự cho rằng ḿnh biết cách đối phó với người Nga. Sau chiến tranh, Harriman giúp h́nh thành chính sách ngoại giao của Mỹ trong những năm đầu của chiến tranh lạnh. Năm 1948, ông được tổng thống Truman cử làm đại diện chính thức của Mỹ tại châu Âu về kế hoạch Marshall và năm 1951, đại diện của Mỹ tại NATO.
    Trong chính quyền, Harriman nổi tiếng là một người đấu tranh không khoan nhượng và độc đoán. Người nào mắc phải việc ǵ đó với ông chắc chắn sẽ gặp phiền hà lớn. Phương pháp tiến hành đàm phán của ông được nhân viên mô tả là "tra tấn bằng nước. Ông ta nhắc đi nhắc lại luận điềm của ḿnh cho đến khi đối phương nhượng bộ". Sau khi quan sát Harriman làm việc, Mac Bundy gọi ông là "cá sấu ". “Con cá sấu chỉ nằm ườn ở bên bờ sông, mắt khép hờ, trông như ngái ngủ. Rồi đột nhiên nó nhảy lên ngoạm một miếng”. Từ đó biệt danh này gắn liền với ông. "Boby Kenedy tặng Harriman một con cá sấu vàng, c̣n nhân viên th́ tặng một con bằng bạc với ḍng chữ đề tặng: từ những nạn nhân của ngài"(1).
    Mặc dù giàu kinh nghiệm ngoại giao, Harriman không có vị trí ǵ lớn trong chính quyền mới. Đầu tiên, ông giữ một chức vụ vô thưởng vô phạt là Đại sứ lưu động, một chức vụ chẳng có quyền hành ǵ ở Washington. Tháng 10-1961, Kenedy bổ nhiệm ông là trợ lư ngoại trưởng về các vấn đề Viễn Đông. Đây chính là bộ phận bị tác động nặng nề nhất trong thời kỳ McCarthy. Dẫu sao, Trung Quốc đă bị mất. Khi nhận chức, Harriman mô tả cơ quan là "một vùng đất hoang... một thảm hoạ đầy những xác chết."(2).
    Việc Harriman dính líu vào Lào gần như là ngẫu nhiên. Lào không phải là vấn đề mà ông quan tâm. Nhưng ông coi việc này là con đường đưa ông trở lại quyền lực: tổng thống đang muốn có giải pháp đàm phán và Harriman mang lại điều đó. Ông được ban thưởng bằng việc bổ nhiệm giữ chức thứ trưởng ngoại giao phụ trách các vấn đề chính trị.
    Lào ở trong t́nh trạng phức tạp và rối rắm. Đất nước này giành độc lập từ người Pháp sau hội nghị Giơnevơ 1954 nhưng ngay sau đó rơi vào cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa Lào cộng sản do Hoàng thân Xuphanuvông lănh đạo và chính phủ hoàng gia Lào do Hoàng thân Xuvanna Phuma, người anh cùng cha khác mẹ với Xuphanuvông. Nhưng cuộc tranh giành này không dừng lại trong phạm vi gia đ́nh. Hà Nội hậu thuẫn Xuphanuvông, Mỹ giúp Xuvanna Phuma. Từ 1954-1958, Pathet Lào, vốn chỉ kiểm soát hai tỉnh phía đông bắc Lào, t́m cách mở rộng thế lực, trong khi chính phủ cố giành lại những khu vực này. Năm 1959, t́nh trạng đối địch ngày càng tăng khi phe cộng sản với sự giúp sức của Hà Nội tấn công một số vị trí tiền tiêu ở đông bắc Lào.
    Từ 1959-1962, xung đột đă trở thành cuộc nội chiến. Giai đoạn này c̣n được đánh dấu bởi các cuộc đảo chính liên tiếp trong chính phủ hoàng gia Lào làm nảy sinh nhóm trung lập do Hoàng thân Xuvanna Phuma lănh đạo và nhóm cánh hữu do tướng Phumi Nôxavẳn cầm đầu. Viên tướng này cướp chính quyền tháng 3-1961, Hoàng thân Phuma chạy sang Campuchia. Đầu năm 1962, Phuma thành lập căn cứ tại Cánh đồng Chum ở Trung Lào.
    Việc tranh giành này đă giúp củng cố vị trí của Pathet Lào và Hà Nội. Những người theo phái trung lập đă t́m thấy lợi ích khi liên minh với Pathet Lào. Ngay sau đó, Matxcơva đă nhảy vào cuộc, lấy danh nghĩa công khai là ủng hộ phe Suvanna Phuma, người đă đề nghị Liên Xô giúp đỡ sau khi Mỹ ngừng viện trợ cho chính phủ của ông và doạ rút cố vấn quân sự ngay trước khi Phumi nắm quyền lực. Liên Xô đă lợi dụng lời mời này để cung cấp viện trợ cho các lực lượng Bắc Việt Nam và Pathet Lào. Phái trung lập chỉ nhận được những ǵ c̣n lại sau khi Bắc Việt Nam và Pathet Lào lấy đi phần của ḿnh. Số đó chẳng nhiều nhặn ǵ.
    Đó là t́nh h́nh khi Harriman vào cuộc. Ông tin Xuvanna Phuma là yếu tố chủ chốt của một giải pháp đàm phán. Harriman thúc giục cả ba bên chấp nhận về nguyên tắc thành lập chính phủ hoà giải dân tộc, và tháng 12-1961, Hội nghị Giơnevơ thông qua bản tuyên bố tạm thời về trung lập. Vấn đề lớn nhất đối với Harriman, theo David Halberstam trong cuốn "Những người xuất sắc và thông minh nhất", là "cố thuyết phục người Xôviết rằng họ gần như chẳng mất ǵ" khi chấp nhận giải pháp trung lập. Halberstam nhận xét là ngay cả Harriman cũng cho đó quả là một công việc khó(3). Khi hồi tưởng lại, mọi người có thể tự hỏi phải chăng Matxcơva không hiểu ư nghĩa của việc Lào trung lập hay chính Harriman và chính quyền Washington không hiểu, trong khi hai trong số ba bên của giải pháp là đông minh của Liên Xô. Điều không kém phần quan trọng là trong khi Mỹ công khai mang lại sự kết thúc nhanh chóng cho cuộc khủng hoảng ở Lào, họ đă không ngăn cản tướng Bẩm và đoàn 559 tiếp tục làm việc trên con đường Hồ Chí Minh.
    Tháng 6-1962, các bên của Lào gặp nhau tại Cánh đồng Chum để thảo ra bản hiệp định và thành lập chính phủ liên hiệp thống nhất dân tộc. Hiệp định này có hiệu lực ngày 23-6, và Lào được tuyên bố trung lập ngày 6-7. Theo Hiệp định mọi lực lượng nước ngoài: Mỹ, Liên Xô, Việt Nam phải rút khỏi Lào.
    Uỷ ban kiểm soát quốc tế, có trách nhiệm giám sát các cửa khẩu rút quân đội nước ngoài ở Lào, chỉ ghi nhận việc rút 40 người thuộc Bắc Việt Nam. Theo ước tính có đến 10 000 bộ đội Việt Nam tại Lào(4), không kể đoàn 559 của tướng Bẩm. Trên thực tế, chính quyền Kenedy đă nhường Lào và việc sử dụng thoải mái đường ṃn Hồ Chí Minh cho Hà Nội. Các báo cáo t́nh báo cho biết vào mùa xuân 1963, quân đội Bắc Việt Nam đă đẩy lùi lực lượng tướng Phumi ra xa mạng lưới đường ṃn đang mở rộng, và các đoàn xe tải tiếp tục chở hàng cung cấp dọc theo tuyến đường. Ở Sài G̣n, tướng Harkin t́m cách làm giảm ư nghĩa của việc này bằng cách cho đây là sự đồn đoán vô căn cứ.(5).
    ____________________ ____________________ __
    1. Những người dàn ông khôn ngoan, Sđd, trang 618.
    2. Trích theo Halberstam, "Những người xuất sắc và thông minh nhất” trang 189.
    3. Halberstam, "Những người xuất sắc và thông minh nhất", trang 92.
    4. John M. Newman. "JFK và Việt Nam: Lừa dối, âm mưu và tranh giành quyền lực” Nhà xuất bản Warner Book, New York, trang 296.
    5. Jon M. Newnlan, Sđd, trang 14.
    Trong khi sự "trung lập" của Lào đang được đàm phán năm 1962, chương tŕnh hoạt động ngầm của CIA chống Bắc Việt Nam đang được ráo riết tiến hành. Bộ phận hành động Bắc Việt Nam thuộc trung tâm CIA ở Sài G̣n do Gilbert Layton lănh đạo chỉ có một số ít nhân viên. Trong số đó có một vài người như Lucius, Conein, Tucker Gougelmann sau này đă trở thành huyền thoại. Trưởng trung tâm Sài G̣n lúc bấy giờ là Bill Colby, một ngôi sao đang lên của CIA. Vốn là cựu nhân viên OSS, Colby đă cộng tác với phong trào kháng chiến Pháp trong chiến tranh thế giới thứ hai. Kinh nghiệm đó đă cho ông thấy giá trị của hoạt động ngầm. Cũng giống như các nhân viên CIA đương đại, Colby học tại các trường thuộc Ivy League - chỉ các trường đại học ở bờ Đông nước Mỹ. Tốt nghiệp đại học ở trường Princeton, ông nhận bằng luật tại trường đại học Colombia sau chiến tranh thế giới thứ hai. Colby đă làm luật sư về lao động trước khi gia nhập CIA năm 1950. Vào năm 1959, ông là trưởng trung tâm CIA ở Việt Nam. Sau đó ông được bổ nhiệm là Trưởng pḥng Viễn Đông thuộc Cục kế hoạch. Colby giải thích rằng mục đích của chương tŕnh bí mật là "làm tăng t́nh h́nh mất an ninh ở Bắc Việt Nam tương xứng với t́nh h́nh mất an ninh họ tạo ra ở miền Nam." Như Colby nhớ lại, Kenedy đă tiếp nhận ư tưởng này(1).
    Các hoạt động này kèm theo những ǵ? Mức độ tập trung ra sao? Hà Nội có cảm thấy rơ hơn về an ninh nội bộ trong năm 1962 không? Theo Colby, chương tŕnh hoạt động ngầm trong hai năm 1961-1963 rất khiêm tốn. Chương tŕnh này bao gồm "các toán gián điệp xâm nhập vào miền Bắc". Khi được hỏi về mục đích, Colby cho biết: ư nghĩ ban đầu của ông là "thành lập một căn cứ cho hoạt động của phong trào chống đối". Tuy nhiên, đó không phải là nhiệm vụ mà ông thực sự giao cho họ. Đầu tiên, các toán gián điệp này có nhiệm vụ thu thập t́nh báo. Sang năm 1962, họ khuyển sang nhiệm vụ phá hoại và quấy rối. Vào năm sau, các toán gián điệp được giao nhiệm vụ tiến hành chiến tranh tâm lư.
    Cho dù với nhiệm vụ ǵ đi nữa, kết quả đều giống nhau. Tất cả đều thất bại. Bắc Việt Nam không phải là nước Pháp, như Colby sau đó đă nhận ra. Hơn 30 toán gián điệp và các điệp viên đơn tuyến được cử xâm nhập miền Bắc qua đường biển, đường không và đường bộ trong giai đoạn 1961-1963. Rất nhiều người trong số điệp viên là người miền Bắc di cư vào Nam theo các điều khoản cho phép tái định cư của Hiệp định Giơnevơ năm 1954. Trong sổ ghi sự kiện của CIA, bên cạnh mă hiệu của từng toán thường có ḍng chữ: "bị bắt ngay sau khi tiếp đất", "bị bắt làm gián điệp đôi, bị tiêu diệt", “không có liên lạc, mất liên lạc"(2). Trong thực tế vào năm 1963, chỉ c̣n bốn toán và một điệp viên được coi là c̣n hoạt động ở miền Bắc. Số c̣n lại đă chết, đang ở trong nhà tù, hoặc hoạt động dưới sự kiểm soát của đối phương.
    Điều này gợi nhớ lại những hoạt động ở các địa bàn bị từ chối trong quá khứ, như Colby sau này đau xót nhắc lại "Anh biết đấy, chúng tôi tham gia hỗ trợ một tổ chức chống đối Ba Lan mà không ngờ tổ chức này hoàn toàn giả tạo. Người Đông Đức nói rằng rất nhiều trong số điệp viên của Mỹ là do họ điều khiển. Người Cu Ba gần đây cũng nói như vậy. V́ vậy, Việt Nam cũng không phải là một câu chuyện hay ho ǵ”(3).
    Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự bất hạnh của CIA ở Bắc Việt Nam, mà phần lớn trong số đó là do sự không thích ứng của CIA. Trước hết, CIA không phải là người tuyển chọn điệp viên cho từng toán. Đối tác Nam Việt Nam chịu trách nhiệm tuyển chọn trong số dân miền Bắc hiện đang sống ở miền Nam. Việc kiểm soát chất lượng là vấn đề lớn. Thứ hai, các toán được xâm nhập rải rác khắp miền Bắc mà không hề tính toán tới khả năng tập trung họ vào một vùng nhất định sau đó mới mở rộng. Không hề có nhân tố thân thiện trong các địa bàn mà các toán xâm nhập. Những chuyến xâm nhập này được "thả tù mù”, v́ theo Colby "không có ǵ để giúp cho việc xâm nhập. Không có mạng lưới t́nh báo (tại chỗ ở miền Bắc)"(4). Hơn nữa, một số toán nhảy dù vào vùng xa và không có tầm quan trọng, những nơi mà riêng việc tồn tại được đă rất khó khăn. Thứ ba, các toán đều phụ thuộc vào việc cung cấp qua đường không. Với điều kiện vật chất hạn hẹp của ḿnh, điều này rất khó đối với CIA. Thứ tư, các toán không được trang bị tốt về giấy tờ giả để thoát thân trong môi trường an ninh được kiểm soát ở miền Bắc. Cuối cùng, có những vấn đề nghiêm trọng liên quan đến yếu tố an ninh của các chiến dịch. Một số người nghi rằng, các hoạt động này đă bị t́nh báo Bắc Việt Nam xâm nhập.
    Đây không phải là những điều mà tổng thống Kenedy mong đợi. Khi nhắc lại những hoạt động này Herb Weisshart cho rằng kết quả đó không có ǵ đáng ngạc nhiên: các toán "không được mời đến, ở đó không có phong trào chống đối nào cả... Lư do cơ bản là môi trường hoạt động không dễ dàng cho các điệp viên thâm nhập. Không có ai để móc nối và bắt đầu hoạt động chống đối. Dĩ nhiên không thể làm được những ǵ chúng ta mong muốn."(5). Bắc Việt Nam không phải là nước Pháp trong chiến tranh thế giới thứ hai mà giống như các địa bàn bị từ chối ở các nước cộng hoà Ban Tích, Ba Lan, Anbani, và Ucraina. Tuy nhiên, có một khác biệt lớn giữa Việt Nam và các nước khác thuộc khối cộng sản vào những năm 1950 mà Weisshart không đề cập tới: Hà Nội đang trong chiến tranh với một siêu cường.

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P4




    Ngoài các toán gián điệp, Trung tâm CIA ở Sài G̣n thực hiện một số hoạt động quy mô nhỏ dọc theo bờ biển Bắc Việt Nam. Ngay trong hoạt động này, nhiệm vụ của bộ phận hành động của Tucker Gougelman luôn thay đổi. Đầu tiên, nhiệm vụ này là trinh sát và thu thập tin tức t́nh báo và một thời gian ngắn sau đó bổ sung thêm nhiệm vụ tung các toán gián điệp theo đường biển. Năm 1962, nhiệm vụ này là quấy rối và tập kích phá hoại. Gougelman, người phụ trách các hoạt động trên biển, nguyên là lính thuư đánh bộ đă từng bị thương nặng tại Thái B́nh Dương trong chiến tranh thế giới thứ hai. Khi là nhân viên CIA, Gougelman đă tiến hành các hoạt động tại địa bàn bị từ chối ở các nước Đông Âu trong những năm 1950 trước khi chuyển sang Việt Nam. Nhưng theo đô đốc Harry D. Felt, tư lệnh Thái B́nh Dương, th́ các hoạt động do Gougelman điều hành chống lại Bắc Việt Nam quá nhỏ bé và mức độ thành công cũng rất khiêm tốn. Lúc đó, Felt tin rằng hoạt động ngầm chống lại Hà Nội sẽ có kết quả và buộc Hà Nội ngừng hỗ trợ hoạt động nổi loạn ở miền Nam. Nhưng để đạt được điều đó cần phải làm nhiều hơn những “hoạt động phá hoại ở hải phận phía Bắc hiện tại v́ những hoạt động này không đủ nhanh và được trang bị vũ khí cần thiết" để tạo ra tác động mong muốn. Theo quan điểm của ông "những người vạch kế hoạch của CIA không được huấn luyện phù hợp để tiến hành các phi vụ loại này."(6). Vào cuối năm 1962, các phi vụ Bắc tiến của mảng hoạt động trên biển trong chương tŕnh của CIA nhận được các tàu phóng lôi. Năm sau, có thêm tàu tuần tiễu Na Uy, có tên "Nasty". Nhưng hoạt động này có quy mô không lớn và nhiều lắm cũng chỉ gây ra những khó chịu nhỏ cho Hà Nội. Vào cuối năm 1962, mọi thứ đă quá đủ với Colby. Ông vạch kế hoạch chuyển trọng tâm hoạt động ngầm chống lại miền Bắc của CIA sang hoạt động chiến tranh tâm lư mà đến thời điểm đó vẫn bị coi nhẹ. Ông kết luận, "hoạt động gián điệp không hiệu quả. Lập luận của tôi là nếu chúng ta dành nỗ lực đúng mức vào hoạt động chiến tranh tâm lư bao gồm đài phát thanh và những thứ tương tự, bạn có thể tạo ra tác động v́ những người cộng sản thường rất nhậy cảm với mối nguy hiểm của sự chống đối và nếu bạn tạo cho họ có ấn tượng rằng có một nhóm đối lập trong hàng ngũ của họ, th́ điều đó sẽ làm cho họ phát điên."(7).
    Herb Weisshart được cử đến Sài G̣n để lănh đạo hoạt động chiến tranh tâm lư. Ông đă từng thực hiện các hoạt động tương tự đối với các mục tiêu khác. "Hầu như mọi thứ chúng ta làm chống lại miền Bắc đều đă thực hiện ở đâu đó”. Khi đến Sài G̣n Weisshart thấy rằng "chưa hề có một hoạt động chiến tranh tâm lư nào, họ giao cho tôi làm kế hoạch". Kế hoạch này bao gồm "tăng cường thả truyền đơn, các chương tŕnh phát thanh" và tạo ra một phong trào chống đối giả có tên "Gươm thiêng ái quốc" của Liên đoàn những người yêu nước. Theo Weisshart, mục đích của chương tŕnh chiến tranh tâm lư là "xem chúng ta có thể làm được ǵ để buộc Bắc Việt Nam phải dành ra một phần nguồn lực và phải lo lắng về những ǵ chúng ta đang làm ở hậu phương của họ"(8 ).
    Như vậy, khi năm 1962 sắp kết thúc, chương tŕnh hoạt động ngầm của CIA chống lại Bắc Việt Nam vẫn đang ỳ ạch, c̣n xa mới đạt được những ư định của Kenedy. Thật khó làm cho Hà Nội lo ngại về an ninh nội bộ của ḿnh bằng những hoạt động như vậy. Và điều đó không qua được mắt CIA. Cơ quan này chuẩn bị một kế hoạch hoạt động ngầm khác chống Bắc Việt Nam và gửi cho tổng thống tháng 1-1963, nhưng Mac Bundy nghi ngờ khả năng thực hiện kế hoạch đó. Bundy nói với Kenedy "không có đủ cơ sở để tin rằng việc thực hiện kế hoạch này sẽ không gặp phải những khó khăn mà CIA đă từng đối mặt tại các địa bàn bị từ chối"(9).
    ____________________ ____________________
    1. Phỏng vấn do tác giả thực hiện với William Colby trong “MACVSOG: lịch sử qua phỏng vấn với các nhân viên phục vụ trong MACVSOG OP34”.
    2. Hội đồng tham mưu liên quân (JCS), “Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Việt Nam. Nhóm nghiên cứu và quan sát (MACVSOG) tài liệu nghiên cứu tháng 7-1970, phụ lục C và B "hoạt động không vận”, trang 63-65.
    3, 4. Phỏng vấn do tác giả thực hiện với William Colby đăng trong "MACVSOG: lịch sử qua phỏng vấn với các nhân viên phục vụ trong MACVSOG OP34”. Chương tŕnh nghiên cứu an ninh quốc tế, Trường luật và ngoại giao Fletcher, tháng 7-1996, trang 10, 15
    5. Phỏng vấn do tác giả thực hiện với Herb Weisshart, đăng trong “MACVSOG: lịch sử qua phỏng vấn với các nhân viên phục vụ trong MACVSOG OP34" Chương tŕnh nghiên cứu an ninh quốc tế, Trường luật và ngoại giao Fletcher, tháng 7-1996, trang 7.
    6. Edward Marolda và Osca Fitzgerald, “Hải quân Hoa Kỳ và cuộc xung đột Việt Nam", Trung tâm lịch sử hải quân, Washington DC, 1986, trang 203.
    7. Phỏng vấn do tác giả thực hiện với William Colby đăng trong “MACVSOG: lịch sử qua phỏng vấn với các nhân viên phục vụ trong MACVSOG OP34". Chương tŕnh nghiên cứu an ninh quốc tế, Trường luật và ngoại giao Fletcher, tháng 7-1996, trang 13.
    8. Phỏng vấn do tác giả thực hiện với Herb Weisshart, đăng trong “MACVSOG: lịch sử qua phỏng vấn với các nhân viên phục vụ trong MACVSOG OP34". Chương tŕnh nghiên cứu an ninh quốc tế, Trường luật và ngoại giao Fletcher, tháng 7- 1996, trang 5.
    9. Trích theo Ban biên tập của Công ty xuất bản Boston, “Chiến tranh trong bóng tối”, Boston năm 1988. trang 48.
    LẦU NĂM GÓC NHẬN NHIỆM VỤ OPLAN 34A VÀ VIỆC H̀NH THÀNH MACVSOG
    Tháng 7-1962, McNamara tổ chức một cuộc họp tại Hawai với các quan chức của Bộ Quốc pḥng, Bộ chỉ huy Thái B́nh Dương, CIA, Bộ Ngoại giao và MACV để xem xét việc quân đội tiếp nhận các hoạt động bán quân sự ở Việt Nam theo chỉ thị 57. Quá tŕnh bàn giao các chương tŕnh bán quân sự này mang mật danh “chiến dịch Switchback".
    Tại cuộc họp, tướng Harkin nói với McNamara một cách tin tưởng rằng "Chúng ta đang ở phía giành chiến thắng. Nếu các chương tŕnh được tiếp tục, các hoạt động của Việt Cộng sẽ suy giảm"(1). Tiếp theo ông tóm tắt những tiến bộ thu được từ các chương tŕnh ấp chiến lược, hoạt động của Quân đội Việt Nam cộng hoà, việc huấn luyện lực lượng pḥng vệ dân sự và bảo an,v.v... McNamara tỏ ra phấn khởi và nhận xét rằng "sáu tháng trước, hầu như chúng ta không có tin tức ǵ tích cực, từ đó đến nay chúng ta đă đạt được những tiến bộ to lớn". Ông hỏi Harkin c̣n bao lâu nữa th́ "Việt Cộng bị tiêu hao đến mức chỉ c̣n là lực lượng không đáng kể". Người đứng đầu MACV đă trả lời "dự kiến mất khoảng một năm sau khi quân đội Việt Nam cộng hoà đạt đến mức hoạt động tối đa và gây sức ép đối với Việt Cộng ở mọi nơi". Đây quả là tin tốt lành và bước ngoặt lớn. Tuy nhiên McNamara tỏ ra thận trọng hơn Harkin, cho rằng cần phải mất khoảng ba năm để quân đội Việt Nam trở nên "hoạt động tối đa" và kết liễu Việt Cộng"(2). Như vậy, và như các số liệu thống kê đă chứng minh, Hoa Kỳ đang đi đúng hướng.
    Suy nghĩ ảo tưởng và sự lạc quan không đúng chỗ của Harkin lây lan nhanh chóng. Điều này sớm được phản ánh trong báo cáo của đại diện quân sự của tổng thống, tướng Max Taylor. Vừa từ Việt Nam trở về tháng 9 năm 1962, Taylor đă tŕnh bày một bản ca ngợi thành tích và tuyên bố rằng "đă đạt nhiều tiến bộ kể từ chuyến thăm của tôi tháng 10 năm 1961"(3). Trong khi chứng cứ cho thấy điều ngược lại, nhất là từ các sĩ quan lục quân Hoa Kỳ là cố vấn cho các đơn vị quân đội Việt Nam cộng ḥa ở vùng nông thôn cũng như từ báo cáo của CIA. Năm 1962 kết thúc với việc McNamara, Harkin, Taylor tất cả đều phấn khởi v́ những tiến bộ ở Việt Nam. Họ đă tự lừa dối ḿnh: Mỹ không đang giành thắng lợi.
    Điều này là rơ ràng đối với các cố vấn quân sự Mỹ, những người theo dơi rất sát t́nh h́nh. Việt Cộng không tỏ ra sợ hăi quân đội Việt Nam cộng loà. Điều này được minh chứng bằng trận ấp Bắc tháng 12 năm 1962. Tại đồng bằng sông Mê Công, cách Sài G̣n 40 dặm về phía tây nam, ba đại đội Việt Cộng cố thủ dọc theo chiến hào dài một dặm giữa ấp Bắc và ấp Tân Thới. Trung đoàn 7 của quân đội Việt Nam cộng hoà được trang bị bằng súng tự động và xe bọc thép và được hỗ trợ bằng máy bay ném bom và máy bay trực thăng, tấn công vào các vị trí pḥng thủ của Việt Cộng nhưng bị đẩy lùi bởi khoảng 300 du kích. Cuộc chiến kết thúc vào tháng 1-1963 bằng việc Việt Cộng rút lui một cách an toàn. Âp Bắc là một thất bại ê chề. Thất bại này cho thấy t́nh trạng chỉ huy kém cỏi và tinh thần chiến đấu rệu ră của quân đội Việt Nam cộng hoà. Một trung đoàn quân chính quy mà không thể chiến thắng tinh thần chiến đấu của 300 Việt Cộng. Ấp Bắc đă phủ bóng đen lên luận điểm rằng Mỹ và Nam Việt Nam đang giành thắng lợi.
    Tiếp sau đó là cuộc chiến về các báo cáo t́nh báo. Ngày 11 tháng 1, Văn pḥng tin tức t́nh báo của CIA đưa ra báo cáo "T́nh h́nh cuộc chiến tranh ở Việt Nam" cho rằng "thuỷ triều vẫn chưa bị đẩy lùi. Nam Việt Nam đă có một số tiến bộ nhưng chủ yếu là do sự hỗ trợ mạnh mẽ của Mỹ. Tuy nhiên Việt Cộng tiếp tục mở rộng và tận dụng tính hiệu quả của ḿnh và ngày càng trở nên mạnh bạo hơn trong các cuộc tấn công". Bản báo cáo đưa ra kết luận rằng t́nh trạng hiện tại là bế tắc, nhưng nhận định này không hề được các cơ quan khác chấp nhận. Bản báo cáo đă đưa ra một bức tranh trong đó Việt Cộng đang gia tăng thách thức c̣n chính phủ Nam Việt Nam th́ đang đối phó với thách thức đó một cách rất khó khăn.
    Forrestal, một nhân viên của Hội đồng an ninh quốc gia, c̣n vẽ ra cho tổng thống một bức tranh ảm đạm hơn. Là con trai của Bộ trưởng Quốc pḥng đầu tiên, Forrestal từng là trợ lư cho Harriman về kế hoạch Marshall. Tốt nghiệp trường Luật Harvard, Forrestal làm việc ở phố Uôn (Wall) trước khi đến làm việc tại Hội đồng an ninh quốc gia về vấn đề Việt Nam. Cuối tháng 12-1962, tổng thống Kenedy đă cử ông sang Việt Nam để nắm t́nh h́nh tại chỗ. Ngày 11-2-1963, Forrestal cho tổng thống biết rằng chiến tranh sẽ rất tốn kém và kéo dài. Ông không tin các số liệu thống kê của MACV về thương vong của Việt Cộng được sử dụng để chứng minh sự thắng thế của Mỹ. Ông chỉ ra rằng không ai có thể biết rơ rằng trong số 20.000 Việt Cộng bị chết vào năm ngoái có bao nhiêu là người vô tội hoặc chỉ là những người dân ấp có thiện cảm với Việt Cộng. Hơn nữa, Việt Cộng có thể tuyển mộ người thay thế số thương vong một cách dễ dàng. Forrestal cũng đặt câu hỏivề số lượng ấp chiến lược đă được xây dựng thành công. Chương tŕnh này là trọng điểm cho nỗ lực của Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam. Mục đích của chương tŕnh là tái định cư dân chúng ở nông thôn vào các ấp tập trung và được bảo vệ để chống lại ảnh hưởng và hoạt động tuyển lựa hoặc tấn công của Việt Cộng. Theo Forrestal, chương tŕnh này có rất nhiều nhược điểm. Chương tŕnh đă tạo ra sự căm ghét của những người dân bị di dời, không đảm bảo đủ an ninh để chống lại Việt Cộng, thêm vào đó t́nh trạng tham nhũng cũng như quản lư yếu kém của các quan chức của Nam Việt Nam là rất phổ biến(4).
    ____________________ ____________________ __
    1, 2. “Hồ sơ hội nghị Bộ trưởng Quốc pḥng lần thứ sáu, Trại Smith, Hawai. 23-7-1962” trong FRUS. 1961-1963: Việt Nam. tập 2. tr. 546, 548 - 549.
    3. “Báo cáo của đại diện quân sự của tổng thống" trong sđd trên, trang 660
    4. "Tờ tŕnh của Giám đốc Văn pḥng t́nh báo và nghiên cứu (Roger Hilsman) và Micheal V. Forrestal của Hội đồng an ninh quốc gia lên Tổng thống" trong sđd trên, trang 49-62.
    Hai tháng sau, bản Báo cáo t́nh báo quốc gia về Việt Nam đă sửa đổi của CIA đưa ra đánh giá khác với Forrestal. Được công bố ngày 17-4, bản báo cáo này cho rằng "tiến bộ của cộng sản đă bị đẩy lui và t́nh h́nh đang được cải thiện". V́ bản thảo đầu tiên tỏ ra quá bi quan, Giám đốc CIA John McCone đă "phê phán bản báo cáo và gửi trả lại ban soạn thảo”(1). Khi được viết lại, bản báo cáo đă mang âm hưởng lạc quan. Taylor, Harkins, Rostow, Krulak và các thành viên khác của chính quyền đều là những người theo chủ nghĩa lạc quan và McCone muốn bảo đảm rằng Báo cáo t́nh báo quốc gia phải phù hợp với đánh giá tích cực của họ đối với t́nh h́nh. Ở cấp thấp hơn, những người tham gia trực tiếp vào thực tế chiến trường ở Việt Nam lại có cách nh́n nhận hoàn toàn khác. Sự không nhất quán trong Báo cáo t́nh báo quốc gia, sự khác biệt giữa đánh giá của Forrestal với của McNamara và Taylor cho thấy sự bất đồng quan điểm ở các cấp trong chính quyền vào đầu năm 1963.
    Ngay sau khi những đánh giá lạc quan của Báo cáo t́nh báo quốc gia 53-63 được đưa ra, t́nh h́nh chính trị ở Nam Việt Nam trở nên hỗn loạn. Căn cứ theo một đạo luật cũ của Pháp cấm phật tử treo cờ nhiều màu, viên phó tỉnh trưởng người Thiên Chúa giáo ra lệnh cho quân lính xả vào hai muơi ngh́n phật tử đang kỷ niệm ngày Phật đản ở Huế. 9 phật tử bị chết và khoảng 20 người bị thương. Sự kiện Huế phơi bày một điểm yếu nữa của chính phủ Sài G̣n. Diệm và gia đ́nh là những người theo đạo Thiên Chúa. Trong khi ở miền Nam đa số dân chúng theo đạo Phật, phần lớn các vị trí chủ yếu trong bộ máy hành chính, quân sự và cơ quan cảnh sát lại là người công giáo. Tôn giáo trở thành con đường tiến thân và tạo ảnh hưởng chính trị. Phản ứng lại xu hướng thân công giáo, phật tử h́nh thành tổ chức chính trị đối lập chống chính phủ Diệm vào cuối những năm 1950. Vào năm 1963, tổ chức này đă phát triển thành một phong trào chính trị quan trọng.
    Rơ ràng Diệm muốn giấu nhẹm sự kiện ở Huế bằng việc đổ lỗi cho Việt Cộng nhưng không được. Lănh đạo phật giáo bác bỏ lập luận của Diệm và đ̣i công lư từ chính phủ. Họ không nhận được điều họ muốn và việc đông đảo phật tử tham gia biểu t́nh đă trở thành cuộc trưng cầu dân ư về sự hợp pháp của chính quyền Diệm. Tại Huế đă diễn ra những cuộc biểu t́nh lớn với những vụ sư tự thiêu để phản đối hành động của chính phủ. Những h́nh ảnh nhà sư tự thiêu trên đường phố Sài G̣n làm cho tổng thống Kenedy choáng váng. Đó là h́nh ảnh khủng khiếp mà cô em dâu của Diệm - bà Nhu - đă đưa vào bàn tiệc bằng tuyên bố phi nhân tính. Bà Nhu đă gọi việc tự thiêu là món "nướng" và sẵn sàng cấp thêm xăng cho ai muốn nấu món này. Trong suốt mùa hè, chồng của bà và là em trai của Diệm đồng thời là người cầm đầu cơ quan cảnh sát đặc biệt ra lệnh tấn công vào chùa chiền. Vào tháng 7, các vị tướng Nam Việt Nam đă cho Lucius Conein, một nhân viên CIA biết rằng họ đang có kế hoạch làm đảo chính.
    Trước nguy cơ việc đổ vỡ từng mảng ở Nam Việt Nam phá hỏng những "tin vui" của năm 1962, chính quyền Mỹ t́m cách giải quyết t́nh h́nh đang nhanh chóng xấu đi. Tại cuộc họp Bộ trưởng Quốc pḥng tổ chức tại Bộ chỉ huy quân sự Thái B́nh Dương ngày 6-5-1963, việc gia tăng hoạt động bí mật chống phá miền Bắc trở thành một nội dung chủ yếu. Hội nghị quyết định gây sức ép đối với miền Bắc. Cuối tháng 5, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân chỉ thị cho Bộ chỉ huy quân sự Thái B́nh Dương gia tăng hoạt động bí mật ở Bắc Việt Nam. Đô đốc Felt giao cho ban tham mưu vạch kế hoạch cho những hoạt động này.
    Nói tóm lại, cuộc khủng khoảng ở Nam Việt Nam vào nửa đầu năm 1963 cùng với sự không hài ḷng của tổng thống đối với khả năng của CIA trong việc thực hiện những hoạt động bán quân sự có quy mô lớn chống lại Hà Nội đă khởi động tiến tŕnh vạch kế hoạch dẫn đến việc mở rộng hoạt động bí mật của Washington ở Đông-Nam Á. Ngày 17-6-1963, Bộ chỉ huy quân sự Thái B́nh Dương đệ tŕnh bản thảo kế hoạch hoạt động lên Hội đồng tham mưu trưởng liên quân. Bản kế hoạch này đề xuất hàng loạt hoạt động ngầm sẽ được thực hiện để chống lại miền Bắc nằm trong một kế hoạch tổng thể mang tên Kế hoạch 34A - được biết đến với tên tiếng Anh là OPLAN34A. Mục đích hoạt động này là buộc giới lănh đạo Hà Nội phải giảm bớt, và khi có thể, chấm dứt sự hỗ trợ đối với hoạt động bạo loạn ở miền Nam.
    Maxwell Taylor, lúc này đă chuyển từ Nhà Trắng sang Lầu Năm Góc để giữ cương vị Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, không phê duyệt ngay mà giữ lại kế hoạch này trong ṿng hai tháng. Tại sao Taylor lại om kế hoạch này cho đến tháng 9, thật là một câu hỏi khó lư giải. Rất có thể là do sự kết hợp của các nguyên nhân sau: (1). T́nh h́nh ở Nam Việt Nam đă đạt đến điểm khủng khoảng và điều này chiếm nhiều thời gian của bên hành pháp, (2). Ngay cả trong trường hợp Taylor muốn nhanh chóng triển khai các đề xuất của Bộ chỉ huy quân sự Thái B́nh Dương, MACV không có bất kỳ một tổ chức bán quân sự nào để thực hiện nhiệm vụ này, (3). Taylor không tin hoạt động ngầm có thể đạt được mục tiêu đề ra và không coi việc thực hiện các hoạt động đó là nhiệm vụ của quân đội. Trái ngược với những ǵ chính quyền Kenedy tính toán, các nguồn lực cần thiết cũng không sẵn có tại Bộ Quốc pḥng, (4). Diệm không quan tâm đến đề nghị này v́ c̣n lo lắng cho sự tồn tại chính trị của chính ḿnh.
    Cuối cùng, bản kế hoạch được Taylor phê duyệt vào ngày 9-9, nhưng lại bị quên lăng thêm hai tháng nứa. Lần này là do những màn kịch chính trị diễn ra trên chính trường Nam Việt Nam mà đỉnh cao là việc ám sát Ngô Đ́nh Diệm ngày 1-11-1963 cũng như sự hoài nghi của Taylor đối với hiệu quả của các biện pháp chiến tranh đặc biệt. Kế hoạch 34A của Bộ chỉ huy quân sự Thái B́nh Dương được đưa vào chương tŕnh nghị sự của một cuộc họp đặc biệt về Việt Nam tổ chức tại Honolulu do McNamara chủ tŕ ngày 20-11-1963, hai ngày trước khi Kenedy bị ám sát. Với những diễn biến trong 11 tháng trước đó, không khí cuộc họp thật ảm đạm. Ngoài việc t́m ra những biện pháp tiến hành chiến tranh hiệu quả hơn với Hội đồng cách mạng quân sự của các viên tướng miền Nam đă thay thế Diệm,cuộc họp thảo luận cách củng cố sự phối hợp giữa MACV và CIA và mở rộng hoạt động bí mật chống lại miền Bắc.
    Quan hệ giữa CIA và MACV trở nên căng thẳng xung quanh chiến dịch "Switchback". Chính quyền Kenedy một lần nữa kết luận rằng CIA không đủ khả năng hoạt động chống lại các địa bàn bị từ chối và rằng đă đến lúc phải thay đổi điều đó. Và lần này Bộ Quốc pḥng cũng tin như vậy. McNamara cho rằng họ có thể mang lại kết quả tốt hơn. Những ǵ cần ở đây là một nỗ lực rộng khắp chứ không phải các hoạt động hạn hẹp mà CIA thực hiện. Colby, người cũng dự cuộc họp này, đă cố gắng làm thay đổi ư kiến đơn giản cho rằng chỉ cần bổ sung thêm nguồn lực sẽ có thể làm thay đổi đáng kể t́như thế. Ông kết luận hoạt động ngầm, bất kể quy mô hoạt động như thế nào, chống lại Bắc Việt Nam đều không thể thành công. Và chính điều này đă làm ông, khi giữ cương vị Cục trưởng Cục Viễn Đông của CIA, đă giới hạn các hoạt động ngầm trong phạm vi chiến tranh tâm lư.
    Colby nhớ lại, tại cuộc họp đó "thái độ chung của phía quân sự là CIA làm quá ít và quá ́ ạch. Một nhúm điệp viên, vài chuyến bay trên bầu trời miền Bắc không phản ánh hết sức mạnh của Mỹ. Vai tṛ của CIA mới chỉ là hỗ trợ và cung cấp cho người Việt Nam tự thi hành nhiệm vụ. Quan điểm của McNamara là CIA "chỉ làm hời hợt mà không thật sự đưa một số lượng lớn vào Bắc Việt Nam đến mức có thể tạo ra tác động". Đây là sự nhận xét mang đậm dấu ấn McNamara. Con số là câu trả lời cho mọi thứ. Tại cuộc họp, Colby đă đứng dậy phản bác: "CIA đă đi đến kết luận rằng hoạt động gián điệp ở Bắc Việt Nam sẽ không mang lại kết quả. Ông Cục phó Cục Viễn Đông của tôi cho rằng "hăy chờ xem, điều đó thật vô nghĩa". Chúng tôi đă xem xét lại kinh nghiệm của chúng ta ở Bắc Triều Tiên, ở Liên Xô trong những năm cuối 1940, đầu 1950 và ở Trung Quốc - không có một nơi nào hoạt động của chúng ta thật sự tỏ ra thành công". Trong mỗi trường hợp, Colby chỉ ra "chúng ta phải đương đầu với những hệ thống xă hội độc tài, kỷ luật theo kiểu cộng sản"(2).
    McNamara có cách nh́n hoàn toàn khác. Với ông, vấn đề ở đây là con số. Quân đội đă có cái mà họ cần: nguồn lực lực lượng, học thuyết về chiến tranh đặc biệt để gây sức ép tổng lực với Hà Nội. Bộ trưởng Quốc pḥng tin rằng một nỗ lực ngầm với quy mô lớn sẽ tạo ra hoảng loạn bên trong Bắc Việt Nam và buộc Hồ Chí Minh ngừng ủng hộ hoạt động lật đổ ở miền Nam. Colby bác lại "Thưa ngài Bộ trưởng, tôi đă nghe những ǵ ngài nói, nhưng quả thật nó không mang lại kết quả. Hoạt động ngầm sẽ không mang lại kết quả trong kiểu xă hội này"(3). Colby đă đầu hàng. Xâm nhập vào địa bàn bị từ chối thật là quá khó khăn.
    Kết luận số 273 của Hội đồng an ninh quốc gia là kết quả của Hội nghị Honolulu. Bản kết luận cho phép gia tăng các hoạt động ngầm chống lại miền Bắc. Tổng thống Johnson phê duyệt kết luận này vào 26-10, chỉ 4 ngày sau khi Kenedy bị ám sát. Theo bản ghi nhớ của Roger Hilsman, trợ lư ngoại trưởng về Viễn Đông, kết luận này đă khởi động toàn bộ chương tŕnh hoạt động. Một kế hoạch chung của CIA và MACV về việc tăng cường các hoạt động ngầm chống lại miền Bắc sẽ được hoàn thiện ở Sài G̣n và chuyển về Washington vào 20-12. Các hoạt động bán quân sự ở Nam Lào chống phá đường ṃn Hồ Chí Minh cũng được đưa vào kế hoạch này.
    ____________________ ____________________ ____
    1. Newman "JFK và Việt Nam", trang 314.
    2, 3. Phỏng vấn lịch sử với Colby, trong “MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những sĩ quan phục vụ trong kế hoạch 34A của MACVSOG", trang 9.
    --------------------------------------------------------------------------------
    Ở Sài G̣n, Herb Weisshart được phó trung tâm CIA giao cho nhiệm vụ giúp hoàn tất bản kế hoạch CIA-MACV. Ông nhớ lại "Chúng tôi xem xét toàn bộ những ǵ CIA đang thực hiện chống lại Bắc Việt Nam... chúng tôi xây dựng một kế hoạch bắt đầu từ mức độ hiện có cho đến các giai đoạn có cường độ cao hơn". Bản kế hoạch này được triển khai khi “t́nh h́nh Nam Việt Nam rất nghiêm trọng". Nhiệm vụ của họ là t́m cách thúc đẩy các chương tŕnh hiện tại trong bối cảnh cần chuyển sang các hoạt động có cường độ cao hơn(1). Những ǵ thu được từ cuộc họp Honolulu là một cú hích mạnh ở tầm chính sách cho kế hoạch 34A mà Bản tường tŕnh của Lầu Năm Góc mô tả là “một chương tŕnh chi tiết về các hoạt động bán quân sự chống lại Bắc Việt Nam". Bản tường tŕnh nhấn mạnh những hoạt động này không phải là “một vài hoạt động sơ Sài tương tự như của CIA trong giai đoạn 1961-1963". Đây là sự đánh giá chính xác. Trên giấy tờ, Kế hoạch 34A rất "hấp dẫn". Kế hoạch này đưa ra hàng loạt các hoạt động ngầm phong phú và đa dạng nhằm quấy nhiễu, lật đổ và trừng phạt Bắc Việt Nam.
    Bản kế hoạch đặt ra mục tiêu rất tham vọng: "thông qua việc dần gia tăng áp lực nhằm tạo ra sự trừng phạt ngày càng lớn đối với miền Bắc và tạo ra sức ép đến mức có thể thuyết phục giới lănh đạo Hà Nội rằng việc chấm dứt chính sách gây rối ở miền Nam chính là phục vụ cho lợi ích của họ"(2). Để đạt được mục tiêu trên, các nhà vạch kế hoạch của MACV và CIA kiến nghị 5 loại h́nh hoạt động lớn.
    Loại h́nh thứ nhất liên quan đến việc thu thập t́nh báo về Bắc Việt Nam. Những tin tức này được thu thập thông qua việc cài cắm điệp viên và thông qua các biện pháp điện tử, thu tin và viễn thông.
    Thứ hai, hoạt động chiến tranh tâm lư nhằm vào cả hai mục tiêu là giới lănh đạo và dân chúng Việt Nam để khai thác tối đa tác động và tạo ra sự chia rẽ. Theo chỉ đạo của Colby, CIA đă bắt đầu tiến hành một số hoạt động này vào năm 1963 và Kế hoạch 34A kiến nghị "tiếp tục các chương tŕnh đă được CIA phê chuẩn" theo hướng "mở rộng các hoạt động này", bao gồm "việc hỗ trợ một phong trào chống đối (cả thật và giả)"(3).
    Dạng thứ ba liên quan đến súc ép chính trị. Dạng này bao gồm các hoạt động bán quân sự chuyên sâu được vạch ra để làm cho Hà Nội ư thức được tính nghiêm trọng và giá phải trả cho sự tiếp tục dính líu vào Lào và Nam Việt Nam. Các hoạt động này bao gồm việc phá hoại các cơ sở kinh tế và an ninh quan trọng của Bắc Việt Nam. Nếu Hà Nội không bị thuyết phục th́ sẽ có “các hành động trả đũa nặng nề hơn"(4).
    Dạng thứ tư trở lại vấn đề thúc đẩy việc h́nh thành một phong trào chống đối. Hoạt động này được coi là khía cạnh chủ chốt của kế hoạch được đề ra: "Điều được mọi người thừa nhận là sự phát triển thành công của một phong trào chống đối ở Bắc Việt Nam với tư cách là một bộ phận không tách rời của Kế hoạch 34A có thể mang lại sức ép hữu hiệu đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, buộc giới lănh đạo Hà Nội phải đánh giá lại và chấm dứt chính sách xâm lược của họ"(5). Các nhà vạch kế hoạch của MACV và CIA cho rằng đây là ch́a khoá của cả kế hoạch tổng thể. Thúc đẩy phong trào chống đối là cách để làm tăng "nhiệt độ” ở Hà Nội.
    Cuối cùng là hoạt động phá hoại thông qua việc tập kích đường không và đường biển cùng với hoạt động thám báo phối hợp với không kích nhằm vào Bắc Việt Nam.
    Ở giai đoạn đầu, Kế hoạch 34A dự kiến kéo dài một năm chia ra làm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn bốn tháng theo hướng dần gia tăng cường độ. Để thực hiện kế hoạch cần phải h́nh thành một bộ máy, mặc dầu chưa ai rơ tổ chức đó sẽ như thế nào. Khi nh́n lại, đây chính là điểm đă bị bỏ qua.
    Ư tưởng gây sức ép trực tiếp đối với Hà Nội rất cuốn hút Lyndon Johnson, nhưng ông quyết định xúc tiến một cách thận trọng. Ngày 21-12-1963, tổng thống giao cho một Uỷ ban liên bộ nghiên cứu Kế hoạch 34A để "chọn ra những hoạt động ít rủi ro nhất". Chủ tịch Uỷ ban là thiếu tướng Krulak, trợ lư đặc biệt của Lầu Năm Góc về chống bạo loạn và hoạt động đặc biệt. Ngày 2-1-1964, bản báo cáo của Uỷ ban phản ánh sự thận trọng của Johnson. Báo cáo đă chọn ra những hoạt động ít nguy hiểm nhất để tiến hành và kiến nghị giai đoạn một của hoạt động ngầm chống lại Bắc Việt Nam bắt đầu vào 1-2-1964.
    Bản kế hoạch c̣n được McConé, McNamara, Rusk và Mac Bundy xem xét và những ư kiến của họ được chuyển cho tổng thống trong tờ tŕnh ngày 3-1. Theo Bundy, tất cả đều "nhất trí đề nghị tổng thống phê chuẩn kế hoạch"(6).
    Tuy nhiên, như người ta vẫn thường nói, sai sót hay nằm ở những chi tiết. Trước hết, không phải ai cũng đánh giá cao khả năng thành công. McNamara th́ "rất hăng hái". C̣n Giám đốc CIA McCone lại cho rằng "những nỗ lực dạng này sẽ không mang lại kết quả ǵ ghê gớm". Ngoại trưởng Rusk th́ coi những hoạt động này là quan trọng v́ "sẽ giúp thuyết phục Hà Nội rằng chúng ta sẽ không từ bỏ cuộc chiến", nhưng ông chỉ ra rằng “98% của vấn đề là ở miền Nam" chứ không phải ở miền Bắc. Bundy ủng hộ và muốn các nhân viên trên chiến trường bắt đầu triển khai hoạt động. Nhưng ông cũng yêu cầu toàn bộ chương tŕnh cần được giám sát một cách chặt chẽ “trong phạm vi chức năng giám sát mọi hoạt động bí mật của Nhóm đặc biệt 303"(7).
    ________
    Sự khác biệt trong đánh giá chính sách ở cấp cao nói trên cũng được thể hiện ở chỗ các quan chức lănh đạo có những bảo lưu về một số khía cạnh cực kỳ quan trọng của Kế hoạch 34A. Tất cả những ư kiến tham gia về việc triển khai phong trào chống đối vốn được coi là thành tố thiết yếu của Kế hoạch 34A, đều không được thể hiện trong tờ tŕnh. Đă có những lo ngại rằng nếu Hoa Kỳ tỏ ra quá mạnh tay trong việc sử dụng hoạt động bí mật trong ḷng miền Bắc, Hà Nội có thể đẩy mạnh chiến tranh ở miền Nam.
    Thêm vào đó, Washington cần phải thận trọng để không tiến hành các hoạt động quá lộ liễu đến mức không phủi tay được. Rồi c̣n có sự lo lắng về phản ứng của Trung Quốc nếu hoạt động ngầm của Mỹ bắt đầu gây bất ổn thực sự ở Bắc Việt Nam. Liệu Trung Quốc có đến giúp Hà Nội và do đó tái diễn cuộc chiến tranh Triều Tiên không?
    Tương tự như vậy, các ư kiến khác nhau về hoạt động bí mật ở Lào chống đường ṃn Hồ Chí Minh cũng không được nêu trong tờ tŕnh. Đă có ư kiến lo ngại về việc làm đảo lộn hiệp định Hariman. Hoa Kỳ là người trung gian cho hiệp định, và nếu bị bắt quả tang là người vi phạm, chính quyền sẽ gặp phải t́nh huống thật khó xử.
    Vào giữa tháng Giêng năm 1964, Lyndon Johnson phê chuẩn kiến nghị của McCone, McNamara, Rusk, và Bundy được nêu trong báo cáo của Uỷ ban Krulak. Chương tŕnh hành động của Kế hoạch 34A bao gồm "tổng cộng 72 loại hoạt động và nếu được thực hiện sẽ có 2.962 điệp vụ riêng biệt được tiến hành trong 12 tháng đầu tiên. Trong số 72 loại hoạt động đó, có 33 loại được phê duyệt cho thực hiện ở giai đoạn một"(8 ).
    Ba năm sau khi Kenedy chỉ thị cần có một chương tŕnh hoạt động bí mật nghiêm túc chống lại Hà Nội, cuối cùng th́ bản kế hoạch hành động để thực hiện mong muốn đó của tổng thống đă được Johnson cho phép tiến hành. MACV được Washington giao trách nhiệm thực hiện Kế hoạch 34A nhưng chưa có bộ máy tổ chức để thực hiện nhiệm vụ. MACV gần như phải bắt đầu từ con số không.
    Ngày 24-1-1964, Bộ chỉ huy MACV ở Sài G̣n ra chỉ thị số 6, thành lập một tổ chức hết sức bí mật để tiến hành các hoạt động ngầm. Tổ chức này mang một cái tên rất giản dị "Nhóm nghiên cứu và quan sát" thuộc MACV, và thường được biết đến dưới cái tên viết tắt là MACVSOG, hay đơn giản hơn là SOG.
    ____________________ _______________
    1. Newman, JFK và Việt Nam, trang 446-448.
    2. Gravel. Giấy tờ của Lầu Năm Góc: Lịch sử Bộ Quốc pḥng về việc vạch chính sách đối với Việt Nam", tập 3, trang 149.
    3, 4, 5. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG", tháng 7-1970 phụ lục Aa/pt.IV, Nhóm nghiên cứu và quan sát của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Cục kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển", trang 150, 151.
    6, 7. Gravel, Giấy tờ của Lầu năm góc: “Lịch sử Bộ Quốc pḥng về việc vạch chính sách đối với Việt Nam", tập 3, trang 151.
    8. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG”, tháng 7-1970, phụ lục A/pt.IV, "Nhóm nghiên cứu và quan sát của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Cục kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển”, trang 151.

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P5


    CHƯƠNG HAI H̀NH THÀNH SOG



    CHƯƠNG HAI
    H̀NH THÀNH SOG
    Vạch kế hoạch hoạt động bí mật chống lại Bắc Việt Nam là một chuyện, nhưng thành lập một tổ chức bí mật để thực hiện kế hoạch đó lại là chuyện khác. Không có một mẫu h́nh sẵn cho SOG và Chỉ thị số 6 cũng không phân công chuyên gia chiến tranh đặc biệt cho Kế hoạch 34A. Tất cả mọi thứ phải được h́nh thành từ con số không. Và cần có thời gian để làm việc đó.
    Đó chính là t́nh huống mà trung tá Eward Partain gặp phải khi đến Sài G̣n năm 1964. Là chỉ huy trưởng của hoạt động không vận, bộ phận của ông tiếp nhận các chương tŕnh điệp viên chống lại Bắc Việt Nam mà CIA đang thực hiện.
    Partain tốt nghiệp Học viện quân sự Westpoint năm 1951 và nhiều năm là sĩ quan bộ binh, trong đó có chuyến công tác với trung đoàn 25 trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Trong những năm cuối của thập kỷ 50, Partain, lúc này là thiếu tá, phục vụ hai năm trong lực lượng đặc biệt số 10 ở Đức. Khi đó nhiệm vụ của ông là xâm nhập Estonia bằng đường không, đường biển và đường bộ để tổ chức lực lượng du kích chống đối ở vùng hậu phương của quân đội Liên Xô trong trường hợp chiến tranh xảy ra. Partain nhớ lại rằng “các nhóm thuộc lực lượng đặc biệt 10 được phân theo từng quốc gia cụ thể, chúng tôi nghiên cứu địa bàn, học ngôn ngữ. Về cơ bản đó là việc lănh đạo du kích". Được h́nh thành theo mô h́nh của OSS trong chiến tranh thế gian thứ hai, nhưng mục đích của lực lượng này, Partain nhấn mạnh, không phải là tạo ra mạng lưới điệp viên ở vùng hậu phương của Liên Xô: "Chúng tôi được CIA cho biết là sẽ có những điệp viên cài trong phong trào chống đối trước khi chúng tôi xâm nhập". Nhiệm vụ của đơn vị 10 không phải là thiết lập và chỉ huy mạng lưới điệp viên(1).
    Tổ chức bí mật nơi Partain đến nhận nhiệm vụ một mặt c̣n đang được h́nh thành, mặt khác "chịu sức ép đáng kể buộc phải hoạt động ngay". McNamara, Mac Bundy, Rostow - những ông lớn ở Washington - đ̣i hỏi phải gây sức ép đối với Hà Nội. Hệ quả là các nhân viên quân sự được "triệu một cách khẩn cấp từ các đơn vị khác nhau của MACV, thậm chí trực tiếp từ chiến trường rồi ghép lại với nhau, trong đó có một số nhân viên hầu như không có kinh nghiệm ǵ về nội dung hoạt động nhưng được yêu cầu phải làm việc". Quả là phương pháp làm việc vội vă. Khi nhớ lại Partain cho rằng "lẽ ra phải có mô h́nh tổ chức được phê duyệt trước và có những người được phân công để lập ra và hoàn thành kế hoạch trước khi bắt đầu hoạt động"(2). Nhưng điều đó đă không xảy ra vào năm 1964.
    ĐẠI TÁ CLYDE RUSSELL ĐẾN SÀI G̉N
    Partain phục vụ dưới quyền đại tá Clyde Russell, vị chỉ huy đầu tiên trong tổng số năm người lănh đạo SOG. Russell đến Sài G̣n cùng với một nhóm tiền trạm nhỏ vào tháng Giêng và trong ṿng 6 tháng liền phải làm việc không ngơi nghỉ. Ông được chỉ định lănh đạo MACVSOG hay SOG. Russell tham gia lực lượng đặc biệt trong những năm 1950, sau khi đă phục vụ trong lực lượng nhảy dù và bộ binh. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, ông nhảy dù xuống Pháp và Hà Lan. Sau chiến tranh, ông được điều về lực lượng bộ binh và đă từng là tham mưu trưởng của Trường bộ binh ở Fort Benning. Không ai biết lư do tại sao ông lại chuyển sang lực lượng đặc biệt.
    Russell là một người chỉ huy hoạt động đặc biệt có nhiều kinh nghiệm, đă từng chỉ huy tiểu đoàn 1 của lực lượng đặc biệt 10 ở Đức và Nhóm lực lượng đặc biệt số 7 ở Fort Bragg mà địa bàn hoạt động chủ yếu là Mỹ Latinh. V́ vậy, mặc dù Russell là một trong những sĩ quan cao cấp của lực lượng đặc biệt, đối với ông châu Á hoàn toàn mới mẻ. Hơn nữa, kinh nghiệm chiến tranh không quy ước ở lực lượng đặc biệt 10 không giúp ǵ cho ông trong việc chỉ huy các hoạt động ngầm chống lại miền Bắc.
    Sau khi đến, đại tá Russell gặp gỡ nhân viên thuộc pḥng hoạt động đặc biệt của trung tâm CIA tại Sài G̣n, trong đó có Herb Weisshart - người sau đó trở thành phó của ông. Weisshart nhớ lại rằng những ngày đầu của SOG thật là hỗn độn. Đó không phải là tổ chức được chuẩn bị cho hoạt động. "Đó là t́nh trạng ṃ mẫm từng bước một. Trước hết, Russell không có kinh nghiệm trong các hoạt động ngầm chống lại địa bàn bị từ chối". Điều này cũng đúng với những thành viên khác trong nhóm tiền trạm. Theo Weisshart, "những nhân viên này bị quẳng vào một t́nh huống hoàn toàn mới mẻ mà họ chưa từng biết đến. Ở đây ư của tôi là họ không hề có kinh nghiệm hoạt động chống lại địa bàn bị tử chối. Và cần có thời gian để họ làm quen với môi trường khắc nghiệt đó."(3).
    Việc thiếu kinh nghiệm không phải là khó khăn duy nhất của Russell ở thời điểm 1964 khi ông cố gắng dựng lên h́nh hài của SOG. Có rất nhiều vấn đề khác cần phải xử lư.
    Russell được cho biết rằng mọi nguồn lực của CIA dành cho hoạt động ngầm ở Bắc Việt Nam sẽ được chuyển cho SOG. Những nguồn lực đó sẽ là hạt nhân cho các chương tŕnh mở rộng của Kế hoạch 34A. Thêm vào đó, nhiều nhân viên CIA, những người chỉ đạo các chương tŕnh này, sẽ phục vụ dưới sự chỉ huy của Russell. Tất cả các việc đó đă được quy định trong chỉ thị 57. Nhưng tại trụ sở CIA, giới lănh đạo của cơ quan này không hài ḷng với việc đóng vai tṛ thứ yếu so với Lầu Năm Góc trong hoạt động bí mật. CIA định chuyển giao toàn bộ mọi nguồn lực, tài sản có liên quan đến hoạt động bí mật chống miền Bắc cho SOG và coi thế là xong việc của ḿnh. CIA chẳng thích thú ǵ việc cung cấp cho SOG những nhân viên giàu kinh nghiệm và nhận chỉ thị từ giới quân sự.
    ____________________ ____________________ ______
    1. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng Edward Partain trong: “MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan phục vụ trong OP29 của MACVSOG, Trường Luật và Ngoại giao Fletcher, chương tŕnh nghiên cứu an ninh quốc tế, năm 1996, trang 18.
    2. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Bộ tổng tham mưu liên quân (tháng 7-1970), Phụ lục B, phần "Nhận xét về sự phát triển tổ chức của MACVSOG", trang 8.
    3. Phỏng vấn lịch sử với Herbert Weisshart trong: “MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan phục vụ trong OP29 của MACVSOG”, Trường Luật và Ngoại giao Fletcher, Chương tŕnh nghiên cứu an ninh quốc tế, năm 1997, trang 7.
    Chương tŕnh chống Hà Nội của CIA chỉ có quy mô rất khiêm tốn và những ǵ được chuyển giao cho MAEVSOG lại c̣n ít hơn, bao gồm: bốn toán biệt kích và một điệp viên đơn tuyến đă xâm nhập được vào miền Bắc; một số phi công quốc dân đảng phục vụ cho các chuyến bay tung gián điệp và tiếp tế; một vài mạng liên lạc; một số cơ sở vật chất phục vụ hoạt động trên biển ở Đà Nẵng; và một chương tŕnh chiến tranh tâm lư mới được thúc đẩy trước khi bàn giao. Russell nhanh chóng nhận ra rằng khó có thể xây dựng được ǵ trên cái nền đó. Một trong những giả định nhầm lẫn của Russell khi nhận cương vị phụ trách SOG là "chúng tôi sẽ tiếp nhận một cơ sở vật chất con người kha khá"(1). Hay nói một cách khác, SOG sẽ kế thừa một chương tŕnh hoạt động mạnh mẽ. Không rơ tại sao ông lại có ư nghĩ như vậy. Ông đă nghe CIA thuyết tŕnh tóm tắt khi sang Sài G̣n. Phải chăng CIA đă giới thiệu quá mức về những ǵ họ đang có trong chương tŕnh chống lại miền Bắc hay chính Russell không hiểu được rằng những ǵ ông thừa kế là rất ít ỏi? Là người thiếu kinh nghiệm trong các hoạt động ngầm, nhiều khả năng là v́ lư do thứ hai.
    Russell trù tính rằng khoảng ba mươi nhân viên t́nh báo hạng nhất của Trung tâm CIA tại Sài G̣n sẽ được chuyển sang SOG. Năm 1964, ông chỉ nhận được có 13 người và năm 1965 chỉ c̣n có chín người. Chỉ thị số 57 của Hội đồng an ninh quốc gia đă giao cho CIA vai tṛ hỗ trợ trong các hoạt động ngầm bán quân sự có quy mô lớn do quân đội điều hành, nhưng trên thực tế, đại tá Russell thấy CIA làm điều đó một cách miễn cưỡng. Tháng 6 năm 1964, Giám đốc CIA McCone gửi thư cho Thứ trưởng Bộ Quốc pḥng Cyrus Vance trong đó thông báo việc giảm bớt sự tham gia của CIA trong SOG. Thêm nữa, McCone cho biết việc giảm bớt này bao gồm cả số nhân viên được cử sang SOG và khả năng chuyên môn của họ. Lá thư viết “sự hỗ trợ của CIA chỉ dành cho hoạt động chiến tranh tâm lư". Trong thư trả lời, Vance đề nghị không có sự giảm bớt các hỗ trợ của CIA cho SOG(2). Tuy nhiên CIA vẫn tiến hành việc cắt giảm. Không có chứng cứ ǵ cho thấy Vance đă cố thuyết phục McNamara gây áp lực với Nhà Trắng để buộc CIA thay đổi quyết định.
    Ngoài ra, trừ vài trường hợp ngoại lệ như Weisshart, CIA không cử những nhân viên tốt nhất của ḿnh cho SOG. Thay vào đó, những nhân viên giàu năng lực nhất được huy động vào việc mở rộng các hoạt động chống Việt Cộng ở Nam Việt Nam. CIA đă chuyển giao toàn bộ hoạt động chống miền Bắc cho quân đội và chỉ tập trung vào các hoạt động ở miền Nam. Riêng chiến tranh tâm lư là một ngoại lệ CIA sẵn sàng giúp đỡ SOG. Tuy nhiên trên thực tế, việc trợ giúp này cũng thể hiện thái độ lănh đạm của CIA. Tại Cục Kế hoạch, các chuyên gia về chiến tranh tâm lư không được coi là nhân viên "hàng đầu” của CIA. Những người có nhiều cơ hội thăng tiến hơn là những nhân viên thu thập t́nh báo bằng con người (có nghĩa tuyển mộ gián điệp) hoặc các lĩnh vực hoạt động ngầm khác (hoạt động chính trị hoặc bán quân sự). Thế là quá đủ cho chỉ thị 57 và vai tṛ "hỗ trợ” của CIA.
    Trong khi Russell đang cố h́nh thành bộ máy mới, các nhà hoạch định chính sách lại lưỡng lự khi xác định phạm vi hoạt động của SOG. Trên văn bản, Kế hoạch 34 tỏ ra rất tham vọng thậm chí c̣n có phần thái quá. Mục tiêu của kế hoạch là, như thuật ngữ của Clausewitz, làm suy yếu hai trung tâm trọng lực của Hà Nội. Trung tâm thứ nhất là hệ thống an ninh nội bộ và kiểm soát dân chúng. Các chế độ chính trị như miền Bắc thường rất coi trọng những vấn đề này. Đối với Hà Nội, an ninh nội bộ thậm chí c̣n có ư nghĩa sống c̣n v́ họ đang chiến đấu chống lại một cường quốc. Để làm suy yếu sự kiểm soát của Hà Nội, Russell cho rằng việc cốt tử là thành lập một phong trào chống đối. Trọng tâm thứ hai mà SOG nhằm vào là đường ṃn Hồ Chí Minh ở Lào. Theo Russell, các hoạt động thám báo qua biên giới nhằm làm gián đoạn hệ thống hậu cần chiến lược là không thể thiếu được.
    Tuy nhiên, tạo dựng một mạng lưới chống đối trong ḷng Bắc Việt gây ra sự băn khoăn đáng kể cho các nhà vạch chính sách. Mặc dù đó là một bộ phận cấu thành của Kế hoạch 34, Washington đă tranh luận rất nhiều về vấn đề này. Đây quả là t́nh huống khó xử cho Russell. Một mặt, Washington yêu cầu ông nhanh chóng gia tăng hoạt động ngầm chống lại Hà Nội. Mặt khác, chính Washington lại hạn chế quyền hạn của SOG trong việc thúc đẩy phong trào chống đối. Vào năm 1970, Russell nhớ lại "một trong những thất vọng lớn nhất của tôi là không thể phát động phong trào du kích ở Bắc Việt Nam. Khi nh́n lại, giá như chúng ta làm điều đó từ 1964, tôi hoàn toàn tin rằng chúng ta đă có một phong trào chống đối ở miền Bắc"(3). Năm 1964, Washington c̣n ngăn cản các hoạt động phá hoại đường ṃn Hồ Chí Minh ở Lào. Điều này cũng làm cho Russell không kém phần lúng túng.
    Khi Hà Nội quyết định nhanh chóng mở rộng đường Hồ Chí Minh nhằm tăng cường cho chiến tranh ở miền Nam, đại tá Russell nhận được chỉ thị không được tiến hành các hoạt động chống lại con đường ấy. Ông nhớ lại "trong nhiệm kỳ của tôi, chúng tôi không được phép xâm nhập vào Lào"(4). Phải đến năm 1965, tức là gần hai năm sau khi được thành lập SOG mới được phép tiến hành hoạt động ở đó. Chỉ riêng việc h́nh thành bộ máy tổ chức của SOG gần như từ con số không đă là rất khó đối với Russell. Giờ đây; sự cấm đoán của Washington đă làm cho nhiệm vụ của ông trở nên phức tạp hơn nhiều.
    Russell cũng nhận ra rằng Lầu Năm Góc cũng chưa hoàn toàn ngă ngũ về tổ chức của SOG. Đầu tiên, Russell dự kiến thành lập Lực lượng đặc nhiệm chiến tranh không quy ước hỗn hợp - bắt nguồn từ học thuyết chiến tranh không quy ước của Lầu Năm Góc. Theo tính toán của Russell, việc đó mang lại nhiều lợi thế thực tiễn. Trước hết nó cho phép SOG được sự cung cấp trực tiếp về nhân sự và trang bị. Theo học thuyết chiến tranh không quy ước, việc thực hiện các chiến dịch ngầm trên không, bộ, biển được phép lấy quân nhân của tất cả các đơn vị quân đội. Như vậy, các đơn vị quân đội tiến hành chiến tranh thông thường không được phớt lờ các yêu cầu của SOG. Hai là Lực lượng đặc nhiệm chiến tranh không quy ước hỗn hợp được đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của tư lệnh chiến trường, trong trường hợp này là tướng William Westmoreland và việc hỗ trợ, cung cấp và lực lượng được phân bổ cho SOG sẽ được quy định rơ ràng. Điều đó sẽ biến SOG thành một bộ phận của chiến lược chiến tranh chung mà không chỉ là một sự lệ thuộc bề ngoài. Đối với Russell, đó dường như là cách làm đúng đắn.
    ____________________ ____________________ __
    1. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Bộ tổng tham mưu liên quân (tháng 7-1970), Phụ lục B, phần "Nhận xét về hoạt động và tin tức t́nh báo của MACVSOG", trang 4.
    2. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Bộ tổng tham mưu liên quân (tháng 7-1970), Phụ lục B, phần “Tóm lược các tài liệu nghiên cứu về MACVSOG”, trang 26.
    3. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Bộ tổng tham mưu liên quân (tháng 7-1970), phụ lục B, phần “Nhận xét về hoạt động và tin tức t́nh báo của MACVSOG", trang 5.
    4. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Bộ tổng tham mưu liên quân (tháng 7-1970), Phụ lục B, phần "Nhận xét về hoạt động và tin tức t́nh báo của MACVSOG", trang 63.
    Tuy nhiên, cũng có một nhược điểm của Lực lượng đặc nhiệm chiến tranh không quy ước hỗn hợp. Jack Singlaub, vị chỉ huy thứ ba của SOG giải thích: "điều mà tôi phản đối là việc giữ nguyên các đặc điểm của quân binh chủng khác nhau trong một bộ máy tồ chức. Tôi cho rằng các hoạt động chiến tranh không quy ước không nên mang đặc điểm của quân chủng nào"(1). Điều này rất quan trọng và chĩa đúng vào vấn đề chủ nghĩa cục bộ kinh niên giữa các quân chủng. Các quân chủng, và ngay cả một tổ chức như SOG, thường t́m cách giữ lại những đặc điểm riêng. Những ǵ mà Singlaub đề nghị chỉ phù hợp với đặc điểm của SOG nhưng lại trái với truyền thống tổ chức của các quân chủng. Nhưng ngay cả kiến nghị của Singlaub cũng bộc lộ nhược điểm. Bằng việc xoá bỏ đặc điểm của từng quân chủng, mối quan hệ hỗ trợ giữa các quân chủng và một tổ chức như SOG sẽ trở nên mờ nhạt. Như ta sẽ thấy, điều này có thể gây hậu quả nghiêm trọng trong việc nhận được đúng người từ các quân chủng khác.
    Russell nhận thấy khái niệm về lực lượng đặc nhiệm chiến tranh không quy ước không được các quan chức cấp cao của Lầu Năm Góc chấp nhận. Không ai nói cho ông biết lư do tại sao mà ông chỉ biết rằng cần phải tổ chức SOG theo hướng chuyên sâu. Có nghĩa là thành lập các bộ phận chuyên biệt và các bộ phận đó được gắn kết với nhau tương tự như xây từng khối nhà để h́nh thành một tổ chúc phù hợp với nhiệm vụ hoạt động do cấp trên chỉ huy. Mặc dù ủng hộ mô h́nh lực lượng đặc nhiệm, Russell cũng không phản đối ư kiến trên v́ mô h́nh đó cho phép ông có được sự linh hoạt ở mức độ nhất định. Mặc dù vậy, giá phải trả cho sự lựa chọn này trở nên rơ ràng khi SOG t́m kiếm những quân nhân đủ tiêu chuẩn cho các hoạt động bí mật.
    Russell nhận ra là những người như vậy là rất hiếm trong quân đội Hoa Kỳ. Hơn nữa, nếu có những người như vậy th́ cũng rất khó t́m ra họ thông qua hệ thống quản lí nhân sự của từng quân binh chủng. Để thực hiện Kế hoạch 34, SOG cần nhân viên có cách tư duy khác hẳn với những sĩ quan và binh linh được đào tạo về chiến tranh quy ước. SOG cần nhân viên có kinh nghiệm và từng trải về chiến tranh đặc biệt. Công việc càng ít mang tính chất sách vở và lén lút càng cần những kinh nghiệm chuyên sâu. Mà hoạt động chiến tranh tâm lư bí mật và điều hành mạng lưới điệp viên tại địa bàn bị từ chối là những công việc như vậy.
    Những ǵ mà Russell và những người dưới quyền của ông thường tiếp nhận là những cá nhân đến từ các lực lượng chính quy. Đặc biệt là trong thời gian đầu, rất nhiều trong số họ không có kinh nghiệm về các bộ phận nghiệp vụ của SOG - nơi họ đến nhận công tác. Ví dụ, Ed Partain, người được giao phụ trách các hoạt động gián điệp năm 1964, không hề có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. "Tôi mới chỉ làm quen với khái niệm" ông Partain thừa nhận, "và không hề có hiểu biết ǵ về việc chỉ đạo các hoạt động dưới dạng bí mật". Viên phó của ông đă từng tham gia hoạt động chiến tranh không quy ước trong chiến tranh Triều Tiên nhưng không phải trực tiếp trong lĩnh vực điệp báo. Partain mô tả một cách khái quát các sĩ quan trẻ dưới quyền của ḿnh “tận tâm, cần cù và ham học hỏi, nhưng trong lĩnh vực chỉ đạo điệp viên, họ không hề được đào tạo"(2). Tương tự, các sĩ quan được điều đến bộ phận chiến tranh tâm lư của SOG chỉ biết chút ít về các kỹ thuật tuyên truyền đen.
    Ngay cả khi các nhân viên thuộc lực lượng đặc biệt được điều động đến SOG, họ có xu hướng quen thuộc với chống bạo loạn hơn là chiến tranh không quy ước. Điều này không có ǵ đáng ngạc nhiên v́ vấn đề chống bạo loạn đă được tô đậm dưới thời chính quyền Kenedy. Tổng thống thường bày tỏ sự quan tâm đối với mối đe doạ của chiến tranh giải phóng dân tộc của cộng sản. Viễn cảnh để mất một quốc gia vào tay lực lượng bạo loạn là điều mà Kenedy không sẵn ḷng chấp nhận. Chống bạo loạn nhằm vào mục tiêu xoá bỏ hoạt động lật đổ của cộng sản. Kenedy đă cố gắng lái quân đội theo hướng này. Ông chỉ thị cho Bộ trưởng Quốc pḥng tăng cường các tiềm năng chống bạo loạn(3). Do vậy khi Jack Singlaub tiếp nhận cương vị chỉ huy SOG tháng 5-1966, ông nhận ra rằng "các nhân viên thuộc lực lượng đặc biệt đến Việt Nam sau quá tŕnh huấn luyện chủ yếu theo hướng chống bạo loạn chứ không phải chiến tranh không quy ước"(4).
    Để khắc phục vấn đề này, Russell cố gắng yêu cầu các binh chủng t́m ra những cá nhân đă từng tham gia chiến tranh không quy ước. V́ không được "lập tŕnh" để xử lư các yêu cầu này, các lực lượng khác đă không tiến cử được người nào. Trên thực tế cũng không có quy định về tổ chức nào cho phép vị chỉ huy của SOG được xác định và yêu cầu cung cấp các quân nhân giàu kinh nghiệm trong chiến tranh không quy ước. Vào cuối nhiệm kỳ chỉ huy, Singlaub phàn nàn "các quân binh chủng khác chắc chắn có các quy tŕnh cho phép t́m ra quân nhân có kinh nghiệm trong chiến tranh không quy ước và điều động họ đến nơi thực hiện loại công việc này"(5). Hơn nữa nhiều nhân viên đầu tiên chỉ được điều động tạm thời đến SOG trong thời gian sáu tháng. Vất vả lắm Russell mới thay đổi được điều này. Tuy nhiên thời hạn công tác thông thường tại SOG là một năm tương tự như thời hạn của các lực lượng khác được cử sang Việt Nam. Nhưng cũng phải cần đến một năm để một nhân viên chưa hề có kinh nghiệm làm quen với các công việc của SOG. Đến thời điểm đó, thay v́ được hưởng lợi từ những ǵ mà nhân viên đó đă tích luỹ được, SOG lại phải bắt đầu đào tạo nhân viên mới.
    Vấn đề phức tạp cuối cùng mà Russell gặp phải vào năm 1964 là mối quan hệ với đối tác Nam Việt Nam của SOG. Theo Kế hoạch 34A, ông phải cố vấn, trợ giúp vật chất và huấn luyện giúp Tổng nha kỹ thuật chiến lược Nam Việt Nam (STD) đủ khả năng thực hiện các hoạt động bán quân sự bí mật chống lại miền Bắc. Hay nói cách khác, SOG giữ vai tṛ cố vấn. Tuy nhiên thoả thuận này chưa bao giờ được hiện thực hoá. Trong một thời gian ngắn, SOG không chỉ giữ vai tṛ vạch kế hoạch mà c̣n là người thực hiện các hoạt động ngầm chống lại Bắc Việt Nam. Vai tṛ của STD chỉ giới hạn trong việc cung cấp những người bản xứ cho các hoạt động của SOG và cũng chỉ được tiếp cận một cách hạn chế các hoạt động có tính nhạy cảm. Sự lo ngại chủ yếu của SOG là việc mất an ninh của STD và khả năng cơ quan này bị đối phương thâm nhập.
    ____________________ ________________
    1. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Bộ tổng tham mưu liên quân (tháng 7-1970), phụ lục B, phần "Nhận xét về sự phát triển tổ chức của MACVSOG", trang 12.
    2. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Bộ tổng tham mưu liên quân (tháng 7-1970), phụ lục B, phần "Nhận xét về nhân sự và huấn luyện của MACVSOG", trang 18-19.
    3. Bộ Quốc pḥng "Quan hệ Việt Mỹ 1945-1946” tập 11 (Washington DC, Nhà in chính phủ, 1971) trang 17.
    4, 5. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Bộ tổng tham mưu liên quân (tháng 7-1970), Phụ lục B, phần "Nhận xét về sự phát triển tổ chức của MACVSOG” trang 47, 60.

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P6


    SỰ PHÁT TRIỂN CỦA SOG
    Vào thời điểm Russell rời vị trí chỉ huy SOG năm 1965, phần lớn các bộ phận chủ yếu đă được h́nh thành theo từng nhiệm vụ chuyên biệt đúng như yêu cầu mà Washington đề ra. Khi SOG phát triển một cách nhanh chóng trong những năm sau đó, bộ máy tổ chức của nó càng trở nên phức tạp với hạt nhân là bốn bộ phận nghiệp vụ. Mỗi bộ phận có nhiệm vụ vạch ra và thực hiện các kế hoạch hoạt động một trong những loại điệp vụ sau: mạng lưới điệp viên và chương tŕnh đánh lạc hướng; tập kích trên biển; chiến tranh tâm lư; và hoạt động thám báo qua biên giới chống phá đường ṃn Hồ Chí Minh.
    Mỗi một dạng điệp vụ trên được mang một mật danh và có tính khép kín cao. Trong nghề t́nh báo, tính khép kín là nhằm đảm bảo bí mật. Nhân viên của bộ phận này không nắm được những hoạt động của bộ phận khác. Việc khép kín này là rất chặt chẽ và tác động tiêu cực đến nguyên tắc thống nhất và phối hợp công tác của SOG.
    Mật danh cho toàn bộ chiến dịch chống Hà Nội là “Footboy". Mỗi một bộ phận lại có một mật danh khác. Ví dụ, việc cài cắm và chỉ đạo các toán điệp viên hoạt động lâu dài mang tên "Timberwork". Nhưng sau đó Timberwork cũng bao gồm cả các toán biệt kích ngắn hạn và vào cuối năm 1967 được giao điều hành chương tŕnh rất phức tạp nhằm đánh lừa miền Bắc có mật danh là Forae. Đây là một thủ đoạn nhằm làm cho Hà Nội tin rằng nguy cơ bị lật đổ ở trong nước là nghiêm trọng hơn nhiều so với những ǵ họ biết.
    Hoạt động trên biển mang mật danh là "Plowman". Những hoạt động này bao gồm nhiều hoạt động bán quân sự và tâm lư. "Hulidor" là mật danh của hoạt động chiến tranh tâm lư chống lại miền Bắc. Hoạt động này bao gồm nhiều kỹ thuật tâm lư chiến khác nhau.
    Măi cho đến năm 1965, các điệp vụ của SOG mới được mở rộng bao gồm cả hoạt động thám báo sang Lào. Hoạt động này có hai mục đích: điều nghiên nắm t́nh h́nh một cách chính xác về mạng lưới đường Hồ Chí Minh và tiến hành các biện pháp ngăn chặn không cho Hà Nội sử dụng Lào làm bàn đạp để phát động các cuộc tấn công vào Nam Việt Nam. Khởi đầu với mật danh "Shining Brass", chương tŕnh này có các toán thám báo người thiểu số do nhân viên thuộc lực lượng đặc biệt Mỹ chỉ huy. Đến năm 1967, hoạt động thám báo qua biên giới được mở rộng sang Campuchia và mang mật danh mới "Daniel Boone".
    SOG c̣n có một bộ phận nghiệp vụ nữa giữ vai tṛ là người tiếp tế qua đường hàng không cho tất cả các hoạt động bí mật chống lại miền Bắc và tập trung vào đường ṃn Hồ Chí Minh. Mật danh của hoạt động đường không này là "Midriff”. Bộ phận này quản lư các máy bay và trực thăng của SOG.
    SOG luôn luôn đặt dưới sự chỉ huy của một đại tá bộ binh Mỹ. Với chức danh tư lệnh của SOG, người chỉ huy cần có kiến thức về các hoạt động chiến tranh đặc biệt. Nếu SOG là một bộ phận cấu thành của chiến lược chiến tranh chung ở Việt Nam, tư lệnh của SOG cần phải thích ứng với mối quan hệ công việc với các quan chức lănh đạo của Bộ chỉ huy viện trợ Mỹ ở Việt Nam và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân. Người đó cần có sự tiếp xúc với một quan chức cao cấp nhất và phải được coi như là một thành viên trong câu lạc bộ của họ. Nếu không SOG rất dễ dàng bị gạt ra ŕa và không liên quan ǵ đến nỗ lực chính của cuộc chiến.
    Do vậy việc lựa chọn tư lệnh cho SOG có ư nghĩa quyết định. Điều này đặc biệt đúng trong bối cảnh vị trí đó không được giao cho một sĩ quan cấp tướng cùng với những quyền hạn và quan hệ kèm theo. Trong khi các quan chức dân sự cao cấp ở Washington có vẻ nhiệt t́nh với chiến tranh đặc biệt th́ các bạn đồng nghiệp của họ ở Lầu Năm Góc lại có thái độ khác hẳn. Các quân chủng nói chung và lục quân nói riêng không hề nhiễm cơn sốt chiến tranh đặc biệt của chính quyền Kenedy mà có quan niệm ngược lại. Thái độ thiếu nhiệt t́nh, thậm chí lănh đạm của giới quân sự được phản ánh qua cách thức giới lănh đạo lục quân cưỡng lại yêu cầu phát triển năng lực chống bạo loạn của tổng thống Kenedy. Andrew Krepinevich, trong tác phẩm mang tính kinh điển “Lục quân và Việt Nam", đă viết "Thái độ bên trong bộ máy lục quân cho thấy sự thiếu quan tâm đến đề nghị của Kenedy và quan niệm cho rằng lục quân có thể giải quyết bất cứ vấn đề ǵ nảy sinh trong mọi loại h́nh xung đột có cường độ thấp. Ví dụ, tướng Lemnitzer, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân từ năm 1960-1962 tuyên bố rằng chính quyền mới tuyên truyền “quá mức" về tầm quan trọng của chiến tranh du kích". Tương tự như vậy, tướng George Decker, Tham mưu trưởng lục quân từ 1960-1962 "đă phản ứng lại bài thuyết giảng của tổng thống trước Hội đồng tham mưu trưởng liên quân về chống bạo loạn bằng câu trả lời: bất cứ một người lính bộ binh cừ nào cũng có thể đối phó được với du kích". Tướng Earl Wheeler, Tham mưu trưởng lục quân từ 1962-1964 tuyên bố: "về bản chất vấn đề Việt Nam vẫn là vấn đề quân sự". Cuối cùng tướng Maxwell Taylor cho rằng "chống bạo loạn chỉ là "một dạng chiến tranh có quy mô nhỏ" và rằng "tất cả những đám hoả mù do Nhà Trắng tung ra là không cần thiết"(1).
    Thái độ của họ đối với chiến tranh không quy ước cũng tương tự. Do vậy, các sĩ quan cấp tướng không thể bị sử dụng một cách phung phí vào một tổ chức như SOG. Hạn chế cấp hàm của tư lệnh SOG ở mức đại tá đă tạo ra những sự cản trở lớn cho tính hiệu quả của tổ chức này. Russell nhấn mạnh một trở ngại trong tiến tŕnh chuẩn y điệp vụ: "Thật là một sự bất lực ghê gớm trong việc xin được sự phê chuẩn của các cấp, trong một số trường hợp, đến cả Nhà Trắng. Trở ngại th́ rất nhiều. Ví dụ, chúng tôi đă có kế hoạch thả ḿn giả ở cảng Hải Pḥng. Đó là một kế hoạch tốt nhưng chúng tôi không được thực hiện. Báo cáo nối tiếp báo cáo được gửi lên nhưng luôn luôn bị bác bỏ. Chúng tôi không hề biết ai bác hoặc tại sao trừ một thứ là điệp vụ bị bác bỏ”(2). Một đại tá không có quyền đ̣i hỏi có được lời giải thích, nhưng một vị tướng th́ có.
    Để SOG có sự đóng góp có ư nghĩa đối với chiến lược của Mỹ, việc được tiếp cận với Bộ Chỉ huy viện trợ (MACV) và tiến tŕnh vạch kế hoạch ở Hội đồng tham mưu là cực kỳ quan trọng. Nếu không, các nhà lănh đạo quân sự cao cấp sẽ chỉ hiểu biết chút ít hoặc không nắm được hoặc không quan tâm đến giá trị tiềm năng của hoạt động ngầm chống lại miền Bắc.
    ____________________ ____________________ ____
    1. Krepinevich, "Lục quân và Việt Nam", trang 36-37.
    2. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Bộ tổng tham mưu liên quân (tháng 7-1970), phụ lục B, phần "Nhận xét về chỉ huy và kiểm soát của MACVSOG", trang 3.
    Clyde Russell không có quyền ra vào tiếp cận với các vị chỉ huy lục quân cấp cao ở MACV và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân. Khi tham gia lực lượng đặc biệt năm 1950, ông trở thành một phần của lực lượng được coi là không hợp thời vào lúc bấy giờ. Khi nhắc lại những tháng năm đó, thiếu tướng nghỉ hưu Ed Partain c̣n nhớ: "Vào đầu nhưng năm 1950, các nhóm lực lượng đặc biệt không được coi là một phần của lục quân. Họ bị coi là người ngoài... những chiến binh cừ khôi nhưng không thể sống một cách thoải mái trong thời b́nh. Anh biết đấy, anh có những người lính mà anh muốn làm đông cứng họ sau trận đánh cuối cùng và làm tan băng cho họ sống lại trước trận đánh đầu tiên của cuộc chiến tranh mới. V́ vậy, đó là những nhóm rất cá tính. Khi được cử đến đơn vị đặc biệt 10, tôi không muốn đi, nhưng không thể được"(1). Là chỉ huy trưởng của SOG, Russell lại càng bị đẩy xa ra khỏi đời sống lục quân. Do vậy khi tư lệnh Bộ chỉ huy viện trợ Mỹ ở Việt Nam, tướng William Westmoreland vạch kế hoạch leo thang chiến tranh năm 1964. Russell không được tham gia tiến tŕnh đó. Ông không được mời tham gia các cuộc thảo luận.
    Người thay thế Russell là người hùng của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, Don Blackburn. Những thành công của ông ở Phillipines đă được Holywood dựng thành phim vào giữa năm 1950 với tên "Đầu hàng - c̣n lâu”. Khi người Nhật chiếm giữ Phillipines, ông chạy vào rừng và tổ chức các đơn vị du kích trong số những bộ lạc thiểu số mà phần lớn là người thuộc bộ lạc Igorot. Sau đó họ được biết với cái tên "người sưu tập đầu kẻ thù của Blackburn" và đóng vai tṛ quyết định khi tướng McArthur giải phóng Phillipines khỏi sự chiếm đóng của Nhật Bản. Vào năm 1944, với những thành tích đó, ở tuổi 29, .Blackburn trở thành viên đại tá trẻ nhất trong lục quân Hoa Kỳ. Tuy nhiên lục quân không biết phải sử dụng kinh nghiệm chiến tranh không quy ước của ông như thế nào sau khi chiến tranh kết thúc. Đầu tiên họ cố biến ông thành một sĩ quan lục quân đầy kính trọng bằng cách cử ông đến trường bộ binh. Sau khi được đào tạo lại, dự kiến ông sẽ nằm trong luồng chảy chính của lục quân Hoa Kỳ. Năm 1950 ông được cử đến giảng dạy tại trường Westpoint. Tuy nhiên theo một nguồn tài liệu vào lúc bấy giờ, ông luôn luôn tranh thủ đưa vào bài giảng những luận điểm về chiến đấu của riêng ông, đố học viên nghĩ ra cách làm giảm thương vong, và yêu cầu học viên phải suy nghĩ theo hướng không quy ước(2). Rơ ràng, việc trở thành một sĩ quan lục quân chính thống là quá khó đối với thủ lĩnh Blackburn.
    Sau khi làm cố vấn ở Việt Nam một thời gian ngắn, Blackburn trở lại lực lượng đặc biệt vào cuối những năm 1950. ông được đưa đến chỉ huy đơn vị đặc nhiệm số 77 ở Fort Bragg. Năm 1961, tổng thống Kenedy tuyên bố rằng chiến tranh đặc biệt là quan trọng và Blackburn được giao nhiệm vụ tổ chức một đơn vị hoạt động ngầm bán vũ trang, một phần trong chính sách của chính quyền đối với cuộc khủng hoảng tại Lào. Sau đó, tháng năm 1965, ông trở thành người lănh đạo SOG. Dường như Blackburn là con người lư tưởng cho công việc này: ông có nhiều kinh nghiệm trong chiến tranh đặc biệt. Tuy nhiên, ông cũng vẫn chỉ là đại tá nhưng người giữ cấp hàm này lâu nhất trong lục quân Hoa Kỳ.
    Người ta thường nói rằng những sĩ quan giàu kinh nghiệm chiến tranh đặc biệt như Blackburn được tướng Westmoreland đánh giá rất cao. Trong hồi kư của ḿnh, vị cựu tư lệnh của MACV tuyên bố "các chỉ huy trưởng của SOG là một nhóm thiên tài"(3). Jack Singlaub, chỉ huy trưởng thứ ba của SOG tin là Westmorelanh coi trọng SOG. Ông viết “ấn tượng của tôi là bạn có thể nhận thấy sự khác biệt về quan điểm đối với loại h́nh hoạt động này giữa tướng Westmoreland và người tiền nhiệm, tướng Abram. Tướng Abram là người tẩy chay lực lượng đặc biệt. Tôi đă từng nghe ông ta nói là việc tập trung tất cả những quân nhân tốt nhất cho một đơn vị đặc biệt sẽ làm xuống cấp các đơn vị thường trực và không phù hợp với lợi ích của quân đội. Giờ đây tôi có quan hệ tuyệt vời với tướng Westmoreland... Trong suốt hai năm tôi không bao giờ nhỡ cuộc họp sáng thứ hai để báo cáo tóm tắt với tướng Westmoreland về các hoạt động của SOG. Abram thường hoăn hoặc thay đổi thời gian cho các buổi thuyết tŕnh này. Westmoreland không bao giờ làm như vậy”(4).
    Westmoreland từng viết "SOG đóng vai tṛ quan trọng trong các hoạt động của chúng ta chống lại kẻ địch ở Việt Nam"(5). Tuy nhiên, hồi kư của ông cũng thừa nhận ông "có những ư kiến khác biệt về mức độ hiệu quả các hoạt động ngầm do SOG có thể mang lại"(6).
    ____________________ ____________________ _
    1. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng Edward Partain trong: “MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan phục vụ trong OP29 của MACVSOG”, Trường Luật và Ngoại giao Fletcher, chương tŕnh nghiên cứu an ninh quốc tế năm 1996, trang 19.
    2. Benjamin Schemmer, “Tập kích” (New York: Avon Books, 1976 ), trang 46.
    3. William Westmoreland, "Báo cáo của những người lính” (Garden City, N. Y 1976), tr. 108.
    4. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng John K. Singlaub trong: "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan chỉ huy của SOG", Trường Luật và Ngoại giao Fleteher, chương tŕnh nghiên cứu an ninh quốc tế, năm 1996, trang 60-61.
    5. John L. Plaster, "SOG: Cuộc chiến tranh biệt kích bí mật ở Việt Nam (New York: Simon và Schuster, 1997), trích từ phần b́a của cuốn sách.
    6. Westmoreland “Báo cáo của....", tr. 106.
    Trong thời gian một năm giữ vai tṛ tư lệnh của SOG, Don Blackburn chỉ gặp báo cáo Westmoreland có một lần. Theo Blackburn, Westmoreland là "một tư lệnh thông thường của lực lượng thông thường và không thích thú ǵ các hoạt động kiểu như SOG"(1). Là một người được đánh giá cao trong lĩnh vực hoạt động đặc biệt, Blackburn thất rằng "chưa bao giờ các hoạt động đặc biệt được coi trọng trong tính toán của MACV. Ở đó chỉ có hoạt động thông thường... Có một sự thật được mọi người thừa nhận là hoạt động đặc biệt bị coi nhẹ và bị đối xử như một đứa con riêng"(2).
    Như vậy, hai viên tư lệnh đầu tiên của SOG, Russell và Blackburn, phải đối mặt với những cản trở đầy khó khăn. Các quan chức vạch chính sách cấp cao ở Washington muốn sử dụng hoạt động ngầm ép Hà Nội ngừng hỗ trợ cuộc chiến tranh ở miền Nam, nhưng đồng thời lại lo ngại hoạt động này có thể quá nhiều. Trong giới quân sự, SOG là một yếu tố thứ yếu khi họ vạch kế hoạch cho một cuộc chiến tranh thông thường.
    Viên phó tư lệnh của SOG luôn luôn là sĩ quan không quân, nhưng không phải là người đang ở vị thế được thăng tiến - rất khó lên được cấp tướng. Vị trí thứ ba của SOG do một quan chức CIA nắm giữ. Quan hệ giữa SOG và CIA luôn rất tế nhị. Bất chấp những quy định trong chỉ thị 57, CIA không hề muốn đóng vai tṛ lệ thuộc trong hoạt động bán quân sự ngầm do quân đội lănh đạo. Nếu các nhà vạch chính sách đă giao nhiệm vụ đó cho MACV, th́ mặc kệ họ. CIA sẽ chú trọng vào các hoạt động khác.
    Trước khi nhận bàn giao, Blackburn đă "đến CIA và gặp Colby đặt vấn đề có được những nhân viên CIA cao cấp giữ chức phó của SOG". Colby lắng nghe nhưng không bao giờ phân công ai. Khi được hỏi xem CIA có giữ vai tṛ hỗ trợ tích cực không, Blackburn khẳng định "không, ít nhất là khi tôi ở đó. Điều làm cho tôi bị bó buộc là tôi không có đủ nhân viên có kinh nghiệm của CIA. Viên phó CIA th́ yếu quá."(3). Các vị chỉ huy sau này có quan hệ công tác khá hơn với các quan chức cấp cao của CIA, nhưng sự tham gia của cơ quan này vẫn hạn chế và chất lượng các nhân viên được biệt phái sang SOG không đồng đều.
    Bất chấp những trở ngại này, SOG ph́nh to một cách nhanh chóng tương tự như, hoặc thậm chí c̣n nhanh hơn, lực lượng quân sự thông thường ở Việt Nam và có bộ máy ngày càng phức tạp. Đến năm 1967, SOG phụ trách các chương tŕnh hoạt động ngầm ở Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia. Sự mở rộng này có thể thấy rơ hơn trong hai sơ đồ ở trang bên. Sơ đồ thứ nhất cho thấy cơ cấu tổ chức năm 1965, một năm sau khi đoàn tiền trạm của Russell đến Việt Nam, lúc đó SOG mới.chỉ có 128 nhân viên. Vào năm 1969, tổ chức này có tới một ngh́n nhân viên người Mỹ, vài ngàn người Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan.
    Mặc dù đă phát triển nhanh chóng về quy mô, về cơ bản SOG có bốn nhiệm vụ chính kết hợp với nhau tạo nên chiến dịch hoạt động bán quân sự ngầm.
    Mạng lưới gián điệp - biệt kích và đánh lạc hướng
    Việc cài cắm các toán biệt kích nằm vùng dài hạn ở Bắc Việt Nam là nhiệm vụ của Nhóm không vận của SOG. Từ 1964 đến 1969, bộ phận này được biết với mật danh OP34. Vào cuối 1967, nó có thêm hai nhiệm vụ nữa, đó là bay trinh sát và tham gia chương tŕnh đánh lạc hướng. Dưới thời CIA, việc tung các toán biệt kích dài hạn vào Bắc Việt Nam là vô cùng khó khăn và phần lớn gặp thất bại. Washington đă không quy định rơ về nhiệm vụ của các toán này. Theo OPLAN34, nhiệm vụ của các toán biệt kích là thành lập tổ chức chống đối ở miền Bắc. V́ nhiệm vụ này chưa bao giờ được Washington chính thức cho phép nên họ được giao nhiệm vụ thu thập tin tức t́nh báo, phá hoại, và chiến tranh tâm lư. Điều lạ lùng là, các toán biệt kích được chỉ thị phải tránh tiếp xúc với dân chúng trong khi thực thi các nhiệm vụ được giao. Trong hoàn cảnh đó, làm sao có thể trông đợi các toán này hoàn thành nhiệm vụ? Năm 1966, một lần nữa nhiệm vụ lại thay đổi. Lần này trọng tâm là thu thập tin tức t́nh báo và thiết lập các mối quan hệ với dân, và nhiệm vụ thứ yếu là chiến tranh tâm lư và phá hoại. Sự thay đổi này được thể hiện trong bản kế hoạch 15 tháng, theo đó các toán gián điệp - biệt kích được cài cắm hoặc điều chỉnh vị trí để bám theo các tuyến đường chính nối với đường ṃn Hồ Chí Minh ở Lào.
    Không chỉ nhiệm vụ của các toán gián điệp-biệt kích dài hạn thường xuyên bị thay đổi do sự hoang mang của Washington, mà bản thân từng điệp vụ cũng bị giám sát một cách hết sức chặt chẽ. Có những lo ngại là các toán này đă bị Bộ Nội vụ Hà Nội vô hiệu hoá, tuy nhiên cho đến năm 1967 không có bất cứ một cuộc thẩm định về phản gián nào được tiến hành.
    Đến 1967, hoạt động của các toán biệt kích không làm cho các cấp lănh đạo hài ḷng. Ngay cả trong trường hợp tốt nhất, kết quả hoạt động này cũng rất c̣m cơi. Hơn nữa, sự lo ngại ngày càng lớn về khả năng các toán này bị vô hiệu hoá đă làm tăng sự nghi ngờ đối với hiệu quả của hoạt động này. Hệ quả là nhiệm vụ của OP34 lại bị xem xét lại một lần nữa.
    Lư do cho sự xem xét lại này là: "người ta tin rằng với thời gian hoạt động ngắn và cơ động cao, các toán có khả năng tồn tại và đưa trở về cao hơn"(4). Trên thực tế, việc xâm nhập và đưa các toán biệt kích trở về đă trở thành tiêu chí đánh giá thành công của điệp vụ. Trong năm 1968, thiếu tá George Gaspard là người chỉ huy hoạt động biệt kích ở Bắc Việt Nam. Trước khi nhận nhiệm vụ này, Gaspard đă từng được biệt phái sang CIA ở Triều Tiên với nhiệm vụ giúp phát triển chương tŕnh chống xâm nhập cho cảnh sát Nam Triều Tiên. Đó là một công việc đầy thử thách vào thời điểm Bắc Triều Tiên đang cố tung một số lớn điệp viên vào miền Nam. Theo Gaspard, "chúng tôi đă giết 119 người... đó là vào năm 1967, chúng tôi không bắt được ai làm tù binh v́ điều đó rất khó... họ không chịu đầu hàng"(5).
    ____________________ __________________
    1. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn trong: "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan chỉ huy của SOG”, Trường Luật và Ngoại giao Fletcher: chương tŕnh nghiên cứu an ninh quốc tế, năm 1996, trang 27.
    2. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn,Sđd, tr. 39-40.
    3. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn, Sđd, tr. 8,13,39.
    4. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Bộ tổng tham mưu liên quân (tháng 7-1970), Phụ lục C, phần "Hoạt động đường không", tr 6.
    5. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng George Gaspard, trong: "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ Kế hoạch 34 của MACVSOG", tr 126, 130 - 131.
    Khi tham gia SOG, Gaspard đă chuyển từ chống xâm nhập sang tổ chức các toán biệt kích xâm nhập vào miền Bắc. Mục tiêu Gaspard đặt ra cho các toán là: "đưa họ xâm nhập, đón họ trở về và thu được một số thông tin từ họ"(3). Điều này quả là rất ư nghĩa khi mà tất cả 500 biệt kích mà CIA và SOG tung vào Bắc Việt Nam không có ai được đưa trở về Nam Việt Nam.
    Vào cuối năm 1967, OP34 được bổ sung nhiệm vụ đánh lạc hướng. Ư tưởng này được nảy sinh từ sự nghi ngờ là phần lớn các toán biệt kích cài cắm đă bị vô hiệu hoá và khống chế và Hà Nội đang tiến hành chống SOG bằng việc sử dụng các toán bị bắt làm gián điệp đôi. Nếu đúng như vậy Bắc Việt Nam không chỉ biết được các biện pháp nghiệp vụ và mục tiêu của SOG mà c̣n cung cấp các thông tin giả thông qua việc liên lạc vô tuyến điện. Chương tŕnh đánh lạc hướng có mật danh là Forae hy vọng làm cho Hà Nội tin là mối đe doạ lật đổ từ bên trong c̣n lớn hơn nhiều so với những toán biệt kích đă bị bắt. Forae bao gồm 6 hoạt động được tướng Westmoreland phê chuẩn miệng ngày 14-3-1968.
    Như vậy, đến 1968, OP34 được chia ra làm ba bộ phận: OP34A, hoạt động gián điệp, OP34B, xâm nhập biệt kích và OP34C, hoạt động đánh lạc hướng.
    Hoạt động ngầm trên biển
    Hoạt động ngầm trên biển là bộ phận cấu thành quan trọng thứ hai của SOG. Cũng được kế thừa từ CIA, trách nhiệm tiến hành nhiệm vụ này được giao cho nhóm hoạt động trên biển, hay OP37. Tháng Giêng 1964, Bộ phận cố vấn hải quân - tên b́nh phong của nhóm - được thành lập tại Đà Nẵng. Năm 1965, một bộ phận nhỏ có tên Nhóm nghiên cứu hàng hải được thành lập tại trụ sở của SOG. Về cơ bản, nhóm này có chức năng tham mưu c̣n Bộ phận cố vấn hải quân là người tiến hành các hoạt động ngầm trên biển cụ thể.
    Viên chỉ huy của Bộ phận cố vấn luôn luôn là sĩ quan hải quân. Ngoại trừ một số ít trường hợp ngoại lệ, nhưng người được cử đến chỉ huy OP37 hầu như không có kinh nghiệm chiến tranh không quy ước. Ví dụ Jack Owen, vị chỉ huy đầu tiên là chỉ huy trưởng tàu khu trục và không biết ǵ về hoạt động ngầm trên biển. Cuộc đời binh nghiệp của Owen gắn liền với đại dương trên những con tàu lớn chứ không phải chỉ huy các con tàu nhỏ tiến hành hoạt động ngầm ở vùng ven biển các địa bàn bị từ chối kiểu như Bắc Việt Nam. Một sĩ quan hải quân sẽ không bao giờ được nâng cấp hàm cao hơn nếu chỉ hoạt động trong bóng tối. Con đường danh vọng nằm ở ngoài biển khơi, trên các con tàu nổi hoặc tàu ngầm lớn. Do vậy, trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp của hải quân tại thời điểm 1964, rất ít người có kinh nghiệm hoạt động ngầm. Trong hải quân, hoạt động đặc biệt không được coi là nhiệm vụ quan trọng. V́ vậy, khi được hải quân chọn cử, đó là tín hiệu rơ ràng là Jack Owen không c̣n là thứ nguyên liệu để tạo ra đô đốc hải quân nữa.
    Phó chỉ huy phụ trách nghiệp vụ và huấn luyện của Nhóm cố vấn là sĩ quan lính thuỷ đánh bộ, người thường có chút ít hiểu biết về hoạt động đặc biệt. Nhận xét này rất đúng với trường hợp trung tá James Munson, người được giao nhiệm vụ trên năm 1964. Như sau này James nhớ lại, "Tôi làm việc với CIA... và dường như được Langley (tức CIA) chấp nhận... Tôi đă tham gia hoạt động của Liên hợp quốc và đây là nhiệm vụ hoàn toàn bất thường đối với một sĩ quan quân đội v́ khi tiến hành các hoạt động ngừng bắn và ǵn giữ hoà b́nh, chúng tôi phải làm việc với người dân nước chủ nhà và cố đạt được mục tiêu của Liên hợp quốc và đằng sau đó là mục tiêu của Mỹ, bằng cách sử dụng phương pháp của nước sở tại. Đó được coi là hoạt động đặc biệt"(1). Tuy nhiên, Munson không có kinh nghiệm trực tiếp về các dạng hoạt động bán quân sự bí mật mà OP37 được giao. Munson được chọn v́ năng khiếu ngoại ngữ và kinh nghiệm t́nh báo có được từ lính thuỷ đánh bộ và CIA.
    Sự lựa chọn Owen và Munson minh hoạ cho sự khó khăn mà SOG gặp phải trong việc t́m ra đúng người cần thiết. Khi được hỏi liệu các sĩ quan hải quân trong bộ phận cố vấn hải quân có kinh nghiệm ǵ về hoạt động bí mật không, Munson nhớ lại: "Tôi không t́m thấy ai có bất cứ kinh nghiệm ǵ phù hợp với nhiệm vụ của SOG". Munson nhớ Jack Owen đă từng nói "Quỷ tha ma bắt, tôi chỉ huy tàu khu trục, tôi có biết quái ǵ về kiểu hoạt động này đâu”. Owen đă rất thành thực khi thừa nhận "tôi thật sự không biết những chi tiết, nhưng chúng ta là người chịu trách nhiệm, vậy hăy làm tất cả những ǵ bạn có thể"(2).
    Tương tự như OP34, nhiệm vụ của OP37 thường xuyên thay đổi trong giai đoạn 1964-1969. Trong khoảng thời gian này, nhiều hoạt động khác nhau đă được tiến hành. Hoạt động ngầm trên biển bao gồm: các cuộc tập kích trên biển với sự yểm trợ của không quân như: phá hoại, bắt giữ cán bộ Bắc Việt Nam, dùng tàu nhanh bắn phá các mục tiêu trên bờ, ngăn chặn và phục kích các tàu vận tải của miền Bắc cho miền Nam, phân phát hàng chiến tranh tâm lư, bắt cóc công dân miền Bắc mà chủ yếu là ngư dân để phục vụ chương tŕnh chiến tranh tâm lư, tung các toán gián điệp và biệt kích qua đường biển và thu thập tin tức t́nh báo ven biển.
    Nhiệm vụ của các điệp vụ trong từng giai đoạn phụ thuộc vào quyết định của Washington. Ở tầm chính sách thường xuyên có sự xem xét lại và thay đổi nhiệm vụ của hoạt động trên biển. Sự quan tâm của các nhà vạch chính sách đối với các hoạt động ngầm trên biển đă có từ những ngày đầu thành lập SOG mà lư do chính là sự kiện các tàu nhanh của OP37 dính líu vào sự kiện Vịnh Bắc Bộ nổi tiếng tháng 8-1964.
    Trong nội bộ bộ phận cố vấn, nhóm nghiệp vụ và huấn luyện vạch kế hoạch và thực hiện toàn bộ các phi vụ hoạt động ngầm trên biển chống lại miền Bắc sau khi đă được Washington bật đèn xanh. Nhóm thám báo và lực lượng đặc biệt của hải quân (SEAL), bao gồm một đơn vị SEAL của hải quân và các nhân viên thám báo, đă huấn luyện các toán biệt kích Việt Nam về hoạt động ven biển dọc theo bờ biển miền Bắc. Nhóm này hỗ trợ và cố vấn cho các thuỷ thủ Việt Nam về chiến thuật, sử dụng vũ khí, xác định phương hướng và hoạt động trên các tàu tốc độ cao mang tên "Nasty". Những thuỷ thủ này chịu trách nhiệm trực tiếp tiến hành các hoạt động trong lănh hải miền Bắc.
    Các nhân viên Mỹ không được phép tham gia bất kỳ hoạt động nào của OP37. Chỉ có nhân viên người Việt dưới sự điều hành của cơ quan an ninh bờ biển trực thuộc Tổng nha kỹ thuật chiến lược được phép Bắc tiến. Cơ quan an ninh bờ biển là đối tác Việt Nam của Nhóm cố vấn hải quân.
    ____________________ ____________________ __
    1. Phỏng vấn lịch sử với trung tá James Munson, trong: "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ Kế hoạch 34 của MACV SOG", tr. 1.
    2. Phỏng vấn lịch sử với trung tá James Munson, trong: "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ Kế hoạch 34 của MACV SOG” tr. 12.
    Chiến tranh tâm lư
    Nhiệm vụ trọng yếu thứ ba của SOG là chiến tranh tâm lư chống lại miền Bắc. Hoạt động này được gọi là tuyên truyền "đen" v́ các thông tin và hoạt động được gán cho các nguồn thông tin không tồn tại hoặc bị bóp méo. Nói một cách khác, đối tượng nghe, trong trường hợp này là giới lănh đạo và nhân dân của miền Bắc, sẽ cho rằng các nguồn thông tin đó không phải từ Hoa Kỳ mà là từ nơi khác.
    Chiến tranh tâm lư thường mang vẻ bí hiểm về thủ đoạn và mục đích hoạt động. Chiến tranh tâm lư là một khía cạnh kinh điển của thủ đoạn t́nh báo. Tôn Tử, nhà chiến lược quân sự cổ xưa của Trung Quốc, rất coi trọng sự đóng góp của chiến tranh tâm lư trong việc giành thắng lợi không cần dùng bạo lực hoặc với bạo lực ít nhất. Tuy nhiên điều này nói th́ dễ mà làm th́ khó. Chiến tranh tâm lư có rất nhiều điểm chung với việc nghi binh và là một trong những thuật ngữ của thời chiến tranh lạnh gợi lại những h́nh ảnh về mánh khoé khéo léo của đối phương. Có những người tin rằng chiến tranh tâm lư có thể thay thế một cách có hiệu quả cho chiến đấu.
    Việc nghiên cứu kỹ hơn cho thấy chiến tranh tâm lư không phải là điều thần kỳ như vậy. Người ta cho rằng những người cộng sản là bậc thầy về mặt này, và thực ra nhận định này cũng có một phần sự thật. Một nghiên cứu có tính kinh điển về chiến tranh tâm lư trong những năm 1950 - Cuốn sách về các t́nh huống chiến tranh tâm lư - chỉ rơ là "khái niệm về chiến tranh tâm lư của Liên Xô không có ǵ bí hiểm. Nó được coi là một vũ khí tổ chức chứ không chỉ là vũ khí bằng lời. Với những người cộng sản, không có sự phân biệt rơ ràng giữa lời nói và việc làm"(1).
    Chiến tranh tâm lư là một thành tố quan trọng của chiến lược chung được Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng chống Pháp và Mỹ, những kẻ thù đầy sức mạnh mà Việt Nam phải đối đầu từ 1946-1973. Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông tiến hành một chiến dịch chiến tranh tâm lư mạnh mẽ trên thế giới và trong ḷng nước Pháp và Hoa Kỳ. Chiến tranh tâm lư được sử dụng để cô lập Pháp và sau đó là Hoa Kỳ về mặt quốc tế và xói ṃn sự gắn kết chính trị trong nước.
    Hoa Kỳ mới chỉ trải nghiệm chiến tranh tâm lư trong chiến tranh thế giới thứ hai và chưa bao giờ thực sự làm chủ nó. CIA chỉ đạo các chiến dịch tuyên truyền chống các địa bàn bị từ chối thuộc khối Liên Xô, nhưng mục tiêu chiến lược của những hoạt động này không mấy khi rơ ràng. Một ví dụ cụ thể là Đài phát thanh châu Âu tự do và Đài phát thanh tự do, cả hai đều do CIA chỉ đạo sau khi được nhận bàn giao từ Quốc hội. Mục tiêu của các đài này là chuyển tải thông tin tới những người bị giam cầm sau "bức màn sắt”. Theo cựu nhân viên CIA Cord Meyer, người phụ trách hai đài phát thanh trong những năm 1950, "thành công của chúng tuỳ thuộc vào việc quyết định tạo ra tin tức khách quan và chính xác trong phạm vi có thể và tập trung đưa tin về các diễn biến nội bộ của khối Liên Xô mà Đài tiếng nói Hoa Kỳ hoặc BBC không thể đưa tin" (2).

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P7


    Hoa Kỳ mới chỉ trải nghiệm chiến tranh tâm lư trong chiến tranh thế giới thứ hai và chưa bao giờ thực sự làm chủ nó. CIA chỉ đạo các chiến dịch tuyên truyền chống các địa bàn bị từ chối thuộc khối Liên Xô, nhưng mục tiêu chiến lược của những hoạt động này không mấy khi rơ ràng. Một ví dụ cụ thể là Đài phát thanh châu Âu tự do và Đài phát thanh tự do, cả hai đều do CIA chỉ đạo sau khi được nhận bàn giao từ Quốc hội. Mục tiêu của các đài này là chuyển tải thông tin tới những người bị giam cầm sau "bức màn sắt”. Theo cựu nhân viên CIA Cord Meyer, người phụ trách hai đài phát thanh trong những năm 1950, "thành công của chúng tuỳ thuộc vào việc quyết định tạo ra tin tức khách quan và chính xác trong phạm vi có thể và tập trung đưa tin về các diễn biến nội bộ của khối Liên Xô mà Đài tiếng nói Hoa Kỳ hoặc BBC không thể đưa tin" (2).
    Theo những người trốn ra từ những địa bàn này, CIA dường như đă đạt được mục đích trên. Đài phát thanh đă thành nguồn tin tức cho những người đằng sau bức màn sắt Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là những người dân đó sẽ làm ǵ với những thông tin, kiến thức có được từ đài. Theo chính sách của Hoa Kỳ th́ ít nhất họ không được khuyến khích có hành vi bạo lực chống lại chính phủ của họ. Hay nói cách khác, thông qua đài phát thanh họ biết được sự thật nhưng sự thật đó không nhằm kích động họ có hành động giải phóng cho ḿnh bằng bạo lực. Thay vào đó, theo Meyer, đài phát thanh góp phần "cải thiện từng ít một khả năng thay đổi dần theo hướng xă hội cởi mở hơn"(3). Các nhà vạch chính sách Hoa Kỳ đă vạch ra ranh giới giữa tiến tŕnh chính trị và cách mạng. Đó chính là ranh giới mà người Hungary không nhận ra hoặc không muốn chấp nhận năm 1956 khi họ cố tự giải phóng ḿnh. Hoa Kỳ, trong một hành động đáng ngạc nhiên, đă từ chối trợ giúp và đứng ngoài khi cuộc cách mạng ở Hungary bị đàn áp.
    Khi CIA tham gia chiến tranh tâm lư, giới quân sự chính thống lại xem nhẹ cái gọi là hoạt động tâm lư chiến này. Hoạt động này liệu có thể làm được ǵ? Các chuyên gia hoạt động tâm lư chiến thường bị các sĩ quan chiến đấu coi thường. Chỉ nói suông với kẻ địch th́ chẳng đạt được ǵ cả. Tốt hơn cả là bỏ hẳn hoạt động này để tái đầu tư nguồn lực vào tàu chiến và xe bọc thép mới. Không giống như những người cộng sản, Lầu Năm Góc không coi chiến tranh tâm lư là một phần quan trọng trong chiến lược chiến tranh nói chung.
    SOG kế thừa chương tŕnh chiến tranh tâm lư từ CIA. Kiến trúc sư của CIA về chương tŕnh này là Herb Weisshart. Xuất phát từ kinh nghiệm bản thân khi hoạt động tại Triều Tiên và Trung Quốc, Weisshart triển khai một chương tŕnh "tờ rơi, gói quà rải qua đường không, chương tŕnh phát thanh tâm lư, những bước triển khai bước đầu của một phong trào chống đối giả mạo và hoạt động trên biển sử dụng các tàu nhỏ cho chiến tranh tâm lư”, Weisshart khái quát hoá nỗ lực này là "một hoạt động có ngân sách nhỏ nhoi", quả là lời đánh giá chính xác(4).
    Theo Weisshart, chương tŕnh của CIA nhằm vào giới lănh đạo và dân chúng Bắc Việt Nam. Chương tŕnh chiến tranh tâm lư của SOG cũng nhằm mục tiêu tương tự. Làm cách nào có thể tác động Hồ Chí Minh và giới lănh đạo Hà Nội? Cái ǵ có thể làm cho họ lo lắng? Làm thế nào Weisshart và sau đó là đồng nghiệp của SOG hy vọng có thể đánh lừa Hà Nội và nhằm mục đích ǵ? Theo một cựu chuyên gia chiến tranh tâm lư, mục đích của hoạt động này là làm cho giới lănh đạo tin rằng họ đang có mối đe doạ về an ninh từ bên trong, rằng dân chúng bất b́nh về cuộc chiến tranh đang phung phí sinh mạng con cháu họ và hệ quả là h́nh thành các nhóm chống đối. Khi mối nghi ngờ này được lan truyền, theo Weisshart, "hy vọng là Hà Nội phải chuyển bớt các lực lượng t́nh báo, phản gián, an ninh nội bộ và quân đội để giải quyết vấn đề an ninh tiềm ẩn đó"(5). Về mặt lư thuyết, đây là những mục tiêu hoàn toàn vừa mức của chiến tranh tâm lư.
    Thế c̣n nhân dân Bắc Việt Nam th́ sao. Ở đây CIA đă vạch ra một ranh giới mỏng manh như từng áp dụng đối với Đông Âu trong những năm 1950. Mục đích là cung cấp thông tin chính xác cho nhân dân Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về chính phủ của họ và cuộc chiến tranh với hy vọng điều đó sẽ làm cho họ bày tỏ sự bất b́nh, thậm chí có h́nh thức chống đối ở mức thấp nào đó. Tuy nhiên, một lần nữa, một câu hỏi rơ ràng được đặt ra: Một khi dân chúng Bắc Việt Nam trở nên bất b́nh và mất ḷng tin với chính phủ của họ, Washington muốn họ làm ǵ. Theo Weisshart, Washington không mong muốn họ "tiến hành các hoạt động bạo lực, nghĩa là không làm nổ các công tŕnh hoặc mục tiêu tương tự... Tôi có cảm giác là Washington muốn dân chúng đạt đến điểm buộc Chính phủ Hà Nội phải áp dụng các biện pháp an ninh nội bộ nào đó...Washington hy vọng sẽ bó tay họ ở mức độ nào đó và buộc họ phải chuyền bớt nguồn lực vào vấn đề an ninh nội bộ thay v́ dành cho chiến tranh ở miền Nam"(6). CIA Và SOG không khuyến khích dân chúng Bắc Việt Nam sát hại quan chức của chính phủ Hà Nội. Tại sao? Theo Weisshart, "anh không muốn họ bị sát hại v́ những ǵ anh bảo họ làm"(7).
    ____________________ _________________
    1. William Daughtery và Morris Janowitz, "Cuốn sách về chiến tranh tâm lư” (Baltimore, Trường Đại học Johns Hopkins, 1958) tr.779.
    2, 3. Cord Mayer "Đối mặt với thực tế”, (New York: Harper and Row, 1980) tr. 113, 114.
    4. Phỏng vấn lịch sử với Herbert Weisshart, trong: "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ Kế hoạch 39 của MACV SOG”, tr. 3.
    5, 6. Phỏng vấn lịch sử với Herbert Weisshart, Sđd,, tr.14; 12,14.
    7. Phỏng vấn lịch sử với Herbert Weisshart, Sđd,, tr.12, 8.
    Mặc dù CIA chuyển giao chiến tranh tâm lư từ năm 1964, đây là một bộ phận c̣n giữ được nguyên vẹn của SOG. Weisshart ghi nhận, "người của chúng tôi (CIA) tiếp tục điều hành các bộ phận cấu thành của OP39 ngay từ đầu. Sau đó giới quân sự dần thay thế khi họ có đủ khả năng"(1).
    Weisshart và trung tá Norbert Richardson chỉ đạo chương tŕnh chiến tranh tâm lư từ những ngày đầu của SOG. Trước đó, Richardson được phân công đến làm việc tại bộ phận chiến tranh tâm lư của Trung tâm CIA Sài G̣n. Cuối mùa xuân 1964, Trung tá Martin Marden trở thành chỉ huy trưởng hoạt động tâm lư chiến của SOG. Marden chỉ có chút ít kinh nghiệm về vấn đề này và những người dưới trướng của ông cũng tương tự như vậy. Họ có thể đă trải qua hoạt động đặc biệt nhưng chưa hề tham gia hoạt động chiến tranh tâm lư. Theo Weisshart nhớ lại, cùng đi với Marden là 25 sĩ quan cấp trung uư và đại uư thông minh, trẻ trung, đầy nhiệt huyết nhưng thiếu kinh nghiệm.
    Đại uư John Harrell là một trong số đó. Tốt nghiệp trường lục quân 1959, Harrell đến nhận nhiệm vụ tại Trung tâm chiến tranh đặc biệt tại Fort Bragg để tham gia khoá huấn luyện các đơn vị chiến tranh tâm lư. Tuy nhiên như sau này Harrell nhớ lại, "hoàn toàn không có hoạt động huấn luyện nào từ Trung tâm chiến tranh đặc biệt... Chúng tôi hoàn toàn không có nhiệm vụ huấn luyện. Chúng tôi không có bài tập thực hành nào về công tác tuyên truyền". Harrell cũng không được huấn luyện về chiến tranh tâm lư. “Chúng tôi chưa bao giờ thực sự đi sâu vào vấn đề này. Họ giới thiệu cho chúng tôi về khái.niệm, một số kỹ thuật chiến tranh tâm lư và nghe một số ví dụ nhưng chúng tôi không hề được đào tạo thật sự về hoạt động này"(2).
    Khi đến Việt Nam, Harrell được phân công phụ trách chi nhánh phân tích và nghiên cứu của OP37. "Tôi không hề có khái niệm về những việc sẽ phải làm cũng như các loại tài liệu mà tôi phải xử lư ngoài những tài liệu mật. Tôi không biết chúng liên quan đến vấn đề ǵ"(3). Harrell rơi vào vị thế lănh đạo một bộ phận mà ḿnh chỉ hiểu biết chút ít. Trong những ngày đầu của SOG, Harrell không phải là trường hợp duy nhất.
    Cuộc chiến tranh tâm lư mà SOG tiến hành chống lại Bắc Việt Nam bao gồm các hoạt động sau: Tạo ra trên danh nghĩa một phong trào chống đối có tên Gươm thiêng ái quốc với mục đích gây ra ấn tượng là có một phong trào chống đối đang hoạt động ở miền Bắc; và tiến hành tuyên truyền tâm lư đối với số ngư dân bị bắt tại đảo Thiên Đường. Khởi đầu từ năm 1965, hoạt động tuyên truyền tâm lư này có mục đích thuyết phục những công dân miền Bắc bị bắt cóc là phong trào Gươm thiêng ái quốc là có thật và đang hoạt động ở vùng giải phóng thuộc miền Bắc. Các hoạt động khác bao gồm: đài phát thanh, rải truyền đơn và quà tâm lư, các lá thư giả gửi cho cán bộ và công dân Bắc Việt Nam từ nước thứ ba; làm tiền giả, và đặt các loại bẫy nổ ở Lào.
    Hoạt động ngầm chống lại đường ṃn Hồ Chí Minh
    Nhiệm vụ cuối cùng của SOG liên quan tới các toán thám báo do Mỹ chỉ huy chống lại đường ṃn Hồ Chí Minh ở Lào. Việc cho tiến hành hoạt động này là một quyết định khó khăn của chính quyền Johnson. Phải mất gần hai năm chính quyền mới cho phép hoạt động "qua giới tuyến" như cách gọi của nhân viên của SOG đối với hoạt động ở Lào. Mặc dù vấn đề phá hoại đường ṃn đă được thảo luận trong quá tŕnh vạch kế hoạch OPLAN34, văn bản cuối cùng đă cắt bỏ hoạt động này. Nguyên nhân là do Hiệp định Gionevơ 1962 về Lào đă ngăn cấm các lực lượng quân sự nước ngoài hoạt động tại đây. Lo ngại sẽ vi phạm Hiệp định, năm 1964 Washington đă có chỉ thị hạn chế các hoạt động ngầm tại Lào như sau: "Các lực lượng của chính phủ Nam Việt Nam không được phép hoạt động dọc theo biên giới Lào... Các nhân viên Hoa Kỳ không được phép tham gia các hoạt động ngầm của Nam Việt Nam tại Lào"(4).
    Tháng 3-1964, Hội đồng tham mưu liên quân đă gây sức ép buộc Bộ trưởng McNamara xóa bỏ hạn chế trên v́ "đă làm giảm hiệu quả hoạt động quân sự ở Việt Nam". Tháng 5-1964, sau khi có bản báo cáo t́nh báo cho thấy "các hoạt động hậu cần tích cực của đối phương tại Lào", Hội đồng tham mưu liên quân được phép "đề xướng các kế hoạch hoạt động qua biên giới hỗn hợp với chính phủ Nam Việt Nam và tiến hành các hoạt động tuần tra thu thập tin tức t́nh báo có giới hạn tại Lào". Trên thực tế điều này có nghĩa là các toán thám báo của Nam Việt Nam có thể qua biên giới Lào, nhưng các cố vấn Mỹ không được phép đi cùng các toán này(5).
    Clyde Russell, chỉ huy trưởng của SOG lúc bấy giờ, biết được quyết định trên khi ông được gọi đến Sài G̣n trong một chuyến thăm của McNamara và được tham gia cuộc họp với sự có mặt của tướng Westmoreland, tướng Taylor và Đại sứ Lodge. McNamara hỏi Russell có một câu: "Bao giờ có thể triển khai hoạt động ở Lào... Tôi muốn có các hoạt động thám sát hệ thống đường giao thông xuất phát từ đường Chín". Trong ṿng 30 ngày, các toán thám báo cần sẵn sàng triển khai. Đó là ư kiến thể hiện đúng tính cách của McNamara. Russell tŕnh bày rằng mặc dù có thể huấn luyện các toán thám báo Nam Việt Nam "nhưng tôi cho rằng các toán này không thể mang lại kết quả cụ thể nào nếu không có sự tham gia của nhân viên Mỹ". McNamara trả lời "tôi đồng ư, tuy nhiên ngoại trưởng Rusk cho rằng vào lúc này chúng ta không nên đưa lực lượng Mỹ vào khu vực đó"(6).
    Russell muốn phát triển một kế hoạch đầy tham vọng mang tên "Leaping Len" và huấn luyện các toán thám báo Việt Nam. Tuy nhiên các toán này tỏ ra không đủ năng lực tiến hành các hoạt động "bên kia giới tuyến" ở Lào và chỉ có một số ít là c̣n sống sót trở về. Đó là một thảm hoạ, mặc dù hoạt động này có mang lại một số thông tin bổ ích về hoạt động của quân đội Bắc Việt Nam dọc theo đường ṃn. Những lực lượng này không phải là các toán du kích chân đất đi bộ xuyên rừng rậm mà là các đơn vị chủ lực của Bắc Việt Nam. Hà Nội bảo vệ tuyến đường khá nghiêm ngặt v́ ư nghĩa chiến lược của nó đối với việc tiến hành chiến tranh ở miền Nam.
    ____________________ ___________________
    1. Phỏng vấn lịch sử với Herbert Weisshart, Sđd,, tr.12, 8.
    2, 3. Phỏng vấn lịch sử với trung tá John Harrell, trong: “MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ Kế hoạch 39 của MACVSOG”, tr.1, 2.
    4, 5. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Bộ tổng tham mưu liên quân (tháng 7- 1970), Phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào", tr 4; 6,7.
    6. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Sđd, tr.8.
    Vào đầu năm 1965, MACV kiến nghị cần làm một việc ǵ đó với phần đường ṃn tại Lào. Tuy nhiên Washington vẫn c̣n lo ngại về tính nhạy cảm chính trị nếu Mỹ có can thiệp quân sự bí mật tại Lào. Đây chính là t́nh trạng mà Don Blackburn kế thừa khi nhận chức chỉ huy trưởng SOG tháng 5-1965. Blackburn nhanh chóng nhận ra là nếu SOG tiến hành các hoạt động chống lại đường ṃn, các toán thám báo phải do Mỹ chỉ huy. Blackburn giải thích "V́ sự thất bại của các toán thám báo người địa phương, tôi cho rằng hoạt động này phải do Mỹ chỉ huy và lănh đạo". Để làm điều đó cần được phép của cấp cao hơn ở Washington. Blackburn thực hiện một chuyến công tác đặc biệt đến Washington để giải tŕnh lập luận của ḿnh. "Tôi biết là tôi phải đi để có được đèn xanh cho hoạt động bên kia biên giới tại Lào và tôi đă làm như vậy"(1).
    Trong khi Blackburn đang đấu tranh, SOG xây dựng một kế hoạch hành động ở Lào. Kế hoạch này đề ra "3 giai đoạn khởi đầu bằng các nhiệm vụ thu thập tin tức t́nh báo chiến lược với thời gian lưu trú ngắn cho đến nhiệm vụ phá hoại với thời gian lưu trú dài hơi hơn tiến đến các nhiệm vụ dài hạn là phát triển nguồn chống đối"(2). Giai đoạn một của kế hoạch này được phê chuẩn vào tháng 9-1965. Toán thám báo do Mỹ chỉ huy đầu tiên được tung vào Lào vào tháng 10-1965. Tuy nhiên trước khi mọi việc được triển khai, các đại diện của Bộ Ngoại giao, Quốc pḥng, CIA, Đại sứ quán Mỹ tại Lào, Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương và MACV đă bàn thảo và đi tới nhất trí với nhau về những giới hạn của hoạt động này. Tương tự như các bộ phận khác của SOG, bộ phận chỉ đạo hoạt động thám báo cũng gặp phải những vấn đề trong quản lư, sự giám sát chặt chẽ về chính trị và các giới hạn ngặt nghèo trong hoạt động.
    Về mặt tổ chức, hoạt động chống lại đường ṃn Hồ Chí Minh được giao cho một bộ phận mới của SOG. Trong sơ đồ tổ chức năm 1969, bộ phận này có mật danh OP35 - "nhóm nghiên cứu mặt đất". Để h́nh thành bộ phận này, Blackburn đă tuyển chọn một sĩ quan lừng danh trong quân đội, đại tá Arthur D. Simon. Được mô tả là người "chiến binh cứng rắn và thô lỗ", Simon c̣n được gọi một cách ngắn gọn hơn là người "không biết sợ”. Simon vừa là chiến binh vừa là chỉ huy và đă chứng tỏ phẩm chất đó của ḿnh trong nhiều trận đánh. Mọi người muốn đi theo và tin ở khả năng lănh đạo đưa họ vượt qua mọi t́nh huống nguy hiểm của Simon. Lời khen ngợi dưới đây của một nhân viên đă từng cùng chiến đấu với Simon minh chứng cho điều này. "Tôi muốn đi theo Simon "ḅ tót" ngay cả khi xuống địa ngục rồi quay trở về chỉ v́ một niềm thích thú duy nhất là được đi cùng anh ta".
    Với biệt danh "ḅ tót", Simon trước đó đă từng làm việc với Blackburn. Blackburn đă chọn và giao cho Simon tổ chức và huấn luyện các đơn vị địa phương quân ở Lào trong những năm đầu 1960. Simon đă đưa toán quân 107 người tham gia một chiến dịch có mật danh "White Star - Sao trắng" ở Lào. Mục tiêu ban đầu của chiến dịch là huấn luyện quân đội Lào. Tuy nhiên, sau đó Simon được giao nhiệm vụ giúp đỡ những người dân tộc vùng núi cao tiến hành các hoạt động du kích quấy phá giao thông dọc theo tuyến đường Hồ Chí Minh. Khi hoàn thành nhiệm vụ, Simon đă thành lập một lực lượng đáng kể những người thiểu số. Các toán "Sao trắng" này chủ yếu hoạt động ở cao nguyên Boloven.
    Có thể dễ dàng đoán trước được kết quả hoạt động do Simon "ḅ tót" chỉ huy. Blackburn nhớ lại "Chúng tôi đă nắm giữ cao nguyên Boloven cho đến Hiệp định Paris 1962... trong chiến dịch "Sao trắng" chúng tôi đă nhét được chiếc nút vào chai và điều đó hết sức thuận lợi... chính Simon đă làm được việc này. Cao nguyên Boloven thường được coi là vùng cổ chai của ḍng di chuyển từ Bắc xuống Nam. Simon đă nhận ra điều này và muốn làm một việc ǵ đó... Vào lúc bấy giờ Pathet Lào đang kiểm soát Boloven. Simon đă chỉ huy chiến dịch đẩy Pathet Lào ra khỏi cao nguyên và chiếm giữ vùng này cho đến khi buộc phải rút lui theo Hiệp định Giơnevơ”(3).
    Năm 1965, Simon nhận được một cú điện thoại của Blackburn. Blackburn đang cần người để tổ chức các toán thám báo do Mỹ chỉ huy cho các hoạt động bí mật tại Lào. Simon được biết mục đích của các hoạt động đó là "xây dựng năng lực ngăn chặn sự di chuyển nguồn cung cấp dọc theo đường ṃn Hồ Chí Minh và mọi việc bắt đầu từ con số không. Chúng tôi biết rằng phải mất nhiều thời gian để đạt được mục đích đó"(4). Ngay lập tức Simon lên đường đến SOG.
    Bộ máy do Simon lập ra năm 1965 phát triển một cách nhanh chóng trong những năm sau. OP35 trở thành bộ phận hoạt động lớn nhất của SOG. Năm 1966, 137 toán thám báo được tung sang hoạt động ở Lào. Bắt đầu từ năm 1967, địa bàn hoạt động của OP35 mở rộng sang Campuchia. Năm 1969, số điệp vụ thực hiện ở Lào và Campuchia là 400. Phần lớn các điệp vụ này là các toán nhỏ do sĩ quan Mỹ chỉ huy có nhiệm vụ xác định mục tiêu cho máy bay không kích. Các điệp vụ khác bao gồm bắt cóc người của đối phương, đánh giá kết quả oanh kích, chụp ảnh mặt đất, đặt máy nghe trộm điện thoại và cài đặt các thiết bị cảm ứng điện tử.
    Các bộ phận hỗ trợ của SOG
    SOG có ba bộ phận hỗ trợ chính cho bốn bộ phận nghiệp vụ. Bộ phận thứ nhất là "Bộ phận nghiên cứu hàng không” và "Nhóm nghiên cứu hàng không" được biết đến dưới mật danh OP32 và OP75. Bộ phận nghiên cứu hàng không vạch kế hoạch hỗ trợ hàng không c̣n OP75 có chức năng thực hiện các kế hoạch đó và được trang bị các loại máy bay: trực thăng chiến thuật, vận tải và máy bay kiểm soát không trung. Các máy bay này được bố trí tại Việt Nam và Thái Lan.
    Sự hỗ trợ của máy bay trực thăng, phần quan trọng cho các điệp vụ của OP35 ở Lào và Campuchia, do một đơn vị của không quân Nam Việt Nam - phi đội trực thăng 219 - và hai phi đội trực thăng hoạt động đặc biệt của không lực Hoa Kỳ tại Udorn và Nakhon Phanom, Thái Lan thực hiện. Các máy bay chiến thuật và kiểm soát không lưu chủ yếu là của Hoa Kỳ, mặc dù Nam Việt Nam có giao cho SOG một phi đội máy bay chiến đấu. Cuối cùng, SOG có các phi công từ một nước thứ ba: Đài Loan, lái những chiếc máy bay không số hiệu xâm nhập vào miền Bắc Việt Nam.
    Bộ phận đáng chú ư thứ hai là Pḥng hậu cần-OP40. Trong khi hoạt động hậu cần thường mang tính ổn định, OP40 là một ngoại lệ v́ bộ phận này làm việc với Văn pḥng hỗ trợ chống bạo loạn và Văn pḥng hậu cần Viễn Đông tuyệt mật của CIA, cả hai đều đặt tại Okinawa. Hai cơ quan này cung cấp cho SOG hàng loạt thiết bị chiến tranh đặc biệt như các vũ khí chuyên dụng, trang phục của quân đội Bắc Việt Nam cho các đơn vị thám báo, súng AK47, các loại bẫy, thiết bị nghe trộm đặc biệt và các chất làm cho gạo nhiễm độc.
    Những thiết bị khác thường, và đôi khi rất ác hiểm này, không hẳn đă được Washington đánh giá cao. Singlaub nhớ lại một trường hợp có liên quan đến việc làm nhiễm độc các kho chứa gạo dọc theo đường ṃn Hồ Chí Minh. “Chúng tôi gặp phải một số rắc rối liên quan đến gạo. Tôi muốn dùng một hoá chất có tên Bitrex có thể dễ dàng làm cho gạo hư hỏng mà gạo vô cùng cần thiết cho hoạt động của quân đội miền Bắc. Đôi khi chúng tôi gặp kho gạo chứa đến 100 tấn, đó là một số lượng lớn. Nếu chúng tôi có thể dùng Bitrex để rải lên gạo, thứ gạo đó sẽ không dùng được nữa...- Bộ Ngoại giao không cho dùng Bitrex. Nhưng trong thực tế số gạo đó là để cho quân đội sử dụng và nếu bị huỷ hoại sẽ làm tăng thêm gánh nặng cho hoạt động cung cấp của đối phương"(5). Bộ Ngoại giao coi Bitrex là một vũ khí hoá học, mặc dù nó không gây độc hại ǵ; hoá chất này chỉ làm cho gạo có vị đắng. Sau những cuộc tranh luận căng thẳng giữa Bộ Ngoại giao và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, cuối cùng Singlaub được phép sử dụng Bitrex.
    Bộ phận thứ ba có vai tṛ cực kỳ quan trọng đối với mọi hoạt động của SOG là pḥng thông tin liên lạc, OP60. Các thiết bị mật mă cao cấp của bộ phận này đảm bảo liên lạc an toàn với các nhân viên của SOG đang hoạt động trên thực địa. Một trong những trạm chuyển tiếp tiền tiêu của pḥng được đặt ở trên đỉnh ngọn núi dựng đứng ở Nam Lào. Trạm này đă trở thành vị cứu tinh cho các toán thám báo tại Lào đang gặp khó khăn trầm trọng trong việc duy tŕ liên lạc. Theo một cựu thám báo, từ đỉnh núi này các bức điện được chuyển tới cho các toán thám báo và nhờ đó giải quyết được vấn đề sống c̣n mà họ đang gặp phải. "Bộ đội Bắc Việt Nam đă phát hiện ra thủ đoạn hoạt động của SOG và bắt đầu để cho các toán thám báo đổ bộ an toàn và chờ cho đến khi máy bay trực thăng đi khuất và khỏi tầm liên lạc mới bắt đầu tấn công"(6). Mang mật danh Leghorn, đài tiếp sóng tỏ ra vô cùng quư báu. Vị trí này cũng là trung tâm của hệ thống t́nh báo kỹ thuật hiện đại của cơ quan an ninh quốc gia thu tin và gây nhiễu thông tin của quân đội Bắc Việt Nam, đồng thời hỗ trợ cho hoạt động của SOG và hoạt động t́nh báo có liên quan khác.
    Bốn nhiệm vụ chủ yếu của SOG: cài cắm các toán biệt kích và chương tŕnh đánh lạc hướng; chiến tranh tâm lư; hoạt động phá hoại ven biển; và ngăn cản đường ṃn Hồ Chí Minh cấu thành chiến dịch bán vũ trang bí mật. Điều cốt yếu là để có vai tṛ nào đó trong chiến lược quân sự Mỹ ở Việt Nam, các bộ phận cấu thành cần được thực hiện dưới dạng một chiến dịch chung thống nhất.
    Vạch kế hoạch quân sự là một yếu tố của hoạch định chính sách và chiến lược chiến tranh. Chiến lược quân sự thường bao gồm một hay nhiều chiến dịch. Những chiến dịch đó diễn ra ở tầm hoạt động mà mục đích của chúng là hoàn thành mục tiêu chiến lược đă đề ra.
    Bốn nhiệm vụ cốt lơi của SOG tạo thành nền tảng cho chiến dịch bán quân sự bí mật nhằm vào hai mục tiêu tối quan trọng: an ninh nội bộ và sự kiểm soát dân chúng của Hà Nội và việc sử dụng đường ṃn Hồ Chí Minh. Chiến lược đề ra trọng điểm cho mọi chiến dịch và ngược lại mọi chiến dịch phải hỗ trợ mục tiêu của chiến lược. Như cách nói của giới quân sự, chiến lược biến chính sách thành khái niệm quân sự thông qua việc đề ra mục tiêu chiến lược quân sự. Đến lượt ḿnh, những mục tiêu quân sự đó thường là một bộ phận cấu thành của chiến lược toàn diện để tiến hành chiến tranh.
    Do vậy, có mối tác động qua lại và thống nhất giữa chính sách, chiến lược và chiến dịch. Chính sách xác định mục đích mà chiến lược cần phải đạt được. C̣n chiến dịch chỉ có ư nghĩa khi chúng hỗ trợ và thống nhất với chiến lược và được phối hợp chặt chẽ. Sự hài hoà sẽ củng cố thành công, c̣n lủng củng sẽ làm giảm thắng lợi. Trong trường hợp SOG, sự phối hợp và thống nhất tỏ ra hết sức khó khăn, đôi khi c̣n không tồn tại. SOG đă triển khai và thực hiện chiến dịch bán quân sự bí mật tập trung vào hai mối lo ngại chiến lược của đối phương. Tuy nhiên, không có những nỗ lực rơ ràng nhằm hoà hợp chiến dịch đó với chiến lược quân sự tổng thể cho chiến tranh Việt Nam.
    ____________________ _________________
    1. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn, trong : "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan chỉ huy của SOG", tr.7,37.
    2. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Bộ tổng tham mưu liên quân (tháng 7-1970), phụ lục D, phần “Hoạt động qua biên giới tại Lào", tr 10.
    3, 4. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn, trong: “MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan chỉ huy của SOG", tr.16-17,18, 35.
    5. Pḥng vấn lịch sử với thiếu tướng John L. Singlaub, trong : “MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan chỉ huy của SOG", tr.46.
    6. Plaster, "Cuộc chiến tranh biệt kích bí mật ở Việt Nam”, tr.77,78.
    CHỈ HUY VÀ KIỂM SOÁT SOG
    Những hoạt động mà SOG tiến hành được coi là rất nhạy cảm và gây lo ngại cho giới quân sự và các nhà vạch chính sách mặc dù với các lư do hoàn toàn khác nhau. Thực ra có yếu tố xuất phát từ thái độ của Washington. Đầu tiên, chính quyền Kenedy rất nhiệt t́nh với các hoạt động bí mật chống lại Bắc Việt Nam và muốn quản lư các hoạt động này ở tầm thực hiện. Các quan chức cao cấp, do không lường trước được tính phức tạp trong việc thực hiện chiến dịch ngầm tại địa bàn bị từ chối, mong muốn có ngay hiệu quả. Hơn nữa họ đ̣i phải biết hết mọi chi tiết. Tác động là ǵ? Hà Nội có cảm thấy sức ép không? Washington muốn biết tất cả mọi thứ.
    Khi kết quả không được như ư muốn, mọi người nhanh chóng đổ lỗi cho nhau. Kenedy không hài ḷng với kết quả các hoạt động chống phá miền Bắc của CIA và giao việc này cho Lầu Năm Góc. Sau đó, vào cuối mùa xuân 1964, chính quyền Johnson thất vọng v́ sự tiến triển chậm chạp của SOG và McNamara kêu gọi tăng cường số lượng điệp vụ ngay lập tức. V́ chiến tranh tập trung chủ yếu vào các hoạt động theo quy ước, vị chỉ huy thứ ba của SOG, Singlaub nhận xét rằng các quan chức hoạch định chính sách cao cấp không c̣n để tâm đến sự đóng góp của hoạt động ngầm nữa. "Tôi cảm nhận rất rơ là thái độ đó diễn ra v́ thiếu nhận thức về tác dụng hỗ trợ của hoạt động ngầm đối với hoạt động thông thường. Trước khi đưa quân đội vào Việt Nam, hoạt động ngầm là biện pháp quân sự duy nhất. Khi quân đội đă được đưa vào, người ta tin rằng họ có thể đạt được mục tiêu của chúng ta. Ai ai cũng lạc quan: chỉ cần đưa vài trung đoàn vào là chúng ta sẽ nghiền nát họ. Nhưng điều đó không xảy ra và chúng tôi, những người nghiên cứu vấn đề này, biết rằng mọi chuyện sẽ không diễn ra theo chiều hướng đó"(1).
    Thái độ mâu thuẫn trên của các nhà hoạch định chính sách bắt nguồn từ một thực tế là họ vừa tích cực ủng hộ hoạt động ngầm vừa hiểu rơ những hệ quả ngoài ư muốn mà những hoạt động đó có thể gây ra. Họ sợ nhất là sự việc bị vỡ lở trước công luận. Các nhà vạch chính sách dân sự th́ e ngại làm đảo lộn t́nh h́nh ở Lào và đối mặt với sự chỉ trích của quốc tế nếu như các phi vụ phá hoại đường ṃn Hồ Chí Minh bị đưa ra công khai. Đối với Bắc Việt Nam, họ sợ rằng sự mất ổn định ở miền Bắc sẽ dẫn tới sự can thiệp của Trung Quốc, tạo ra một Triều Tiên thứ hai. Thậm chí nếu điều đó không xảy ra, các hoạt động ngầm nếu quá liều có thể buộc miền Bắc đẩy mạnh chiến tranh ở miền Nam, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng. Những mối lo ngại này đă tạo ra hàng loạt giới hạn cho mọi hoạt động của SOG. Khi sự nhiệt t́nh đối với hoạt động ngầm giảm đi, sự lưỡng lự và những hạn chế trong hoạt động được duy tŕ đến phút cuối cùng. Hệ quả là, sự giám sát của Nhà Trắng đối với SOG là hết sức nghiêm ngặt.
    Các quan chức quân sự cao cấp cũng khó chịu đối với hoạt động của SOG, nhưng với lư do khác hẳn. Mối quan tâm của họ liên quan nhiều hơn đến thái độ của giới quân sự chính thống đối với chiến tranh đặc biệt nói chung, bất kể đó là chống bạo loạn hay chiến tranh không quy ước. Các tướng lĩnh không tin là hoạt động đặc biệt có thể đóng góp nhiều cho việc tiến hành chiến tranh ở Nam Việt Nam. Blackburn đă mô tả như sau "Tại sao chúng ta không thể sử dụng lực lượng đặc biệt theo cách có hiệu quả hơn? Westmoreland là một vị tư lệnh chính thống... Ông thường xuyên gặp tư lệnh các lực lượng và quan tâm đến công việc của họ. Ông ta chẳng bao giờ để ư đến chúng tôi"(2).
    Các viên tướng của Lầu Năm Góc lại có lư do khác để phản đối hoạt động bí mật. Sự hấp dẫn của hoạt động này cùng với nhiệt t́nh của Kenedy đối với lực lượng mũ nồi xanh thu hút sự chú ư của các sĩ quan trẻ đầy hứa hẹn. Đối với số lănh đạo quân đội cao cấp th́ đây là vấn đề. Singlaub hiểu rơ thái độ này qua chính sự nghiệp của ḿnh. Đă từng là một trong những sĩ quan hoạt động đặc biệt tài năng nhất của quân đội, nhưng Singlaub lên được cấp tướng là nhờ những thành tích công tác trong các công việc có tính chính thống. Thực ra, khi biết ḿnh được chọn làm chỉ huy trưởng của SOG, Singlaub, lúc bấy giờ là đại tá, đă cố thoái thác. Ông đề nghị tham mưu trưởng lục quân Harold Johnson cho phép ông giữ một vị trí chỉ huy trong lực lượng thông thường tại Việt Nam. Singlaub nhớ lại "lúc đó vẻ mặt của Johnson thể hiện sự mất kiên nhẫn... Ông ta nói với tôi: Jack, tướng Westmoreland đă yêu cầu đích danh cậu làm chỉ huy trưởng của SOG và đó sẽ là nhiệm vụ của cậu(3). Điều này có vẻ như mâu thuẫn. Tại sao giới quân sự chính thống lại sợ mất những sĩ quan trẻ triển vọng mà lại cử một đại tá hạng nhất nhận nhiệm vụ tại SOG? Có lẽ lư do mà Westmoreland khăng khăng chỉ định Singlaub chính là những thành tích mà Singlaub có được khi thực hiện nhiệm vụ thông thường chứ không phải kinh nghiệm hoạt động đặc biệt. Singlaub không phải mẫu người hùng mà Westmorelanh ít thiện cảm như Blackburn. Westmoreland cảm thấy Singlaub dễ chịu hơn.
    Tất cả nhưng e ngại, lo sợ của giới quân sự và dân sự cao cấp đă tạo nên một tiến tŕnh phê duyệt rắc rối cho mọi điệp vụ của SOG. Hàng tháng, mỗi bộ phận của SOG phải đề ra kế hoạch hoạt động cho 30 ngày của tháng tới. Kế hoạch này được chỉ huy trưởng của SOG đệ tŕnh trực tiếp lên Westmoreland. SOG cố t́nh bỏ qua đối tác của ḿnh là Tổng nha kỹ thuật chiến lược mặc dù OPLAN34 xác định là việc phối hợp và hỗ trợ hoạt động ngầm của Tổng nha kỹ thuật chiến lược là tối quan trọng. Lư do Tổng nha kỹ thuật chiến lược bị gạt ra ngoài là v́ lănh đạo của SOG tin rằng cơ quan này đă bị xâm nhập. Bản kế hoạch sau đó được tŕnh lên Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương cho ư kiến rồi gửi cho Hội đồng tham mưu liên quân - tới Trợ lư đặc biệt về chống bạo loạn và hoạt động đặc biệt. Trong Lầu Năm Góc, viên trợ lư này sẽ tŕnh bản kế hoạch cho Văn pḥng Bộ trưởng và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân xem xét và phê duyệt. Sau đó nhân viên của trợ lư đặc biệt về chống bạo loạn và hoạt động đặc biệt sẽ mang bản kế hoạch hoạt động sang Bộ Ngoại giao, CIA và Nhà Trắng để xin phê duyệt.

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P8



    Tại bất kỳ khâu nào trong tiến tŕnh trên, các hoạt động nêu trong kế hoạch đều có thể bị sửa đổi hoặc gạch bỏ. Theo hai vị chỉ huy trưởng đầu tiên của SOG, việc này thường xuyên xảy ra. Russell nhận xét “Khi chúng tôi gửi bản kế hoạch về nước, nó đă bị thay đổi ít nhiều rồi. Khi tŕnh lên Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương nó bị thay đổi thêm ít nữa và khi đến được Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, bản kế hoạch tiếp tục bị cắt xén". Sau Hội đồng tham mưu trưởng liên quân là đến lượt các cơ quan dân sự.
    Russell cho rằng tiến tŕnh phê duyệt này tạo ra “quá nhiều” hạn chế một cách quá "thường xuyên"(4). Don Blackburn cũng có cái nh́n tương tự "sự kiểm soát chặt chẽ từ Washington đă ḱm hăm các hoạt động. Tôi hiểu được những vấn đề Washington đang gặp phải nhưng sự kiểm soát nghiêm ngặt đó làm mất thời gian tính. Điều lạ lùng là một số hoạt động do Nhà Trắng trực tiếp phê duyệt. Đôi khi phải mất ba bốn tuần lễ để ra quyết định"(5).
    Một ví dụ điển h́nh của quá tŕnh cắt xén này là việc Bộ Ngoại giao khăng khăng không cho SOG hoạt động ở Lào với lư do: theo Hiệp định Giơnevơ năm 1962, Lào là quốc gia trung lập và những nỗ lực đưa các toán thám báo do Mỹ chỉ huy vào hoạt động phá hoại đường ṃn Hồ Chí Minh bị ngăn cản cho đến mùa thu năm 1965. Khi Đại sứ Mỹ ở Lào William Sulivan không thể ngăn SOG được nữa, ông đă thành công trong việc đặt ra một loạt những giới hạn nghiêm ngặt cho các hoạt động bí mật. Theo Blackburn "Sulivan muốn chúng tôi giới hạn hoạt động trong một khu vực khoảng 20x30 dặm. Ông ta cũng không muốn chúng tôi sử dụng máy bay trực thăng... Sau khi nghe tôi giải thích ông hiểu ra nhưng chỉ đồng ư cho sử dụng máy bay trực thăng để đưa các toán thám báo ra chứ không cho đưa vào. Phải rất vất vả mới có thể làm nhẹ bớt những giới hạn ngặt nghèo này"(6).
    Tương tự như vậy, CIA không muốn cho SOG hoạt động ở Lào nhưng không phải v́ Hiệp định Giơnevơ. CIA cũng đang chỉ đạo một cuộc chiến bí mật ở bắc Lào. CIA đă tổ chức và vũ trang cho người H'mông do Vàng Pao chỉ huy và không muốn SOG đụng chạm đến địa bàn họ đang hoạt động.
    Thậm chí sau khi kế hoạch hoạt động được phê duyệt, quá tŕnh giám sát vẫn chưa kết thúc. Mỗi một điệp vụ cụ thể của kế hoạch đó đều phải trải qua quá tŕnh phê duyệt tương tự. 24 giờ trước khi tiến hành điệp vụ, SOG phải báo cáo cho các cơ quan cho phép về điệp vụ đó qua MACV.
    ____________________ __________________
    1. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng John Singlaub, trong: "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan chỉ huy của SOG", tr. 76.
    2. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn, trong: "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan chỉ huy của SOG” tr.27.
    3. Singlaub "Nhiệm vụ nguy hiểm” tr. 293.
    4, 5. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Bộ Tổng tham mưu liên quân (tháng 7-1970 ), phụ lục B, phần "Nhận xét việc chỉ huy và kiểm soát của SOG", tr 3.8.
    6. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn, trong: "MACVSOO: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan chỉ huy của SOG", tr. 18

    http://1.bp.blogspot.com/-asE6yX--tC...Commanders.jpg
    SOG COMMANDERS at Pentagon



    CHƯƠNG BA
    BẮC TIẾN



    Khi tổng thống Kenedy tuyên bố tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng an ninh quốc gia ngày 28 tháng Giêng 1961 rằng ông muốn tiến hành hoạt động du kích trong ḷng miền Bắc, ư nghĩ đó xuất phát từ mối quan tâm sâu sắc từ rất lâu của ông đối với chiến tranh đặc biệt. Ngày 27-4-1961, Kenedy nói với các thành viên của Hội đồng an ninh quốc gia "Chúng ta bị chống đối ở khắp nơi trên thế giới bởi các thế lực dựa chủ yếu vào các phương tiện bí mật để mở rộng phạm vi ảnh hưởng - bằng xâm nhập chứ không xâm lược, lật đổ chứ không bầu cử, hoạt động du kích ban đêm chứ không dùng lực lượng quân đội ban ngày". Chính quyền cần hiểu rơ Hoa Kỳ đang phải đối mặt với những ǵ. Theo Kenedy "đó là cuộc đấu tranh c̣n khó khăn hơn chiến tranh trên nhiều khía cạnh" và nước Mỹ cần bắt đầu đọc tác phẩm của Mao Trạch Đông và Che Guevara về chiến tranh du kích(1). Và ông đă làm đúng như vậy.



    Khi báo cáo trước Hội đồng an ninh buổi họp đó, tướng Lansdale nêu rơ Việt Cộng đang tiến hành một chiến dịch chiến tranh du kích ngày càng thành công và mở rộng chống lại Nam Việt Nam. Chiến lược của Việt Cộng do Hà Nội hỗ trợ rất tinh vi với mục đích cuối cùng là lật đổ chế độ Diệm. Theo Lansdale sự sụp đổ của chế độ Sài G̣n đă hiện ra ở phía chân trời.
    Tại sao Việt Cộng lại thành công như vậy? Liệu chúng ta có thể tạo ra điều tương tự ở miền Bắc không? Ít nhất có hai yếu tố dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của Việt Cộng. Thứ nhất là kinh nghiệm. Hồ Chí Minh và các nhà lănh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam là bậc thầy về những nguyên tắc chiến tranh cách mạng, việc họ đánh bại Pháp chứng minh rơ điều này. Khi Hà Nội quyết định thay đổi chiến lược từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang ở miền Nam vào năm 1960, những người được cử đi miền Nam để thực hiện chiến lược đó được học tập và có nhiều kinh nghiệm về chiến tranh cách mạng. Những cán bộ nằm lại miền Nam sau năm 1954 cũng giàu kinh nghiệm như vậy và giờ đây họ được chỉ thị tái tiến hành hoạt động quân sự.
    Vào tháng 12-1960, những kinh nghiệm này đă mang lại kết quả và Hà Nội quyết định đă đến lúc chính thức thành lập Mặt trận giải phóng miền Nam. Mục đích của Mặt trận, hay theo cách gọi của Mỹ: Việt Cộng, là tiến hành cuộc tổng nổi dậy vũ trang ở Nam Việt Nam. Mặc dầu do Hà Nội kiểm soát, Mặt trận giải phóng miền Nam tuyên bố đấu tranh v́ độc lập dân tộc chứ không phải đấu tranh giai cấp. Điều này đă mở rộng cơ sở chính trị và dễ dàng tuyên truyền trên trường quốc tế. Đấu tranh giai cấp cần phải chờ sau khi đă có cuộc cách mạng. Mặt trận đơn giản chỉ là một phiên bản mới của tổ chức Việt Minh do Hồ Chí Minh thành lập năm 1941 để huy động tinh thần chống Pháp và Nhật vào phong trào đấu tranh cách mạng. Tuy nhiên Mặt trận có hai lợi thế cực kỳ quan trọng: (1) Mặt trận có thể rút kinh nghiệm và bài học mà Hà Nội tích luỹ được từ chiến thắng của Việt Minh đối với Pháp năm 1954 và (2) được miền Bắc cung cấp phương tiện và cả quân đội.
    Vào những năm 1960, nhiều yếu tố hư cấu được phủ lên Việt Cộng, kể cả từ hai phía phản đối và ủng hộ họ. Một bên, trong đó có Washington, mô tả Việt Cộng là một tổ chức khủng bố mà thành công chỉ dựa trên sự cưỡng bức. Ví dụ, tháng 12-1961, sách trắng của chính quyền Kenedy về t́nh h́nh Việt Nam cho rằng phong trào (Việt Cộng) "dựa vào mọi biện pháp để gây rối loạn và mất trật tự... mọi chiến thuật, kể cả khủng bố, hoạt động vũ trang hoặc thuyết phục đều được sử dụng"(2). Phía bên kia, phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ, lăng mạn hoá h́nh ảnh Việt Cộng như là du kích chân đất và họ thành công v́, theo như Fitzgerald, "những người nông dân Việt Nam thấy họ tốt hơn"(3).
    Mỗi quan điểm đều có phần sư thật. Việt Cộng không cần mất nhiều thời gian để tuyển lựa nông dân, điều đó phản ánh thái độ tôn trọng đối với họ. Tuy nhiên họ cũng ám sát địa chủ và quan chức chính phủ. Trong thực tế, Việt Cộng là một phong trào có tổ chức cao kết hợp các yếu tố tư tưởng, tổ chức, chính sách và chương tŕnh cải tổ, tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc và bạo lực thành một chiến lược chính trị- quân sự của chiến tranh cách mạng.
    Lư do thứ hai giúp Việt Cộng phát triển nhanh chóng có liên quan với chính quyền Diệm. Diệm được mô tả là người "bất tài đă giữ vị trí lâu hơn dự kiến của mọi người... khép kín và hoang tưởng, Diệm lệ thuộc hoàn toàn vào gia đ́nh, không chịu giao quyền hành và chẳng làm ǵ để tạo ra một chính phủ được ủng hộ rộng răi"(4). Tham nhũng, bất tài, đàn áp, và xa rời dân là những đặc trưng của chính quyền Diệm vào đầu những năm 1960. Rơ rằng t́nh thế là có lợi cho Việt Cộng.
    Với Mỹ, cả hai lợi thế này không tồn tại ở miền Bắc vào năm 1961. Thứ nhất, chưa hề có phong trào chống đối cộng sản sẵn có để dựa vào. Những điệp viên nằm vùng mà Lansdale đă cài lại ở miền Bắc đă bị Bộ Nội vụ bóc gỡ từ lâu. Không có những người chờ đợi tín hiệu để kích động sự chống đối vũ trang ở miền Bắc như đă từng xảy ra ở miền Nam vào năm 1959. Thứ hai, Hồ Chí Minh và những người đồng chí thành lập một cấu trúc phản gián nhà nước và hệ thống an ninh của họ thật hữu hiệu. Cựu giám đốc CIA William Colby nhận xét "Xă hội được tổ chức chặt chẽ, không ai lại có thể nằm ngoài tổ chức... một xă hội rất kỷ luật. Đó là nơi chúng ta thực hiện các hoạt động chống lại họ"(5).
    Liệu Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara có nhận ra điều này không khi ông ép Lầu Năm Góc nhận bàn giao các hoạt động ngầm chống lại miền Bắc từ CIA? Rơ ràng là không. McNamara không đổ lỗi thất bại của CIA cho sự khó khăn của mục tiêu mà cho sự rụt rè của cơ quan này. Những ǵ cần là một chiến dịch lớn hơn. Hăy làm cái ǵ thật lớn và tung nhiều toán biệt kích ra Bắc - đó là câu trả lời. Giới quân sự có thể nạp thêm nhiều năng lượng cho các hoạt động đó. Trong hồi kư, McNamara thừa nhận là "đó là mục tiêu quá tham vọng”(6). Có thể là như vậy. Nhưng vào những năm đầu 1960, ông là người nhiệt t́nh ủng hộ hoạt động ngầm vốn đang mê hoặc chính quyền Kenedy.
    Richard Helm, lúc bấy giờ là Phó Giám đốc CIA phụ trách kế hoạch, tham dự cuộc họp của Uỷ ban 303 xem xét tất cả các hoạt động ngầm. Helm đă thăng tiến bằng con đường chuyên môn và đến năm 1966 nắng giữ cương vị giám đốc Helm là người điều hành hoạt động bí mật. Ông biết rơ công việc và không hề ảo tưởng rằng hoạt động ngầm là chiếc đũa thần kỳ. Nó đ̣i hỏi thời gian, kinh nghiệm, và làm việc nhọc nhằn để thành công. Nhắc đến chính quyền Kenedy, nhất là tổng thống và em trai- Robert, vị cựu giám đốc CIA này nhận thấy họ rất nhiệt t́nh đối với hoạt động ngầm nhưng không hiểu biết mấy về tính phức tạp khi thực hiện chúng. Về lập luận của McNamara chuyển giao hoạt động ngầm từ CIA sang Bộ Quốc pḥng, Helm giải thích như sau: "Nếu anh em Kenedy đồng ư, McNamara cũng đồng ư". Liệu McNamara có biết phải cần những ǵ để thành công ở miền Bắc không? Helm nghi ngờ điều đó. "McNamara chẳng biết ǵ về những hoạt động kiểu đó cả”(7).
    ____________________ ____________________ _
    1. Các tài liệu của Tổng thống John F.Kenedy. 1961 (Washington DC, Nhà in chính phủ, 1962) tr.336.
    2. Sách trắng, 1961 trong "The Vietnam Reader" (New York: Vintage 1965), tr. 123-24.
    3. Frances Fitzgerald, "Lửa trên hồ” (Boston, Little, Brown, 1972) tr. 159- 59.
    4. James Olson "Từ điển chiến tranh Việt Nam" (Westpoint: Greenwood Press, 1988) tr. 304.
    5. Phỏng vấn lịch sử với William Colby. trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP 34 của MACVSOG" tr. 304.
    6. Robert S. McNamara: "Hồi tưởng: Bi kịch và bài học của Việt Nam" (New York: Random House, 1995) tr.105.
    7. Tác giả phỏng vấn Richard Helm tại nhà riêng ở Washington, ngày 6-6-1997.
    SOG TIẾP NHẬN HOẠT ĐỘNG BIỆT KÍCH
    Khi đến Sài G̣n đầu năm 1964, đại tá Russell, chỉ huy trưởng đầu tiên của SOG, nhanh chóng nhận ra là ông phải xử lư nhiều vấn đề trước khi có thể đạt được sự tiến bộ nào đó từ những thành công nhỏ bé của chương tŕnh biệt kích do CIA thực hiện. Đầu tiên, Russell cần phải t́m ra những sĩ quan có năng lực và kinh nghiệm, những người có thể tuyển chọn, huấn luyện, cài cắm và chỉ đạo các toán biệt kích tại địa bàn bị từ chối. Thêm vào đó, Russell phải đưa ra khái niệm hoạt động chiến tranh không quy ước thích hợp làm cơ sở cho việc mở rộng hoạt động biệt kích trong ḷng miền Bắc đúng theo yêu cầu của các nhà vạch chính sách.
    T́m ra nhân viên quân sự có kinh nghiệm cần thiết trong lĩnh vực hoạt động biệt kích là một công việc quá khó đối với mọi chỉ huy của SOG. Tại sao? Đơn giản là v́ họ không tồn tại. Thực tế này nhanh chóng trở nên rơ ràng khi trung tá Ed Partain đến Sài G̣n tháng 6-1964 để chỉ huy OP34. Partain biết ǵ về việc cài cắm các toán biệt kích lâu dài ở miền Bắc? Ông có kinh nghiệm tiến hành các hoạt động tương tự ở các địa bàn bị từ chối khác không? Ông có được huấn luyện về nghệ thuật chỉ đạo điệp viên t́nh báo không. Hồ sơ của Partain không có câu trả lời rơ ràng về các câu hỏi trên. Mặc dù đă tốt nghiệp trường Westpoint và là sĩ quan ưu tú, Partain chưa được chuẩn bị sẵn sàng để chỉ huy OP34.
    Tại sao Partain được chọn? Hoàn toàn do ngẫu nhiên. "Tôi nhận được lệnh điều động đến công tác tại bộ phận kế hoạch của MACV của chuẩn tướng Richard Stilwell", Partain nhớ lại "lúc này Russell đă được cử là chỉ huy trưởng của SOG. Russell đến gặp Stilwell và đề nghị "Tôi cần một người trung thực và có năng lực trong cơ quan ông". Stilwell đă chỉ tôi và cử tôi sang SOG"(1). Partain có biết là ông sẽ chỉ huy OP34 không? Với Partain, tất cả đều mới mẻ. Chỉ một số ít nhân viên dưới quyền Partain là được huấn luyện hoặc có kinh nghiệm hoạt động biệt kích. Partain nhớ lại "Sau khi nhân viên CIA rút đi, không c̣n có ai có kinh nghiệm chỉ đạo biệt kích". Khi được hỏi tại sao quá tŕnh lựa chọn không t́m được những nhân viên thích hợp, thiếu tướng Partain, giờ đă nghỉ hưu, nhận xét là những nhân viên như vậy nói chung là không tồn tại trong lục quân(2). Đây là một ví dụ cho thấy mức độ kém hiểu biết của các nhà vạch chính sách đối với năng lực của quân đội khi tiếp nhận các hoạt động ngầm cụ thể. V́ không hài ḷng với nỗ lực của CIA, McNamara cho rằng quân đội có nhiều khả năng hơn và do đó có thể làm công việc tăng cường hoạt động biệt kích chống miền Bắc tốt hơn. Trong thực tế, điều đó không đúng sự thật. Quân đội có rất ít kinh nghiệm về lĩnh vực này. Khi được hỏi tại sao Bộ trưởng Quốc pḥng lại mắc phải sai lầm như vậy, Partian thở dài “tôi nghĩ chúng ta đă nhận ra đó là một sai lầm nữa của ông (McNamara) trong việc đánh giá Việt Nam"(3).
    Ed Partain không phải là viên chỉ huy duy nhất của OP34 thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực ḿnh phụ trách. Hai trung tá chỉ huy OP34 sau đó cũng như vậy. Cả Reginald Woolard và Robert McLane đều không có chút kinh nghiệm ǵ về hoạt động này. Cũng như Partain, họ là những sĩ quan ưu tú đă từng công tác trong lực lượng đặc biệt. Tuy nhiên như Pete Hayes, phó cho Partain và Woolard nhận xét, việc huấn luyện lực lượng đặc biệt tại Fort Bragg không hề nhằm vào hoạt động biệt kích.
    Partain, Woolard và McLane đều là những con cá bị tách ra khỏi nước. Đối với họ, thời gian ở SOG là giai đoạn thất vọng và buồn nản. Viên phó của McLane năm 1966, John Hada c̣n nhớ rằng vào thời gian cuối nhiệm kỳ "McLane mất hết ảo tưởng với toàn bộ công việc... Tôi biết khi tôi ở đó McLane vỡ mộng và chỉ muốn thời gian trôi nhanh để về nhà"(4). Partain thể hiện tư tưởng tương tự. Thời gian công tác tại SOG không được ông cho điểm cao mà ngược lại. Partain rất vui mừng khi thời gian một năm kết thúc và có thể quên hết mọi thứ để trở về với quân đội "chính thống".
    Russell c̣n phát hiện ra là học thuyết chiến tranh không quy ước không liên quan ǵ mấy đến các điệp vụ mà OP34 thực hiện. Ưu tiên của quân đội là tổ chức lực lượng du kích để hỗ trợ cho hoạt động chiến tranh tương tự như trong thế chiến thứ hai. Học thuyết đề ra việc tổ chức hoạt động của lục quân và du kích tại chỗ ở các nước Đông Âu trong trường hợp có chiến tranh với Liên Xô, đồng thời tính toán trước các hoạt động du kích ở vùng hậu phương. Học thuyết giả định rằng hệ thống điệp viên do CIA tổ chức sẽ được cho hoạt động vào lúc có chiến tranh và có mặt khi các đơn vị đặc biệt tiến đến. Với những ǵ giờ đây đă biết, những đơn vị đặc biệt nếu có xâm nhập hậu phương kẻ thù sẽ chỉ thấy ḿnh bị lẻ loi.
    Học thuyết chiến tranh không quy ước được chuẩn bị cho chiến tranh nóng, trong khi đó vai tṛ của nó trong chiến tranh lạnh lại bị bỏ qua. Có khoảng cách lớn giữa những ǵ sĩ quan được huấn luyện tại Trường Chiến tranh đặc biệt ở Fort Bragg và những ǵ, họ được giao thực hiện để chống lại Bắc Việt Nam. Trước khi trở thành phó chỉ huy của OP34, John Hada công tác tại Khoa "chiến tranh không quy ước" của trường. Lúc bấy giờ ông nhận xét "Khoa Chiến tranh không quy ước dạy khoá học 15 tuần về chiến tranh không quy ước cho một số lựa chọn các học viên. Họ phải học qua khoá này mới đủ tiêu chuẩn trở thành sĩ quan lực lượng đặc biệt". Khi được hỏi chương tŕnh đó có phần chỉ huy biệt kích cài cắm lâu dài không, Hada trả lời: “Không, không có huấn luyện cụ thể nào. Chương tŕnh chỉ đề cập đến một số hoạt động được thực hiện trong chiến tranh thế giới thứ hai, ở Phillippines và phong trào Maquis ở Pháp"(5).
    ____________________ ____________________ ___
    1. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng Partain, trong “MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG” tr. 9,16.
    2, 3. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng Partain, Sđd, tr. 22.
    4. Phỏng vấn lịch sử với John Hada, trong " MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG” tr. 49.
    5. Phỏng vấn lịch sử với John Hada, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MAEVSOG” tr. 38.
    Pete Hayes, phó của Partain cũng cho biết câu chuyện tương tự. Khoá học về chiến tranh không quy ước ở Fort Bragg chỉ "ở tŕnh độ thấp. Nội dung chủ yếu là phát triển các nhóm chống đối trong bối cảnh có chiến tranh. Tối không nghĩ là ở thời điểm bấy giờ Trung tâm chiến tranh đặc biệt có giáo tŕnh về hoạt động gián điệp-biệt kích. Đó là lĩnh vực của t́nh báo". Ông nhận xét học thuyết chiến tranh không quy ước được dựa trên những kinh nghiệm của chiến tranh thế giới thứ hai, do vậy "lực lượng đặc biệt cần được đưa vào khu vực đă có sẵn các phần tử thân thiện. Cơ sở tại chỗ đă được thiết lập". Thế c̣n bài vở về biện pháp phát triển cơ sở tại chỗ và tạo dựng mạng lưới th́ sao? Theo Hayes "nó không tồn tại"(1).
    Phụ trách một công việc mà cả ông và những người giúp việc đều không được huấn luyện hoặc có kinh nghiệm, thậm chí chưa có cơ sở lư luận, Partain chỉ c̣n biết tuân theo những kỹ thuật của CIA. Dẫu sao, cơ quan chủ chốt của CIA là Cục kế hoạch có nhiệm vụ chính là tuyển lựa và chỉ đạo điệp viên. Đối với Partain quyết định trên là hợp lôgíc. Reg Woolard và Bob McLane cũng nhất trí áp dụng các phương pháp của CIA khi họ chỉ huy OP34.
    CIA đă áp dụng biện pháp ǵ để chống lại miền Bắc? Kiến trúc sư của chương tŕnh, Bill Colby, gọi đó là biện pháp “thả bừa", ám chỉ việc để các toán gián điệp-biệt kích tự lo liệu mọi chuyện. Có lẽ không hẳn thế. Colby chỉ ra rằng "chúng tôi t́m được một số người sẵn sàng quay trở lại nơi chôn rau cắt rốn. Do vậy, họ quen thuộc với địa h́nh và một số người trong địa bàn họ được cài cắm"(2).
    CIA không trực tiếp tuyển lựa điệp viên mà giao việc đó cho người Việt Nam. Colby thừa nhận là việc này có nhiều nhược điểm: “Hăy nhớ là chúng ta quan hệ với người Nam Việt Nam. Họ đang điều hành hoạt động, CIA không phải là người tuyển mộ trực tiếp... có thể có những điệp viên đôi, nhưng rơ ràng đó là công việc của họ. Sau đó mọi việc khoanh gọn trong một bộ phận nhất định. Đó là cách thức công việc được tiến hành"(3). Vấn đề quản lư chất lượng và những thiếu sót trong hoạt động gián điệp-biệt kích chống lại Hà Nội của CIA nghiêm trọng hơn nhiều so với những ǵ Colby biết. Colby giải thích rằng một khi được tung đi, các điệp viên "nằm im giữ ḿnh, hợp pháp hoá rồi dần dần theo thời gian mở rộng và thành lập một mạng lưới bạn bè". Đây là quá tŕnh dài và "mất thời gian, ở Pháp phải mất 4 năm từ 1940 đến 1944"(4).
    Cách "thả tù mù” tỏ ra không thành công trong giai đoạn 1961-1963. CIA đă tung trên 40 toán gián điệp-biệt kích và nhiều điệp viên đơn tuyến vào miền Bắc qua đường bộ, đường không, và đường biển. Đối với phần lớn trong số họ th́ đấy không phải là "thả tù mù". Có những người chờ sẵn để đón họ nhưng tiếc thay họ không phải là thành viên của mạng lưới chống đối thân thiện. Thông thường họ bị lực lượng an ninh miền Bắc bắt sống hoặc tiêu diệt.
    Đó là một thảm hoạ. Trong số 250 người được tung đi, chỉ có bốn toán và một điệp viên đơn được coi là c̣n hoạt động tại thời điểm SOG tiếp quản(5). Số này chiếm khoảng 15% tổng số gián điệp-biệt kích được tung đi.
    Sai lầm ở chỗ nào? Colby cho rằng tỷ lệ thành công thấp là do hệ thống an ninh miền Bắc. Vào năm 1963, ông tin là "hoạt động gián điệp -biệt kích không có tác dụng" và tốt hơn là tập trung vào chiến tranh tâm lư. "Lập luận của tôi là nếu như tập trung đáng kể vào chiến tránh tâm lư, bao gồm đài phát thanh và những nội dung khác, bạn có thể tạo ra tác động v́ cộng sản rất nhậy cảm với mối nguy hiểm của chống đối và một khi bạn tạo cho họ ư nghĩ có một nhóm chống đối ngay trong hàng ngũ của ḿnh, họ sẽ phát điên lên"(6).
    Đó là t́nh trạng của chương tŕnh gián điệp-biệt kích của CIA tháng 1-1964. Cách "thả tù mù” chỉ mang lại một tỷ lệ thành công rất thấp. Tuy nhiên, thay v́ tự hỏi lư do tại sao lại như vậy, SOG áp dụng biện pháp của CIA vào chương tŕnh của ḿnh và theo chỉ thị của Washington, tiếp tục đưa nhiều gián điệp - biệt kích vào miền Bắc. Đó cũng là chỉ thị của Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara. Như Colby giải thích, việc khẩn cấp là đẩy mạnh nỗ lực. "Họ chịu sức ép phải tiếp tục. Anh biết đấy, từ trên xuống. Tôi có thể đứng dậy và nói: thưa Bộ trưởng, điều đó là không thể. Nhưng một đại tá th́ không. Không có các đại tá dám bác bỏ ư kiến cấp trên, họ nói "Thưa sếp, tôi sẽ làm điều đó”(7).

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P9



    1. Phỏng vấn lịch sử với trung tá E rnest Pete Haye, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP35 của MACVSOG" tr. 172.
    2, 3, 4. Phỏng vấn lịch sử với William Colby, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG” tr. 10. Những người này rời khỏi miền Bắc năm 1954 trong giai đoạn 300 ngày sau Hiệp định Giơ ne vơ. Người Việt Nam cả hai miền được cơ hội di chuyển chỗ ở tr. 11.
    5. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, “Hoạt động hàng không", tr. 63.
    6. Phỏng vấn lịch sử với William Colby, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 13.
    7. Phỏng vấn lịch sử với William Colby, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 16.
    HOẠT ĐỘNG GIÁN ĐIỆP BIỆT KÍCH OP34
    Trong những tháng đầu năm 1964, CIA hoàn thành việc chuyển giao hoạt động gián điệp - biệt kích cho SOG. Có tất cả bốn toán mang mật danh Bell, Remus, Tourbillon, và Easy mà họ tin là vẫn đang hoạt động trong lănh thổ đối phương. Bốn toán này có khoảng 30 người. Toán thứ năm mang mật danh Europa được CIA thả dù vào tháng 2-1964 đă ngừng mọi liên lạc vô tuyến điện tại thời điểm bàn giao. Toán này được coi là bị đối phương xoá sổ. Cuối cùng CIA chuyển giao điệp viên đơn tuyến đă được cài cắm thành công có mật danh Ares. CIA c̣n bàn giao cho SOG cơ sở Long Thành với 169 người đang được huấn luyện và một số hộp thư bí mật ở Sài G̣n.
    McNamara và các nhà vạch chính sách cao cấp ở Washington đang trông đợi hành động. Họ muốn SOG nhanh chóng đẩy mạnh chương tŕnh gián điệp-biệt kích. Từ tháng 4-1964 đến tháng 10-1967 gần 30 toán biệt kích và một số điệp viên đơn tuyến được tung ra miền Bắc, với tổng cộng khoảng 250 người. cộng với số CIA đă cài cắm từ trước, số gián điệp- biệt kích được tung đi khoảng 500 người. Cũng giống như CIA, tỷ lệ thành công của OP34 là thấp. Vào cuối năm 1967, người ta cho rằng chỉ c̣n bảy toán: Remus, Tourbillon, Easy, Eagle, Hadley, Red Dragon, và Romeo cùng với điệp viên đơn tuyến Ares là c̣n hoạt động. Đây không phải kết quả mà Washington mong đợi.
    Vào nửa cuối năm 1967, sếp mới của OP34 Bob Kinhston quyết định đánh giá lại hoạt động gián điệp - biệt kích. Kết quả đánh giá đă dẫn đến việc các chuyên gia phản gián của CIA và Cơ quan t́nh báo quân đội (DIA) xem xét lại toàn bộ hoạt động vào năm 1968. Họ thẩm định lại các bức điện, báo cáo t́nh báo, sự dịch chuyển, báo cáo của sĩ quan điều hành, và các tài liệu liên quan khác của từng toán. Phải mất một tháng mới hoàn thành việc thẩm định này và kết luận cuối cùng thật là tai hoạ. Không có toán nào hoạt động cả. Tất cả các toán mà OP34 cho rằng đang hoạt động trên thực tế đă bị đối phương khống chế sử dụng chống lại SOG. Trong bảy năm, 500 người đă được tung đi nhưng không một ai quay về!
    Sai lầm ở chỗ nào? Câu trả lời không đơn giản: nó liên quan đến lĩnh vực phản gián, điệp viên hai, ba mang, tung tin giả và đánh lạc hướng. James Angleton, người phụ trách công tác phản gián trong thời gian dài của CIA đă từng mô tả thế giới đó là "vô số gương phản chiếu c̣n John Masterson, người lănh đạo cơ quan an ninh Anh MI5 coi đó là "hệ thống hai mang”(1). Tuy nhiên, không phải chỉ riêng sự thông minh của các chuyên gia trong lĩnh vực "hai mang" của miền Bắc gây ra sự thất bại. Lỗi lầm c̣n thuộc về người khác, trong đó có các nhà vạch chính sách ở Washington, những người mong muốn Bắc tiến, và các nhân viên trực tiếp thực hiện các điệp vụ của SOG.
    Hoạt động của các biệt kích nằm vùng: kết quả
    Chương tŕnh điệp viên nằm vùng, như được đề cập đến trong một tài liệu tuyệt mật, cũng là một thất bại đau đớn. Trong số 7 toán và một điệp viên đơn được cho là đang hoạt động ở miền Bắc năm 1967, có ba toán và điệp viên đôi là do CIA bàn giao lại. Như vậy, sau bốn năm, SOG chỉ có bốn toán: Eagle, Hadley, Red Dragon và Romeo để chứng tỏ nỗ lực của ḿnh.
    Dù xem xét dưới góc độ nào, đó cũng là tỷ lệ thành công rất thấp. Cộng với chương tŕnh do CIA thực hiện trước đây, hoạt động này chỉ có thể mô tả là thất bại. Tuy nhiên con số chỉ nói lên một phần câu chuyện. Cần phải xem xét kỹ hơn các toán được coi là thành công và đánh giá xem họ làm được những ǵ: kết quả là rất nhỏ bé.
    Toán Tourbillon do CIA tung đi ngày 16-5-1962, sau đó c̣n được tăng cường thêm hai lần nữa. Hoạt động ở phía tây bắc Bắc Việt Nam. Tourbillon được giao nhiệm vụ tiến hành phá hoại và gây rối. Sau đó chuyển sang thu thập tin tức t́nh báo. Trong những nhiệm vụ trên, Tourbillon không làm được điều ǵ đáng kể. Theo một báo cáo "Không có tin tức t́nh báo có ư nghĩa nào được báo về"(2). Mỗi khi SOG định đón toán này về, họ đều không đến điểm hẹn đúng.
    Tháng 8-1963 CIA thả dù toán Easy xuống Sơn La để "liên lạc với người Mèo và người Thái nhằm thiết lập vùng an toàn cho các toán khác hoạt động trong khu vực". Toán này c̣n có nhiệm vụ "xác định mức độ phản kháng, trang bị vũ khí cho một số chọn lọc người thiểu số để tấn công quấy phá mạng thông tin và đường giao thông của quân đội miền Bắc" và tuyển mộ lănh đạo người thiểu số để "đưa về Nam huấn luyện"(3). Sau tháng Giêng năm 1964 nhiệm vụ này bị băi bỏ v́ SOG không được phép tiến hành hoạt động tổ chức phong trào chống đối. Lúc này, Easy được giao nhiệm vụ thu thập tin tức t́nh báo bằng cách quan sát và khai thác các nguồn tin được móc nối tại địa phương". SOG không nhận được tin tức đáng chú ư nào. Tuy nhiên, Easy được tăng cường thêm bốn lần với tổng số là 23 người. Khi được thông báo chuẩn bị trở về Nam, Easy bỗng "mất hút và ngừng mọi liên lạc"(4).
    Toán Remus có sáu người được thả dù ngày 16-4-1962 gần Điện Biên Phủ để "thành lập khu căn cứ cho các hoạt động thu thập t́nh báo". Toán này sẽ "thu thập thông tin kinh tế, chính trị, quân sự của đối phương; xác định vị trí thả dù tiếp tế và khu vực an toàn cho các điệp viên được bổ sung thêm hay đưa về, thu thập các tài liệu; và tuyển lựa cơ sở hỗ trợ và cung cấp tin"(5). Năm 1964, Remus báo cáo cho biết đă phá huỷ một vài chiếc cầu. McNamara rất phấn khởi. Colby nhớ lại là Bộ trưởng Quốc pḥng "phấn khích như một đứa trẻ" trước báo cáo đó. "Tôi nhớ ông ấy cho rằng đó là một sự kiện to lớn cứ như là nó có thể thay đổi được tiến tŕnh cuộc chiến tranh."(6). V́ được coi là thành công, Remus được bổ sung 5 lần. Khi nhiệm vụ được thay đổi năm 1966, toán này bắt đầu biện bạch cho việc cung cấp quá ít thông tin có ích. Năm 1967, SOG ra lệnh rút hai nhân viên của toán về Nam. Toán từ chối với lư do việc đó quá nguy hiểm.
    Năm 1968, tất cả liên lạc điện đài với toán bị ngừng trệ. Cùng lúc đó, việc thẩm vấn một tù binh quân đội miền Bắc cho biết tháng 6-1962 có một toán biệt kích bị bắt giữ ở địa bàn Remus hoạt động. Tháng 5-1968, Hà Nội khẳng định đă bắt giữ một toán biệt kích. Không nghi ngờ ǵ nữa, những thông tin này cho thấy đó là Remus.
    ____________________ _________________
    1. John Masterman, "Hệ thống hai mang (double-cross) trong chiến tranh 1939-1945”, New York: Baltimore books, 1982.
    2. MACVSOG, Lịch sử chỉ huy 1969, phụ lục F, tr. IX-B-4
    3, 4. MACVSOG, Sđd, tr.III-4-C-2.
    5. MACVSOG, Sđd, tr.III-4-C-4.
    6. Phỏng vấn lịch sử với William Colby, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 16.
    Ares là điệp viên đơn tuyến duy nhất c̣n tồn tại. C̣n những điệp viên khác được tung ra Bắc sau đó không hề có thông tin phản hồi nào. Theo hồ sơ, "một nhân viên tuyển mộ đă gặp Ares ở Trung tâm thẩm vấn người ty nạn, Sài G̣n, ngày 29-8-1960 và cho rằng anh ta là người có năng lực lại đang nuôi ư chí trả thù cán bộ miền Bắc. Sau đó anh ta được tuyển lựa".(1) Đầu năm 1961, Ares được tung ra miền Bắc qua đường biển, gần biên giới Trung Quốc. Đầu tiên Ares được coi là có tác dụng, "cung cấp thông tin về các tài liệu của miền Bắc, nhà máy điện Uổng Bí, đường giao thông, cầu cống, cảng Hải Pḥng và các thông tin khác mà anh ta quan sát và thu lượm được".(2) Tuy nhiên vào năm 1966, SOG bắt đầu nghi ngờ các đề nghị của Ares về thông tin và tiếp tế. Khi được chỉ thị t́m địa điểm tiếp tế, Ares đề nghị các biện pháp khác để nhận được tiếp tế mà qua đó có thể làm lộ các cơ sở khác của SOG. Khi SOG có kế hoạch rút Ares, anh ta không tuân theo. Tuy nhiên, Hà Nội vẫn tiếp tục tṛ chơi và Ares giữ liên lạc điện đài đến năm 1968.
    Toán Eagle được tung vào khu vực gần biên giới Trung Quốc ngày 27-6-1964. Nhiệm vụ cua toán là "tiến hành phá hoại tuyên đường số 1 và số 4, đường xe lửa Mục Nam Quan và căn cứ không quân Mai Pha". Không có căn cứ nào cho thấy Eagle đă thực hiện những nhiệm vụ này. Ngoài ra toán c̣n có nhiệm vụ thu thập tin tức t́nh báo về các mục tiêu trên. Theo đánh giá của SOG, "thông tin nhận được có rất ít hoặc không có giá trị". Năm 1966, Eagle được giao nhiệm vụ theo dơi các tuyến đường. Kết quả thu được cũng tương tự, theo đánh giá của SOG, Eagle "không hoàn thành nhiệm vụ”.(3) Năm 1968, SOG chỉ thị cho toán di chuyển xuống phía nam để rút về. Eagle báo cáo không thể đến vị trí tập kết. Ngay sau đó liên lạc với toán bị cắt đứt.
    Tháng 11-1965, SOG dùng trực thăng thả toán Romeo gồm mười người xuống khu vực ngay bên kia khu phi quân sự. Nhiệm vụ của toán là "tiến hành trinh sát địa bàn để thu thập tin tức t́nh báo; giám sát các tuyến đường; và tiến hành các hoạt động phá hoại, quấy rối. Mục tiêu chủ yếu của toán là đường 103 vốn được coi là con đường chính chuyên chở người và hàng hoá xuống phía Nam". Romeo làm được những ǵ? Theo tài liệu của SOG, từ giữa năm 1966 trở đi, kết quả hoạt động của toán là nghèo nàn. "Romeo không cung cấp được tin đáng giá nào trong năm 1967 và 1968".(4)
    Toán Hadley cũng xâm nhập vào ngay bên kia khu phi quân sự để tiến hành theo dơi tuyến đường số 8 nối đường 15 với đường 81, 12 và 121 ở Lào. Những con đường này là "các tuyến đường tiếp tế và chở quân chủ yếu cho miền Nam". Haley c̣n được giao nhiệm vụ theo dơi con đường vận tải thủy chính trên sông Ngàn Phố.(5) Đầu tiên toán Hadley gặp một số khó khăn do bị phát hiện, nhưng sau đó đă nhanh chóng đáp lại tín hiệu liên lạc từ SOG. Tuy nhiên, Hadley cũng không cung cấp được thông tin có ích hoặc xác định được mục tiêu không kích có giá trị nào.(bị bắt ngay)
    Toán cuối cùng được coi c̣n hoạt động vào cuối năm 1967 là Red Dragon. Được xâm nhập ngày 21-9-1967, toán biệt kích gồm bảy thành viên này được bố trí ở địa bàn Lào Cai và Yên Bái. Hai tỉnh này nằm ở thung lũng sông Đà, dọc theo biên giới Việt Nam - Trung Quốc và có nhiều tuyến đường bộ, đường thuỷ và đường sắt chạy qua. Red Dragon có nhiệm vụ "tiến hành phá hoại và thu thập tin t́nh báo". Theo hồ sơ, Red Dragon "rất kém hiệu quả" và "t́nh trạng an ninh của toán là đáng ngờ ngay sau khi có buổi liên lạc điện đài đầu tiên". Rơ ràng là có sự bất đồng sâu sắc về khả năng toán này đă bị bắt và khống chế buộc phải làm việc cho Hà Nội: "Các nhân viên Mỹ tin rằng toán này đang dưới sự kiểm soát của Hà Nội, trong khi nhân viên chỉ huy của Nam Việt Nam không cho là như vậy".(6) Liên lạc c̣n được duy tŕ đến năm 1968, đến 1969 Red Dragon mất dấu vết. (bị bắt ngay)
    Bất kể nhiệm vụ là phá hoại, quấy rối, hay thu tin t́nh báo, kết quả do các toán biệt kích dài ngày mang lại rất nhỏ. Khi được hỏi về mức độ thành công của các hoạt động phá hoại của OP34, Ed Partain đánh giá: trừ một ngoại lệ, ông "không biết bất kỳ một hoạt động phá hoại thành công nào của các toán biệt kích". Một ngoại lệ nào? "Một toán thông báo cho biết đă phá huỷ một chiếc cầu và cho biết vị trí của chiếc cầu đó. Khỏi phải nói, đây là trường hợp tốt nhất trong nhiệm kỳ của tôi. Do đó tôi đề nghị chụp ảnh trên không... Những ǵ họ đă làm là phá hỏng một trụ của chiếc cầu đi bộ trên đường vào làng".(7) Thông tin do các toán thu lượm được cũng chẳng mấy giá trị. Do vậy, không lấy ǵ làm ngạc nhiên khi Partain nghi ngờ hiệu quả và tác dụng của các toán biệt kích nằm vùng. Rusell và Blackburn cũng chia sẻ quan điểm này khi được nghe báo cáo về chương tŕnh.
    Trong nhiệm kỳ chỉ huy OP34 của Reg Woolard từ tháng 6-1965 đến tháng 5-1966, sự đánh giá về hiệu quả của các toán biệt kích cũng như vậy. John Hada, viên phó của ông, phê phán mạnh mẽ kết quả thu được. "Chúng ta không có cách ǵ kiểm chứng việc toán biệt kích có hoạt động hay không".(8 ) Tương tự, Pete Hayes, người trực tiếp báo cáo công việc cho Woolard, nhận thấy "có ít tin t́nh báo thực sự và gần như không có chứng cứ cụ thể nào cho sự thành công trong hoạt động của các toán biệt kích".(9)
    Bob McLane thay Woolard tháng 5-1966, nhưng hiệu quả hoạt động của các toán biệt kích rất mù mờ. Hada, phó chỉ huy của McLane, nhớ rằng vào cuối năm 1966, chỉ huy trưởng của SOG cảm thấy quá đủ về hoạt động gián điệp-biệt kích do McLane chỉ huy. "Jack Singlaub hiểu rằng cần phải làm chặt chẽ hơn cả hai phía: SOG và đối tác Nam Việt Nam. Trên thực tế, Singlaub rất bức bối về những diễ biến của OP34 và đă nói chuyện với tướng Westmoreland về vấn đề này".(10)
    Singlaub quyết định giải quyết vấn đề bằng cách đưa trung tá Robert Kingston về phụ trách OP34. Là một sĩ quan rắn rỏi, Kingston với biệt danh "dây thép gai" kết thúc cuộc đời binh nghiệp với quân hàm đại tướng. Cũng như Singlaub, ông là một người chỉ huy hoạt động đặc biệt có tài nhưng lên được cấp tướng là nhờ năm tháng phục vụ trong lực lượng quân đội chính thống. Kingston là người chỉ huy đầu tiên của OP34 có trong tay những nhân viên giàu kinh nghiệm hoặc được huấn luyện về hoạt động gián điệp-biệt kích. Ông không phải mất nhiều thời gian để nắm t́nh h́nh.
    Việc xem qua các luồng liên lạc đă cho Kingston thấy kết quả hoạt động của các toán rất vụn vặt. Càng nghiên cứu số liệu ông càng nhận ra là vấn đề của OP34 không chỉ là kém hiệu quả. Đối với ông toàn bộ chương tŕnh toát lên mùi vị tồi tệ. McLane đă hết hạn và mong muốn trở về. Sau khi xem xét nhân sự của OP34, Kingston cảm thấy "không hài ḷng với một số nhân viên chỉ đạo toán biệt kích mà McLane để lại. Tôi gọi họ đến và nói: Cho tôi biết t́nh h́nh toán của anh. Mặc dù mỗi người chỉ phụ trách từ một đến hai toán, họ phải giở hết hồ sơ này đến hồ sơ khác để có thông tin báo cáo. Họ không nắm được thành phần, nhiệm vụ, thời gian xâm nhập, cách xâm nhập, t́nh trạng liên lạc. V́ vậy tôi đă gạt bỏ họ". Tuy nhiên, ông phát hiện ra rằng sự mọt rỗng c̣n ăn sâu hơn khi ông đọc "tất cả các bức điện liên lạc của các toán".(11)
    Sau vài tuần nghiên cứu kỹ lưỡng, Kingston cảm thấy đă đủ để báo cáo cho chỉ huy trưởng của SOG. Singlaub không biết trước là ḿnh sẽ có một cú sốc. Kingston báo cáo cho sếp như sau: “Tôi đến gặp Singlaub và nói: Anh muốn nói ǵ với Hồ Chí Minh?" Singlaub không cười. Anh nói ǵ? Singlaub hỏi lại. Lúc này Kingston mới báo cáo "các toán biệt kích của chúng ta đă bị khống chế và qua họ tôi có thể gửi thông điệp cho Hồ Chí Minh". Singlaub lúc này cứ như ở trên trời rơi xuống. Đó chính là tính cách của Kingston: không cợt nhả, không loanh quanh, chỉ có sự thật. Sau khi đă b́nh tĩnh, Singlaub yêu cầu Kingston cho tiến hành xem xét lại toàn bộ mớ ḅng bong đó.(12)
    ____________________ _________________
    1, 2. MACVSOG, Lịch sử chỉ huy 1969, phụ lục F, trang IX-B-1
    3, 5, 6. MACVSOG, Lịch sử chỉ huy 1969, phụ lục F, trang IX-B-2.
    4. MACVSOG, Lịch sử chỉ huy 1968, phụ lục F, trang III-4-C-4.
    7. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng.Partain, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr.26, 29.
    8, 10. Phỏng vấn lịch sử với John Hada, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG” tr. 46
    9. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970 ), phụ lục B, phần "Nhận xét về hoạt động và tin t́nh báo của SOG", tr. 39
    11. Phỏng vấn lịch sử với tướng Robert Kingston, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG” tr. 53.
    12. Phỏng vấn lịch sử với tướng Robert Kingston, Sđd., tr. 59.
    Cuộc xem xét về phản gián và hệ thống hai mang
    Càng xem xét Kingston càng tiến gần đến kết luận là "phần lớn (các toán biệt kích) hoặc là bị bắt hoặc bị khống chế ngay sau khi họ có mặt (ở miền Bắc)”.(1) Nhiều yếu tố đưa ông đến kết luận này. Thứ nhất, là đặc điểm chung của các điệp vụ thất bại. Theo Kingston, "chúng tôi đă mất rất nhiều toán" và việc bị mất này đều có chung một dạng. Trung b́nh một năm chỉ có một toán là hoạt động thành công, c̣n các toán khác hoặc là không liên lạc được hoặc nhanh chóng mất liên lạc. Tỷ lệ thành công là ngược lại đối với số toán được cử tăng cường cho các toán được coi là xâm nhập thành công. Các toán này đều xâm nhập trót lọt. Đối với Kingston, sự trùng hợp này là quá nhiều.
    Yếu tố thứ hai là liên lạc điện đài với các toán biệt kích. Theo Kingston, "trong thông tin liên lạc, nhân viên điện đài có tín hiệu riêng. Nếu người nhận thấy rằng tín hiệu không phù hợp, họ biết ngay là có vấn đề. Đồng thời, trong thông tin, nếu họ khống chế được nhân viên điện đài, anh ta có thể đưa thêm vào những chữ sai chính tả hoặc chữ lạ mà anh ta thường không dùng nhằm mật báo cho SOG biết là ḿnh đă bị bắt. Cuối cùng, bằng việc qua sóng điện đài để t́m ra vị trí của đài phát, bạn có thể xác định được độ tin cậy". Những yếu tố này đă bị các sĩ quan chỉ huy bỏ qua v́ "họ chẳng biết ḿnh đang đọc cái ǵ".(2)
    Thứ ba, đôi khi Hà Nội cũng vụng về để lộ ḿnh. Ví dụ họ đă phát các bức điện của toán bị khống chế từ địa điểm không nằm trong địa bàn mà toán đó được cử đến hoạt động. Kingston nhớ một trường hợp: "Chúng tôi có một toán được xâm nhập để hoạt động tại một địa bàn. Tuy nhiên khi kiểm tra vị trí đài phát, th́ không phải từ địa bàn đó mà là từ Hà Nội".(3)
    Thứ tư, việc SOG không hề đưa về được một người nào, chứ đừng nói đến cả toán, là một yếu tố rơ ràng nữa. Ông nhớ rằng đă hai lần yêu cầu toán Easy di chuyển đến vị trí tập kết, nhưng cả hai lần toán này đều điện về cho biết họ không thể đến đó được. Cuối cùng, Kingston tin rằng sai sót trong công tác an ninh cũng góp phần đưa đến thất bại. Ví dụ, một số biệt kích đang được đào tạo tại trại Long Thành th́ đi đâu một thời gian rồi quay trở lại xin được tiếp tục chương tŕnh. Cả OP34 và đối tác Nam Việt Nam không biết họ đă làm ǵ trong thời gian đó.
    Liệu tất cả mọi người đều bị khống chế không? Kinhston không kết luận như vậy. "Tôi không nói tất cả bọn họ, nhưng phần lớn số họ bị bắt hoặc khống chế ngay sau khi họ được xâm nhập".(4) Kết luận này không làm Kingston nản chí. Ông không quyết định chấm dứt mà tiến hành xem xét lại toàn bộ chương tŕnh và lần này là do các chuyên viên phản gián của CIA và DIA thực hiện.
    Trong t́nh trạng tồi tệ đó, trung tá Robert McKnight đến nhận trách nhiệm chỉ huy OP34 tháng 1-1968. McKnight đă có kinh nghiệm chiến tranh không quy ước tại Lào trong những năm đầu 1960 khi tham gia chiến dịch White Star của Simons. McKnight c̣n phục vụ trong Nhóm lực lượng đặc biệt số một mà địa bàn hoạt động là châu Á. Thế c̣n việc chỉ huy các toán biệt kích cài cắm th́ sao? Như phần lớn các chỉ huy của OP34 trước đó, McKnight không có kinh nghiệm về việc này. Tuy nhiên ông có lợi thế v́ được kế thừa những đánh giá của Kingston. Những ǵ McKnight biết là rất xấu. OP34 có vấn đề về chỉ huy điều hành. Ngoại trừ Kingston, những người khác đă tự lừa dối ḿnh về những thành công đă thu được. Họ "không thực sự nghĩ là hoạt động đó đă thất bại. Họ muốn tin rằng các toán của họ đang hoạt động có hiệu quả và đang cung cấp những tin t́nh báo có giá trị".(5)
    McKnight muốn biết sự thật tồi tệ đến mức nào. Vị chỉ huy mới của SOG quyết định tiến hành đánh giá riêng của ḿnh về toàn bộ hoạt động. Ông tập hợp tất cả thông tin về từng toán và bắt đầu nghiên cứu. Khi kết thúc, McKnight kết luận ḿnh đang giữ trong tay một mớ lộn xộn. Nó tồi tệ đến mức nào? Ông nhớ lại "Khi tôi tiếp nhận, điều đầu tiên tôi làm là yêu cầu đọc tất cả hồ sơ. Tôi ngồi một chỗ và đọc trong ṿng ba tuần. Tôi đi đến kết luận tương tự như của Kingston rằng tất cả các toán bị vô hiệu hoá ngay sau khi chạm đất".(6) Liệu có thể Hà Nội đă chơi tṛ hai mang với SOG trong ṿng bảy năm qua? McKnight tự hỏi. Điều đó phải tuỳ thuộc vào kết luận của các chuyên gia phản gián của CIA và DIA.
    Cuối cùng th́ các chuyên gia cũng hoàn thành bản báo cáo. Tin tức không thể tồi tệ hơn được nữa. Tất cả các toán mà SOG cho rằng đang hoạt động trên thực tế chịu sự kiểm soát của Bộ Nội vụ Hà Nội. Một số đă được sử dụng để chống CIA và sau đó là SOG.
    Nhóm chuyên gia phản gián c̣n đưa ra kết luận tồi tệ hơn: Hà Nội đă áp dụng thứ mà John Masterman mô tả là "hệ thống hai mang" (double cross). Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Masterman, đang công tác tại MI5 - cơ quan an ninh của Anh, chỉ đạo một kế hoạch như vậy chống lại phát xít Đức. Theo Masterman hệ thống hai mang phức tạp hơn nhiều so với "một số trường hợp đơn lẻ" các điệp viên đôi và "phải làm nhiều việc hơn so với việc tiến hành một chiến dịch đánh lạc hướng có quy mô lớn". Thông qua hệ thống hai mang, MI5 đă "thành công trong việc kiểm soát toàn bộ mạng lưới gián điệp của Đức tại Anh".(7)
    Hệ thống hai mang là một công việc cực kỳ phức tạp. Masterman mô tả bảy hoạt động liên quan chặt chẽ với nhau. Thứ nhất: thiết lập sự kiểm soát đối với hoạt động của gián điệp đối phương trong lănh thổ một nước, hay nói cách khác kiểm soát mạng lưới gián điệp đó và giả tạo sự hoạt động theo cách thức mà “đối phương không thể mất thời gian vào việc tạo ra một mạng lưới thứ hai".(8 ) Họ phải tin là họ đang thành công, tương tự như MI5 đă làm cho người Đức tin tưởng các điệp viên của họ ở Anh. Miền Bắc đă làm đúng như vậy đối với hoạt động cài cắm gián điệp - biệt kích dài hạn của SOG cho đến năm 1968.
    Hai là, sử dụng các điệp viên bị khống chế để "liên lạc và phát hiện ra những điệp viên khác". Các toán của OP34 được coi là hoạt động tốt thường xuyên được tăng cường. Ví dụ, toán Tourbillon nhận bổ sung người một lần năm 1962, hai lần năm 1964 và sau đó là các năm 1965, 1966 và 1967. Toán Remus được tăng cường bốn lần và toán Easy là năm lần. Tất cả lực lượng được bổ sung này đều bị bắt hoặc tiêu diệt.
    Ba là, hệ thống hai mang cho phép "thu thập thông tin về con người và thủ đoạn hoạt động" của cơ quan an ninh đối phương. Từ số điệp viên bị bắt, MI5 đă nắm được tất cả thủ đoạn nghiệp vụ của Đức. Điều này cho phép Anh "lần ra các điệp viên khác" khi họ được cài cắm.(9) Nhóm phản gián CIA và DIA nhận thấy Bộ Nội vụ Hà Nội đă nắm được biện pháp và cách thức tiến hành công việc của OP34.
    Họ c̣n nắm được mật mă liên lạc, yếu tố thứ tư của hệ thống hai mang.
    Năm là, thông qua hệ thống hai mang, MI5 có thể thu được thông tin về ư đồ của người Đức, đặc biệt kế hoạch xâm lược Anh. Tương tự, Hà Nội nắm được giới hạn của Washington trong việc sử dụng các toán biệt kích chống lại miền Bắc. Theo Masterman, thông tin dạng này có thể được sử dụng để "tác động và có thể thay đổi ư đồ hoạt động của đối phương".(10) Đây chính là thành tố thứ sáu. Bằng việc kiểm soát tất cả các toán của SOG, Hà Nội có cơ hội để khai thác chúng. SOG nhận được những "thành công" vừa đủ để tiếp tục chứ không gia tăng hoạt động. Đây là một tính toán khôn ngoan và cho thấy khả năng chỉ đạo hệ thống hai mang của Hà Nội.
    Cuối cùng, hệ thống hai mang cung cấp cơ hội tung tin giả cho đối phương. Nhóm CIA-DIA phát hiện rất nhiều thông tin như vậy trong các điện báo cáo, trong đó có một số tin rất khôn khéo. Ví dụ, sau đợt không kích miền Bắc đầu tiên, Ares liên tục đề nghị có thêm nhiều đợt nữa. Điều này phù hợp với chiến dịch tuyên truyền quốc tế của Hà Nội mô tả Hoa Kỳ là tên xâm lược khát máu.
    Toán phản gián thông báo cho Singlaub và McKnight biết chương tŕnh OP34 đă bị "xoá sổ". Sau khi nghiên cứu báo cáo, lănh đạo SOG đặt ra nhiều câu hỏi: (1) Sai lầm ở chỗ nào và tại sao t́nh h́nh lại trở nên tồi tệ như vậy; (2) Liệu có thể sử dụng hệ thống hai mang của Hà Nội để chống lại chính họ? Liệu SOG có thể tạo ra hệ thống ba mang để thuyết phục Hà Nội là họ mới chỉ phát hiện ra một phần của hoạt động lật đổ phức tạp trong biên giới của họ?
    ____________________ ______________
    1. Phỏng vấn lịch sử với tướng Robert Kingston, Sđd., tr. 59.
    2, 3, 4. Phỏng vấn lịch sử với tướng Robert Kingston, Sđd., tr. 64, 63, 59.
    5, 6. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Robert McKnight, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 53.
    7, 8. Masterman, "Hệ thống hai mang trong chiến tranh 1939-1945". tr. 3, 8.
    9, 10. Masterman, Sđd., tr.8.
    GIẢI THÍCH HỆ THỐNG HAI MANG: CẦN CÓ HAI NGƯỜI
    Chuyên gia trong lĩnh vực tṛ chơi nghiệp vụ lư luận rằng để một kế hoạch thành công, cả người lứa và bị lừa đều tham gia vào hoạt động. Chỉ có sự thông minh của người đánh lừa và sự tiếp nhận của người bị lừa không thôi th́ chưa đủ. Một kế hoạch lớn cần cả hai bên. Chắc chắn rằng điều này cũng đúng đối với hệ thống hai mang của Hà Nội chống lại SOG. Hà Nội thành công v́ nhiệm vụ của SOG không ổn định, lư luận hoạt động không phù hợp, thiếu kinh nghiệm, và thiếu quy tŕnh tuyển lựa, động viên và huấn luyện cộng với tài năng của chính họ trong việc chỉ đạo hệ thống hai mang.
    Nhiệm vụ của SOG không ổn định và lư luận hoạt động không phù hợp.
    Các toán biệt kích sẽ làm ǵ sau khi đă xâm nhập vào miền Bắc? Câu trả lời của Washington thường là không nhất quán hoặc rơ ràng. Nhiệm vụ của các toán biệt kích luôn luôn ở trong t́nh trạng bị đánh giá xem xét lại. Washington không quyết định dứt khoát họ muốn các toán biệt kích làm ǵ. Thay vào đó, họ quan tâm đến khía cạnh tiêu cực của các hoạt động này nhiều hơn việc làm thế nào để làm suy yếu an ninh nội bộ của miền Bắc.
    OPLAN 34 đề ra việc phát triển một phong trào chống đối trong ḷng miền Bắc. Việc này được coi là trọng tâm cho kế hoạch chung, là thành tố chủ yếu nếu như muốn hoạt động ngầm có được tác động như mong muốn lên giới lănh đạo Hà Nội và chính sách của họ đối với miền Nam. Thành lập phong trào chống đối ở miền Bắc là ch́a khoá cho sự thành công. Và đó chính là những ǵ tổng thống Kenedy h́nh dung năm 1961.
    Mặc dù vậy, Washington chưa bao giờ sẵn sàng cho phép SOG thực hiện nhiệm vụ này. Theo một tài liệu tuyệt mật trước đó "như dự định ban đầu, hoạt động không vận nhằm giúp xây dựng phong trào chống đối ở miền Bắc qua đó gây sức ép lên chính phủ Hà Nội buộc họ phải san sẻ nguồn lực và làm giảm nỗ lực ở miền Nam". Tuy nhiên, tài liệu này nói rằng "việc tạo ra một phong trào chống đối chưa bao giờ được Washington chuẩn y và do đó hoạt động không vận được tiến hành theo nhiệm vụ rất mù mờ".(1)
    Có thể h́nh dung được sự ngạc nhiên của Russell vào năm 1964 khi biết được nhiệm vụ xây dựng phong trào chống đối bị từ chối. Ông đă mường tượng tới việc tổ chức hoạt động du kích ở miền Bắc. Ông h́nh dung là ḿnh sẽ được làm những ǵ mà Hà Nội đang tiến hành ở miền Nam. Phản ánh sự thất vọng này, Russell nói "tôi không hiểu tại sao, là một đất nước, sao chúng ta lại có quan điểm mơ hồ về chiến tranh du kích do chúng ta thực hiện trong khi đó chính là vũ khí tốt nhất của họ chống lại chúng ta".(2)
    Russell tin là lẽ ra Hoa Kỳ phải thúc đẩy việc gây dựng phong trào chống đối nhưng Washington không mặn mà với khuyến nghị này. Russell cho rằng Hà Nội dễ bị tổn thương và hoạt động gây dựng phong trào chống đối sẽ mang lại kết quả. Riêng về biện pháp "thả tù mù”, theo ông nên băi bỏ v́ không mấy kết quả. Thay vào đó ông đề nghị tập trung vào số dân tộc ít người dọc theo biên giới miền Bắc. Russell đă nghiên cứu bản đồ dân tộc học và kết luận là về mặt địa lư Việt Nam có thể phân chia làm hai phần khác biệt. Vùng núi cao ở phía tây bắc và đông bắc. Đây là vùng cư trú của các dân tộc thiểu số mà theo truyền thống và thực tiễn không giống với người Kinh. Số dân ở vùng này chiếm khoảng 15% dân số của miền Bắc. Phần lớn các dân tộc ít người có quan hệ với nhân dân ở Lào và Trung Quốc nhiều hơn với người Kinh, trong đó nhiều dân tộc không coi người Kinh là bạn bè. Phần c̣n lại là vùng đất thấp nơi người Kinh sinh sống, bao gồm các đồng bằng ven biển. Russell đề nghị gây dựng phong trào chống đối trong chính những dân tộc thiểu số. Hà Nội không thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ đối với họ và họ không thích người Kinh. Russell đă chọn con bài dân tộc, nhưng đó không phải là con bài duy nhất có trong tay. Cộng đồng người công giáo tập trung ở hai tỉnh đồng bằng ven biển Nam Hà và Ninh B́nh và hai tỉnh khác dịch về phía nam là Nghệ An và Hà Tĩnh cũng được chú ư đến. Cuối cùng có một cộng đồng người Hoa nhỏ ở miền Bắc, và đây cũng có thể là một con bài. Russell h́nh dung việc khơi dậy sự thù nghịch của người Việt đối với người Hoa. Ở miền Bắc, số này có thể chia làm hai nhóm. Một sống dọc theo biên giới Việt - Trung và một sống ở các thành phố mà tập trung là ở Hải Pḥng.
    Partain nhớ lại là vào năm 1964, ông và Russell "đề xuất việc gây dựng phong trào chống đối” trong số dân tộc ít người. "Tôi nhớ là như vậy. Russell và tôi đă trao đổi về vấn đề này... Cả hai chúng tôi đều có chung ư kiến là để cho các toán biệt kích hoạt động có hiệu quả, các toán này phải gây dựng được phong trào chống đối".(3) Cả hai gửi đề xuất lên cấp trên. Vài tuần sau, Russell nhận được tin đề nghị bị bác bỏ. Theo Partain, quyết định đó là do Washington đưa ra.
    Nếu không v́ phong trào chống đối th́ nhân viên biệt kích làm ǵ? Russell và Partain hầu như không tin vào tai ḿnh. Theo Russell, ông nhận được chỉ thị hướng dẫn cho các toán biệt kích không được tiếp xúc với công dân miền Bắc và nhiệm vụ được giới hạn trong hoạt động tâm lư và thu thập t́nh báo". Đối với lănh đạo của SOG, điều này thật vô nghĩa. ông tự hỏi "làm sao có thể thu thập được tin tức t́nh báo khi anh ẩn náu ở trên núi và cố bảo vệ tính mạng của ḿnh?" Việc "rải tờ bướm ở trong rừng” có thể mang lại ǵ?(4) Mặc dù rất lạ lùng, nhưng đó chính là nhiệm vụ được giao cho OP34. Đó thực sự là những nhiệm vụ "vớ vẩn" nhưng cả Russell và Partain không thể thay đổi.
    ____________________ _________________

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 31
    Last Post: 14-10-2012, 06:13 AM
  2. Replies: 2
    Last Post: 18-05-2012, 08:17 PM
  3. Replies: 10
    Last Post: 01-10-2011, 09:55 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 14-02-2011, 10:26 PM
  5. Replies: 6
    Last Post: 12-09-2010, 02:55 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •