Page 1 of 2 12 LastLast
Results 1 to 10 of 20

Thread: HCM-Sự Tích Con Yêu Râu Xanh Việt Nam

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    HCM-Sự Tích Con Yêu Râu Xanh Việt Nam

    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường



    Phần 1


    Chủ quan và khách quan



    Tôi tự nhận cũng như luôn luôn giữ quan điểm khi xem xét hoặc phân tích các hiện tượng xă hội ở Việt Nam, đă và đang dưới sự thống trị của tập đoàn đầu lănh mafia cộng sản, bằng lăng kính chủ quan. Nghĩa là, bằng mắt tôi thấy; bằng tai tôi nghe; bằng óc tôi nhận xét và phân tích; bằng khả năng ngôn ngữ của tôi để diễn đạt. Đặc biệt, khi nghe ai nói, tôi cũng hỏi cặn kẽ để biết nguồn tài liệu có đáng tin không; bao nhiêu là thực, bao nhiêu là giả.



    “Tại sao không khách quan?” Xin thưa rằng: T́nh h́nh xă hội Việt Nam từ ngày tập đoàn đầu lănh mafia cộng sản Việt Nam, mà khởi đầu là Hồ chí Minh, đặt ách thống trị th́ chỉ có hai cách nh́n. Một là của đại đa số nhân dân Việt Nam bị tập đoàn đầu lănh mafia cộng sản Việt Nam đặt ách thống trị; và cách nh́n thứ hai là của tập đoàn đầu lănh mafia cộng sản Việt Nam, do chính chúng diễn đạt hoặc chỉ đạo cho tay sai diễn đạt. Không thể nào có cách thứ ba, hay gọi là khách quan. Bởi v́ thực tế lịch sử đă cho thấy: Tập đoàn đầu lănh mafia cộng sản trong mọi việc đều suy nghĩ và hành động theo chủ quan của chúng. C̣n người dân bị trị, giác ngộ thân phận của ḿnh cũng suy nghĩ và hành động theo chủ quan của ḿnh. Một bộ phận nào đó trong nhân dân (tỷ lệ nghịch với thời gian), thoạt đầu có thể chiếm khá đông, do nhiều nguyên nhân như bị tuyên truyền bịp bợm của cộng sản, do thiếu thông tin v.v… nên mơ hồ quyền lợi và thân phận. Cách nh́n của bộ phận đó được gọi là khách quan, nhưng thực ra nó ngả về phía của tập đoàn đầu lănh mafia cộng sản và nó thường được sự đồng t́nh của tập đoàn đầu lănh mafia cộng sản giống cái gọi là thành phần thứ ba (3) ở miền Nam trước tháng 4-75 vậy. Một thí dụ của cách nh́n đó là việc nhận định: “Hồ chí Minh có công đánh thực dân, đế quốc, tuy nhiên cũng có tội du nhập chủ nghĩa cộng sản”. Nói vậy là mơ hồ, là ngụy biện. Không thể tách công và tội ra được, v́ đây là hai mặt của một vấn đề. Phải tự hỏi: “Tại sao phải đánh thực dân đế quốc?” Trả lời: “Là để khỏi bị áp bức, bóc lột, được tự do, hạnh phúc.” Cho nên nếu đánh thực dân, đế quốc mà c̣n bị áp bức, bóc lột, mất tự do và bất hạnh hơn, th́ đánh làm ǵ! Đi buôn mà lỗ th́ chỉ có tội, làm ǵ có công!!! (Chẳng lẽ ghi công làm sổ sách cần mẫn, họp hành tiệc tùng không mệt mỏi hay sao?!) Chính Hồ chí Minh rất ma giáo nên cũng nêu lên những ư thật là chí t́nh để dụ khị mọi người và che bộ mặt thật là “lưu manh chính trị” của hắn. Hồ đă nói rằng độc lập mà không có tự do th́ độc lập cũng chẳng có nghĩa ǵ. Như vậy, nếu theo Lữ Phương, rằng Hồ đă có công “… tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đă hoàn thành độc lập, thống nhất (sic); ta cứ tạm coi như là thực sự có độc lập, thống nhất đi. Nhưng tự do rơ rệt vẫn chỉ là cái bánh vẽ vĩ đại biểu hiện rơ nhất trong điều 4 hiến pháp và nghị định 31/CP của chúng, th́, như cách Hồ lư luận: “cũng chẳng có ư nghĩa ǵ”. Làm một công việc “chẳng có ư nghĩa ǵ” mà lại coi là “có công” th́ đúng chỉ có cái đầu kiểu Lữ Phương mới “khách quan” kết luận như vậy – Kiểu viết lách như thế là kiểu viết loạn cào cào nhằm lách cái chất nịnh hót, bợ đỡ mà thôi.



    *****



    Vài nét về con người Hồ chí Minh của Lữ Phương



    Trong đề cương “Huyền thoại Hồ chí Minh” Lữ Phương vội khẳng định rằng: “Một cái nh́n công bằng là một cái nh́n hiện thực về nhân vật lịch sử này” (tức nhân vật Hồ chí Minh).



    Như lời giới thiệu, của “Nhóm Nối Kết”, th́ bài này của Lữ Phương được: “gửi đến các bạn, đặc biệt các bạn trẻ”. Cho nên Lữ Phương khôn ngoan dùng cụm từ “nh́n công bằng” để nhử những người trẻ tuổi là tầng lớp chưa va vấp với đời, thích công bằng (nhất là tuổi trẻ ở hải ngoại có ưu điểm chấp nhận tự do tư tưởng, ghét sự áp đặt hoặc độc quyền chân lư).



    Vậy cái công bằng của họ Lữ về Hồ chí Minh là ǵ? Họ Lữ viết: “Hồ chí Minh là một nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20. Ông đă lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ, chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đă hoàn thành độc lập thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi là “chủ nghĩa xă hội hiện thực” ở Việt Nam!”



    Họ Lữ mô tả về Hồ: “Cái cốt cách thanh thoát mờ ảo ấy thật ra cũng đă toát ra từ chính con người của ông: với khuôn mặt xương xương, dáng người gầy, mới 50 tuổi đă để râu dài, ông có vẻ xuất thế hơn rất nhiều so với một số lănh tụ công sản châu á khác như Mao trạch Đông chẳng hạn. H́nh ảnh xuất hiện chính thức của ông trước công chúng do vậy ngoài một lănh tụ cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba, c̣n là một hiền triết phương Đông”.



    Họ Lữ tiếp tục nâng bi họ Hồ: “Từ một người anh hùng giải phóng dân tộc, ông trở thành một ông tiên trong các truyện thiếu nhi, một nguồn cảm hứng vô tận để h́nh thành những bài tụng ca, và hơn nữa, c̣n là h́nh tượng của người đi cứu độ chúng sinh nữa. Sau 1975, tôi thấy người ta đă dựng bàn thờ của ông ngay giữa bùng binh Sài-g̣n, khói hương nghi ngút. Ngày nay nhiều nơi vẫn giữ thói quen này, không phải chỉ riêng ông (nhiều liệt sĩ cộng sản đă thành thần trong các miếu, các đền).”



    Tiếp theo đó, họ Lữ bó buộc phải điểm lại một số bê bối, nhăng nhít của họ Hồ (cho ra vẻ công bằng và khách quan). Sợ tập đoàn đầu lănh mafia cộng sản hiểu lầm là Lữ phạm thượng, nên họ Lữ vội viết tiếp rằng: “Những chuyện t́nh nói trên, hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục” (nghĩa là họ Lữ cho rằng họ Hồ bị bôi nghọ nên hắn không tin). Rồi để khẳng định với quan thầy mafia cộng sản cái tinh thần nâng bi, họ Lữ viết toạc móng heo quan điểm của hắn về hành động điếm đàng, bê bối của họ Hồ, rằng: “Nhưng xét về mặt đạo đức cá nhân thật ra chẳng có ǵ quan trọng lắm”. Đây cũng là ư đồ của họ Lữ muốn gửi lên quan thầy mafia cộng sản đương quyền của hắn, rằng Hồ có đụ bậy, giết người diệt khẩu v.v… cũng chẳng sao về mặt đạo đức, th́ đương nhiên loại đụ bậy, tham nhũng, sát nhân Đỗ Mười, Lê đức Anh, Lê khả Phiêu, Vơ văn Kiệt, Đào duy Quát (con của Đào duy Tùng), Nguyễn khoa Điềm, Phạm thế Duyệt… qua lăng kính của Lữ, chúng vẫn đạo đức sáng ngời.



    Tôi chưa từng biết Lữ Phương, nhưng các cụ nhà ta dạy rằng “văn là người”, nên có thể nói rằng: Lữ Phương là tên điếm chữ nghĩa có hạng đấy. Này nhé, nhận xét về việc thờ cúng họ Hồ và những tên mafia cộng sản khác, về thời điểm th́ nói là sau 1975, nghĩa là sau cái ngày đệ tử của Hồ, đă xâm lăng miền Nam và đặt xong ách thống trị, đẩy nhiều triệu người phải bỏ nước ra đi, đưa hàng triệu người đi tù không xét xử, giết hại và cướp bóc tài sản của nhân dân, dân phải đi làm sưu dịch c̣n nặng hơn bọn Tô Định thời Bắc thuộc, thế mà Hồ vẫn được người ta thờ phụng. Họ lữ mập mờ không nói rơ cho “các bạn trẻ” biết rằng việc dựng bàn thờ họ Hồ có từ thời Hồ c̣n sống. Hắn và cái tổ chức mafia của hắn đă đẻ ra cái tṛ này chứ không phải là nhân dân tự nguyện (tức người ta) như họ Lữ sử dụng cụm từ “người ta” (tức nhân dân). Miền Bắc trước đấy và miền Nam sau này, hẳn ai ai cũng nhớ là công an hộ khẩu kiểm tra từng gia đ́nh, nhà nhà phải có ảnh họ Hồ và thờ hắn, nếu không sẽ bị công an ghi sổ đen là “phản động”. Đểu giả hơn nữa, họ Lữ c̣n dám viết rằng ngày nay (tức là thế kỷ 21), nhiều nơi vẫn giữ thói quen này, nghĩa là theo cách “nh́n công bằng và khách quan” của họ Lữ th́: Người dân miền Nam, sau 1975, đă tự nguyện dựng bàn thờ để thờ Hồ. Sự tự nguyện đó đă trở thành thói quen (nghĩa là tập quán, là đời sống văn hóa, tâm linh của nhân dân) cho đến ngày nay, chứ không phải do chủ trương của tập đoàn mafia cộng sản áp đặt. Nâng bi họ Hồ chưa đủ, Lữ Phương lại c̣n khéo léo nhắn nhủ với tập đoàn mafia cộng sản về tinh thần khuyển mă của hắn khi viết rằng: “nhiều liệt sỹ cộng sản đă thành thần trong các miếu, các đền”. Những tên mafia cộng sản bị nhân dân Việt Nam giết trong cuộc xâm lăng, ăn cướp làm sao có thể gọi là liệt sỹ được?! Làm sao những tên cướp ngày đó lại có thể ngang hàng với các liệt sỹ dân tộc như Nguyễn Thái Học, Kư Con, Trần B́nh Trọng, Nguyễn Biểu, Nguyễn Khoa Nam v.v… Làm ảo thuật về ngôn ngữ như thế sợ quan thầy c̣n mơ hồ nên dưới đó Lữ Phương phải lật bài tẩy khi viết: “Tính chất trong sạch lư tưởng, biết hy sinh v́ nghĩa lớn của những người cộng sản theo con đường của ông hoàn toàn không phải chỉ là chuyện tuyên truyền”. Nghĩa là họ Lữ nịnh các đệ tử của Hồ trong ngụy quyền Hà-nội cộng sản đi theo con đường của ông (tức Hồ). Những tên xâm lược, giết hại dân lành (như vụ Tết Mậu Thân ở Huế chẳng hạn) được Lữ Phương nâng lên là “trong sạch lư tưởng, biết hy sinh v́ nghĩa lớn”. C̣n những quân nhân miền Nam chiến đấu để bảo vệ mảnh đất và lối sinh hoạt của miền Nam – là vùng lănh thổ mà chính tập đoàn Hồ chí Minh đă hai lần kư kết cam đoan với quốc tế về sự phân chia đó th́ bị tập đoàn mafia cộng sản và Lữ Phương gọi là ngụy, là phản động!!!



    Lữ Phương khẳng định rằng những chuyện t́nh bẩn thỉu của họ Hồ là: “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục.”



    Xin tạm nêu ra hai vấn đề để xem Lữ Phương có dám chơi bạo ḥng biết hư thực ra sao. Đó là:



    1) Có thể thử nghiệm DNA của Nông đức Mạnh, Nguyễn tất Trung (con của Hồ với cô Nông thị Xuân, nay Vũ Kỳ nuôi) và cô con gái của Nguyễn thị Minh Khai với DNA của Hồ để thấy kết quả khoa học ra sao, đă đủ thuyết phục chưa?

    2) Họ Lữ táo tợn làm đề cương viết về Hồ chí Minh mà chỉ cần nêu ra hai dẫn chứng để thấy họ Lữ nông cạn thông tin về họ Hồ và tập đoàn của hắn đến mức nào. Trong hồ sơ lưu trữ của ban chấp hành đảng cộng sản Nga-xô, có lưu giấy hôn thú giữa Hồ và Nguyễn thị Minh Khai. Nhưng, tập đoàn mafia cộng sản cũng như họ Hồ đều duy tŕ trong dư luận nhân dân bằng giấy trắng mực đen hẳn hoi, rằng Nguyễn thị Minh Khai là vợ của Lê hồng Phong, đến mức khoảng năm 1990, tờ Sàig̣n Giải Phóng c̣n đăng bài kêu gọi đoàn thanh niên cộng sản và giới chức cai trị cái đất Sài-g̣n hăy giúp đỡ cô con gái của Nguyễn thị Minh Khai và Lê hông Phong (thực ra là của Khai và họ Hồ).



    Tại sao Hồ và tập đoàn tay sai cố t́nh tạo ra sự ngộ nhận đó? Xin thưa rằng, sự thực của vấn đề đó như sau: Trước khi rời Việt Nam qua Nga-xô th́ Nguyễn thị Minh Khai là hôn thê của Lê hồng Phong. Việc này đương sự có báo với trung ương cộng sản lúc đó. Thế rồi khi cả hai được triệu tập qua Nga-xô để học th́ Lê hồng Phong đi trước, c̣n Minh Khai qua ngă Hồng-kông để được Hồ (dưới bí danh Lư Thụy) dạy vỡ ḷng tiếng Nga và chính trị sơ đẳng để dễ dàng khi nhập học trường Đại học Phương Đông (Nga). Chẳng biết Hồ dạy Minh Khai học ra sao mà chữ chẳng vào “đầu” mà vào “đầy bụng”. Câu chuyện đổ bể khi Minh Khai tới Nga-xô nên Lê hồng Phong đành nuốt hận nghe lời lănh đạo Nga-xô, nhường hôn thê cho Hồ và có giấy giá thú làm bằng để sau này Lê hồng Phong khỏi lôi thôi. V́ sự thiệt tḥi đó và thái độ vâng lời cấp trên nên Lê hồng Phong được cho làm ủy viên dự khuyết trung ương quốc tế 3. Đó là nhân vật cộng sản Việt Nam duy nhất được giữ vị trí gọi là “lănh đạo của cộng sản quốc tế”. C̣n Hồ, thực ra chưa bao giờ là thành viên trung ương của cộng sản quốc tế. Hắn chỉ công tác ở Cục Phương Đông, là một bộ phận của quốc tế 3 mà thôi, giữ nhiệm vụ liên lạc giữa đảng cộng sản Đông-dương với quốc tế 3. Những lá thư của Trần Phú và Hà huy Tập gửi quốc tế 3 tố cáo hành vi cáo đội lốt hùm c̣n đó, ai cũng tham khảo được, chẳng biết họ Lữ đă cẩn trọng đọc qua chưa, trước khi múa bút, lè lưỡi bốc thơm họ Hồ. Câu chuyện t́nh bi ai giữa Hồ, Lê hồng Phong và Minh Khai được giữ bí mật ngay cả đối với các thành viên cộng sản Đông-dương. Bởi v́ như trước đó ai ai cũng biết Minh Khai là hôn thê của Lê hồng Phong. Hồ là một tên gián điệp có năng lực của Nga-xô trong vùng Đông-nam-á; Minh Khai và Lê hồng Phong đang được đào tạo để thành “lănh tụ” của cộng sản Đông-dương, tức đạo quân thứ 5 của Nga-xô tại Đông-dương. Nếu để lộ việc Minh Khai chửa hoang, Lê hồng Phong bị cắm sừng và họ Hồ là kẻ chuyên đụ bậy, kể cả vợ của đồng chí ḿnh th́ hậu quả sẽ như thế nào. Các cụ nhà ta xưa có dạy: Làm đĩ chín phương cũng phải để một phương lấy chồng”. C̣n họ Hồ, kẻ được Lữ Phương tô vẽ nào là “anh hùng giải phóng dân tộc”, “lănh tụ cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba”; nào là “ông tiên”; nào là “nguồn cảm hứng vô tận” v.v… đă quên lời các cụ dạy để cho con “lợn nọc” trong ḷng dẫn dắt đến mức “đụ bậy cả mười phương”, già chẳng tha (như Trương thị Mỹ, Đinh thị Cẩn), trẻ chẳng thương (như cô bé 17 tuổi đưa cơm ở Pắc-bó); cô Nông thị Xuân mẹ của Nguyễn tất Trung, và ngay cả Nguyễn thị Minh Khai cũng bị họ Hồ phá trinh lúc mới có 21 tuổi, và v.v…)



    Cuộc t́nh tay ba đó đă khiến Lê hồng Phong ngă ngựa. Chẳng là, sau khi được là ủy viên dự khuyết trung ương của quốc tế 3, Lê hồng Phong được Nga-xô chỉ định về làm tổng bí thư của đảng cộng sản Đông-dương (nghĩa là chẳng có bầu bán ǵ). Khi ấy Hồ là phái viên của cục Phương Đông, nên trước khi đáp tàu thủy về Chợ-lớn (Sài-g̣n) giả dạng trong vai thương gia người Tàu, Lê hồng Phong phải ghé qua Thượng-hải (Tàu) để nghe Hồ báo cáo t́nh h́nh ở Đông-dương lúc đó, cách thức đi cũng như mật khẩu bắt liên lạc với trung ương cộng sản Đông-dương. Chuyện đó chỉ có Lê hồng Phong và Hồ biết với nhau, vậy mà Lê hồng Phong vừa bước chân tới Chợ-lớn đă bị mật thám Pháp thực dân bắt. Nhớ lại vụ Hồ bán cũ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp th́ t́nh huống vụ Lê hồng Phong cũng như vậy. Nghĩa là Hồ t́m mọi cách mượn tay thực dân Pháp hăm hại tất cả những ai là đối thủ quyền lực hơn Hồ, trong con mắt của quốc tế 3. Đối với Lê hồng Phong, Hồ c̣n sợ với chức vụ ủy viên dự khuyết trung ương quốc tế 3, kiêm nhiệm tổng bí thư đảng cộng sản Đông-dương, Lê hồng Phong với cái hận Hồ cắm cho cặp sừng dê trong vụ Minh Khai, thế nào cũng chờ dịp “thiến sống” họ Hồ, v́ vậy Hồ ra tay trước. Và, v́ toàn đảng cộng sản Đông-dương đều biết Minh Khai là hôn thê của Phong, cho nên khi cả Minh Khai và Phong bị thực dân Pháp tử h́nh th́ Hồ cứ duy tŕ cái chuyện Khai là hôn thê với Phong và có con gái với Phong. Nhờ có tờ hôn thú giữa Hồ và Minh Khai t́m được trong kho lưu trữ của trung ương cộng sản Nga-xô sau khi chế độ Xô-viết ở Nga sụp đổ, mà Hồ bị lật mặt nạ. Chỉ có Lữ Phương, nguyên thứ trưởng văn hóa bù nh́n do ngụy quyền mafia cộng sản nặn ra, một “trí thức yêu nước” trốn ra bưng với mafia cộng sản, cũng như các loại trí thức, theo định nghĩa và so sánh của Mao trạch Đông, là vẫn thấy Hồ là “ông tiên”, là “hiền triết phương đông” mà thôi. Chẳng biết Lữ Phương có được xem tấm h́nh “ông tiên” của Lữ Phương, trước ngày xuống địa ngục, đă bị KGB chụp được, đang đi dạo trong phủ toàn quyền cũ với cô con gái Tây lai của Hồ, tên Louis Daguière không, từ Pháp sang kia đấy, trong lúc cô con của Hồ với Nguyễn thị Minh Khai vẫn phải đơn côi ở Hải-pḥng?(!)



    Dẫn chứng thứ hai là Lữ Phương tự “tấn phong” cho bác sỹ Trần duy Hưng là “bí thư thành ủy Hà-nội”. Viết về Hồ mà c̣n lẫn lộn về những nhân vật xung quanh Hồ th́ quả là đại liều mạng như Chí Phèo vậy. Trần duy Hưng là chủ tịch Hà-nội kiêm thường vụ thành ủy Hà-nội. Nhưng cả hai chức vụ đều là “làm kiểng” cho thủ đoạn chính trị của ngụy quyền Hồ chí Minh, nghĩa là mượn cái danh “bác sỹ” của Hưng để cân đối với bác sỹ Trần văn Lai, thị trưởng Hà-nội thời cụ Trần Trọng Kim. Gần như công việc chính yếu của Trần duy Hưng – với tư cách chủ tịch Hà-nội – là đi tiệc tùng, hiếu hỉ. Và, ở những nơi đó, Trần duy Hưng chỉ ŕnh để gào lên “Hồ chủ tịch muôn năm” và “đảng Lao động muôn năm”. Thực chất công việc của Trần duy Hưng là hô khẩu hiệu ca ngợi Hồ mà thôi.



    Lữ Phương có vẻ tự hào và nuối tiếc cái giai đoạn là “trí thức yêu nước” và “thứ trưởng văn hóa của chính phủ bù nh́n” do ngụy quyền Hồ chí Minh nặn ra ở trong bưng. Khổ quá, cái gọi là “trí thức yêu nước” đó là do tập đoàn mafia cộng sản phong cho theo cung cách của các cụ ta xưa nói là “xúi trẻ con ăn cứt gà sáp”, giống như kiểu “Việt kiều yêu nước” áo gấm về làng vậy. C̣n cái chức thứ trưởng mới thảm hại nữa. Chẳng biết Lữ Phương có được phép biết rằng gần toàn bộ cái chính phủ bù nh́n đó đều được ra Hà-nội hết ăn rồi lại đánh bài, đánh bóng bàn, phơi nắng ở khách sạn Hoàn Kiếm, Hà-nội, tọa lạc chỗ ngă tư hai phố Phan Chu Trinh và Trần Hưng Đạo. Đủ mặt từ bộ trưởng tư pháp Trương như Tảng, bộ trưởng y tế Dương quỳnh Hoa, bộ trưởng ngoại giao Trần bửu Kiếm cũng như các vị Lâm văn Tết và bác sỹ Phùng văn Cung v.v… chứ lănh đạo cái con khỉ khô ǵ đâu. Riêng luật sư Nguyễn hữu Thọ được ưu ái hơn nên được ở ṭa vi-la tại phố Nguyễn Du, xưa kia là của nghệ sỹ cải lương Kim Chung, ngày ngày dạo phố hoặc lên khu Quảng Bá để nghe huấn thị. C̣n vợ chồng Trịnh đ́nh Thảo, ở một vi-la khiêm tốn hơn, gần hồ Thuyền Cương, ngày không mưa gió nắm tay nhau ra ngồi ghế đá, phơi nắng, nghe gió thổi để ngậm ngùi nhớ đến cái lúc được tự do có riêng một trang trại thuộc phần miền Nam Việt Nam, và được tự do đặt tên con đường trong trang trại là “đại lộ Hồ chí Minh”. óc cơ hội và sự mù quáng chính trị đă khiến sau tháng 4/75, cặp vợ chồng này bị đổ vỡ: bà ngả vào ḷng một chú bé làm việc tại Sở Bưu điện Sài-g̣n, c̣n ông cũng đành ôm một cháu gái khác để tranh thủ tự ban cho ḿnh sự hưởng thụ ḥng khỏa lấp cơn mơ tưởng ḿnh là chính khứa lỗi lạc của Việt Nam! Tiếc thay, như các cụ ta xưa đă nói “thả mồi bắt bóng” và “trông gà hóa cuốc”!



    Tập đoàn mafia cộng sản Hồ chí Minh là thợ lành nghề trong sản xuất bánh vẽ, vừa vĩ đại màu mè vừa hấp dẫn với những người trung hậu, thật thà cả tin. Chúng cũng là cao thủ của tṛ ảo thuật chữ nghĩa. Nhưng các cụ ta xưa đă dạy rằng: “ăn lắm mất ngon, nói lắm hóa nhàm” và “tinh ma chẳng qua lưới trời”. Cho nên, khi chúng từ chỗ đểu giả gọi những người tỵ nạn xâm lược của cộng sản là: “đĩ điếm”, “ngụy”, “phản cách mạng” v.v… để sau đó cho ra cụm từ “Việt kiều yêu nước” là cảnh “gay ông đập lưng ông” vậy. Bởi v́, nếu những người v́ chống cộng, thấy được không thể cùng chúng đội trời chung nên phải ra đi sống đời lưu vong, nay được chính chúng thừa nhận là “yêu nước”, th́ quả rơ ràng là chúng không yêu nước. Nói một cách khác, chúng là đạo quân thứ 5 của Nga-xô, chúng mang h́nh hài người Việt Nam chứ chúng không phải là người Việt Nam. Qua việc đảng kỳ của chúng (nền đỏ với búa liềm vàng) cũng là quốc kỳ của Nga-xô, đă bộc lộ rằng chúng là công dân búa liềm, nghĩa là một h́nh thức che đậy cái sự thực chúng là quốc tịch Nga-xô và v́ Nga-xô mà thôi. Rút kinh nghiệm lịch sử của những kẻ xâm lược, đế quốc đỏ qua cái gọi là quốc tế cộng sản để tuyển mộ nhân lực của các nước, kết hợp chúng thành đảng cộng sản, cho nên mỗi đảng viên cộng sản là mỗi công dân Nga-xô. Và, đế quốc đỏ dùng lũ công dân Nga-xô mang h́nh hài Việt để giúp việc thống trị người Việt, khiến nhiều người Việt Nam, v́ thiếu thông tin lại thêm thiếu xét đoán, phân tích nên ngộ nhận chúng là người Việt Nam. Cần nhớ là từ Hồ cho đến bọn Trần Phú, Hà huy Tập, Lê hồng Phong, Nguyễn thị Minh Khai v.v… đều có tên Nga, hoặc có bố nuôi là Nga như Vơ nguyên Giáp, Văn tiến Dũng, Giáp văn Cương v.v…



    Khoảng 1951, nghĩa là sau khi Trung cộng làm chủ lục địa, tướng La quư Ba và đặc biệt đại tướng Trần Canh của Trung cộng qua giúp Hồ trong cái gọi là “chiến dịch biên giới 1950” và sự tái xuất của tổ chức công dân búa liềm, dưới cái tên hiền lành là đảng Lao động Việt Nam, th́ tập đoàn mafia cộng sản Hồ chí Minh đă âm thầm làm đảo chính để vô hiệu hóa Quốc hội Khóa 1 với thành phần của nhiều đảng phái, cá nhân không đảng phái và không cộng sản; lật đổ Chính phủ Liên hiệp, chỉ để lại vài bộ mặt bù nh́n hữu danh vô thực như Phan kế Toại, Bùi bằng Đoàn, Nguyễn văn Huyên v.v… làm lá chắn che đậy sự đảo chính bất hợp pháp của Hồ, để từ đó ngụy quyền cộng sản ra đời cùng Hồ, lèo lái đưa Việt Nam vào quỹ đạo thuộc địa của đế quốc đỏ và dùng nhân lực, tài lực Việt Nam vào nước cờ bành trướng của đế quốc đỏ. Và, năm 1959 là năm ngụy quyền Hồ chí Minh công bố hiến pháp mới, không qua trưng cầu dân ư, v́ có nhiều điều khoản trái với Hiến pháp 1946 và bộc lộ sự vi phạm quyền lợi lâu dài của nhân dân và đất nước Việt Nam, càng chứng minh cái gọi là “chính quyền Hồ chí Minh” thực chất là ngụy quyền quân phiệt, v́ hầu hết các bộ trưởng của Hồ là từ ḷ ngụy quân cộng sản mà ra, và cái ngụy quyền quân phiệt đó lúc nào cũng có nhiệm vụ “bảo vệ Liên-xô” như Hồ luôn nhắc nhở, ngay cả di chúc trước khi chết mà Hồ vẫn một ḷng một dạ đi thăm Các-Mác và Lê-nin, chứ có đả động đến Tiền nhân nào của lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam đâu.



    (Xin đọc tiếp bài 2)

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường



    Phần 2

    Quá tŕnh tội ác của Hồ chí Minh



    Thực chất của “ông tiên”, “hiền triết phương đông”, “anh hùng giải phóng dân tộc”, “lănh đạo tầm cỡ quốc tế tài ba” của Lữ Phương là ǵ?



    Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, trong lúc các vua quan đương chức, các nho sỹ, nông dân v.v… đều tổ chức chống Pháp liên tục cho đến 1945-46, rồi lại tiếp tục từ đó theo các phương thức khác nhau, th́, bố của Hồ xin được làm tay sai cho Pháp và Hồ được học ở Quốc Tử Huế. Chính là từ điểm xuất phát ở Quốc Tử Huế, “cậu ấm” Hồ chí Minh đă trổ mầm của giấc mộng làm “cha mẹ dân Việt Nam” (dân chi phụ mẫu). Bố Hồ, vốn tính hung hăng, rượu chè nên khi làm tri huyện B́nh Khê (B́nh-định), say rượu đánh chết dân lành bị kiện. V́ mới đặt ách đô hộ nên thực dân Pháp mị dân, cách quan của bố Hồ. Và, “cậu ấm” Hồ chí Minh bị đuổi khỏi Quốc Tử Huế, ngậm ngùi ôm giấc mộng “làm cha của dân” lang thang vào phía Nam. Cả hai cha con hổ thẹn đâu dám về quê nhà ở Nghệ-an.



    Với hy vọng nếu sang mẫu quốc Pháp, bày tỏ tinh thần khuyển mă, chắc sẽ được trọng dụng. Cho nên chân ướt chân ráo tới cảng Marseille, Hồ đă vội làm đơn xin được học ở trường thuộc địa để “phục vụ mẫu quốc Pháp”. Bị từ chối v́ là con quan bị cách, Hồ lang thang kiếm sống. Hồ may mắn gặp được các cụ Phan văn Trường, Phan chu Trinh, Nguyễn thế Truyền v.v… giúp đỡ và giác ngộ cái thân nô lệ để t́m cách giành lại độc lập cho Việt Nam. Các cụ đối với Hồ rất chí t́nh, nhưng Hồ không thể theo đường lối của các cụ được. V́ như thế th́ lợi cho dân cho nước nhiều, chứ Hồ chưa thỏa được tham vọng. Nhờ có các cụ d́u dắt nên Hồ mới làm quen với báo chí và chính trị. Cuối cùng, Hồ đă chọn con đường của quốc tế 3 (công cụ chiến lược của Lê-nin), v́ quốc tế 3 chủ trương giúp các thuộc địa giành độc lập (thực chất là để ngả vào chủ nghĩa thực dân đỏ của Lê-nin). Chính Hồ đă viết rằng Hồ c̣n dốt nát về chính trị, về các học thuyết, nhưng lựa theo quốc tế 3 v́ chủ trương của quốc tế 3 mở lối cho Hồ thực hiện được ước vọng “làm cha mẹ của dân Việt Nam”.



    Cho nên cái gọi là “Hồ đi t́m đường cứu nước”, chính là t́m đường làm quan. Bị thực dân Pháp từ chối, nay được thực dân đỏ đón nhận nên Hồ đă mừng reo lên và tuôn nước mắt (Hồ đă dại dột bộc lộ cái kẽ hở đó).



    Được thực dân đỏ huấn luyện làm gián điệp và biên chế trong Cục Phương Đông. Năm 1925, Hồ được cử về Đông-nam-á. Chính ở đây đă có bằng chứng bản chất Việt gian bán nước của Hồ. Đó là Hồ bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp, lấy tiền xài sang. Sau vụ bán cụ Phan Bội Châu, từ Tàu, Hồ qua Thái-lan 1928. ở đây Hồ lại làm một hành động Việt gian nữa. Chẳng là lănh tụ Nguyễn Thái Học của VNQDĐ, đang chuẩn bị khởi nghĩa đuổi thực dân Pháp, nên cử ba người sang Thái-lan móc nối mua vũ khí và họ đă t́m gặp những người Việt tại Thái-lan. Trong số đó có Hoàng văn Hoan và Nguyễn đức Quỳ. Tới Thái-lan, Hồ được Hoan và Quỳ cho biết người của VNQDĐ t́m mua vũ khí để chuẩn bị khởi nghĩa. Hồ khuyên Hoan và Quỳ đừng nên dính vào việc nguy hiểm này trước khi từ giă Thái-lan, qua Tàu trở lại. Ba người của VNQDĐ từ Thái trở về Việt Nam, qua biên giới th́ bị mật thám thực dân Pháp đă đón sẵn, bắt đưa vào tù, tra tấn, hỏi cung. Biết VNQDĐ định khởi nghĩa, thực dân Pháp cảnh giác tước vũ khí binh sĩ người Việt. Đó là nguyên nhân lănh tụ liệt sỹ vĩ đại của dân tộc, Nguyễn Thái Học, đành hạ lệnh tổng khởi nghĩa dù việc chuẩn bị chưa xong.



    Chẳng cần úp mở cũng đoán biết là ai là kẻ báo cho mật thám Pháp bắt ba người của VNQDĐ từ Thái-lan trở về. Việc bán cụ Phan Bội Châu và dẫn chứng nói trên – lấy từ hồi kư của Hoàng văn Hoan và của Nguyễn đức Quỳ – cho phép ta khẳng định: Hồ là kẻ mượn tay thực dân Pháp phá cuộc khởi nghĩa của VNQDĐ. V́, sự thành công của VNQDĐ sẽ là trở ngại cho việc xâm lược kiểu mới của thực dân đỏ cũng như chỗ ngồi “làm cha mẹ dân” của Hồ.



    Chính v́ biết dự định khởi nghĩa của VNQDĐ, nên chưa kịp nhận lệnh của quốc tế 3 Hồ đă tập hợp những tên cộng sản Việt Nam, cho ra đời cái gọi là “đảng cộng sản Việt Nam”. Sau đó lệnh của quốc tế 3 đến bắt đổi thành “đảng cộng sản Đông-dương” mà gọi tên với đúng nội dung của nó phải là: “Tổ chức công dân búa liềm, công cụ xâm lược của thực dân Đỏ”. Và, chúng vội vàng đẻ non ra vụ cướp ngày có tên là: “Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930”.



    Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 đă ḷi đuôi cái gọi là “đảng cộng sản Đông-dương” (hay tập đoàn công dân búa liềm) là công cụ của thực dân đỏ, qua khẩu hiệu đầy màu sắc Việt gian là:



    “Trí, phú, địa, hào

    Đào tận gốc, trốc tận rễ”!!!



    Nếu bốn tầng lớp “trí, phú, địa, hào” của Việt Nam mà bị tiêu diệt th́ xă hội Việt Nam c̣n lại cái ǵ? Thật là dễ dàng cho thực dân đỏ xâm lược và đồng hóa toàn diện. Chiến lược của thực dân đỏ vừa thâm độc vừa tàn bạo hơn bất cứ tụi xâm lược nào trong lịch sử loài người.



    Khẩu hiệu trên chỉ có thể là kim chỉ nam hành động của loại “anh hùng giải phóng dân tộc”, của “ông tiên”, của “hiền triết phương đông” qua lăng kính Lữ Phương và bè lũ đồng dạng mà thôi!



    Vài năm sau Hồ làm cái việc bán Lê hồng Phong cho thực dân Pháp như đă viết ở trên (v́ thù riêng). Sợ tội với quan thầy, Hồ đành lang thang bên Tàu, không dám trở lại Nga-xô. Bởi v́, Lê hồng Phong mới chính là kẻ mà tụi thực dân đỏ tin tưởng và đào tạo thành tay sai số một sau này, nếu khi Việt Nam bị nhuộm đỏ, chứ không phải là Hồ. Đánh bóng và tạo uy tín cho tay sai Lê hồng Phong, thực dân đỏ đă phong cho hắn chức ủy viên trung ương dự khuyết của quốc tế 3 và chỉ định về làm tổng bí thư của đảng cộng sản Đông-dương.



    Thời gian ở Tàu, Hồ đă trực tiếp móc nối được với Phạm văn Đồng; với Vơ nguyên Giáp (con nuôi chánh cẩm thực dân Pháp, tên là Marti), kẻ cũng có đơn xin được tiếp tục học để phục vụ mẫu quốc Pháp; với Hoàng văn Hoan mà Hồ gặp khi qua Thái-lan. Về sau, cả ba tên này đều được Hồ ưu đăi cho vào bộ chính trị (hậu thân của khái niệm “chủ tịch đoàn” trước kia) và Đồng làm thủ tướng ngụy quyền Hà-nội; Giáp làm đại tướng tổng tư lệnh ngụy quân; Hoan vừa phụ trách an ninh, t́nh báo vừa giữ ghế phó chủ tịch quốc hội do Hồ đẻ ra. Hoan c̣n là phái viên của Hồ bên Trung cộng, nghĩa là theo cách gọi của ngụy quyền Hà-nội: đại sứ đặc mệnh toàn quyền (bán nước)!!!



    Thế chiến thứ hai xảy ra, thực dân đỏ tạm ngưng nước cờ xâm lược và cũng quên Hồ luôn. Lang thang bên Tàu như chó lạc chủ, nhưng cái bản chất lưu manh do nghề gián điệp càng thêm phát triển, Hồ làm gián điệp cho Mao, theo rơi quân Tưởng; rồi lại làm tay sai cho tướng Trương phát Khuê của Tưởng để báo cáo t́nh h́nh hoạt động của người Việt ở Tàu, phục vụ cho kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”. Bị tố giác là cộng sản – tay sai của thực dân đỏ – nên Hồ bị Trương phát Khuê cho dzô tù.



    Nhờ cụ Hồ Học Lăm, một người Việt Nam yêu nước chân chính, cha đẻ của tổ chức “Việt Nam Độc lập Đồng minh”, ra đời từ 1936, có báo cáo xin chính thức hoạt động, gửi cho văn pḥng trung ương quốc dân đảng của Tàu, cùng với cụ Nguyễn Hải Thần bảo lănh, nên sau khi làm kiểm điểm phản tỉnh, Hồ được Trương phát Khuê cho ra khỏi tù. Tổ chức Việt Nam Độc lập Đồng minh do các cụ Hồ Học Lăm, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh v.v… tiếp tục hoạt động. Hồ xin gia nhập nhưng vẫn sợ Trương phát Khuê bắt tù lại nên láu cá xin được về hoạt động ở biên giới quốc nội. Với danh nghĩa Việt Nam Độc lập Đồng minh (tập hợp của nhiều nhóm người VIệt ở Tàu làm cách mạng), khi về biên giới, gặp đoàn thanh niên do tổ chức của cụ Nguyễn Hải Thần móc nối cho qua Tàu để huấn luyện, Hồ bịa đặt rằng hắn là đại diện của cụ Nguyễn Hải Thần, thâu nhận nhóm đó mở lớp giảng về tôn chỉ hoạt động của Việt Nam Độc lập Đồng minh (sau gọi tắt là Việt Minh) và cho về nước hoạt động. Nhóm đó gồm: Chu văn Tấn, Lê quảng Ba, Trần đại Lâm v.v… (tham khảo hồi kư của bọn này sẽ rơ).



    Đúng vào thời kỳ đó, ở Việt Nam, tổ chức cộng sản bị thực dân bắt gần hết bọn đầu lănh trung ương, chỉ c̣n lại vài mống là Trường chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt. Sau đó thêm Phùng chí Kiên, được thực dân đỏ cho về bổ sung vào trung ương để tổ chức lực lượng vũ trang. Chức tổng bí thư bị khuyết. Đào duy Tùng, tên chánh tổng ác ôn được móc nối vào cộng sản và giữ chức bí thư tỉnh ủy cộng sản ở Hưng-yên (Bắc Việt) có sáng kiến đề nghị Trường Chinh giữ chức quyền tổng bí thư. Cái chức này của Trường Chinh chỉ do dăm tên cộng sản ở Hưng-yên bầu ra mà thôi, nghĩa là chưa đúng điều lệ. Trường Chinh sướng rên lên về cái chức bố láo đó, nhưng vẫn nơm nớp sợ rớt đài.



    May thay cho cả Hồ và Trường Chinh. Thấy núp dưới danh nghĩa Việt Minh của cụ Hồ Học Lăm có kết quả tốt. Họ Hồ bèn dùng danh nghĩa phái viên Cục Phương Đông mời Trường Chinh lên biên giới Cao-bằng họp. Trường Chinh gọi cả Hoàng quốc Việt đi theo. Hồ biết Trường Chinh là tổng bí thư bố láo. Trường Chinh cũng biết Hồ là tên “thất sủng và thất nghiệp” mượn danh nghĩa cũ là phái viên Cục Phương Đông để ḷe nhau. Biết tẩy của nhau nên cả hai cùng lật bài: Trường Chinh th́ công nhận Hồ là phái viên Cục Phương Đông cử về. C̣n Hồ th́ nhân danh phái viên Cục Phương Đông, hợp pháp hóa cái chức tổng bí thư cho Trường Chinh. Khi biết Hồ có ư “định cư” hẳn ở Cao-bằng, Trường Chinh sợ Hồ có uy tín hơn Trường Chinh, sẽ tóm thâu quyền lực của Trường Chinh. Đó là lư do khi Hoàng quốc Việt bị lạc đường nên đến chỗ họp sau Trường Chinh vài ngày. Lần đầu tiên gặp Hồ, Việt chưa biết xưng hô thế nào th́ Trường Chinh nhanh mồm bảo Việt gọi Hồ là “bác”. Cùng là cộng sản mà không xưng hô “đồng chí” nên Hồ láu cá hiểu ngay ư đồ của Trường Chinh là muốn Hồ giữ một khoảng cách, là cố vấn thôi, chứ đừng đi sâu vào công việc của Trường Chinh, v́ qua báo cáo của Trần Phú, Hà huy Tập gửi quốc tế 3, Trường Chinh biết Hồ là kẻ đầy tham vọng, mưu mô, lạm quyền. Đó là lư do Hồ phải nằm trong hang Pắc-bó, lén lút kết thân với nhóm Chu văn Tấn, Lê quảng Ba v.v… vốn là người dân tộc thiểu số, đă được Hồ dạy khi Hồ xin với các cụ Hồ Học Lăm, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh về gây phong trào Việt Minh ở quốc nội, gặp bọn họ ở biên giới. Rồi để cho Trường Chinh yên ḷng và cũng là tạo ra bằng cớ cụ thể, chứng tỏ Hồ, dù mạo muội hăm hại Lê hồng Phong, nhưng ḷng Hồ lúc nào cũng hướng về mẫu quốc đỏ, về nguyên thủ của thực dân đỏ, về cái “quốc tịch Nga-xô” của Hồ. Cho nên Hồ để râu, nằm ở Pắc-bó dịch cuốn “lịch sử đảng cộng sản Nga, bolchévik”; dịch cuốn “tỉnh ủy bí mật” là của Nga-xô. Và Việt gian nhất là dám lấy tên Lê-nin đặt cho ḍng suối chảy ngang cửa hang Pắc-bó, cũng như tạc vào đá, tượng của Các-mác!!!



    Việc làm này của Hồ chứng tỏ cái ǵ?



    Việt Nam ta có câu:



    “Công Cha như núi Thái sơn

    Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.



    Thế nghĩa là Hồ coi Mác là cha và Lê-nin là mẹ của Hồ, phải luôn có hiếu với cha mẹ. Và, Hồ đă coi đảng cộng sản Nga là tổ chức của Hồ, Nga-xô là tổ quốc của Hồ cũng như hoạt động của một “tỉnh ủy Nga-xô” cũng đủ là bậc thầy của Hồ. Và, Hồ tự thú: dùng tài liệu dịch đó để huấn luyện cán bộ của đảng (tức tụi cộng sản). Nghĩa là làm sao cho toàn thể đảng viên cộng sản phải có quan niệm như Hồ về Mác, về Lê-nin, về nước Nga-xô.



    Chưa cầm quyền, vậy mà Hồ đă dám tự cho phép dán nhăn Nga-xô trên một bộ phận lănh thổ của Việt Nam! Chẳng hiểu Lữ Phương có dám nh́n vào cái sự thật rành rành đó không, mà dám hạ bút đội tên “măi quốc cầu vinh” thành “anh hùng giải phóng dân tộc” và “lănh tụ quốc tế tài ba” v.v…



    Cho dù trong bài viết của ḿnh, Lữ Phương có đan xen một số phê b́nh về đường lối của Hồ, nhưng quả thực những cái nhăn mà Lữ Phương dán cho Hồ đă nâng Hồ lên địa vị mà không một anh hùng nào trong lịch sử Việt Nam sánh bằng.



    Các anh Hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung c̣n thua cái vế “quốc tế tài ba” mà Lữ Phương dâng cho Hồ.



    Sau này, khi đă tiếm được quyền thống trị, trong khi Hồ khúm núm nâng Vorosilov (chủ tịch quốc hội Nga-xô, lớn hơn Hồ hai tuổi) là cố, tức là ông nội của ông nội Hồ, th́ Hồ xấc xược “bác bác, tôi tôi” với Đức Thánh Trần Hưng Đạo (chỉ riêng tuổi đời đă hơn Hồ gần 6 thế kỷ) và Tố Hữu th́, “anh anh, tôi tôi” với đại thi hào Nguyễn Du, c̣n với Stalin th́ hắn gọi “ông” (theo cách ông nội). Kẽ hở của Hồ và Tố Hữu rành rành chứng minh rằng bọn chúng và cái tập đoàn mafia cộng sản của chúng không phải là người Việt Nam, không tự hào là người Việt Nam, nên chúng mới coi thường, hỗn láo với danh nhân Việt Nam, với ông, cha của nhân dân Việt Nam.



    C̣n một dẫn chứng nữa chứng minh Lữ Phương mù ḷa trí tuệ. Đó là năm 1945, bác sỹ Trần Văn Lai – trong chính phủ của cụ Trần Trọng Kim – là người Việt Nam đầu tiên làm thị trưởng Hà-nội, đă cho phá bỏ tượng toàn quyền thực dân Pháp ở Đông-dương, tên là Paulbert. Đó là điểm khởi đầu biểu tượng sự sụp đổ của thực dân Pháp ở Việt Nam. C̣n tập đoàn mafia cộng sản th́ sao? Chúng đă đặt tên cho công viên lớn và đẹp nhất Hà-nội là “công viên Lê-nin” và dựng tượng Lê-nin – biểu tượng sự thành công của thực dân đỏ ở Việt Nam. Nhân dân Việt Nam (trong đó không có Lữ Phương) đă thấy điều đó nên đă đội vào đầu Lê-nin cái nón cối thủng, khoác cho tượng Lê-nin chiếc áo “đại cán” cộng sản hay mặc (mà hiện Đỗ Mười vẫn long trọng mặc kiểu áo đó) và chất vấn tập đoàn mafia cộng sản rằng:



    “Lê-nin quê ở nước Nga

    Cớ sao lại đứng vườn hoa nước này?”…



    Viết đề cương về Hồ mà Lữ Phương không biết đến sự thực thời sự này th́ quả là dốt nát, vô trách nhiệm. Hoặc giả Lữ Phương cố t́nh bỏ qua để chạy tội cho Hồ và cái tập đoàn vong quốc cộng sản của Hồ, nhằm lừa đảo thiên hạ, nhất là bạn trẻ. Cách viết tài liệu xuyên tạc như vậy mà Lữ Phương dám “vừa đánh trống vừa ăn cướp” để kêu gọi nên có “một cái nh́n công bằng là một cái nh́n hiện thưc về nhân vật này (tức Hồ)”! Rơ là thảm hại cho loại trí thức kiểu này, mà Mao trạch Đông từng nói là “không bằng cục phân”!!!

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 2B




    Xin viết tiếp về Hồ.

    Lại nói cái ngày đầu tiên Hồ gặp Vơ nguyên Giáp ở bên Tàu, hỏi về lư lịch của Giáp, Hồ đă thấy Giáp sẽ là con bài tẩy sau này nên khuyên Giáp theo học trường vơ bị Hoàng Phố.



    Khi biết Nga-xô cử Phùng chí Kiên bổ sung vào trung ương mafia cộng sản Đông-dương, đặc trách về quân sự. Hồ lo lắng lắm. Hắn vội “lệnh” cho Giáp bỏ học về nước ngay để xin làm dưới quyền Kiên (nhờ cái vốn quân sự mấy tháng ở Hoàng Phố). V́ sao Hồ ngại Kiên? Chính v́ Phùng chí Kiên, trước đó giữ chức trưởng ban đối ngoại thay Hà huy Tập (v́ Tập lên chức tổng bí thư), nên Kiên – qua Tập – biết về nhân cách, tham vọng tàn bạo của Hồ. V́ chính Tập đă báo cáo với quốc tế 3 rằng:



    1- Hồ hay lạm quyền, nhận báo cáo của trung ương cộng sản lúc đó, tự ư găm lại; tự ư giả danh theo lệnh của quốc tế 3 ra chỉ thị cho bọn Tập để lấy le;



    2- Hồ đă tự ư liên lạc với Ngô đức Trị, khi đó là một ủy viên trung ương của nhóm Tập, nhằm gây bè phái để Hồ dễ lũng đoạn, nắm sự lănh đạo của trung ương mafia cộng sản lúc đó. Cần lưu ư rằng, Hồ tuy được Cục Phương Đông sử dụng làm phái viên liên lạc với mafia cộng sản Đông-dương, nhưng chưa bao giờ Nga-xô cho hắn cái chức trung ương ủy viên của mafia cộng sản Đông-dương. Một không may cho Hồ là khi đó Ngô đức Trị bị thực dân Pháp bắt và Trị đă khai hết và chỉ chỗ cho Pháp bắt cả Trần Phú – tổng bí thư đầu tiên của mafia cộng sản Đông-dương – vào đúng lúc báo cáo của Hồ gửi tới quốc tế 3, trong đó Hồ ca ngợi Ngô đức Trị hết lời và gợi ư nên để Trị giữ chức tổng bí thư mới xứng với “tài trí và năng lực lănh đạo” của Trị.



    Hồ rất ghét Trần Phú v́ nhiều lần Phú đă báo cáo quốc tế 3 về tội ba hoa, hám quyền lực và nhất là vô nguyên tắc của Hồ. Cụ thể là bọn Phú móc nối thanh niên trong nước (phần lớn ở vùng Nghệ-Tĩnh) đưa sang Tàu để huấn luyện. Đáng ra Hồ chỉ căn cứ vào sự giới thiệu của bọn Trần Phú mà giúp đỡ những thanh niên đó, nhưng chẳng biết Hồ có âm mưu ǵ khi bắt những thanh niên c̣n khờ khạo này phải khai đủ cả quan hệ gia đ́nh, bạn bè mà phải nói rơ tên tuổi cùng chỗ ở của những người trong mối quan hệ đó. Để rồi tự dưng phần lớn gia đ́nh, bạn bè của những người đó đang ở quê nhà bị thực dân Pháp bắt, cũng như đa số bọn họ sau khi được huấn luyện cho về hoặt động trong nước đều bị thực dân Pháp tóm gọn cho đi tù. Và, qua báo cáo của Phú gửi quốc tế 3, Phú đă nêu nghi ngờ về Hồ! Nhất là Hồ rất thân với Lâm đức Thụ (tức Nguyễn công Viễn), một chỉ điểm của mật thám Pháp!



    Hồ c̣n ngán Phùng chí Kiên v́ Kiên được quốc tế 3 tín nhiệm hơn Hồ, hơn nữa nếu Kiên nắm giữ lực lượng vũ trang th́ làm sao Hồ có thể nuôi cái mộng làm lănh tụ tối cao của mafia đỏ được.



    Cho nên khi Giáp về giúp việc cho Kiên th́ chẳng rơ từ ai mà Pháp biết được ngày, giờ, địa điểm của Kiên qua lại, để tổ chức phục kích và đă bắn chết Kiên (v́ Kiên chống cự và bỏ chạy). Đó là giữa năm 1944. V́ thế, Giáp, là người duy nhất có qua lớp quân sự ở Hoàng Phố, trong cái lực lượng vũ trang mafia đỏ đó, được đôn lên làm trung đội trưởng của trung đội vũ trang duy nhất này, và Chu văn Tấn, xuất thân là đội của lính dơng, giữ chức chính trị viên. Và, ngày 22-12-1944, tại Tân Trào, Hoàng quốc Việt thay mặt Trường Chinh, làm lễ trao cờ và trao nhiệm vụ cho Giáp, Chu văn Tấn và cái trung đội ấy.



    Cái chết của Phùng chí Kiên rất mờ ám, nên khi Hồ tiếm được quyền lực cao nhất của của mafia đỏ, bộ máy tuyên truyền xuyên tạc của Hồ đă né tránh việc này. Vốn gốc gác là gián điệp và chỉ điểm cũng như quá tŕnh dùng Pháp thủ tiêu những đối thủ của ḿnh, cho nên có thể kết luận rằng việc Pháp biết đường đi nước bước của Kiên là do Hồ trực tiếp chỉ điểm hoặc qua Giáp để thủ tiêu Kiên, kẻ biết quá nhiều bỉ ổi của Hồ và là vật cản lối của Hồ.



    Tất cả những báo cáo nói trên của Trần Phú và Hà huy Tập gửi quốc tế 3 vẫn c̣n ở kho lưu trữ của trung ương cộng sản Nga-xô (cũ).



    Giờ xin tóm lược những hành động chính yếu của Hồ tiếp theo đó cho đến ngày hắn ngỏm, mà theo ngôn ngữ khuyển mă của hắn, viết trong di chúc rằng: “đi thăm các cụ Các-mác và Lê-nin”. Đến chết mà hắn vẫn một ḷng một dạ ôm ấp “bố Mác” và “mẹ Lê-nin” của hắn, chứ có nói ǵ đến tổ tiên Việt Nam đâu!



    Núp dưới danh nghĩa Việt Minh và chính phủ Liên hiệp của nhiều đảng phái không cộng sản; lợi dụng sự ngu xuẩn chính trị của chính phủ Pháp lúc đó cứ muốn duy tŕ chủ nghĩa thực dân, và lợi dụng tinh thần xả thân v́ nước của nhân dân Việt Nam, đồng thời che đậy lốt quỷ đỏ của hắn bằng cách “giải tán đảng cộng sản Đông-dương”, Hồ đă tập trung mọi cố gắng để nắm lấy lực lượng vũ trang.



    Qua biên bản các cuộc họp chính phủ (1945-46) hiện c̣n lưu trữ trong cái gọi là “bảo tàng Hồ chí Minh”, th́ thấy, thoạt đầu Hồ núp dưới danh nghĩa Chính phủ Liên hiệp đa đảng để mở các lớp quân sự cấp tốc cho thanh niên, học sinh, sinh viên, đặt tên Trần quốc Tuấn, do Vơ nguyên Giáp phụ trách. Tiếp theo là ngày 7-1-1946, để có thể chi viện hiệu quả cho cuộc chống thực dân Pháp ở Nam bộ, Hồ đề nghị và được các đảng phái đồng ư hợp nhất lực lượng quân sự, gọi là Quân đội Quốc gia. Cụ Vũ Hồng Khanh (VNQDĐ) làm bộ trưởng quốc pḥng. Sau đó Hồ ma giáo đề nghị cụ Vũ Hồng Khanh tham gia phái đoàn kư hiệp định sơ bộ 6/3/1946 ở Đà-lạt (nghĩa là lột chức của cụ Vũ Hồng Khanh một cách khéo léo). Hồ đề nghị luật sư Phan Anh (từng là thành viên chính phủ Trần Trọng Kim) thay cụ Vũ Hồng Khanh làm bộ trưởng quốc pḥng, và giáo sư Tạ quang Bửu (nhân sỹ không đảng phái) làm thứ trưởng. Quân đội hợp nhất có các cấp lănh đạo là:



    1) Chính trị vụ trưởng là ông Hoàng đạo Thúy, không đảng phái, nguyên là huynh trưởng hướng đạo sinh;

    2) Y tế vụ trưởng là bác sỹ Vũ văn Cẩn, không đảng phái;

    3) Chế tạo vụ trưởng là Vũ Anh, người của Việt Minh.



    Nh́n vào sự phân công đó, ai mà đoán được mưu ma chước quỷ của Hồ. Thậm chí nhiều đơn vị vũ trang ở địa phương vẫn giữ tên của các tiên liệt VNQDĐ, như đại đội chủ lực ở Hải-pḥng, mang tên Kư Con (liệt sỹ VNQDĐ)! Thế rồi, lấy cớ về tầm quan trọng của hội nghị Fontainebleau ở Pháp, Hồ đề nghị luật sư Phan Anh tham gia phái đoàn. Và, Vơ nguyên Giáp thay thế luật sư Phan Anh, giữ ghế bộ trưởng quốc pḥng của Chính phủ Liên hiệp. Trong quân đội quốc gia, Hồ phong quân hàm thiếu tướng cho Lê thiết Hùng, một người từng là sỹ quan cao cấp của quân đội quốc dân đảng Tàu, nhưng đă được Hồ bí mật kết nạp vào tổ chức mafia đỏ (khi đó Lê thiết Hùng chưa được biết rằng mafia đỏ là cộng sản; lễ kết nạp theo kiểu cắt tiết gà, ăn thề như thảo khấu lục lâm) và theo đề nghị của Vơ nguyên Giáp, cho Hoàng văn Thái cái ghế tham mưu trưởng. Nói chung, Hồ đă nắm được quân đội về mặt tổ chức. C̣n phía công an (tức nội vụ) cụ Huỳnh Thúc Kháng chỉ là một nhân sỹ yêu nước, giữ ghế bộ trưởng nội vụ, nhưng thực quyền là ở trong tay Hoàng hữu Nam (tên thật là Phan Bôi, em ruột cụ Phan Khôi), thứ trưởng nội vụ, một tên mafia đỏ khát máu nổi tiếng. Sau đó Hoàng hữu Nam bị tai nạn chết, nhưng Hồ vẫn c̣n những quân cờ đắc lực là Trần Hiệu, Lê Giản, Chu định Xương (là những kẻ đă tạo dựng ra vụ án “Ôn như Hầu” ở Hà-nội để bôi nhọ VNQDĐ, tiến tới loại bỏ nhẹ nhàng VNQDĐ trong Chính phủ Liên hiệp).



    Sau khi yên tâm ở lực lượng quân đội đă nằm trong tay Vơ nguyên Giáp và lực lượng công an nằm trong tay Trần Hiệu, Lê Giản (c̣n cụ Huỳnh Thúc Kháng chỉ là bù nh́n), cũng như đẩy được cố vấn Vĩnh Thụy (tức vua Bảo Đại) và cụ Trần Trọng Kim (tháp tùng vua Bảo Đại) qua Trùng Khánh công cán, Hồ bấy giờ mới yên tâm lên đường qua Pháp, mà mục đích chính là để liên lạc với mẫu quốc đỏ, xin chỉ thị chiến lược. Hồ ủy quyền cho cụ Huỳnh Thúc Kháng thay Hồ, mà mục đích chính là mượn cái uy tín “yêu nước và trung thực” của cụ Huỳnh Thúc Kháng để dựa vào tài liệu của tụi Trần Hiệu, Lê Giản, Chu định Xương chế biến ra cái vụ án “Ôn như Hầu”. Thế là, cụ Huỳnh Thúc Kháng đâu ngờ đă bị rơi vào bẫy của họ Hồ để làm cái việc mà lịch sử trung thực sẽ không thể tha thứ cho cụ, v́ qua vụ án “Ôn như Hầu” cụ đă giúp Hồ loại bỏ được VNQDĐ trong Chính phủ Liên hiệp (dù là vô thức).



    Trước khi Trung cộng chiếm được toàn bộ lục địa Tàu, 1949, th́ Hồ tỏ ra “khiêm tốn”, “dân chủ” trong hành động. Nhưng sau năm 1949, nối liên lạc được với Trung cộng để giúp đỡ thành công cái gọi là “chiến dịch biên giới 1950”, Hồ đă đưa luân phiên nhân sự của lực lượng vũ trang của Chính phủ Liên hiệp qua Trung cộng học tập – cả chính trị lẫn quân sự – Cho nên khi số đi Trung cộng học xong, được Trung cộng trang bị lại, th́ khi về họ trở thành lực lượng vũ trang của Hồ, số lớn trở thành đảng viên cộng sản hoặc đoàn viên thanh niên cộng sản. Thực ra họ vào đảng cộng sản theo kiểu tập thể, ồ ạt mà như Hồ nói là “mở rộng cửa đảng (cộng sản)”, tưởng rằng như thế là toại nguyện xả thân v́ nước, bởi Hồ và tập đoàn mafia đỏ của hắn dụ khị rằng vào đảng để thành lực lượng tiên phong, lực lượng xung kích v.v… đánh đuổi thực dân Pháp. Chính v́ cái bong bóng “tiên phong”, “xung kích” để “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà bao thanh niên Việt Nam yêu nước bị lừa, chứ đâu có được nghe nói là “chiến đấu và bảo vệ chủ nghĩa xă hội”! V́ có ai biết chủ nghĩa xă hội là cái chó ǵ đâu. Hồ và đồng bọn c̣n khai thác triệt để tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” ấy của thanh niên trong lực lượng vũ trang lúc đó bằng cách bày ra cái tṛ: mỗi lần đi chiến đấu, những người lính trẻ lúc đó muốn được trao nhiệm vụ cảm tử, phải làm đơn xin vào đảng, được kết nạp tại trận địa rồi mới xông lên “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.



    Đồng thời dùng thủ đoạn lừa đảo nói trên để nắm chặt hơn, độc quyền hơn lực lượng vũ trang thông qua tổ chức đảng cộng sản, Hồ và đồng bọn cho h́nh thành ở tất cả các đơn vị vũ trang, dù lớn hay nhỏ, cái gọi là “chi bộ đảng cộng sản”, “chi đoàn thanh niên cộng sản”, “đảng ủy cộng sản”. Thế là Hồ đă độc quyền nắm giữ lực lượng vũ trang. Rồi Hồ phong quân hàm, tạo ra cái gọi là “hông” hơn “chuyên”, nghĩa là tổ chức cộng sản thông qua “chính trị viên” hoặc “chính ủy”, với việc quân sự chuyên môn, thông qua cấp chỉ huy đơn vị. Tất nhiên ở mỗi đơn vị, quyền sinh sát nằm trong tay các chính trị viên hay chính ủy. Chỉ huy trưởng phải chấp hành lệnh chính trị viên, ngay cả kế hoạch hành quân chiến đấu cũng phải được chính trị viên chuẩn y. Chính trị viên và chính ủy c̣n là kẻ quyết định, việc đề nghị cấp trên thăng cấp hay cho đi học những binh lính trong đơn vị.



    Để quản lư chặt chẽ cái tổ chức đảng cộng sản ở các đơn vị vũ trang, Hồ cho ra đời cái gọi là “tổng cục chính trị”. Tất nhiên cái tổng cục chính trị này nắm cả công tác đảng lẫn quản lư nhân sự, đề bạt cán bộ. Và, cũng tất nhiên là ngoài Hồ và chân tay của Hồ trong tổ chức mafia đỏ ra, chẳng ai có quyền được biết mọi hoạt động và tổ chức của lực lượng vũ trang, cái mà Hồ gọi là “xương sống của cơ quan chuyên chính”. Rồi Hồ thông qua cái tổng cục chính trị đó mà đẻ ra các tṛ ma giáo khác như cụm từ “bộ đội cụ Hồ”, “lính cụ Hồ” cũng như khẩu hiệu hành động cho lực lượng vũ trang là: “trung với đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Cái khẩu hiệu ḷng tḥng ấy chủ yếu là ở cụm từ “trung với đảng”, nghĩa là Hồ là ông chủ thực sự của lực lượng vũ trang. Và cũng từ đó, cái khởi thủy của lực lượng vũ trang được h́nh thành dưới sự lănh đạo của Chính phủ Liên hiệp nhằm bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân Việt Nam, th́ nay nó thoái hóa thành “ngụy quân” có nhiệm vụ bảo vệ “đảng” – tức Hồ và cái tổ chức mafia đỏ của hắn. Và cao hơn, hay nói một cách khác là mục tiêu tối hậu của ngụy quân là “bảo vệ Liên-xô” như Hồ ra lệnh bằng miệng cũng như bằng các nghị quyết của trung ương mafia đỏ của Hồ. Vậy, Việt Nam cách Nga vài ngàn dặm, tại sao lại bảo vệ cho Nga-xô, và bảo vệ như thế nào? Xin thưa rằng, trước mắt là phải đánh thắng thực dân Pháp để Việt Nam trên thực tế là thuộc địa của thực dân đỏ, được cai trị thông qua Hồ, tên toàn quyền kiểu mới của thực dân đỏ, dựa vào tổ chức mafia đỏ mà thực chất đó là những tên mang quốc tịch Nga, nghĩa là Nga gốc Việt. Tiếp đến là làm “lính xung kích” trong chiến lược bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ và ngấm ngầm bao vây Trung cộng, một nguy cơ tranh quyền lănh đạo thực dân đỏ của Nga-xô.



    Kể từ đó, cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp không phải để đạt mục tiêu trước đây do Chính phủ Liên hiệp đề ra là giải phóng đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ toàn vẹn lănh thổ Việt Nam. Mà nội dung mục tiêu của cuộc chiến đó chỉ là mượn danh “giải phóng đất nước”, “bảo vệ toàn vẹn lănh thổ của Tổ quốc Việt Nam” để thực hiện chiến lược toàn cầu của Nga-xô, tức thực dân đỏ hay đế quốc đỏ cũng vậy.



    Ở nông thôn cũng thế, Hồ cho “mở cửa đảng” kết nạp đảng viên từ nông dân. Những người này cũng chẳng hề biết ǵ về cái gọi là “chủ nghĩa cộng sản”. V́ ngay trong lực lượng vũ trang, tự bản thân đă là một tổ chức phải có kỷ luật chặt chẽ, hai là nơi tập trung chủ lực nhân sự của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh, thế mà cũng chưa được học và cũng chưa đủ người hiểu về chủ nghĩa cộng sản để làm công tác giảng dạy. Bản thân cái lũ gọi là “chính trị viên”, “chính ủy” c̣n mù tịt. Thục chất chúng chỉ là bọn ít học hoặc chưa bao giờ được học, dễ dàng nuốt những khẩu hiệu mị dân, những kích động thú tính v.v… của họ Hồ, khiến bọn họ trở thành u mê hoàn toàn và cuồng tín triệt để. Đó thực thụ là những con chó giữ nhà, trung thành với Hồ, cũng có nghĩa là trung thành với mẫu quốc đỏ của chúng, v́ chúng đă nhập quốc tịch Nga-xô.



    Câu chuyện về lễ tuyên thệ nhập đảng mafia đỏ khi ấy thật là tức cười. Nhiều đảng viên nông dân kiểu ấy đă thề, trước bàn thờ có lá cờ đỏ, búa liềm vàng (tức quốc kỳ Nga-xô), được gọi là “đảng kỳ” của mafia đỏ; có ảnh Mác. Ăng-ghen, Lê-nin và Stalin rằng: “Thưa hai ông tây rậm râu (tức Mác và Ăng-ghen); một ông sâu mắt (tức Lê-nin); một ông râu chổi mép (tức Stalin), tôi xin thề”. Việc tưởng như đùa mà là thực trăm phần trăm, có cả ngàn người biết, kể cả Hồ, Trường Chinh, Vơ nguyên Giáp, Nguyễn chí Thanh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt. Chỉ có điều là khi nghe báo cáo về những chuyện như thế, bọn chúng c̣n cảm động rằng đảng viên mafia đỏ kiểu ấy là chân thành từ tim ruột.



    Những chuyện như trên không phải chỉ ở cái thuở 1950-51 ǵ đó, mà tận sau 1960, một tỉnh ủy viên mafia đỏ ở Thanh-hóa c̣n tự hào phát biểu trong một hội nghị nông dân tỉnh (tức nông hội) rằng: “Tỉnh ta rất tự hào v́ là nơi chôn nhau cắt “nhốn” của lănh tụ Lê-nin vĩ đại. Người là ḍng dơi của Lê Lợi, anh hùng giải phóng dân tộc.” Hay ở Nghệ-an, quê nội, quê ngoại của Hồ, cũng một phó ban tuyên huấn tỉnh ủy đă hùng hổ giảng về “chủ nghĩa quốc tế vô sản cao cả”, có đoạn nói: “Khổng tử là người “du-ma-ni” (tức Rumanie) v́ Việt Nam dịch Rou-manie là nước Lỗ-ma-ni, đă đẻ ra thuyết “trung quân” làm chỗ dựa triết học cho phong kiến phản động”.



    Ở những cấp cao hơn cũng thế, chẳng biết họ ngu thật hay giả vờ ngu để được ḷng Hồ, v́ thấy Hồ ca ngợi loại đảng viên “hai ông rậm râu, một ông sâu mắt, một ông râu chổi ở mép”, cho nên cũng phát biểu văng mạng. Thí dụ cụ thể như, cả ngàn người dự lớp nghiên cứu chính trị khóa 1 của trường đại học nhân dân ở Hà-nội năm 1955, chắc không thể nào quên “đồng chí” Nguyễn văn Trấn (tác giả cuốn “Gửi Mẹ và Quốc hội”), khi giải đáp thắc mắc của học viên đă bạo mồm nói:



    “Những đôi giày của tư bản mà các anh cho rằng đẹp hơn hàng của phe xă hội chủ nghĩa là sai. V́ giày của tư bản dùng để đá đít cha ông các anh, để dẫm lên mồ mả tổ tiên các anh!!! C̣n giày của phe ta (tức Đông-âu khi đó) mà các anh chê xấu v́ giày đó phục vụ giai cấp công nhân nhằm sản xuất ra nhiều của cải cho xă hội!!!”



    Xin lưu ư rằng cái ông Nguyễn văn Trấn này đă từng giữ chức phó bí thư xứ ủy Nam-kỳ của mafia đỏ. Sau cái câu phát biểu kiểu “điếc không sợ súng” ấy, ông ta về ban tuyên huấn trung ương của mafia đỏ, chiếm đóng tại trường Albert Sarraut cũ, giữ chức vụ trưởng vụ giáo dục.



    Nhiều vị quân, dân, chính ở miền Nam, sau ngày mafia đỏ đặt ách thực dân đỏ, bị đưa đi cải tạo có thể làm nhân chứng rằng nhiều tên ngụy quân mafia đỏ, vai đeo quân hàm trung tá trở lên mà c̣n phát biểu theo kiểu “hai ông rậm râu” rằng:



    “Máy bay của ta (tức ngụy quân cộng sản) đứng núp trốn trong các đám mây chờ máy bay giặc Mỹ ném bom trở về, bất thần xông ra bắn rơi chúng.”



    Kiểu phát biểu này hầu như xảy ra ở khắp cả trăm trại cải tạo, cho ta nghĩ rằng: bọn chúng đă được cho học tập trước khi làm cai tù. Và kẻ giảng cho chúng cái câu nói nổi tiếng ngu ấy chắc chắn phải ở cấp chí ít là đại tá trở lên.



    Có thể Lữ Phương cho rằng Dương thu Hương đă không công bằng khi trong tác phẩm của ḿnh, Dương thu Hương kể về một nhân vật giữ chức “trưởng ban tuyên huấn tỉnh ủy” tức là hắn lănh đạo cả ba ngành: văn hóa, y tế và giáo dục của toàn tỉnh, khi được cấp dưới xin cho ngâm thơ của cụ Đồ Chiểu, hắn đă hỏi: “Đồ Chiểu là thằng nào?” Khi được cấp dưới giải thích, hắn đă nói, đại ư là chỉ ngâm thơ “anh Lành” (tức Tố Hữu) thôi, cho chắc ăn!



    Dương thu Hương đă viết thực ra c̣n chưa đúng hết. Bởi v́ ngay tên bồi bút hạng nặng kư của ngụy quyền cộng sản Hà-nội là Cù huy Cận, giữ chức thứ trưởng văn hóa, nghe đài phát thanh của chính bọn chúng phát bài “Goan-ta-na-mê-ra” – bài hát đó là của Cu-ba cộng sản – Cù huy Cận gọi Ngô sĩ Hiển hỏi giật giọng:

    “Ai cho phép hát bài nhạc giật gân dâm dật ấy. Bài đó xuất xứ từ đâu?”



    Khi nghe Ngô sĩ Hiển báo cáo bài đó là của Cu-ba, chào mừng chiến thắng của “cách mạng” ở Goan-ta-na-mô; Cù huy Cận lịm người, giả bộ lắng nghe rồi cười cười mừng rỡ: “Ừ, ừ, nghe kỹ th́ quả là hào hùng thật!(?)” Nghe chuyện này mà cứ tưởng như truyện tiếu lâm của nhân dân ta: “… bẩm quan lớn đă… đă thối rồi ạ.”



    Ngay cả Trường Chinh cũng vậy. Hắn hùng hổ bằng cái giọng “ra vẻ ta đây là tướng cướp” lên án điệu múa “hu-la-húp” là đồi trụy, là đủ thứ tởm lợm nhất. Nào hay, một đêm sau khi xem đoàn tạp kỷ của Đông Đức, với điệu múa “hu-la-húp” ấy, nhưng thuyết minh viên gọi đó là “điệu múa lắc ṿng”, Trường Chinh vỗ tay tán thưởng và khen hết lời, nào là ”nghệ thuật”, nào là đủ thứ tốt đẹp.



    Bọn mafia cộng sản hầu như trọn vẹn là lũ mặt dầy, nói láo không biết ngượng, nói càn, cắn càn. Và, càng bậy nhất là chúng tự đội chúng lên là “đỉnh cao trí tuệ”! Nghe kinh bỏ mẹ!

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 3


    Xin nói tiếp về hoạt động của “ông tiên” của Lữ Phương.



    Sau khi đă nắm trọn vẹn quyền lănh đạo về lực lượng vũ trang và tổ chức được đội ngũ ngụy quyền cộng sản ở hạ tầng cơ sở, cuối năm 1951, Hồ cho công khai hóa cái tập đoàn “Nga gốc Việt” của hắn, dưới cái tên hiền lành là “đảng Lao động Việt Nam”.

    Nếu cái đầu của Lữ Phương cũng như các trí thức, học giả, nhà nghiên cứu (kiểu muốn biết sản phụ khi đẻ đau ra sao, không hỏi sản phụ – là người trực tiếp chịu sự đau đớn khi đẻ – mà đi hỏi người gác cửa bệnh viện) về ngụy quyền cộng sản Hồ chí Minh, có chút óc bằng ngón chân cái thôi, th́ sẽ thấy cái gọi là “đảng Lao động” của Hồ chẳng lao động sản xuất cái mẹ ǵ cả. Nó là công cụ của thực dân đỏ, thông qua Hồ và tay chân, chỉ ra công phá hoại đất nước và xă hội Việt Nam, một cách có kế hoạch, có mục tiêu trước mắt, có mục tiêu lâu dài. Thế thôi!



    Cũng may trời có mắt, nên chủ nghĩa thực dân đỏ chết không kịp ngáp. Nếu không, xă hội Việt Nam và đất nước Việt Nam bị Hồ và tập đoàn mafia đỏ phá tanh bành như thế th́ chỉ có lợi cho thực dân đỏ mà thôi. T́nh h́nh ở phía Bắc chắc Lữ Phương không biết, nhưng ở miền Nam sau tháng 4/1975, sau cái mà đàn em của Hồ long trọng tuyên bố là “giải phóng dân tộc” và “thống nhất đất nước” (là điều Lữ Phương nhắm mắt, bịt tai mà tin) th́ bao triệu người dân ở miền Nam bị vào tù; bao triệu người bị cướp nhà cửa và đuổi đi miền núi cho chết đói và bệnh tật; bao triệu người phải vượt biển đi t́m sự sống, và vài trăm ngàn người đă chết ch́m ở Biển Đông; các thành phố ở miền Nam bị tàn phá như thế nào v́ lũ ngụy quân cộng sản vừa ngu, vừa tàn bạo ấy! Sân bay Tân Sơn Nhất th́ phá các đường băng để trồng sả. Đất đai quanh Tân Sơn Nhất, mà chính quyền miền Nam xưa dự trù mở rộng sân bay khi nạn cộng sản xâm lăng không c̣n, được chia lô dành cho ngụy quân cộng sản. Các ao ốc, các biệt thự được chia cho mafia đỏ. Ngụy quân mafia đỏ đóng ở đâu th́ chúng tháo cửa sổ làm củi đun, như ṭa cao ốc của ông Đức Âm, chủ Đại Nam ngân hàng ở trước dinh độc lập là một thí dụ.



    Lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử các nước trên thế giới, đă từng có bao cuộc gọi là “giải phóng dân tộc”. Có đội quân giải phóng nào tàn phá làng mạc, giết hại nhân dân không? Nhà Trần vào Thăng Long sau khi đuổi giặc Nguyên; nhà Lê đuổi quân Minh; Quang Trung đuổi quân Thanh có đội quân nào giết dân, tàn phá kinh thành không? Hay là giúp dân ổn định nơi ăn, chốn ở, nhà vua tuyên bố miễn thuế cho dân chí ít cũng 3 năm, có khi tới 10 năm, và ngay tức khắc chứ đâu có “hứa lèo” như Hồ và đồng bọn ngụy quyền cộng sản của hắn từ đó đến nay là Mạnh, Lương, Khải, An cùng anh “cố vấn” hoạn lợn Đỗ Mười và anh “đại tướng cựu chủ tịch” cai ác ôn đồn điền cao-su của Pháp là Lê đức Anh!!!



    Hành động ngụy quân cộng sản hệt như của Tô Định, Mă Chính, Tôn sĩ Nghị nhưng c̣n khủng khiếp hơn cả bọn xâm lược phương Bắc nói trên.



    Thật khó hiểu khi cái loại tự khoe có học, có chức vụ v.v… như Lữ Phương, đâu có mù mà không nhận định được những cảnh cụ thể, sờ mó được của nhà cửa tan hoang, máu xương đầy đồng, nhà tù, trại lao động khổ sai mọc như nấm, bao con em dân lành phải làm điếm; trẻ em ăn xin, chui gầm bàn gặm xương ở các nhà hàng hoặc bới rác; các thương phế binh của quân lực miền Nam đói nghèo. Đó là những người đă cống hiến, chân, tay, máu thịt, hạnh phúc gia đ́nh bản thân để bảo vệ miền Nam chống sự xâm lược của thực dân đỏ, thông qua ngụy quân cộng sản Hồ chí Minh; đă ḱm chân chúng nên những loại như Lữ Phương, Hoàng phủ Ngọc Tường, Trịnh công Sơn và một số đang cầm bút ở hải ngoại, được ăn học để thành “trí thức”, bằng này bằng nọ như: Đoàn viết Hoạt, hay yên tâm tu luyện (chứ không phải tu rượu) như Thích nhất Hạnh v.v… Ấy, thế mà rồi kẻ th́ vào bưng tự nguyện làm con rối, kẻ ngấm ngầm lập “lực lượng thứ ba”, kẻ th́ soạn nhạc phản chiến, kẻ nằm vùng chỉ điểm cho giặc cộng tàn sát đồng bào ở Huế v.v… và ra đến hải ngoại c̣n từ chối đứng dưới lá Quốc Kỳ (Vàng Ba Sọc Đỏ) của Việt Nam. Thậm chí có kẻ c̣n viết sách “nước đục” để cường điệu và tấn công vào cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Cái “nước đục” đó đă lộ rơ bộ óc bă đậu và ḍng máu đục của tác giả. Đó là tên hề từ gấu váy con mẹ cơ hội buôn văn hóa phẩm, đưa thân h́nh con gấu lợn và cái mặt thớt ra ánh đèn để cho gái trẻ làm tṛ cười. Hắn đă quên vợ con hắn v́ ai mà làm mồi cho cá để góp tay với mafia đỏ, đưa “văn hóa mafia đỏ” từ từ thâm nhập vào cộng đồng người Việt ở hải ngoại, nhất là giới trẻ!



    Sau khi cái hội đoàn “người Việt quốc tịch Nga-xô” đó ra đời (dưới tên đảng Lao động Việt Nam), Hồ đă dùng nó làm công cụ lật đổ Chính phủ Liên hiệp đa đảng. Hồ không lộ liễu làm đảo chính như những cuộc đảo chính thông thường là dùng quân đội bắt giữ thành viên chính phủ khác chính kiến với Hồ. V́ như thế th́ quốc tế và nhân dân Việt Nam đều biết và sẽ có phản ứng, hậu quả sẽ là hại nhiều, lợi ít.



    Với tư cách chủ tịch đảng, Hồ đọc cái gọi là “báo cáo chính trị” trong đại hội 2 tổ chức mafia đỏ, trong đó có phần quan trọng nói về “chính sách giảm tô và cải cách ruộng đất”. Sau đó, Hồ – với tư cách chủ tịch Chính phủ Liên hiệp – tŕnh với quốc hội khóa 1 (đa đảng) để biến thành “luật cải cách ruộng đất”. Hoàn cảnh chiến tranh, nên Quốc hội 1, chủ yếu là ban thường vụ đă thông qua ngay. “Cải cách ruộng đất” không phải điều mới mẻ trong lịch sử chính trị của loài người. V́ mục đích của cải cách ruộng đất trước đó (cũng như sau này ở miền Nam Việt Nam, trước khi bị ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân đỏ) hoàn toàn nhằm kích thích sản xuất nông nghiệp, xóa dần sự nghèo khổ của nông dân để họ có thể đi theo hướng hiện đại trong sản xuất v.v… Cho nên Hồ đă tiên đoán là Quốc hội khóa 1 triệt để ủng hộ chính sách cải cách ruộng đất. Thuở ấy, ngoài Hồ và tay chân kế cận, ít ai thấy được âm mưu của Hồ là:



    “Làm tiền đề cho việc hội đoàn “người Việt quốc tịch Nga-xô” (tức đảng mafia cộng sản) là nơi sản xuất đường lối, chính sách; c̣n Quốc hội chỉ làm cái việc “luật hóa” những đường lối, chính sách đó. Tức là nhen nhóm khái niệm “đảng lănh đạo”. Đảng đây tức là cái hội đoàn người Việt quốc tịch Nga-xô đó, công cụ của thực dân đỏ thực thi đường lối mà các cụ nhà ta nói là “dùng khỉ vặt lông khỉ”, hay nói rơ hơn là dùng lũ Việt gian để cai trị người Việt và ông chủ thực sự ở Việt Nam là thực dân đỏ “trong danh xưng mới đại sứ đặc mệnh toàn quyền”.



    “Để cho cơ quan dân cử tối cao này tự kư án tử h́nh cho ḿnh và các thành viên chính quyền các cấp, không phải là thành viên “hội đoàn Việt gian”.



    “Và, thế là song song với cái gọi là rèn cán, chỉnh quân trong các lực lượng vũ trang mà nội dung là “mafia hóa”, hay nói huỵch toẹt ra là “Việt gian hóa” lực lượng vũ trang, để bộ phận này trở thành lực lượng mà Hồ và bè lũ gọi là “chuyên chính”, huỵch toẹt ra là “lực lượng trấn áp”, “tuyệt đối” trung thành với Hồ và là công cụ thực thi chiến lược bành trướng của thực dân đỏ (hay đế quốc đỏ cũng vậy). Hồ cho thực thi “luật cải cách ruộng đất”. Có điều là, cơ quan chỉ đạo tối cao cũng như nhân sự có quyền ở các tổ đội về tận từng xóm, làng đều phải là thành viên mafia đỏ, chứ không phải là nhân viên của Chính phủ Liên hiệp.



    Tại sao Hồ làm như vậy?

    Đó là Hồ nhằm mục đích chung (tức quyền lợi của hội đoàn Việt gian hay mafia cộng sản) và mục đích riêng (củng cố quyền lực cá nhân, tạo ra lớp nhân sự mới ít chịu ảnh hưởng của bọn Trường Chinh). Xin được nói rơ hơn về hai mục đích nói trên của Hồ.



    1- Mục đích chung:

    - Tiêu diệt các cá nhân, các tổ chức của các đảng phái không cộng sản; các hội đoàn tôn giáo;

    - Bước thứ nhất của việc bần cùng hóa toàn dân, nghĩa là biến nhân dân Việt Nam thành “vô sản” hết, để trở thành nô lệ kiểu mới của chủ nghĩa thực dân đỏ. V́ khi toàn dân không c̣n tài sản, mỗi miếng ăn hàng ngày đều trông vào bàn tay bố thí của Hồ và cái tập đoàn mafia đỏ của hắn, th́ hắn bảo làm ǵ mà chẳng phải làm. Chứng minh cụ thể của việc này là sau cái gọi “giảm tô, cải cách ruộng đất”, th́ bắt đầu một lô cụm từ mới ra đời như: “cơm cụ Hồ”, “đất cụ Hồ”, “dân cụ Hồ”, “bộ đội cụ Hồ”, và bất cứ nói ǵ, ăn ǵ, làm ǵ cũng phải mở đầu bằng: “ơn đảng ơn bác”, kể cả bị bỏ tù, bị tước đoạt tài sản cho đến cả bị giết chết;



    - Đưa Hồ cùng với các đầu đà, hộ pháp của chủ nghĩa thực dân đỏ thành một thứ “tôn giáo đa thần” kiểu “liên hiệp để thôn tính”. Nghĩa là ảnh Hồ được treo để thờ ở khắp các cơ sở tôn giáo truyền thống như đền, chùa, nhà thờ, miếu, cổng làng, cổng chợ, các công sở và Hồ c̣n chồm chỗm trên bàn thờ Tổ tiên của từng gia đ́nh, chỗ tôn nghiêm nhất!!!

    Thần thánh hóa Hồ cùng với tụi đầu lănh chóp bu của chủ nghĩa thực dân đỏ và sau này c̣n độc quyền tư tưởng cũng như quản lư trọn vẹn hoạt động văn hóa, văn nghệ, truyền thông, đẻ ra nếp sinh hoạt xă hội kiểu mới với những tục lệ mới như bất cứ hoạt động của đám đông nào từ họp ở lớp học, lao động, vui chơi hội hè v.v… đều có cái tṛ hát “đảng ca” (bài “ca ngợi đảng Lao động Việt Nam), “lănh tụ ca” (ca ngợi Hồ), hô các khẩu hiệu như “Hồ chủ tịch muôn năm”, “đảng Lao động Việt Nam muôn năm” cùng với các khẩu hiệu phù hợp với nội dung cuộc họp của đám đông, nhưng nhất thiết phải kết thúc bằng khẩu hiệu trọng tâm là “Liên-xô thành tŕ cách mạng thế giới muôn năm” (tức là cách mạng của thực dân đỏ hay đế quốc đỏ cũng vậy).



    2- Mục đích riêng:

    Làm sao Hồ có thể quên được việc Trường Chinh ngày đầu gặp Hồ ở biên giới Việt-Hoa, lúc Hồ ra khỏi nhà tù của Trương phát Khuê, đă bảo Hoàng quốc Việt gọi Hồ là “bác”. Nghĩa là nhắc nhủ Hồ nên giữ một khoảng cách, đừng có lấn chiếm quyền lực của Trường Chinh. V́ thế Hồ mới vào ở Pắc-bó dịch sách cho qua ngày, bị đói rét, bệnh tật. Tất cả sự căm phẫn ấy Hồ đă trút vào bụng cô gái Tày ngây thơ, người đưa cơm cho Hồ. Cái thú trả thù đó của Hồ đă cho ra đời một thằng nhóc và hơn nửa thế kỷ sau, chẳng biết “chống Mỹ cứu nước” là ǵ, ngoài cái nghề trồng rừng, để rồi trở thành nhân vật số một của “hội đoàn Việt gian”. Một số nhà b́nh luận của Việt Nam ở hải ngoại cũng có cái nh́n “vội vàng” về nhân vật này (v́ nghiên cứu cộng sản theo kiểu chuyện sản phụ thí dụ ở trên) giống mấy anh làm báo phương Tây để “hồ hởi” mừng rằng hắn: “có học và ôn ḥa”. Mở mỏ b́nh luận, môi trên c̣n chưa kịp đóng xuống môi dưới; bài viết mực c̣n chưa khô th́… cái nhân vật “có học và ôn ḥa” đó, tức Nông đức Mạnh đă chứng minh cái “có học và ôn ḥa” bằng: cho Cha Nguyễn văn Lư vào tù, kể cả thân nhân; đàn áp giáo dân An-truyền và Nguyệt-biểu theo kiểu cho một ả ni-cô trong cái tổ chức mà xin phép được đặt tên lại là “Sư, Săi Mộc Tồn” (thay cho sư, săi quốc doanh; v́ không nên dùng chữ Quốc, có ư nghĩa thiêng liêng) tố rằng có tự do tôn giáo (quên mất chữ “mác” cho đúng là tự do giáo mác); quản thúc các ḥa thượng Thích quảng Độ; tống cổ dân biểu Quốc hội Âu-châu đến thăm ḥa thượng; tiếp tục quản thúc cụ Lê quang Liêm và khủng bố thân nhân của cụ; đàn áp đồng bào Tây-nguyên và tín đồ Tin Lành; bắt giam các anh Nguyễn vũ B́nh, Lê chí Quang v.v… Nên nhớ, ngày đầu nhậm chức, Mạnh vội đến cảng Nhà Rồng (Sài-g̣n) dâng hương cho Hồ, rồi đi Nghệ-an thăm nhà của Hồ và dâng hương nữa, rồi đi Pắc-bó t́m kỷ niệm của Hồ cũng lại dâng hương. Đúng là cha nào, con nấy: tên ba que đẻ ra thằng con xỏ lá. Từ Pắc-bó, Mạnh cảm động nghẹn ngào, tuyên bố t́m thấy quyển Karl Marx, tập 3. Ối trời, Đất, Thánh, Thần ôi!!! Một quyển sách dù b́a bằng sắt và các tờ ở trong bằng đồng th́ cũng mủn mẹ nó hết rồi chứ c̣n ǵ nữa. Nằm trong hang đá ẩm ướt, không bảo quản đúng 60 năm mà vẫn nguyên vẹn. Đúng là Kinh Tày đ́nh!



    Hồ được cái láu vặt, do làm nghề gián điệp phải sống lẫn lộn bất hợp pháp nên hắn do đó thêm nhạy bén phản ứng để sinh tồn. Đúng như sau này hắn hay nói là: “phải giành chủ động trong bị động”, Hồ đă áp dụng chữ “bác” của Trường Chinh thành sự độc quyền của Hồ, thành vị trí cao hơn đồng bọn một cái đầu. Nhiều anh múa bút – cả ta, cả tây – đều hư cấu rằng “nhân dân tôn sùng” Hồ nên đă gọi hắn là “bác”. Khổ quá! Thế là anh này anh nọ bịa ra, và mấy người sau tin vào sách mà trích dẫn – nhất là của Tây – đă làm giới trẻ bị nuốt phải của giả mà không biết.



    Hồ cũng không quên việc khi họp để bầu ra cái gọi là “ủy ban cách mạng lâm thời”, Trường Chinh và đàn em là Trần huy Liệu đă dám cùng ra tranh cái chức đó. Cũng nhờ Hồ kịp thời khuếch trương cái vụ giúp phi công Mỹ bị Nhật hạ rơi máy bay, đưa trả về cho tư lệnh Mỹ ở Hoa Nam, được Mỹ giúp cho vũ khí, điện đài và người huấn luyện, nên Hồ mới tạm thắng ở “trung ương”, c̣n ở hạ tầng th́ ảnh hưởng của nhóm Trường Chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt vẫn ở thượng phong.



    Thêm nữa, phải nói rằng trong tổ chức mafia đỏ trước đó, cũng như trong thời kỳ gọi là “mở cửa đảng” của Hồ, nhiều người gia nhập chính v́ cái bánh vẽ “độc lập, tự do, thống nhất, b́nh đẳng không có cảnh người bóc lột người”. Phần lớn những người đó đă hy sinh, tiếc rằng chẳng giúp ǵ được nhân dân và Tổ quốc, mà thành những viên gạch lót đường cho Hồ cũng như bọn Trường Chinh xây nên xa-lộ thực dân đỏ trên bản đồ của chủ nghĩa bành trướng. Số c̣n lại đă có uy tín với dân và gắn bó với quyền lợi của dân. Từ chỗ họ là công cụ của Hồ, nay trở thành chướng ngại một khi h́nh ảnh chủ nghĩa thực dân đỏ bị ḷi đuôi. Đây có thể nói là những người có lư tưởng nhưng tiếc rằng chọn lầm tổ chức. Hệt như cảnh các cô con gái nhà lành muốn đi lao động chân chính đă bị cái bộ lao động của ngụy quyền Hà-nội, do Nguyễn thị Hằng – cô bồ nhí của tên lang băm Xuân Thủy – làm bộ trưởng lừa đảo bán đi làm nô lệ. Người Việt ở Hoa-kỳ phải góp tay giải cứu và giúp đỡ mới ngay năm 2000 này thôi.



    V́ thế, mượn danh nghĩa “cải cách ruộng đất”, Hồ bí mật chỉ đạo cho làm cỏ sạch những phần tử nói trên.



    Bởi vậy nhiều người chứng kiến cuộc cải cách ruộng đất của Hồ, thấy biết bao trường hợp, nếu không nói là gần như mọi trường hợp xảy ra đều sai so với nội dung và tinh thần của “Luật cải cách ruộng đất”.



    Tôi xin vẽ lại bức tranh của việc thực thi “luật cải cách ruộng đất” do Hồ chỉ đạo. Nhưng, trước đó, xin điểm lại nhân sự chóp bu của mafia đỏ, sau cái gọi là đại hội 2 của chúng:



    1- Hồ chí Minh: chủ tịch đảng, ủy viên chính trị bộ

    2- Trường Chinh: tổng bí thư, ủy viên chính trị bộ

    3- Lê Duẩn: ủy viên chính trị bộ kiêm bí thư xứ ủy Nam bộ

    4- Phạm văn Đồng: ủy viên chính trị bộ, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao (Hồ là chủ tịch nước kiêm thủ tướng)

    5- Vơ nguyên Giáp: ủy viên chính trị bộ, bộ trưởng quốc pḥng kiêm đại tướng tổng tư lệnh

    6- Nguyễn chí Thanh: ủy viên chính trị bộ, phó bí thư quân ủy kiêm chủ nhiệm tổng cục chính trị, đại tướng ngụy quân cộng sản

    7 Lê văn Lương: dự khuyết chính trị bộ kiêm ủy viên thường trực ban bí thư, phụ trách trưởng ban tổ chức trung ương

    8- Hoàng quốc Việt: dự khuyết chính trị bộ, trưởng ban dân vận trung ương.



    Đấy là 8 tên đầu xỏ của mafia cộng sản, hay c̣n gọi là tập đoàn công dân búa liềm” v.v…



    Ngoài 8 tên nói trên, c̣n 29 tên nữa được trong ban chấp hành trung ương. Bọn chúng chia nhau giữ các chức vụ do Hồ chỉ định với sự tán đồng của Trường Chinh, thí dụ như: Nguyễn Lam: bí thư thứ nhất đoàn thanh niên cứu quốc (thanh niên miền Bắc từ trước 1975 vẫn gọi là “đoàn thanh niên quả thụi”); Nguyễn lương Bằng: đại sứ tại Nga-xô; Hoàng văn Hoan: đại sứ tại Trung cộng; Nguyễn Khang: bộ trưởng phủ thủ tướng; Ung văn Khiêm: thứ trưởng bộ ngoại giao; Lê đức Thọ: phó ban tổ chức trung ương (tức phó của Lê văn Lương); Nguyễn thị Thập: chủ tịch phụ nữ; thiếu tướng Trần đăng Ninh: chủ nhiệm tổng cục hậu cần – Ninh là người dụ dỗ đưa cô Nông thị Xuân dâng cho Hồ làm hậu cung; Trần quốc Hoàn: bí thư Hà-nội; Lê thanh Nghị: chánh văn pḥng trung ương; Nguyễn duy Trinh: bí thư khu 5. Phụ tá cho Lê Duẩn ở phía Nam có Nguyển văn Linh, Nguyễn văn Xô, Vơ chí Công.



    Tố Hữu khi đó mới chỉ là dự khuyết trung ương, phụ tá cho Trường Chinh về công tác văn nghệ.



    Một ủy viên trung ương là Hồ viết Thắng được Hồ chỉ định là người chỉ đạo thường trực cái gọi là “cải cách ruộng đất”, và phó cho hắn là Nguyễn đức Tâm, dự khuyết trung ương.



    Về tổ chức, ban chỉ huy cải cách ruộng đất ở tỉnh gọi là “đoàn ủy”, ở huyện gọi là “đội”, xuống đến làng xă là “tổ”.



    Phương pháp của chúng, thí dụ ở một xă là: cán bộ “đội cải cách” về xă đi khắp xóm, xem nhà ai nghèo tả tơi nhất th́ vào để làm cái việc gọi là “ba cùng” (tức: cùng ăn, cùng ở, cùng làm). Mục đích là làm “công tác điều tra”. Sau đó bọn này về “đội” họp, bàn thảo để quyết định chọn một đối tượng mở đầu, gọi là “bắt rễ”. Từ cái “rễ” này, chúng phát triển thêm một vài đứa nữa, gọi là “sâu chuỗi”. Đến đây th́ “cán bộ đội” cùng những “rễ” họp với nhau để lên danh sách các thành phần xă hội của làng xă như ai là chủ tịch; công an xă; là bí thư đảng ủy cộng sản xă; là các đảng phái khác không cộng sản như “Dân chủ”; “Xă hội”, ai là “Đại Việt”, là “VNQDĐ”; là các giáo dân, phật tử v.v…; ai có ruộng, giàu có hay nghèo, có quan hệ trên huyện hay tỉnh, có con đi chiến đấu hay không v.v… Nghĩa là, từ bộ nhớ phần lớn là chủ quan, ước lượng, đôi khi là chỉ nghe nói chứ không mắt thấy, tai nghe của bọn được gọi là “rễ” ấy (hay c̣n gọi là cốt cán), cán bộ đội cải cách nâng lên thành tài liệu cơ bản dùng cho việc phân định ứng dụng cho cải cách.



    Khẩu hiệu của chúng là: “Dựa hẳn vào bần cố nông và trung nông lớp dưới; đoàn kết với trung nông lớp trên; liên hiệp với phú nông, đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến và cường hào ác bá có nợ máu với nhân dân”.



    Cái khẩu hiệu nghe nhức tai ấy, nhưng nếu cứ làm thật đúng với nội dung qui định thành phần xă hội, qui định có sản xuất hay có bóc lột; có nợ máu hay có công quản lư làng xă v.v… th́ chắc cũng thuận buồm xuôi gió, v́ đang trong khí thế “đoàn kết, hy sinh cho độc lập dân tộc và thống nhất đất nước”.



    Lữ Phương viết rằng Hồ có công, nhưng cái sai của Hồ là bắt chước chính sách cải cách ruộng đất của Trung cộng mà Lữ Phương gọi là “thất đức”. Có lẽ Lữ Phương không thể nào dùng hai bàn tay ếch để che tội ác của Hồ đă giết nông dân Việt Nam, nên coi sai lầm của Hồ là “lầm lỡ” theo Trung cộng mà rơi vào cái việc làm “thất đức” ấy.



    Cách đây độ 40 năm mà hiểu theo kiểu Lữ Phương c̣n tạm tha thứ được. Nhưng ở thời điểm này, nhiều tài liệu bí mật đă bị “bật mí” v́ sự sụp đổ của chủ nghĩa đế quốc đỏ; nhiều chính sách do tập đoàn mafia cộng sản đă và đang tiếp tục thi hành, th́ cách nh́n của Lữ Phương hoặc là dốt về lư luận, nghèo nàn về thông tin; hoặc muốn làm đơn xin ngụy quyền Hà-nội khúc xương thừa cho con cháu, v́ nay đầu đă trắng rồi mà vẫn trắng tay!



    Cần nhớ rằng mọi việc làm của Hồ là chỗ ngồi của hắn và chỗ dựa của hắn là mẫu quốc Nga-xô. Đối với Trung cộng, anh hàng xóm khổng lồ, hắn chỉ lợi dụng mà thôi. Vả chăng, chính nhiệm vụ của hắn mà Nga-xô giao cho cũng là nhằm đối phó với Trung cộng: “Xây dựng phong trào cộng sản ở Đông-nam-á”. Thử hỏi: “Cộng sản Việt Nam hoạt động cũng phải dựa vào sự giúp đỡ của cộng sản Tàu, thế tại sao quốc tế 3 mà trực tiếp là Cục Phương Đông không giao cho cộng sản Tàu làm cái việc “xây dựng phong trào cộng sản ở Đông-nam-á”, mà lại giao cho Hồ?” Bởi v́ muốn bao vây cộng sản Tàu th́ làm sao có thể giao cho cộng sản Tàu được.



    V́ thế sau này, khi đă tiếm được quyền ở Việt Nam, ngụy quyền cộng sản Hồ chí Minh cố t́nh áp dụng những cách làm của Trung cộng (mà Lữ Phương gọi là “thất đức”) được cực tả hơn nữa. Làm như thế Hồ đạt được hai yêu cầu:



    1. củng cố một cách nhanh chóng quyền lực của Hồ và cái hội đoàn Việt gian của hắn;

    2. bằng tuyên truyền rỉ tai để nhân dân chán ghét và thù hận Trung cộng.



    (Thí dụ cụ thể là đến tận năm 2001 này mà Lữ Phương c̣n cho là lỗi tại bắt chước Trung cộng, nghĩa là như Lữ Phương viết: “Tất cả đều là những ư định tốt đẹp, nhưng tất cả đều thiếu cái chiều sâu của sự phản tỉnh triết học. Là sự chọn lựa vội vàng từ đầu và cũng là sự trung thành mù quáng về sau.”)



    Điểm lại đường đi nước bước của Hồ, từ lúc vào học ở Quốc Học Huế đến khi lặn lội sang Pháp để xin vào học trường thuộc địa, rồi theo quốc tế 3 mà chưa hiểu lư luận, triết học là cái ǵ, và bước đầu hoạt động là bán cụ Phan Bội Châu v.v… thế mà Lữ Phương hạ bút coi đó là “những ư định tốt đẹp”, có tốt đẹp bằng Lữ Phương được chính quyền miền Nam cho ăn học thành tài để rồi trốn vào bưng thờ ma cộng sản không? Và, cũng có “trung thành mù quáng về sau”, như Lữ Phương, để đến giờ phút này, trước hàng núi tài liệu – cả sách vở, xương máu, cả lăng, tượng v.v… – mà Lữ Phương vẫn thấy Hồ là “ông tiên”!!! Đúng là tên nâng bi có hạng và mặt dày cũng có hạng!



    (Xin đọc tiếp bài 4)

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 4

    Xin nói tiếp về âm mưu trong “cải cách ruộng đất” của họ Hồ.



    Giờ ta thử hỏi: Tại sao Hồ không dựa vào “chính quyền” xă và tổ chức “đảng” của Hồ ở xă, mà lại dựa vào cái gọi là “rễ”? Nên nhớ bọn gọi là “rễ” này gần như không tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Nếu có th́ cũng chỉ làm những thứ vụn vặt. Bọn chúng đều không có học, có đứa tuổi chỉ độ 15, 16 trở lên, không nghề nghiệp rơ ràng. Hầu như toàn bộ bọn chúng là “lưu manh” ở làng xă. Chúng hoàn toàn bị chi phối bởi cái dạ dày, nghĩa là có ăn th́ bảo giết bố mẹ của chúng, chúng cũng làm. Thực ra bọn gọi là “rễ” chính là thành phần “vô sản lưu manh” ở nông thôn Việt Nam. Đối với chúng, cái gọi là đạo đức hay lư tưởng là những món hàng cực kỳ xa xỉ.



    Xin trả lời:

    1- Hồ không thể dựa vào chính quyền ở xă, v́ cái chính quyền ấy là một tế bào của Chính phủ Liên hiệp đa đảng. Quyền lợi của nhân sự trong cái chính quyền ấy gắn liền với quyền lợi của nhân dân toàn xă. Đấy là động lực khiến họ tham gia có hiệu quả công cuộc kháng chiến chống Pháp. Cái chính quyền ở xă thời đó cũng là tập hợp những cá nhân và đảng phái không cộng sản (như Dân chủ, thậm chí cả VNQDĐ) để thực hiện chủ trương chống Pháp, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho toàn dân Việt Nam, dưới sự lănh đạo của Chính phủ Liên hiệp đa đảng do Quốc hội Khóa 1 bầu ra.



    Xin lưu ư rằng ngay khi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Hồ đă ma giáo cho khai tử Mặt trận Việt Minh và thay thế bằng cái gọi là Mặt trận Liên Việt. Đó là âm mưu của Hồ muốn xóa bỏ công khai sáng tổ chức mặt trận của các cụ Hồ Học Lăm, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh v.v… Mặt trận Liên Việt là do Hồ sáng lập, là công cụ quá độ để Hồ tiến tới cái gọi là chuyên chính vô sản – mà nội dung thực sự là thiết lập sự cai trị trọn vẹn của bộ máy cầm quyền thực dân đỏ. Từ Việt Minh tiến tới Liên Việt là bước đầu Hồ khéo léo loại bỏ các đảng VNQDĐ và Việt Cách (của cụ Nguyễn Hải Thần). Đó là hai đối thủ nặng kư nhất mà Hồ ngán, chỉ c̣n lại hai đảng Dân chủ và Xă hội là hai tổ chức mà Hồ đă cấy được nội gián vào, thí dụ: như Cù huy Cận, Trần đăng Khoa ở đảng Dân chủ; Hoàng minh Giám, Đỗ xuân Sảng ở đảng Xă hội.

    Cho nên, nếu dựa vào chính quyền xă th́ làm sao Hồ có thể làm sai luật cải cách ruộng đất, biến nó thành biện pháp đảo chính không lộ mặt cái Chính phủ Liên hiệp đa đảng được.



    2- Hồ cũng không thể dựa vào tổ chức của cái gọi là “đảng Lao động” (tức cộng sản) được, v́:

    a) phần lớn chịu ảnh hưởng của nhóm Trường Chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt;

    b) nhưng quan trọng nhất là đa số đảng viên thời đó của cái gọi là đảng Lao động, là do bị Hồ lừa bằng cái bánh vẽ: “vào tổ chức để đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, tự do, hạnh phúc” chứ không phải v́ chủ nghĩa cộng sản (tức thực dân đỏ). Họ gia nhập lúc Hồ “mở rộng cửa đảng”. Tóm lại, họ là những đảng viên bị Hồ lừa (chứ không phải là loại “cộng sản theo con đường của ông (tức Hồ)” như Lữ Phương viết). Họ là những người yêu nước thực sự, cho nên tất nhiên họ cũng là đối tượng để tên Việt gian chính hiệu Hồ chí Minh thủ tiêu, ngơ hầu mới có thể áp đặt chủ nghĩa thực dân đỏ.



    Đó là lư do Hồ chí Minh phải dựa vào “rễ” để làm cái mà Hồ khoái chí gọi là: “Cuộc cách mạng long trời lở đất ở nông thôn Việt Nam.” Đúng vậy, v́ trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ có kẻ nào, lực lượng nào – kể cả phong kiến phương Bắc lẫn thực dân Pháp – làm được cái việc là gài mồi “yêu nước” để cho vào bẫy gần như trọn vẹn những người yêu nước mà tiêu diệt về thể xác, về tinh thần hoăc cả hai.



    Thế là, cán bộ đội cải cách cùng với “rễ” nắm trọn mọi quyền hành trong xă. Bọn chúng có trách nhiệm chọn ra 5% dân số bị qui tội danh là: “địa chủ, cường hào gian ác có nợ máu, phản động đội lốt tôn giáo và các đảng phái phản động trèo cao, nằm sâu trong chính quyền và đảng (tức đảng Lao động).” Với cái tội danh mơ hồ đó, bất cứ ai cũng có thể bị gán tội được cả. V́ thế mà hầu như ở xă nào các chủ tịch, phó chủ tịch xă, trưởng công an xă, bí thư và chi ủy viên (đảng Lao động), các đảng viên dân chủ, những người xưa có cảm t́nh với VNQDĐ, có ảnh liệt sĩ Nguyễn Thái Học; có biết chút tiếng Pháp; có quan hệ họ hàng ở tỉnh, thành; các linh mục công giáo; các sư, săi có uy tín trong dân v.v… đều bị kết tội.



    Các ṭa án cải cách ruộng đất được gọi là “ṭa án nhân dân”. Chánh án tất nhiên là “rễ”, đă vô học, lưu manh, nhiều khi mới 15, 16 tuổi, vậy mà dám tuyên án tử h́nh tại chỗ, tịch thu toàn bộ tài sản, bỏ tù hoặc quản chế cái chỉ tiêu 5% của Hồ đề ra.



    Qua cải cách ruộng đất của Hồ, bộ mặt nông thôn Việt Nam có diện mạo mới rất đặc biệt mà chưa từng nhen nhúm, h́nh thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam ta. Đó là:

    1- Một bộ máy cai trị mà những chức vụ chủ chốt như chủ tịch, phó chủ tịch, thư kư ủy ban v.v…; trưởng và phó công an xă; xă đội trưởng; chủ tịch nông hội, chủ tịch mặt trận; chủ tịch phụ nữ v.v… đều là “đảng viên Lao động” (tức “cộng sản” đă qua thanh lọc hoặc mới được kết nạp);

    2- Một tổ chức hoàn toàn mới của cái gọi là “đảng Lao động (tức cộng sản)”. Nghĩa là hoàn toàn không c̣n những người tưởng rằng vào đảng “để được góp phần chống thực dân Pháp”. Trong “đảng” là loại xuất thân từ vô sản lưu manh, trộm cắp, lười lao động, không biết chuyên môn ǵ – kể cả nghề nông. Chúng được lôi vào “đảng” v́ có công tố láo, giết người cùng làng; v́ được hứa chia quả thực, cho vị trí cầm quyền. Chúng một ḷng một dạ đi theo Hồ, nguyện là người học tṛ trung thành của Hồ và phấn đấu v́ sự nghiệp của Hồ. Chỉ có vậy thôi.

    3- Bước một trong kế hoạch làm cho nông thôn Việt Nam (cả nhân lực, tài lực) trở thành tài sản của Hồ (nghĩa là của thực dân đỏ mà Hồ là người đại diện). Gọi là bước một v́ tài sản ở nông thôn được chia cho “rễ”, tạm thời quản lư. Phải chờ đến bước hai, tức là hợp tác hóa, th́ Hồ mới tước lại tài sản từ trong tay các “rễ”. Chính thời gian này mà ra đời các cụm từ: “ruộng đất cụ Hồ”; “gạo cụ Hồ”; “dân cụ Hồ”; thậm chí cả “hạt muối cụ Hồ” v.v…

    4- Chính quyền xă – cái tế bào của Chính phủ Liên hiệp đa đảng – hoàn toàn bị tiêu diệt. Không những thế, c̣n bị Hồ bôi nhọ. Từ chỗ là một chính quyền yêu nước, có công lănh đạo nhân dân địa phương chống Pháp có hiệu quả, nay bị gọi là phản động, là pḥng nh́ của Pháp, là nằm vùng để phá cách mạng.

    5- Các nhân sỹ, các nhà hoạt động tôn giáo, các đảng phái không cộng sản bị hạ nhục, bị vô hiệu hóa, bị khủng bố. Và, kể từ đó chỉ c̣n những kẻ chỉ điểm của Hồ trong các đảng phái không cộng sản, các hoạt động tôn giáo. Nhưng cũng chỉ được hoạt động theo kiểu làm kiểng “dân chủ” như cái chính phủ mà Lữ Phương đă là thành viên chỉ khi c̣n ở trong bưng mà thôi vậy.



    Chính quyền xă (tế bào của Chính phủ Liên hiệp đa đảng) và tổ chức “đảng Lao động (cộng sản) ở xă bị sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ ở cấp huyện và tỉnh. Thế là, bộ mặt chính phủ vẫn mang diện mạo của “liên hiệp đa đảng” nhưng thực tế nó là một kiểu “hồn Trương Ba da hàng thịt”. Nghĩa là, về h́nh thức vẫn là “liên hiệp”, nhưng nội dung của nó là “đảng trị độc tài” của Hồ và cái “tập đoàn công dân búa liềm” của hắn. Cuộc đảo chính của Hồ đă thành công trọn vẹn. Máu đổ cũng nhiều, người chết và bị thanh trừng cũng nhiều. Quá tŕnh đảo chính và củng cố ngụy quyền cộng sản đă không chỉ tác hại trực tiếp đến hàng triệu sinh mạng mà nó ảnh hưởng đến toàn bộ nhân dân Việt Nam trong mọi mặt đời sống văn hóa và sinh hoạt chính trị của xă hội Việt Nam. Cái kinh tởm nhất là toàn xă hội – kể cả tụi thống trị – trở thành lũ nói láo, nói điêu, sống vô đạo nghĩa – nói và nghĩ hoàn toàn ngược với nhau. Tỷ dụ: Đói th́ nói là no; ghét nói là yêu; bị đàn áp th́ nói là được tự do v.v… Cả xă hội chỉ phát triển cơ bắp, bộ óc teo lại chỉ dùng để “ăn, ngủ, đụ, ị” và hô khẩu hiệu mà thôi. Tất cả mọi suy nghĩ là độc quyền của Hồ chí Minh và đầu lănh mafia đỏ.



    Có thể người dân Việt Nam (nhất là cái gọi là “trí thức”) cũng như quốc tế ngu thật, hoặc mơ hồ v́ chỉ thấy nguyên nhân máu chảy, người chết và tù đày là từ những cái gọi là “cải cách ruộng đất”, “rèn cán chỉnh quân”, “chỉnh huấn chính trị”, “ôn nghèo nhớ khổ”, “cách mạng văn hóa và tư tưởng”, , “chấn chỉnh tổ chức”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” nghĩa là chính sách quá tả mà ra, v́ thế họ không nhận ra rằng Hồ chí Minh dùng những chính sách nói trên làm biện pháp đảo chính Chính phủ Liên hiệp đa đảng, vô hiệu hóa Quốc hội khóa 1.



    Cho nên, phải thấy rằng, sau cải cách ruộng đất (ở miền Bắc Việt Nam) th́ miền Bắc Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân đỏ Nga-xô. V́ thế, Quốc hội khóa 2 – với thành phần quét rác, mổ heo, loại mù chữ, ngụy quân, công dân búa liềm, sư săi mộc tồn, linh mục “đơ-mi ca-ri, đơ-mi rô-ti” và v.v… cùng với cái gọi là “hiến pháp 59” chỉ là những lớp son dân chủ giả hiệu trên các bộ mặt hề của chủ nghĩa thực dân đỏ.



    Xin được đưa một thí dụ cụ thể chứng minh thấy rơ hơn những điều vừa nêu. Lấy tỉnh Phú-thọ (Bắc Việt Nam) làm một điển h́nh:

    Năm 1945, sau khi quân Nhật phát xít làm đảo chính thực dân Pháp, trong lúc chính phủ của cụ Trần Trọng Kim chưa kịp vươn tới đó th́ tuần phủ của tỉnh là Cung đ́nh Vận bỏ trốn. Nhân dân v́ nạn đói đua nhau đi phá kho thóc của thực dân Pháp (nghĩa là tự phát làm cách mạng), rồi bầu viên tham tá ṭa công sứ Phú-thọ, tên là Nguyễn hữu Chỉnh, làm “quyền tỉnh trưởng”. Tận cuối 1945, vài tên cộng sản núp dưới danh nghĩa Việt Minh, móc nối với Đội Phiên. Khi đó Phiên đang làm quản lư đồn điền cho ông Đốc Lương (có pḥng mạch ở Nông-pênh, Cam-bốt) nên có nhiều tá điền. Thế là Phiên được “phong” làm chủ nhiệm tổng bộ Việt Minh tỉnh Phú-thọ. Phiên đem một số tá điền cầm giáo, mác ra cùng chia quyền với ông Nguyễn hữu Chỉnh. Lúc đó Nguyễn văn Nguyên (c̣n gọi là giáo Nguyên), quê ở Xuân-lũng, phủ Lâm-thao (Phú-thọ), lấy vợ và định cư ở Chí-chủ. Hắn là đảng viên cộng sản do Trường Chinh kết nạp. Sau khi Chính phủ Liên hiệp đa đảng ra đời, theo đề nghị của Hồ là hợp nhất lực lượng vũ trang của các đảng phái trong Chính phủ Liên hiệp ngày 7-1-1946. Hồ đă lưu manh cho họp mặt ăn thề “hợp nhất” lực lượng vũ trang của VNQDĐ ở Yên-bái (Bắc Việt Nam) buổi chiều th́ buổi tối cho đánh úp quân của VNQDĐ khiến tư lệnh Nguyễn văn Vĩnh phải tự tử. Một số trốn thoát chạy lên Lao-cai với tư lệnh Triệu việt Hưng. C̣n lớp sỹ quan lục quân của VNQDĐ, hầu hết là sinh viên đại học Hà-nội, v́ ḷng yêu nước bỏ học để học quân sự ở nơi anh hùng liệt sỹ Nguyễn Thái Học đă bị thực dân Pháp giết, được tụi cộng sản làm lễ tiễn về Hà-nội để tiếp tục học ở đại học. Nhưng thực tế chúng đă báo cho Nguyễn văn Nguyên đón bắt hầu hết ở ga Chí-chủ. Nguyên cho trói hai người làm một rồi đưa ra ghềnh Bà Triệu, đâm vài nhát và đẩy xuống chỗ xoáy nước của ghềnh. Trong số thoát nạn có bác sỹ Nguyễn văn Tiếp, sau 1954 di cư vào Nam và từng giữ chức giám đốc bệnh viện Chợ Quán.



    Với thành tích giết “người yêu nước” như thế, Nguyễn văn Nguyên được Trường Chinh chỉ định làm “bí thư tỉnh ủy cộng sản” của tỉnh Phú-thọ. Bấy giờ Nguyên mới kết nạp đội Phiên. Đầu năm 1947, vợ đội Phiên cũng được lôi lên Vĩnh-chân (huyện Ấm-thượng, Phú-thọ), dù mù chữ lại vừa già móm và toét mắt, cũng giữ chức chủ tịch phụ nữ Liên khu X, có bà Phan thị An, nguyên hiệu trưởng trường nữ học Hoài Đức (Hà-nội), giúp việc.



    Qua cải cách ruộng đất ở tỉnh Phú-thọ, Nguyễn văn Nguyên bị khép tội VNQDĐ và bị bắn chết. Chưa đầy 5 tiếng đồng hồ sau th́ có ngựa hỏa tốc đem lệnh của Hồ sửa sai cho Nguyễn văn Nguyên, được tuyên dương là liệt sỹ. Vợ chồng đội Phiên cũng bị c̣ng tay vào tù về tội “liên quan với địa chủ” (tức làm quản lư đồn điền cho ông Đốc Lương). Đội Phiên cắn lưỡi tự tử chết, c̣n vợ bị đem về bắn chết ở sân đồn điền của ông Đốc Lương (Cẩm-khê, Phú-thọ). Chủ tịch tỉnh là nguyên tham tá ṭa sứ Phú-thọ, Nguyễn hữu Chỉnh bị cách chức, khoảng 1957 cho đi dạy học ở trường kinh tế – tài chính (Hà-nội). Trước đó, tuần phủ Cung đ́nh Vận cũng bị bắt và bắn chết.



    Quyền hành toàn tỉnh Phú-thọ, sau ngón vơ của Hồ, đều nằm trong tay bí thư tỉnh ủy mới của “đảng Lao động” là Vũ Song, do đích thân Hồ chỉ định. Trước đó Song là người được Hồ trực tiếp lựa chọn và giao cho xây dựng “đoàn thanh niên xung phong” (một mỹ tự gắn cho nam nữ thanh niên nô lệ khổ sai).



    Thế là Hồ đă chặt chân tay của Trường Chinh ở Phú-thọ qua cái gọi là “cải cách ruộng đất”, cũng như cày nát nhân sự làng Xuân-lũng (phủ Lâm-thao, Phú-thọ), đă từng là cơ sở quan trọng của anh hùng liệt sỹ Nguyễn Thái Học. Sau khởi nghĩa Yên-bái của VNQDĐ, làng Xuân-lũng đă từng bị thực dân Pháp cho máy bay “bà già” bắn phá bỏ bom. Hồ đánh tan nát Xuân-lũng c̣n hơn Pháp bắn và thả bom rất nhiều, nhằm tiêu diệt tinh thần yêu nước thực sự của người Việt Nam (đó là tinh thần Nguyễn Thái Học).



    Trường Chinh rất đau trong vụ Nguyễn văn Nguyên bị Hồ cho giết chết. Hắn lợi dụng cái tuyên dương “vuốt đuôi” là liệt sỹ mà Hồ ban cho Nguyên để đưa con trai Nguyên đi Nga-xô học, rồi khi nắm chức Chủ nhiệm ủy ban khoa học của ngụy quyền Hà-nội, hắn đă đưa thằng con đó của Nguyên vào giữ ghế thư kư ủy ban. Con của tên Việt gian, giết người yêu nước, Nguyễn văn Nguyên đó chính là “giáo sư tiến sỹ” Nguyễn văn Đạo, giám đốc trường đại học quốc gia hiện nay. Đạo là người đọc diễn văn ngày cựu tổng thồng Bill Clinton của Mỹ, đến nói chuyện ở trường này, và Đạo bị một số người trong nước Việt Nam chửi là “vô giáo dục, bất lịch sự”. Chó tất nhiên đẻ ra chó, làm sao đẻ ra cọp được!



    Làm “cải cách ruộng đất” là âm mưu thâm độc và quan trọng nhất để Hồ đảo chính Chính phủ Liên hiệp đa đảng, âm thầm biến cuộc chiến tranh chính nghĩa của Chính phủ Liên hiệp đa đảng chống thực dân Pháp thành chiến tranh bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ. Chính v́ thế mà bao người đành phải đau ḷng rời bỏ kháng chiến để vào vùng Pháp tạm chiếm. Hầu hết c̣n mơ hồ không lư giải được t́nh h́nh lúc đó, lại thêm thiếu tài liệu về con người của Hồ chí Minh cũng như những thực tế tội ác của Hồ và tập đoàn mafia đỏ của hắn, cho nên chia làm hai bộ phận:

    1- Một số trùm chăn, mơ mơ hồ hồ, làm cái loa rỉ tai tuyên truyền có lợi cho ngụy quyền Hồ chí Minh.

    2- Số khác lợi dụng Pháp để công khai chống ngụy quân, ngụy quyền Hồ chí Minh, nhưng cũng chưa đủ thông tin để hiểu sâu sắc về tập đoàn Hồ chí Minh và cái chủ nghĩa “lá diêu bông” cộng sản; và cũng không có khả năng tổng hợp tội ác của chúng cũng như hoàn toàn thiếu phương tiện để đấu tranh với bọn chúng trên b́nh diện tuyên truyền thông tin. Trong khi đó, ngụy quyền Hồ chí Minh vẫn núp trong cái lốt Chính phủ Liên hiệp đa đảng, vẫn nắm ngọn cờ “chiến tranh giải phóng dân tộc” của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, lại được mẫu quốc Nga-xô cùng đồng bọn cộng sản ở khắp thế giới đánh bóng, ủng hộ. Điều đáng buồn là có nhiều “trí thức tháp ngà”, nhiều nhà hoạt động xă hội quốc tế có tên tuổi, y như người ngắm trăng bằng mắt để tưởng tượng ra câu chuyện “chị Hằng” và “chú Cuội ngồi gốc cây đa”, ra công tô vẽ cho con quạ đen ngụy quyền Hồ chí Minh thành chim phượng, chim trĩ!!! Chính v́ thế mà cuộc đấu tranh của những người đă cảm nhận được Hồ và cái tập đoàn công dân búa liềm của hắn là nguy cơ của dân tộc và đất nước Việt Nam cứ phải ở thế hạ phong.



    Với dă tâm lưu manh chính trị đó, ngay từ đầu 1948, Hồ đă đích thân dùng bút danh Trần dân Tiên để tự đánh bóng bản thân với toàn những chuyện phịa. Đó cũng là cái khung, cái mẫu mực mà Hồ vạch ra cho các loại bút nô sau này, tạo thành “một nguồn cảm hứng vô tận” để h́nh thành những bài tụng ca, và hơn nữa, c̣n là h́nh tượng của người đi cứu độ chúng sinh nữa, như Lữ Phương viết.



    Tất cả những tên nô lệ thổi kèn nâng bi họ Hồ, dù xuất thân rất khác nhau, đều được Hồ ban cho một chỗ đứng cao ráo trong bậc thang mafia đỏ. Tố Hữu, một tên mà đă có nhận xét về hắn là “mắt khô miệng ướt”, đă vọt lên tới cái ghế ủy viên chính trị bộ đảng Việt gian; Diệp minh Châu được lôi từ đồng bằng Cửu-long, chẳng qua bầu bán, nhảy thẳng ra Việt-Bắc dự đại hội 2, rồi được cùng ăn ở với Hồ để vẽ Hồ. Một năm sau, Hồ cho Diệp minh Châu qua Ba-lan học nghề nặn tượng để chuyên nặn và tạc tượng Hồ. Tên phó máy phố phủ là Đinh đăng Định cũng được Hồ cho ở cạnh để chụp ảnh Hồ trong suốt những ngày ở Việt-Bắc và vài năm sau 1954, được Hồ cho cái ghế “chủ tịch hội nhiếp ảnh”. Tất cả các loại khác từ Nguyễn đỗ Cung đến Mai văn Hiến; từ Hoài Thanh đến Bảo định Giang; cặp bài trùng Cù huy Cận – Xuân Diệu; rồi Nguyễn đ́nh Thi, Lưu hữu Phước, Phạm Tuyên, Đỗ Nhuận; rồi Huyền Kiêu, Hoàng trung Thông v.v… Tóm lại cả một hiệp hội gồm những văn nghệ sỹ, trí thức “không bằng cục cứt” đua nhau ca ngợi Hồ bằng mọi loại h́nh văn học nghệ thuật và có cả một cái gọi là “ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài” với những Phạm ngọc Thuần (anh ruột nội gián Phạm ngọc Thảo), bác sỹ Nguyễn khắc Viện, Vũ Cận v.v… làm công việc dịch thuật những “tụng ca” đó, có sự tiếp tay của nhóm Việt gian hải ở ngoại là Huỳnh trung Đồng, bác sỹ Nguyễn ngọc Hà v.v… Hồ c̣n được mấy anh chị làm báo của Tây cộng sản và Tây xă hội làm cái việc “vẽ rắn thêm chân”.



    Sự bốc thơm họ Hồ của cả một hệ thống văn nô cung đ́nh, có tầm vóc lớn lao, mà lịch sử các triều đại ở Việt Nam chưa bao giờ có thể h́nh dung được. Cộng thêm những tên cầm bút người nước ngoài vừa ngu vừa dốt, vừa vô trách nhiệm, đă đổi trắng thay đen sự thực lịch sử, khiến con dê cụ Hồ chí Minh biến thành “ông tiên” của Lữ Phương, tên Việt gian số một trong lịch sử Việt Nam biến thành “anh hùng giải phóng dân tộc”; tên gián điệp quốc tế chuyên nghiệp thành “lănh đạo cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba”; tên đạo văn thành “hiền triết phương đông”.



    Thật đáng buồn là có những người đă từng cầm súng chống thực dân Pháp mà về già, óc nô lệ vẫn c̣n đặc sệt, đến nỗi viết sách về Việt Nam mà phải nhờ một “ông” Tây cầu chứng cho. Khổ nỗi “ông” Tây này cũng từng là cây bút bố láo có hạng!!!



    Thật đáng lo ngại bởi các thế hệ con em chúng ta sau này, chắc chắn sẽ ngả vào đống tài liệu giả đó để mà băn khoăn không biết đâu là thực, đâu là giả, sẽ mất th́ giờ tranh căi và có thể rất nhiều các em sẽ nghĩ Hồ là “ông tiên” thật, hoặc nghi ngờ rằng: “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục” như Lữ Phương đă viết. V́ cho đến nay chưa ai nghiêm túc hệ thống hóa tài liệu, phê phán tài liệu để t́m sự thực nhằm bác bỏ núi tài liệu giả do chính Hồ và ngụy quyền cộng sản mafia Hà-nội sản xuất từ hơn nửa thế kỷ nay, vẫn c̣n tiếp tục làm hàng giả, đang được những tên mafia đỏ hoặc tay sai của chúng nằm vùng, hoặc lũ cơ hội đi hai hàng, đang t́m cách cho thâm nhập, thẩm thấu dần dần vào cộng đồng người Việt ở hải ngoại, đặc biệt là tầng lớp trẻ. Cây bút của chúng như cái que khều rác, bới loạn xà ngầu, mà cũng chỉ bới ra rác thôi.



    Như đă tŕnh bày ở trên, rằng Hồ dùng “cải cách ruộng đất” để đảo chính âm thầm Chính phủ Liên hiệp đa đảng, dựng lên ngụy quyền Hồ chí Minh, lèo lài cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta chống thực dân Pháp thành cuộc chiến bành trướng của thực dân đỏ. Hắn vẫn dùng ngọn cờ giải phóng dân tộc của Chính phủ Liên hiệp đa đảng nhưng những người Việt Nam thức thời, thấy rằng Hồ và tập đoàn mafia đỏ là bệnh tâm phúc của dân tộc c̣n thực dân Pháp chỉ là cái mụn ghẻ. V́ thế mới có sự hợp tác với Pháp để chống Hồ. Chỉ tiếc là thiếu nhân sự có khả năng, thiếu phương tiện, tư liệu và kỹ năng tuyên truyền và phản tuyên truyền, cho nên bị con cáo già Hồ chí Minh, lợi dụng sự ấu trĩ của nhân dân lúc đó, hoàn toàn mù tịt về tội ác của thực dân đỏ, để khoét sâu thêm sự ngộ nhận của nhân dân trong việc cộng tác với Pháp. (Sau này ngụy quyền Hồ chí Minh cũng múa lại vơ này trong cái gọi là “chống Mỹ xâm lược” trong chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ vào miền Nam nói riêng, và toàn Đông-dương nói chung).



    Sau cải cách ruộng đất, tất cả những việc làm khác của Hồ như “chấn chỉnh tổ chức” và “sửa sai cải cách ruộng đất” chỉ nhằm mục đích củng cố quyền lực của cá nhân Hồ; củng cố bộ máy thống trị của ngụy quyền Hồ chí Minh; chấn chỉnh lại tổ chức công dân búa liềm, nhằm nhẹ nhàng loại bỏ ảnh hưởng của Trung cộng.



    Nhiều người đến nay vẫn tưởng Hồ tự phê về sai lầm trong cải cách ruộng đất là thực ḷng, đó là v́ họ không dám mở mắt nh́n thẳng vào con người của Hồ. Những huyền thoại về Hồ do chính hắn và tay sai trong và ngoài Việt Nam, do đồng bọn ở nước ngoài, do mẫu quốc đỏ (anh cả Nga-xô, anh hai Trung cộng), do mấy nhân sỹ trí thức nước ngoài thuộc loại “lẩm cẩm muốn nổi danh” đă tô vẽ “rắn thêm chân” làm họ không dám nghĩ rằng Hồ chính là con “mảng xà tinh” trong truyện Thạch Sanh.



    Sửa sai thực chất là một cuộc thanh lọc lại, v́ thế mới có lư do để cất chức tổng bí thư của Trường Chinh; đuổi Lê văn Lương và Hoàng quốc Việt ra khỏi bộ chính trị mafia đỏ, tước chức đầy quyền lực của Lương là trưởng ban tổ chức trung ương, cho Lê đức Thọ ngồi vào đó và Lê Duẩn được ngồi lên đầu Trường Chinh.



    Cũng qua sửa sai, Hồ cho giết một số nữa gồm bọn gọi là “rễ”, nghĩa là cái kiểu sửa gáy “kiêu binh tam phủ”, cho trở lại đời thường một số “bị oan” trong cải cách, để làm đối trọng của lũ kiêu binh mới, gây ra cảnh ŕnh ṃ nhau, khiến chẳng ai dám trái ư Hồ.



    Cũng qua sửa sai, Hồ dùng tay Nguyễn chí Thanh để sửa gáy cả Vơ nguyên Giáp, bằng cách cho phép Thanh bắt các đại tá thân cận nhất của Giáp, nghĩa là “cạo nhẵn râu ria của Giáp”. Hào quang “chiến thắng Điện-biên” của tướng Giáp được các nguyên soái Vi quốc Thanh, đại tướng Trần Canh và thiếu tướng La quư Ba của Trung cộng đội cho, bị Hồ dùng cái khố cố nông của Nguyễn chí Thanh chụp lại. Trung tướng ngụy quân Hoàng văn Thái, cánh tay mặt (sau c̣n là sui gia) của Giáp chẳng tội t́nh ǵ mà bị tước chức tổng tham mưu trưởng ngụy quân cộng sản. Cái ghế đó được trao cho Văn tiến Dũng, đại đoàn trưởng đại đoàn Đồng Bằng, và Dũng được đưa lên chức thượng tướng – hơn Thái một ngôi sao! Và Thái thành phó của Dũng!

    Tất cả những người thắc mắc, phát hiện ra sai lầm của cải cách ruộng đất đều bị loại thẳng tay như luật sư Nguyễn mạnh Tường; như bộ trưởng tư pháp Vũ đ́nh Ḥe v.v… Và, Hồ c̣n quăng mẹ nó cả cái bộ tư pháp lẫn khoa luật ở trường đại học vào “hố xí”. Từ đó trở đi, lời nói, mệnh lệnh của Hồ là luật. Ngụy quyền Hồ chí Minh cũng cho ra đời cái quyết định tập trung cải tạo không xét xử (mà cũng là không thời hạn) tất cả những ai bị coi là nguy hiểm cho chế độ (thực dân đỏ) hoặc có thể sẽ nguy hiểm (nghĩa là thà sai hơn sót)!!!



    Thế mà có biết bao tên điên hoặc vừa điên vừa ngu từ đó cho đến nay, như con đà điểu rúc đầu vào cát, vẫn tin vào sự sửa sai của Hồ là thành khẩn!!!



    Hiệp định Genève 1954 cho ngụy quyền Hồ chí Minh tạm thời quản lư miền Bắc Việt Nam tới vĩ tuyến 17.



    Trước đó Hồ dùng cải cách ruộng đất để tước đoạt tài sản của nông dân. Nay vào tiếp quản các thành thị, Hồ dùng cái gọi là “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, và qua tay tên nguyên lư trưởng chuyên cờ bạc và nghề hoạn lợn là Đỗ Mười, hắn cho cướp hết tài sản của nhân dân ở thành thị. Nghĩa là hắn đă “vô sản hóa toàn dân Việt Nam ở phía Bắc vĩ tuyến 17”, và tất cả thành nô lệ của thực dân đỏ. Có thể đó là thành tích “lănh đạo cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba” của Lữ Phương dâng cho Hồ. Bởi bọn Tô Định, Mă Viện, Cao Biền ở phương Bắc và thực dân Pháp cũng không thể nào so sánh được với cái vẩy móng tay của Hồ trong sự nghiệp nô lệ hóa nhân dân Việt Nam cho thực dân đỏ!





    (Xin mời đọc tiếp bài 5)

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 5

    Xă hội miền Bắc Việt Nam được Hồ sắp xếp lại



    Một bên là tổ chức công dân búa liềm, phải cải tạo lại tư tưởng qua cái gọi là “chỉnh huấn mùa xuân”, “chống bè lũ nhân văn – giai phẩm” và “ôn nghèo nhớ khổ”. Từ đó tất cả đều phải đền đáp công ơn đảng (tức Hồ), bác (cũng là Hồ) và thề phấn đấu cho lư tưởng và sự nghiệp của “bác Hồ vĩ đại” cho đến hơi thở cuối cùng và cho ra đời lũ đảng viên mới gọi là lớp đảng viên Hồ chí Minh.



    Vậy “lư tưởng và sự nghiệp vĩ đại” của Hồ cụ thể ra sao? Đó là:



    a- Bảo vệ Liên-xô, thành tŕ cách mạng vô sản toàn thế giới;



    b- Làm tiền đồn của phe xă hội chủ nghĩa trong công cuộc chiến đấu chống “chủ nghĩa thực dân kiểu mới”, đứng đầu là đế quốc Mỹ, tên sen đầm quốc tế;



    c- Dưới sự lănh đạo của Liên-xô và cùng các đảng cộng sản anh em đưa sự nghiệp cách mạng tới thế giới đại đồng.



    Nội dung thực sự của thứ chủ nghĩa màu mè mang nhăn thực dân đỏ này chỉ có nghĩa là:

    1- Nhân dân Việt Nam là binh nô ở ngoại vi của Nga-xô, phải bảo vệ Nga-xô ở ṿng ngoài;



    2- Nhân dân Việt Nam phải chấp nhận làm binh nô, đất nước Việt Nam là chiến trường trong cuộc chiến kiểu mới giữa Nga-xô (phe cộng) và Mỹ (thế giới tự do);



    3- Làm nhiệm vụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ, do Nga-xô lănh đạo, ra toàn thế giới mà trước hết là miền Nam Việt Nam, rồi Lào và Cam-bốt; xa hơn nữa là các nước ở Đông-nam-á.



    V́ thế, về tổ chức, Hồ cho khai tử cái gọi là Mặt trận Liên Việt, đẻ ra cái gọi Mặt trận Tổ quốc với cương lĩnh áp đặt cho miền Nam Việt Nam để không thể có tổng tuyển cử trong cả hai miền tiến tới thống nhất như hiệp định Genève về Việt Nam qui định. Và đấy là cái cớ để Hồ dùng ngụy quân cộng sản xâm lăng miền Nam Việt Nam (Nghị quyết trung ương mafia lần 15 (khóa 2) tháng 1-1959).



    Hồ cũng cho dựng ra quốc hội bù nh́n khóa 2 và thông qua cái gọi là “hiến pháp 59”. Nghĩa là xóa sạch vết tích của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, xé bỏ Hiến pháp 1946. Thượng thư Bùi bằng Đoàn quyền chủ tịch quốc hội 1 bị chết lăng nhách. Vua Mèo Hà-giang là Vương chí Śnh, phó chủ tịch quốc hội 1, bị bệnh (?) và vào nằm ở bệnh viện Việt-xô (do Nga-xô viện trợ) cho đến chết. Ủy viên thường vụ quốc hội 1 là bà Trịnh thục Viên được về hưu và v.v… Quốc hội 2 do Trường Chinh làm chủ tịch, các phó chủ tịch là Hoàng văn Hoan; thượng tướng ngụy quân cộng sản Chu văn Tấn, chủ tịch phụ nữ (nô lệ mới) Nguyện thị Thập, chủ tịch tổng công đoàn Hoàng quốc Việt và tổng thư kư là Tôn quang Phiệt, ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ. Hầu hết là mafia đỏ các cấp, các ngành, từ binh lính, công an đến kinh tế, văn hóa, thêm mấy chị quét rác (ở khu phố của Hồ, Đồng, Giáp, Tố Hữu ở), anh tài xế xe lửa, tài xế xe ô-tô và v.v… Bọn này có nhiệm vụ chủ yếu là vỗ tay và hô khẩu hiệu do bác sỹ Trần duy Hưng, chủ tịch Hà-nội, cầm chịch. Vài anh ở hai đảng Dân chủ và Xă hội, sau khi hai đảng này đă được cải tạo tại chỗ, không được phép kết nạp đảng viên mới mà cũng không được phép xin ra đảng, và có một chi bộ đảng cộng sản nằm trong trung ương lănh đạo trực tiếp, cũng được cho làm nghị gật chính hiệu con nai vàng. Dụng ư của Hồ là muốn quốc tế (loại cận thị) vẫn nghĩ rằng quốc hội 2 cũng là quốc hội đa đảng như quốc hội 1.



    Sau này, khi bắt đầu tiến hành xâm lăng miền Nam, Hồ cho hai đại diện của hai đảng “gà thiến” là Dân chủ và Xă hội được cái ghế phó chủ tịch quốc hội, đó là kỹ sư Trần đăng Khoa ở Dân chủ và Nguyễn Xiển ở Xă hội. Đấy chính là hai bông hoa mướp vàng chóe, Hồ dùng làm mồi câu mấy chú ếch ộp làm chính trị ở miền Nam, như Trịnh đ́nh Thảo, Trương như Tảng, Dương quỳnh Hoa, Nguyễn hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Trần bửu Kiếm, Lâm văn Tết v.v… để trốn vào bưng, rồi được đưa ra rừng lim ở Thanh-hóa, đóng tṛ hội họp cho ra đời mấy gánh hát chính trị để me-xừ nhà báo “tầm cỡ quốc tế tài ba” là Burchett quay phim, phỏng vấn. Sau đó tất cả ra khách sạn Hoàn Kiếm Hà-nội đánh bài tây, thỉnh thoảng mang phông màn, đạo cụ qua mấy nước chư hầu của thực dân đỏ hát lăng nhăng vài câu vọng cổ cho ra vẻ “thương nhớ” nhân dân miền Nam “đói khổ phải ăn gạo pha hạt ny-lông”; c̣n lính Mỹ th́ đi trực thăng ăn cướp từng cân gạo của nông dân v́ đói quá, như bài viết của mafia đỏ!!!(???) Chỉ tiếc rằng nhà “trí thức yêu nước” Lữ Phương chưa đủ tiêu chuẩn ra Hà-nội nên vẫn phải ở bưng, nghe lệnh của các ”đồng chí” Trần bạch Đằng và Hai Khuynh v.v… một cách rất chi là nghiêm chỉnh!!!



    Cái chế độ mà Hồ xây trên đầu, trên cổ nhân dân miền Bắc Việt Nam là độc tài cực quyền. Đến cả chữ nghĩa, ngôn ngữ dùng cho mafia đỏ cũng độc quyền. Tỷ như cụm từ “tổng bí thư” chỉ dùng riêng cho mafia đỏ, đối với các đảng phái khác (dù quốc tế, như đảng Xă hội Pháp chẳng hạn) cũng chỉ được dùng cụm từ “tổng thư kư”.



    Các vị trí trong tổ chức mafia đỏ cũng lặp theo kiểu công, hầu, bá, tử, nam. Đó là:



    - Tước “công” là ủy viên bộ chính trị;

    - Tước “hầu” là ủy viên dự khuyết bộ chính trị;

    - Tước “bá” là ủy viên ban bí thư;

    - Tước “tử” là ủy viên trung ương;

    - Tước “nam” là ủy viên dự khuyết trung ương.



    C̣n Hồ là tước “vương” (v́ Hoàng Đế dành cho mẫu quốc). Chử “bác” của Hồ có nghĩa là “trẫm” hay “cô gia”.



    Đây không phải là chuyện “phịa” mà căn cứ vào việc năm 1973, Trường Chinh cho tổ chức họp mặt ḍng họ Đặng, đă khoái chí nói rằng: “Nhà họ Đặng có ba đời làm Quận công”. Đặng trần Thường là đời thứ hai làm Quận công. Đời thứ ba chỉ có Trường Chinh là nổi nhất, là ủy viên chính trị bộ mafia đỏ Hồ chí Minh. Thế có phải là Trường Chinh đă tự nhận ḿnh là Quận công rồi không!!!



    Ngụy quyền Hồ chí Minh c̣n phân biệt đến cả loại xe, màu xe cho từng cấp; phân loại cung cấp đến cả nhà ở, lương thực, thực phẩm, quan tài, giải trí, nghỉ ngơi, chữa bệnh v.v… Cụ thể là: Xe của Hồ là Tchaika bọc thép của Nga-xô; các ủy viên chính trị bộ mafia (cả ủy viên dự khuyết) đi xe Volga đời mới màu xanh vỏ chai; ủy viên ban bí thư mafia và ủy viên trung ương loại nặng kư (như Hoàng quốc Việt, Nguyễn thị Thập, Hà thị Quế, Chu văn Tấn) đi xe Volga đời mới màu đen; các loại “cây kiểng dân chủ” cao cấp như Nguyễn hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Phan kế Toại, Nguyễn văn Huyên v.v… đi xe Volga đời mới có màu khác với các màu nói trên. Các bí thư tỉnh ủy mafia đi Volga cũ màu đen, trong đó có bác sỹ Trần duy Hưng, chủ tịch Hà-nội. Thấy bác sỹ Trần duy Hưng cần mẫn hô khẩu hiệu, Hồ cho riêng Trần duy Hưng chiếc Peugeot 204 (do Pháp tặng Hồ), nhưng bị Nguyễn Lam (khi ấy là ủy viên ban bí thư kiêm bí thư thứ nhất thành ủy mafia Hà-nội) tước mất. Trần duy Hưng im re đành vẫn đi xe cũ. Hồ biết chuyện này nhưng cũng lờ đi! Theo mốt mafia, tất cả các xe đều có rèm xe che kín các cửa kính, kể cả cửa kính sau xe!



    Hồ cho h́nh thành các cửa hàng cung cấp cho quan lại đỏ, như thực phẩm ở Tôn Đản; tiêu dùng ở phố Hàng Trống (cạnh nhà ga Phú Gia); nơi nghỉ mát trong nước: Tam-đảo, Trà-cổ, Đồ-sơn (Tam-đảo th́ độc quyền; c̣n Trà-cổ và Đồ-sơn th́ rào thành khu vực riêng); sau lấy thêm nhiều vi-la và xây mới vi-la ở Băi-cháy (Hạ-long). Nghỉ mát ở nước ngoài th́ sang Hắc-hải (Nga-xô) hoặc Động-đ́nh-hồ (Trung cộng). Bọn chúng đi nghỉ mát cả ba đời, như Trường Chinh cho cả vợ đi, cả gia đ́nh Đặng xuân Kỳ và các con (là con trai và cháu nội của Trường Chinh) sang Hắc-hải vui chơi cả tháng, c̣n nhân dân (được chúng “phong” là chủ nhân) th́ lao động: “Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm; làm thêm chủ nhật”. Cán bộ, công nhân viên được 10 ngày phép năm th́ phải làm đơn xin hiến để “đánh thắng Mỹ-Ngụy”!!!



    Ngụy quyền Hồ chí Minh khi ấy c̣n cho xây ở khu Quảng-bá (Hồ Tây, Hà-nội) một loạt các nhà nghỉ cá nhân (kiểu cottage) gọi là cho trung ương nghỉ ngơi, giải trí tại chỗ, có các “cháu gái” lôi từ nông thôn ra (đa số là sắc tộc thiểu số ở Cao-bằng, Lai-châu) để giải khuây cho Hồ và lũ tay chân thân cận. Càng bước vào cuộc chiến xâm lược miền Nam Việt Nam th́ bọn chúng càng ăn chơi sa đọa, hoàn toàn là tính cách của lũ cầm quyền thực dân trên các mảnh đất thuộc địa.



    Khi chiến tranh căng thẳng, nghĩa là Mỹ bắt đầu oanh tạc ra phía Bắc, con cái bọn thống trị được đưa sang Nga-xô hoặc các nước chư hầu Đông-âu của Nga-xô học hành, dù là đang học ở cấp phổ thông. C̣n trường học của con em nhân dân và cán bộ loại thấp cổ bé miệng được sơ tán về nông thôn để làm nơi tàng trữ vũ khí, và học sinh là lá chắn bảo vệ những kho vũ khí đó. Nếu Mỹ đánh vào đó th́ chúng la lên là Mỹ “đánh trường học, bệnh viện, đền chùa và nhà thờ v.v…” Câu chuyện trường mẫu giáo Trạm Trôi và bệnh viện Bạch-mai (Hà-nội) là hai thí dụ điển h́nh.



    Trên đây tạm tóm tắt để bạn đọc có chút khái niệm về “anh hùng giải phóng dân tộc” Hồ chí Minh, thực chất c̣n “chó má” hơn cả “chó” nữa kia!



    2- Về phần nhân dân Việt Nam từ vĩ tuyến 17 ra phía Bắc th́, sau khi bị các đ̣n của ngụy quyền Hồ chí Minh gọi là “cải cách ruộng đất”, “chấn chỉnh tổ chức”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” và “cách mạng văn hóa tư tưởng”, mà nội dung cũng vẫn là cái khẩu hiệu hành động (hay cương lĩnh chính trị) của cái gọi là “Xô-viết Nghệ-tĩnh”: “Trí, phú, địa, hào. Đào tận gốc, trốc tận rễ” đều b́nh đẳng như nhau. Đúng nghĩa của nó là tất cả đều là “cải tạo viên” trong cái trại cải tạo mang tên “Việt Nam dân chủ cộng ḥa”. Do Hồ chí Minh làm chánh-giám-thị. Mọi người đi lại, ăn mặc, làm nghề ǵ, học cái ǵ, cư trú ở đâu, cho đến cả ma chay, cưới hỏi v.v… nhất nhất đều phải xin phép. Nhiều người nước ngoài, cả nhà văn, nhà báo, giáo sư, luật sư, cho đến chính khách nữa mới chết chứ, như Xi-ha-núc hay Xu-các-nô, có dịp qua thăm cái trại cải tạo vĩ đại “Việt Nam dân chủ cộng ḥa”, có vẻ khoái lắm, cười híp mắt lại nên có nh́n thấy ǵ đâu. Nào khen trật tự, hiếu khách, tươi tắn, yêu kính “lănh tụ” (tức Hồ). Bởi họ thấy mọi “nhất trí” nhe răng cười; “nhất trí” vẫy cờ; “nhất trí” hô khẩu hiệu; đi đứng hàng ngũ chỉnh tề như “lính diễn hành”. Thật buồn cho những “bộ óc ít nếp nhăn” đó, không thể hiểu nổi một điều đơn giản là làm sao mà hàng vạn người lại có thể “nhất trí” thế được. Bởi chỉ có một tập hợp những nô lệ mới nhất trí trong một biểu lộ mà chủ nô quy định. C̣n trong xă hội tự do th́ sẽ có người hoan nghênh, có người ném trứng thối và cũng có người chẳng thèm quan tâm. Cũng chính v́ sự đơn giản trong suy nghĩ, phân tích như thế mà ngày họ Hồ ngủm củ tỏi, người ta thấy những thước phim quay cảnh từ Phạm văn Đồng cho đến “quân chúng nhân dân” đều khóc thảm thiết như mưa!!!



    Bạn đọc thử nghĩ xem, cái đám nô lệ đó, thấy máy quay phim rè rè chạy chỉa vào ḿnh, hỏi rằng có uống mật gấu cũng không dám “b́nh thản” chứ nói ǵ cười trước cái chết của tên chủ nô. Chẳng những thế, c̣n cố nghĩ xem có bao nhiêu nỗi đau khổ của cả làng, cả họ để mà mủi ḷng khóc thật thê thảm, biết đâu lọt vào mắt của một cai ngục nào đó mà khẩu phần bữa ăn được thêm chút canh cặn.



    Rồi đây có thể con, em chúng ta xem cảnh tang lễ họ Hồ, nếu không được giải thích trước, chắc cũng sẽ kết luận một cách hồ đồ rằng: “Nhân dân Việt Nam yêu quư bác Hồ”!!!



    Sau khi đă tước đoạt tài sản của toàn dân, tập trung tất cả tài sản đó vào tay tập đoàn đầu lănh “công dân búa liềm” của Hồ, ngụy quyền Hà-nội tổ chức lại các hoạt động sản xuất ở nông thôn và thành thị dưới cái mỹ tự mơ hồ là “xây dựng cơ sở vật chất và phương thức sản xuất của chủ nghĩa xă hội”. Nghĩa là: ở nông thôn th́ tài sản sau cải cách ruộng đất và sửa sai của cải cách ruộng đất chia cho cốt cán và nông dân nghèo, nay v́ “anh hùng giải phóng dân tộc” của Lữ Phương là Hồ chí Minh lại thu hồi lại trong cái gọi là “hợp tác hóa nông nghiệp”, nghĩa là toàn thể nông dân trở lại thân phận “người cày có ruộng cày”. Xin phép được tŕnh bày rơ hơn điểm này để bạn đọc hiểu cái “lưỡi ê-đốp” của họ Hồ. Một trong những cái mồi mà tụi theo “chủ nghĩa cộng sản” sử dụng để câu nông dân là khẩu hiệu: “Người cày có ruộng”, nghĩa là những người lao động thực sự ở nông thôn phải là chủ sở hữu thửa ruộng ḿnh cày. Khác với thực tiễn của chế độ phong kiến, địa chủ (không cày) là sở hữu chủ của ruộng đất, c̣n người cố nông – không có ruộng đất – là người thực sự cày ruộng (hay nói cách khác, họ có ruộng để cày, ruộng là của chủ, họ là người cày thuê).



    Dù chất phát đến đâu th́ khi bị bó buộc thi hành “hợp tác hóa nông nghiệp”, người nông dân cũng hiểu là thân phận họ vẫn chỉ là “người cày có ruộng để cày”, cho nên ở nông thôn khi đó mới có câu:



    “Xưa địa chủ mướn đi cày

    Nay ơn “bác” mướn lại cày ruộng xưa”



    Sự chống đối đó của nông dân (sau đó là của công nhân xí nghiệp, xă viên hợp tác xă thương nghiệp, tiểu thủ công nghệ ở thành thị) nên ngụy quyền mafia Hồ chí Minh mới vội đẻ ra cụm từ “ngang như cua” là: “đảng lănh đạo, nhà nước quản lư, nhân dân làm chủ”.



    Ba bộ phận của cụm từ trên được giải thích dễ hiểu qua mô h́nh ở đồn điền ông Đốc Lương (Cẩm-khê, Phú-thọ), như đă viết ở trên, thành h́nh ảnh cụ thể như sau:



    + Cái đồn điền là của ông Đốc Lương nên ông ta lănh đạo

    + Đội Phiên được ông Đốc Lương thuê quản lư nên quản lư

    + Tá điền cày cuốc, làm cỏ, gặt hái… được cho đi tàu bay là chủ.



    Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ nhân dân Việt Nam bị cai trị tàn bạo và nghe nói láo nhiều như dưới sự cai trị của chủ nghĩa thực dân đỏ mà ngụy quyền Hồ chí Minh là công cụ (sau tháng 4-1975, hàng triệu người miền Nam bị đưa đi tập trung cải tạo có thể h́nh dung cơ chế tổ chức ở mọi trại cải tạo là thể vi mô của cái thể vĩ mô “Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam).

    Những người nô lệ kiểu mới đó ở nông thôn Bắc Việt Nam âm thầm đấu tranh chống tụi thực dân đỏ. Trong văn hóa th́ có thơ, vè như:



    “Một người làm việc bằng hai

    Để cho cán bộ mua đài, tậu xe

    Một người làm việc bằng ba

    Để cho cán bộ xây nhà, xây sân.”



    Trong sản xuất th́:

    - Ngụy quyền thu mua gà, vịt th́ họ nuôi ngỗng

    - Ngụy quyền thu mua gà, vịt, ngỗng th́ họ nuôi gà tây và thỏ

    - Ngụy quyền thu mua mía th́ họ tước lá mía bán ngoài để lợp nhà, làm chất đốt

    - Ngụy quyền thu mua cây ăn trái th́ họ đổ nước muối cho cây chết bán làm gỗ, làm củi; rồi họ trồng cây ngâu, cây sói bán hoa để ướp trà

    - Ngụy quyền cấm thịt heo, ḅ, trâu th́ họ lấy nhựa trái đu đủ xanh bôi khắp người con heo làm cho nổi mụn đỏ rồi báo thú y đem chôn. Nhưng thú y đi th́ họ tắm cho heo xà-bông và nước ấm, heo lại như b́nh thường đem mổ bán lậu. Trâu, ḅ th́ đẩy xuống ao cho bị cọc đâm rồi báo huyện xin mổ v.v…



    Tóm lại là ngụy quyền Hồ chí Minh thi thố vơ bóc lột nào, nông dân có ngay cách đối phó hữu hiệu. Cái lối phá hoại sản xuất, công cụ sản xuất và lăn công, lăng phí vô tội vạ đó đă chứng minh h́nh ảnh Bắc Việt Nam do ngụy quyền Hồ chí Minh cai trị là ǵ? Và, rơ ràng là suy nghĩ và hành động chỉ theo hai cách:

    + Chủ quan của tập đoàn ngụy quyền Hồ chí Minh

    + Chủ quan của nhân dân nói chung



    C̣n cái gọi là khách quan như Lữ Phương mong muốn chỉ xảy ra với bọn định “làm đơn xin việc” như lối nói của Lư Tuấn. Và, xa hơn nữa là của vài anh làm báo, nhà văn nước ngoài “thối mồm” xía vào việc người một cách rất “vô trách nhiệm và cực kỳ ngu xuẩn!!!”



    Ngụy quyền Hồ chí Minh, theo ngôn ngữ kinh tế của chủ nghĩa thực dân đỏ (tức cộng sản) thường rêu rao cái gọi là “sở hữu tập thể” và “sở hữu toàn dân” mà nhiều anh mọt sách cũng bày đặt phân tích, so sánh này nọ, hoàn toàn viễn vông, vô tích sự, y hệt “so sánh rồng Nhật Bản, rồng Việt Nam và rồng Ba Tàu” con nào được vẽ giống “rồng” hơn. Khổ quá, “rồng” chỉ được kể qua truyền thuyết mà thôi, làm ǵ có thật mà bàn với so sánh. C̣n cái sự thật vừa giản dị, vừa rơ rành rành là chỉ có ở các nước có dân chủ đa đảng th́ sở hữu toàn dân (hay quốc doanh) mới là thực của các khái niệm đó mà cũng chỉ ở mức tương đối mà thôi. C̣n ở một nước nô lệ do tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh cai trị th́ làm ǵ có cái gọi là sở hữu toàn dân (hay quốc doanh) mà bàn. Bản thân mỗi con người cụ thể – từ già đến trẻ – cũng thuộc quyền sở hữu của Hồ (đại diện của thực dân đỏ). Giở sách báo ra chỗ nào mà chẳng thấy: “ruộng cụ Hồ”; “gạo cụ Hồ”; “muối cụ Hồ”; “dân cụ Hồ”; “thiếu nhi cụ Hồ”; “lính cụ Hồ”; “áo cụ Hồ” v.v… Thử hỏi cho đến tận bây giờ có ai được biết ngụy quyền Hà-nội làm ăn ra sao, lỗ lăi thế nào, chia chác thế nào. Cứ cho cái số liệu tập đoàn mafia đỏ của chúng là hai triệu, th́ “đảng phí của chúng có đủ chi cho các bộ máy đảng của chúng thôi không!!!” Tiền đâu ra mà xây trụ sở, dinh thự, viện bảo tàng, tượng đài, lăng tẩm v.v… Ngay cái công cụ của chúng được đội tên là “quốc hội” có được biết đến những chi, thu đó không? Kể từ ngày Hồ đặt ách cai trị ở Bắc Việt Nam (tháng 7-1954) cho đến năm 2001 này!!!



    Để cho bộ máy cai trị hữu hiệu, trong mục tiêu hàng đầu của Hồ, là chống sự nổi dậy của nô lệ dưới mỹ tự “bảo đảm an toàn chính trị, trật tự an ninh xă hội”, Hồ ban cho chân tay nhiều quyền hạn mà chắc chắn ngay các triều đại phong kiến lúc suy thoái trong lịch sử Việt Nam cũng không đến nỗi như vậy. Đứa nào nắm quyền quản lư ngành nào là chúa của ngành đó. Toàn dân bị bóc lột tàn khốc. Cấp lớn ăn lớn, cấp nhỏ ăn nhỏ, v́ như Hồ tiểu di cho bọn chúng rằng: “nhân dân là vô tận”, điều mà Hồ học được của bố Mác mẹ Lê của hắn là: “Người là vốn quư nhất”.



    Chỉ một tên công an đường phố, tuổi độ 20, đeo lon hạ sỹ, cũng đủ quyền hạn cho người dân nô lệ đi tù không thời hạn (tức đi cải tạo), chẳng cần xét xử ǵ, hệt như mấy tên chánh án nhí con trong ṭa án cải cách ruộng đất vậy! Chúng muốn vào nhà “hỏi thăm sức khỏe” bất kể giờ giấc, tha hồ nḥm ngó, hạch hỏi. Lũ chó săn lông vàng này là tai họa bất ngờ của mọi người, nhưng là chỗ dựa tin cậy của ngụy quyền cộng sản Hồ chí Minh, v́ đấy là “cơ quan chuyên chính” của chúng.



    Xin đưa thêm vài thí dụ cụ thể để bạn đọc thấy cái lũ mà Lữ Phương muốn nhắn nhủ cho bạn đọc, đặc biệt tuổi trẻ, rằng: “Tính chất trong sạch lư tưởng, biết hy sinh v́ nghĩa lớn của những người cộng sản theo con đường của ông (tức Hồ) hoàn toàn không phải chỉ là chuyện tuyên truyền” là như thế nào.



    Xin tạm kể đến những tên to đầu nhất trong đám lâu la của Hồ:



    1) Phạm văn Đồng, kẻ đă vâng lệnh Hồ, nhân danh thủ tướng ngụy quyền Hà-nội, năm 1958 đă kư giấy ủng hộ Trung cộng cướp lănh hải của ta. Mặc dù có vợ là con một tư sản Hà-nội, rất đẹp, nhưng khi ở Việt-Bắc, Đồng đă cưỡng ép một cháu thiếu nữ miền Nam, trong đoàn đại biểu nhân dân miền Nam ra chào mừng Chính phủ Liên hiệp đa đảng, vào cuối năm 1946. V́ thế mà vợ Đồng lên cơn điên. Vào những ngày Mỹ ném bom Hà-nội, vụ trưởng vụ nghệ thuật là nhà thơ Lưu trọng Lư, bị du kích Quảng-bá bắt được đang ”theo con đường của Hồ”, nghĩa là đụ bậy một diễn viên nổi tiếng của đoàn tuồng khu 5. Du kích trói cả đôi trong bộ quần áo “nguyên thủy” và bắt đại diện bộ văn hóa đến bảo lănh mới cho về. Nghe chuyện này Đồng cho gọi Lưu trọng Lư đến nhà riêng hỏi kinh nghiệm. Và, sau đó cô diễn viên trẻ, đẹp, bầu bĩnh như “Duơng quư Phi” thành bồ nhí của Đồng.



    2) Lê Duẩn, về công khai đă hai, ba vợ chính thức. Nhưng các nữ thư kư, các cháu ở miền Nam ra tham quan “miền Bắc xă hội chủ nghĩa” v.v… đều được Lê Duẩn “theo con đường của Hồ” tặng các cháu trái cấm. Sau khi đặt ách đô hộ của thực dân đỏ ở miển Nam Việt Nam, Duẩn chơi ngông không chịu ở vi-la cũ của “Mỹ-Ngụy”, nên lệnh cho nô lệ lục tỉnh đi phu đào đất, lấp sông ở An-phú (Thủ-đức) xây một biệt thự mới toanh. Trời có mắt, nên lầu đài vừa xây xong, Duẩn chưa kịp ở lấy một ngày đă có lệnh Diêm Vương tống hắn xuống hỏa ngục chờ ngày xét xử. Lầu đài đành đóng cửa bỏ đấy, cho đến ngày gọi là “mở cửa, đổi mới” th́ hăng dầu lửa BP thuê làm văn pḥng.



    3) Trường Chinh tên thật là Đặng xuân Khu. Hắn c̣n được Hồ đặt cho bí danh là Thận, nghĩa là “thận trọng” như lời Hồ giải thích. Mấy thầy bàn v́ thiếu thông tin và cũng do máu nâng bi (kiểu Lữ Phương) th́ nói là Hồ tin yêu Trường Chinh v́ tính Trường Chinh rất “thận trọng” nên mới đặt tên là “Thận”, hay c̣n gọi là “Năm”. Sự thật là Hồ dằn mặt Trường Chinh về cái thù ở biên giới Cao-bằng như đă kể ở trên, nên đặt cho Trường Chinh là “Thận”, ngụ ư: “Mày thận trọng đến đâu th́ cũng phải dưới đít tao. Hoặc giả, mày cần thận trọng, nếu có chút hỗn láo, tao sẽ cho mày đi Hành-thiện ngay như Gia-Long cho ông tổ Đặng trần Thường của mày vậy!”



    Sau Hồ th́ phải nói đến Trường Chinh là tên hám danh nhất trong thủ hạ của Hồ. ở nhà ăn cơm, hắn bắt vợ mặc áo dài đứng hầu cơm. Hắn đi đâu cũng tiền hô hậu ủng. Khổ cho những ai đi xem hát ḥ ǵ đó ở Nhà hát lớn mà hôm đó Trường Chinh cao hứng đi. Hắn thường đến vào lúc bắt đầu tŕnh diễn. Toàn khu vực nhà hát, cả cổng trước, cổng sau, lầu thượng, tầng hầm, lũ chó săn mặc thường phục hau háu nhe nanh. Kể từ đó là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Tầng dưới mỗi hàng ghế đều có hai chó săn ngồi hai đầu. Các tầng trên chỗ nào cũng có chó săn chiếu tướng khán giả. Trường Chinh thường đi cùng vợ và hai đứa cháu nội (con của Đặng xuân Kỳ). Mặt hắn đầy vẻ tự măn, coi thiên hạ như rác. Những nô lệ ở Hà-nội thường nói đùa rằng: “Chỉ có Lê Duẩn muốn giết Trường Chinh mà thôi, chứ Mỹ có khi c̣n bỏ tiền thuê người bảo vệ cho Hồ và lũ bộ hạ của hắn. V́ bom đạn Mỹ, thuốc trụi lá cây, và ngay cả bom hạt nhân cũng chẳng thể nào tàn phá miền Bắc Việt Nam như Hồ và ngụy quyền cộng sản đă làm và đang làm. Bọn Hồ mới “đủ tài” kéo xă hội Bắc Việt Nam khi ấy – cuối thế kỷ 20 – trong ṿng vài năm, trở về thời đại trước cả các vua Hùng, tốc độ ngang ánh sáng!!!”



    Trường Chinh là kẻ luôn dùng quyền lực bao che thuộc hạ. Xin đưa vài thí dụ: Vũ Quang, xuất thân là đệ tử của Trường Chinh, từng giữ ghế bí thư tỉnh ủy mafia ở Bắc-ninh, được lôi về thay Nguyễn Lam làm bí thư thứ nhất đoàn thanh niên lao động Hồ chí Minh. Thời A-gien-đê cầm quyền ở Chilie (Nam Mỹ), Quang cầm đầu một đoàn thanh niên qua thăm Chilie. Trong đoàn có ca sỹ Diệu Thúy – đă có vị hôn thê – chờ đi “công cán” về sẽ cưới chồng. Ấy thế mà Vũ Quang, khi ghé qua Cuba, đă dám đè Diệu Thúy ở trong khách sạn để “hiếp đại cái đă” rồi tính sau. Ai ngờ an ninh Cuba quay được cảnh đó, chuyển về cho ngụy quyền Hà-nội. Thanh niên Hà-nội bất măn việc Vũ Quang hiếp vị hôn thê của người khác. Ấy thế mà Trường Chinh ra lệnh các nơi họp để thanh minh cho Vũ Quang, nói đó là phản động vu cáo để bôi nhọ chế độ, hoàn toàn không có chuyện Vũ Quang “hiếp” ca sỹ Diệu Thúy. Không may là cái bụng Diệu Thúy có “định hướng” phát triển không b́nh thường, nên cũng lại Trường Chinh ra lệnh cho Vũ Quang cưới đại ca sỹ Diệu Thúy đi, mặc dù hai con trai của Vũ Quang – tuổi xấp xỉ Diệu Thúy – hết sức phản đối.



    Trường Chinh rất ghét Vơ nguyên Giáp v́ thấy Giáp cúc cung với Hồ, lại thêm trong vụ “cải cách ruộng đất”, Trường Chinh mắc bẫy của Hồ mà rớt chức tổng bí thư mafia đỏ, Giáp được Hồ chỉ định thay mặt “trung ương” xin lỗi “dân”. Mọi người không hiểu thâm ư của Hồ về việc chỉ định ấy đối với Giáp. Cái thâm ư đó của Hồ là:



    1. Giáp đang nổi danh như cồn sau Điện-biên-phủ. Cho Giáp ra để đo mức uy tín của Giáp mà “cảnh giác”, cũng như làm cho loại Nguyễn chí Thanh, Trường Chinh càng thêm đố kỵ với Giáp. V́ thế, Hồ đâu cần ra lệnh, chỉ “vờ quên” tư chút là Nguyễn chí Thanh đă cho bắt hết các đại tá thân cận của Giáp. Mượn tay Thanh đến thế là vừa đủ, Hồ lại đỡ đ̣n cho Giáp sau khi Giáp bị “cạo nhẵn râu ria”, và Hồ phái Thanh đi làm công tác “nông nghiệp” để Giáp lấy lại hồn vía.



    2. Ngoài ra, đây cũng là cái mất dạy của Hồ, nghĩa là công khai trước “dân”, việc đếch ǵ hắn phải xin lỗi lũ nô lệ ấy!!! Bởi đây là “lỗi của Trường Chinh” và đồng bọn, đời nào Hồ lại “ngu” mà nhận cái “tội ném đá giấu tay” ấy. Nghĩa là Hồ không bao giờ sai!!! V́ thế nhân sự mafia đỏ chóp bu có nhiều hoán chuyển, như Duẩn ngồi trên đầu Trường Chinh; Lê đức Thọ trên đầu Lê văn Lương v.v… C̣n Hồ, hắn vẫn ở ngôi vị “number one” măi măi đến tận bây giờ!!!



    Đấy chính là chất ma giáo của tên Việt gian, lưu manh chính trị Hồ chí Minh vậy!

    Lại nói về việc của Giáp. Chẳng là Giáp luôn ngầm ví ḿnh như Napoléon – nghĩa là cũng lùn, cũng bay bướm và cũng nổi danh nhờ chiến công thắng trận Điện-biên (chưa bị bật mí) – chỉ thiếu cái mũ “hai sừng” của Napoléon mà thôi. Thế là giáo sư thạc sỹ sử học Phạm huy Thông, quá tŕnh dạy môn sử cho vợ Vơ nguyên Giáp, đă tặng Giáp “một cặp sừng”. Giáp đau lắm nên đẩy Thông ra khỏi cái ghế bộ trưởng bộ đại học và trung học chuyên nghiệp (giáo sư Tạ quang Bửu thay vào đó). Đáng ra Thông c̣n có thể ê chề hơn nữa, nhưng Trường Chinh x̣e cánh bảo vệ cho Phạm huy Thông, cho về ngồi cái ghế viện trưởng Viện khảo cổ. Khoảng sau 1980, tin chính thống nói rằng Phạm huy Thông bị “kẻ cắp” vào nhà ăn trộm tiền, đă đâm Thông nhiều nhát tàn nhẫn, kết liễu đời tên thạc sỹ bồi bút, nâng bi, tên “trí thức không bằng cục cứt”. Nhưng, bí mật hành lang th́ nói rằng đàn em Giáp, trong đơn vị đặc công ở miền Nam ra, đă trả thù hộ Giáp, nên mới đâm rất điệu nghệ và rất tàn bạo cái anh già dê Phạm huy Thông đó mà sức nặng cả cứt mới hơn 40 kí-lô; nghĩa là tát ba cái cũng đủ chết, cần ǵ đâm như tập đâm lê vào người rơm vậy” (Nghe có lư!)



    Trường Chinh ghét giáo sư Tạ quang Bửu (chắc v́ đă ngồi vào cái ghế đáng ra là của Phạm huy Thông, đàn em của hắn), nên một lần họp quốc hội, hắn để cho Vũ Quang phê b́nh giáo sư Tạ quang Bửu là vi phạm “tính giai cấp” và đă cách chức bộ trưởng của giáo sư Tạ quang Bửu. C̣n Vũ Quang, sau vụ cướp vợ, được lôi về làm chánh văn pḥng của trung ương mafia đỏ, thay chân của Trần xuân Bách, rồi vào ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, phụ trách trưởng ban đối ngoại, thay Nguyễn thành Lê. Cô ca sỹ vừa tốt nghiệp đại học thanh nhạc là Diệu Thúy, ngây thơ, dễ thương bao nhiêu th́ khi thành vợ Vũ Quang, nhiễm lối sống mafia, thôi hát và trở thành một tay buôn hạt xoàn và US đô-la, sau ngày 30-4-1975! Đúng là các cụ đă nói: “Gần mực th́ đen”. Tài thật!



    Hà thị Quế, một đệ tử thân cận, đă từng là giao liên của Trường Chinh nên được cho làm ủy viên trung ương chính thức mafia đỏ, giữ ghế phó ban tổ chức trung ương, kiêm phó ban kiểm tra trung ương phụ trách thường trực (thời kỳ Nguyễn lương Bằng làm trưởng ban). Mụ này trông như con mẹ phù thủy nhưng lại ham đàn ông cao to, đẹp trai và thời kỳ mụ chỉ đạo ở tỉnh ủy mafia đỏ Thái-b́nh, mụ đă bẫy được anh chàng trung đoàn trưởng của đại đoàn Đồng Bằng, là Nguyễn trọng Tỉnh, cao to và đẹp trai. Chỉ có nhược điểm là phát triển “nhầm đầu”, óc bă đậu rất sợ học chữ. Sau 1954, có sự ủng hộ của Trường Chinh, Hà thị Quế lôi anh chồng đẹp trai thất học về cho làm Tổng cục trưởng Tổng cục thủy sản. Học theo con đường của họ Hồ, anh chàng Nguyễn trọng Tỉnh này chơi hầu hết nữ cán bộ, công nhân viên trong tổng cục. Các cô bị dính bầu tùm lum. Thời kỳ đó nạo thai c̣n là điều cấm kỵ. Nhưng có ô dù là “anh Thận”, lại bản thân cũng có quyền lớn nên Hà thị Quế bắt các cô bé nhẹ dạ phải đi nạo thai. Ai biết ngậm miệng th́ cho đi nước ngoài. Ai vạ miệng th́ bị đuổi việc, có khi c̣n phải đi cải tạo v́ tội “nói xấu lănh đạo”! Chẳng biết học từ ai mà Hà thị Quế đem những thai nhi bị nạo đó ngâm trong mật ong làm thuốc “trường sinh bất lăo”, nghe nói là c̣n công dụng “cường dương” và “chữa hen suyễn” và nhiều chứng bệnh khác. Và, từ đó được “ban bảo vệ sức khỏe” của trung ương mafia đỏ, do thượng tướng ngụy quân, kiêm bí thư khu ủy mafia đỏ khu tự trị Việt-Bắc, kiêm phó chủ tịch quốc hội là Chu văn Tấn phụ trách, cho vào danh sách “thuốc bổ đặc biệt”. ở Bắc Việt Nam khi ấy, Chu văn Tấn giữ độc quyền săn cọp nấu cao, bắt gấu lấy mật cung cấp cho Hồ và chân tay kế cận, nay thêm độc quyền “mật ong Hà-giang” (v́ ong ở đây toàn hút hoa cây thuốc phiện) để ngâm thai nhi. Chính là “ma dược” này khiến đă Hồ và đồng bọn xanh xao, nhếch nhác từ rừng rú, về đến Hà-nội một vài năm mà thằng nào thằng nay béo múp đầu múp đuôi, da mặt đỏ au như nhuộm phẩm vậy. Chính v́ thế, Hồ đă cho phép tách bộ y tế thành hai, một vẫn mang tên bộ y tế do bác sỹ Nguyễn văn Hưởng làm bộ trưởng (sau khi Phạm ngọc Thạch bị chết); nửa c̣n lại nâng lên thành ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em do đích thân Phạm văn Đồng, thủ tướng kiêm chủ nhiệm ủy ban và mụ Đinh thị Cẩn (vừa là bồ cũ vừa là đầu bếp cũ của Hồ), dự khuyết trung ương mafia đỏ, thứ trưởng thứ nhất kiêm bí thư đảng đoàn mafia đỏ bộ y tế, giữ chức phó chủ nhiệm, thường trực của ủy ban. Khổ quá! Nó có bảo vệ bà mẹ và trẻ em cái ǵ đâu. Nó chỉ làm có hai nhiệm vụ: một là: nạo thai công khai và khuyến khích toàn dân ăn thai nhi và nhau đẻ (nâng thành quốc sách để giải quyết nạn khan hiếm thực phẩm); và hai là: thành cơ quan tiếp nhận đồ viện trợ của UNICEF của Liên-hiệp-quốc để chia nhau và chuyển cho ngụy quân đi xâm lược miền Nam Việt Nam, Lào và Cam-bốt.





    (Xin mời đọc tiếp bài 6)

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 6

    Nhờ hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, Hồ và bầu đoàn nhếch nhác kéo nhau vào Hà-nội. Hồ chiếm cho ḿnh cái phủ toàn quyền Đông-dương (sau đổi thành biệt điện của quốc trưởng Bảo Đại) và đặt tên lại là “phủ chủ tịch”. Mỗi đầu lănh mafia chọn cho ḿnh một ṭa vi-la thật khang trang, hệt như sau tháng 4/1975, bọn chúng xâm lược trọn vẹn miền Nam và vào Sài-g̣n vậy. Cũng ăn cướp đủ thứ từ nhà cửa, xe cộ và cả người, nghĩa là công khai lấy vợ nhỏ, cặp bồ bịch v.v…



    Trong những năm tháng nhố nhăng kiểu “nước lụt chó nhẩy bàn độc” như thế, Xuân Thủy đă chiếm một ṭa vi-la to đẹp ở đường Lư Thường Kiệt (Hà-nội), liền với trường Nguyễn Trăi (trước 1945 là trường nữ học nổi tiếng, mang tên Đồng Khánh). Bà vợ già của Thủy, lấy nhau từ lúc chàng th́ “thái dao cầu, vê thuốc tễ”, c̣n nàng th́ “thuyền tán” lanh canh những lúc lừa được vài con bệnh. Hai vợ chồng Thủy là hai thái cực. Bà vợ chất phác, quê mùa, nhẫn nhục, vẫn áo nâu sồng, quần trúc bâu đen, yếm vải, răng đen, ăn trầu thuốc dù lúc ấy Thủy đă được Hồ cho cái tước “bá” tức ủy viên ban bí thư đỏ, nghĩa là “bá tước” Xuân Thủy! C̣n Thủy th́ nhanh chóng bỏ áo the, khăn đóng, không bộ “đại cán ba Tàu cộng” bằng dạ tím than th́ cũng bộ “com-lê” Tây hợp thời trang, sơ-mi trắng cổ cồn, cà-vạt đỏ, kính đổi màu khi th́ gọng vàng, khi th́ gọng đồi mồi. Thủy khôn ngoan hơn, không “đá đít vợ già” đi như kiểu Trần xuân Bách, Nguyễn đức Lạc, Cù huy Cận v.v…, mà chỉ “biếm” bà vợ già, quê mùa đó vào “lănh cung” kiểu Lê Duẩn, Trần huy Liệu (tức dăy nhà ngang, thời thực dân, chủ Tây dành cho bồi hay “con sen”). C̣n Thủy ở nhà chính, ngày ngày tiếp các cháu gái tươi mát trên nhà khách kín đáo, có bảo vệ canh gác, đến ruồi, muỗi cũng không vào lọt. Cuộc “cách mạng vô sản” của Hồ đă đổi lốt cho Thủy đến mức chỉ vài năm sau, một bà lăo cùng quê Đa-phúc với Thủy, có dịp ra Hà-nội lại thăm bà vợ già của Thủy, thấy Thủy từ xe hơi Volga màu đen, có cần vụ (tức đầy tớ) mở cửa xe cho ra, đă phải thốt lên: “úi trời! Thầy lang giờ béo, đẹp và sang trọng c̣n hơn công sứ Pháp ở Vĩnh-yên xưa kia nhiều lắm! Thực là ơn “cụ” (tức Hồ) và ơn “cách mạng””. Thủy mặt tỉnh khô, hơi gật đầu rồi bệ vệ lên nhà trên, theo sau là thư kư và cần vụ đang cắn chặt răng không dám cười (hai nhân chứng sống).



    Bà vợ già của Xuân Thủy hay đến ṭa soạn báo Cứu-quốc (đầu phố Bà Triệu, Hà-nội) kể nhiều chuyện với anh em phóng viên, rất thân mật, cởi mở. C̣n Xuân Thủy chỉ lo tiếp các “cháu” ở pḥng khách nhà riêng. Trong số quan hệ bất chính với Xuân Thủy, có hai nhân vật được Xuân Thủy lôi vọt lên như diều. Một là Nguyễn thị B́nh, giữ chức vụ phó vụ lễ tân thuộc bộ ngoại giao của mafia cộng sản ở miền Bắc khi ấy. V́ Xuân Thủy được Hồ giao nhiệm vụ qua hội nghị Paris về Việt Nam, nhưng lúc đó người cầm đầu đoàn của cái gọi là “chính phủ cộng ḥa miền Nam Việt Nam” là Trần bửu Kiếm, một đực rựa. Trong khi Xuân Thủy không thể thiếu “phụ nữ” để “mật đàm” được, nên Thủy đề nghị Hồ cho Nguyễn thị B́nh sang thay chỗ Trần bửu Kiếm. Lư do có vẻ đứng đắn là “B́nh” có nghĩa là “ḥa b́nh”, nhất là Nguyễn thị B́nh lại mặc chiếc áo dài màu xanh “ḥa b́nh” (tức xanh da trời) th́ rất thuận tiện cho việc đề cao quan điểm yêu ḥa b́nh của “chính phủ cộng ḥa miền Nam Việt Nam”!(?) Tất nhiên tṛ vặt đó của Thủy làm sao qua được mặt Hồ, nhưng cả hai đều hiểu ngầm, nên Hồ cho Thị B́nh đi theo Xuân Thủy qua Paris, cũng là pḥng xa lỡ anh chàng Trư-bát-giới Xuân Thủy này thiếu đàn bà lại ngă vào mỹ nhân kế của Kissinger hoặc “phản động” nào đó th́ thật là “xôi hỏng, bỏng không”. Báo chí Pháp thời đó cũng đoán ra qua vẻ hơn hớn của Thủy và cái e lệ kiểu bà phó Đoan của B́nh (bà phó Đoan là nhân vật của nhà văn Vũ trọng Phụng trong tác phẩm Số Đỏ) thường đưa nhau đi tắm hơi. C̣n báo Nhân dân của mafia cộng sản ở Hà-nội th́ đăng thơ “ỡm ờ” của Thủy o bế Thị B́nh công khai. ở đây xin mở một dấu ngoặc là những chính khách “quốc tế” khi cần giả điếc, giả mù cũng giống như thật. Làm sao mà họ chẳng biết Thị B́nh từ bộ ngoại giao mafia cộng sản Hà-nội cưỡi máy bay sang Paris ngồi vào chỗ của Trần bửu Kiếm, vậy mà cũng coi cái h́nh nộm “chính phủ Mặt trận giải phóng” đó mà Lữ Phương từng tự hào như một thực thể độc lập”(?)



    Người thứ hai là Nguyễn thị Hằng, hiện nay (2001) đang là ủy viên trung ương của mafia cộng sản và giữ ghế bộ trưởng lao động và xă hội. Hồi máy bay Mỹ đánh cầu Hàm Rồng ở Thanh-hóa, Thị Hằng đang là xă viên hợp tác xă dệt chiếu cói ở thị xă Thanh-hóa, nên tất nhiên cũng trong biên chế dân quân tự vệ của thị xă. Một cô dân quân khác là Nguyễn thị Tuyển, béo và lùn, chẳng biết hư thực ra sao, được đơn vị pháo binh ngụy quân ở cầu Hàm Rồng tuyên dương v́ đă giúp đơn vị lính cao xạ đó khiêng đạn, mà một ḿnh vác được những thùng đạn nặng hàng tạ. Có mấy phóng viên báo từ Hà-nội, vào t́m hiểu thành tích của “dân quân” thị xă Thanh-hóa trong trận cầu Hàm Rồng đó, có đề nghị Nguyễn thị Tuyển làm thử lại, nhưng Tuyển vác không thể quá 50 kí-lô. Tuy nhiên, Tuyển vẫn được báo chí ca ngợi dựa vào xác minh của ngụy quân đóng ở cầu Hàm Rồng, và tuyển được tuyên dương công trạng là “anh hùng”. Lần đó, Thị Hằng “may mắn” bị mảnh đạn làm bị thương nhẹ. Nhưng v́ Thị Hằng lai Pháp, cao đẹp như người mẫu vậy, nên Hằng được phóng viên ảnh của báo Tiền Phong (báo của giới trẻ) là Mai Nam chụp ảnh và cũng tuyên dương v́ có “thành tích chiến đấu và bị thương ở vùng thuộc loại hấp dẫn trên cơ thể phụ nữ” (tất nhiên Hằng cho phóng viên xem vết thương của ḿnh làm bằng chứng). Xuân Thủy ngó thấy h́nh của Thị Hằng, bỗng tiếng “sét ái t́nh” làm con lợn ḷng của Thủy kêu lên eng éc. Và, Thủy, nhân danh bí thư trung ương mafia cộng sản kiêm phó chủ tịch đồng thời là tổng thư kư ủy ban thường vụ quốc hội của mafia cộng sản, gọi điện thoại cho ban thi đua trung ương, cứ duyệt đại cho Thị Hằng là “chiến sỹ thi đua toàn quốc”, v́ theo Thủy, như thế sẽ thuyết phục chị em thi đua chết cho sự nghiệp của “bác” (tức Hồ) và của “đảng” (tức tập đoàn đầu lănh mafia cộng sản). Thế là cô bé lai Tây, Nguyễn thị Hằng, được Xuân Thủy lôi ra khỏi ẩn số. Chẳng cần qua bầu bán (dù chiếu lệ), Thị Hằng được “bổ sung” vào ban chấp hành trung ương của đoàn thanh niên mafia. Rồi c̣n được đưa vào quốc hội cũng chẳng cần bầu bán làm đại biểu và c̣n là thành viên của ban đối ngoại của quốc hội mafia. Thị Hằng thường xuyên đến để “đền ơn đáp nghĩa” Xuân Thủy và cũng là để được Xuân Thủy “huấn luyện” thành “con người mới xă hội chủ nghĩa”! Trong vụ Thị Hằng, Xuân Thủy đă biết kết hợp chặt chẽ giữa “công và tư”, giữa “chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân”, giữa quyền lợi của “bác” và “đảng” và của riêng Xuân Thủy thật là tài t́nh. Chính nhờ cái “tài” này mà khi hội nghị Paris về Việt Nam, Hồ đă đích thân chỉ định Xuân Thủy làm trưởng phái đoàn ḥa đàm của mafia cộng sản phía Bắc Việt Nam. Đương nhiên hắn cũng là “boss” thực thụ của con rối “mặt trận giải phóng”, v́ ngoài Thị B́nh ra, Thủy từng là tổng biên tập của báo Cứu quốc, đă lôi Nguyễn thành Lê, một đàn em của hắn từ ḷ báo Cứu quốc, trước khi về báo Nhân dân, làm người phát ngôn cho hắn; và lôi Hoàng phong cũng từ báo Cứu quốc, có biệt danh là típ-phờ-nờ (nhân vật trong Số Đỏ của Vũ trọng Phụng, viết tắt của “tôi yêu phụ nữ”) làm “thư kư” cho Thị B́nh để tiện canh chừng bậy bạ. Nghĩa là Hoàng Phong từ ṭa soạn báo Cứu quốc ở đầu phố Bà Triệu, Hà-nội, cưỡi máy bay qua Paris và úm-ba-la biến thành người của cái gọi là “mặt trận giải phóng”, là tổ chức của “nhân dân miền Nam Việt Nam tự vùng lên chống Mỹ-Ngụy”!!! Thế mà chú Sam có cơ quan t́nh báo thuộc loại “số rách” trên thế giới, cố t́nh giả vờ “mù”.



    Thấy Thị Hằng cao, đẹp, sung sức gái quê lao động, Thủy giới thiệu cho Thị Hằng tham gia vào đoàn đi xin Nga-xô súng đạn về giết nhân dân miền Nam Việt Nam và “phản động” ở Bắc Việt Nam. Và quả là Thủy có đôi mắt và cái đầu của Mă giám Sinh (nhân vật trong Kiều của cụ Nguyễn Du) và cũng đi bài bản “nước vỏ lựu, máu mào gà” khiến Thị Hằng làm cho một phó đô đốc Nga-xô mê như điếu đổ. Cuộc xin Nga-xô súng đạn thành công quá sức tưởng tượng. Từ đó, mỗi lần đi xin Nga-xô súng đạn, Thị Hằng được đi trước và về sau cả đoàn. Để làm ǵ xin bạn đọc tự hiểu. Có điều nhờ anh chàng phó đô đốc Nga-xô đó v́ quá mê Thị Hằng nên anh ta c̣n gợi ư và đưa đoàn hải quân dưới trướng anh ta sang cảng Hải-pḥng để đá bóng hữu nghị. Hồ và bè lũ sung sướng v́ đó là “cú dằn mặt Mỹ” vào lúc Mỹ đánh bom Hải-pḥng và phong tỏa hải phận phía Bắc Việt Nam.



    Thời kỳ ở Paris, Xuân Thủy làm quen được với gia đ́nh một Việt kiều ở Pháp, có con gái là Thu Thủy, một học sinh xuất sắc, Thủy xin nhận cô đó làm “cháu nuôi” và mời về Hà-nội thăm quê hương. Báo chí cộng sản tuyên truyền rùm beng cứ như cô học sinh đó giỏi là nhờ được “tư tưởng của “bác” soi dọi”(?) và Thủy lại định múa vơ Trư-bát-giới bằng bài thơ có những câu ướt át c̣n hơn thơ Xuân Diệu hồi “tiền chiến”, đăng ngay trên báo Nhân dân:

    “Bác là Xuân Thủy xanh tươi, (!!!)

    Cháu là Thu thủy sáng ngời nước non”(!!!)



    Cũng may cô học sinh đó không rơi vào bẫy của Mă giám Sinh mafia cộng sản là me-xừ Xuân Thủy!



    Hoàng quốc Việt (tên thật là Hạ bá Cang), quê ở phủ Từ-sơn Bắc-ninh, có học qua trường công nhân bách nghệ ở Hà-nội. Trước 1945, Việt là thường vụ trung ương mafia cộng sản Việt Nam. Theo hồi kư của Việt, th́ để có thể liên lạc được với giai cấp công nhân ở chính quốc (tức Pháp), Việt phải vào Sài-g̣n, lợi dụng thực dân Pháp đặt miền Nam Việt Nam là xứ thuộc địa, nên Việt dùng thẻ thuế thân lậu (tức giả) xuống tàu thủy “tự do” đi qua Pháp. Xin bạn đọc lưu ư, là chính Việt tự viết ra điều đó khiến người đọc nhận xét được rằng thời thuộc địa, người Việt Nam c̣n được tự do đi lại, tự do xuất dương, trong khi tụi mafia cộng sản cai trị th́ đó chỉ là bánh vẽ trong hiến pháp của chúng mà thôi, người dân từ tỉnh này qua tỉnh kia cũng phải xin giấy “thông hành” để đi và c̣n phải tŕnh giấy “thông hành” chậm nhất là 11 giờ đêm cho công an hộ khẩu nơi đến ngay trong ngày đến, với dấu chứng nhận đến và đi để về nộp lại cho công an địa phương. Đó là tự do của Hồ và bè lũ mafia của hắn áp đặt cho người dân Bắc Việt Nam!

    Năm 1951, tụi mafia cộng sản họp đại hội 2 và Hoàng quốc Việt chiếm được cái ghế ủy viên dự khuyết bộ chính trị, phụ trách ban dân vận kiêm chủ tịch công đoàn. Sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, Việt cho chiếm toàn bộ ṭa nhà đồ sộ của công ty hỏa xa Vân-nam cũ của thực dân Pháp, trên đường Trần Hưng Đạo, Hà-nội, làm trụ sở của tổng công đoàn. Tuy người nhỏ thó, chân hơi cà nhắc, lại thêm từ giọng nói, điệu bộ cho đến mặt mũi nữa, râu ria, hoàn toàn là điển h́nh của khuôn mẫu “lư dịch cường hào ở nông thôn miền Bắc Việt Nam”, nhưng Việt lại là một trong những trùm, mafia ưa làm dỏm kiểu Xuân Thủy. Và, dù Việt có bà vợ là em gái của Tô Hiệu, thuộc loại “hoạn thư” của cụ Nguyễn Du, ấy thế mà hắn cũng o bế được một cô bồ nhí, có nguồn gốc khá giả của người Hà-nội và hắn “nhờ” Mă giám Sinh Xuân Thủy bố trí cho cô ta làm việc ở toà soạn báo Cứu quốc. Cả ṭa soạn báo Cứu quốc, từ Nguyễn Tiêu là quyền tổng biên tập, đến An Châu là bí thư đảng ủy và mụ cháu của Trường Chinh, có chồng là Nguyễn ngọc Kha, chánh văn pḥng mặt trận tổ quốc, là Đặng thị Trâm, giữ chức thư kư công đoàn đều giả mù, giả điếc. Đúng là “mèo mù vớ cá rán”. Cô bồ của Việt là dân Hà-nội thứ thiệt, vừa đẹp, vừa hiền dịu, vừa khéo, vừa giỏi nhưng đă bị cái cơ chế mafia của họ Hồ “đánh vảy, moi ruột và rán vàng như cá rán” nên chẳng thể nào trách được v́ sao lại để con mèo mù như Hoàng quốc Việt vầy ṿ! Bởi Việt không chỉ trùm loại mafia bự mà c̣n giữ các ghế: chủ tịch tổng công đoàn, ủy viên đoàn chủ tịch mặt trận tổ quốc, viện trưởng viện kiểm sát tối cao, ủy viên hội đồng quốc pḥng nhà nước; bí thư đảng đoàn luôn cả viện kiểm sát tối cao, ṭa án tối cao và hội luật gia! Đến như luật sư Phạm thành Vinh, một luật sư có tài, là con rể của thạc sỹ luật Hồ đắc Điềm (cựu tổng đốc Hà-đông), cháu rể giáo sư thạc sỹ, giám đốc trường đại học y khoa Hồ đắc Dzi, chỉ v́ dám “phê b́nh nhè nhẹ” vợ Việt trong sinh hoạt ở hội luật gia mà Việt ém cho mở mắt không nổi, sống trong cảnh như “xác ướp” vậy.



    Chính Hữu Thọ, từng là ủy viên trung ương mafia, phụ trách trưởng ban tư tưởng trước Nguyễn khoa Điềm, có kể rằng: Hồi diễn ra cái gọi là đại hội 2 mafia ở Việt-Bắc (1951), Hữu Thọ được giao vẽ kư họa về đại hội. Khi Hữu Thọ vẽ Hoàng quốc Việt, hai lần hắn đ̣i xem tranh phác thảo và giận dữ chê “không giống”. Hữu Thọ sợ quá, chưa biết làm sao th́ Hoàng Tùng (tổng biên tập báo Nhân dân, “boss” của Hữu Thọ) ghé tai nói: “Cứ vẽ thật đẹp, không cần giống hắn là xong ngay”. Và, quả đúng như vậy! Ngộ thật!!!



    Giữ những chức vụ quan trọng của cả lập pháp, hành pháp và tư pháp (v́ Việt c̣n là đại biểu và trong ban thường vụ quốc hội) thế mà Việt đích thân đi ô-tô vào nhà giam Hỏa-ḷ (Hà-nội) để đánh tháo cho hai tên sát nhân, là con trai Đinh thị Cẩn v́ y thị là bồ của Hồ chí Minh và nghe nói là hai đứa đó cũng là con của Hồ. Cũng như Việt nhận một bồ khác của họ Hồ là Trương thị Mỹ, nguyên hầu pḥng của Hồ về làm phó chủ tịch tổng công đoàn. Một con người đủ thứ bê bối như Việt vậy mà bồi bút Nguyễn đ́nh Thi ra công tô son, trất phấn thành nhân vật “Tự” trong tác phẩm Vỡ Bờ, cứ y như là “nhà cách mạng tài, đức song toàn”. Đúng là “có tham quan th́ phải có tiểu nhân”; có bạo chúa th́ phải có gian thần”, v́ chúng cộng sinh!!!



    Đấy là chỉ kể sơ qua mà thôi. Một số những đứa khác tôi đă có điểm mặt bọn chúng trong cuốn “Truyện thâm cung dưới triều đại Hồ chí Minh”. Nay xin lưu ư về vài đứa khác đă đi theo đúng con đường của Hồ để xem “về mặt đạo đức cá nhân”, có quan trọng không, v́ chúng giữ những chức vụ lớn, hay “chẳng có ǵ quan trọng lắm” như Lữ Phương nhận xét ngay cả đối với họ Hồ.



    * “Nguyễn Khang, kẻ được coi là “công đầu” trong cái gọi là “cách mạng tháng tám” ở Hà-nội, là một trong 37 ủy viên trung ương mafia chính thức, được bầu trong đại hội 2 của mafia đỏ, giữ ghế bộ trưởng phủ thủ tướng khi Hồ c̣n đích thân kiêm nhiệm cái ghế thủ tướng ngụy quyền cộng sản, đă hiếp con gái của bạn (một đại tá ngụy quân cộng sản). Đứa bé chưa đầy 17 tuổi đầu.



    * Hoàng Tùng, từng là ủy viên ban bí thư trung ương mafia đỏ, thời kỳ làm phó ban tuyên huấn trung ương (phó của Tố Hữu) kiêm tổng biên tập báo Nhân dân của Mafia đỏ, lợi dụng phó tổng biên tập là Thép Mới (tức Hà văn Lộc) theo quân mafia đỏ xâm lược miền Nam, để vợ trẻ ở lại Hà-nội, Tùng đă làm cái việc như Hồ với hôn thê Lê hồng Phong. Quay ra Hà-nội, Thép Mới biết chuyện nên ly hôn. Vợ Thép Mới (C.K.P) khóc lóc, đă làm đơn tố giác với Trường Chinh nhưng hắn lờ đi. Đến đại hội mafia đỏ lần 4, vợ Thép Mới lại tố giác Hoàng Tùng với Lê Duẩn, Lê đức Thọ và Trần quốc Hoàn. Bọn này cũng lờ luôn. Không những thế, chúng c̣n cho Hoàng Tùng trúng cử và từ cái ghế ủy viên dự khuyết trung ương (khóa 3) nhảy lên thành ủy viên ban bí thư mafia đỏ. Trong vụ này, điều ghê tởm nhất là Hồng Hà (em ruột Thép Mới) đang giữ chức trưởng ban công nghiệp của báo Nhân dân đă toa rập với Hoàng Tùng, giúp Hoàng Tùng “hiếp” chị dâu ḿnh và tống anh ruột vào chiến trường miền Nam, nên được Hoàng Tùng giới thiệu giữ chức tổng biên tập báo Nhân dân và được trúng ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ. Về sau Hồng Hà c̣n leo tới ghế ủy viên ban bí thư trung ương mafia đỏ, phụ trách trưởng ban đối ngoại. (Hồng Hà là tên bồi bút viết cuốn “Một mùa xuân đại thắng” hộ Văn tiến Dũng và cũng là tên qua Pháp “t́m tài liệu” làm bộ phim về con dê cụ Hồ chí Minh).



    * Ung văn Khiêm, từng là ủy viên trung ương mafia đỏ (từ khóa 2) và giữ ghế bộ trưởng ngoại giao. Kẻ đầu tiên thừa lệnh Hồ viết thư ủng hộ “anh hai Trung cộng” chiếm Hoàng-sa và Trường-sa, trong khi chính phủ Ngô Đ́nh Diệm phản đối việc xâm lược của Trung cộng. Khi c̣n đắc thời, Khiêm thường đến nhà bà quả phụ của một cố bộ trưởng trong Chính phủ Liên hiệp để tập bài bản họ Hồ. Xe hơi và bảo vệ ào ào như công khai ở cái phố Trần Quốc Toản (Hà-nội) đến mức dân khắp khu vực, ai ai cũng biết Khiêm đi t́m của lạ. V́ thế “con sư tử” của Khiêm đến đánh ghen, túm Khiêm xé áo quần làm mất trật tự đường phố. Tổ trưởng dân phố là “nhà văn” Tô Hoài vội chạy ra. Khi thấy Ung văn Khiêm chắc Tô Hoài nhớ lời các cụ ta đă dạy “ăn t́m đến, đánh t́m đi” nên nhanh hơn “dế mèn”, Tô Hoài lủi mất, để việc xử lư cho tổ phó và công an đường phố. Sau vụ án ầm ĩ đó, Tố Hữu “làm mai” cho Hoài Thanh cưới đại bà quả phụ c̣n rất mặn mà, mặc dù Hoài Thanh đă móm không c̣n lấy một cái răng dù là răng sâu!



    Sau vụ đó, Ung văn Khiêm bị chuyển qua làm bộ trưởng bộ nội vụ.



    * Cũng ở cái phố Trần Quốc Toản này lại xảy ra một vụ nữa. Đó là việc Lê Liêm, ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ (xin lưu ư rằng cả Lê Liêm, Bùi công Trừng và Nguyễn khánh Toàn chưa bao giờ là ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ) bị can tội “xét lại”, được Hồ phân công cho Nguyễn Côn, bí thư trung ương mafia đỏ, phó thủ tướng ngụy quyền Hồ chí Minh phụ trách chủ nhiệm ủy ban kế hoạch nhà nước, làm nhiệm vụ giúp Lê Liêm “phản tỉnh”. Chẳng hiểu hai bên làm ăn ra sao mà cứ mỗi lần Nguyễn Côn “khuyên” vợ con đi nghỉ ở Tam Đảo hay Đồ Sơn th́ vợ của Lê Liêm là Lê thu Trà (phó chủ nhiệm thường trực ủy ban bảo vệ nhi đồng mà Cù huy Cận cũng là một phó chủ nhiệm) lại đến nhà riêng của Nguyễn Côn (phố Tần Quốc Toản) chơi cả buổi. Chẳng biết ai “méc”, một lần đang nửa đêm, vợ và các con Nguyễn Côn lẻn về dùng ch́a khóa riêng mở vào tận pḥng và bắt quả tang hai bên không thèm mặc quần áo. Vợ con Nguyễn Côn giữ nguyên t́nh trạng và cho đi gọi công an đường phố và tổ trưởng dân phố, vẫn là nhà văn “Tô Hoài”. Chuyện ầm ỉ lúc nửa đêm nên dân đến xem khá đông. Tô Hoài gọi cả tổ phó đi cùng rồi mượn cớ ra giải tán đám đông lặn một hơi, mấy ngày sau mới về. Cái này “dế mèn” xin chào thua!



    * Nguyễn trọng Vĩnh, thiếu tướng ngụy quân cộng sản, ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ, ủy viên quân ủy mafia, từng được Hồ cho giữ chức cục trưởng cục tổ chức, bộ quốc pḥng ngụy quyền Hồ chí Minh; sau sang Lào làm tư lệnh ngụy quân cộng sản chí nguyện kiêm cố vấn tối cao cho Cai-xoong Phông-vi-hăn, tổng bí thư Lào cộng. Chỉ huy và cố vấn ǵ th́ không biết, nhưng Vĩnh và Cai-xoong chiếm hai ṭa vi-la liền nhau ở hẻm Nguyễn Gia Thiều (Hà-nội) và tối tối kéo nhau ra nhà bạt của đoàn xiếc trung ương xem biểu diễn. Trong đoàn xiếc, có một diễn viên nữ, gốc Thanh-hóa, lai Pháp, rất đẹp, tên là Mai Sinh, đệ tử ruột của Quang Pḥng (tướng an ninh cộng sản) là trung tá Vũ Quân, dù đă có vợ, nhưng vẫn theo đuổi Mai Sinh như bị hớp hồn mà phải bấm bụng nhường cho tướng Nguyễn trọng Vĩnh. Vĩnh khôn ngoan, nhận cô bé Mai Sinh là “con nuôi”, chiều thứ bẩy nào cũng đón về nhà ăn cơm cùng hai vợ chồng hắn. Thế rồi, Vĩnh đă hiếp cô diễn viên mới 17 tuổi đó bị dính bầu. Hắn cho đưa cô ta vào doanh trại ngụy quân ở Đường Thành (Hà-nội) cho đến khi đẻ, hai mẹ con mới về lại đoàn xiếc. Đi không thèm xin phép, về không thèm báo cáo, vậy mà cả đoàn xiếc lẫn cái bộ văn hóa với những Hoàng minh Giám (bộ trưởng), Lê Liêm (khi đó là thứ trưởng, bí thư đảng đoàn mafia) cho đến Cù huy Cận (thứ trưởng) v.v… đều im re, vẫn phải bố trí tiết mục cho cô bé đó, và chẳng ai dám hỏi bố đứa bé là thằng nào! Nhờ thành tích đi đúng bài bản của họ Hồ, Vĩnh được nâng lên thành “đại sứ đặc mệnh toàn quyền” của ngụy quyền Hà-nội tại Bắc-kinh và Trần văn Quang (tên tướng ngụy dính vào vụ tù binh Mỹ) thay chỗ Vĩnh ở bên Lào.



    Thực chất tụi chóp bu của cái gọi là “đảng cộng sản Việt Nam” do Hồ đứng đầu là một tập đoàn Việt gian núp dưới lớp áo đảng phái chính trị. Chúng thực thụ là tổ chức mafia, nhưng đă cướp được bộ máy cai trị, cho nên các đầu lĩnh của chúng từ Hồ trở xuống, trong mọi ngành, mọi địa phương đều là những tên mafia đỏ chuyên nghiệp. Cho đến nay là những tên Đỗ Mười, Lê đức Anh, Vơ văn Kiệt, Phan văn Khải, Lê khả Phiêu, Phạm thế Duyệt, Nông đức Mạnh, Nguyễn khoa Điềm, Cù thị Hậu, Nguyễn thị Hằng, Vơ thị Thắng v.v… chỉ khác nhau về tên, tuổi, khuôn mặt, giọng nói mà thôi, c̣n từ cái ḷ mafia đỏ ra, chúng về cơ bản cũng vẫn là một. Hệt như đàn chó, con đen, con đốm, con vàng, con lông xù, con cộc đuôi, nhưng tựu trung “đều là chó”. Cho nên dù Lữ Phương có tặng chúng món hàng cực kỳ xa xỉ là “tính chất trong sạch lư tưởng” và “biết hy sinh v́ nghĩa lớn” cũng không che được cái chất chó má của bọn chúng.



    Lại xin nói tiếp về tội ác của Hồ.



    Sau khi làm xong cái việc: “Trí, phú, địa, hào – Đào tận gốc, trốc tận rễ”, nghĩa là “bần cùng hóa” hay đúng hơn là “nô lệ hóa” toàn dân Việt Nam ở phía Bắc, th́ tháng 12/1957, tại hội nghị trung ương mafia đỏ lần 13 (khóa 2), Hồ chủ tŕ cho ra nghị quyết có nội dung chủ yếu là:



    1- Nắm vững chuyên chính, nghĩa là siết chặt xiềng nô lệ, thẳng tay đàn áp những ǵ không có lợi cho thực dân đỏ;

    2- Miền Bắc Việt Nam phải tiến lên chủ nghĩa xă hội, nghĩa là tập trung toàn bộ tài nguyên và con người ở phía Bắc Việt Nam vào trong tay tập đoàn mafia đỏ, do Hồ cầm đầu, biến thành một bộ phận của chủ nghĩa thực dân đỏ trên thực tế; chuẩn bị thực hiện chiến lược bành trướng của thực dân đỏ.



    V́ thế, vấn đề đào tạo nhân sự cho bộ máy thống trị trên mọi b́nh diện là rất quan trọng. Nhân sự mẫu quốc đỏ núp dưới cái tên “chuyên gia”, điều hành việc khai thác thuộc địa kiểu mới này thông qua hệ thống nhân viên bản xứ.



    Các trường đại được học mở ra với mục đích nói trên nên phương pháp tuyển chọn, cũng như đào tạo hoàn toàn khác hẳn ở mẫu quốc: Chất lượng kiến thức là phụ mà ḷng trung thành mù quáng mới là chính yếu.



    Cho nên, cái mà Hồ nêu lên phương châm đào tạo tầng lớp gọi là “trí thức xă hội chủ nghĩa” là phải làm họ hèn mạt, khuất phục, nhẫn nhục. Nói cho đúng nghĩa th́ “trí thức xă hội chủ nghĩa là những cục cứt” hay c̣n gọi là trí nô.

    Việc đào tạo “trí thức” của ngụy quyền Hồ chí Minh hệt như việc huấn luyện thú ở các đoàn xiếc: nghĩa là khủng bố cái bao tử (bỏ đói).



    Xă hội miền Bắc Việt Nam sau khi bị Hồ bần cùng hóa triệt để th́ miếng ăn hằng ngày, tất cả đều phải ngửa tay trông chờ sự bố thí của ngụy quyền Hồ chí Minh. Xă hội bị phâ chia thành 13 đảng cấp, căn cứ vào đó mà cấp phát khẩu phần lương thực hằng tháng, thực phẩm, chất đốt và các nhu yếu phẩm khác.



    Hoạt động sản xuất của xă hội trở thành cái gọi là “lao động (chân tay) để cải tạo bản thân, cải tạo nhân sinh quan”. Đó là thước đo sự cầu tiến của mỗi người từ trẻ đến già, không phân biệt nông thôn hay thành thị, giới tính, sức khỏe, khả năng kỹ thuật chuyên môn, tín ngưỡng v.v… Tất cả đều phải “lao động càng vất vả, kỹ thuật càng thô sơ càng tốt”.



    Về lương thực, mỗi đầu dân từ 18 tuổi được phân 13kg500 (kể cả chất độn). Ấy thế mà ngụy quyền Hồ chí Minh c̣n cắt khẩu phần đó bằng cách đẻ ra tṛ hề: ủng hộ “anh Trổi; chị Quyên”, ủng hộ “đồng bào miền Nam”; tiết kiệm cho quỹ “chống Mỹ cứu nước”! Thế là mỗi đầu dân thành niên, mỗi tháng bị tập đoàn Hồ chí Minh bóp cổ trắng trợn ăn cướp 3kg. Vậy là hằng tháng chỉ c̣n 10kg500 cả gạo lẫn chất độn. Các sổ lương thực vẫn in mực đen giấy trắng là 13kg500, nhưng thực tế chúng trừ mỗi người 3kg ngay lần đầu trong tháng đi mua lương thực và chúng rất lưu manh ở chỗ dấu đóng của pḥng lương thực trên sổ lương thực gia đ́nh laø “đă mua đủ 13kg500/tháng”. Thế hệ trẻ Việt Nam sau này cũng như quốc tế làm sao hiểu được sự lưu manh bỉ ổi đó của họ Hồ và bè lũ. Đă thế, dù cho có hàng cũng không bao giờ chúng cho mua cả tháng lương thực một lần, mà phải chia nhiều kỳ và mỗi kỳ phải xếp hàng cả buổi mới mua được. Mục đích của tập đoàn mafia đỏ cộng sản tiếm quyền là làm sao cho toàn dân lúc nào cũng đói, lúc nào cũng chửi bới nhau v́ một chỗ xếp hàng mua hàng hóa, lương thực; lúc nào cũng tất bật thiếu thời gian v́ làm lụng, họp hành, mua bán, đến độ không c̣n một giây phút để tụ họp, bàn bạc hay một ḿnh suy nghĩ xem bản thân là người hay là trâu, ngựa. Sự lo lắng, sợ hăi về miếng ăn đến mức miền Bắc Việt Nam thời đó có câu: “Trông mặt như mất sổ gạo” để chỉ những người có gương mặt lo lắng, buồn bă!



    Đối với một số nước Tây phương th́ khẩu phần 13kg500 không làm họ ngạc nhiên v́ họ chỉ cần khoảng 6kg là đủ. Bởi v́ làm sao họ h́nh dung được rằng mỗi người dân Việt Nam ở tuổi thành niên dưới chế độ mafia Hồ chí Minh th́ năng lượng cung cấp cho cơ thể trong cả tháng chỉ từ 10kg500 lương thực (v́ bị trừ như nói ở trên 3kg) cộng với 0kg150 thịt; 0kg100 đường mà thôi!!! C̣n bữa ăn người Tây phương th́ thức ăn như cá, thịt là chính, chất bột là phụ trợ.



    C̣n những trí thức tương lai của xă hội, tức sinh viên th́ sao? Biết đó là lực lượng “trong trắng và cách mạng” nhất nên Hồ chí Minh và đảng mafia đỏ của hắn cũng áp dụng cách quản lư rất đặc thù của mafia đỏ, cả tổ chức vật chất, lẫn tinh thần. Đó là:



    Về tổ chức: Lên đến bậc đại học bắt buộc sinh viên phải sống nội trú tập thể. Ngoài các tiêu chuẩn mang tính cách gọi là “đấu tranh giai cấp” th́ muốn vào bậc đại học, bắt buộc phải là đoàn viên thanh niên lao động (sau đổi thành đoàn thanh niên cộng sản Hồ chí Minh), một tổ chức ngoại vi được gọi là “cánh tay mặt của đảng (mafia đỏ)”. Xin lưu ư bạn đọc là, nếu nghe ai nói hoặc viết về bản thân mà khoe rằng sau 1954, bố mẹ đi Nam (ngoại trừ do mafia Hồ chí Minh cài vào nằm vùng trong Nam) ở lại một ḿnh, đă “tẩy chay” không thèm gia nhập “đoàn thanh niên cứu quốc” (sau đổi thành lao động, rồi lại đổi thành cộng sản) mà vẫn được vào đại học (lại c̣n học ngành địa chất là ngành vừa quan trọng vừa mang tính bí mật quốc gia) th́ nên hiểu là:

    1) Lỡ mồm nói (hoặc viết) phét quá trớn;

    2) Một thứ “tin giả” để có người chưa biết ǵ về cộng sản (đặc biệt là tuổi trẻ ở hải ngoại) ngộ nhận về cái gọi là “tính giai cấp” trong công tác đào tạo của mafia đỏ.



    Trước 1975, người duy nhất được vào đại học mà chưa là “đoàn viên thanh niên lao động” là Tôn thất Bách, con trai bác sỹ Tôn thất Tùng – người được Trường Chinh bảo trợ. Nay Tôn thất Bách cũng là một nghị gật của quốc hội ngụy quyền Hà-nội, khóa 10.



    Sau 1975, ngay tiêu chuẩn để có thể tốt nghiệp hết cấp 3 phổ thông, th́ phải đạt tiêu chuẩn là “đoàn viên thanh niên cộng sản”. (Cứ hỏi học sinh ở Sài-g̣n xem).



    Trường “đại học” duy nhất trước 1975 không cần phải có tiêu chuẩn “đoàn viên thanh niên lao động”, là “đại học nhân dân” với Hoàng minh Giám làm hiệu trưởng, Đoàn trọng Truyến làm tổng thư kư và Nguyễn văn Trấn (tác giả “Gửi Mẹ và quốc hội”) làm giảng viên thường trực!!! Cái trường theo sáng kiến của Hồ.



    Trong tập thể sinh viên, ngoài thành phần học sinh tốt nghiệp cấp 3 phổ thông ra, c̣n có thành phần gọi là “công nông”. Đó là những người lớn tuổi, là cán bộ hoặc binh lính của mafia đỏ, được chọn lọc cho đi học tắt qua các trường gọi là “bổ túc công nông” hoặc “bổ túc văn hóa ngoài giờ”. Tụi này hoặc là đảng viên mafia đỏ cốt cán, hoặc là đối tượng sẽ kết nạp của mafia đỏ, hoặc là tụi ưa tố cáo, vu khống bới móc, chỉ điểm ở các cơ quan, binh lính, nông trường, công trường hay hợp tác xă các loại. Nói tóm lại, bọn chúng được coi là “trí thức tương lai xă hội chủ nghĩa” hay “cán bộ khung tương lai” của chế độ Hồ chí Minh! Bọn chúng được lựa chọn trên cơ sở “đấu tranh giai cấp” chứ không từ khả năng học vấn và được coi là nguồn nhân sự sẽ bổ sung cho các ngành, các cấp của chế độ mafia đỏ nên chúng chỉ cần biểu hiện “lập trường vô sản” vững chắc chứ không cần kiến thức. Trường đại học chính là môi trường cho tụi này thực tập làm “cán bộ chủ chốt, cán bộ khung” trong tương lai của chế độ mafia Hồ chí Minh. Vài thí dụ điển h́nh của loại này như:



    1- Phạm thế Duyệt, gốc Thái-b́nh, làm việc ở mỏ than Ḥn-gai thời kỳ Nguyễn đức Tâm làm bí thư tỉnh ủy mafia đỏ ở tỉnh Quảng-ninh (Bắc Việt), được cho về học ở trường đại học sư phạm 1 Hà-nội, leo tới ghế ủy viên chính trị bộ mafia đỏ thời Lê khả Phiêu.

    2- Hoàng đ́nh Cầu, từ cứu thương trong lính mafia đỏ, học tắt vào đại học y khoa, ngành phong trào, ra làm thứ trưởng kiêm bí thư đảng đoàn mafia đỏ ở bộ y tế, thời kỳ bác sỹ Nguyễn văn Hưởng cho đến đại tá Vũ văn Cẩn làm bộ trưởng.

    3- Bạch Vân, gốc Yên-bái, từ lính quân báo mafia đỏ, được về học Anh văn tại đại học sư phạm 1 Hà-nội, nay là tướng an ninh quân báo của mafia đỏ.

    4- Phan đắc Lập, nhân viên tài vụ của văn pḥng tổng cục bưu điện – truyền thanh, được cho đi học bổ túc công nông rồi vào đại học tổng hợp văn của Hà-nội; sau ra làm việc tại đài phát thanh Hà-nội; sau 1975 vào Sài-g̣n và là kẻ dưới sự chỉ đạo của Trần văn Giàu đă viết bài chửi cụ Hồ hữu Tường trong tập “Những tên biệt kích ngụy trên mặt trận văn hóa – văn nghệ”.



    (Xin mời đọc tiếp bài 7)

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 7

    Tụi này được lựa chọn trên cơ sở “giai cấp” và “tính đảng (mafia)” và đào tạo theo kiểu “thủ công” nghĩa là học tắt và học nửa chương tŕnh bậc phổ thông. Thí dụ: Nếu chúng được cho đi học về ngành xă hội th́ chúng chỉ học tóm tắt kiến thức bậc phổ thông về văn, sử và địa lư, không học các môn toán, vật lư, hóa học, sinh vật. C̣n nếu theo học về ngành khoa học tự nhiên th́ ngược lại. Vả chăng, đứa nào đă được “đảng” chọn đi học là coi như đương nhiên phải đỗ. Thầy, cô giáo nào mà chấm thi để chúng trượt sẽ bị phê b́nh là “mất lập trường giai cấp”. Dưới chế độ mafia đỏ đây là một trọng tội! Thí dụ cụ thể: Hạ bá Nền nguyên là giao liên thời chống Pháp, v́ có họ xa với Hoàng quốc Việt (tên thật là Hạ bá Cang) nên được cho đi học bổ túc công nông rồi vào học đại học tổng hợp văn ở Hà-nội. Suốt 3 năm học đại học, Hạ bá Nền chỉ làm có ba việc là: hoạt động hiệu đoàn của trường; là bí thư chi bộ đảng mafia đỏ của lớp; có th́ giờ th́ vào thư viện sưu tập thơ của các bút nô “ca ngợi” Hồ chí Minh (sau được in thành tập gọi là “Sáng tháng năm”). V́ thế khi thi tốt nghiệp để giấy trắng và giáo sư Hoàng như Mai đành phải đánh trượt. Hạ bá Nền làm đơn kiện giáo sư Hoàng như Mai gửi đảng đoàn mafia đỏ ở bộ đại học và trung học chuyên nghiệp. Kết quả: Giáo sư Hoàng như Mai bị khiển trách, phải xin lỗi Hạ bá Nền và bộ đại học và trung học chuyên nghiệp đă gửi “bằng tốt nghiệp đại học tổng hợp văn” cho Hạ bá Nền!!!



    Các tổ chức trường lớp ăn ở, sinh hoạt, học tập lẫn lộn các thành phần nói trên là biện pháp của tập đoàn lănh đạo mafia đỏ muốn thuần hóa ngay từ đầu tầng lớp “trí thức tương lai” của cái gọi là “chế độ xă hội chủ nghĩa” y hệt kiểu các cụ xưa thường nói rằng:



    Dạy con từ thuở c̣n thơ

    Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.



    Cho dù sẽ là “trí thức xă hội chủ nghĩa tương lai”, nhưng v́ có cái gốc trí thức nên vẫn bị nghi kỵ. Bởi v́ đường lối đào tạo của “quốc tế cộng sản” (tức mafia đỏ quốc tế) đối với trí thức của thuộc quốc (như Việt Nam dưới chế độ mafia Hồ chí Minh) là biến họ thành trí nô, hoàn toàn khác với cách đào tạo ở mẫu quốc (Nga-xô).



    Về vật chất:

    Được là sinh viên, phải là đoàn viên thanh niên cộng sản (cánh tay mặt của đảng mafia đỏ), là qua được một cửa ải. Tuy nhiên, loại trừ số gốc gác từ binh lính, công an, cán bộ ra, số xuất thân từ học sinh cấp 3 phổ thông chính quy vẫn c̣n bị chia loại thành con em họ hàng mafia đỏ gộc; con em “liệt sỹ”, thương binh; con em đảng viên mafia và con em những gia đ́nh “quần chúng tốt” (nghĩa là gia đ́nh không có ai là đảng viên mafia mà cũng không có ai là phản động hoặc đối tượng bị phân biệt đối xử) tất nhiên bản thân phải là đoàn viên thanh niên lao động, để quản lư, để đăi ngộ có chút phân biệt. Cụ thể là: con em của mafia đỏ trung, cao cấp, con em “liệt sỹ”, thương binh khi vào đại học được thỏa măn ngành nghề, được cho thêm điểm và được hưởng học bỗng toàn phần. Thí dụ về điểm: giả sử muốn thi vào trường y khoa, điểm đậu là 40. Con em quan lại đỏ và con em thương binh, “liệt sỹ” chỉ cần 35 điểm là cho đậu. Cá biệt c̣n ít hơn cũng được đậu. C̣n con em đảng viên mafia đỏ thường và “quần chúng tốt” bắt buộc phải đủ 40 điểm mới cho đậu. Cá biệt có khi đủ 40 điểm vẫn phải chuyển qua học ngành khác mà tiêu chuẩn điểm số ít hơn, như bách khoa hay tổng hợp chẳng hạn, để “nhường” chỗ cho con em quan lại đỏ trung, cao cấp hay con em liệt sỹ, thương binh vào học dù điểm thi của chúng có thể dưới cả điểm “ưu đăi” là 35 điểm. Tóm lại là, trong thực tế không phải người giỏi được vào đại học và không được quyền chọn ngành học, trừ phi đó là con em quan lại đỏ cao cấp.



    ở tập thể tất nhiên cũng phải ăn tập thể. Những sinh viên được học bỗng cũng chia làm ba hạng: Loại được toàn phần học bỗng; loại nửa học bỗng và loại 1/3 học bỗng. Con em quan lại đỏ đương nhiên được hưởng học bỗng toàn phần, đủ đóng tiền ăn tháng và giấy, bút, mực. Khẩu phần ăn của sinh viên dưới chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh là khẩu phần đói nhất. Thí dụ: trước 1975, ở phía Bắc Việt Nam, trong khi tiêu chuẩn ăn của bếp dành dành cho nhân viên của trường là 18 đồng/tháng, th́ của sinh viên là 15đồng/tháng. Khẩu phần ăn của sinh viên “có vẻ” đồng đều nhau, nhưng thực tế khác biệt rất xa. V́, trong khi sinh viên nghèo chỉ ngày hai bữa theo tiêu chuẩn 15đồng/tháng, nghĩa là hai lưng cơm độn, tư nước canh rau và vài cọng rau già chấm nước muối ớt. Cả tháng may ra mới được ăn một bữa có một mẫu thịt hoặc hai lát đậu phụ, v́ tiêu chuẩn thực phẩm phân phối của sinh viên chỉ có 0kg150 thịt hoặc mỡ trong một tháng (có thể bị thay thế bằng 0kg300 đậu phụ) và 0kg100 đường màu cánh gián (đường Cuba sản xuất) hoặc thay thế bằng mật mía để nấu chè khoai lang hoặc sắn lấy từ chất độn trong khẩu phần lương thực mà dân thường là 13kg500 (cũng bị trừ 3kg). Trong khi đó, con cái quan lại đỏ cao cấp được gia đ́nh cho thêm lương khô (hàng Trung cộng viện trợ cho binh lính mafia đỏ), thực phẩm như thịt kho, cá kho, pa-tê, gà vịt kho, bơ, sữa hộp, đường trắng (hàng mua trong cửa hàng cung cấp đặc biệt), thuốc bổ. Ngoài ra bọn chúng có tiền nên sáng, trưa, tối c̣n ra hàng quán quanh trường ăn quà như phở, bún, bánh kẹo, trái cây. Nhiều đứa hai bữa ăn chính c̣n được ô-tô của bố đến đón về nhà ăn cơm với gia đ́nh. Cho nên phần cơm ở trường hầu như chúng đem cho các bạn thân hoặc loại “bạn tà-lọt”! Thành ra sinh viên xuất thân gia đ́nh thương binh, “liệt sỹ”, cán bộ trung, sơ cấp, “quần chúng tốt” hầu như đói quanh năm. V́ thế mới xuất hiện chuyện “tiếu lâm thời đại” có tên “Nhà 5 tầng” trong đó nói đến việc tầng lầu dành cho sinh viên ở không cần nhà cầu (WC) v́ sinh viên bị ăn đói nên có cứt đâu để ỉa mà cần nhà cầu!



    Trong tổ chức của mafia đỏ ở các trường đại học, sinh viên phải luân phiên nhau “lao động chân tay” ở trường như làm phụ bếp, làm vệ sinh trường lớp. Tụi mafia đỏ dùng biện pháp “bỏ đói” để thuần dưỡng tầng lớp “trí thức tương lai” đă khiến công việc “lao động chân tay” đó thành đặc ân. V́, sinh viên tranh nhau được “lao động chân tay” (chứ không phải học kiến thức) để được nhà bếp tăng thêm một chút trong khẩu phần ăn do xà xẻo từ khẩu phần của các sinh viên khác. Tất nhiên con em quan lại đỏ không bao giờ phải “lao động chân tay” v́ đă có vô vàn sinh viên xuất thân hạ phong xin được thay thế để giành bữa ăn ưu đăi do “bóc lột” của các bạn học mà ra. Nghĩa là, loại trừ con cái quan lại đỏ, những “trí thức tương lai” của xă hội mafia đỏ thống trị đă được thuần dưỡng thành thói quen “giành giật từng vài muỗng cơm độn và vài cọng rau già hoặc lát đậu phụ “nhiều hơn các bạn”. Cho nên cái gọi là “trí thức xă hội chủ nghĩa” thực chất là trí nô. Họ đă bị vô liêm sỉ hóa trong lúc đào tạo.



    Về tinh thần:

    Trước hết về danh xưng, tụi mafia đỏ không dùng chữ sinh viên mà gọi là học sinh đại học. V́ thế cũng bị đối xử như học sinh ở bậc phổ thông. Tỷ như cũng phải tập hợp xếp hàng vào lớp. Vào đến lớp rồi, yên vị xong phải hát tập thể vài bài theo sự điều khiển của quản ca. Thông thường là các bài “Kết đoàn” (nhạc Trung cộng, lời Việt dịch từ Tàu ra); vài bài có nội dung thi đua sản xuất, công ơn “đảng” (mafia đỏ) và chống “Mỹ-Ngụy”. Từ cách lên lớp cho đến làm bài kiểm tra, hệt như ở bậc phổ thông, hoàn toàn khác với cách đào tạo trên thế giới, ngay cả Nga hay Đông Đức. Nghĩa là người sinh viên sau khi lên lớp nghe giảng bài th́ về học và làm bài theo tổ, hoàn toàn không có sự độc lập suy nghĩ. Đây là biện pháp chống sinh viên có thể suy nghĩ (tức tư duy) khác với ư đồ của tập đoàn mafia đỏ đầu sỏ. Đồng thời, kiểu học theo tổ, theo nhóm cũng nhằm “kiểm soát tư tưởng” của sinh viên.



    Sinh viên xưa kia được tôn trọng cả ngoài xă hội lẫn ở nhà trường; được làm quen với việc nghiên cứu cẩn trọng và độc lập tư duy (tức suy nghĩ) trên các tài liệu; được ba tháng hè một năm học và nếu có năng lực học tập có thể cùng lúc ghi tên học hai hoặc ba ngành (thí dụ như lưỡng khao tiến sỹ Nguyễn mạnh Tường, vừa học luật vừa học văn chương; hay “thần đồng” Trần đại Văn, khi học ở Albert Sarraut trước 1954, học 3ème (tức đệ tứ phổ thông) nhẩy thi tú tài Pháp phần 1, qua ba tháng hè thi tú tài Việt phần 1; năm sau thi tú tài Pháp phần 2, qua ba tháng hè thi tú tài Việt phần 2, nghĩa là có bốn bằng tú tài trong hai năm học và sau đó lên đại học Hà-nội (trước 1954) cùng theo học hai ngành là toán đại cương đại học (M.G) và lư, hóa, sinh (P.C.B) và đều đạt kết quả “rất giỏi”. C̣n sinh viên dưới chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh chỉ được phép học một ngành, trong đó thời gian học kiến thức rất ít, không có điều kiện nghiên cứu ngoài tài liệu được phép. V́ ở thư viện có sự phân loại sách vở, tài liệu gọi là lạc hậu phản động, chỉ dành cho người có thẻ đặc biệt do giấy giới thiệu của bộ trưởng bộ chủ quản người nghiên cứu kư bảo lănh, c̣n các giáo viên, sinh viên chỉ được học, tham khảo sách báo, tài liệu đă được kiểm duyệt, đảm bảo không có sự bất lợi cho chế độ mafia đỏ trong nước cũng như quốc tế và cái gọi là triết học Mác-Lê (Marx-Lénine). Trong 9 tháng học tập, sinh viên dưới chế độ mafia đỏ phải học cái gọi là chính trị, có nghĩa là chấp nhận cái gọi là chủ nghịa Marx-Lénine, tư tưởng Mao trạch Đông và tác phong Hồ chí Minh mà nội dung chủ yếu phải thấm nhuần là:



    - Chủ nghĩa quốc tế vô sản tức ưu tiên bảo vệ Nga-xô-viết; thực hiện chiến lược bá chủ toàn cầu của Nga-xô qua cái gọi là giúp đỡ các “đảng bạn”, giúp đỡ cái gọi là “cách mạng dân tộc dân chủ” cả cổ động tuyên truyền cả người, cả vật chất. Thí dụ như mafia đỏ Việt Nam giúp cho Lào cộng, Cam-bốt cộng. Congo thời Lumumba cầm quyền; hoặc kiểu Cuba đem lính qua châu Phi cũng như châu Mỹ La-tinh v.v…

    - Đấu tranh giai cấp là động lực của cách mạng và bạo lực cách mạng. Nghĩa là phải thừa nhận việc tiêu diệt các thành phần giai cấp xă hội bị mafia đỏ qui là phi vô sản là duy nhất đúng và cần thiết cho xă hội tiến lên, cũng như phải giải quyết mọi cuộc “cách mạng” có tính chất đấu tranh giai cấp bằng biện pháp duy nhất hiệu quả là bạo lực, như kiểu cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.

    - Chủ nghĩa Marx-Lénine là đỉnh cao trí tuệ của loài người. Chủ nghĩa đế quốc tất yếu phải sụp đổ. Cách mạng vô sản sẽ thành công trên toàn thế giới là điều khẳng định.

    - Phép biện chứng của tự nhiên và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tóm tắt tư bản luận của Marx và v.v…



    Về trong nước Việt Nam th́ phải học:



    - Lịch sử cách mạng Việt Nam (tất nhiên đây là tài liệu xuyên tạc lịch sử chân thực của Việt Nam).

    - Chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do vô chính phủ và phải thấy nền dân chủ tập trung ngàn vạn lần dân chủ hơn các nước ở thế giới tự do, Phải thấy tính ưu việt của chế độ ta (tức chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh) và chủ nghĩa tập thể.



    - Các nghị quyết của đảng mafia đỏ Hồ chí Minh cùng việc nghe báo, đài hằng ngày và nghe báo cáo ngoại khóa (chủ yếu là xuyên tạc, tô hồng, bôi đen).



    Cùng với học lư luận chính trị c̣n có sự kết hợp của cái gọi là “lư luận và thực hành”. Nghĩa là sinh viên phải tham gia “xây dựng trường lớp” để hiểu về cái gọi là “lao động sáng tạo ra của cải vật chất”; phải giúp nông dân trong các ngày thu hoạch, làm cỏ, tát nước v.v…; phải giúp công nhân tức làm vệ sinh công nghiệp ở các nhà máy; phải tham gia đầy đủ các cuộc mít-tinh chính trị tức rèn luyện lập trường cách mạng; phải tham gia sinh hoạt văn nghệ, thể thao nhằm rèn luyện thành cái gọi “con người mới xă hội chủ nghĩa”!!!



    Đối với sinh viên, điểm học tập chính trị và lao động quan trọng hơn điểm kiến thức của ngành học. Nó c̣n là cơ sở cho việc duyệt tốt nghiệp và bố trí nơi công tác, cũng như đó là tiêu chuẩn để thành “cảm t́nh của đảng mafia đỏ” hoặc được kết nạp thành đảng viên mafia đỏ.



    Ngoài môn chính trị kết hợp với phải lao động chân tay như đă tŕnh bày ở trên, sinh viên c̣n phải tập quân sự. Nghĩa là sinh viên được đào tạo thành trí nô cùng lúc có thể sử dụng làm binh nô khi cần.



    Bè lũ mafia đỏ Hồ chí Minh luôn luôn kêu gào rằng; “có áp bức th́ có đấu tranh” để “chính nghĩa hóa” những hành động gây chiến tranh phục vụ cho chủ nghĩa bành trướng toàn diện của đế quốc đỏ mà chúng là tay sai, cũng như những thủ đoạn bạo lực mà chúng thực thi trong cái gọi là “cách mạng long trời lở đất”. Chúng như thằng mù múa gậy vườn hoang nên không thể thấy rằng chính chúng là tập đoàn tiếm quyền thống trị và đàn áp tàn bạo nhất lịch trong sử loài người, c̣n hơn cả lũ xâm lược phương Bắc xưa kia và gần trăm năm đô hộ của thực dân Pháp. V́ thế các tầng lớp nhân dân Việt Nam nói chung, trí thức và “trí thức tương lai” (tức học sinh, sinh viên) của Việt Nam nói riêng, dù bị quản lư và khống chế chặt chẽ bằng tổng hợp mọi thủ đoạn đàn áp của lũ xâm lược, thực dân xưa kia kết hợp với phương pháp tẩy năo khoa học của đế quốc đỏ dựa trên học thuyết Paplov, vẫn có 1001 cách đấu tranh khi công khai, khi ngấm ngầm đă có tác dụng bào ṃn, làm hoen rỉ chế độ khát máu mafia đỏ Hồ chí Minh.



    Cho nên, khoảng đầu năm 1970, Tố Hữu, ủy viên chính trị bộ kiêm ủy viên ban thư kư đảng mafia đỏ, phụ trách trưởng ban tuyên huấn đỏ đă chủ biên cho ra đời cuốn “Về bọn Nhân văn – Giai phẩm chống đảng”. Cuốn sách này phát hành nội bộ nhằm “nâng cao tinh thần cảnh giác đối với tầng lớp văn nghệ sỹ, trí thức” trong giới mafia đỏ cầm quyền của trung ương và các tỉnh, thành. Đồng thời, Tố Hữu cũng đưa ra “sáng kiến c̣ mồi” bằng cách giao cho trung tá nhà văn Nguyễn Khải, viết 9 bài “hơi tiêu cực” đăng trên báo Nhân dân. Kết quả chỉ có một giáo viên trẻ ở Gia-lâm (Hà-nội) mắc bẫy và được tên mật vụ Dương Thông hỏi thăm sức khỏe!



    Tố Hữu bị đồng bọn trong chính trị bộ chê, hắn chối việc giật dây Nguyễn Khải. Hoàng Tùng, tổng biên tập báo Nhân dân, ngậm miệng nhận tội “mất cảnh giác”. C̣n Nguyễn Khải, vội chạy vấn kế một “sư phụ” nên khi bị Trường Chinh hỏi tội đă nhận tất cả tội lỗi do lập trường bản thân giao động. V́ thế, sau một thời gian bị ngồi chơi xơi nước, bị bạn bè xa lánh, Nguyễn Khải được Tố Hữu thi ân cho đeo lon đại tá, giữ ghế phó tổng thư kư hội bút nô kiêm thường vụ đảng đoàn của mafia đỏ trong cái gọi là “Hội liên hiệp văn học nghệ thuật”!!! Thế là một bước từ việc chấp nhận thân phận “c̣ mồi” và trung thành bảo vệ “uy tín” cho Tố Hữu, Nguyễn Khải nhảy lên thành quan lớn văn nghệ đỏ: một trí nô bự!!! Tiếng nói của Nguyễn Khải c̣n nặng kư hơn cả tên trí nô “c̣ng lưng bẩm sinh” Nguyễn đ́nh Thi (lời Thi nhận tội với nhà văn Nguyễn Tuân. Chẳng là nhà văn Nguyễn Tuân trách Nguyễn đ́nh Thi thấy trên là c̣ng lưng xuống không dám nói sự thật về những báo cáo láo của Bảo định Giang. Thi đă trả lời đại ư: “Tôi vốn c̣ng lưng bẩm sinh mà.” Thế là nhà văn Nguyên Tuân chỉ c̣n cách chép miệng bỏ đi mà thôi).



    Những phần trên là điểm lại những nét chính yếu của tội ác ngụy quyền Hồ chí Minh đối với nhân dân miền Bắc Việt Nam, do đích thân Hồ chỉ đạo, v́ hắn nắm trong tay những chức vụ chủ yếu của bộ máy cai trị của thực dân đỏ khi ấy:



    - Chủ tịch đảng mafia đỏ (hay tập đoàn công dân búa liềm);

    - Chủ tịch nước (một thứ thái thú của thực dân đỏ);

    - Chủ tịch hội đồng quốc pḥng (người có quyền lực cao nhất của các cơ quan chuyên chính).



    Dưới đây, xin nêu lên tội ác và âm mưu thâm độc của Hồ đối với cả nước Việt Nam nói chung, phần miền Nam nói riêng.



    Ngay từ 1930, lúc cái gọi là “đảng cộng sản Đông-dương” được thành lập với bảy tên toàn là người Việt Nam, không có một mống Lào hay Cam-bốt nào, khiến ta phải hiểu rằng, thực dân đỏ, thông qua quốc tế 3, đẻ ra công cụ bành trướng thuộc địa đỏ ở Đông-dương này, lậy tụi cộng sản Việt Nam làm chủ lực. Cho nên dù phương thức thực hiện có linh hoạt thay đổi theo từng thời kỳ, tùy theo thế và lực của mẫu quốc đỏ và công cụ bành trướng là “đảng cộng sản Đông-dương”; dù có thay đổi tên thành “lao động” hay “nhân dân cách mạng” hay “hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác”, th́ mục tiêu tối hậu vẫn là biến ba nước Đông-đương (Việt Nam, Lào, Cam-bốt) thành thuộc địa đỏ, là tiền đồn của Nga-xô tiến tới xâm lược toàn vùng Đông-nam-á và bao vây đối thủ bá quyền của Nga-xô là Trung cộng (sau này) và đảng cộng sản Tàu trước đó.



    Hồ được thực dân đỏ giao nhiệm vụ xây dựng phong trào “cộng sản ở Đông-nam-á”, giám sát một phần nào đó hoạt động của cộng sản Tàu, nhưng đối với “cộng sản Đông-dương” th́ Hồ chỉ là người liên lạc giữa “quốc tế 3” và “cộng sản Đông-dương” mà thôi. Chưa bao giờ Hồ được coi là lănh tụ của “cộng sản Đông-dương” như Trần Phú, Lê hồng Phong, Nguyễn thị Minh Khai, Hà huy Tập, Phùng chí Kiên v.v…



    Quốc tế 3 (tức Nga-xô) chỉ sử dụng Hồ v́ hắn tỏ ra mẫn cán, chịu khó chịu khổ và sẵn sàng làm bất kể những ǵ dù đồi bại, bẩn thỉu và tàn bạo. Nghĩa là Hồ được dùng chứ không được tin.



    Sau này, khi nắm được quyền lực trong tay, Hồ đă vội vàng tự đánh bóng trước vào chính lúc biết bao công việc của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa bắt đầu. Vậy mà Hồ vẫn dành công sức để viết về bản thân, dưới cái tên Trần dân Tiên (1948) và T. Lan. Điều đó chứng tỏ nó rất quan trọng đối với Hồ. Và quả rằng thủ đoạn lưu manh đó của Hồ có đem lại nhiều kết quả.



    1. Lũ bồi bút của Hồ ra công tô vẽ trên cái khung giả dối đó của Hồ, ḷe hết thế hệ này đến thế hệ khác, đến mức có những tên biết rơ con người của Hồ mà cũng xoay ng̣i bút 180 độ để ca ngợi Hồ như Trường Chinh, Trần huy Liệu, Nguyễn khánh Toàn, Trần văn Giàu v.v…

    2. Các nhà báo, nhà văn, sử gia nước ngoài – kể cả loại có tiếng tăm – cắm đầu dựa vào núi tụng ca đó để vẽ rắn thêm chân, đến mức mấy “me-xừ quan liêu” ở UNESCO chút xíu tặng cho tên Việt gian số một, tên sát nhân, tên chó dái đụ bậy, tên đạo văn thành “danh nhân văn hóa thế giới!!! Cũng may, nhờ cộng đồng người Việt ở hải ngoại đă ngăn chặn cái chuyện lố bịch đó kịp thời.



    3. Lũ bút nô ở mẫu quốc đỏ chính thức tô vẽ, đánh bóng cho đứa con hoang đă từng bị hắt hủi, bỏ qua các hồ sơ lưu trữ tại mẫu quốc đỏ.



    Một loạt những cái đầu, những ng̣i bút thiếu trung thực, thiếu dũng cảm, vô lương tâm đó đă gây họa cho nhiều thế hệ của nhân dân Việt Nam. V́, cho đến tận bây giờ, c̣n có những người Việt Nam ở hải ngoại (trong nước th́ khỏi nói) viết sách “chống cộng” mà vẫn sao chép của giả, kê hết ông Tây này đến bà Đầm kia, không một lời phê phán, đối chiếu so sánh tài liệu nên tên sách th́ chống đối mà nội dung thành chống đỡ cho họ Hồ. Chính lư do này mà đến nay tập đoàn Việt gian cộng sản và ngụy quyền mafia Hà-nội vẫn lấy cái thây ma Hồ chí Minh làm lá chắn, che thân.



    Những báo cáo của Trần Phú và Hà huy Tập gửi quốc tế 3 hăy c̣n, trong đó có tố giác năm 1930, chưa chờ chỉ thị của quốc tế 3 mà Hồ đă mạo nhận “thừa lệnh” quốc tế 3 để thành lập “đảng cộng sản Việt Nam”, nên sau phải đổi lại là “đảng cộng sản Đông-dương”. Thư của Trần Phú gửi quốc tế 3 (cục lưu trữ trung ương đảng cộng sản Liên-xô cũ) có đoạn: “Quốc chỉ là liên lạc viên thôi, nhưng ở đâu cũng ra lệnh, cũng đ̣i báo cáo làm chúng tôi cực kỳ khó khăn.” Biên bản kiểm điểm Hồ và chê Hồ ngu của quốc tế 3 cũng c̣n đó. Việc Hồ bị xếp lương c̣n dưới Nguyễn khánh Toàn vẫn c̣n đó. Việc Hồ khi đă nắm được bộ máy cai trị ở Việt Nam, qua Nga-xô vẫn bị Stalin coi thường (đúng ra là vừa khinh vừa nghi) cũng c̣n đó. Tất cả những điều trên và vài sự kiện khác nữa cho phép ta kết luận rằng, nguyên nhân Nga-xô dùng Hồ mà không tin Hồ v́:



    Hồ là người Việt Nam đầu tiên sang Nga-xô tự nguyện hiến dâng cuộc đời và tâm hồn cho mẫu quốc đỏ. Nên nhớ Nga-xô là một nước tồn tại bằng an ninh, t́nh báo, nên chắc chắn và phải có sự thẩm tra lư lịch của Hồ. Chắc chắn Nga-xô phải biết những điều sau về Hồ:



    a) Trong đơn xin học trường thuộc địa ở Pháp, Hồ khai tên là “Nguyễn tất Thành” và năm sinh là 1892. Khi tới Nga-xô, Hồ lại khai tên Nguyễn ái Quốc và năm sinh là 1985;



    b) Hồ cũng không khai là trước ngày qua Nga, Hồ có vợ người Pháp (có con với Hồ đặt tên là Louis Daguière);



    c) Hồ cũng không khai là đă làm đơn xin học trường thuộc địa Pháp và hứa sẽ phục vụ mẫu quốc Pháp.



    d) Hồ cũng không khai rằng “Nguyễn ái Quốc” là cái tên chung của nhiều người. Cũng như các bài báo kư tên “Nguyễn ái Quốc” không phải đều là do Hồ viết. Nếu có bài nào đó do Hồ viết th́ cũng đă được những vị cách mạng Việt Nam khác chữa hộ, như các cụ Phan văn Hùm, Nguyễn thế Truyền, Nguyễn an Ninh.



    e) Hồ cũng không khai rằng cha Hồ là một bậc khoa bảng đă t́nh nguyện được làm tay sai cho thực dân Pháp, sau bị thải hồi v́ tính t́nh hung bạo, nghiện rượu, say sưa đă vô cớ đánh chết dân lành làm thú vui “giă rượu”!!!



    Những sự việc nêu trên cùng với lối sinh hoạt của Hồ như đĩ bợm, thích đớp hít (lúc nào Hồ cũng phải hút thuốc lá thơm Craven A, đốt thuốc liên tục; ngay lúc kháng chiến chống Pháp, Hồ vẫn phải vài gói Craven A một ngày, nhưng để tránh tiếng lăng phí, xa xỉ, Hồ bịa rằng “trung ương ra lệnh Hồ phải hút thuốc là thơm”. Lưu manh số dzách thật!); giả dối cả những việc không đáng ǵ v.v… nên Nga-xô dùng Hồ như kiểu Stalin dùng Yagoda vậy. Nghĩa là v́ Hồ hám danh, hám lợi, hám ăn, hám gái; bất nhân, tàn bạo (chắc do gene của cha đẻ). Sau này khi Hồ đă thành công như Hồ tự thú: “Gặp thời một tốt cũng thành công” th́ mọi sự đen được đổi thành trắng.

    Biết thân phận như vậy, nên 1948, dù biết là lố bịch nhưng không thể khác được, Hồ đành lấy bút danh Trần dân Tiên để tự bộc lộ có dụng ư:



    1) Cho đàn em cứ mẫu đó mà phết son trát phấn, đừng đi t́m hiểu ḷng tḥng mà lộ vở;

    2) Biểu lộ khéo léo quá tŕnh khuyển mă đối với thực dân đỏ cũng như quyết tâm làm khuyển mă đến hơi thở cuối cùng (như di chúc của Hồ sau này).



    V́ thế, ngay khi phải kư hiệp định Genève 1954 về Việt Nam th́ Hồ đă chuẩn bị để vi phạm. Đó là lệnh cho cài người lại miền Nam để phá các chính phủ của Nam Việt Nam sau này, không cho rảnh tay xây dựng ấm no, hạnh phúc cho dân; để dụ khị những loại cơ hội, hám danh, hám quyền (lấy áo gấm yêu nước che đậy), tùy loại mà kẻ th́ “trí thức yêu nước”; kẻ th́ “thành phần thứ 3”; kẻ th́ “du ca phản chiến”; kẻ th́ “vào bưng làm bù nh́n”; kẻ th́ “cạo đầu vào chùa”; và có nhiều tên vào nằm vùng ở các tổ chức quân, dân, chính, đảng ở miền Nam (sau tháng 4/1975, nhiều tên đă lộ mặt). Chứng cớ rơ ràng nhất là nội dung nghị định 23/1999/NĐ-CP ngày 15-4-1999 của ngụy quyền Hà-nội về chế độ đối với “quân nhân, cán bộ được đảng cử ở lại miền Nam sau hiệp định Genève năm 1954”(sic). Cũng như nội dung Nghị quyết của hội nghị 15 (khóa 2 mafia đỏ) tháng 1-1959, do Hồ chủ tŕ, quyết định xâm lược vũ trang miền Nam Việt Nam. Nghị quyết 15 này hạn chế phổ biến nhưng vẫn được lưu trữ. Thế là chỉ 13 tháng sau ngày Hồ cho ra nghị quyết 13 (12/1957) mà nội dung là nắm vững chuyên chính và miền Bắc phải tiến lên XHCN, nghĩa là tập trung toàn bộ nhân lực, tài lực của miền Bắc Việt Nam vào tay tập đoàn mafia cộng sản bằng biện pháp cưỡng chế bạo lực, để chuẩn bị thực hiện tiếp tục chính sách bành trướng của thực dân đỏ.



    Tập đoàn mafia cộng sản, sau khi Hồ chết, muốn tận dụng hiệu quả các chuyện phịa về Hồ trước đây ở tầm cỡ quốc tế để làm lá chắn che đậy bộ mặt Việt gian, phản dân hại nước của chúng, nên chúng đă chỉ đạo việc chạy tội cho Hồ, và con dê tế thần đó là Lê Duẩn (có lẽ v́ Duẩn tuổi Đinh mùi, cầm tinh con dê cụ). Cho nên ngay cả một số người rời hàng ngũ mafia đỏ, ra hải ngoại (chẳng biết vô t́nh hay hữu ư) cũng viết sách chạy tội cho Hồ, nào là Hồ không liên can ǵ đến việc vũ trang xâm lược miền Nam; nào là Hồ bị Lê đức Thọ ngăn không cho phát biểu về nghị quyết 9 (khóa 3), tức nghị quyết Mao-ít(!); nào là Hồ bị mất quyền vào tay Lê Duẩn, đến mức vụ tàn sát 1968 (Mậu Thân) ở Huế, Hồ chỉ được cho thu bài thơ chúc Tết, c̣n ngày giờ Hồ đâu có biết v.v… (tin ḍ rỉ từ Vũ Kỳ (thiếu tướng), thư kư riêng của Hồ). Thật lạ, phe cánh Duẩn, Thọ bịt được mồm Hồ mà không bịt nổi mồm me-xừ Vũ Kỳ!!! Thậm chí có cái loa rè c̣n bạo phổi đưa tin là chiều 2-9-1969, Hồ say rượu bất nhă với đại sứ Nga-xô, nên tối đó Lê Duẩn đă đem súng lục phệt bể sọ Hồ. Nghe tin thấy đúng là “kẻ bị tâm thần” học đ̣i nghề viết!



    (Xin mời đọc tiếp bài 8)

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 8


    Xin được phép phân tích như sau



    Năm 1954, dù có vừa mù vừa điếc th́ ai ai cũng biết rằng uy tín của Hồ, quyền lực của Hồ là tuyệt đối, Lê Duẩn khi đó c̣n ở dưới Trường Chinh. Sau Hồ th́ uy tín cũng như quyền là thuộc về Vơ nguyên Giáp. Vậy Lê Duẩn có dám chống Hồ và Giáp (chưa kể Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt và đàn em tin cẩn nhất của Hồ là Phạm văn Đồng) hay chấp hành lệnh của Hồ là cài người lại. Cũng có kẻ “tung tin” rằng Lê Duẩn “lén” cài người lại. Có thể lén cài những kẻ c̣n vô danh tiểu tốt như mấy anh trốn ra bưng sau này, nhưng làm sao lén được những cái tên như Nguyễn văn Linh, Nguyễn văn Sô, Vơ chí Công, Nguyễn đức Thuận, Phan văn Đáng, Trần bạch Đằng, La văn Liếm, Nguyễn Chánh, Trần nam Trung v.v… Bọn chúng toàn là mafia kềnh chẳng lẽ ở lại mà không có lâu la, tà lọt dám trái lệnh Hồ ở lại làm cái ǵ, theo “địch” chăng? Hồ là kẻ chỉ có đi lừa và chơi gác người lại để cho đàn em qua mặt sao?



    Những người “buôn tin giả” đó kể rằng tướng Giáp nhận được thư riêng của Khơ-rút-xốp không tŕnh bộ chính trị nên bị qui chụp, sau nhờ Hồ nói: “Chú Giáp có đưa cho Bác xem rồi”, nên chuyện của Giáp mới được yên. Thật là lạ, nếu Hồ đă mất hết quyền mà chỉ một câu “Bác xem rồi” khiến cả bọn Lê Duẩn, Lê đức Thọ im re, cài số lùi th́ “thánh” cũng không hiểu nổi mấy ông “buôn tin giả”, kiếm chuyện làm quà với đồng bào hải ngoại!!! “Chống cộng” mà vẫn lấy làm vạn hạnh v́ được chụp ảnh chung với Hồ, được ngủ chung với Hồ, được huân chương của Hồ, là công thần của chế độ mafia cộng sản, là công dân số một v.v… th́ quả rằng cần cân nhắc lại cái “động cơ chống cộng” là v́ dân hay v́ cái ǵ?



    V́ sao lại có cái mâu thuẫn ấy? Xin phép được “mao tôn cương” tư chút. Đó là một mặt v́ quyền lợi phe phái va chạm hoặc cũng có thể nhận thấy chất mafia Việt gian của tập đoàn ngụy quyền cộng sản nên ly khai, nhưng chưa phản tỉnh (duy nhất có cụ Nguyễn Hộ là có thái độ dứt khoát) v́ thế cũng muốn núp sau cái thây ma của Hồ để ra cái điều “ta yêu nước từ chân tới tóc”, chứ chưa bao giờ mê anh cả Nga-xô hoăc anh hai Trung cộng.

    - Ai đẻ ra mặt trận Liên Việt và xóa sổ mặt trận Việt Minh, tại sao?

    - Ai đẻ ra mặt trận Tổ quốc và xoá sổ mặt trận Liên Việt, tại sao?

    - Ai đẻ ra hiến pháp 1959 (thực ra được biên soạn xong từ 1958), tại sao?

    - Ai đẻ ra “cải cách ruộng đất” rồi lại “sửa sai cải cách ruộng đất” mà người phát hiện sai lầm th́ bị đuổi việc, đàn áp hết cả cuộc đời, c̣n kẻ có tội th́ cứ lên như diều?

    - Ai bỏ bộ tư pháp và khoa luật, rồi cai trị bằng sắc lệnh, tại sao?

    - Ai tuyên bố dù có đốt cả dăy Trường-sơn, dù có 5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa th́ cũng phải “xâm lược” bằng được miền Nam Việt Nam?

    - Ai đẻ ra cụm từ “ngụy quân, ngụy quyền” miền Nam? Và “Mỹ mà xấu”?

    - Ai bắt tù đào “hồ suối Hai” để cải “long mạch” rồi chôn những chiếc răng sâu ở đó (để phát cho thằng con hoang)?

    Hàng vạn câu hỏi như vậy, nhưng người ta vẫn giả điếc giả mù để trích dẫn ông Tây này bà Đầm nọ mà bỏ qua những sự thực họ đă và đang sống trong đó, chứ không phải “cưỡi ngựa xem hoa” như Tây và Đầm.



    Đúng như bậc lăo thành chống cộng, cụ Phan Khôi, đă nói: “Bạn đă cố t́nh tôi biết nói làm sao?” Chẳng làm sao cả, chỉ cần đừng đọc, đừng nghe, đừng để chúng có cơ hội tung hỏa mù. Muốn thế, những ng̣i bút, những tiếng nói chính nghĩa cần hoạt động nhiều hơn nữa, phổ biến cả trong cộng đồng người Việt, cả cộng đồng quốc tế những sự thật không thể chối căi về Hồ và cái tập đoàn Việt gian “công dân búa liềm” của hắn.

    Nhân dân Việt Nam, v́ là nạn nhân, rất sáng suốt khi thấy:



    “Ba mươi năm ăn cướp, tướng Vơ không c̣n Nguyên Giáp,

    Cả cuộc đời bán nước, họ Hồ mất hết trí minh.”



    Đến giờ phút này, loại trừ bọn tội phạm ngụy quyền cộng sản, chỉ có những kẻ “theo đóm ăn tàn”, cơ hội mánh mung hoặc thân phận “nửa tội phạm nửa nạn nhân” mới cố t́nh mơ hồ về những tội ác tàn bạo của tên Việt gian Hồ chí Minh là nguyên nhân đẩy đất nước Việt Nam xuống hạng áp chót của thế giới!!!



    Sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, Hồ chiếm được miền Bắc Việt Nam, nhờ vẫn tiếp tục đội lốt của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, nhờ vẫn che đậy bằng ngọn cờ “giải phóng dân tộc” chống thực dân, nên trong và ngoài Việt Nam c̣n nhiều người mơ hồ, chưa nhận ra rằng cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đă bị thoái hóa thành chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ.



    Nhưng khi Hồ công khai vi phạm hiệp định Genève 1954 về Việt Nam; công khai đảo ngược nguyện vọng của toàn dân để thiết lập chế độ thực dân đỏ núp dưới mỹ tự là “xây dựng chủ nghĩa xă hội”; công khai vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam th́ không có cách nào bào chữa cho dă tâm của Hồ là hắn bất chấp quyền lợi của nhân dân Việt Nam để thực hiện chiến lược toàn cầu của mẫu quốc đỏ.



    - Việc Hồ ra lệnh cài nhân sự lại miền Nam Việt Nam ngay khi kư hiệp định Genève 1954 về Việt Nam;



    - Việc Hồ ra lệnh thực thi chuyên chính ở miền Bắc Việt Nam nhằm nắm trọn vẹn cả người cả tài sản của miền Bắc Việt Nam để chuẩn bị chiến tranh bành trướng vào miền Nam.



    - Việc Hồ ra nghị quyết về vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam (nghị quyết 15, tháng 1-1959), rồi tiến hành mở đường vào Nam, đặt thành bộ tư lệnh “công trường 59” và giao trách nhiệm cho tên sát nhân đồng bào Ba Làng, là Đồng sĩ Nguyên (tên thật là Nguyễn văn Đổng) làm tư lệnh; đưa người và vũ khí vào Nam;



    - Việc Hồ triệu tập cái gọi là “hội nghị chính trị đặc biệt” (làm như kiểu Diên Hồng thời Trần) để động viên toàn lực xâm lược miền Nam Việt Nam; thăm ḍ dư luận quốc tế;



    - Việc Hồ nặn ra cái gọi là “đảng nhân dân cách mạng” và chỉ định đại tướng ngụy quân Bắc Việt là Nguyễn chí Thanh vào làm bí thư, cũng như cho một lũ tướng ngụy quân ở Bắc vào như Hoàng văn Thái, Trần văn Quang, Hoàng Cầm, Trần Độ v.v… Cũng như dựng ra cái chính phủ phường chèo “giải phóng” mà Lữ Phương sau này được đóng “diễn viên loại 2” (v́ mới được là thứ trưởng cái bộ văn hóa “ở trong bưng”!!!);



    - Việc Hồ là kẻ đầu tiên đưa ra sử dụng cụm từ “ngụy quyền Sài-g̣n” là cái chính phủ mà hắn đă thừa nhận tính hợp pháp và tính chính thống qua văn bản của hiệp định Genève 1954 về Việt Nam. Cũng như hắn công khai lên tiếng đ̣i lật đổ chính phủ hợp hiến ở miền Nam Việt Nam;



    - Việc Hồ dùng những lời khát máu như “dù đốt cả dăy Trường-sơn” dù “5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa” cũng phải xâm lược bằng được miền Nam Việt Nam, bất cần hậu quả. Cần nhớ rằng miền Nam Việt Nam vẫn chỉ là người Việt Nam sinh sống. Không đếm xỉa ǵ đến hạnh phúc, lợi ích của nhân dân miền Nam. Không đếm xỉa đến nhân dân miền Bắc Việt Nam. Mục đích cuối cùng của Hồ chỉ là mở rộng bờ cơi của thực dân đỏ mà thôi. Dù là óc đất cũng thấy được diện mạo của Hồ đúng là một thằng đại Việt gian;



    - Việc Hồ động viên, đề cao những kẻ ngu muội theo “con đường của Hồ” để giết hại nhân dân miền Nam Việt Nam, tàn phá các công tŕnh kinh tế, xă hội của miền Nam Việt Nam chắc chắc không thể coi đó là hành động và suy nghĩ của một người Việt Nam b́nh thường chứ chưa nói đến là kẻ đang nắm quyền cai trị. Nhân dân và đất nước Việt Nam trong con mắt họ Hồ c̣n không bằng cách hành xử của một số thái thú thời Bắc thuộc như Nhâm Diên,Tích Quang hay lũ quan thực dân Pháp;



    - Năm nào Hồ cũng làm vè đầu xuân để cổ động việc xâm lược miền Nam Việt Nam, kể cả vụ Tết Mậu Thân 1968. Chính Hồ là kẻ viết và đọc lệnh sau:



    “Năm qua thắng lợi vẻ vang

    Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to

    V́ độc lập, v́ tự do

    Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào

    Tiến lên chiến sỹ, đồng bào

    Bắc-Nam sum họp Xuân nào vui hơn!”



    Lập tức bài vè này của Hồ được tên bút nô Phạm Tuyên phổ nhạc và cho phát ông ổng cả ngày, cả đêm.



    Kẻ nào “quả quyết” rằng Hồ không biết ǵ về vụ Tết Mậu Thân là “cố t́nh giả mù”. Hăy xem lại những thước phim về Hồ chủ tọa các cuộc họp quân sự. Hăy đọc lại hồi kư của các tướng cộng sản xem. Ngay tướng Trần Độ cũng viết rằng mỗi lần ở Bắc quay lại Nam đều được Hồ cho ăn cơm. Vậy chẳng lẽ Trần Độ biết mà Hồ vẫn mù tịt chăng? Phải nói rằng, chỉ có những đứa cố t́nh chạy tội sát nhân cho Hồ, những đứa “cuồng tín ngu xuẩn” mới tin lập luận rằng Hồ không biết ǵ về Tết Mậu Thân. Hồ là một thằng dám hạ lệnh giết và bỏ tù 5% dân số nông thôn miền Bắc Việt Nam; cho lệnh tiêu diệt vụ Ba-làng; cho giết hàng vạn đồng bào người Mèo ở Hà-giang (các huyện Mèo-vạc và Phó-bảng) và bao vụ như “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, “chỉnh đốn tổ chức” v.v… th́ cái chết của ba ngàn đồng bào ở Huế mà Hồ gọi là “ngụy” nào có nghĩa lư ǵ trong hồ sơ diệt chủng của Hồ!!!



    - Năm nào Hồ cũng chủ tŕ hội nghị quân sự để chỉ ra nhiệm vụ mới cho ngụy quân cộng sản trong thực thi vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam và khen thưởng, nâng cấp, gắn huân chương, huy chương cho những tên có nhiều nợ máu với nhân dân miền Nam Việt Nam (có thể đọc lại các báo cáo của ngụy quyền Hà-nội lúc Hồ chưa bị đưa đi hỏa ngục, chưa bị phanh thây nhồi bông làm thú triển lăm ở Ba-đ́nh (Hà-nội), cũng như các phim tư liệu về Hồ và về ngụy quân cộng sản);

    - Trước năm 1954 đă đành, ngay sau khi làm “chủ” miền Bắc Việt Nam, Hồ đă và vẫn tiếp tục cho phá hoại các cơ sở tôn giáo, nếp sinh hoạt tinh thần của nhân dân miền Bắc Việt Nam;

    - Hồ cho hủy hiến pháp 1946, đẻ ra hiến pháp 1959 không thèm trưng cầu dân ư. Hắn hoàn toàn làm ngược lại tất cả những ǵ mà hắn viết trong tuyên độc lập và v.v…

    Tất cả những sự việc trên không thể nào đổ tội cho Lê Duẩn và Lê đức Thọ được.



    *****



    Sự thật về đấu đá nội bộ mafia đỏ khi Hồ c̣n sống



    Nhiều người viết về Hồ, cả trong nước và ngoại quốc (không kể lũ bồi bút cố t́nh nâng bi) đều mắc sai lầm cơ bản:

    - Sai lầm v́ dựa vào cái khung tài liệu do Hồ tự phịa về ḿnh cùng với các sản phẩm giả mạo do ngụy quyền Hồ chí Minh sản xuất trong một thời gian lâu dài;



    - Sai lầm v́ dựa vào những sách, báo ngoại quốc do người viết bị dẫn dắt bởi quan điểm chính trị hơn là với tư cách nhà nghiên cứu; nên thiếu trung thực;



    - Sai lầm v́ nếu có người nào đó cố làm đúng với tính cách nhà nghiên cứu, biên khảo th́ họ lại không bao giờ hiểu được rằng tập đoàn Hồ chí Minh (từ Hồ cho đến nay là Nông đức Mạnh – thằng con hoang của Hồ) bao giờ cũng viết một đằng làm một nẻo. Cho nên chỉ nằm trong chuồng mà nghiên cứu các văn bản, các nghị quyết, và, nếu có tham quan th́ theo kiểu “chuồn chuồn đập nước”, hoàn toàn thiếu vốn thực tế tối thiểu, cho nên công tŕnh nghiên cứu dù ít hay nhiều, đều lợi cho tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh;



    - Sai lầm v́ trước khi viết về Hồ th́ đă bị ngộ độc bởi sản phẩm, dư luận do Hồ và đồng bọn cả trong và ngoài nước tung ra nên bị hồ đồ, không phân biệt được nổi thực và giả. Nhất là những ai xin gặp trực tiếp Hồ đều phần lớn bị Hồ đóng kịch qua mặt hết. Bản chất của Hồ cộng với quá tŕnh làm nghề gián điệp lâu năm khiến Hồ lúc nào cũng đóng kịch, lúc nào cũng giả dối cả những cái không cần thiết; nắm bắt tâm lư đối tượng rất nhanh và ứng phó cũng rất nhanh. Tính cách của Hồ hệt như mấy tên bán thuốc giả, lừa con bệnh ở các bến xe, bến tàu v.v…



    Đàn em của Hồ sau này, từ Lê Duẩn trở xuống, đến nay là bọn Nông đức Mạnh, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn văn An, thậm chí cả anh hoạn lợn Đỗ Mười cho đến cai đồn điền cao-su có nợ máu với công nhân là Lê đức Anh, về tầm cỡ so sánh giống hệt con voi con với con ma-mút già vậy.



    Vốn “học đường” của Hồ th́ kém, nhưng Hồ học ở trường đời nhiều; lăn lộn đủ các thứ nghề; bôn ba khắp mọi chỗ; giao du đủ mọi tầng lớp; chịu ảnh hưởng sách cổ của Tàu nên Hồ biết lúc chưa có cơ hội cũng dám ăn cứt như Câu Tiễn, và khi đắc thế th́ tàn bạo c̣n hơn vua Trụ. Thí dụ cụ thể: Trong chiến dịch biên giới 1950, đường đường là chủ tịch một nước nhưng Hồ hết sức khúm núm với đại tướng Trần Canh của Trung cộng; cùng đi chung ô-tô, Hồ đội mũ, quấn khăn che râu, ngồi sau thùng xe tải, nhường cho Trần Canh ngồi ở ca-bin. Trần Canh ăn cơm xong, Hồ xun xoe đưa khăn cho Trần Canh lau mồm và bưng nước cho Trần Canh uống. Nhưng, đến 1962, giữa lúc cuộc đấu “xét lại” và “giáo điều” của Nga-xô và Trung cộng đang gay go, biết ḿnh có giá, nên khi đoàn đại biểu bộ bưu điện và viễn thông của Trung cộng qua thăm Bắc Việt Nam, do cả bộ và thứ trưởng (là ủy viên trung ương đảng của Trung cộng) đến phủ chủ tịch chào Hồ, hắn mặc bộ đồ nông dân màu nâu phanh hết khuy áo, đoàn Trung công đến rồi hắn mới bắt đầu bỏ kéo tỉa lá sâu héo ở vườn đi ra, rất là “kẻ cả”. Thế rồi, đến lúc ốm nặng, sợ chết, hắn cho mời Lư Ban (thứ trưởng bộ ngoại thương, dự khuyết trung ương mafia đỏ) đến và năn nỉ: “Tiên sinh có thể xin với Chu thủ tướng cho tôi sang Trung quốc chữa bệnh được không?” (v́ đối với Việt Nam th́ Lư Ban giữ chức vụ như nói trên, nhưng ngoài ra Lư Ban là phái viên của cộng sản Tàu bên cạnh mafia cộng sản của Hồ). Nên nhớ Lư Ban c̣n rất trẻ so với Phạm văn Đồng mà Hồ đội lên là tiên sinh (chuyện này do Lư Ban viết đăng trên tờ Nhân dân của ngụy quyền Hà-nội).

    Khi bị Trương phát Khuê bắt bỏ tù, hắn viết phản tỉnh xin được làm tay sai cho Khuê trong kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”. Hắn năn nỉ các cụ Hồ học Lăm và Nguyễn hải Thần để được gia nhập Việt Minh và xin về hoạt động ở biên giới Việt-Hoa. Khi gặp Trường Chinh, biết chưa thể lừa Trường Chinh được, hắn nâng bi Trường Chinh “một điều đồng chí tổng bí thư, hai điều đồng chí tổng bí thư”, và tỏ ra an phận nằm trong hang Pắc-bó (Cao-bằng) dịch sách, tạc tượng. Nhưng khi đắc thế, hắn lờ cụ Hồ học Lăm như không hề tồn tại trên đời và là ân nhân của hắn; t́m mọi cách tiêu diệt uy tín của cụ Nguyễn hải Thần. C̣n với Trường Chinh, hắn dùng ngay chữ “bác” của Trường Chinh để ngồi ở bậc trưởng thượng của Trường Chinh. Rồi bày tṛ đặt tên để vừa hạ Trường Chinh vừa sử dụng Trường Chinh. Đó là việc hắn lấy khẩu hiệu “trương kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” đặt cho cái gọi là “những người phục vụ của “bác Hồ”, gồm:

    Trường: là Trường Chinh;

    Kỳ: là Vũ Kỳ, thư kư “thứ thiệt” của Hồ (v́ c̣n nhiều thư kư chỉ dùng kiểu đối phó với hoàn cảnh chính trị lúc ấy. Tỷ dụ: dùng một người công giáo để làm “an ḷng” đức cha Lê Hữu Từ; khi qua Pháp dùng cả thạc sỹ sử học Phạm huy Thông để dụ khị người Việt ở Pháp v.v…);

    Kháng: là bảo vệ của Hồ, sau ra làm chỉ huy trưởng bộ tư lệnh cảnh vệ (tức chó berger hai chân);

    Chiến: là bảo vệ kiêm lái xe; kẻ đưa đón cô Nông thị Xuân cho Hồ giải quyết sinh lư. Sau này giữ chức tổng cục trưởng tổng cục thể dục thể thao;

    Nhất: là người giữ máy phát điện đài, sau cho làm phó tổng biên tập đài phát thanh trung ương, kiêm cục trưởng cục truyền h́nh;

    Định: là tên thợ ảnh, sau cho làm chủ tịch hội nhiếp ảnh;

    Thắng và Lợi: đều là cần vụ kiêm bảo vệ (đúng nghĩa là bồi).



    Hồ thường dùng các tṛ tiểu xảo để “hạ bệ” đối phương bằng cách gặp ai cũng đặt tên, hoặc bí danh cho họ. Y như đặt tên cho “chó” vậy. Kẻ nào chấp nhận cái tên do Hồ đặt cho là tự nhiên tụt xuống hạ phong, thừa nhận “thân phận khuyển mă, gia nô” của Hồ!!!

    Những phần trên cho thấy âm mưu của Hồ trong việc hạ phe Trường Chinh, nhưng tại sao chỉ hạ mà không tiêu diệt? Tại sao Hồ lại chọn Lê Duẩn thay ngôi vị của Trường Chinh mà không phải là Phạm văn Đồng hay Vơ nguyên Giáp?



    Muốn giải đáp được tất cả những điều đó cũng như muốn làm sáng tỏ những thêu dệt xung quanh Hồ, sau khi Hồ chết, tỷ như:



    - Phe Lê Duẩn đă thay đổi ngày giờ chết của họ Hồ; đă sửa “di chúc” của Hồ; đă “làm sai nguyện vọng” của Hồ là hắn muốn được hỏa thiêu chứ không phải xây lăng;

    - Phe Lê Duẩn “hiếu chiến” và là kẻ chịu trách nhiệm về cuộc tàn sát ở Huế (Tết Mậu Thân), về xâm lăng miền Nam Việt Nam, về gây chiến ở Cam-bốt, mà trước đó th́ thân Trung cộng nên đă đẻ ra cái gọi là nghị quyết 9 (khóa 3) tức là “Mao-ít” mà trong hội nghị Lê đức Thọ đă “lấn át” không cho Hồ phát biểu;



    - Và có đúng như Lữ Phương viết rằng: “… nhưng từ bên ngoài, nhiều người đă thấy khá nhiều những bực bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái đám âm binh cách mạng của ông. Có nhiều chuyện không vui vẻ lắm, nhưng chuyện ông bị cho ra ŕa suốt trong quăng đời c̣n lại trước khi ông mất là đáng chú ư nhất”.



    Trước khi bàn về những điều nêu trên, tôi xin được lưu ư với bạn đọc rằng:

    - Hồ là con người ích kỷ và thực dụng tàn bạo. Hắn là loại người mà t́nh cảm là món hàng xa xỉ. Thí dụ: Năm 1925, mới bước vào hoạt động th́ đă bán cụ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp, vừa triệt người yêu nước chân chính, vừa có tiền ăn nhậu và lập tổ chức Việt gian phục vụ cho Nga-xô.



    Tiếp theo là bán cuộc khởi nghĩa của cụ Nguyễn Thái Học.



    Rồi hắn bán ngay cả những thanh niên do nhóm Trần Phú, Hà huy Tập giới thiệu qua Tàu gặp hắn. Mục đích của hắn là nếu những thanh niên đó và gia đ́nh, bạn bè của họ bị Pháp bỏ tù, khủng bố, nghĩa là ở vào con đường cùng th́ có lợi cho việc hắn tổ chức hoạt động của hắn sau này; vừa có tiền nhậu nhẹt, hút thuốc thơm, ở khách sạn “cực kỳ sang trọng” (hồi kư của Nguyễn lương Bằng) lại khoét sâu được tội ác của thực dân Pháp hơn lên. Làm như thế là hắn đẩy những nạn nhân đó của hắn vào con đường phải chống thực dân Pháp đến cùng. Thật là hiểm độc! Sau năm 1954, chị gái ruột của Hồ lặn lội từ Nghệ-an ra thăm hắn mà hắn không cho gặp. Ăn chực nằm chờ lâu quá, bà ta phải ra về, vừa đi vừa chửi Hồ. Khi làm thí điểm “cải cách ruộng đất” ở Thái-nguyên, hắn đă bỏ mặc cho bà Nguyễn thị Năm bị tử h́nh, mặc dù bà ấy đúng ra là trong “thành phần địa chủ kháng chiến yêu nước”, và là người đă nuôi Hồ và cả lũ đàn em của Hồ trong những năm đầu của kháng chiến chống Pháp. Đối với “t́nh yêu” cũng thế, hắn chỉ cần thỏa măn tính dục c̣n hệt như Sở Khanh, như việc của Nguyễn thị Minh Khai, của Nông thị Xuân v.v… Ngay Vơ nguyên Giáp, cúc cung tận tụy với hắn, nhưng hắn vẫn cảnh giác cho ngồi chung một chuồng với Nguyễn chí Thanh để hai bên tự giám sát nhau, không ai dám âm mưu phản hắn. Đó là cách dùng người của Hồ, dù ở bất cứ cơ quan nào, ngành nào.

    Xin nêu vài thí dụ cụ thể nữa để rơ thêm. Như ở nông thôn, sau cải cách ruộng đất th́ dù là “chính quyền” hay “đảng”, bao giờ cũng có hai phe ḱnh chống nhau: a) phe tố láo, vu láo; b) phe là nạn nhân của tố láo được “sửa sai”.



    Bộ công an giao Trần quốc Hoàn, ủy viên dự khuyết chính trị bộ mafia đỏ, giữ ghế bộ trưởng; có Lê quốc Thân, ủy viên trung ương mafia đỏ, làm thứ trưởng thứ nhất, Lê quốc Thân theo Hồ và làm bảo vệ của Hồ từ Vân-nam (Tàu). Trong khi đó, Hồ lại giao cho Trần hữu Dực, chỉ là ủy viên mafia đỏ thôi, giữ ghế phó thủ tường kiêm chủ nhiệm văn pḥng nội chính phủ thủ tướng. Nghĩa là về “đảng” th́ Dực dưới Hoàn, về “chính quyền” th́ Dực trên Hoàn và làm cái việc giám sát Hoàn.



    ở tổ chức trung ương, trước kia Lê văn Lương là trưởng ban, Lê đức Thọ là phó ban. Sau “sửa sai” của “chấn chỉnh tổ chức” Hồ cho đảo ngược: Lê đức Thọ là trưởng ban, có Vũ Oanh, có Đặng thị Kỳ (vợ Văn tiến Dũng) làm tà lọt. C̣n Lê văn Lương xuống làm phó cho Thọ, có Hà thị Quế cùng phe. Giúp Lê văn Lương cày nát nhân sự trong khu tư của “chấn chỉnh tổ chức”, trong khi Lương bị giáng chức th́ hai tên trực tiếp phạm tội là Đặng Thí và Đặng việt Châu được Hồ thưởng cho cái ghế “ủy viên trung ương mafia đỏ”. Đặng việt Châu sau c̣n được cho lên ghế phó thủ tướng.



    ở ban tuyên huấn trung ương, Hồ cho Tố Hữu làm trưởng ban thay Trường Chinh, và cái ghế ủy viên bộ chính trị, nhưng các phó ban như Hà huy Giáp (ủy viên trung ương) thứ trưởng thứ nhất bộ văn hóa kiêm bí thư “đảng đoàn “ bộ văn hóa, kiêm bí thư “đảng đoàn” hội liên hiệp văn học nghệ thuật; và Trần quang Huy, dự khuyết trung ương mafia đỏ kiêm bộ trưởng chủ nhiệm văn pḥng văn giáo phủ thủ tướng lại là hai tay vừa khinh vừa ghét Tố Hữu. C̣n Hoàng Tùng, dự khuyết trung ương mafia đỏ, tổng biên tập báo Nhân dân, tuy là phó của Tố Hữu nhưng cũng coi thường Tố Hữu. Lại thêm giữa Trần quang Huy và Hoàng Tùng, chúng ghét nhau như chó với mèo.



    Ngay trong cái gọi là đại hội 2 của mafia đỏ, họp ở Việt-Bắc, cuối năm 1951, về nhân sự Hồ đă bố trí cho phù hợp với âm mưu lâu dài.

    1. Hồ vẫn để Trường Chinh giữ ghế tổng bí thư v́ chưa có cớ và chưa đúng thời cơ để lật Trường Chinh. Hơn nữa, Trường Chinh là tên thân Trung cộng, từ cái bí danh “Trường Chinh” cũng bắt nguồn của cuộc “trường chinh” của Mao. Tất cả các “tác phẩm” của Trường Chinh cũng là bắt chước Mao, như “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” được sao chép từ cuốn “Bàn về đánh lâu dài” hay “Đề cương văn hóa” là từ “Bài nói chuyện ở Diên-an” của Mao v.v… Vả lại, Hồ đang cần Trường Chinh trong tổ chức cuộc chiến ở miền Bắc lúc đó và sẽ dùng Trường Chinh và phe cánh Trường Chinh trong âm mưu về “cải cách ruộng đất” v.v…



    2. Đưa Lê Duẩn vào ngôi vị thứ hai là chuẩn bị cho bước xâm lược miền Nam sau này.

    Cũng nên nhớ rằng, ngay dưới thời Nguyễn văn Cừ làm tổng bí thư mafia đỏ, Lê Duẩn đă có bài viết ca ngợi “lănh tụ Nguyễn ái Quốc (tức Hồ)”. Nghĩa là, Duẩn là tên mafia đỏ Việt Nam đầu tiên đă nâng bi Hồ từ lúc Hồ c̣n hàn vi! Cho nên sau cái gọi là “cách mạng tháng 8/1945”, trong lúc Trường Chinh sai Hoàng quốc Việt vào Nam để ngăn sự lộng hành của bọn Trần văn Giàu và Dương bạch Mai mà quên việc cho đón Lê Duẩn ở Côn-đảo về đất liền. Rồi khi Duẩn đă được về đất liền, th́ chỉ được cho làm một chức rất khiêm tốn là “trưởng pḥng dân quân Nam-bộ”! Phải nhờ Hồ cử Lê đức Thọ vào Nam để “chỉnh đốn” lại xứ ủy mafia đỏ miền Nam và tiến cử Lê Duẩn vào chức vụ “bí thư xứ ủy”. Rồi ở đại hội 2, Hồ đặt Duẩn ở vị trí chuẩn bị cho việc thay thế Trường Chinh.



    3. Phạm văn Đồng được Hồ đặt ở vị trí số 3 trong hệ thống tổ chức mafia đỏ. Hồ rất tin Đồng, nhưng biết Đồng chỉ trung thành chứ không đủ mánh lới thực hiện những âm mưu của Hồ. V́ thế, khi Hồ kiêm ghế thủ tướng th́ Đồng làm phó cùng giữ luôn ghế bộ trưởng ngoại giao. Sau khi vào Hà-nội (1954), Hồ cho Đồng cái ghế thủ tướng ngụy quyền Hà-nội. Hồ dùng Đồng làm “quả cân phụ” để giữ thăng bằng trong các cuộc họp chính trị bộ mafia đỏ, cũng như là người biểu lộ quan điểm của Hồ (khi Hồ cần ném đá giấu tay). V́, Hồ muốn nếu có “xáo trộn” trong “đảng” th́ “chính quyền” trong tay Đồng vẫn vận hành để cai trị dân có hiệu quả. Nên nhớ rằng, từ khoảng cuối 1962, trên thực tế là Phạm văn Đồng ăn ngủ tại “phủ chủ tịch” với Hồ cho đến lúc Hồ chết. Căn nhà riêng của Đồng ở đường Khúc Hạo chỉ dùng làm cảnh mà thôi.



    4. Vơ nguyên Giáp nhờ Hồ mà nhảy vọt vào chính trị bộ chính thức, cũng như từ trung đội trưởng lên như tên lửa thành đại tướng tổng tư lệnh, bí thư quân ủy trung ương, bộ trưởng quốc pḥng, phó thủ tướng. Nghĩa là Hồ cho Giáp thật rộng tay để hoàn thành mục tiêu quân sự. Nhưng chính Hồ đă từng căn dặn các đệ tử rằng: “Không được chia quyền lănh đạo vũ trang”, “quân đội là xương sống của cơ quan chuyên chính”, “quân đội là trường học đào tạo cán bộ cho đảng, là chỗ dựa vững chắc của đảng”, th́ đời nào hắn không “thủ cẳng” đối với Giáp. Cho nên giống hệt kiểu “Lưu Bang dùng Hàn Tín”, khi đă chiếm được nửa nước phía Bắc Việt Nam, Hồ để Nguyễn chí Thanh (vật đối trọng của Giáp ở ngụy quân) chặt hết chân tay thân cận của Giáp. Rồi sau đó cử Thanh vào chỉ đạo cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam v́: một là Thanh là phần tử thân Trung cộng, rất được Trung cộng tin, nên qua Thanh chỉ huy th́ xin súng đạn và các viện trợ của Trung cộng cho việc xâm lược miền Nam dễ hơn; và hai là, Thanh sẽ ganh đua với Giáp, sẽ tận sức hoàn thành việc xâm chiếm miền Nam Việt Nam cho Hồ (nghĩa là thực hiện việc bành trướng của thực dân đỏ), cố gắng “vĩ đại” hơn Giáp.



    Ngoài mấy tên nói ở trên được là ủy viên chính thức của chính trị bộ mafia đỏ khóa 2, th́ c̣n lại hai tên thân cận của Trường Chinh, được Hồ cho cái ghế dự khuyết chính trị bộ. Đó là:

    1) Lê văn Lương – c̣n kiêm thường trực ban bí thư – phụ trách trưởng ban tổ chức trung ương;

    2) Hoàng quốc Việt, trưởng ban dân vận trung ương.



    Hồ cho hai tên này hai cái chức vụ đó để chuẩn bị cho âm mưu hạ chúng một cách “danh chính ngôn thuận”, v́ Lê văn Lương sau sẽ chỉ đạo ngón đ̣n “chấn chỉnh tổ chức” của Hồ, và Hoàng quốc Việt phụ trách “thường trực ủy ban cải cách ruộng đất”.



    Hồ chọn người để dùng là phải đảm bảo: một là hắn có thể tin được và hai là kẻ đó phải là người có thể hoàn thành nhiệm vụ mà Hồ giao phó. Đó là lư do không bao giờ Hồ nghĩ tới việc đặt Vơ nguyên Giáp vào ghế tổng bí thư mafia đỏ như một số dư luận đă và đang tung ra.



    Giờ ta thử t́m hiểu xem có phải Lê Duẩn và Lê đức Thọ đă cho Hồ “ra ŕa trong quăng đời c̣n lại” như Lữ Phương đă viết không? Hay Hồ vẫn nghự trị cho đến tận lúc này là thằng con hoang – Nông đức Mạnh – của Hồ đang kế nghiệp Việt gian của Hồ.



    Âm mưu của Hồ trong cải cách ruộng đất có thể nói là thành công mỹ măn, ngay cả Trường Chinh và đồng bọn vẫn chưa biết đến thân phận của chúng sắp bị đem ra trả cho cái giá đă không chịu quy phục Hồ ngay từ ngày đầu gặp nhau ở biên giới Việt-Hoa. Đúng lúc đó, đại hội lần thứ 20 của đảng cộng sản Nga-xô họp. Tất nhiên, các đảng chư hầu đều phải có mặt. Đoàn mafia đỏ Việt Nam do Hồ – chủ tịch đảng – và Trường Chinh – tổng bí thư – đi phó hội. Ai ngờ ngày 25/2/1956 Krút-xốp đọc bản tố cáo “tệ sùng bái cá nhân Stalin” và nêu lên một số tội ác của Stalin. Hồ choáng váng mặt mày, v́ Stalin là thần tượng của Hồ, là cái mẫu sống mà Hồ đang cố sao chép. C̣n Trường Chinh, th́ lại hồ hởi ra mặt, chẳng biết có phải v́ t́m thấy chỗ dựa để tấn công Hồ qua cái gọi là “chống tệ sùng bái cá nhân” không, nhưng thái độ và nội dung mà Trường Chinh đă trả lời phỏng vấn của báo, đài ở Mát-xcơ-va chắc chắn làm Hồ lo ngại.



    Về đến Hà-nội, mafia đỏ họp hội nghị trung ương từ 19 đến 24-4-1956 để nghe Trường Chinh phổ biến về nghị quyết 20 của Nga-xô. Khi c̣n ở Nga th́ cả Hồ và Trường Chinh đều đă kư kết ủng hộ quan điểm của nghị quyết 20 của Nga-xô. Hồ phải kư là đương nhiên v́ bao giờ Hồ cũng tuân lệnh mẫu quốc Nga-xô của hắn. C̣n Trường Chinh, một tên giáo điều đặc sệt cho đến cả cái bí danh lẫn các “tác phẩm” của hắn, mà lại “hồ hởi” kư mà không hề có tư thắc mắc nào th́ lại khác. Cho nên trong hội nghị phổ biến nghị quyết 20, bọn Lê Duẩn, Nguyễn chí Thanh, Hoàng văn Hoan, Trần quốc Hoàn, Xuân Thủy, Trần hữu Dực đă tranh căi không tán thành, v́ thế hội nghị thành “hội đồng chuột” của Lafontaine, nghĩa là không đi đến quyết định nào. Tỉnh táo điểm những bộ mặt chống nghị quyết 20 của Nga-xô th́ sẽ thấy toàn là những kẻ được Hồ cất nhắc. Cho nên ta thử đặt câu hỏi: thực hiện nghị quyết 20 “tức chống sùng bái cá nhân” ở Việt Nam th́ có lợi cho ai và có hại cho ai th́ sẽ hiểu.



    Dù có mù th́ cũng thấy, nếu mafia đỏ Việt Nam thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô th́ kẻ bị ăn đ̣n đưa đến bị hạ bệ là Hồ! C̣n không thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô th́ Trường Chinh mất cơ hội ngàn vàng để hạ bệ Hồ mà bước lên ngai chủ tịch đảng. Về bọn Lê Duẩn, Nguyễn chí Thanh, Lê đức Thọ, Trần quốc Hoàn, Xuân Thủy th́ thi hành hay không thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô cũng chưa đụng ǵ đến cái ghế của chúng.



    V́ thế ta có thể kết luận rằng chính Hồ là kẻ giật dây lũ Lê Duẩn trong vụ nghị quyết 20 này của Nga-xô. Bởi nếu không, với cương vị “chủ tịch đảng” và với nguyên tắc “dân chủ tập trung”, một ḿnh Hồ cũng đủ quyền quyết định phải thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô, chưa kể đến Trường Chinh là “tổng bí thư” vẫn đang là một sức nặng đáng kể. Cho nên Hồ là kẻ chủ mưu bày ra tṛ tranh căi này để vừa né được quả tạ “chống sùng bái cá nhân”, vừa được tiếng là tôn trọng ư kiến trung ương (mà chỉ một lần duy nhất trước đó Hồ thực thi là “tiếp tục hút thoải mái thuốc lá thơm Craven A”, khi c̣n trong chiến tranh với thực dân Pháp, đang có nhiều khó khăn, nghèo nàn).



    (Xin mời đọc tiếp bài 9)

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    HCM-Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh Việt Nam
    Việt Thường

    Phần 9

    Ngày 28/4 đến 3/5/1956, với cương vị “tổng bí thư”, Trường Chinh triệu tập hội nghị cán bộ trung và cao cấp của mafia đỏ để phổ biến nghị quyết 20 của Nga-xô. Chẳng biết trước đó Trường Chinh có cho chân tay đi vận động ngầm không, nhưng trong hội nghị đă có ư kiến về việc Hồ tự đề cao ḿnh cũng như có nạn “sùng bái cá nhân” trong “đảng”. Có thể Trường Chinh rất khoái, nhưng không may cho Trường Chinh là đồng thời nhiều ư kiến phê b́nh về cải cách ruộng đất, về nạn cửa quyền của mậu dịch, về tệ nạn của khai báo hộ khẩu, về thái độ không đúng đối với văn nghệ sỹ v.v… nghĩa là những vấn đề dính đến trách nhiệm của Trường Chinh, nên Trường Chinh đấu dịu, hắn nói: “Có tệ sùng bái cá nhân nhưng chưa đến nỗi quá đáng v.v…” và hứa sẽ xem xét lại. Sự do dự mất tự tin khiến Trường Chinh bỏ lỡ cơ hội dựa vào sự bất măn của cán bộ trung cao để lật Hồ (sợ bị nhào theo). Thế là Hồ thủ lợi.



    Vừa thoát hiểm, để cho chắc ăn hơn, Hồ cho triệu tập hội nghị lần 10 (khóa 2) vào tháng 9-1956, qui trách nhiệm về sai lầm cải cách ruộng đất cho Trường Chinh, Hoàng quốc Việt và lột chức tổng bí thư của Trường Chinh, đuổi Hoàng quốc Việt ra khỏi chính trị bộ, c̣n là ủy viên trung ương thôi. Lê văn Lương cũng bị ra khỏi chính trị bộ, c̣n là dự khuyết trung ương. C̣n Hồ, hắn vẫn là chủ tịch đảng kiêm tổng bí thư. Thấy Hồ gian hùng chưa?



    Kể từ đó, ngoài Hồ ra, không ai có tư cách triệu tập hội nghị trung ương.



    Gạt được Trường Chinh và chân tay của hắn rồi, Hồ c̣n nghi ngờ một nhân vật nữa là Vơ nguyên Giáp. Tuy rằng Giáp chưa có bất kỳ một biểu hiện nào là chống đối Hồ, nhưng v́ bấy giờ Giáp lại là người có nhiều ưu thế:



    - Được coi là người có công đầu “đánh thắng thực dân Pháp và can thiệp Mỹ”, đă “giải phóng được một nửa đất nước”;

    - Giữ ghế ủy viên chính thức của chính trị bộ mafia đỏ, bộ trưởng quốc pḥng, đại tướng tổng tư lệnh, bí thư quân ủy trung ương;

    - Uy tín của Giáp lên như diều trong cả lực lượng vũ trang, trong cả nhân dân – nông thôn thành thị – trong cả học sinh, sinh viên, trí thức và văn nghệ sỹ;

    - Uy tín cả trong nước và ngoài nước;

    - Thêm nữa, Giáp không mắc các tội “sùng bái cá nhân”; không dính đến “cải cách ruộng đất”…



    Nếu “anh cả đỏ Nga-xô” hay “anh hai Trung cộng” mà đi đêm được với Giáp th́ Giáp có thể là người duy nhất lật đổ Hồ một cách dễ dàng.



    V́ thế Hồ đă đi một quả thử ḷng Vơ nguyên Giáp. Kiểu thử này Hồ cũng đă từng làm qua với cựu vương Bảo Đại. Chẳng là trước ngày kư kết Hiệp định sơ bộ (6/3/1946), khi ấy cựu vương Bảo Đại là cố vấn tối cao của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, cư ngụ tại 51 Trần Hưng Đạo (Hà-nội). Một bữa đến thăm cựu vương Bảo Đại, Hồ năn nỉ Bảo Đại giữ chức chủ tịch chính phủ v́ hắn không đủ uy tín nên Pháp gây nhiều khó khăn. V́ cũng chẳng hiểu tâm lư của Hồ nên đáng ra từ chối th́ cựu vương Bảo Đại lại nói với Hồ rằng để bàn lại xem. Khi bàn với các người thân cận gồm các cụ Trần trọng Kim, luật sư Nguyễn mạnh Hà, cụ Hoàng xuân Hăn v.v… có mặt cả tên “chỉ điểm” của Hồ là Phạm khắc Ḥe (nguyên thư kư của cựu vương Bảo Đại). Nhiều người khuyên dù Hồ giả vờ hay thực th́ cũng v́ việc lớn của đất nước cựu vương nên nhận lời. Chắc chắn chỉ có Phạm khắc Ḥe báo cáo, nên ngay hôm sau Hồ gặp cựu vương Bảo Đại, rút lại ư kiến hôm trước. Hắn nói đại ư, dù khó khăn mấy hắn cũng cố đảm nhận trách nhiệm đă được Quốc hội I giao phó. Đó là nguyên nhân Hồ đề nghị cựu vương Bảo Đại cầm đầu một phái đoàn đi Trùng-khánh gặp Tưởng giới Thạch. Rồi hắn cắt tiếp tế khiến cựu vương Bảo Đại phải ở lại Tàu một thời gian và đành phải bỏ luôn cả chức cố vấn tối cao. Hồ thử bằng cách đề nghị Giáp thay mặt “trung ương và Hồ” xin lỗi về “sai lầm trong cải cách ruộng đất” trước dân, với lư do là Giáp có uy tín lớn đối với nhân dân.



    Vơ nguyên Giáp là thằng rất ngu khi nhận lời đề nghị đó của Hồ. V́ sao? Bởi cả cuộc đời Hồ là hành xử bất nhân vô hậu như đă chứng minh ở trên. Từ việc bán cụ Phan Bội Châu, bôi nhọ cụ Phan Chu Trinh, ám hại Lê hồng Phong, phá cuộc khởi nghĩa của cụ Nguyễn Thái Học, lạnh nhạt với chị ruột, ngủ với Nông thị Xuân có con rồi lại cho giết đi để giữ cái danh “thánh sống” v.v… Hồ c̣n là kẻ hiếu thắng, ngoại trừ mẫu quốc đỏ ra, hắn tự cho là “thiên hạ anh hùng đệ nhất” dưới trời Việt Nam, và cái gương tày đ́nh là hắn vừa hạ bệ bè lũ Trường Chinh. Cho nên, khi Giáp vui vẻ nhận nhiệm vụ xin lỗi dân th́ tính cách con người của Hồ, chắc chắn hắn cho rằng Giáp đă bắt đầu tự phụ là có thể thay được Hồ. Nếu khôn ngoan một chút th́ Giáp phải nói đại ư là: “Trong trung ương không một ai có uy tín, công lao bằng Hồ và được dân tin phục như Hồ, nên đề nghị Hồ đích thân th́ mới xong việc. Giáp luôn luôn tuân phục lệnh Hồ, nhưng sợ không đủ uy tín nên sợ hỏng việc phó thác của Hồ.”



    Và, Giáp đă phải trả một giá rất đắt cho sự ngu muội đó (tuy gần gũi Hồ mà như bao kẻ khác, vẫn mù ḷa chẳng nh́n ra được con người thực của Hồ – trách nào những kẻ ở xa, chỉ nghe nói về Hồ, chẳng u mê, sai lệch!). Kể từ đó ngôi sao chiếu mệnh của Giáp bị lu mờ, bị ăn đ̣n hội chợ của từ Nguyễn chí Thanh đến Lê đức Thọ, cho đến cả Trần Quỳnh, Nguyễn cơ Thạch và cả me-xừ “trí thức không bằng cục cứt” là thạc sỹ sử học tốt nghiệp tại Pháp là Phạm huy Thông!!! Và cả những cấp dưới của Giáp như Văn tiến Dũng, Chu huy Mân cho đến anh “đại tá nhẩy sào” cai ác ôn đồn điền cao-su của Tây là thằng cha Lê đức Anh!!! Thật tội nghiệp “đại tướng 4 sao đặt ṿng chống thụ thai” của ngụy quân cộng sản!



    Nói chung, cái kết thúc của tên Việt gian nào rồi cũng vậy, nhất là loại Việt gian ngu lâu!!!



    V́ tính cách đa nghi của kẻ làm gián điệp chuyên nghiệp, lại chuyên nghề lừa đảo nên Hồ luôn luôn “suy bụng ta ra bụng người”, v́ thế Hồ vẫn lưu nhiệm phe lũ Trường Chinh ở cái thế mà hắn vẫn khống chế được, nhằm làm đối trọng với phe nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ. V́ hắn cũng phải đề phóng sự phản trắc của nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ. Thêm nữa, Hồ c̣n dùng hai nhóm đối đầu nhau đó trong thủ pháp đi dây giữa Nga-xô và Trung cộng mà hắn không cần phải lộ mặt.



    Vài tháng sau khi hạ bệ phe nhóm Trường Chinh, Hồ tuyên bố là quá bận nhiều việc, không thể kiêm nhiệm một lúc nhiều chức vụ được nên Hồ “giới thiệu” (chỉ định một cách tế nhị) Lê Duẩn tạm giữ chức “bí thư thứ nhất” để giúp Hồ điều hành công việc “đảng”. Mục đích của Hồ là tạo điều kiện cho Lê Duẩn và Lê đức Thọ củng cố chỗ đứng trước khi đi vào cuộc “bầu chính thức”. Và, để chắp thêm vây cánh cho Duẩn, cũng như “tỏ thái độ” với Giáp, Hồ cho bổ sung Phạm Hùng (đại tá phụ trách công an miền Nam Việt Nam) vào chính trị bộ và ngồi trên Vơ nguyên Giáp.

    Tháng 12-1957, Hồ cho triệu tập hội nghị 13 (khóa 2) ra nghị quyết về “nắm vững chuyên chính” và “đưa miền Bắc Việt Nam tiến lên CNXH”. Như thế, có nghĩa là dùng bạo lực để tước đoạt tài sản toàn dân miền Bắc Việt Nam vào tay đảng mafia đỏ của Hồ. Người dân miền Bắc Việt Nam bị bần cùng hóa nên về thực tế trở thành nô lệ.



    Cũng từ cái lệnh “nắm vững chuyên chính” này, Hồ giao cho Trường Chinh và Tố Hữu chỉ đạo việc đàn áp cuộc đấu tranh của văn nghệ sỹ đ̣i có tự do trong sáng tác. Để che cái lốt độc tài khát máu, bè lũ mafia đỏ Hồ chí Minh dựng ra cái gọi là “vụ án gián điệp Thụy An” để một mặt đàn áp lực lượng văn nghệ sỹ, trí thức từ vùng cộng sản chiếm giữ trước, một mặt tiêu diệt mầm mống tự do dân chủ của lực lượng văn nghệ sỹ ở lại Hà-nội, không di cư vào Nam. Trong số đó có nữ sỹ Thụy An (vợ của ông Đỗ đ́nh Đạo, chỉ huy đệ tam quân thứ lưu động), ông Nguyễn thiếu Bảo – chủ nhà xuất bản Minh Đức, cũng bị kết án 15 năm tù, thực tế quá hạn tù vẫn không được ra tù. Tất nhiên là không chứng cớ mà cũng chẳng cần qua thủ tục tố tụng. V́, tên Việt gian Hồ chí Minh đă cho vứt cả bộ tư pháp lẫn khoa luật ở trường đại học vào hố xí. Kể từ đó, nhân dân miền Bắc Việt Nam bị cai trị bằng lệnh miệng (một loại khẩu dụ thời phong kiến) là chính. Thí dụ: tên Hoàng văn Hoan ra lệnh miệng thôi mà nhà văn Vũ Trọng Phụng (chết từ 1940) và các tác phẩm của ông bị cho vào sọt rác! Hay như Hồ chỉ tấm ảnh của Hà huy Tập (nguyên tổng bí thư mafia đỏ) nói: “Chú Tập hay phê b́nh “bác” lắm đấy!” Thế là ảnh của Hà- huy Tập bị lột khỏi cái gọi là “viện bảo tàng cách mạng”!!!



    Cho nên sau này có ai nghiên cứu về Hồ và đồng bọn của hắn th́ làm sao t́m ra được văn bản về các tội ác của chúng được. Càng để lâu, nhân chứng già chết hết, thế là hết chuyện!!!



    Tháng 1-1959, Hồ triệu tập hội nghị trung ương mafia lần 15 (khóa 2), đẻ ra nghị quyết 15 (không phổ biến ra ngoài trung ương) là nghị quyết dùng vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, mở đường Trường-sơn lập thành quân đoàn thường trực với cái tên “cộng trường 59” và đưa lính ngụy cộng sản và vũ khí vào phá hoại mọi mặt đời sống của nhân dân miền Nam Việt Nam, ở thời điểm đó đă đạt được nhiều thành tích cả về trị an, xây dựng kinh tế và ổn định xă hội. Lực lượng nằm vùng bắt đầu hoạt động, vừa chống phá, vừa móc nối những phần tử gọi là “trí thức không bằng cục cứt”; tụi cơ hội “đứng núi này trông núi nọ”; tụi “quáng gà chính trị” trông “gà hóa quốc”, “thả mồi bắt bóng”; tụi “tḥ ḷ sáu mặt” chính khách sa-lông; “tụi “sư săi hổ mang”, “linh mục chuồn chuồn” v.v… để cho ra đời gánh hát chính trị, sau này được đặt tên là “chính phủ cách mạng lâm thời” mà số phận của nó ra sao th́ ai cũng đă biết (nhưng nhiều kẻ cũng chưa đúc rút được bài học kinh nghiệm rất đắt giá cho cả dân tộc Việt Nam lẫn bản thân họ).



    Cũng thời gian đó, Hồ cho gọi Đỗ Mười ở Hải-pḥng về chỉ huy cái gọi là “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Tổ tiên ta đă dạy: “Trông mặt mà bắt h́nh dong”, cho nên dù không đọc lư lịch thực của Đỗ Mười th́ cũng biết đó là tên “bán trời không văn tự”. Tên thật của hắn là Cống, quê ở Yên-sở, huyện Thanh-tŕ (chỗ bến Phà-đen, Hà-nội đi xuôi một chút), xưa thuộc tỉnh Hà-đông, nay thuộc Hà-nội. Đỗ Mười làm nghề hoạn lợn, đi các chợ như Bạch-mai, Thường-tín, Phú-xuyên v.v… hoạn lợn, rồi làm lư trưởng. Can tội “lấy tiền thuế đánh bạc” bị cháy túi nên bị thực dân Pháp cho đi tù Sơn-la. Với bản chất và quá khứ đó, Đỗ Mười đúng là mẫu “sinh ra để làm mafia đỏ” và hắn được Tô Hiệu, Nguyễn lương Bằng cho tuyên thệ vào “băng đảng”. Nhiệm vụ lúc đầu thử thách của Đỗ Mười là “đổ cứt của tù”, đáng lẽ mỗi tù nhân luân phiên làm một ngày, nhưng Mười “thích cứt” nên xin nhận làm cả 30 ngày của tháng.



    Hồ biết đến Đỗ Mười v́ khi tiếp quản Hải-pḥng, Mười là bí thư mafia đỏ và Hoàng hữu Nhân là chủ tịch thành phố Hải-pḥng. Mười đă có “sáng kiến” dựng ra vụ án “dụ dỗ di cư vào Nam” để ngăn chặn việc di cư vào Nam; cũng như dựng ra vụ án “gián điệp Phan Năm” ở mỏ than Ḥn-gai để “trấn áp giai cấp công nhân” không được đi Nam.



    Nếu “cải cách ruộng đất” của Hồ làm “long trời lở đất” ở nông thôn Bắc Việt Nam, với tỷ lệ bị bắt giết, tù đày là 5% của dân số nông thôn Bắc Việt Nam, khi đó là 14 triệu (ấy là chưa kể nhiều người sợ quá đă tự tử một ḿnh hoặc đầu độc cả gia đ́nh cùng chết trước khi đội cải cách đến), th́ “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” của Hồ cũng “đảo lộn trời đất, cương thường, đạo đức” ở thành thị miền Bắc Việt nam. Thật đúng là lũ cướp ngày kiểu mafia! Nên nhớ rằng đích thân Hồ kêu gọi con cái đấu tố cha mẹ. Cụ thể là Hồ đă khen con gái một của ông bà chủ hiệu thuốc Hồng Khê (Hà-nội) dám đấu tố cha mẹ. Con ranh con này lập tức được kết nạp thành đoàn viên chính thức của cái gọi là “đoàn thanh niên lao động Hồ chí Minh” (là lực lượng dự bị và là cánh tay mặt của mafia đỏ – như Hồ tuyên bố). Không những thế, nó c̣n được vào học ở trường đại học y khoa Hà-nội. (Con này sau lấy chồng, đẻ con, lương bác sỹ của mafia đỏ là thứ mạt rệp nên thiếu thốn, chẳng thấy “bác Hồ” của nó đâu, đành quay lại trong ṿng tay bao dung và săn sóc của cha mẹ).



    Xin lưu ư rằng, kiểu “cải tạo” ở thành thị như thế này, sau khi đă thừa nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất, càng chứng minh lập luận của tôi là mọi phong trào của Hồ và tay chân cho đến nay đều là âm mưu tội ác, ngay cả cái gọi là sửa sai hay mở cửa, đổi mới v.v…



    Nhiều h́nh ảnh theo kiểu “bà địa chủ kháng chiến yêu nước” Nguyễn thị Năm lại được Hồ cho tái lập. Thí dụ ông chủ hăng nước mắm Vạn Vân, người làm kinh tài cho Hồ trong những năm chống Pháp, bị tịch thu toàn bộ tài sản. Đến căn nhà riêng ở phố Cao Bá Quát (Hà-nội) cũng bị chiếm dụng một phần, phần c̣n lại cho cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn (em vợ ông Vạn Vân) và các con của ông Vạn Vân ở, kể cả nhà phụ. Căn pḥng của cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn cũng bị trưng dụng, ban ngày làm lớp học nhạc do pḥng văn hóa quần chúng thuộc Sở văn hóa Hà-nội quản lư. Con trai út của ông Vạn Vân, một kỹ thuật viên xây dựng trung cấp cũng bị tù ở Quảng-ninh gần chục năm v́ “thành phần tư sản” dính dáng đến việc một căn nhà bị đổ (nhưng không chết người), c̣n những kẻ “thành phần cơ bản” được vô can. Cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn phải xin đổi cho Tổng cục Bưu điện của ngụy quyền Hà-nội hai chiếc xe hơi hiệu Buick và Frégate (của hăng Renault) để lấy chiếc guitare 2 cần và 3 chiếc xe đạp nữ, hiệu Mercier (v́ những thứ này mậu dịch ngụy chỉ bán cho cơ quan ngụy quyền cộng sản). Ông Bùi hưng Gia ở Hàng Trống (Hà-nội), người đă ủng hộ 100kg vàng trong “tuần lễ vàng” để Hồ “đút lót” cho Lư Hán và Tiêu Văn (Tàu Tưởng) rút quân Tàu khỏi miền Bắc Việt Nam, cũng bị cướp nhà và cửa tiệm. Ông Trịnh văn Bô, chủ căn nhà phố Hàng Ngang, đă cho Hồ tá túc để viết “tuyên ngôn độc lập” cũng chung số phận. Ông chủ hăng sơn Tô Châu, cùng ông Vạn Vân làm kinh tài cho Hồ, c̣n đau hơn nữa v́ vừa mất hết tài sản lại vừa mất con. Chẳng là ông ta tin rằng ḿnh là “tư sản dân tộc yêu nước” nên đă khuyên con trai là trung úy Trường (quân lực của Quốc trưởng Bảo Đại) – bạn của tướng Nguyễn bảo Trị (quân lực miền Nam Việt Nam) ở lại Hà-nội. Thế là trung úy Trường bị đi cải tạo (tức tù khổ sai) v́ tội danh “ngụy quân”, tận cuối 1973, sau khi hiệp định Paris về Việt Nam được kư kết, mới được về. Nhà tan, cửa nát, trung úy Trường lấy một cô gái lao động, mua một con ḅ và vợ chồng ngày ngày đi chở gỗ mướn cho các hợp tác xă, sống trong căn nhà lá ở bờ sông Hồng (chỗ viện bảo tàng Louis Finot nh́n ra). C̣n, cũng trung úy, nhưng đi Nam th́ lên tới cấp tướng, tư lệnh quân khu, như tướng Nguyễn bảo Trị.



    Hai số phận cùng một điểm xuất phát có sự khác nhau là do khác nhau về quan điểm: chấp nhận hay phủ nhận chế độ mafia đỏ. Xưa cũng vậy, nay cũng vậy: ở lại Việt Nam là phản động, vượt biên th́ thành Việt kiều yêu nước!



    Cái “chân lư” giản dị ấy mà đến nay nhiều người vẫn không thể nhớ được!(?) Có người vượt biên chết hết vợ con mà lại thuộc loại mau quên nữa kia!



    Đ̣n độc của thằng “chuyên nghề đổ cứt” Đỗ Mười, th́ sau tháng 4/1975, nhân dân miền Nam Việt Nam đă được biết qua các vụ đổi tiền cũng như các chiến dịch X1, X2. Lê Duẩn vẫn dùng lại Đỗ Mười như xưa Hồ đă dùng vậy (chắc theo lời dặn của Hồ).



    Thành thị miền Bắc Việt Nam tan hoang có phần c̣n hơn ở nông thôn qua ngón vơ “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” của Hồ. Người chết chắc cũng khoảng trên dưới chỉ tiêu 5% mà Hồ đưa ra cho việc giết nông dân ở Bắc Việt Nam. Nhiều người chẳng bao giờ buôn bán cũng bị “đấu tố tù đày”, chỉ v́ trong những năm 1945-46 đă biểu t́nh trong hàng ngũ VNQDĐ hay Đại Việt v.v… hoặc trong nhà có ảnh, có sách báo về Nguyễn Thái Học, về Phan Chu Trinh, về sách của nhà xuất bản Hàn Thuyên (nhóm Trost-kit). Đến mức ai ở Hà-nội xưa đều biết đến “người bán thịt ḅ khô” ở trước quán Mụ Béo, phải tự tử v́ bị truy thuế, tính từ năm 1945!!!(?) Một gia đ́nh ở Cao bá Quát (Hà-nội), cách nhà cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn một nhà, phải tự tử cả gia đ́nh. Đại loại, ít nhất cũng cả triệu gia đ́nh là nạn nhân của Hồ. Cũng tịch thu tài sản, nhà cửa, cũng đưa nhau ra khu phố đấu tố, làm nhục, cũng tử h́nh (chỉ khác là không bắn tại chỗ) và đuổi đi kinh tế mới. (Sau ngày 30/4/1975, nhiều sỹ quan trong quân lực miền Nam Việt Nam bị đưa lưu đầy ra thượng du miền Bắc Việt Nam vẫn c̣n gặp những gia đ́nh “bị Hồ đuổi đi phát văng” như vậy hệt kiểu Stalin với dân Ku-lắc).



    Có chút khác với “cải cách ruộng đất” là không có sửa sai. Tại sao? V́ bọn Trường Chinh đă bị hạ bệ rồi và đă có nghị quyết cho phép chuyên chính. Nhưng cái chính yếu là Hồ đă hoàn toàn đảo chánh xong Chính phủ Liên hiệp đa đảng!!! (Cả Quốc hội, cả Chính phủ, cả Hiến pháp 1946 bị xóa sổ.)



    Thời kỳ làm “cải cách ruộng đất” Hồ c̣n che mặt Việt gian. Đến “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” th́ ngụy quyền Hồ chí Minh lộ rơ bộ mặt công cụ của mẫu quốc đỏ. Như một đoàn quân thực dân xâm lược đặt chân lên đất thuộc địa, chúng cướp bóc, vơ vét cả người cả của. Hầu hết nhà cửa khang trang, vi-la tốt đẹp, đường phố yên tĩnh đều bị chúng chiếm đoạt, kể cả đồ đạc (y hệt như sau 4/1975 chúng vào miền Nam Việt Nam). Sau những tên to đầu từ Hồ trở xuống th́ đến ngụy quân cộng sản. Nhiều người phải “hy sinh” làm vợ ngụy quân để con cái khỏi bị đi phát văng lên thượng du dưới mỹ tự “kinh tế mới”. Cụ thể, chủ tiệm đặc sản thịt dê P.H. phải gả con gái cho một tên trung tá ngụy quân, bị thương “không c̣n cái ấy”. Một trung tá ngụy khác cũng cưỡng ép một bà chủ tiệm tơ lụa xưa ở ngă tư Hàng Đào – Lăn Ông. Sau đó hắn c̣n cưỡng hiếp hai con gái của bà này. Chuyện đưa ra “pháp luật” cũng “huề cả làng”. Ngay một gia đ́nh lính ngụy cộng sản ở Hàng Đào, chung nhà với cố nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng, từng phục vụ ở đệ tam quân khu (do đại tá Nguyễn văn Vận chỉ huy), v́ muốn chiếm thêm căn pḥng của nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng đă gây chuyện đánh tàn nhẫn cô con gái nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng. Sự việc khiếu nại bị ỉm đi v́ như đại diện Viện kiểm sát khu Hoàn Kiếm khi đó, trả lời với phóng viên báo Thủ-đô rằng: “Dù con gái thằng này (tức nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng) đang là nhạc công của đoàn văn công Quảng-ninh, nhưng nó là “ngụy”, có chuyện ǵ với “bộ đội ta” th́ cũng phải xử theo “tính đảng” – nghĩa là bỏ qua”! Ngay Nguyễn văn Trân, ủy viên ban bí thư mafia đỏ của Hồ và được Hồ chí Minh chỉ định làm “bí thư thứ nhất thành ủy Hà-nội” cũng cặp bồ với cả hai mẹ con nhà tư sản lâu đời ở phố Hàng Bồ (Hà-nội) là P.G.T., nên được giữ nhà cửa mà c̣n được Trân cấp cho giấy “độc quyền nhuộm”. Thậm chí một gánh hàng đầu đường, bán bánh ḿ và “cà-phê bít tất” như của vợ chồng “Lâm lác”, ở vĩa hè phố Hàng Vôi, nhờ gả em gái cho tên thuế vụ mafia đỏ mà chuyển sang căn hộ rộng răi ở Phan Thanh Giản. “Lâm lác” tiếp tục bán bánh ḿ pa-tê v.v… và cà-phê, nhưng rất nổi tiếng v́ là “mạnh thường quân” của nhiều văn nghệ sỹ miền Bắc Việt Nam. Sự trân trọng các tác phẩm và cá nhân các văn nghệ sỹ c̣n hơn rất nhiều và đáng phục rất nhiều so với cái “Hội nhà văn” của Nguyễn đ́nh Thi và cái ban tuyên huấn của “vè sỹ” Tố Hữu!



    Cuộc “cải tạo xă hội” của tập đoàn Hồ chí Minh ở miền Bắc Việt Nam đă cho bọn chúng nhiều thuận lợi để chuẩn bị và tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, v́:



    1- Hồ đă là chủ nhân tuyệt đối cả con người và tài nguyên thiên nhiên miền Bắc; đă biến tổ chức mafia đỏ của hắn thành một giáo đoàn của một thứ “tà giáo cực đoan khát máu” (y hệt tụi Taliban hiện nay vậy);



    2- Hồ đă là “siêu lănh tụ” của tập đoàn mafia đỏ, y hệt Stalin ở Nga-xô trước đó: lời nói của Hồ là kinh điển, là luật, là “chân lư”. Bất kể lănh vực nào trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của xă hội miền Bắc Việt Nam khi ấy đều sưu tập ư kiến của Hồ làm kim chỉ Nam, từ nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công, hợp tác xă, thương nghiệp, văn hóa giáo dục, quân sự, tôn giáo, giao thông vận tải, thủy lợi, sinh đẻ, gia đ́nh, thiếu nhi, ăn mặc, ma chay cưới hỏi, ngoại giao cho đến cả cứu hỏa, biểu diễn văn nghệ v.v… thậm chí cả “làm hố xí hai ngăn”. Chính v́ noi gương đó của Hồ mà Trần hữu Dực, một phó thủ tướng của ngụy quyền Hồ chí Minh luôn luôn t́m dịp phổ biến “sáng kiến” rửa mặt không được vắt khăn mặt, làm thế mau rách; và dùng đồng hồ không cần đeo dây, không cần thiết; hay đi xe đạp không cần “chắn xích, chắn bùn”, lăng phí nhôm để làm việc khác.



    Bọn Hồ có những “lệnh miệng” cực tai quái như không được dùng các “sách kinh điển của chủ nghĩa Mác”, của “lănh tụ” và báo Nhân dân (dù đă cũ) để gói hàng v.v… Nhiều người bị đi cải tạo chỉ v́ bị tố giác là dùng báo Nhân dân gói hàng hoặc “chùi đít”!



    Chuyện như vậy th́ thế hệ con em Việt Nam sau này và quốc tế làm sao t́m ra bằng chứng giấy trắng mực đen, và khi những nhân chứng già chết hết, chỉ c̣n lại bài viết như của Lữ Phương chẳng hạn, hẳn thế hệ sau chúng ta sẽ bị ảnh hưởng để đi đến kết luận “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục”.



    Ngay thời phong kiến cũng c̣n dễ dàng cho nghiên cứu, chứ cái chế độ của ngụy quyền Hồ chí Minh th́ không thể căn cứ vào văn bản, sách vở được, kể cả của ngụy quyền sản xuất lẫn những “cây viết chống đối” kiểu Lữ Phương và nhiều nhân vật tên tuổi khác, như xưa kia là những bác sỹ Nguyễn khắc Viện, Trần bạch Đằng, Trần văn Giàu và Trần quốc Vượng!



    3- Bằng cái gọi là “đấu tranh giai cấp”, phân chia xă hội thành 13 đẳng cấp; bằng việc “vô sản hóa toàn dân”, Hồ đă làm cho toàn xă hội Việt Nam như một đàn chó đói, chúng giết nhau để sống, chúng giết nhau v́ một cục xương thừa Hồ quăng ra; chúng chen lấn phía cửa chuồng chờ Hồ rút then cửa để nhào ra săn đuổi tất cả mọi thứ chúng gặp trên đường, để nếu sống trở về th́ hy vọng được Hồ cho khúc xương, cho “liếm băi nước bọt”, từ đó có thể được ra cái chuồng khác thoải mái hơn tư chút. C̣n như, nếu có chết th́ cũng là một kiểu được giải thoát khỏi cảnh đói khát, tranh giành trong cũi chật hẹp.



    Cả xă hội miền Bắc Việt Nam trong tay Hồ “nhào nặn” trở thành một nhà thương điên vĩ đại. Đi xem phim ảnh, người ta đua nhau ném guốc, ném đá lên màn ảnh khi có nhân vật phản diện xuất hiện. ở sân khấu cũng thế, nhiều diễn viên thủ vai phản diện bị đánh, bị dọa giết. Người ta hoan hô, vỗ tay khi thấy “lănh tụ” hay “cờ búa liềm”. Kẻ nọ theo rơi người kia, ai chậm chạp hay thiếu nhiệt t́nh thế là bị lôi ra đấm đá, bị chụp mũ là “phản động lọt lưới” v.v… Điều này có thể Lữ Phương không được chứng kiến hoặc nghe nói nhưng nếu thấy chưa bị “thuyết phục”, th́ hăy hỏi lại những người như Trần Độ, Hoàng minh Chính, Lê hồng Hà, Trần quốc Vượng v.v… xem có đúng không.



    Trong thanh niên, sinh viên, học sinh, trí thức, binh lính v.v… lại c̣n có cái tṛ “viết nhật kư” nhưng lại cố t́nh để cho mọi người có thể đọc được (nhất là cho các cấp ủy mafia đỏ ở cơ sở) những “tâm sự”, những ước vọng “được chết cho bác Hồ”, “được làm bất kể việc ǵ làm bác vui”. Từ cấp mẫu giáo cho đến lớn; từ nhà trường cho đến nhà máy, nông trường, công trường, các công sở v.v… đều có cái gọi là “bích báo” (báo tường), đua nhau làm thơ ca ngợi “bác Hồ”, gửi quyết tâm thư lên “bác Hồ” xin được chết cho “sự nghiệp của bác Hồ vĩ đại”!



    Đối với thế hệ trẻ, luôn luôn được nhồi sọ: “Cha mẹ sinh ra ta, nhưng “bác và đảng” cho ta cuộc sống, cho ta nên người”, đủ thứ bà rằn loại như vậy.



    Với cái khí thế của các hồn ma trong tay như thế, tên phù thủy Hồ chí Minh công khai cả trong và ngoài nước hành động “bành trướng chiến lược của mafia đỏ” núp dưới chiêu bài ủng hộ và có nghĩa vụ giúp nhân dân miền Nam Việt Nam giải phóng khỏi sự cùm kẹp của “Mỹ-Ngụy”!!!(?)



    Như thế có nghĩa là, bằng “chuyên chính” và “tiến lên CNXH”, Hồ đă thâu gọn toàn bộ tài sản của xă hội Bắc Việt Nam khi ấy, đă dùng “sợi dây đỏ CNXH” cột chặt cái bao tử của toàn dân miền Bắc Việt Nam, cho sống, cho chết, cho điên, cho khóc, cho cười tùy ư, nghĩa là không chỉ làm chủ cái thân xác mà cả linh hồn, sau khi đă thoái hóa tất cả thành trí nô, nông nô, công nô và binh nô.



    Một số phóng viên nước ngoài, xanh cũng có mà đỏ cũng có, thường khen “tinh thần chiến đấu” của quân dân miền Bắc Việt Nam. Họ có biết đâu rằng những con người trông bề ngoài b́nh thường, giản dị, chân chất ấy đều đă bị tập đoàn mafia đỏ mà kẻ cầm đầu là Hồ chí Minh đă dùng phương pháp Paplov để thuần hóa, kích thích cái thú tính bản năng, không c̣n là người, không c̣n “bộ óc b́nh thường” nữa. Tất cả là lũ điên.



    Tào Tháo trong chuyện Tam Quốc của Tàu chỉ làm được cho mỗi ḿnh Bàng Đức thành điên khùng mà quyết tử chiến với Quan Vân Trường. C̣n Hồ và cái tổ chức Việt gian công dân búa liềm của hắn đă sản sinh “hàng triệu tên điên quyết tử” cho sự nghiệp Việt gian của Hồ. óc họ hoàn toàn thành bă đậu, không hề t́m hiểu xem cái “sự nghiệp vĩ đại” của Hồ là ǵ? Có lợi cho ai, hại cho ai? Sai, đúng thế nào? Cho đến tận 2001 này, nhiều người đă thấy được cái “bánh vẽ XHCN”, nuốt không dzô mà vẫn không dám oẹ ra, không dám mở to mắt, cố dùng ít tế bào óc được phục hồi để nh́n nhận ai là thủ phạm sản xuất bánh vẽ. Hơn nửa thế kỷ thực tế máu và nước mắt vẫn c̣n thấy là “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục”. Quả là ngu quá lâu!



    Năm 1958, Hồ bán nước, dâng Hoàng-sa, Trường-sa cho Trung cộng th́ vẫn là “anh hùng giải phóng dân tộc”. C̣n năm 2000-2001 này, lũ Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và Nông đức Mạnh cũng vừa bán đất, biển cho Trung cộng th́ sao lại nh́n ra ngay?!!! Chúng đi theo con đường của “Hồ” đấy!!!



    Chuẩn bị xong xuôi hết, tháng 8-1960, Hồ cho tổ chức cái gọi là đại hội mafia đỏ lần thứ ba. Nghị quyết đại hội của chúng chủ yếu là:

    - nắm vững chuyên chính;

    - xây dựng chủ nghĩa xă hội ở miền Bắc;

    - và thống nhất miền Nam Việt Nam bằng ḥa b́nh. Ngay nội bộ mafia đỏ với nhau chúng cũng giấu cái nghị quyết vũ trang xâm lược, NQ/15 tháng 1-1959, và để đánh lừa quốc tế.



    Nhân sự được Hồ bố trí như sau:

    - Chủ tịch đảng: Hồ chí Minh, kiêm ủy viên chính trị bộ

    - Bí thư thứ nhất: Lê Duẩn, ủy viên chính trị bộ

    Các ủy viên chính trị bộ khác theo thứ tự bậc thang quan lại đỏ:

    - Trường Chinh: chủ tịch quốc hội ngụy quyền Hà-nội

    - Phạm văn Đồng: thủ tướng ngụy quyền Hà-nội

    - Phạm Hùng: phó thủ tướng thứ nhất ngụy quyền Hà-nội

    - Vơ nguyên Giáp: phó thủ tướng, bộ trưởng quốc pḥng ngụy quyền

    - Nguyễn chí Thanh: phó bí thư quân ủy mafia đỏ

    - Lê đức Thọ; trưởng ban tổ chức trung ương mafia đỏ

    - Nguyễn duy Trinh: phó thủ tướng

    - Lê thanh Nghị: phó thủ tướng

    - Hoàng văn Hoan: phó chủ tịch quốc hội ngụy, đại sứ tại Trung cộng

    Và hai dự khuyết bộ chính trị là:

    - Văn tiến Dũng: tổng tham mưu trưởng ngụy quân cộng sản

    - Trấn quốc Hoàn: bộ trưởng công an ngụy quyền Hà-nội.



    Hồ nắm quyền tuyệt đối v́ hắn cùng lúc giữ các chức: chủ tịch đảng, ủy viên chính trị bộ; chủ tịch hội đồng quốc pḥng; chủ tịch nước.



    C̣n Lê Duẩn được thực thụ là “bí thư thứ nhất” (chứ không phải tổng bí thư; phải đến đại hội lần 4, sau khi xâm lược miền Nam xong, Lê Duẩn mới nhận được cái danh xưng “tổng bí thư”) kiêm bí thư quân ủy (Giáp tụt xuống phó bí thư).



    Chưa cho Lê Duẩn cái danh xưng “tổng bí thư” là Hồ chưa muốn cho toàn đảng mafia đỏ của Hồ thấy rằng Lê Duẩn đă ở vị trí lấn át. Hồ cần Duẩn phải cố gắng hơn nữa, chủ yếu là tổ chức vũ trang xâm lược bằng được miền Nam cho Hồ. Chính v́ thế, mà Lê Duẩn “đă liều mạng” vào Nam để chuẩn bị cho gánh cải lương chính trị của luật sư Nguyễn hữu Thọ và chút xíu đi chín suối hoặc dzô nhà tù của cụ Ngô Đ́nh Diệm (tháng 12-1960).



    Tin dưới đây tôi chưa có điều kiện và cũng không thể kiểm chứng được, nhưng vẫn nêu ra để biết đâu sau này có ai đó t́m ra manh mối chăng. Đó là, sau khi được “chính thức hóa cái ngôi bí thư thứ nhất, qua cái gọi là đại hội 3 của mafia đỏ”, Lê Duẩn dựa vào sự bố trí của tụi c̣n nằm vùng ở miền Nam (trung ương cục) và sự đưa tin t́nh báo của nội gián Phạm ngọc Thảo (khi ấy làm tỉnh trưởng của Bến-tre) nên đă về “vùng 4“ để họp. Ai dè quân đội của cụ Ngô Đ́nh Diệm đă bắt được Lê Duẩn cùng một số nhân sự của mafia đỏ nằm vùng ở miền Nam Việt Nam. Nhưng không biết v́ sao ngay sau đó tất cả đều được tha. Thế là Hồ đang buồn, Trường Chinh đang “mở cờ trong bụng” cũng thay đổi ngược luôn. (Một người cực thân của Trường Chinh lộ tin này).



    Tháng 11-1960, Hồ dắt Lê Duẩn đi dự cuộc họp của 81 đảng mafia đỏ và cùng kư vào nghị quyết ủng hộ đường lối của Nga-xô. Cho dù lần này thần tượng của Hồ là Stalin đă bị đổ, và Nga-xô đang muốn “thi đua ḥa b́nh” là đường lối trái với “đường lối khát máu” của Hồ và Trung cộng, nhưng Hồ lúc nào cũng “tuân theo mẫu quốc”, v́ thế nên vẫn kư. Hồ vẫn hy vọng phe Stalin sẽ nắm lại quyền lực ở Nga-xô. Mâu thuẫn giữa “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” đẩy Hồ vào một thế phải ứng xử thật tế nhị. Chính v́ bị ngộ độc bởi những “huyền thoại” do Hồ tự tạo ra xung quanh cuộc đời của hắn nên người ta không dám nh́n vào con người thật của Hồ để lư giải đường đi, nước bước của Hồ giữa hai thế lực “Nga-xô” và “Trung cộng”.



    (Xin mời đọc tiếp bài 10)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 83
    Last Post: 22-04-2012, 09:11 PM
  2. Tàu Vinalines mất tích do rơi vào vùng quân sự?
    By NguờiPhu_KhuânVác in forum Tin Việt Nam
    Replies: 116
    Last Post: 03-01-2012, 11:55 AM
  3. Sự tích T́nh yêu
    By lavivi in forum Thơ Văn Sưu Tầm
    Replies: 0
    Last Post: 16-09-2010, 03:09 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •