Page 1 of 5 12345 LastLast
Results 1 to 10 of 41

Thread: Đảng Việt Tân

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Đảng Việt Tân

    Đảng Việt Tân -
    Tông Bí Thư Lư Thái Hùng

    Lư Thái Hùng
    Wikipedia



    Lư Thái Hùng

    Lư Thái Hùng là tổng bí thư Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng.[1]. Ông sinh năm 1952 tại An Nhơn, tỉnh B́nh Định, tốt nghiệp trung học tại Trường Cường Để Quy Nhơn năm 1971 và đi du học Nhật Bản vào tháng 12 năm 1971.[2]

    Sau một năm học Nhật ngữ tại Tokyo, ông nhập học trường Đại Học Quốc Lập Ehime, ngành kỹ sư công chánh vào tháng 4 năm 1973 và sau đó, tốt nghiệp cao học công chánh tại Viện Đại Học Đô Lập Tokyo vào tháng 4 năm 1979.

    Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc vào tháng 4 năm 1975, ông đă tham gia vào Tổ Chức Người Việt Tự Do thành lập vào tháng 11 năm 1975, quy tụ những sinh viên du học tại Nhật, với mục tiêu là đấu tranh để giải phóng tổ quốc Việt Nam.

    Trong khoảng thời gian này, ông đă cộng tác với một số tổ chức nhân quyền, đảng phái và nghiệp đoàn Nhật để tổ chức các chuyến lưu diễn tŕnh bày về thảm kịch thuyền nhân trên biển Đông. Do kết quả này, vào tháng 2 năm 1980, dưới sự hỗ trợ của Tổng Liên Đoàn Lao Động Đồng Minh (Domei), Đảng Dân Xă (nay đă giải tán gia nhập vào Đảng Dân Chủ), và Đảng Tự Do Dân Chủ, ông đă cùng với giáo sư Mitsuro Muto, tiến sĩ Teruo Tonoaka và ông Akira Yata thuộc Nghiệp Đoàn Domei, thành lập Hội Cứu Trợ Người Tỵ Nạn Đông Dương, sau đổi tên thành Hội Liên Đới Người Tỵ Nạn để cứu giúp những người tỵ nạn từ ba quốc gia Lào, Việt Nam và Cam Bốt, kéo dài cho đến ngày nay.[3].

    Tháng 3 năm 1982, ông tham dự buổi lễ Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam tại một địa điểm trong vùng biên giới Thái Lào, sau đó về lại Nhật, ông đảm trách vai tṛ đại diện Mặt Trận tại đây. Tháng 9 năm 1985, ông được Tổng Vụ Hải Ngoại Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam điều động sang phục vụ tại Hoa Kỳ, đảm nhiệm vai tṛ Vụ Trưởng Vụ Kiều Vận, đến năm 1991 th́ đảm trách Vụ Trưởng Vụ Điều Hành cho đến khi Mặt Trận ngưng hoạt động vào năm 2004.

    Quá tŕnh hoạt động trong Đảng Việt Tân

    Trong quá tŕnh hoạt động trong Mặt Trận, ông Lư Thái Hùng đă gia nhập Viêt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng(gọi tắt là Đảng Việt Tân) và vào tháng 9 năm 1993, ông được tín nhiệm vào trách vụ Phó Bí Thư Đảng Bộ Hải Ngoại. Tháng 9 năm 2001, ông được bầu làm Tổng Bí Thư Đảng Việt Tân trong đại hội đảng kỳ V (2001-2006) và đă được tái tín nhiệm trách vụ này trong đại hội đảng kỳ VI (2006-2011). Trong đại hội đảng kỳ VI ông Đỗ Hoàng Điềm được bầu vào trách vụ Chủ Tịch Đảng.
    Tuyển tập Đông Âu Tại Việt Nam

    Ngoài những sinh hoạt đấu tranh, ông c̣n viết các bài b́nh luận thời sự hàng tuần cho nhiều cơ quan truyền thông Việt ngữ tại hải ngoại. Đặc biệt vào đầu năm 2007, ông Lư Thái Hùng đă cho phát hành tập biên khảo chính trị Đông Âu Tại Việt Nam sau mười năm biên soạn. Tập biên khảo này đă được ra mắt gần 30 thành phố tại Hoa Kỳ (San Jose, Orange County, Houston, Sacramento, Washington DC, Atlanta, Olrando, San Diego, Dallas, Hawaii); Âu Châu (Hamburg, Paris, Munchen, Berlin, Frankfurt, London, Birmingham, Warsaw, Holland), Úc Châu (Cambera, Sydney, Bribane, Melbourne, Adelaide, Perth), Canada (Toronto, Vancouver BC) và Tokyo (Nhật Bản). Đồng thời tập biên khảo sách Đông Âu Tại Việt Nam cũng đă được in lại dưới dạng photo tại Việt Nam.[4].

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LƯ THÁI HÙNG là ai?


    PHẦN I.

    Trong những ngày qua Cộng Đồng Người Việt Bắc California bị xáo trộn, mọi người quy định sự xáo trộn nầy bắt nguồn từ ông Phạm Quốc Hùng, chủ tịch (bị mất tín nhiệm) của cộng đồng chính danh đi đêm với bà Lan Hải, Chủ tịch cộng đồng của Mặt Trận v́ Hoàng Thế Dân, một cán bộ cao cấp của MTQGTNGPVN, Ủy viên Trung ương Đảng Việt Tân( VT), là Phó Chủ tịch (chuyên đặc trách chính trị) cho cộng đồng nầy. Nhưng mọi người lầm! Tất cả những xáo trộn trên chỉ là hiện tượng do một bàn tay lông lá ở đàng trong đạo diễn, đó chính là Lư Thái Hùng, tức Bùi Minh Đoàn, phu quân của bà Trần Diệu Chân, phát ngôn viên của Mặt Trận đă tuyên bố Tổng nổi dậy ḥa b́nh với CSVN
    Tại sao tôi lại dám quả quyết nguyên nhân của mọi xáo trộn là ở ông Lư Thái Hùng, tức Bùi Minh Đoàn? Để hiểu được lư do nầy, quư vị phải biết Lư Thái Hùng là ai?

    Ông Bùi Minh Đoàn suốt hơn một thập niên qua ông đă thay h́nh đổi dạng để biến thành một con người khác, với danh xưng là Lư Thái Hùng. Ông mặc nhiên chối bỏ ḍng họ tổ tiên của đấng sinh thành ông, một ḍng họ đă được gầy dựng, vun đắp qua mấy đời ở An Nhơn, B́nh Định, để rối đến đời ông, ông đă tự ư khai tử ḍng họ ḿnh để phục vụ cho mục đích đen tối và những âm mưu thâm độc sau nầy của ông.
    Đúng ra việc ông gian ngoan thay đổi họ tên đă được tôi bạch hóa từ lâu, nhưng tôi kiên tŕ xem ông và phu nhân sẽ tung ra những quái chiêu như thế nào theo chỉ thị mật của các tên trùm CSVN, để đánh phá cộng đồng Việt Nam tị nạn của chúng tôi.
    V́ để phục vụ cho những âm mưu đen tối, thâm độc về sau nầy nên công việc ông thay tên đổi họ đă được tuần tự tiến hành từ ban đầu rất là hợp t́nh hợp lư, không gây ra một sự nghi ngờ nào trong ḍng họ và bạn bè. Hơn nữa, bây giờ ông đang mặc lốt Quốc gia chân chính chuyên đăng tải những bài b́nh luận chống cộng th́ làm sao ai mà biết mặt thật của ông. Nhưng tôi biết ông qua nhiều, và cách hành văn của tôi, ông cũng biết tôi là ai rồi, liên hệ gia tộc của tôi với ông như thế nào! v́ quyền lợi của Tổ Quốc, tôi đành nói lên một sư thật phủ phành, đó là ông đang làm nhiệm vụ của một t́nh báo Vũ Ngọc Nhạ cho đảng CSVN ở hải ngoại. Mà phải nói ông đóng vai nầy rất chuẩn, giỏi, rất siêu việt nên ông mới giật dây được Hoàng Thế Dân, Hồ Quang Nhật, Nguyễn Sơn, Lan Hải để bơm Phạm Quốc Hùng lên tới tầng mây xanh lọt bẫy để ŕu làm tan nát cộng đồng.
    Lư Thái Hùng tức Bùi Minh Đoàn, sinh quán ở Bá Canh, An Nhơn, B́nh Định. Ông có người chú ruột tên là Bùi Nhu (Ở đây tại sao tôi đề cập tới thân phụ của ông? v́ khi ông được sinh ra, và lớn lên, ông cũng như bà con hàng xóm cũng không được nh́n thấy thân phụ nữa. Đây là t́nh trạng ở miền quê thuộc Liên Khu 5 (Nam, Ngăi, B́nh, Phú) của CS trong vùng xôi đậu, thường không có mặt người đàn ông trong gia đ́nh. Hiện giờ tôi đang điều tra xem bố ruột của ông thay tên đổi họ, làm chức vụ ǵ trong đảng CSVN. Ông có người anh ruột là Bùi Minh Cường trước năm 1975 làm lính kiểng tại Ty ANQĐ Qui Nhơn với mục đích trốn lính và thu thập tin tức cho cộng sản.

    Lư Thái Hùng, tức Bùi Minh Đoàn, hồi nhỏ học ở trường làng, đến năm 1971-1972, đi thi Tú tài I th́ bị đánh rớt . Sau đợt bị đánh rớt này, ông chạy chọt đút lót để đổi lư lịch lấy tên là Lư Thái Hùng. Tại sao ông phải lấy tên là Lư Thái Hùng? V́ người cha vô bưng của ông đă nhận chỉ thị của đảng CSVN phải giúp ông mập mờ đánh lận con đen giống y như ba anh em họ Phan mà lại có tên Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ và Đinh Đức Thiện vậy. ông được cung cấp một giấy khai sinh mới, một hồ sơ lư lịch mới nên ông không phải đi lính, và ông len lỏi vào học được tại trường Trung học Cường Để, Qui Nhơn. Trong thời gian đi học, ông sinh sống với thân nhân và gia đ́nh tại tiệm may quần áo hiệu Mỹ Long, đường Vơ Tánh.
    Sau khi học hết lớp Đệ Nhất tại trường nầy. Lư Thái Hùng đă thi đổ Tú tài II, xong vào Sài G̣n học. Sau đó một thế lực rất mạnh đă vận động để đưa Lư Thái Hùng đi du học Nhật Bản. Ông xuất thân một con nhà nghèo ở Qui Nhơn, vào Sài G̣n, không người thân thiết mà lại được đi học Nhật Bản vào năm 1974 một cách dễ dàng nếu không có đảng CSVN giúp đỡ cho ông? Tôi nói cho ông biết luôn, cũng chính Vũ Ngọc Nhạ và t́nh báo CSVN nằm trong chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đă sắp xếp đưa ông ra hải ngoại để chuẩn bị cho một kế hoạch cài người lâu dài của họ.
    Sau năm 1975, MTHCM được thành lập, ông đă được chỉ thị từ bên Nhật Bản t́m cách di cư sang Mỹ, ông tham gia MTHCM, trở thành một cán bộ trẻ, ăn nói chửng chạc, hấp dẫn, làm mhiều người si mê.
    Trong lúc đó, Trần Diệu Chân, một du học sinh của Đông Âu cũng được sắp xếp để di dân sang Hoa Kỳ. Ông và bà Trần Diệu Chân gặp nhau, theo lệnh của ai đó, hai người trở thành vợ chống. Trần Diệu Chân tham gia MTHCM, trở thành phát ngôn viên của MT giống y như Phan Thúy Thanh của đảng CSVN.
    Lư Thái Hùng đi sát liền với Hoàng Cơ Định, biết Định chỉ là một công tử ăn chơi, nên Lư Thái Hùng đă cài sinh tử phù ở Hoàng Cơ Định y như đảng CS Trung Quốc gài cô Trương Mỹ Vân cho Lê Khả Phiêu để tên nầy phải can tâm cắt đất dâng biển cho Trung Cộng. Bởi thế Lư Thái Hùng đă giật dây Hoàng Cơ Định, làm cho Định không dám cựa quậy chút nào hết. Chứa hết, trong lúc đó Đảng CSVN lại gài những nhân vật như Đồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa, cháu ruột của Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và nhiều nhân vật khác tiếp tục xâm nhập Mặt Trận.
    Nguyễn Xuân Nghĩa, Lư Thái Hùng và những nhân vật phản gián của CSVN nằm ngay ở trong đầu năo của MT nên đă vạch ra các sách lược đội lốt quốc gia sát hại người Quốc gia. Thế là chiến dịch Đồng Tiến I, II, III đă diễn ra. Hoàng cơ định do bị cấy sinh tử phù, đành phải bán đứng anh ruột ḿnh là Hoàng Cơ Minh nên trong chiến dịch Đồng tiến II năm 1987, ông Hoàng Cơ Minh đă bị CSVN vây bắt và tự sát tại Lào. Dẫu đă biết sự thật ông HCM đă chết vào năm 1987, Nguyễn Xuân Nghĩa và Lư Thái Hùng vẫn tiếp tục đẩy mạnh chiến dịch Đông tiên III vào năm 1990, đưa một số người quốc gia vào tṛng cho CSVN hốt trọn ổ. Tàn nhẫn thật! Trong lúc đó th́ mấy ông cứ ra tờ Kháng Chiến tuyên bố là Chủ tịch HCM c̣n sống ở trong nước, lănh đạo đánh thắng hết trận nầy tới trận khác, chiếm quận nầy, quận nọ ..Dầân dần người ta khám phá ra sự thật, thế là niềm tin vào đấu tranh của người quốc gia bị tan vỡ do sự lường gạt có kế hoạch chỉ đạo nầy của các ông.
    Phan Nam, Hoàng Thế Dân, và một số cán bộ MT lúc đầu có một chút ḷng cho quê hương nhưng ở gần Lư Thái Hùng đă bị cấy sinh tử phù, thế là phải làm theo chỉ thị của Lư Thái Hùng hết.
    Năm 1991, FBI đưa MT ra ṭa tố 39 tội h́nh sự. Nguyễn Xuân Nghĩa phải đóng vai bề ngoài là bỏ MT nhưng bên trong lại chỉ đạo phải thành lập xong đảng Việt Tân, thi hành các chính sách do cụm t́nh báo đảng CSVN chỉ đạo. Lư Thái Hùng ở lại, trở thành lư thuyết gia chính thức cho MT và Trần Diệu Chân trở thành phát ngôn viên của MT.
    Lư Thái Hùng được t́nh báo CSVN cung cấp nhiều dữ kiện để viết các bài b́nh luận chính trị. . .Trong các bài b́nh luận, Lư Thái Hùng được phép chũi đảng CSVN, nhưng chũi để cứu nguy đảng bằng cách lèo lái, hướng dẫn dư luận tổng nổi dậy ḥa b́nh !
    Năm 1990. Ls Hoàng Duy Hùng tố cáo MT, thách thức toàn thể đầu năo của MT, đặc biệt là hai vợ chồng Lư Thái Hùng và Trần Diệu Chân ra mặt công khai đối chất. Vợ chồng LTH chạy làng v́ LTH biết biết rơ cái anh chàng Ls trẻ kia đă được cá nhân tôi cùng nhiều nhân vật khác, cũng có thể cả t́nh báo Hoa Kỳ cung cấp lư lịch của hai vợ chồng nầy. Riêng tôi, tôi đă gửi cho Ls Hùng và đài Quêâ Hương 7 trang lư lịch về vợ chồng LTH, không hiểu sao LS Hùng và đài Quê Hương lại lặng thinh, không đưa hồ sơ nầy ra công luận. Có lẽ họ chỉ muốn vạch trần chính sách theo CS của MT chớ không muốn đánh cá nhân, hoặc lúc đó họ không đủ tin nơi sự hiểu biết của tôi, không kiểm chứng được nên làm thinh?
    Để trả thù Ls Hùng, Lư Thái Hùng và Trần Diệu Chân buộc Nguyễn Kim, Hoàng Cơ Định, Trần Xuân Ninh họp khẩn, quyết định cho đánh lén, đánh dai, thư rơi, thư rớt hạ bệ Ls Hùng cho bằng được mới thôi. Giai đoạn nầy th́ Trần Diệu Chân lộ chân tướng khi tuyên bố 10 ngàn quân biên thùy (ma) của Mặt Trận chỉ là để giữ an ninh (giữ an ninh cho VC) chớ MT không chủ trương lật đổ Cộng sản bằng vũ lực, chỉ có tổng nổi dậy ḥa b́nh tức là yêu cầu bà con ḥa hợp và ḥa giải với cộng sản, gởi tiền giúp cho CS sớm mạnh để có ḥa b́nh.
    Cái đau của vợ chồng Lư Thái Hùng là thời gian đó cô Đoan Trang, ông Khôi Nguyên và đài phát thanh Quê Hương hỗ trợ tối đa cho Ls Hùng phanh phui sự thật về Mặt Trận. Do đó LTH và TDC thù dai dẳng t́m cách đánh gục đài Quê Hương mà thôi, cái ǵ cũng đổ tội cho đài Quê Hương hết. Thí dụ, trong kỳ họp báo 25-5-2002 của phe ông Phạm Quốc Hùng, kư giả Cao Sơn của tờ Tin Việt, người được Lư Thái Hùng và MT trả tiền hàng tháng, cứ đặt câu hỏi xoay quanh ông Phạm Quốc Hùng để moi ông nầy khai ra rằng đài Quê Hương là thủ phạm đàng sau chống sự đoàn kết giữa cộng đồng ông Phạm Quốc Hùng và cộng đồng bà Lan Hải. Tội nghiệp, chả có đài Quê Hương nào mà làm chuyện đó đâu, chính những người thầm lặng sáng suốt đă vạch trần âm mưu của MT nên quyết tử không cho ông Phạm Quốc Hùng đoàn kết với nội thù Việt gian đó thôi!.
    Ông Bùi Minh Đoàn tức Lư Thái Hùng ạ, lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt nên dầu Ls Hùng c̣n non kinh nghiệm, nhưng khi Ls Hùng lên tiếng, đồng bào thấy ông ấy nói đúng, th́ MT bị lột mặt nạ không c̣n cựa quậy ǵ nữa. Thế là đảng CSVN chỉ thị một đ̣n phép mới. Quư ông giả vờ lặng xuống xin đi làm phó cho mọi người, mọi tổ chức, bơm cho những kẻ háo danh, tham tiền lên làm chủ tịch nầy nọ. . rồi mấy ông múa may đàng sau hết.
    Tiếc cho Ls Hùng, vào năm 2001, dại dột lại chơi chiêu quân tử Tàu, chọi thêm một tổ chức t́nh báo khác của CSVN là cái chú phỉnh Nguyễn Hữu Chánh. Đảng CSVN lập tức ra lệnh cho cán bộ như Trần Thị Kim Anh, tức Việt Nữ, trước đây khi c̣n học trung học Bến Tre đă tham gia Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, lấy tên là Trịnh Thị Tư, làm giao liên chuyển tải truyền đơn trong các lớp học ca ngợi Hồ Chí Minh và đảng CSVN, phải xáp vào lập tức để giúp giải vây cho Chánh. Thêm vào đó, Hà Thế Ruyệt, một người từng là giao liên cho MTGPMN, năm 1962 đă bị chính phủ Ngô Đ́nh Diệm bắt giam về tội hoạt động đưa tin tức cho Cộng sản đi kềm với Nguyễn Hữu Chánh. Chưa hết, chúng c̣n gài những tên cán bộ cộng sản mới là Nguyễn Huy, Trương Ngọc Thu và Hoàng Đ́nh Từ gom lại thành một chi bộ t́nh báo, nhóm họp liên miên.
    Tiền th́ do Hoàng Việt Cương, tức Hà Mạc Điệp, t́nh báo CSVN theo phe Trung Cộng ở Toronto, Canada cung cấp qua tay Hoàng Đ́nh Từ ở Los Angeles là người nuôi con của Mai Chí Thọ, tức Phan Đ́nh Đống (Bộ trưởng Nội Vụ CSVN vào những năm trước khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, và là em ruột của Lê Đức Thọ) từ năm 1991. Cũng xin nhắc lại , chính Hoàng Việt Cương qua các tay t́nh báo ở Hong Kong và Sài g̣n Chợ Lớn đă lập mấy kế hoạch Đông Xuân để hốt trọn những người Việt Quốc Gia vào năm 1993.
    Tin mới sốt dẻo, chính t́nh báo Trung Cộng đưa cho Hoàng Việt Cương 10 triệu đô la giao cho Nguyễn Hữu Chánh lập cái Hội Nghị Liên Minh Dân Tộc cầm chân mấy người Quốc gia yêu nước mà nông cạn về chính trị. Quư vị phải biết là nhân vật chính. Nguyễn Hữu Chánh chỉ là phụ. Hoàng Việt Cương trước đây đă lập Liên Đảng, nay Nguyễn Hữu Chánh cũng một sách lại lập Liên Đảng. Hoàng Việt Cương bị Hoa Kỳ cấm không cho vào Mỹ v́ y là t́nh báo của Trung Cộng, nên Hoàng Việt Cương mới phải liên lạc chuyển tiền cho Hoàng Đ́nh Từ.
    Lại c̣n sự ô dù của ông sư Cộng sản Thích Giác Lượng đứng chủ tŕ. Ông sư nầy sau năm 1975 từng là Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh Nghĩa B́nh của CSVN, được CSVN sắp xếp cho vượt biên như Nguyễn Hửu Chánh để ra hải ngoại làm công tác tôn giáo vận giúp cho Nguyễn Hữu Chánh! Chính ông sư nầy mới đây vừa mới bảo lănh sư bà và mấy đưa con qua San José (trong một bữa tiệc bị cụ Nguyễn Mạnh Hùng vạch mặt nói rơ chuyện nầy nên sư ê mặt lầm lũi bỏ đi) nên nhiều người bị lầm, và v́ vậy cái ông Ls Hoàng Duy Hùng ngó ngẩn, một ḿnh đối đầu với hai đối thủ t́nh báo lớn, nên Lư Thái Hùng mới rảnh tay làm một công việc khác.
    Dưới sự chỉ đạo của t́nh báo hải ngoại qua Hồ Quang Nhật, Lư Thái Hùng móc nối Chu Tấn, tên thiệt là Trần Đ́nh Huỳnh, một nhân vật không có công ăn việc làm, đang được chính phủ Hoa Kỳ cấp tiền hàng tháng v́ bệnh tâm thần (mà đúng là bệnh tâm thần thiệt v́ Chu Tấn cứ tưởng nay mai sẽ về VN làm Thủ tướng thay cho Phan Văn Khải, có lần là đại diện Chú Phỉnh ở Bắc California, đi loan tin nầy khắp nơi trong các bữa tiệc, đă làm cả Bắc California cười gần chết. Không tin quư vị cứ gỏi ông Tiêu Phi Hùng, một cán bộ cao cấp của Chú Phỉnh ở Bắc California th́ sẽ rơ. Nói đến cái ông Tiêu Phi Hùng nầy là một người Tàu chính cống th́ làm sao Chú Phỉnh có thể tin được để mà tổ chức Đại Hội Liên Minh Dân Tộc chống sự bành trướng cướp đất cướp biên của Trung cộng đối với Việt Nam. Rơ ràng chỉ là tṛ hoa mắt thiên hạ thôi, tổ chức một Ban Bầu cử để thành lập một cộng đồng thứ hai ở Bắc California. quư vị thấy rơ ràng, Mặt Trận và Chú Phỉnh xáp lại với nhau để triệt hạ tuyến đầu chống cộng ở Bắc California.

    PHẦN II:

    Cộng đồng Bắc California bể ra làm hai do sự chỉ đạo của t́nh báo CSVN mà việc ráp nối la do Lư Thái Hùng, Hồ Quang Nhật, Hoàng Thế Dân, Nguyễn Sơn, Chu Tấn, Thích Giác Lượng v.v. Bà Lan Hải có chồng là Nguyễn Sơn mà Nguyễn Sơn là đoàn viên bí mật của MT; bà Lan Hải chỉ là con cờ bù nh́n, lấy cớ là Chủ tịch để đi làm kinh doanh mà thôi.
    Bà Lan Hải cũng như bà Chủ tịch Kim ở Houston, bề ngoài nói là người không đảng phái, đi bán bảo hiểm nhưng thực chất chồng của bà Kim là đoàn viên bí mật của MT. Bà Lan Hải cũng như bà Kim vào cộng đồng là để đi kiếm khách, và MT tạo cho họ cái danh để đi vào cộng đồng mà lấy khách, c̣n chuyện chính trị là do MT quyết định ở đàng sau. Tại Bắc California, các quyết định chính trị là do Hoàng Thế Dân, Phan Nam, mà Hoàng Thế Dân và Phan Nam cũng chỉ thi hành lệnh của Lư Thái Hùng vạch ra.
    Chính sách của Lư Thái Hùng là các đoàn viên MT phải giả vờ biết hối lỗi, công khai nhận cái chết của Hoàng Cơ Minh, đi xin lỗi các báo chí, mua chuộc bơm những kẻ háo danh, cấy sinh tử phù và MT chỉ xin làm Phó , nhưng MT có tiền, có nhân sự , có kế hoạch , có sự hỗ trợ tích cực dồi dào của đảng CSVN nên mấy tay háo danh làm chủ tịch dần dần đều bị chúng khống chế hết. Nay phe Chú Phỉnh cũng đi theo chính sách nầy và chính Nguyễn Hữu Chánh đă lên trên các đài phát thanh công khai xin lỗi mọi người. Khổ nhục kế đó quư vị, giống y như Hồ Chí Minh khai tử đảng Cộng sản vào thập niên 1940 vậy.
    Một chính sách khác là họ bỏ tiền ra làm truyền thông, mua chuộc truyền thông, lập ra các diễn đàn mạng lưới loan tin một chiều có lợi cho họ. Những ai chống đối họ, trên báo chí, trên mạng lưới, trên truyền thông th́ họ âm ỉ rỉ rả ngày đêm triệt hạ!!!
    V́ chính sách nầy, nên ông Phạm Quốc Hùng, Chủ tịch cộng đồng chính danh và ông Vũ Thành Trưởng, Chủ tịch Ủy Ban Bảo Vệ Chính Nghĩa phe chính danh đă bị chúng gài bẫy, bơm lên tầng mây xanh. Chúng cho người họp mật với mấy ổng, nói rằng đoàn kết y chang kiểu đoàn kết của Hồ Chí Minh để chấm Trung Quốc xâm lăng lănh hải, lănh thổ VN. Chúng nói chúng sẽ dùng truyền thông bơm tinh thần đấu tranh đoàn kết của mấy ông ấy lên khắp thế giới, chắc chắn mọi người sẽ hưởng ứng, v́ chúng có nhiều tiền và rất nhiều cơ quan truyền thông ở khắp nơi cũng như ngay ở trên các diễn đàn mạng lưới toàn cầu.
    Trong khi đó, Lư Thái Hùng viết những bài tham luận chính trị rất ghê gớm (ai viết?), nhưng sẵn sàng cọng tác với CSVN để đánh Trung Cộng th́ đủ rơ họ gọi đoàn kết là đoàn kết với CSVN. Đáng lẽ việc CSVN cắt đất, dâng biển cho Trung Cộng là một cơ hội cho chúng ta phải tập trung sức để triệt hạ CSVN, nhưng Lư Thái Hùng đă khéo léo lèo lái là đoàn kết (với CSVN) để đánh đuổi Trung Cộng mà thôi.
    Phạm Quốc Hùng và Vũ Huynh Trưởng bị thổi lên, nói rằng Bắc California là tuyến đầu chống Cộng, nếu đoàn kết được th́ hai ông sẽ trở thành lănh tụ trong sử sách và có thể trở thành lănh đạo của VN trong tương lai. Bà Lan Hải và Hoàng Thế Dân heo mưu sách của Lư Thái Hùng nói với Phạm Quốc Hùng và Vũ Huynh Trưởng, họ sẵn sàng giải tán cộng đồng cũ họ nhưng với điều kiện là Hoàng Thế Dân về làm Phó cho Phạm Quốc Hùng.
    Như tôi nói cái phó nầy mới nguy hiểm, v́ MT được sự chỉ đạo của t́nh báo CSVN, chi tiền bạc, sắp đặt kế hoạch, nên chắc chắn các ông bà chủ tịch phải dần dần làm theo ư của họ. Nhận rơ điều nầy nên các thành viên trong Ban Đại Diện Cộng Đồng, Ban Giám Sát các đoàn thể Quốc Gia chân chính lập tức phản đối và bất tín nhiệm chủ tịch của ông Phạm Quốc Hùng, c̣n chức đại biểu của ông ấy do dân bầu, ông Phạm Quốc Hùng vẫn được giữ nguyên.
    Nhưng cũng để nắm tẩy ông Phạm Quốc Hùng và ông Vũ Huynh Trưởng, Lư Thái Hùng đă sắp xếp cho người bí mật chụp h́nh cuộc họp mật nầy, thẩy tài liệu và h́nh ảnh cho cho tờ Cali để tờ nầy đăng tải, một là buộc ông Phạm Quốc Hùng và Vũ Huynh Trưởng phải theo ư họ, hai là phá tan nát cộng đồng. Quư vị cứ thử nghĩ đi, cuộc họp mật, bên ông Phạm Quốc Hùng và ông Vũ Huynh Trưởng không có chụp h́nh th́ phe nào chụp h́nh đây? Ông Phạm Quốc Hùng và ông Vũ Huynh Trưởng bây giờ biết rơ sự thật, đau đớn lắm, ngậm đắng nuốt cay nhưng lỡ phóng lao, phải theo lao, phải theo chỉ thị của Hoàng Thế Dân do Lư Thái Hùng đứng đàng sau giật dây mà thôi.
    Trường hợp ông Phạm Quốc Hùng và Vũ Huynh Trưởng giống như trường hợp ông Trần Văn Loan trước đây làm chủ tịch Ủy Ban Bảo Vệ Chính Nghĩa Quốc Gia ở Bắc California vậy. Đó, nguyên nhân sâu xa vẫn là cái mưu lược của Lư Thái Hùng. Nhưng chưa hết, Lư Thái Hùng cũng có tham vọng, lỡ sau nầy biết đâu được chó ngáp phải ruồi CSVN th́ ông ấy trở thành chính khách Quốc Gia nên ông ấy chơi hai mặt, viết bài tham luận, đưa cho kư giả Cao Sơn tờ Tin Việt đăng mà mỗi lần đăng th́ Lư Thái Hùng trả cho tờ Tin Việt 500 đô la. Thế là Cao Sơn chuyên làm khuyển mă cho Lư Thái Hùng.
    Ở Bắc California, Mặt Trận, tức VT và Chú Phỉnh xáp lại nhau thành một. Nhưng ở Nam California, t́nh báo CSVN qua sự kế hoạch của Lư Thái Hùng, đánh bài hai lá, giả vờ làm y như MT đă có một cộng đồng rồi phải để cho Chú Phỉnh ḷng người vào cộng đồng bên kia, thế là họ ngồi ch́nh ́nh chiếm hết luôn hai mâm, khống chế toàn thể cộng đồng. Để cho chắc ăn, MT cử Ls Hoàng Cơ Thụy ở bên Pháp, anh ruột Hoàng Cơ Minh, nhân vật từng ỏ trong vụ đảo chánh trong thập niên 1960, xuất đầu lộ diện làm cố vấn cho Chú Phỉnh Nguyễn Hữu Chánh . Như thế họ là hai mà là một đó thôi.
    Bên MT th́ đoàn kết kể cả đoàn kết với CSVN để chống sự xâm lăng của Trung Cộng. C̣n bên Chú Phỉnh có nhiệm vụ lập ra Hội Nghị Liên Minh Dân Tộc quyết tâm lật đổ chế độ CSVN mà chẳng có kết hoạch ǵ hết, la lối om ṣm, đưa ra ṭa án quốc tế mà chẳng hiểu ǵ luật pháp cả. Mục đích rơ ràng là cầm chân những người yêu nước chân chính không làm ǵ được nữa hết. Ghê gớm thay cho âm mưu đánh bài hai mặt nầy của t́nh báo CSVN mà Lư Thái Hùng đóng vai tṛ rất quan trọng ở hải ngoại nầy. LưThái Hùng đúng là một Agitatsya Propaganda (gọi tắt là Agit Prop) siêu việt của CSVN đă được cày cấy và huấn luyện trước năm 1975, bây giờ lần lần lộ diện vậy.
    Nguyễn Xuân Nghĩa ra tờ Việt Tide, Little Sai Gon được Nguyễn Xuân Nghĩa làm đầu năo về kinh tế và chính trị. . .Little Sai G̣n bị MT mua hơn 50% cổ phần, rồi Little Sài G̣n c̣n kư họp đồng với tờ báo Người Việt, tất cả hỗ trợ cho các tay t́nh báo như ca ngợi Trịnh Công Sơn, đăng bài Lư Thái Hùng, th́ quư vị phải hiểu đảng CSVN đang đánh bóng con bài Lư Thái Hùng và Trần Diệu Chân tôi đa để chuẩn bị cho một kế hoạch tổng tuyển cử mà tất cả cũng chỉ là người của họ mà thôi!Ai không biết Lư Thái Hùng tức là Binh Minh Đoàn, chớ tôi cùng gốc cùng ḍng, cùng nơi quê, rành rẽ ông và chiến thuật, chiến lược của t́nh báo CSVN lắm . . .!
    Trở lại câu chuyện xáo trộn ở Bắc California, xin quư vị phải biết đâu là gốc, đâu là ngọn. Ngọn cây do ông Phạm Quốc Hùng và Vũ Huynh Trưởng, bị ăn bă mía của Mặt Trận, tưởng sẽ tạo thành tích đoàn kết lẫy lừng để đi vào sử xanh; thân cây là những người như Lan Hải, Nguyễn Sơn, Chu Tấn, Hoàng Thế Dân, Phan Nam; nhưng cái gốc của cây chính là Nguyễn Xuân Nghĩa, Lư Thái Hùng và Trần Diệu Chân. Chính những nhân vật vạch ra sách lược và những người kia là kẻ thừa hành mà thôi. Nam Mô A Di đà Phật! Chỉ v́ cái háo danh của mấy ông Phạm Quốc Hùng và Vũ Huynh Trưởng nên mấy ông lọt bẫy, giống y chang mấy ông Ngô Trọng Anh, Linh mục Phan Phát Hườn, Muc sư Nguyễn Phú Cam của Chú Phỉnh vậy.
    Viết đến đây, chắc Lư Thái Hùng tức Bùi Minh Đoàn biết tôi là ai rồi chớ? Ông xuất thân cùng quê với Nguyễn Hữu Chánh mà bí số của Nguyễn Hữu Chánh là A27, mấy ông ráp lại với nhau tài t́nh, tưởng không ai biết, nhưng Hồn Thiêng Sông Núi c̣n, tôi khuyên mấy ông đừng quá tàn ác, kẻo chính tổ tiên của mấy ông, nhất là tổ tiên họ Bùi sẽ ngồi dậy rủa phạt Lư Thái Hùng chết bất đắc kỳ tử đó nhé. Thôi, buông dao đồ tể xuống sẽ thành Phật.

    Ai mà không muốn đoàn kết để đại cuộc sớm thành công nhưng mà đoàn kết với đám Việt gian, đám nội thù chỉ chức sơ hở cơ hội là xơi tái mấy ông ngay th́ mấy ông đi đoàn kết làm ǵ?
    Hăy noi gương ông Hoàng Cơ Minh, chúng sẵn sàng làm thịt xong rồi mà vẫn cho sống 14 năm, sau bí quá phải công bố đă hy sinh , mà không dám nói ở đâu, ngày giờ nào th́ mấy ông phải hiểu bản chất thật của những người mà mấy ông đoàn kết. Đoàn kết kiểu đó, người ta gọi là đồng sàng dị mộng và chết bất cứ lúc nào không biết lúc nào mấy ông ơi.

    Bùi Minh Tuấn.
    http://kbchn.net/news/Tin-nguoi-Viet...ng-la-ai-5356/

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    “T́m Hiểu và Thảo Luận Về Đấu Tranh Bất Bạo Động”
    Kỳ I: Tại sao đấu tranh bất bạo động cần thiết cho dân chủ hóa VN?

    Lư Thái Hùng - Nguyễn Ngọc Bảo

    Bài 1: Đấu Tranh Bất Bạo Động Là Ǵ? Tại Sao Đấu Tranh Bất Bạo Động Cần Thiết Cho Công Cuộc Dân Chủ Hóa Việt Nam Hiện Nay?

    Diễn Giả:
    Ông Lư Thái Hùng (Tổng Bí Thư Đảng Việt Tân)
    Ông Nguyễn Ngọc Bảo (Ủy viên Trung Ương Đảng Việt Tân)

    Kính chào toàn thể quư vị,

    Trong bài tŕnh bày mở đầu cho “Diễn Đàn T́m Hiểu và Thảo Luận về Đấu Tranh Bất Bạo Động” ngày hôm nay, chúng tôi xin chia làm hai phần.

    Phần một, đề cập những nét tổng quát về đấu tranh bất bạo động để chúng ta có cùng một cái nh́n giống nhau về phương pháp đấu tranh này trước khi đi sâu vào những đặc tính và các nguyên tắc căn bản. Phần này do tôi (Lư Thái Hùng) tŕnh bày.

    Phần 2, đề cập về lư do tại sao phương thức đấu tranh bất bạo động rất cần thiết cho công cuộc đấu tranh hiện nay tại Việt Nam để chấm dứt ách độc tài cộng sản giành lại tự do dân chủ cho Việt Nam. Phần này sẽ do Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bảo tŕnh bày.

    Kính thưa quư vị,

    Trước hết, đấu tranh bất bạo động là một phương pháp đấu tranh bằng mọi phương tiện — ngoại trừ súng ống và những hành động mang tính giết người, bạo loạn — để đạt một mục tiêu nào đó. Nó không phải là một chủ thuyết chính trị như chủ nghĩa Mác Lê-nin mà cũng không phải là một chủ thuyết kinh tế.

    Ngoài ra, đấu tranh bất bạo động không phải là phương pháp dựa trên những lư thuyết hay suy nghiệm của một cá nhân mà là một tổng hợp kinh nghiệm đấu tranh của nhiều dân tộc ở các nơi, qua nhiều thời kỳ. Do đó, việc sử dụng phương pháp đấu tranh này tuỳ thuộc vào những người áp dụng nó. Có nơi dùng để đấu tranh giành độc lập. Có nơi dùng để xóa bỏ kỳ thị chủng tộc. Có nơi dùng để đ̣i hỏi chính quyền tôn trọng các quyền tự do dân chủ.

    Ngày nay, khi nói đến đấu tranh bất bạo động người ta thường liên tưởng đến những cuộc đấu tranh như cuộc chiến giành độc lập cho Ấn Độ do Thánh Gandhi lănh đạo vào thập niên 40 của thế kỷ 20. Cuộc đấu tranh dân quyền tại Hoa Kỳ do Mục sư Martin Luther King lănh đạo vào thập niên 60 của thế kỷ 20. Phong trào dân chủ tại Ba Lan do ông Lech Walesa lănh đạo vào thập niên 80 của thế kỷ 20. v.v...

    Từ sau khi Phong trào dân chủ tại Ba Lan thành công đưa đến sự tan ră hàng loạt các chế độ độc tài cộng sản tại Đông Âu và tại Liên Bang Xô Viết vào thập niên 80 và 90 của thế kỷ 20, những cuộc Cách mạng Màu bùng nổ đưa đến sự tan ră hàng loạt các chế độ tài tại Cộng Ḥa Serb (2000), Cộng ḥa Georgia (2003), Cộng Ḥa Ukraine (2004) và Cộng Ḥa Kyrzystan (2005) vào đầu thế kỷ 21, cho người ta thấy rằng sức phản kháng đông đảo của quần chúng, không bằng vũ lực mà bằng những thái độ bất hợp tác và bất tuân phục một cách tiệm tiến, sẽ đẩy chế độ độc tài đến lằn ranh sụp đổ. Nghĩa là thay v́ dùng súng đạn, dao búa – vô t́nh tạo lư cớ cho kẻ độc tài đàn áp, người dân sẽ dùng các h́nh thức biểu t́nh, đ́nh công, lăng công, băi thị, cầu nguyện tập thể, vận động chữ kư, tẩy chay,... để tạo áp lực và nhất là gây ra t́nh trạng tiến thoái lưỡng nan cho chính chế độ độc tài trong cách đối phó.

    Khi số đông quần chúng quyết tâm đối đầu công khai ôn ḥa để chấm dứt ách độc tài và sẵn sàng chịu đựng những cảnh đàn áp trong thời kỳ đầu, th́ trong lâu dài, sức mạnh của chính quyền - kể cả bộ máy bạo lực bảo vệ nó – không thể nào tiếp tục duy tŕ guồng máy độc tài mà ḷng dân đang chán ghét, ngay cả khi nó được sự trợ giúp hay bảo hộ của ngoại bang. Từ đó người ta đă kết luận rằng: không ai đẩy nổi một dân tộc phản kháng lùi trở lại t́nh trạng vâng lời và tuân phục vĩnh viễn một chế độc tài, khi số đông bắt đầu bày tỏ thái độ phản kháng. Vậy mục tiêu của đấu tranh bất bạo động là?

    Thứ nhất, từng bước làm soi ṃn quyền lực thống trị của chế độc tài và gia tăng quyền lực về phía quần chúng.

    Thứ hai, xây dựng một xă hội dân sự để ngăn chận sự trở lại của bất cứ chế độ độc tài nào sau đó.

    Tóm lại: Mục tiêu của đấu tranh bất bạo động là nhằm xóa bỏ độc tài và thiết lập dân chủ bền vững bằng cách từng bước chuyển cán cân quyền lực từ tay chế độ sang tay dân chúng.

    Ví dụ: phê phán những chính sách đàn áp tôn giáo hay chống đối những đạo luật ngăn cấm các hoạt động truyền giáo là chưa đủ, mà c̣n phải tiến đến những nỗ lực đ̣i hỏi các chế độ độc tài phải tôn trọng quyền tự do hoạt động độc lập của các tôn giáo. Nói cách khác là bên cạnh việc đấu tranh chống lại các chính sách khống chế, kiểm soát tôn giáo; phải đ̣i chế độ độc tài từ chỗ ngưng can thiệp vào sự điều hành nội bộ của các Giáo hội tiến đến chỗ các Giáo hội không c̣n nằm trong sự chi phối của ban tôn giáo chính phủ trung ương.

    Ví dụ nữa là kư tên vào kiến nghị để yêu cầu quốc hội ra Nghị Quyết đ̣i chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ngưng khai thác Bauxite tại Tây Nguyên là chưa đủ, mà c̣n phải vận động quốc hội ra quyết định tổ chức cuộc trưng cầu dân ư về việc khai thác Bauxite Tây Nguyên hầu xác định nguyện vọng của dân chúng về vấn đề này. Lư do Quốc hội chỉ là một cơ chế nắm dưới sự quyết định tối cao của đảng, do đó đề nghị quốc hội làm công việc yêu cầu chính phủ ngưng rất khó; nhưng ra Nghị Quyết tổ chức trưng cầu dân ư sẽ là cơ hội xác định vị trí quyền lực về tay quần chúng.

    Từ những định nghĩa nói trên, đấu tranh bất bạo động là cuộc đấu tranh của người dân, do người dân và v́ người dân.

    - Của người dân là v́ những phương thức như biểu t́nh, đ́nh công, cầu nguyện tập thể, tẩy chay... là vũ khí đấu tranh căn bản, do chính người dân xử dụng để bày tỏ thái độ bất phục tùng, bất hợp tác của họ đối với những hành xử vô lối của một chế độ độc tài.

    - Do người dân là v́ những nỗ lực tranh đấu không thể do những áp đặt từ một cá nhân hay một nhóm người nào mà phải xuất phát từ những ước muốn thay đổi, những khát vọng được sống một cuộc đời tự do, dân chủ trong xă hội công bằng và công lư của chính mỗi người dân, gom lại thành một sức mạnh tổng hợp.

    - V́ người dân là bởi những nỗ lực tranh đấu không nhằm phục hồi một chế độ hay một chính thể nào mà là để chính người dân bằng lá phiếu của ḿnh, chọn lựa một thể chế mới, một chính quyển mới nhằm xây dựng một trật tự mới, phục vụ hiệu quả cho những nguyện vọng của chính người dân.

    Khi cuộc đấu tranh dựa trên ư chí của người dân, tất nhiên đây là cuộc chiến đấu có chính nghĩa. Nhờ có chính nghĩa nên mới huy động được nhiều người tham gia, tạo thành một cuộc đối kháng của số đông. V́ thế, yếu tố đầu tiên và then chốt nhất của phương thức đối đầu bất bạo động bắt buộc phải có sự tham dự của số đông. Số đông là sức mạnh then chốt không những cần thiết trong giai đoạn làm tê liệt khả năng trấn áp của guồng máy độc tài mà c̣n rất quan trọng trong giai đoạn bảo vệ những thành qủa mà quần chúng đă đạt được để không rơi vào tay một nhóm độc tài nào khác.

    Đương nhiên, khởi đầu của mọi cuộc đối kháng đều do một thiểu số can đảm xướng xuất; nhưng sau đó, nếu không thu hút sự đồng ḷng ủng hộ của nhiều người và không lôi cuốn được sự hăng hái tham gia của số đông th́ cuộc đối kháng trước sau ǵ cũng bị tàn lụi. Ngược lại, khi người dân bất chấp những đàn áp, tích cực vận động nhau tham gia các cuộc phản đối ôn hoà và công khai để đẩy chế độ độc tài rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan kéo dài, thoạt đầu các chỉ dấu về kết quả không rơ ràng và chắc chắn nhưng sau đó sự xuống dốc quyền lực của chế độ sẽ hiện rơ. Theo thời gian, sự tê liệt của bộ máy bạo lực sẽ gia tăng theo mức độ nhập cuộc ngày một đông đảo của quần chúng xuyên qua các cuộc biểu t́nh, đ́nh công, lăng công... diễn ra ngay trên các đường phố.

    Tóm lại, tinh thần căn bản trong đấu tranh bất bạo động có thể tóm lược như sau:

    1/ Không ngồi yên chờ đợi chế độ độc tài tự thay đổi và tự bước ra khỏi vị trí quyền lực. Điều này chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân loại. Sự bất hợp tác, không tuân phục của quần chúng tạo sức mạnh tổng hợp làm suy yếu và tan ră giới cầm quyền.

    2/ Kiên quyết đấu tranh để không chỉ xóa bỏ độc tài hiện tại mà c̣n xây dựng một môi trường và tập quán sinh hoạt chính trị mới không để cho bất cứ thế lực độc tài nào khác có thể nổi lên độc chiếm quyền lực.

    3/ Chọn lựa tinh vi các kế hoạch và lănh vực đấu tranh để chế độ độc tài khó có thể sử dụng sở trường bạo lực của họ nhằm đàn áp người dân.

    4/ Liên tục sáng tạo ra những h́nh thức đấu tranh mới nhằm soi ṃn Thế và Lực của chế độ với tối thiểu rủi ro cho những người tham gia.

    5/ Duy tŕ kỹ luật bất bạo động và tinh thần hy sinh để đánh động vào lương tâm của đối phương, quần chúng và thế giới.

    6/ Thuyết phục và tách rời các bộ phận trực thuộc có nhiều lỗ hổng của chế độ để làm tan ră guồng máy bạo lực.

    7/ Mở rộng vào liên kết với các thành phần dân tộc có cùng mục tiêu xóa bỏ chế độ độc tài và xây dựng dân chủ bền vững cho đất nước.

    Điều nhận thức sau cùng là đấu tranh bất bạo động không đơn giản, dễ dàng và an nhàn hơn đấu tranh bạo lực, vũ trang. Đây không phải là lối đánh tự nhiên có thể áp dụng ngay mà phải trải qua một tiến tŕnh huấn luyện về các lư thuyết căn bản; đồng thời thao dợt các kỹ thuật để làm sao tổ chức thành công từ một nhóm người nhỏ trở thành một đám đông hàng trăm ngàn người, đẩy chế độ độc tài rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan.

    Do đó, nếu trong đấu tranh vũ trang người ta cần huấn luyện về các kỹ thuật sử dụng súng đạn, vũ khí và đ̣i hỏi tinh thần dũng cảm và kỹ luật; th́ trong đấu tranh bất bạo động, tinh thần dũng cảm và chấp hành kỹ luật được đ̣i hỏi phải cao gấp bội. Và mọi người phải được trang bị các kỹ thuật vượt thắng sự sợ hăi, đối phó các khiêu khích bạo lực của đối phương, và những phương pháp phản kháng.

    Tôi xin tạm ngừng phần tŕnh bày dẫn nhập về Đấu Tranh Bất Bạo Động là ǵ. Sau đây là phần tŕnh bày của Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bảo về Tại sao Đấu Tranh Bất Bạo Động cần thiết cho công cuộc dân chủ hóa Việt Nam hiện nay.

    Kính thưa quư vị,

    Hơn 2 thập niên vừa qua, đảng Cộng sản Việt Nam nhân danh cái gọi là “đổi mới” nhưng chỉ tiến hành những biện pháp thay đổi nằm trong khuôn khổ tiếp tục duy tŕ quyền lực độc tôn của thiểu số lănh đạo. Nói một cách khác là đảng Cộng sản Việt Nam v́ t́nh trạng kiệt quệ kinh tế, không c̣n khả năng bao cấp nên đă phải mở cửa thị trường, cho người dân tự buôn bán làm ăn và thu hút đầu tư từ bên ngoài; nhưng vẫn tiếp tục duy tŕ sự chi phối của đảng trên mọi lănh vực.

    Chính lề lối thay đổi nửa vời như vậy, sự phát triển của Việt Nam trong 20 năm qua hoàn toàn nghiêng lệch, đầy phí phạm và chỉ làm lợi cho một thiểu số quyền lực được mệnh danh là giai cấp đỏ. Giai cấp đỏ này sẵn sàng hy sinh mọi giá trị khác để nắm giữ quyền lực, kể cả việc giới hạn dân trí, huỷ diệt môi sinh và cấu kết với ngoại bang bán từng phần đất thân yêu của tổ quốc.

    Chấm dứt chế độ độc tài cộng sản hiện nay trên đất nước Việt Nam không chỉ là nhu cầu đấu tranh giành lại tự do dân chủ cho Việt Nam mà quan trọng hơn là bảo vệ sự độc lập và tự chủ của đất nước trước nguy cơ xâm lấn của Bắc Kinh qua sự đồng lơa của 15 ủy viên bộ chính trị đảng Cộng sản Việt Nam.

    Tuy nhiên, với quá khứ đổ nát của chiến tranh và sự chia cắt dân tộc qua các các cuộc chiến trong hai thế kỳ 19 và 20, hơn lúc nào hết, người Việt Nam sẽ không thể làm thiệt hại thêm tiềm năng vươn lên của đất nước, mà phải t́m những phương thức đấu tranh vừa huy động được sức mạnh tổng hợp dân tộc, vừa giới hạn những đổ vỡ.

    Để chấm dứt t́nh trạng cai trị độc tài hiện nay, liệu có giải pháp nào khác hữu hiệu hơn bạo lực và chiến tranh hay không?

    Đảng Việt Tân quan niệm phương thức Đấu Tranh Bất Bạo Động là phương thức rất cần thiết cho công cuộc dân chủ hóa hiện nay.

    Phương thức này ôn ḥa, không dùng tới súng đạn, dao búa, vũ khí giết người nên không tạo thêm thiệt hại về sinh mạng hay gây thêm hàng loạt đổ vỡ tiềm lực đất nuớc.

    Phương thức này không tạo thêm rạn nứt giữa ḷng dân tộc. Ngược lại tạo cơ hội xóa dần những dị biệt, mọi thành phần dân tộc được mời gọi tham gia vào nỗ lực gỡ bỏ gông xiềng chung và cùng góp phần quyết định tương lai đất nước.

    Phương thức này không cho phép nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam sử dụng sở trường về đàn áp bằng bạo lực của họ để măi măi khống chế người dân.

    Phương thức này phù hợp với bối cảnh chống khủng bố của thế giới, đồng thời nối kết được các nỗ lực của người Việt trong nước, người Việt hải ngoại và các nguồn hỗ trợ quốc tế.

    Đặc biệt là với phương thức đấu tranh này, khối quần chúng bất măn có hàng trăm cách tranh đấu trong khi chế độ độc tài chỉ có một cách duy nhất là trấn áp bằng bạo lực. Theo Tiến sĩ Gene Sharp, tác giả của nhiều tập sách nghiên cứu về kinh nghiệm đấu tranh bất bạo động đă chỉ ra hơn 200 phương thức đấu tranh dựa trên 3 nền tảng: 1/Phản đối công khai; 2/Bất hợp tác; 3/Trực diện đối kháng.

    Với hàng trăm phương thức phản kháng bất bạo động như vậy, người dân Việt Nam sẽ có thể cùng nhau:

    Thứ nhất là kéo dần các thẩm quyền quyết định trong xă hội về tay người dân dù chế độ độc tài có chấp nhận hay không.

    Ví dụ, trước đây chúng ta thấy là Hà Nội kiểm soát thông tin và truyền thông 100%; nhưng kể từ ngày có Internet với sự xuất hiện của các trang mạng, blog, facebook th́ những thông tin ngoài luồng ngày một nhiều hơn. Những thông tin ngoài luồng đă gây ra những bức xức của dư luận với hàng loạt các ư kiến phê phán chế độ từ dân chúng, khiến cho chế độ không c̣n dám hành xử tùy tiện như trước. Đây là một h́nh thức nâng thẩm quyền của người dân về mặt truyền thông.

    Thứ hai là áp dụng nhiều h́nh thức bất hợp tác từ kinh tế, chính trị, văn hóa đối với chế độ để giảm thiểu và sau cùng cắt đứt các nguồn lực đang nuôi sống chế độ độc tài.

    Ví dụ, Viện Nghiên Cứu Phát Triển (IDS) thành lập vào cuối năm 2007, quy tụ 16 trí thức do Tiến sĩ Nguyễn Quang A làm viện trưởng đă ra quyết định tự giải thể để phản đối quyết định mang số 97 của Thủ tướng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng kư vào ngày 24 tháng 7 năm 2009 nhằm ngăn chận những phản biện của giới trí thức về các đường lối chính sách của nhà nước Cộng sản Việt Nam. Việc IDS tuyên bố tự giải thể đă biểu hiện thái độ bất hợp tác của giới trí thức Việt Nam đối với nhà nước Cộng sản Việt Nam và thái độ này sẽ gây bất lợi cho đảng Cộng sản Việt Nam trong việc quy tụ giới trí thức về lâu dài.

    Thứ ba là soi ṃn các trụ cột quyền lực đang chống đỡ chế độ bằng nhiều cách nhằm cảm hóa từng con người c̣n lương tâm đối với đất nước và cô lập tửng cá nhân ác ôn trong guồng máy độc tài.

    Ví dụ, trước đây mỗi lần tụ họp để đưa thư kêu cứu lên cấp chính quyền, dân oan thường hay chửi và đánh trả lại công an khi bị họ giải tán. Từ ngày bà con dân oan hiểu biết một số nguyên tắc đấu tranh bất bạo động, coi công an cũng là những nạn nhân phải phục vụ chế độ nên đổi thái độ, thay v́ chửi bới, đánh trả lại mà t́m cách nói chuyện và yêu cầu công an thông cảm cho phép tụ họp đưa thư kêu cứu và giữ trật tự th́ công an không c̣n có cớ đàn án và để cho tụ tập. Đây là một loại cảm hóa sự đồng t́nh của công an đối với những hoàn cảnh bị cướp nhà cướp đất của bà con dân oan.

    Khi số người được vận động tham gia đầy đủ, ba hướng tiến công nói trên chắc chắn sẽ đẩy chế độ độc tài cộng sản đến lằn mức tê liệt và tan ră.

    Ví dụ nh́n vào diễn tiến của cuộc cách mạng dân chủ tại Ba Lan vào khoảng thời điển từ 1987 đến năm 1989 là năm đảng Cộng sản Ba Lan tan ră, th́ phải nói là trong các năm trước đó, Công Đoàn Kết Ba Lan đă biết khai thác ba mũi tiến công như tŕnh bày bên trên để áp lực đảng Cộng sản Ba Lan phải công nhận tính hợp pháp của Công Đoàn Đoàn Kết và đ̣i thay đổi chính quyền tham nhũng của Thủ Tướng Jaruzelski.

    Tháng 5 năm 1987, mặc dù đảng Cộng sản Ba Lan chưa công nhận tính hợp pháp của Công Đoàn Đoàn Kết nhưng đă phải thay thế Thủ tướng Jaruzelski, một nhân vật bảo thủ, cứng rắn bởi Thủ Tướng Mesnel, ôn ḥa trước sức ép của dư luận. Ông Lech Walesa và Công Đoàn Đoàn Kết đă khai thác bước lùi này của chính quyền Ba Lan liền tung một cú đánh ngoạn mục là kêu gọi toàn quốc bất hợp tác với đảng và nhà nước Cộng sản Ba Lan, đưa công nhân từ các địa phương về Thủ độ Warsaw biểu t́nh cho đến khi nhà nước Ba Lan công nhận Công Đoàn Đoàn Kết là tổ chức hợp pháp.

    Cuộc biểu t́nh xảy ra hàng tuần, khởi đầu từ cuối tháng 8 năm 1987. Lúc đầu chỉ có khoảng 5 ngàn công nhân tham dự, tuy bị công an đàn áp hay bị mật vụ t́m cách đe dọa, ngăn cản ở các địa phương để không ai dám về thủ đô Warsaw; nhưng nhờ tổ chức và điều hành khôn ngoan và can đảm, những cuộc biểu t́nh của Công Đoàn Đoàn Kết sau đó vẫn thu hút số người tham gia. Từ đầu năm 1988 khi lực lượng Công nhân hầm mỏ, Công nhân xe tải, Lực lượng tiểu thương, lực lượng giáo chức, lực lượng Văn Nghệ sĩ, Tổng Hội Thanh Niên Sinh Viên Toàn Quốc lên tiếng ủng hộ lời kêu gọi của ông Lech Walesa th́ số người tham gia đă tăng lên 100 ngàn người mỗi tuần. Đến tháng 8 năm 1988, các cuộc biểu t́nh hầu như diễn ra hàng ngày.

    Khi số người tham gia biểu t́nh lên đến 400 ngàn người làm tê liệt mọi sinh hoạt trong thủ đô Warsaw, Bộ trưởng bộ công an Ba Lan đă phải xin gặp riêng ông Leach Walesa vào ngày 31 tháng 8 năm 1988 để yêu cầu ngưng cuộc đ́nh công; đồng thời đưa đề nghị chính thức mời Công Đoàn Đoàn Kết ngồi vào bàn Hội nghị nhằm thảo luận về các tiến tŕnh dân chủ hóa Ba Lan. Tháng 1 năm 1989, Hội nghị bàn tṛn bắt đầu với kết quả là đảng Cộng sản Ba Lan chấp nhận yêu sách của Công Đoàn Đoàn Kết tổ chức Tổng Tuyển Cử Tự Do vào tháng 6 năm 1989. Đảng Cộng sản Ba Lan thảm bại trong cuộc Tổng Tuyển Cử và cáo chung vào tháng 1 năm 1990 với một tên mới là Đảng Dân Chủ Xă Hội.

    Kính thưa quư vị,

    Trái với một số ấn tượng thông thường nơi nhiều người rằng chế độ độc tài KHÔNG phải là khối thuần nhất và KHÔNG có sức mạnh vĩnh viễn. Nó là một cấu trúc gồm nhiều bộ phận khác nhau.

    Chế độ độc tài củng cố được thế lực là do tâm lư vâng phục của quần chúng (dù tự nguyện hay cưỡng ép), tài năng và kiến thức của khối nguời hợp tác (dù tự nguyện hay cưỡng ép), các nguồn tài nguyên quốc gia, các huyền thoại quá khứ, các biện pháp trừng phạt bằng bạo lực vân, vân… Các nguồn thế lực này được thâu tóm và kiểm soát bằng các định chế xă hội.

    Do đó quyền lực của chế độ bắt buộc phải dựa trên một số trụ cột hay định chế nhất định như Công an, Quân đội, hệ thống Tư pháp, guồng máy Tuyên truyền, đội ngũ Hành chánh các cấp, các Công ty quốc doanh vân, vân… Mỗi trụ cột này được kết thành bỏi nhiều ṿng nhân sự. Mỗi ṿng nhân sự như vậy có những mức độ trung thành với chế độ khác nhau và mỗi nhân sự đều có nhu cầu, quyền lợi và quan hệ xă hội khác nhau.

    Nếu Phong Trào Dân Chủ Việt Nam biết tác động được vào đúng mục tiêu, đúng cách thức và đúng lúc th́ các nhu cầu, quyền lợi và quan hệ của mỗi con người sẽ thay đổi, làm thay thay đổi ức độ trung thành với chế độ và từ đó sẽ làm lung lay quyền lực của chế độ độc tài.

    Sau cùng, thưa quư vị, đấu tranh bất bạo động không phải là con đường an toàn không có tổn thất. Khi chế độ bị dồn vào thế cùng, giới lănh đạo có thể tung ra những biện pháp trấn áp dă man bằng bạo lực để mở đường máu. Những cuộc đàn áp loại này rơ ràng là chế độ rơi vào thế suy yếu cùng cực do đó mà phong trào phản kháng phải khai thác mạnh mẽ sự lên tiếng áp lực của thế giới và nhất là kích động quần chúng tham gia vào một cuộc tổng phản công quy mô trên toàn quốc, làm tê liệt toàn bộ xă hội cho đến khi chế độ độc tài thoái lui nhượng bộ.

    Để đạt hiệu năng tối đa, trong đấu tranh bất bạo động, các phong trào phản kháng ưu tiên chọn các h́nh thức lôi kéo hơn là tấn công. Nhưng nếu phải tấn công th́ ưu tiên chọn mục tiêu nhỏ và cụ thể hơn là các mục tiêu lớn. Và khi đă tấn công th́ ưu tiên chọn những h́nh thức khả dĩ đẩy được chế độ vào thế tiến thoái lưỡng nan. Đây là những nguyên tắc đấu tranh rất quan trọng mà chúng ta sẽ có dịp đào sâu trong những bài tŕnh bày kế tiếp.

    Cùng lúc, để hóa giải những đàn áp của chế độ độc tài lên các cuộc tụ họp của quần chúng, chúng ta phải làm sao nhanh chóng công bố các thủ đoạn đàn áp đó trước công luận và vận động chính giới, các NGO, các cơ quan truyền thông quốc tế lên tiếng tạo những áp lực lên chế độ Hà Nội. Muốn làm được điều này hiệu quả phải có sự tiếp tay tích cực của các đoàn thể, cá nhân trong Cộng đồng người Việt hải ngoại. Nói cách khác, Cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ không chỉ hỗ trợ các phương tiện đấu tranh cho các lực lượng dân chủ tại quốc nội mà c̣n đóng một vai tṛ quan trọng trong việc hóa giải và ngăn chận những cuộc đàn áp của CSVN; giúp cho phong trào đối kháng bất bạo động ở trong nước phát triển mạnh mẽ hơn.

    Tổng kết lại, đấu tranh bất bạo động là một phương pháp đấu tranh ôn ḥa dành cho đại khối quần chúng không có một vũ khí trong tay nhưng sẽ quật ngă thiểu số lănh đạo bất chính bằng cách rút lại sự phục tùng của họ đối với thiểu số cai trị. Đây là phương pháp hiệu quả nhất và phù hợp nhất cho công cuộc đấu tranh hiện nay tại Việt Nam. Chúng tôi hy vọng là qua cuộc hội luận “T́m hiểu và Thảo luận về Đấu Tranh Bất Động” sẽ giúp cho chúng ta cùng nhau học hỏi đa chiều, rút ra những kinh nghiệm quư báu để ứng dụng thành công trên con đường dân chủ hóa Việt Nam.

    Xin kính chào toàn thể quư vị.

    — -

    Ông Lư Thái Hùng



    Ông Lư Thái Hùng sinh năm 1952 tại An Nhơn, tỉnh B́nh Định. Sau khi tốt nghiệp Trung học tại trường Trung Học Cường Để Quy Nhơn, ông đă đi du học tại Nhật Bản vào tháng 12 năm 1971. Sau một năm học Nhật Ngữ, ông đă nhập học và tốt nghiệp kỹ sư công chánh tại đại học Eihime vào năm 1978 và cao học công chánh tại đại học Tokyo Metropolitan vào năm 1980.

    Sau năm 1975, ông tham gia và trở thành một trong những thành viên lănh đạo của Tổ Chức Người Việt Tự Do, một tổ chức đấu tranh đầu tiên của người Việt tại hải ngoại sau năm 1975.

    Ông tham gia Đảng Việt Tân từ năm 1982 và được đề cử giữ trách vụ Tổng Bí Thư Đảng từ năm 2001 đến nay.

    Ngoài trách vụ trong đảng Việt Tân, ông Lư Thái Hùng c̣n chuyên viết các bài b́nh luận thời sự Việt Nam và Thế giới cho các tờ báo và đài phát thanh của người Việt tại hải ngoại. Ông cũng là tác giả tập biên khảo chính trị "Đông Âu tại Việt Nam" phát hành vào đầu năm 2007. Đây là tập biên khảo mà ông đă dành hơn 10 năm nghiên cứu và biên soạn về sự tan ră của khối cộng sản quốc tế qua những nỗ lực tranh đấu của phong trào dân chủ tại Đông Âu.

    Ông Nguyễn Ngọc Bảo



    Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bảo sinh năm 1956, du học tại Pháp năm 1974. Ông tốt nghiệp kỹ sư Cao Đẳng Công Nghệ (Ecole Centrale de Paris) năm 1980. Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris từ 1982 - 1985.

    Ông tham gia đảng Việt Tân từ năm 1982 và được tín nhiệm vào nhiều trách nhiệm tại Âu Châu. Ông được đề cử làm Ủy viên Trung Ương đảng từ năm 2001 cho đến nay.

    Ông Nguyễn Ngọc Bảo đă làm việc hơn 10 năm về lănh vực an ninh thông tin, hiện đang trách nhiệm về an ninh hệ thống thông tin tại một hăng tại Pháp và là hội viên Hội Chuyên Gia Việt Nam.
    Last edited by alamit; 20-12-2012 at 11:28 AM.

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Đảng phản động Việt Tân giật dây Quan Làm Báo?

    Các đây đúng 2 tuần, ngày 4.9.2012 ông Bùi Tín đưa lên blog bài viết "Quan Làm Báo": Đắt khách nhưng bí hiểm", trích một đoạn đầu ông viết: "Hơn 1 tháng nay, mạng Quan Làm Báo đă trở thành một hiện tượng thông tin chấn động dữ dội công luận. Mạng này xuất hiện bất ngờ, không báo trước. Chẳng có tuyên ngôn, khẩu hiệu, phương châm. Chẳng có địa chỉ, tên tuổi người hay nhóm chủ trương, như một số mạng, blogger khác, trong hay ngoài nước.
    Nhưng một điều rất rơ : Quan này rất đông khách vào thăm thú. Có thể nói Quan giật ngay kỷ lục về đắt khách. Vượt mạng Bauxite, vượt mạng Anh Ba Sàm, bỏ xa cả Dân Làm Báo. Đạt hàng triệu và sắp đạt chục triệu người vào đọc từ khi tŕnh làng.
    Vậy mà cho đến nay mặt mũi, chân dung, tiểu sử, lư lịch, quan điểm chính trị của Quan Làm Báo ra sao vẫn là điều bí mật, bí hiểm."
    > Lập luận cùn của Dân Làm Báo sau công văn của TT Nguyễn Tấn Dũng / TT Nguyễn Tấn Dũng: Điều tra việc đăng tin bôi đen lănh đạo đất nước / T́m hiểu về tổ chức khủng bố Việt Tân
    Bài viết của Bùi Tín được nhiều trang mạng xă hội đăng lại trở thành đề tài bàn tán xôn xao, trong những ư kiến phỏng đoán được ăn ư nhất cho rằng "Trang blog Quan làm báo là của (华南情报局 - Phân Cục t́nh báo Hoa Nam) do trung tá Trương Hiểu Long (张 绕 龙 - Zhang Rao Long) chỉ huy với sự tham gia của Quách Đại Hung (郭 大雄 - Guo Da Xiong) và Hồ Huấn Nghiệp (胡 训业 - Hu Xun Ye) là những người Hoa, quốc tịch Mỹ trực thuộc thuộc pḥng 10 chuyên về tin tức chính trị và gây nhiễu thông tin. Nhóm này có văn pḥng tại California - USA, với nhiệm vụ chính là liên kết và lôi kéo một người Việt mang quốc tịch Mỹ hợp tác trong việc phối hợp sản xuất, pha chế các tin tức với mục đích kích động, gây chia rẽ và gây nhiễu loạn thông tin theo phương châm "vứt xương chó chó cắn nhau", nghĩa là kích động tất cả các bên nhằm chơi tṛ "ngao c̣ đánh nhau, ngư ông đắc lợi". Điều đó đă khiến nhà nước Việt nam phải tiến hành buộc các nhà cung cấp dịch vụ Internet đang phong tỏa blog nhằm hạn chế các tiếng nói khác biệt và đ̣i tự do dân chủ của các blogger trong nước từ tháng 6 đến đầu tháng 7 khi Phạm chí Dũng bị bắt xong xuôi. Việc ngăn chặn của chính quyền đă gặp phải sự phản ứng dữ dội từ các blogger và dư luận quốc tế về việc hạn chế và kiểm duyệt thông tin của chính quyền Việt nam."
    Nếu nói đoán th́ là phỏng chừng v́ trên mạng ảo khó ai biết được người ngồi phía sau màn h́nh tên họ là ǵ . Lời đồn đoán chưa tới hồi kết thúc th́ ngày 17.9, nhà báo Umberto Bacchi trên tờ Quốc Tế Kinh Doanh Thời Báo của Anh Quốc phỏng vấn đại diện của 2 trang mạng xă hội "Dân Làm Báo và "Quan Làm Báo" qua bài "Vietnam Dissident Bloggers Warn: We Fight on despite 20-year Jail Threat". Chúng tôi xin miễn bàn tới nội dung bài phỏng vấn trên v́ thừa biết rằng cuộc phỏng vấn chỉ là diễn đàn dành cho những lời lẽ bóp méo sự thật, bêu xấu đất nước . Cuộc phỏng vấn giữa nhà báo Umberto Bacchi và "Dân & Quan Báo" qua h́nh thức voice chat . Đại diện Dân Làm Báo th́ lo sợ bị bắt nên ẩn danh, c̣n phía Quan Làm Báo thích khoe người đại diện tên là Trần Hưng Quốc và Trần Hưng Quốc cũng chính là bí danh của Lư Thái Hùng tổng bí thư Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng và cũng là chồng của bà Trần Diệu Chân chủ biên đài phát thanh Chân Trời Mới thuộc xứ bộ X113 thuộc đảng Việt Tân . Đây tuyệt đối không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà là giấu đầu ḷi đuôi, Quan Làm Báo chính là đảng Việt Tân.

    Nguồn: Đảng phản động Việt Tân giật dây Quan Làm Báo?
    http://nguyentandunglaai.blogspot.ca...1i%20H%C3%B9ng

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    “T́m Hiểu và Thảo Luận Về Đấu Tranh Bất Bạo Động”
    Kỳ II: Tại sao người dân e sợ chế độ độc tài?

    Đặng Vũ Chấn - Nguyễn Trọng Việt

    Ngày 21/11/2010 Lúc 12 giờ trưa giờ Việt Nam, 4 giờ chiều giờ Sydney Úc Châu, 6 giờ sáng giờ Paris, Âu Châu, 9 giờ tối giờ California ngày 20/11/2010.

    Bài 2: Bản Chất Quyền Lực Chính Trị Trong Xă Hội và Tại Sao Người Dân E Sợ Chế Độ Độc Tài? Áp Dụng Vào Trường Hợp Việt Nam Thế Nào?

    Diễn Giả:
    Bác Sĩ Đặng Vũ Chấn (Ủy viên Trung Ương Đảng Việt Tân)
    Bác Sĩ Nguyễn Trọng Việt (Ủy Viên Trung Ương Đảng Việt Tân)

    Xin bấm vào đây để lấy tập tin âm thanh phần tŕnh bày của Bác sĩ Đặng Vũ Chấn và Bác sĩ Nguyễn Trọng Việt

    Tập tin âm thanh phần thảo luận

    (Bác sĩ Đặng Vũ Chấn)

    Kính chào toàn thể quư vị,

    Hôm nay chúng ta bước vào đề tài thứ 2 trong một chuỗi gồm 8 đề tài liên quan đến cuộc hội luận “T́m Hiểu Và Thảo Luận Về Đấu Tranh Bất Bạo Động” . Đề tài mà chúng tôi đề cập ngày hôm nay là Bản chất quyền lực chính trị trong xă hội và Tại sao người dân e sợ chế độ độc tài?

    Trước hết, chúng ta cùng nhau t́m hiểu về bản chất quyền lực chính trị trong xă hội là ǵ?

    Khi định nghĩa về quyền lực chính trị trong xă hội, Tiến sĩ Gene Sharp, một nhà nghiên cứu về đấu tranh Bất Bạo Động, đă cho rằng quyền lực là tập hợp của tất cả những công cụ, sự ảnh hưởng, các áp lực bao gồm cả quyền điều khiển, khen thưởng và quyền trừng phạt nhằm thỏa măn những mục tiêu của thực thể nắm giữ quyền lực, đặc biệt là những người nắm giữ quyền lực nhà nước, đoàn thể xă hội và những tổ chức đối lập chính quyền.

    Với định nghĩa nói trên, Tiến sĩ Gene Sharp, đă cho chúng ta thấy là quyền lực chính trị trong xă hội không chỉ đến từ các công cụ cầm quyền của những nhà lănh đạo quốc gia, mà c̣n đến từ quần chúng qua những định chế chính trị, truyền thông, tôn giáo trong xă hội.

    Tùy theo cách phân bố quyền lực, người ta đă định ra hai mô h́nh quyền lực khác nhau trong xă hội. Mô h́nh đa nguyên và mô h́nh độc tài.

    Mô H́nh Đa Nguyên

    Trong xă hội đa nguyên, dựa trên nền tảng tự do dân chủ, quyền lực chính trị không hoàn toàn nằm trong tay chính quyền. Với sự hiện diện của số đông các đoàn thể tôn giáo và xă hội, các cơ quan báo chí - truyền thông, các tổ chức phi chính phủ hoạt động độc lập, nằm ngoài sự chi phối và kiểm soát của chính quyền đă tạo thành một nền tảng xă hội dân sự giúp phát huy những ước muốn của quần chúng mà không cần phải có chính quyền can thiệp hay giúp đỡ. Những tổ chức và đoàn thể này rất quan trọng chẳng những nó giúp phục vụ những mục tiêu của các thành viên liên hệ, mà nó c̣n góp phần làm thơa măn những nhu cầu của xă hội.

    V́ mang một số những đặc tính nói trên, những tổ chức quần chúng có một ảnh hưởng chính trị rất lớn trong xă hội. Những tổ chức quần chúng này – tùy theo mối quan tâm và nhất là tùy theo môi trường hoạt động - sẽ tạo ra những định chế hoặc những tập hợp mà qua đó quần chúng có thể ảnh hưởng lên hướng đi của toàn bộ hay một phần xă hội trong một giai đoạn nhất định. Không những thế, những định chế hay tập hợp này c̣n có khả năng huy động một khối lượng quần chúng để phản bác những nhóm khác hay là chống lại chính quyền khi có sự xen lấn hoặc khống chế một cách không chính đáng vào quyền lợi và các mục tiêu hoạt động của họ.

    Đối với xă hội dân chủ, chính quyền hay là những đảng phái cầm quyền rất quan tâm vào việc tranh thủ sự đồng t́nh của những định chế quần chúng v́ chính quyền coi việc phục vụ các nhu cầu của quốc gia chính là đáp ứng các nguyện vọng của những định chế quần chúng gồm gia đ́nh, tổ chức tôn giáo, hội văn hóa, câu lạc bộ thể thao, định chế kinh tế, nghiệp đoàn, hội sinh viên, tổ chức nhân quyền, các đảng phái chính trị. Bởi v́ những đoàn thể này đă tạo ra những trung tâm quyền lực chính trị mà từ đó quần chúng có thể tạo áp lực hay phản kháng lại những việc làm sai trái hay những chi phối vô lư của chính quyền.

    Do đó, nguồn gốc quyền lực trong những xă hội này đến từ ḷng dân, tức là đến từ sự chấp thuận và hợp tác của người dân đối với chính quyền. Nói cách khác, trong tất cả mọi diễn biến, điểm quan trọng của xă hội dân chủ là người dân có thể cung ứng cho kẻ cầm quyền mọi nguồn lực cần thiết nhưng người dân cũng có thể rút lại sự ủng hộ của họ đối với chế độ bởi v́ người dân là căn nguyên quyền lực quốc gia.

    Mô H́nh Độc Tài

    Ngược lại, trong xă hội độc tài chuyên chế, kẻ cầm quyền không chấp nhận các tổ chức, đoàn thể quần chúng hoạt động một cách độc lập mà phải nằm dưới sự chi phối của chế độ. Những đoàn thể quần chúng như hội nông dân, đoàn thanh niên, hội văn nghệ sĩ, hội kư giả, hội văn học nghệ thuật, hay các đoàn thể tôn giáo đều phải nằm trong Mặt trận tổ quốc, do chế độ lập ra và được lănh đạo bởi những người của chế độ. Hậu quả tất nhiên là những định chế quần chúng này trở thành công cụ khuynh loát tất cả những thành viên lẫn những lănh vực liên hệ. Quần chúng sống trong chế độ độc tài, không những bị tước hết tất cả những ảnh hưởng chính trị của ḿnh trong xă hội mà c̣n bị chế độ trấn áp thường xuyên bằng cách tạo ra không khí sợ sệt bao trùm lên cả nuớc. Chính lề lối cai trị này đă khiến quần chúng luôn luôn bị ám ảnh những lo sợ và mặc nhiên phục tùng mệnh lệnh của kẻ độc tài. Hậu quả của sự sợ sệt này, người dân đă vô h́nh chung giúp cho chế độ độc tài có thể nắm chặt và duy tŕ các nguồn lực chính trị trong tay.

    Dưới chế độ độc tài chuyên chính, quyền lực chính trị nằm trong tay kẻ cai trị c̣n dân chúng chỉ biết tuân phục mà thôi. Giới lănh đạo cũng thường dùng bầu cử để hợp thực hóa quyền lực cai trị của họ với kết quả đă được định sẵn. Từ đó người ta mới có nhóm từ "đảng cử dân bầu" để nói về t́nh trạng bầu cử tại các xứ độc tài. Trong các cuộc bầu cử này, người dân đă bị cưỡng chế đi bầu và chỉ bỏ phiếu cho những người đă được hướng dẫn từ trước. Đôi khi các nhà độc tài tính toán sai lầm và thất bại trong việc thực hiện những bước cần thiết để đạt kết quả mà họ mong muốn. Ví dụ chế độ quân phiệt Miến Điện đă bị chấn thương khi họ cho phép bầu cử vào năm 1990 và đă thất cử. Phản ứng của họ trước thất bại này là từ chối chấp nhận ư muốn của cử tri và cầm tù những nhà lănh đạo đối lập.

    Để làm suy yếu và chấm dứt t́nh trạng cai trị độc tôn của một thiểu số quyền lực bằng phương pháp đấu tranh ôn ḥa bất bạo động, trước hết, chúng ta cần phải vượt ra khỏi giới hạn của cấu trúc quyền lực để nhận diện và t́m hiểu về những khái niệm tạo nên quyền lực ở mọi chế độ. Kế đến chúng ta sẽ phải nghiên cứu về cách thức một kẻ cai trị đă đoạt được, nắm giữ và chuyển giao quyền lực - đặc biệt là đối với chế độ độc tài chuyên chế - như một hướng dẫn cho những suy nghĩ về thay đổi chính trị từ một chế độ độc tài sang một chế độ dân chủ.

    Những Nguồn Quyền Lực

    Kẻ thống trị chỉ có thể duy tŕ quyền lực cai trị nếu có được sự chấp thuận và hợp tác của người dân. Sự chấp thuận và hợp tác này có thể là do tự nguyện hay do ép buộc. Sự chấp nhận có thể là kết quả từ thái độ dửng dưng của một số người trong xă hội, hay ngay cả do ảnh hưởng văn hóa trong ư thức phục tùng của dân chúng. Tiến sĩ Gene Sharp đă chỉ ra 6 nguồn quyền lực dưới đây là những điểm then chốt, giúp củng cố quyền lực cho các chế độ.

    Thẩm Quyền: Tức là quyền cai trị của một thiểu số và sự phục tùng của đa số bị trị.

    Thông thường, kết quả của bầu cử thường được kể như là sự hợp thức hóa thẩm quyền cai trị của một người hay của một nhóm người. Đây là lư do v́ sao nhiều chế độ độc tài vẫn duy tŕ việc tổ chức các cuộc bầu cử để rồi tráo phiếu, hăm dọa cử tri, hạn chế các cuộc vận động bầu cử của phe đối lập và phủ nhận những kết quả không thuận lợi.

    Tính hợp pháp là điểm tối quan trọng đối với một chính quyền, v́ thế mà người dân đă bị nhồi sọ và khống chế để phải coi đây là chế độ cầm quyền chính danh. Đảng CSVN cũng tự nhận ḿnh chính danh nắm quyền qua việc nhồi sọ người dân, kể lể công trạng đánh Pháp đánh Mỹ để bắt người dân mang ơn, rồi xem chuyện Đảng CS cầm quyền là tự nhiên. Khi một chính quyền bị coi là không hợp pháp, đương nhiên thẩm quyền từng bước bị soi ṃn và bị xem là vi phạm hiến pháp trầm trọng. Trong trường hợp này, về mặt đối nội, đây là cơ hội để hợp thức hóa sự tồn tại của lực lượng đối lập. Về mặt đối ngoại, giúp phe dân chủ mở rộng các vận động áp lực quốc tế bằng những trừng phạt mạnh mẽ về kinh tế hay chính trị.

    Nhân Lực: Tức là số lượng người ủng hộ, hợp tác và tuân phục nhà cầm quyền.

    Đây là yếu tố quan trọng quyết định sức mạnh của một chế độ. Dù đa số người dân không thích và bất măn cách cai trị của những người lănh đạo nhưng nếu kẻ cầm quyền duy tŕ được sự ủng hộ và đồng t́nh của một số nhân lực nào đó, th́ sự thay đổi chế độ chưa chắc sẽ xảy ra. Bởi v́ dù dân chúng chống đối nhưng nếu tầng lớp chuyên gia, trí thức, quân nhân và công an vẫn c̣n hợp tác giúp duy tŕ chế độ độc tài th́ phong trào chống đối của quần chúng khó có thể bộc phát mạnh.

    Trong đấu tranh bất bạo động, vấn đề giảm bớt số nhân lực tuân phục và ủng hộ chế độ độc tài đồng thời huy động số nhân lực này quay trở lại chống chế độ rất quan trọng. Khi thành phần này không c̣n tích cực phục vụ và bảo vệ cấp lănh đạo ở bên trên, sự vận hành guồng máy cai trị sẽ bị đ́nh đọng và không c̣n đủ sức đối phó các sức ép của quần chúng.

    Tài Năng và Kiến Năng: Tức là khả năng mà mỗi người dân đă cống hiến cho chính quyền các cấp để bộ máy cầm quyền thực hiện những chức năng cai trị của nó lên người dân.

    Những nhà lănh đạo – dù có tài giỏi đến đâu - sẽ không thể nào biết rơ và biết hết những công việc phức tạp trong sự vận hành của bộ máy nhà nước hay xă hội như bảo tŕ máy bay, theo dơi lịch tŕnh các chuyến bay, thi hành luật hàng hải, soạn thảo luật pháp điều tra tội phạm, thu thuế, vạch ra các kế hoạch tiến hành chiến tranh, phân phối lương thực và hàng loạt công việc khác đ̣i hỏi sự thành thạo của người điều khiển. Chính những tài năng và kiến thức này từ người dân đă được cung cấp cho chính quyền các cấp để bộ máy chính quyền đó thực hiện chức năng của ḿnh. Không có sự đóng góp này, chính quyền sẽ sụp đổ.

    Những Yếu Tố Vô H́nh: Tức là những biểu tượng hay những giáo luật được dùng làm nền tảng cho đức tin của con người vào sự tồn tại của một thể chế.

    Việc một số chính quyền đă chọn tôn giáo nào đó làm quốc giáo, buộc người dân tuân phục chính quyền như tuân phục vào đức tin của tôn giáo. Ví dụ Iran đă dùng hệ thống giáo luật Hồi Giáo, buộc người dân tuân phục chính quyền song song với việc tuân phục quyền uy của các giáo sĩ Hồi Giáo. Trong các xă hội độc tài, người ta cũng cố dựng lên một vài biểu tượng và thần thánh hóa để bắt người dân tin theo như một tin ngưỡng. Dưới chế độ Cộng sản Việt Nam trước thập niên 80 của thế kỷ 20, đảng Cộng sản đă bắt mọi người phải luôn luôn nói “nhờ ơn bác và đảng” trước mỗi phát biểu, nhằm tẩy năo mọi người dân rằng phải tuyệt đối tin và bác và đảng. Dân chủ là điều không tưởng trong những xă hội này.

    Những Nguồn Vật Chất: Tức là quyền ảnh hưởng lên người khác nhờ vào khả năng vật chất mà một người hay một nhóm người nào đó có được.

    Khi quyền kiểm soát về kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, truyền thông và báo chí, giao thông vận tải, giao thương buôn bán vân, vân hoàn toàn nằm trong tay của một thiểu số cầm quyền th́ đời sống người dân luôn luôn bị lệ thuộc vào các hành xử của thiểu số này. Nói cách khác, nơi nào mà chính quyền kiểm duyệt gắt gao về thông tin th́ đời sống của những người có liên quan đến tất cả khía cạnh báo chí, truyền thông đều bị kiểm soát hay chịu ảnh hưởng của chính quyền.

    Trừng Phạt: Tức là khả năng đe dọa, khống chế của mọi chính quyền nhằm hạn chế những hành vi chống đối của những thành phần đối lập.

    Trừng phạt không chỉ có nghĩa là đàn áp một cách tàn nhẫn như hành h́nh, tra tấn để làm cho đối tượng bị trừng phạt khiếp sợ mà thường là từ chối không cho việc làm, không cấp tiền hưu trí, giới hạn cơ hội giáo dục và thăng tiến, hạn chế việc đi lại (không cấp hộ chiếu), áp đặt trưng thu tài sản, ruộng đất và những h́nh phạt khác nhằm buộc đối phương phải phục tùng vô điều kiện. Trong những chế độ độc tài, truyền thông và báo chí là hai cơ chế luôn luôn tự kiểm duyệt v́ nhà cầm quyền có khả năng đóng cửa các nhà xuất bản và các tổ thông tin bằng cách kiểm soát sự phân phối báo hay thu hồi giấy phép của đài truyền h́nh và đài phát thanh. Những h́nh phạt như vậy rất thông thường và khá hiệu quả khi chế độ nắm trong tay khả năng bóp chẹt đường mưu sinh của cá nhân và gia đ́nh những người đối kháng.

    Tôi xin ngừng phần tŕnh tóm lược về bản chất quyền lực chính trị và những yếu tố cấu thành nên quyền lực của một chế độ. Phần kế tiếp là tŕnh bày Tại sao người dân e sợ chế độ độc tài và áp dụng vào trường hợp Việt Nam như thế nào. Phần này sẽ do Bác sĩ Nguyễn Trọng Việt tŕnh bày.

    — -

    (Bác sĩ Nguyễn Trọng Việt)

    Kính chào toàn thể quư vị,

    Qua những điều tŕnh bày của Bác sĩ Đặng Vũ Chấn nói trên, chúng ta thấy là tất cả những nguồn lực chính trị đều tùy thuộc vào sự chấp nhận và tuân thủ của quần chúng cũng như sự hợp tác của họ đối với các mệnh lệnh do chế độ đưa ra.

    Sự hợp tác và tuân phục của người dân vào các chính sách cai trị của chế độ độc tài sẽ làm gia tăng nguồn lực chính trị và do đó sẽ tăng cường uy quyền của các đảng độc tài trong xă hội. Trong bất cứ chế độ nào, nhóm cầm quyền luôn luôn dựa trên vài khối quần chúng để nhân danh quyền cai trị. Tuy nhiên v́ những chế độ độc tài - như độc tài cộng sản - đ̣i hỏi phải có nhiều quyền lực để mà đối phó trước sự nổi dậy của người dân, nên những chế độ này thường có nhu cầu tập trung sự tuân phục một cách tuyệt đối của quần chúng vào chế độ.

    Như vậy, quyền lực chính trị trong xă hội tùy thuộc vào việc người dân có khả năng và điều kiện để hành xử quyền công dân của họ nhiều hay ít. Nếu họ được tôn trọng và hành xử quyền công dân nhiều th́ chính quyền luôn luôn đi t́m sự hợp tác của các định chế quần chúng để tạo sự ổn định xă hội. Nếu họ bị khống chế và bị tước đoạt mọi quyền công dân th́ chính quyền - tuy kiểm soát xă hội chặt chẽ - nhưng luôn luôn phải đối phó mọi cuộc phản kháng chính trị bùng nổ. Nói cách khác, mức độ tự do hay chuyên chính của bất cứ chính quyền nào phần lớn phản ảnh mức độ hành xử quyền công dân nhiều hay ít của người dân, cũng như sự sẵn sàng và khả năng kháng cự của người dân trước những thế lực t́m cách trói buộc họ vào ṿng nô lệ.

    Khi người dân rút lại những sự hợp tác và tuân phục đối với chính quyền, nhất là bắt đầu phản kháng lại những hành vi vô lối của cán bộ, những kẻ độc tài bắt đầu co rút hay phải cắt đứt những nguồn lực chính trị mà họ thường dựa vào để nhân danh quyền lănh đạo. Khi bị người dân cô lập và từng bước vô hiệu hóa các nguồn lực chính trị của thiểu số lănh đạo, chế độ độc tài sẽ yếu dần và cuối cùng tan ră theo một tiến tŕnh tiệm tiến từng bước. Dĩ nhiên, chế độ độc tài rất nhạy cảm về sự bất phục tùng của người dân và luôn luôn hoảng sợ về những cuộc chống đối có thể xảy ra. Do đó mà họ rất nhanh tay tung ra những tuyên bố mang tính răn đe hoặc trừng phạt mạnh mẽ nhắm vào những người mà chế độ coi là nguy hiểm.

    Sự trấn áp, ngay cả bằng bạo lực không phải luôn luôn làm người dân trở lại t́nh trạng tuân phục và hợp tác với chế độ như trước mà ngược lại nó dẫn đến t́nh trạng giằng co và đối đầu từng sự việc giữa người dân và chế độ. Nếu người dân được hướng dẫn để chịu đựng các biện pháp trấn áp và nhất là tiếp tục duy tŕ lập trường bất hợp tác, bất tuân phục các mệnh lệnh của chế độ trong một khoảng thời gian đủ dài để đọ sức, th́ sau đó, các chế độ độc tài sẽ phải t́m biện pháp tháo chạy bằng những chiêu bài đối thoại, hội nghị bàn tṛn để mua thời gian. Theo kinh nghiệm của Đông Âu, một khi phong trào quần chúng vượt qua giai đoạn bị trấn áp gay gắt, người dân sẽ không c̣n biết sợ nữa và đa số sẽ tự động tham gia các cuộc biểu t́nh bao vây chính quyền độc tài cho đến khi chế độ này tan ră.

    Rút từ những biến chuyển của cuộc cách mạng dân chủ tại Đông Âu và tại các nước xảy ra cuộc cách mạng Màu vào đầu thế kỷ 21, theo Tiến Sĩ Gene Sharp, người ta đă rút ra ba yếu tố quan trọng nhất để xác định mức độ một chính quyền đang kiểm soát hay đang mất dần khả năng kiểm soát của họ:

    Thứ nhất là sự mong muốn của quần chúng trong việc giới hạn quyền lực cai trị của chính quyền (so với sự mong muốn ngược lại của chế độ) trong việc đặt giới hạn về quyền lực của nhà cầm quyền.

    Đây là yếu tố biểu hiện tinh thần bất phục tùng dân sự bắt đầu bén rễ trong xă hội dưới những h́nh thức: lăng công; làm việc không theo giờ giấc quy định của nhà cầm quyền; tham dự các cuộc họp trễ; không cho con em của ḿnh tham gia vào các sinh hoạt đảng, đoàn; công khai lên tiếng phê phán những hành động tham ô của cán bộ; đặt vấn đề khi có những giải quyết không theo đúng quy tŕnh đă vạch ra. Đây có thể coi là giai đoạn mà người dân không c̣n âm thầm chịu đựng những khống chế, đàn áp tuỳ tiện của chế độ mà bắt đầu lên tiếng phản kháng trong phạm vị cá nhân hay gia đ́nh.

    Thứ hai là sức mạnh của những tổ chức độc lập và những định chế xă hội của người dân lập ra (so với sức mạnh ngược lại của chế độ ) trong việc cùng nhau biểu hiện sự bất phục tùng, bất hợp tác hay phản kháng lại các mệnh lệnh của chính quyền một cách công khai và ôn ḥa.

    Đây là yếu tố biểu hiện những phản ứng của số đông nhằm tạo những áp lực lên chính quyền để có những thay đổi hay cải tổ phù hơp theo nguyện vọng của số đông này. Một cá nhân đơn độc thường có phản ứng thụ động trước những thay đổi của xă hội. Nhưng khi nhiều cá nhân chia xẻ với nhau cùng một quan tâm, cùng một ước muốn th́ sớm muộn ǵ họ cũng sẽ bày tỏ công khai ra bên ngoài để vừa t́m sự đồng thuận của nhiều nhóm quần chúng khác; vừa t́m cách thực hiện những quan tâm của họ mà không ngồi chờ chính quyền cho phép hay câu giờ giải quyết.

    Thứ ba là khả năng của quần chúng (so với khả năng ngược lại của chế độ) trong việc rút lại sự hỗ trợ, sự chấp thuận dành cho chế độ.

    Đây là yếu tố biểu hiện những phản kháng của quần chúng bắt đầu lan sang lănh vực chính trị. Dân chúng cương quyết không đi bầu, công khai tẩy chay danh sách những ứng cử viên do nhà nước đưa ra qua những cuộc bầu cử quốc hội hay ủy ban nhân dân địa phương. Hay cùng nhau tẩy chay không đóng bất cứ loại tiền nào do chính quyền địa phương đưa ra như tiền sửa đường, sửa cầu cống, sửa trường học hay bệnh xá. Tuy những khoản đóng góp này là cho người dân nhưng trong thực tế đa số chạy vào túi riêng của cán bộ kể cả những khoản tiền tài trợ từ chính quyền Trung Ương. Nói chung, khi các tập hợp quần chúng bắt đầu bày tỏ những hành động rút lại các sự ủng hộ hay không thi hành những mệnh lệnh của chính quyền th́ sự phản kháng của dân chúng đă đổi sang thế đối đầu. T́nh h́nh vào lúc này đă trở nên gay gắt và hai phía (quần chúng và chính quyền độc tài) không c̣n có thể thoái lui. Một là phong trào quần chúng sẽ bộc phát mạnh mẽ tạo các áp lực sinh tử lên chính quyền. Hai là chính quyền phản công, tung kế hoạch đàn áp khốc liệt đối với các nhà dân chủ.

    Nói tóm lại, quyền lực trong xă hội không phải là điều ǵ bất biến mà luôn luôn ở vào thế giằng co giữa một bên là quần chúng và bên kia là chế độ độc tài. Đấu tranh bất bạo động là làm sao cho quyền lực xă hội luôn luôn nghiêng về phía người dân ngày một nhiều, tức là giúp cho các định chế xă hội phát triển và mở rộng trong người dân, để bất cứ ai cũng có thể tham gia mà không sợ sệt bị đàn áp hay trả thù.

    Bây giờ ta tóm gọn những điểm tŕnh bày trên áp dụng vào trường hợp Việt Nam th́ như thế nào?

    Kính thưa quư vị,

    Hai nhân tố cốt lơi trong tương quan quyền lực là kẻ nắm quyền (CSVN) và kẻ bị trị (nhân dân VN)

    Tương quan quyền lực chỉ có thể có khi kẻ nắm quyền có khả năng hay tạo được ấn tượng có khả năng chi phối ảnh hưởng lên vận mạng của kẻ bị trị và khi những kẻ bị trị chấp nhận t́nh trạng bị chi phối đó. Hai yếu tố: khả năng chi phối ảnh hưởng và chấp nhận bị chi phối ảnh hưởng có quan hệ mật thiết với nhau, cái nọ kéo theo cái kia. Cho nên muốn thay đổi tương quan quyền lực th́ hoặc làm giảm khả năng ảnh hưởng của thành phần cầm quyền hoặc làm giảm đi sự chấp nhận bị chi phối ảnh hưởng của thành phần bị tri.

    Hiện nay CSVN nắm trong tay bộ máy trấn áp bạo lực (công an quân đội), bộ máy quản trị hành chánh, hệ thống tư pháp lẫn lập pháp, nguồn kinh tế vật chất tài chánh, bộ máy thông tin tuyên truyền nên có thể chi phối vận mệnh của người dân từ vật chất đến tinh thần. Người dân Việt Nam v́ thế phải chấp nhận ở thế bị trị, lâu ngày sự chấp nhận trở thành một tập quán tự nhiên ăn sâu vào tư duy văn hóa. Cho nên câu hỏi đặt ra cho chúng ta là làm thế nào giảm thiểu khả năng chi phối ảnh hưởng của CSVN hoặc/và làm giảm đi việc quần chúng an phận chấp nhận quyền lực của Đảng và Nhà nước CSVN?

    Để dễ trả lời câu hỏi này, ta cần phải thấy rơ rằng những yếu tố làm nên quyền lực đă kể ở trên từ nhân lực, tài năng, nguồn vật chất hay tinh thần, biểu kiến chính danh vân, vân… không phải là những yếu tố ổn định măi măi bất di bất dịch mà có thể thay đổi theo thời gian và điều kiện khác trước. Và sự thay đổi này con người có thể tác động lên một cách chủ động.

    Ngoài ra, nh́n những diễn biến của t́nh h́nh Việt Nam, đặc biệt là những dấu hiệu suy thoái trong nội bộ đảng CSVN mà họ gọi là “tự diễn biến nội bộ” cũng như làn sóng đấu tranh không chỉ ở trong thành phần dân oan, công nhân thấp cổ bé miệng mà đă lan sang thành phần trí thức, thanh niên sinh viên, các lực lượng tôn giáo và cả những cựu đảng viên cán bộ đảng CSVN, cho thấy tương quan quyền lực giữa CSVN và quần chúng VN đang thay đổi.

    Điển h́nh là vào ngày 19 tháng 11 năm 2010 vừa qua, hàng trăm người dân tại xă Minh Phú thuộc Huyện Sóc Sơn, Hà Nội , trong khi phản đối dự án xây dựng công viên nghĩa trang Thiên Đường, đă bắt nhốt Phó Huyện Ủy Huyện Sóc Sơn và một Đại uư công an trong văn pḥng của Ủy ban nhân dân xă, để chống lại hành vi đánh người và bao che cho công ty Hoa Sen tiến hành việc xây dựng công viên nghĩa trang có nguy cơ đe dọa nghiêm trọng môi trường sinh thái trong vùng mà người dân đă nhiều lần phản đối nhưng chính quyền xă và huyện không lắng nghe. Đây chỉ là một trong hàng ngàn vụ đă và đang xảy ra tại VN cho thấy người dân không c̣n cúi đầu tuân phục nữa mà đă hành động để thay đổi những ǵ đang xảy ra chung quanh họ.

    Vấn đề của chúng ta hiện nay là làm sao khai dụng những tâm lư muốn thay đổi của người dân Việt Nam như đế cập bên trên, để góp phần vào sự suy giảm khả năng chi phối của đảng và nhà nước CSVN nhanh hơn nữa cũng như việc quần chúng nhân dân càng ngày càng bớt tuân phục quyền lực từ đảng và nhà nước CSVN là nội dung chính yếu mà chúng tôi muốn mời quư vị cùng đóng góp ư kiến và có thể đưa ra những ví dụ, những trường hợp đă và đang xảy ra tại Việt Nam.

    Trân trọng kính chào và cảm ơn sự lắng nghe của quư vị.

    — -

    Ông Đặng Vũ Chấn


    Ông Đặng Vũ Chấn là Bác sĩ chuyên khoa hành nghề tại vùng Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ, đă từng tham gia tổ chức nhiều sinh hoạt lớn nhỏ trong cộng đồng từ sinh hoạt đấu tranh cho dân chủ nhân quyền đến các sinh hoạt văn hóa, xă hội, giáo dục, y tế liên tục từ 1984 tới nay.

    Bác sĩ Đặng Vũ Chấn tham gia đảng Việt Tân từ năm 1985. Ông là Ủy viên Trung Ương Đảng từ năm 2001.

    Ông Nguyễn Trọng Việt


    Bác sĩ Nguyễn Trọng Việt tốt nghiệp Bác Sĩ Y Khoa tại Việt Nam và Chuyên Khoa tại Hoa Kỳ. Ông tham gia vào Đảng Việt Tân từ năm 1984. Ông là Ủy viên Trung Ương Đảng từ năm 2001 đến nay.

    — -

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Thành Phần Lănh Đạo Đảng Việt Tân

    Đầu tháng 9 năm 2012, Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng đă tổ chức Đại Hội Toàn Đảng Kỳ VII, đánh dấu đúng 30 năm ngày thành lập Đảng Việt Tân (1982-2012). Đại Hội VII đă tiến hành với hai nội dung chính: 1/Lượng duyệt về quá tŕnh hoạt động của Đảng trong giai đoạn vừa qua cũng như thảo luận và biểu quyết các đường hướng đấu tranh trong 5 năm tới. 2/Tuyển chọn Tân Trung Ương Đảng Bộ, cơ quan lănh đạo cao nhất của đảng có nhiệm vụ điều hướng các hoạt động của đảng ở trong và ngoài Việt Nam. Nhân sự trong Trung Ương Đảng Bộ đă được các đại biểu tuyển chọn theo h́nh thức phổ thông đầu phiếu, có nhiệm kỳ là 5 năm.

    Dưới đây là một số nhân sự lănh đạo của Đảng Việt Tân:

    Ông Đỗ Hoàng Điềm


    Ông Đỗ Hoàng Điềm sinh năm 1963 tại Sài G̣n. Ông tốt nghiệp Cao học Quản trị tại Đại học Houston, Hoa Kỳ vào năm 1987. V́ không thể chấp nhận t́nh trạng độc tài và bất công đang xẩy ra tại quê nhà, ông tham gia phong trào tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam từ lúc c̣n là sinh viên và gia nhập đảng Việt Tân vào năm 1982. Sau khi tốt nghiệp, ông đă từng giữ chức vụ Giám đốc cho nhiều công ty lớn tại Hoa Kỳ trong những lănh vực như ngân hàng, chế xuất, và y tế, trước khi hoạt động toàn thời gian cho đảng Việt Tân và công cuộc dân chủ hóa Việt Nam. Ông đă từng là diễn giả tại một số những cuộc hội thảo quốc tế về dân chủ, nhân quyền, tư do ngôn luận; gặp gỡ một số nguyên thủ và chính giới các quốc gia đồng thời điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ về những vấn đề liên quan đến t́nh h́nh Việt Nam. Ngoài ra ông c̣n hoạt động tích cực trong lănh vực truyền thông và phục vụ cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Ông được bầu vào Trung Ương Đảng Bộ từ năm 2001 và đă giữ trách vụ Chủ Tịch Đảng từ năm 2006 và được tái tín nhiệm trách vụ này trong Đại Hội VII (2012).

    Ông Lư Thái Hùng


    Ông Lư Thái Hùng sinh năm 1952 và du học tại Nhật Bản vào năm 1971. Ông tốt nghiệp Kỹ Sư và Cao Học Công Chánh tại Đại Học Tokyo Metropolitan, Nhật Bản vào năm 1980. Ông là một trong những thành viên lănh đạo của Tổ Chức Người Việt Tự Do, một tổ chức đấu tranh đầu tiên của người Việt tại hải ngoại sau năm 1975 và cũng là tổ chức ṇng cốt thành lập Mặt Trận vào năm 1980 và sáng lập ra Việt Nam Canh Tân Cách Mạng vào tháng 9 năm 1982. Trước khi sang phục vụ toàn thời gian cho công cuộc đấu tranh tại Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 1985, ông đă cùng với nhiều chính giới và trí thức Nhật Bản thành lập Hiệp Hội Liên Đới Giúp Đỡ Người Tỵ Nạn Đông Dương, nay đổi tên là Hiệp Hội Liên Đới Người Đông Dương tại Nhật Bản. Ngoài lănh vực đấu tranh, ông c̣n là nhà b́nh luận sắc bén với những bài phân tích về thời sự Việt Nam và Á Châu và nói chuyện trên các chương tŕnh phát thanh Việt ngữ. Ông cũng là tác giả tập biên khảo chính trị "Đông Âu tại Việt Nam" phát hành đầu năm 2007. Ông được đề cử giữ trách vụ Tổng Bí Thư Đảng từ năm 2001 và được tái tín nhiệm trách vụ này trong Đại hội VI (2006) và Đại hội VII (2012).

    Ông Hoàng Tứ Duy



    Ông Hoàng Tứ Duy tốt nghiệp Cao Học Quản Trị tại Đại Học University of Chicago năm 1995 và có kinh nghiệm trong ngành ngân hàng. Trong 10 năm làm việc tại Công Ty Tài Chính Quốc Tế (IFC), bộ phận phụ trách cho tư nhân vay của Ngân Hàng Thế Giới, ông thành lập chương tŕnh cho vay bằng tiền tệ nội địa tại một số quốc gia Đông Âu và Á Châu, trong đó có Việt Nam. Trong những lần đại diện Ngân Hàng Thế Giới công tác tại Việt Nam, ông đă thấy rơ tiềm năng của dân tộc, và nhận thấy dân chủ là điều kiện cần có để khai dụng tiềm năng đất nước và phát triển bền vững. Với tâm nguyện đó, ông đă dành hết thời gian hoạt động toàn thời cho công cuộc dân chủ hóa Việt Nam và đă tham gia, phát biểu tại nhiều diễn đàn quốc tế để vận động dư luận quan tâm và hỗ trợ phong trào dân chủ tại Việt Nam. Ông cũng từng tham dự các cuộc điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ và viết một số bài quan điểm đăng trên các tạp chí Hoa Kỳ và Thế giới. Ông tham gia Đảng Việt Tân năm 1996 và được bầu vào Trung Ương Đảng Bộ từ năm 2001 cho đến nay. Ông hiện là Phát Ngôn Nhân của Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng.

    Ông Nguyễn Đỗ Thanh Phong


    Ông Nguyễn Đỗ Thanh Phong sinh năm 1970, tốt nghiệp Bác Sĩ Y Khoa và Chuyên Khoa tại Úc Đại Lợi. Ông đă tham gia tích cực vào các sinh hoạt cộng đồng kể từ khi đặt chân đến Úc Châu. Ông đă từng giữ trách vụ Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Học Sinh Việt Nam Liên Bang Úc Châu (1997-1999) và là Trưởng Ban Tổ Chức Đại Hội Thanh Niên Sinh Viên Việt Nam Thế Giới Kỳ I (1999) tại Melbourne, Úc Châu. Ông cũng là đồng sáng lập viên của Mạng Lưới Tuổi Trẻ Việt Nam Lên Đường, một phong trào liên kết những giới trẻ Việt Nam ở trong và ngoài nước cho các hoạt động dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Trong sinh hoạt Cộng đồng, ông từng giữ trách vụ Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu (2001-2003). Ông cũng từng tham dự các cuộc điều trần với chính giới Úc Châu về t́nh h́nh Việt Nam . Ông tham gia Đảng Việt Tân từ năm 1998 và được bầu vào Trung Ương Đảng Bộ từ năm 2006 cho đến nay.

    Ông Nguyễn Kim


    Ông Nguyễn Kim là cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa trước năm 1975. Ông là một trong những thành viên sáng lập Đảng Việt Tân vào năm 1982. Ông từng phụ trách Văn pḥng liên lạc của Mặt Trận/Việt Tân tại Đông Nam Á trong nỗ lực vận động các quốc gia Đông Nam Á ủng hộ công cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ của dân tộc Việt Nam vào đầu thập niên 80. Năm 1985, ông được bầu vào Trung Ương Đảng Bộ và giữ trách vụ Bí Thư Đảng Bộ Hải Ngoại. Ông được đề cử giữ trách vụ Tổng Bí Thư Đảng từ năm 1999 và Chủ Tịch Đảng trong nhiệm kỳ 2001-2006. Ông hiện là Ủy viên Trung Ương Đảng.

    Ông Nguyễn Quốc Quân


    Ông Nguyễn Quốc Quân dạy học tại Kiên Giang từ năm 1976 đến 1981. Vượt biển định cư tại Hoa Kỳ và tốt nghiệp tiến sĩ Toán tại North Carolina State University năm 1987. Ông tham gia Đảng Việt Tân từ năm 1988. Là một trong những sáng lập viên Hội Chuyên Gia Việt Nam, ông thường xuyên sinh hoạt gần gũi với giới trẻ hải ngoại cũng như quốc nội để chia sẻ về hiện trạng và nỗ lực cần có trong tiến tŕnh dân chủ hoá đất nước. Ông bị bắt tại Việt Nam tháng 11 năm 2007 trong một chuyến công tác quảng bá phương pháp đấu tranh Bất Bạo Động và bị giam 6 tháng. Do sự vận động của người Việt khắp nơi và áp lực quốc tế, nhà cầm quyền Hà Nội đă phải trả tự do cho ông. Sau khi ra khỏi nhà tù CSVN vào năm 2008, ông vẫn thường xuyên ra vào Việt Nam để tiếp tục quảng bá phương pháp đấu tranh bất bạo động. Ông bị CSVN bắt lần thứ hai ngay khi về đến Phi trường Tân Sơn Nhất vào ngày 17 tháng 4 năm 2012 với tội danh “khủng bố”; nhưng 4 tháng sau, CSVN tự động đổi thành tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền” khi thấy những cáo buộc khủng bố quá phi lư. Ông hiện c̣n bị CSVN giam giữ tại Sài G̣n. Ông được bầu vào Trung Ương Đảng Bộ từ năm 2006 cho đến nay. Nguyện vọng của anh là được sống phần đời c̣n lại tại Việt Nam ngay sau khi đất nước thực sự có Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền.

    Ông Đặng Vũ Chấn


    Ông Đặng Vũ Chấn sinh năm 1955, là Bác sĩ chuyên khoa hành nghề tại vùng Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ. Ngay từ thời sinh viên, ông đă từng tham gia tổ chức nhiều sinh hoạt lớn nhỏ trong cộng đồng từ sinh hoạt đấu tranh cho dân chủ nhân quyền đến các sinh hoạt văn hóa, xă hội, giáo dục, y tế liên tục kéo dài tới nay. Ông cũng tham dự các cuộc điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ về t́nh h́nh đàn áp nhân quyền tại Việt Nam. Ông được bầu vào Trung Ương Đảng Bộ Việt Tân từ năm 2001 cho đến hôm nay.

    Bà Đông Hà Xuyến



    Bà Đông Hà Xuyên, là Tiến Sĩ Tâm Lư trị liệu và Cao học về Xă hội, có bằng hành nghề chẩn định chữa trị tâm bệnh. Bà đang làm việc cho Bộ Y Tế tâm thần địa phương nhiều năm trong lănh vực trị liệu và quản trị điều hành và tham gia nhiều công tác từ thiện từ năm 1987. Bà c̣n là diễn giả, huấn luyện viên, và cố vấn các chương tŕnh y tế tâm thần/tâm lư cho nhiều dịch vụ bất vụ lợi, các trường đại học, hội thảo cộng đồng, và truyền thông địa phương. Do quá tŕnh hoạt động và phục vụ xă hội này, bà được b́nh chọn và nhận Tuyên dương Phục Vụ Dân Sinh của chính quyền quận Cam, Tiểu bang California năm 1994 và nhận Giải thưởng Đóng Góp Tích Cực cho cộng đồng người Mỹ gốc Á Châu năm 1998 từ đại học Long Beach, Tiểu bang California. Bà được Báo Orange County Register b́nh chọn là một trong ba mươi người Mỹ gốc Việt Góp Phần Thay Đổi Cục Diện Của Cộng Đồng vào năm 2004. Bà đă nhận bằng tuyên dương Người Phụ Nữ Tạo Được Thay Đối Tích Cực Cho Xă Hội của văn pḥng thượng nghị sĩ Hoa Kỳ năm 2010. Bà tham Đảng Việt Tân từ năm 1997 và được bầu vào Trung Ương Đảng Bộ năm 2012.

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Đảng Việt Tân
    Chương Tŕnh Hành Động




    Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng xin long trọng đề nghị cùng đồng bào trong và ngoài nước chương tŕnh hành động nhằm từng bước gỡ bỏ những giới hạn về dân chủ và nhân quyền tại VN, để h́nh thành bối cảnh sinh hoạt đa nguyên, tạo điều kiện chuyển hóa từ t́nh trạng độc tài sang một thể chế dân chủ đích thực. Chương tŕnh hành động này được tiến hành với 3 yêu cầu chủ yếu sau đây:

    Thứ nhất: phải do chính người Việt Nam chủ động thực hiện.

    Thứ hai: phải thực tiễn và khả thi, dựa trên tương quan sức mạnh giữa các tập hợp dân tộc dân chủ trong và ngoài nước với thế lực đương quyền, đồng thời cũng phù hợp với xu thế thời đại và bối cảnh chung của thế giới.

    Thứ ba: phải giảm thiểu những đổ vỡ không cần thiết, bảo vệ tiềm năng vươn lên của dân tộc và tạo nền tảng cho công cuộc canh tân bền vững của đất nước trong tương lai.

    Chương tŕnh hành động này được trải rộng trên nhiều b́nh diện và được triển khai theo những phương hướng hành động chính:

    Phương hướng 1 - Cải Thiện Dân Sinh, Phục Hồi Dân Quyền

    Chế độ độc tài do đảng cộng sản Việt Nam đang áp đặt lên dân tộc là nguyên nhân chính của t́nh trạng hiện nay tại VN, khiến dân quyền bị chà đạp, dân sinh bị bỏ phế. Giải pháp căn bản để thực thi dân quyền và phát triển dân sinh là phải chấm dứt chế độ độc tài này. Tuy nhiên, trong công cuộc tranh đấu lâu dài để xây dựng thể chế dân chủ đích thực, mục tiêu cải thiện dân sinh, phục hồi dân quyền trong khi chế độ độc tài c̣n đang tồn tại, vẫn là một yêu cầu quan trọng, nhằm bảo vệ quyền lợi thiết thân của người dân, và ngăn chặn t́nh trạng bóc lột, trấn áp đă và đang là chính sách cai trị. Do đó, đảng Việt Tân khẩn thiết kêu gọi các lực lượng dân tộc dân chủ ở trong và ngoài nước cùng nỗ lực :

    - Thành lập Trung Tâm theo dơi dân sinh, dân quyền tại Việt Nam.

    Mục tiêu của Trung Tâm này là nhằm thu thập những dữ kiện, tài liệu về t́nh trạng dân sinh, dân quyền và công bố những bản phúc tŕnh hàng năm. Trung tâm này cũng theo dơi và hỗ trợ những trường hợp khiếu kiện v́ bị oan ức hay bị ngược đăi, bất công.

    - Hỗ trợ những cá nhân, hội đoàn đang đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng, hủ hóa của guồng máy cai trị.

    Tham nhũng là một quốc nạn của Việt Nam hiện nay, đang gây ra rất nhiều thiệt hại cho đất nước và khốn đốn cho nhân dân. Trong thời gian qua, nhiều cá nhân đă mạnh dạn lên tiếng tố cáo các hành vi tham nhũng của cán bộ, viên chức đảng và nhà nước. Một số nơi cũng đă mạnh dạn thành lập các hội chống tham nhũng. Chúng ta cần hỗ trợ những cá nhân, hội đoàn này để họ có điều kiện đấu tranh chống tham nhũng và hủ hóa một cách hữu hiệu.

    - Tranh đấu cho quyền tự do nghiệp đoàn và quyền tự do đ́nh công để bảo vệ quyền lợi của giới công nhân.

    Tại Việt Nam, quyền tự do nghiệp đoàn bị chà đạp một cách trắng trợn. Ngoài Công Đoàn Lao Động do đảng Cộng sản Việt Nam lập ra và kiểm soát, không có một tổ chức độc lập nào đại diện cho giới công nhân được phép thành lập ở Việt Nam. Mọi công nhân đều bị buộc phải gia nhập vào Công Đoàn của nhà nước, một tổ chức nghiệp đoàn không hề bảo vệ mà cũng chẳng thực sự đại diện cho họ. Do đó, các vụ vi phạm quyền lao động và xúc phạm nhân phẩm của công nhân đă xảy ra thường xuyên ở các hăng xưởng và xí nghiệp. V́ vậy, cần tranh đấu cho sự độc lập và tư cách đại diện thật sự của các nghiệp đoàn, đồng thời theo dơi và bênh vực cho người lao động Việt Nam.

    - Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi cho các công nhân Việt Nam bị xuất khẩu ra nước ngoài.

    Để trả nợ cho một số nước và để thu nhập thêm ngoại tệ, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đă và đang xuất khẩu người lao động ra nước ngoài. Phần lớn những người này phải làm việc trong những hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt và bị bóc lột dă man ở một số nơi. Do đó, cần có nỗ lực theo dơi và bênh vực cho người lao động Việt Nam ở nước ngoài nhằm bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi của họ.

    - Hỗ trợ và thực hiện những chương tŕnh nhân đạo trợ giúp trực tiếp cho đồng bào trong nước.

    Việt Nam là một nước nghèo và lạc hậu, lại bị cai trị bởi một nhà cầm quyền vừa thiếu khả năng về kinh tế, quản lư vừa vô trách nhiệm trong việc giúp dân đối phó với thiên tai, dịch bệnh ..v..v... Với chủ trương lấy dân làm gốc, đảng Việt Tân thực hiện và hỗ trợ những chương tŕnh nhân đạo từ thiện nhằm giúp đỡ trực tiếp cho đồng bào trong nước. Để tránh các trở ngại do nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam tạo ra v́ lư do chính trị, các chương tŕnh trợ giúp này sẽ không minh danh đảng Việt Tân khi thực hiện.

    - Chấm dứt t́nh trạng đày đọa tuổi thơ vào hoàn cảnh phải lao động kiếm sống.

    Bước vào thế kỷ 21, một xă hội văn minh tiến bộ không cho phép có những lớp trẻ thơ bị gia đ́nh hất hủi, bị xă hội ruồng bỏ, nên đành phải cực nhọc lao động kiếm sống để sinh tồn. Cũng vậy, tuổi thơ Việt Nam phải có một cuộc sống an lành với những nhu cầu căn bản của đời sống và phát triển như cơm áo, y tế sức khoẻ và giáo dục ..v..v.. Những nhu cầu thiết yếu này cần được bảo đảm, chu cấp bởi các chương tŕnh của quốc gia và được bảo vệ bởi luật pháp. Trong giai đoạn đất nước đang bị thống thị bởi một thể chế độc tài không có khả năng lẫn thiện chí giải quyết rốt ráo các vấn nạn của tuổi thơ, chúng ta cần đặc biệt cổ xuư những chương tŕnh từ thiện hướng về những trẻ em bất hạnh này, nhất là giúp đỡ về mặt sức khoẻ tâm-thể-lư và giáo dục hầu giúp các em không những có được một tương lai tươi sáng, mà c̣n có đủ khả năng về tâm, trí, lực để đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước mai sau.

    Phương hướng 2 - Thúc Đẩy Các Sinh Hoạt Đa Nguyên

    Do thực tế của việc mở cửa để hội nhập với các quốc gia trong vùng và vào nền kinh tế toàn cầu, lănh đạo đảng Cộng sản Việt Nam mất dần khả năng khống chế những sinh hoạt của xă hội. Từ đó, những hoạt động có tính đa nguyên đang h́nh thành trên nhiều lănh vực văn hóa, giáo dục, kinh tế, xă hội, tôn giáo v.v... vượt dần ra khỏi sự ràng buộc của ư thức hệ cộng sản và sự kiềm tỏa của chế độ. Để các sinh hoạt đa nguyên được nẩy nở và phát triển, Đảng Việt Tân kêu gọi các lực lượng dân tộc dân chủ ở trong và ngoài nước cùng nỗ lực:

    - Mở rộng sự trao đổi và liên đới giữa đồng bào trong và ngoài nước.

    Cộng đồng dân tộc Việt v́ hoàn cảnh của lịch sử đă được phân chia thành hai khối : quốc nội và hải ngoại. Dù đang sinh sống trong hoàn cảnh môi trường nào, dù ở trong hay ngoài nước, mọi con dân Việt vẫn luôn hướng về tổ quốc, vẫn nhận thức được trách nhiệm và vai tṛ chuyên biệt của ḿnh trong việc đấu tranh cho một tương lai mới tươi sáng của dân tộc. Mở rộng sự trao đổi và liên đới giữa hai khối này là một nhu cầu để xiết chặt t́nh đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp nhằm tranh đấu cho mục tiêu chung là chấm dứt độc tài, canh tân Việt Nam, đồng thời cũng giúp phá vỡ sự bưng bít thông tin, tạo cơ hội cho đồng bào trong nước thoát dần ra khỏi những khống chế của nhà cầm quyền.

    - Hỗ trợ những hoạt động độc lập và tự phát của quần chúng trên các lănh vực văn hóa, giáo dục, xă hội, tôn giáo, ái hữu, tương tế...

    Mặc dù trên chính sách, đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam vẫn khống chế mọi hoạt động tập thể của người Việt Nam. Nhưng trên thực tế, sự khống chế này đang ngày một mất hiệu quả. Nhiều nhóm, nhiều hội đoàn, đă được thành lập một cách tự phát và hoạt động bên ngoài sự kiểm soát này. Đây là biểu hiện tích cực của sự đa nguyên cần thiết trong xă hội. Hỗ trợ những hoạt động độc lập và tự phát này là tạo điều kiện để các sinh hoạt đa nguyên nẩy nở và phát triển.

    - Tranh đấu cho quyền thành lập và hoạt động độc lập của các tổ chức phi chính phủ, thiện nguyện, nhân đạo.

    Trong một xă hội dân chủ và phát triển, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức thiện nguyện, nhân đạo đóng một vai tṛ quan trọng. Nó giúp bổ khuyết sự thiếu sót của chính quyền trên nhiều lănh vực của xă hội. Để đảm trách tốt đẹp vai tṛ này, các tổ chức nói trên phải thật sự độc lập với chính quyền. Tại Việt Nam, đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam vẫn t́m cách kiểm soát và chi phối hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, thiện nguyện hay nhân đạo. Do đó, cần tranh đấu để xóa bỏ mọi sự kiểm soát và chi phối để các tổ chức phi chính phủ, thiện nguyện này có thể đóng góp một cách hữu hiệu và tích cực cho xă hội Việt Nam.

    - Tranh đấu cho quyền tự do ngôn luận và tự do phát biểu tư tưởng.

    Đây là một sinh hoạt căn bản nhất của một xă hội dân chủ đa nguyên và là điều kiện cần thiết để vận động trí tuệ của người dân vào những kế sách phát triển và xây dựng quốc gia. Người dân chỉ có thể tham gia việc nước khi họ có tự do đóng góp ư kiến, tự do phê b́nh qua phát biểu, bài viết hoặc tự do ấn hành sách báo, thực hiện các chương tŕnh truyền thanh truyền h́nh ..v.v... Khi chính quyền t́m cách khống chế các quyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng bằng kiểm soát thông tin, sẽ chỉ là cho xă hội nghèo đi và đất nước sẽ măi măi tụt hậu.

    - Tranh đấu cho quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo.

    Quyền tự do tín ngưỡng là một quyền thiêng liêng của mỗi cá nhân mà chính quyền phải tôn trọng và bảo vệ. Nhưng quyền tự do tín ngưỡng chỉ có giá trị khi mọi tôn giáo có được quyền tự do hành đạo và phát triển mà chính quyền không được ảnh hưởng lên nội bộ và xen lấn vào các sinh hoạt của Giáo Hội hay của Ban Trị Sự. Đảng Cộng sản Việt Nam tuy cho phép dân chúng thờ cúng, cũng như dựng lên những Giáo hội quốc doanh để vận hành các Nhà thờ, Chùa, Thánh Thất nhưng tất cả nằm trong sự kiểm soát theo nguyên tắc "xin và cho" của đảng, c̣n những cơ sở tôn giáo nào không chịu theo nguyên tắc này sẽ bị trù dập. V́ thế, đấu tranh cho quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo là phải loại bỏ nguyên tắc "xin và cho", đồng thời giải tán các giáo hội quốc doanh hiện nay.

    Phương hướng 3 - Xây Dựng Sức Mạnh Tổng Hợp Của Dân Tộc

    Việt Nam sẽ không thể thoát khỏi độc tài và lạc hậu, nếu không khai dụng được những yếu tố tích cực của dân tộc tiềm tàng trong mọi tổ chức, mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước. Kết hợp rộng răi những yếu tố tích cực này chính là xây dựng sức mạnh tổng hợp của dân tộc, và sức mạnh này hướng đến một mục tiêu chung là đấu tranh chấm dứt độc tài và canh tân Việt Nam. Xây dựng sức mạnh tổng hợp này là một yêu cầu bức thiết của t́nh h́nh hiện nay, v́ không có một tổ chức hay một thành phần dân tộc duy nhất nào có đủ khả năng để một ḿnh giải quyết các vấn nạn của dân tộc. Đảng Việt Tân kêu gọi các lực lượng dân tộc dân chủ ở trong và ngoài nước cùng nỗ lực:

    - Ủng hộ mọi hoạt động có chung một mục tiêu của mọi thành phần dân tộc và tổ chức.

    Sự ủng hộ này là một hành động cụ thể để góp phần xây dựng sức mạnh tổng hợp của dân tộc. Do đó, chúng ta hăy cùng nhau tham gia, hỗ trợ, hợp tác với mọi hoạt động của các thành phần dân tộc và tổ chức khác có cùng chung mục tiêu, cũng như tôn trọng những dị biệt và cùng phát huy những tương đồng để thúc đẩy tiến tŕnh đấu tranh chung. Những đảng viên Việt Tân, trong điều kiện và hoàn cảnh của ḿnh, sẵn sàng đặt dưới sự lănh đạo của lực lượng, tổ chức khác đang chủ động tiến hành những chương tŕnh kế hoạch cụ thể có lợi cho công cuộc đấu tranh chung.

    - Mở rộng sự trao đổi và hợp tác song phương và đa phương.

    Chúng ta hăy chủ động tạo ra nhiều cơ hội gặp gỡ, liên lạc, trao đổi giữa những đồng bào cư ngụ tại các địa phương khác nhau, hoặc từ các tỉnh thành trong nước hoặc từ các quốc gia, châu lục tại hải ngoại; đặc biệt là giữa người Việt ở trong và ngoài nước. Việc gặp gỡ trao đổi này sẽ mở ra cơ hội để mọi người Việt cùng thảo luận một cách chân thành và nghiêm túc về hiện t́nh đất nước, phương thức giải quyết những nan đề của dân tộc, phương thức hợp tác và liên kết,,.. Qua những diễn đàn trao đổi này, chúng ta sẽ phát huy những điểm chung để có những phối hợp và cộng tác cụ thể trong mục tiêu tạo ra động lượng lớn hơn, góp phần xoay chuyển t́nh h́nh đất nước.

    - Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức đối lập xuất hiện công khai tại Việt Nam.

    Muốn đưa cuộc đấu tranh cho dân chủ đến thành công, tất yếu phải có một hay nhiều tổ chức đấu tranh công khai xuất hiện ở trong nước. Đây cũng là điều cấm kỵ mà đảng Cộng sản Việt Nam đang t́m mọi cách để dập tắt, cô lập, phân hóa và kể cả mua chuộc nhằm ngăn chặn mọi sự kết hợp, hoạt động công khai. Nhưng lịch sử đă cho thấy những biện pháp đàn áp của các chế độ độc tài, độc đảng trong quá khứ vẫn không thể ngăn chặn được sự xuất hiện và bàng trướng của những tổ chức đối lập. Do đó, sự xuất hiện công khai của một hay nhiều tập hợp đấu tranh tiêu biểu cho phong trào dân chủ ở Việt Nam là điều tất yếu sẽ xảy ra. Để đạt được mục tiêu này, cần có sự hợp tác một cách chặt chẻ giữa các lực lượng dân tộc dân chủ, nhằm từng bước vượt qua những khó khăn, trở ngại, tạo điều kiện để các tổ chức đối lập công khai xuất hiện tại Việt Nam.

    Phương hướng 4 - Nâng Cao Dân Trí Việt Nam

    Việt Nam khó có thể thoát khỏi hoàn cảnh của một nước nghèo nàn và lạc hậu, nếu tŕnh độ dân trí của người Việt Nam không được nâng cao. Đây là một công tác dài hạn và cần được bắt tay ngay từ bây giờ. Đảng Việt Tân kêu gọi các lực lượng dân tộc dân chủ ở trong và ngoài nước cùng nỗ lực:

    - Tranh đấu cho quyền thông tin và được thông tin.

    Trong bối cảnh liên lập toàn cầu, việc thu nhận cũng như trao đổi mọi loại thông tin đă trở thành một sinh hoạt tự nhiên của con người. Điều này là một đóng góp to lớn cho sự gia tăng và cập nhật kiến thức của cả quần chúng nói chung, lẫn giới chuyên gia, trí thức nói riêng, dẫn đến sự phát triển hài ḥa trong xă hội. Cho đến nay, việc thu nhận và lưu thông tin tức vẫn c̣n gặp nhiều trở ngại tại Việt Nam, làm cản trở sự mở mang trí tuệ của người dân và hạn chế khả năng phát triển của cả nước. Do đó, cần tranh đấu để gỡ bỏ mọi trở ngại và giới hạn trên lănh vực thông tin, để người Việt Nam có quyền tiếp nhận và truyền bá mọi nguồn thông tin, chống mọi h́nh thức độc quyền hay thông tin một chiều.

    - Tranh đấu cho quyền tự do học hỏi, tự do t́m hiểu, tự do đi lại và xuất ngoại.

    Dân trí Việt Nam khó có thể nâng cao, nếu mọi người Việt Nam không có quyền tự do đi lại và xuất ngoại, quyền tự do t́m hiểu và học hỏi, quyền tự do xử dụng những phương tiện kỹ thuật hiện đại như internet, truyền thông vệ tinh,... để cập nhật hóa sự hiểu biết và nâng cao kiến năng.

    - Tranh đấu cho quyền tự do giáo dục và đào tạo.

    Giáo dục và đào tạo phải được mở rộng cho tất cả mọi người trong đó người dân có quyền tự do xây dựng các hệ thống giáo dục, cơ sở đào tạo độc lập mà không có sự chi phối hoặc quản lư của chính quyền. Do đó, cần tranh đấu để loại bỏ mọi h́nh thức độc quyền trong giáo dục và đào tạo. Cần tranh đấu để các tôn giáo, các cơ quan từ thiện tư nhân, các tổ chức phi chính phủ và các nhóm tư nhân có quyền tự do đóng góp việc nâng cao dân trí trong lănh vực giáo dục và đào tạo.

    - Tranh đấu cho sự công bằng trong thi cử và nhân dụng.

    Người dân chỉ quan tâm đến việc nâng cao kiến thức của ḿnh khi kiến thức đó thực sự được công nhận và xử dụng một cách công bằng cho việc thăng tiến cá nhân. Do đó, đảng Việt Tân chủ trương vạch trần, thông tin và đấu tranh nhằm chấm dứt t́nh trạng lạm dụng quyền lực để mua bán bằng cấp, mua bán việc làm, đạt tiêu chuẩn chính trị lên trên tiêu chuẩn kiến năng...

    - Tranh đấu cho việc tách rời ư thức hệ ra khỏi giáo dục.

    Giáo dục không thể là công cụ của một đảng phái để độc quyền xử dụng nhằm cổ xuư một ư thức hệ, một chủ nghĩa. Để thực sự nâng cao dân trí, đảng Việt Tân chủ trương vận dụng quần chúng, nhất là thành phần trí thức tranh đấu để đ̣i hỏi việc xây dựng một nền giáo dục bảo đảm tinh thần khoa học khách quan, tinh thần khai phóng, tinh thần tự do và công bằng trong sự học hỏi, tiếp thu mọi luồng tư tưởng và lănh vực khác nhau của kiến thức. Từ đó, đất nước mới có một nền giáo dục toàn diện làm nền tảng cho mục tiêu nâng cao dân trí lâu dài.

    Phương hướng 5 - Đầu Tư Vào Thế Hệ Tương Lai.

    Đầu tư vào các thế hệ tương lai là vấn đề hệ trọng trong việc phát triển đất nước. Để theo kịp đà tiến hóa của nhân loại, tuổi trẻ Việt Nam phải thoát ra khỏi lối học từ chương, học vị bằng cấp để xây dựng cho ḿnh những kỹ năng về thu thập, tổng hợp và phân tích dữ kiện, về giao tiếp, kế hoạch tổ chức, giải quyết vấn đề, về xử dụng kỹ thuật và làm việc tập thể. Giới trẻ Việt Nam cũng phải được khuyến khích, hỗ trợ để dễ dàng tham gia các chương tŕnh du học nước ngoài nhằm lănh hội tinh hoa của các nền giáo dục tiên tiến. Bên cạnh đó, hiện nay, hơn hai triệu người Việt đă định cư tại hải ngoại, đa số tập trung ở những quốc gia tân tiến nhất. Giới trẻ của khối đồng bào hải ngoại này có cơ hội học hỏi và tiếp thu những kiến thức tiến bộ nhất về khoa học kỹ thuật, văn hóa và xă hội của xứ người. Do đó, cần tranh đấu cho quyền tự do trao đổi kiến thức trên mọi lănh vực giữa tuổi trẻ trong và ngoài nước để gia tăng hiểu biết về t́nh h́nh chung của đất nước, tiếp nhận những tinh hoa phát triển của thế giới. Ngoài ra, nhu cầu đầu tư vào thế hệ tương lai c̣n đ̣i hỏi những nỗ lực:

    - Xây dựng lại ư thức quốc gia và niềm tự hào dân tộc.

    Trong suốt thời gian dài bị giáo dục theo phương châm: "Yêu nước là yêu chủ nghĩa xă hội", nhiều thế hệ Việt Nam đă bị cưỡng ép để phải đồng hóa ḷng yêu nước, tinh thần dân tộc với một chủ thuyết ngoại lai. Từ đó, nhiều thế hệ đă bị uốn nắn và nhồi sọ để trưởng thành và phục vụ cho đảng Cộng sản Việt Nam thay v́ phục vụ cho tổ quốc, dân tộc của ḿnh. V́ vậy, ngay từ bây giờ, phải xây dựng lại ư thức quốc gia và niềm tự hào dân tộc cho các thế hệ mai sau. Đây phải là những thế hệ có một cái nh́n khách quan về lịch sử dân tộc, niềm tự hào về đất nước và con người Việt Nam, cảm nhận được công lao của tiền nhân trong quá khứ để từ đó biết nhận lănh vai tṛ, trách nhiệm của ḿnh trong công cuộc đóng góp vào ḍng tiến hóa liên tục của lịch sử giống ṇi.

    - Xây dựng ư thức công dân và ư thức chính trị.

    Để đạt được mục tiêu này, cần tranh đấu để chấm dứt nền giáo dục nhồi sọ những ư thức hệ nhằm phục vụ một chủ thuyết, một đảng phái cũng như tinh thần mù quáng suy tôn lănh tụ. Thay vào đó bằng một nền giáo dục khai phóng, nhân bản với những giá trị phổ quát của văn hóa dân tộc và văn minh nhân loại, ư thức công dân lành mạnh, tinh thần tự giác tôn trọng luật pháp và những nguyên tắc sinh hoạt văn minh. Trong hoàn cảnh độc tài, độc đảng hiện nay, sinh hoạt chính trị đă bị đồng hóa với những hành vi xấu xa, những thủ đoạn hèn kém. Từ đó đă đưa đến t́nh trạng hiểu lầm và xa lánh những sinh hoạt chính trị của quần chúng nhân dân, đặc biệt là giới trẻ và hậu quả là sự thờ ơ đối với vận mệnh chung của đất nước. Để mọi người dân và nhất là giới trẻ có một ư thức chính trị đúng đắn và mạnh dạn tham gia vào những sinh hoạt chính trị tích cực, thể chế độc tài, độc đảng và lạm dụng quyền thế, tham nhũng, hối lộ phải được thay thế bằng một nền chính trị dân chủ đa nguyên trong đó hiến pháp và luật pháp được bảo vệ và tôn trọng.

    - Xây dựng lối sống đạo đức, tinh thần nhân bản và phục vụ tha nhân.

    Để các thế hệ mai sau là những nhân tố tốt đẹp cho việc phát triển đất nước, cần phải giáo dục và đào tạo tầng lớp trẻ có tâm hồn cao thượng đạo đức, có ḷng yêu thương tha nhân, tinh thần phục vụ xă hội với ư thức về sự phát triển cá nhân luôn luôn gắn liền với sự thăng tiến chung của đất nước.
    Last edited by alamit; 21-12-2012 at 01:37 AM.

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    B] Đảng Việt Tân
    Chương Tŕnh Hành Động
    [/B]


    Phương hướng 6 - Vận Động Quốc Tế

    Mặc dù người Việt Nam phải chủ động tiến hành công cuộc đấu tranh nhằm xây dựng dân chủ và canh tân đất nước, tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới ngày nay với mối quan hệ và quyền lợi giữa các quốc gia ảnh hưởng chặt chẽ lên nhau, vận động hậu thuẫn quốc tế là một nhu cầu cần thiết. Ngoài ra, v́ quyền lợi, các quốc gia khác cũng có thể có những toan tính đi ngược lại nguyện vọng của dân tộc Việt Nam, nhất là khi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam sẵn sàng thỏa hiệp, hy sinh quyền lợi của đất nước để bảo vệ vị thế cầm quyền. Do đó, vận động quốc tế c̣n có mục đích ngăn chận những hợp tác bất lợi cho tổ quốc giữa Cộng Sản Việt Nam và những quốc gia khác. Đảng Việt Tân kêu gọi các lực lượng dân tộc dân chủ ở trong và ngoài nước cùng nỗ lực:

    - Vận động áp lực quốc tế nhằm cải thiện nhân quyền và hỗ trợ dân chủ tại Việt Nam.

    Đây là một nỗ lực quan trọng nhằm duy tŕ áp lực thường trực lên chính quyền Cộng sản Việt Nam và hỗ trợ cuộc đấu tranh cho dân chủ tại quốc nội. Ngoài áp lực nhân quyền, chúng ta c̣n có nhu cầu vận động quốc tế hỗ trợ tiến tŕnh dân chủ hóa Việt Nam. V́ trong đường dài, Việt Nam sẽ chỉ có thể trở thành một đối tác tích cực, có những đóng góp lợi ích bền vững cho sự thịnh vượng và ổn định chung trong vùng nếu có một chính quyền thực sự dân chủ, đáp ứng đúng nguyện vọng của người dân Việt Nam. Do đó, cần vận động và thuyết phục quốc tế tạo những áp lực để mở rộng các sinh hoạt dân chủ tại Việt Nam, điển h́nh như các sinh hoạt đoàn thể, thông tin, hội họp v.v.. mà không chịu sự kiểm soát hay không cần sự chấp thuận của đảng Cộng sản Việt Nam.

    - Vận động hợp tác quốc tế để ngặn chận sự tàn phá môi trường và bảo vệ môi sinh.

    Trong hơn hai thập niên qua, vấn đề khai thác bừa băi tài nguyên thiên nhiên tại Việt Nam và thiếu quan tâm đến việc bảo vệ môi sinh cũng như tiềm năng lâu dài của đất nước là một điều đă được báo động. Với chính sách mở cửa kinh tế hiện nay, nhà nước CSVN để cho các công ty ngoại quốc vào khai thác tài nguyên một cách tuỳ tiện bất chấp môi sinh khiến nguy cơ này ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. V́ vậy chúng ta cần vận động các tổ chức quốc tế chuyên về lănh vực bảo vệ môi sinh lên tiếng cảnh giác về t́nh trạng này, phản đối hay ngăn chận các biện pháp khai thác bừa băi, đồng thời tạo áp lực để có những chương tŕnh bảo vệ và xây dựng lại môi trường tại Việt Nam.

    - Vận động hỗ trợ quốc tế cho những chương tŕnh nhằm nâng cao dân trí Việt Nam.

    Để hỗ trợ các chương tŕnh nhằm nâng cao dân trí đă được đề ra ở trên, cần vận động các chính phủ và cơ quan từ thiện quốc tế thiết lập những chương tŕnh đó tại Việt Nam. Thí dụ như các chương tŕnh giáo dục, các chương tŕnh du học hay tu nghiệp, các chương tŕnh văn hóa và thông tin v.v. Điểm quan trọng là các chương tŕnh này sẽ phải được quảng bá b́nh đẳng đến mọi tầng lớp quần chúng chứ không chỉ giới hạn trong các thành phần có tiền hay chức quyền.

    Phương hướng 7 - Xây Dựng Và Phát Triển Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại.

    Trong tiến tŕnh chấm dứt độc tài hiện nay và canh tân đất nước trong tương lai, cộng đồng người Việt tại hải ngoại đóng một vai tṛ quan trọng. Tuy chỉ là một bộ phận rất nhỏ so với đại khối dân tộc ở trong nước, nhưng với tiềm năng phong phú về phương tiện và trí tuệ, với khả năng tác động vào dư luận và chính giới quốc tế, cộng đồng người Việt hải ngoại có một vị trí đáng kể trong nỗ lực chung của cả dân tộc. Để cộng đồng người Việt hải ngoại luôn luôn gắn bó với quê hương, đóng góp hữu hiệu vào nhu cầu của đất nước hiện nay và trong tương lai, đảng Việt Tân kêu gọi mọi người, mọi tổ chức, đoàn thể và cộng đồng cùng nỗ lực:

    - Ǵn giữ và phát huy bản sắc dân tộc, đặc biệt cho các thế hệ trẻ Việt Nam tại hải ngoại.

    Sinh ra hoặc trưởng thành ở xứ người, các thế hệ trẻ Việt Nam tại hải ngoại có cơ hội được hấp thụ một nền giáo dục tiên tiến, tiếp cận những phát triển hiện đại của khoa học kỹ thuật. Nếu được hướng dẫn và khi điều kiện chính trị, xă hội tại Việt Nam cho phép, những thế hệ này sẽ đóng góp tích cực cho tương lai tươi sáng của đất nước. Muốn được vậy, cộng đồng người Việt hải ngoại cần tiếp tục nuôi dưỡng những sinh hoạt truyền thống gia đ́nh, giữ ǵn và phát huy văn hóa dân tộc để từ đó những thế hệ trẻ Việt Nam tại hải ngoại có được sự gắn bó gần gủi với quê cha đất tổ , luôn tự hào về cội nguồn và giữ ǵn được bản sắc dân tộc.

    - Xây dựng tư duy "thăng tiến trên xứ người và luôn luôn hướng về đất tổ" cho mọi thế hệ.

    Điều chắc chắn là dân tộc Việt Nam sẽ giành được tự do dân chủ và canh tân đất nước. Điều cũng chắc chắn là dù hoàn cảnh đất nước có những thay đổi theo chiều hướng tích cực, cộng đồng người Việt hải ngoại vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển. Do đó, cần xây dựng tư duy "thăng tiến trên xứ người và luôn luôn hướng về đất tổ" của mọi thế hệ. Với tâm thức này, cộng đồng người Việt và đặc biệt là giới trẻ ở hải ngoại sẽ luôn đóng góp xây dựng quê hương v́ nhận thức được vị trí đặc biệt của ḿnh khi vừa thừa hưởng được lịch sử văn hóa Việt phong phú, vừa hội nhập vào một xă hội tiên tiến với truyền thống dân chủ lâu đời; và để mai hậu, cộng đồng người Việt hải ngoại vẫn luôn là một bộ phận gắn bó không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt, vẫn tiếp tục đóng góp cho một nước Việt Nam dân chủ và phát triển toàn diện.

    - Duy tŕ và phát huy truyền thống chống độc tài và tranh đấu cho tự do, dân chủ tại quê nhà.

    Mặc dù sống nhiều năm trên xứ người và đă trải qua ít nhất là 2 thế hệ lớn lên tại hải ngoại, nhưng cộng đồng người Việt vẫn luôn luôn hướng ḷng ḿnh về quê nhà, vẫn không chấp nhận chế độ độc tài hiện nay và nỗ lực góp phần vào cuộc tranh đấu cho tự do dân chủ. Truyền thống này cần được duy tŕ và phát huy, để cộng đồng người Việt hải ngoại luôn luôn là chỗ tựa vững chắc của đồng bào quốc nội, không những cho nhu cầu gỡ bỏ ách độc tài hiện nay, mà c̣n cho mục tiêu tái thiết và phát triển Việt Nam sau khi chế độ độc tài cộng sản đă cáo chung.

    - Hỗ trợ và xây dựng cơ chế, cơ sở lâu dài của cộng đồng hải ngoại.

    Điều mà chúng ta nhận thấy là nơi nào cộng đồng có một cơ chế đại diện được thiết lập một cách dân chủ và trong sáng, có các cơ sở phục vụ đồng hương như trung tâm sinh hoạt, văn pḥng xă hội, trụ sở hoạt động,... th́ nơi đó cộng đồng tạo được một ảnh hưởng đáng kể đối với chính quyền sở tại, phát huy được sức mạnh đoàn kết và bảo vệ được quyền lợi của cộng đồng. Do đó, cần khuyết khích, hỗ trợ để ở mọi nơi, cộng đồng của người Việt có được cơ chế đại diện dân chủ và những phương tiện hoạt động lâu dài tại địa phương.

    - Xây dựng tiềm năng vận động quốc tế lâu dài tại môi trường hải ngoại.

    Để có thể vận động sự hậu thuẫn quốc tế một cách hữu hiệu, khả năng vận động của tập thể người Việt hải ngoại cần phải được phát triển và vun bồi. Cần tiến hành những công tác nhằm xây dựng sức mạnh chính trị của cộng đồng thí dụ như khả năng sử dụng lá phiếu, khả năng liên lạc và vận động chính giới, tư thế của cộng đồng tại địa phương v.v. Điều khác không kém phần quan trọng là bầy tỏ trước dư luận quốc tế về khát vọng tự do dân chủ của dân tộc Việt, cũng như lập trường dứt khoát không chấp nhận độc tài và quyết tâm tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam. Ngoài ra, việc xây dựng tầng lớp trẻ tại hải ngoại để tham gia vào những sinh hoạt chính trị bản xứ cũng là một nhu cầu góp phần vận động hậu thuẫn quốc tế trong giai đoạn đấu tranh hiện nay cũng như giai đoạn canh tân đất nước về sau.

    Phương hướng 8 - Xây Dựng Nền Tảng Cho Công Cuộc Canh Tân Việt Nam

    Canh tân Việt Nam vừa là một nhu cầu cấp bách và cũng là mục tiêu đường dài của toàn thể dân tộc. Với t́nh trạng nghèo nàn lạc hậu của Việt Nam hiện nay, dân tộc ta không thể chần chờ được nữa. Do đó, ngay trong giai đoạn đấu tranh chấm dứt độc tài, người Việt Nam trong cũng như ngoài nước vừa tiếp tục áp lực buộc lănh đạo đảng cộng sản phải nhượng bộ cho sự thay đổi tốt đẹp nhất cho dân tộc, vừa chuẩn bị những điều kiện cần thiết để canh tân đất nước trong dài hạn. Đảng Việt Tân kêu gọi các tổ chức chuyên môn, giới chuyên gia trong và ngoài nước cùng nỗ lực:

    - Kết hợp tiềm năng canh tân Việt Nam.

    Sự phân chia cộng đồng dân tộc thành hai khối ở trong và ngoài nước vừa là một trở ngại nhưng cũng vừa là một thuận lợi. Đến từ hai góc nh́n khác nhau, mỗi bộ phận có thể có những đánh giá khác nhau về những vấn đề chung của đất nước, và v́ vậy mọi việc nước sẽ được lượng định phong phú hơn trên nhiều khía cạnh, bổ túc cho nhau khiến giải pháp đề nghị sẽ thực tiễn và tránh được tính chủ quan, thiển cận hay viễn mơ. Do đó, cần có nỗ lực kết hợp tiềm năng canh tân Việt Nam ở trong và ngoài nước. Cụ thể là tạo điều kiện để giới chuyên gia, trí thức trong và ngoài nước có cơ hội gặp gỡ, trao đổi và ở mức độ cao hơn h́nh thành những tập hợp nghiên cứu chung về một số nan đề canh tân đất nước.

    - Phê phán những chính sách sai lầm và ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến tŕnh canh tân đất nước.

    Những chính sách sai lầm của chế độ độc tài đă và đang mang lại những hậu quả nghiêm trọng cho đất nước và dân tộc. Phê phán những sai lầm này là nhiệm vụ của mọi người Việt Nam, để một mặt báo động về những nguy cơ với hậu quả tai hại cho sự canh tân đang đe dọa đất nước, mặt khác tạo ra những áp lực buộc lănh đạo đảng cộng sản phải nhượng bộ, thay đổi chính sách.

    - Nghiên cứu và tiến hành những dự án canh tân Việt Nam.

    Ngay trong giai đoạn đấu tranh cho tự do và dân chủ, người Việt Nam vẫn phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa đất nước từ thể chế độc tài lạc hậu sang một nền dân chủ phát triển. Cụ thể là các tổ chức chuyên môn, giới chuyên gia trong và ngoài nước cần đầu tư trí tuệ và khả năng vào việc nghiên cứu hiện trạng đất nước, rút tỉa những kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới để chuẩn bị sẵn sàng những đề án canh tân và phát triển Việt Nam. Mặt khác, sự tụt hậu về mọi mặt của đất nước đ̣i hỏi những nỗ lực của người Việt Nam ngay từ bây giờ để duy tŕ tiềm năng vươn lên của đất nước và xây dựng nền tảng cho tiến tŕnh canh tân trong dài hạn. Do đó cần nghiên cứu và tiến hành ngay một số dự án cho nhu cầu này, đặc biệt là trên các lănh vực văn hóa, giáo dục và môi sinh.

    Phương hướng 9 - Bảo Vệ Quyền Lợi Quốc Gia Và Sự Toàn Vẹn Lănh Thổ

    Lịch sử dân tộc Việt Nam là một chuỗi dài tranh đấu oai hùng của tiền nhân để dựng nước và giữ nước. Ngày nay, đất nước ta lại bị cai trị bởi một tập đoàn sẵn sàng sang nhượng, bán rẻ tài nguyên, lănh thổ lănh hải cho ngoại bang để bảo vệ độc quyền thống trị. Hậu quả là nền kinh tế quốc gia có nguy cơ rơi vào sự thao túng của các thế lực ngoại quốc, tài nguyên, đất đai và biển cả mất vào tay ngoại bang. Nhiệm vụ thiêng liêng của mọi con dân Việt Nam là phải đấu tranh để bảo vệ quyền lợi quốc gia và sự toàn vẹn lănh thổ. Đảng Việt Tân kêu gọi mọi thành phần dân tộc, mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước cùng tiến hành những nỗ lực sau đây:

    - Đấu tranh chống mọi kư kết của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam gây phương hại đến quyền lợi quốc gia và sự toàn vẹn lănh thổ.

    Trong thời gian qua, tập đoàn lănh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đă kư kết một số hiệp định, hiệp ước vô cùng bất lợi cho đất nước. Điển h́nh là "Hiệp Ước Về Biên Giới Trên Đất Liền Việt Nam - Trung Quốc" được kư ngày 30/12/1999 và "Hiệp Định Phân Định Lănh Hải Vinh Bắc Bộ" kư ngày 25/12/2000, đă nhượng cho Trung Quốc nhiều vùng đất lịch sử của Việt Nam ở biên giới phía bắc và hơn 11.000km2 lănh hải của vịnh Bắc Bộ. Sự kiện này đă gây phẫn nộ đối với toàn thể Việt Nam ở trong và ngoài nước. Chúng ta cần tiếp tục nỗ lực đấu tranh để phản đối và phủ nhận các kư kết bán nước này.

    - Nghiên cứu, phân tách, thông tin những nguy cơ bất lợi cho sự phát triển của quốc gia.

    Mặc dù việc mở cửa và hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu có giúp cho đời sống nhân dân được phần nào cải thiện , nhưng với mục tiêu nắm quyền bằng mọi giá, những người lănh đạo đảng CSVN đă bất chấp những di hại lâu dài cho đất nước khi kư kết những hợp đồng vô cùng bất lợi, vay mượn những món nợ kếch sù, xử dụng lăng phí tài nguyên của đất nước. Hậu quả trước mắt là Việt Nam trở thành một quốc gia bán sức lao động rẻ, tài nguyên thô và kỹ thuật thấp, kinh tế bị lũng đoạn của các thế lực bên ngoài; và hệ qủa mai sau là những thế hệ con cháu sẽ c̣ng lưng trả nợ. Mặt khác, do sự yếu kém và lệ thuộc của nhà cầm quyền hiện nay, một số dự án có ảnh hưởng to lớn đến môi trường sinh thái và kinh tế đă và đang được một số nước trong khu vực tiến hành, bất chấp những thiệt hại và hậu quả tại hại của nó đối với Việt Nam. Đây là những vấn đề mà người Việt Nam ở trong và ngoài nước phải cùng nhau nghiên cứu, lên tiếng ngăn cản cũng như cảnh báo trước dư luận.

    Phương hướng 10 - Soi Sáng Sự Thật Của Lịch Sử Cận Đại.

    Sự thật của lịch sử cần phải được làm sáng tỏ nhất là gịng lịch sử Việt Nam đầy ẩn khuất của thế kỷ vừa qua. Ở trong nước, gịng lịch sử này bị đóng khung trong giáo điều của đảng cộng sản, bị bóp méo và thêu dệt thành những huyền thoại không tưởng, khiến cho nhiều người Việt Nam, nhất là giới trẻ, bị điều kiện hóa bởi một số ấn tượng và định kiến. Ở hải ngoại, gịng lịch sử Việt Nam cũng đă bị ảnh hưởng bởi những nhận định của người ngoại quốc, mà những nhận định này có khi sai lệch, thiếu khách quan của một người ngoài cuộc.

    Soi sáng sự thật của lịch sử cận đại là một nhiệm vụ của mọi người Việt Nam, nhất là những sử gia, những bậc tiền bối lăo thành, các tổ chức nghiên cứu khách quan ở trong và ngoài nước.

    Soi sáng sự thật lịch sử để xóa bỏ những ngộ nhận của quá khứ giữa các thành phần dân tộc, để tất cả cùng hướng về tương lai Việt Nam và đến với nhau bằng t́nh nghĩa đồng bào, bằng ư chí xây dựng đất nước.

    Soi sáng sự thật lịch sử để giúp cho thế hệ trẻ ngày nay và những thế hệ con cháu mai sau không c̣n bị đóng khung trong những định kiến sai lệch. Tại môi trường hải ngoại, soi sáng sự thật lịch sử sẽ giúp cho những người trẻ vững tin hơn trên con đường trở về nguồn cội, trên con đường đấu tranh cho tổ quốc trong thế kỷ 21.

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    “T́m Hiểu và Thảo Luận Về Đấu Tranh Bất Bạo Động”
    Kỳ III: Đâu là những trụ cột phải lôi kéo/ tấn công đối với chế độ CSVN?

    Nguyễn Ngọc Bảo - Đỗ Đăng Liêu

    Bài 3: Những trụ cột chống đỡ chế độ độc tài và những nguyên lư lôi kéo/ tấn công đối với những nhân tố đang phục vụ trong guồng máy độc tài. Áp dụng tại VN th́ sao và đâu là những trụ cột phải lôi kéo/ tấn công đối với chế độ CSVN?

    Diễn Giả:
    Kỷ sư Nguyễn Ngọc Bảo (Ủy viên Trung Ương Đảng Việt Tân)
    Ông Đỗ Đăng Liêu (Ủy Viên Trung Ương Đảng Việt Tân)

    Xin bấm vào đây để lấy tập tin âm thanh bài nói chuyện của hai diễn giả Nguyễn Ngọc Bảo và Đỗ Đăng Liêu

    Xin bấm vào đây để lấy tập tin âm thanh phần trao đổi

    — -

    Kính chào toàn thể quư vị (Nguyễn Ngọc Bảo)

    Hôm nay, chúng ta cùng nhau trao đổi về đề tài thứ 3 “Những Trụ Cột Chống Đỡ Chế Độ Độc Tài và những Nguyên Lư Lôi Kéo/Tấn Công”. Đề tài này được chia làm hai phần.

    Phần một, đề cập tới những trụ cột chống đỡ chế độ độc tài CSVN những đặc điểm tổng quát của mỗi trụ cột, cũng như nguyên lư lôi kéo/tấn công đối với các nhân tố phục vụ trong các trụ cột này. Phần này do tôi (Nguyễn Ngọc Bảo) tŕnh bày.

    Phần hai, đề cập một cách chi tiết hơn tới nguyên lư lôi kéo/tấn công đối với một số trụ cột mà các lực lượng dân tộc dân chủ có thể khai thác yếu điểm và vận động quần chúng lôi kéo một cách hữu hiệu, cũng như vạch ra một số cách thức ứng dụng cụ thể tại Việt Nam. Phần này sẽ do ông Đỗ Đăng Liêu, Ủy Viên Trung Ương Đảng Việt Tân tŕnh bày.

    Kính thưa quư vị,

    Các chế độ độc tài với bộ máy hành chánh to lớn và cồng kềnh, cùng với dàn công an, cảnh sát, mật vụ và quân đội nhan nhăn ở nhiều nơi trong xă hội đă phô diễn một dáng vẻ rất kiên cố, vững chắc. Đối chiếu với h́nh ảnh đó, t́nh trạng bị cô lập, trù dập nặng nề của thành phần đối kháng và sự chống đối ô hợp của quần chúng, không được tổ chức, thiếu phương tiện cho thấy rơ ràng một sự tương phản rất lớn.

    Một bên th́ có vũ khí để sẵn sàng trấn áp, c̣n một bên là quần chúng không có tấc sắt trong tay, yếu đuối, không có một chút quyền lực nào. Chính những thành kiến này đă làm suy giảm đi khả năng h́nh thành một lực lượng đối kháng mạnh để chống lại chế độ độc tài. Hơn thế nữa, v́ chế độ độc tài gây ra những tội ác đối với người dân, nên người dân có thói quen kết án mọi tội ác cho tất cả những ai có liên hệ đến chế độ độc tài. Vô h́nh chung, người ta đă đẩy những cá nhân liên hệ với chế độc tài thành một khối mà trên thực tế không phải như vậy.

    Những Trụ Cột Chống Đỡ Chế Độ Độc Tài

    Mặc dù mang dáng vẻ mạnh mẽ, các chế độ độc tài đều tựa trên những trụ cột như là những chân vạc quyền lực. Và mỗi trụ cột này được cấu thành bởi những con người. Nếu những con người phục vụ trong các trụ cột quyền lực này từ bỏ sự hỗ trợ đối với chế độ th́ toàn bộ hệ thống nhà nước sẽ sụp đổ. Nói cách khác, những con người phục vụ ở các trụ cột đó bị giao động hay được thuyết phục để cố t́nh làm chậm công việc lại, guồng máy độc tài sẽ trở nên suy yếu.

    Nhận diện và phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của các trụ cột chống đỡ hầu khai thác được các yếu điểm và tránh trực diện với các cường điểm là bước căn bản của những người áp dụng phương thức đấu tranh bất bạo động. Chỉ khi nào quần chúng làm cho những trụ cột chính của chế độ bị soi ṃn, trung ḥa hay bị gẫy đổ th́ mới có hy vọng tạo những áp lực đủ mạnh để thay đổi. Bất kỳ chế độ nào cũng đều dựa trên những trụ cột chống đỡ . Các trụ cột này có thể khác nhau tùy theo bản chất của từng chế độ. Trong hầu hết các xă hội đương thời, các trụ cột quyền lực chính được nhận diện như sau :

    Công An: Đây là bộ phận mang đặc tính phục vụ và bảo vệ người dân; nhưng dưới chế độ độc tài th́ bộ phận công an được coi là công cụ để kiểm soát, trấn áp người dân hầu bảo vệ một thiểu số lănh đạo đă mất ḷng dân. Người dân không cần phải đợi thay đổi chế độ xong mới có thể thay đổi lối nh́n và cách cư xử của công an. Công an sống trong cộng đồng mà họ phục vụ. Gia đ́nh, bạn bè và người quen của họ đă h́nh thành những mối quan hệ rất đa dạng với quần chúng. Trong sự ràng buộc đa dạng đó, những hành động của công an luôn luôn bị để ư.

    Thí dụ: dù ác ôn đến đâu, nếu những hành động này bị người dân tố cáo công khai trên mặt báo hay trên mạng Internet sẽ khiến cho gia đ́nh, họ hàng liên hệ với tên công an này tạo áp lực lên đương sự để không dám mặc sức hoành hành nữa. V́ thế mà chúng ta không nên coi lực lượng công an thực hiện mệnh lệnh của kẻ độc tài như là kẻ thù vĩnh viễn của nhân dân. Họ là những người phục vụ cho một bộ máy đă thất bại và mất ḷng dân. Chính hệ thống đó bị thay thế chứ không nhất thiết phải là những thành phần công an này. Làm như vậy chúng ta không đẩy thành phần công an vào con đường cùng để phải quyết tử với người dân. Tất nhiên, chúng ta cần phải cô lập và vô hiệu hóa những thành phần công an ác ôn hay những thành phần đầu gấu thuộc xă hội đen.

    Quân Đội. Không giống như thành phần công an, các đơn vị quân đội thường tách ra khỏi xă hội dân sự, có doanh trại riêng, bệnh viện và ngay cả khu sinh hoạt mua sắm riêng. Chính sự tách biệt này đă ngăn cản những phát triển mối quan hệ giữa quân đội và các thành phần trong xă hội dân sự. Khi một chính quyền dùng quân đội để giải quyết một cuộc xung đột chính trị bằng lực lượng quân sự th́ các đơn vị này sẽ không ngần ngại sử dụng bạo lực ở mức bao trùm toàn vùng để đàn áp.

    Việc phát triển kế hoạch soi ṃn tinh thần hăng say của quân đội trong nhiệm vụ đàn áp những cuộc chống đối của người dân cần phải đặt ra thật sớm trước khi t́nh thế dồn đến chỗ nhà cầm quyền phải dùng quân đội để đàn áp. Điểm mấu chốt của các kế hoạch này là thuyết phục những người lính thấy rằng cuộc sống của riêng họ và của gia đ́nh họ sẽ không bị đe dọa và những người lính chuyên nghiệp sẽ có một tương lai vững chắc dưới thể chế dân chủ. Khi giới quân đội thấy rơ giá trị của họ trong thể chế dân chủ, họ sẽ giữ vị trí trung lập đối với nhà cầm quyền (như quân đội Liên Xô, Ba Lan, Đông Đức, Serbia) hoặc đứng về phía quần chúng để chống lại lănh đạo độc tài (Romania).

    Hành Chánh: Công nhân viên phục vụ trong các cơ chế hành chánh của những chế độ độc tài thường bị đánh giá rất thấp - như những đàn kiến – hoàn toàn hành động theo mệnh lệnh của cấp trên. Tuy nhiên, không có đàn kiến này, các chế độ khó có thể vận hành một cách suông sẻ. Đây là những con người đă chuyển tải mệnh lệnh sang hành động: họ ban hành các quy định, đánh giá và thu thuế, chuẩn bị ngân sách, điều hành trường học, nhà thương, kiểm soát giao thông, duy tŕ hệ thống thông tin... thực hiện tất cả các nhiệm vụ giúp cho một chế độ hoạt động. Không có một chính quyền nào hoạt động mà không cần đến họ.

    Để thay đổi chế độ và chuyển hóa dân chủ, các phong trào đối kháng phải giành cho được sự đồng t́nh hay ủng hộ của những công nhân viên nhà nước. Nhưng do nhu cầu của cuộc sống, đa số công nhân viên nhà nước thường không dám bày tỏ thái độ phản kháng cho đến khi họ nh́n thấy rơ chiều hướng thắng lợi của phong trào dân chủ. Chính v́ thế mà các phong trào đối kháng nên vận động sự ủng hộ ngầm của công nhân viên nhà nước ở những giai đoạn đầu và tuỳ theo t́nh h́nh sẽ kêu gọi sự tham gia tích cực của họ ở những giai đoạn dứt điểm.

    Pháp Luật :. Các chế độ độc tài thường che dấu những hành vi khủng bố phe đối lập bằng cách cho soạn thảo ra nhiều bộ luật kể cả việc kêu gọi sống và làm việc theo luật pháp. Đồng thời để tránh né những phê phán của công luận quốc tế về t́nh trạng cai trị luật rừng, họ đă cho lập ra nào là quốc hội, toà án, viện kiểm sát, luật sư đoàn, chính phủ... để tạo một bề mặt cai trị theo ba quyền phân lập gồm hành pháp – tư pháp – lập pháp. Tuy nhiên trong thực tế, cả ba quyền này đều nằm trong tay đảng Cộng sản thông qua các Bí thư đảng các cấp.

    Trong thời toàn trị, mệnh lệnh của đảng là tuyệt đối. Nhưng do nhu cầu mở cửa vận động đầu tư và tham gia vào các cơ cấu quốc tế để làm ăn buôn bán với các nước, những mâu thuẫn giữa đảng với các cơ chế luật pháp bắt đầu nảy sinh với hiện tượng ngáng cẳng lẫn nhau giữa các cán bộ thừa hành để tranh lợi. Lực lượng đối kháng phải khai thác những mâu thuẫn giữa hiến pháp với các đạo luật, giữa luật với các văn bản dưới luật và giữa luật với các bộ phận thi hành luật để khởi động các h́nh thức bất phục tùng dân sự đối với các chỉ thị của nhà nước.

    Khi có nhiều người, nhiều thành phần quần chúng như nông dân, công nhân, sinh viên, trí thức, tôn giáo lên tiếng phản đối những đạo luật bất công, mâu thuẫn với hiến pháp hoặc nộp đơn kiện các viên chức nhà nước đă thi hành sai trái với luật pháp... sẽ từng bước làm tê liệt trụ cột pháp luật.

    Truyền Thông: Báo chí và truyền thông có một sức mạnh đáng kể trong việc huy động dư luận vào một vấn đề ǵ. Các chế độ độc tài biết điều này nên đă thu gom mọi phương tiện truyền thông vào trong tay đảng và ngăn cấm người dân tiếp cận các phương tiện thông tin, đặc biệt là dựng lên bức tường lửa để ngăn chận việc truy cập vào một số diễn đàn mà chế độ cho là phản động trên mạng lưới Internet. Đôi khi nhà cầm quyền c̣n dùng thủ đoạn phá sóng để ngăn chận những cuộc liên lạc bằng điện thoại di động mà phe đối kháng kêu gọi nhau xuống đường biểu t́nh.

    Lực lượng đối kháng phải t́m mọi cách phá vỡ sự bưng bít và khống chế thông tin của chế độ độc tài. V́ nếu không soi ṃn được trụ cột này th́ khó có thể huy động số quần chúng tham gia để tạo ra những cuộc phản kháng quy mô. Kinh nghiệm của đa số các lực lượng dân chủ tại các quốc gia, việc thực hiện những sản phẩm tuyên vận ở ngoài nước rồi phóng vào trong nước là nỗ lực phải làm ở giai đoạn đầu; nhưng từng bước sau đó phải cố gắng cho ra đời những tờ báo và đài phát thanh bí mật ngay ở trong nước. Tuy nội dung của những tờ báo và đài phát thanh sẽ rất giới hạn và thô sơ nhưng có sức thu hút mănh liệt đối với người xem và là những bằng chứng của việc phá vỡ sự bưng bít thông tin và kiểm soát của chế độ.

    Thanh niên Sinh viên : Bất cứ chế độ độc tài nào cũng đều ra sức ngăn cản, đe dọa hàng ngũ thanh niên sinh viên không được tham gia các sinh hoạt chính trị, v́ họ biết rằng đây là lực lượng năng động nhất và luôn luôn đi tiên phong trong mọi cuộc đấu tranh cho chính nghĩa. Các chế độ độc tài thường dùng các thủ đoạn đuổi học, không thu nhận vào các cơ quan nhà nước hay các xí nghiếp quốc doanh, liên doanh, không cho xuất ngoại đối với những thanh niên sinh viên dám bày tỏ sự chống đối công khai nào đó.

    Mặc dù những thủ đoạn nói trên có làm chùng bước một số thanh niên sinh viên. Nhưng một khi họ tạo được sự liên kết của nhiều nhóm sinh viên chống đối với nhau, họ sẽ bất chấp tất cả và sẵn sàng dấn thân cho những lư tưởng cao đẹp — đó là muốn biết sự thật từ những dối trá và lẽ phải từ những sai quấy. Chính sự minh bạch trong nhận thức này đă thúc đẩy họ dấn thân. Điều cần quan tâm trong việc vận động thanh niên sinh viên là phải biết hướng dẫn và áp dụng kỷ luật để ngăn chận những hành động quá đà. Những khiêu khích từ bên ngoài dễ tạo ra những phản công bằng bạo lực trong một số cuộc tranh đấu và tạo lư cớ cho công an, quân đội đàn áp.

    Doanh Nhân. Dưới bất cứ chế độ nào thành phần doanh nhân luôn luôn có một vai tṛ quan trọng trong nền kinh tế. Họ cung cấp cho người dân hàng hóa và dịch vụ mà nhà nước không làm được. Trong chế độ cộng sản, thường th́ nhà cầm quyền ngầm thả lỏng cho những hoạt động chợ đen bất hợp pháp để giảm đi những biến động chính trị nảy sinh từ sự bất măn của quần chúng do t́nh trạng thiếu hụt hàng hóa. Ngoài ra, các doanh nhân, đặc biệt là doanh nhân ngoại quốc và đa quốc gia có xu hướng thích đầu tư và phối hợp làm ăn với những thể chế độc tài v́ chế độ độc tài sẵn sàng làm bất cứ biện pháp nào cho các doanh nhân giữ được ổn định việc kinh doanh.

    Các công ty quốc tế không quan tâm là nhà cầm quyền đó độc tài hay dân chủ mà chỉ quan tâm đến lợi nhuận. Do đó, các phong trào dân chủ cần phải thuyết phục các doanh nhân thấy là rằng t́nh h́nh đang thay đổi và họ sẽ có lợi nếu họ giữ thái độ trung lập. Song song, khi những áp lực của phong trào dân chủ lên cao, lúc đó cần yêu cầu giới doanh nhân phải cung ứng những nguồn tiếp trợ quan trọng bao gồm tiền bạc, phương tiện đưa tin, vỏ bọc cho phong trào dân chủ.

    Ngoài những trụ cột nói trên c̣n có những trụ cột khác như trụ cột công nhân, trụ cột tôn giáo, trụ cột các tổ chức phi chính phủ.... cũng đóng một số vai tṛ quan trọng mà các lực lượng dân chủ cần phải t́m hiểu hầu vạch ra kế hoạch vận động. Ngoài ra, những nguồn hỗ trợ khác như tổ chức chuyên gia, lực lượng chính trị, doanh nghiệp và chính quyền nước ngoài, những liên hệ cá nhân và tổ chức quốc tế hay những đoàn thể chuyên ngành như hội may mặc, câu lạc bộ xe mô tô, câu lạc bộ nuôi chim, cây cảnh... là những tổ chức quy tụ một số người có thể tạo ra sức mạnh nếu được tranh thủ đúng lúc để tạo sự hậu thuẫn cho các cuộc vận động.

    Mỗi chế độ, tùy theo những chủ trương chính trị mà đặt tầm quan trọng vào những trụ cột khác nhau. Đối với những chế độ độc tài, những trụ cột quan trọng là quân đội, công an, tuyên truyền, c̣n đối với những chế độ dân chủ th́ các trụ cột pháp luật, giáo dục, hành chánh, kinh tế là quan trọng.

    Tôi xin ngừng phần tŕnh bày đề cập đến các trụ cột chống đỡ chế độ CSVN để xin mời ông Đỗ Đăng Liêu tŕnh bày phần kế tiếp về những nguyên lư lôi kéo/ tấn công, định ra những trụ cột nào chúng ta có thể khai thác các yếu điểm để vận động quần chúng lôi kéo/tấn công và một số cách ứng dụng cụ thể tại Việt Nam.

    Kính chào toàn thể quư vị (Đỗ Đăng Liêu)

    Những trụ cột nói trên sở dĩ đứng vững được là nhờ những CON NGƯỜI phục vụ nó. Cho dù có dụng cụ tối tân đến đâu th́ vẫn phải có người xử dụng. Tuy nhiên, các cá nhân phục vụ trong mỗi trụ cột không có những vị trí đồng đều hay đồng nhất. Có thể nói họ là những ṿng tṛn đồng tâm. Và nhân sự giữa các ṿng này có vai tṛ khác nhau, quyền lợi được hưởng từ chế độ khác nhau, và v́ thế mà sự trung thành đối với chế độ cũng khác nhau.

    Giữa các trụ cột cũng có sự khác biệt. Những cán bộ phục vụ trong bộ máy kinh tế, mậu dịch là giàu có nhất, v́ có điều kiện để tham nhũng, ḅn rút tiền các kế hoạch đầu tư, các công tŕnh, kế đến là những cán bộ phục vụ trong bộ máy công an, cảnh sát, c̣n những cán bộ phục vụ trong các đoàn thể quần chúng, văn hóa, quân đội thường là nghèo v́ ít có cơ hội móc ngoặc, tham nhũng. Chính sự khác biệt quyền và lợi do vị trí làm việc trong thời mở cửa nói trên, cũng đă nảy sinh ra những xung đột nội bộ, khiến cho các cơ quan đảng và nước trong những chế độ độc tài mang ba đặc tính "dựa vào nhau để tồn tại, dè chừng nhau để thủ thân, tranh chấp nhau để thủ lợi".

    Để Làm Suy Yếu Những Trụ Cột:

    Muốn làm suy yếu để dẫn đến sự sụp đổ của một chế độ người ta phải soi ṃn những trụ cột. Muốn soi ṃn những trụ cột th́ phải biết cách tấn công một cách hiệu quả dựa trên một số nguyên lư căn bản như sau.

    Thứ nhất, ưu tiên “Kéo”hơn là “Đẩy”: Có nghiă là chúng ta “kéo” các thành phần của trụ cột rời nhau ra hoặc nghiêng về phía chúng ta thay v́ “đẩy” họ chặt lại với nhau.

    Để làm được điều đó th́ thay v́ tấn công họ, mà hậu quả là đẩy họ về với nhau trong tâm lư đoàn kết để tồn tại, th́ chúng ta nỗ lực cảm hoá những thành phần có thể cảm hoá được, tạm gọi là những thành phần "tốt", có thể thức tỉnh, để họ bỏ hàng ngũ và về với chúng ta.

    Tâm lư b́nh thường của con người là kết hợp lại với nhau khi có cùng chung hoàn cảnh. Khi cùng bị tấn công họ th́ đoàn kết lại thành một khối, đứng sát lại và liên kết chặt chẽ với nhau hơn nữa để chống trả “đối thủ chung”.

    Trên khiá cạnh thực hiện th́ lôi kéo có nhiều ưu điểm hơn tấn công. Bởi v́ tấn công th́ khó làm, v́ tấn công thường gây ra thiệt hại cho địch thủ và dễ dẫn đến những hậu quả không tốt cho người tấn công như bị trừng phạt, bị trả thù, khiến người ta ngại làm. Ngược lại, lôi kéo th́ thường là những việc làm tốt đối với đối tượng được kéo, đôi khi c̣n có nghiă là làm ơn, th́ thường được đón nhận tốt, không có hậu quả xấu, do đó gần như ai cũng có thể làm.

    Khi lôi kéo, chúng ta đặt ưu tiên đối với những thành phần cấp thấp, tức là những thành viên ở ṿng ngoài cùng của trụ cột. Những thành viên này, v́ ở địa vị thấp, được hưởng ít ân huệ nhất từ chế độ, nên ít trung thành với chế độ. Họ cũng ít bị mất mát thiệt tḥi nếu bỏ hàng ngũ để trở về với lực lượng dân chủ. V́ vậy chúng ta dễ kéo họ hơn những thành viên của ṿng trong.

    Khi việc bỏ hàng ngũ, hay bất tuân phục, của các thành viên ṿng ngoài diễn ra, và nhất là nếu số lượng ngày một đông hơn, th́ sẽ ảnh hưởng tâm lư đến các thành phần ở các ṿng phiá trong. Dần dần sẽ dẫn đến t́nh trạng thành phần lănh đạo cốt lơi bên trong các trụ cột quyền lực bị cô lập, mất tinh thần và dẫn đến sự sụp đổ của cả trụ cột.

    Trong tinh thần đó, thay v́ tổ chức biểu t́nh tố cáo toàn bộ chính quyền xă hay huyện là một tập đoàn tham ô, cướp đất, cướp ruộng của dân th́ ta chỉ nên vạch mặt chỉ tên một hay hai đối tượng trong thành phần lănh đạo chóp bu ở bên trên là tham ô để cho dân chúng biết. Làm như vậy ta không đẩy tất cả cán bộ vào thế khó xử, hơn nữa c̣n có xác suất là những thành phần khác sẽ tự tách rời ra khỏi các thành phần ác ôn bị tố cáo hay tẩy chay để khỏi bị liên lụy.

    Đằng khác, trong nỗ lực lôi kéo, ta nên tranh thủ và lôi kéo để đứng về phía quần chúng những thành phần cán bộ không dính ǵ đến những vụ tham nhũng hay chủ trương cướp đất, cướp ruộng. Mục tiêu là để tách những cán bộ không dính đến tham nhũng ra khỏi thành phần tham ô.

    Thứ hai là nếu phải tấn công th́ ưu tiên chọn những mục tiêu nhỏ: Dù lôi kéo hay tấn công th́ chúng ta, ít ra là trong giai đoạn đầu, cũng chỉ nên chọn những mục tiêu nhỏ, dễ làm, dễ thành công và ít tạo chú ư từ phiá địch thủ.

    Chọn những mục tiêu nhỏ sẽ khiến cho quần chúng tham gia thấy rằng những những việc làm đó khả thi, ít nguy hiểm và sẽ mạnh dạn tiến hành. Về phiá đối phương th́ cũng sẽ dễ coi thường các đ̣i hỏi mà không dồn nhiều sức để phản công. Những thành quả nhỏ sẽ làm tăng tinh thần của quần chúng để từ từ từng bước mạnh dạn dấn thân cho những công việc lớn hơn.

    Thay v́ tấn công vào cả một guồng máy công an to lớn chúng ta chỉ nên tấn công vào một số thành phần công an ác ôn, nêu đích danh công khai để kêu gọi người dân trong khu vực tẩy chay và cô lập gia đ́nh họ. Khi những việc dễ này có kết quả th́ những thành phần công an c̣n lại sẽ lấy đó làm gương, sẽ không dám liên hệ với những tên công an bị quần chúng tẩy chay, sẽ xa lánh chúng, và sẽ không dám đi theo bước xe đổ. Khi người dân thấy là họ đă làm cho công an không dám lộng hành th́ người dân sẽ nương theo để có những đ̣i hỏi khác buộc công an phải đáp ứng.

    Thứ ba là đẩy địch thủ vào thế Tiến Thoái Lưỡng Nan. Tiến thoái lưỡng nan có nghĩa là tiến hay lùi đều khó. Khi ta đưa địch thủ vào thế tiến thoái lưỡng nan tức là chúng ta đă đặt đối phương ở vào thế khó xử, tiến cũng thiệt hại mà lùi cũng thiệt hại.

    Đây là một thế đánh cốt lơi của phương thức đấu tranh bất bạo động. Khi phong trào dân chủ dồn được chế độ độc tài vào thế tiến thoái lưỡng nan th́ chế độ độc tài rất lúng túng giữa hai sự lựa chọn. Cụ thể là phong trào dân chủ đưa ra một đ̣i hỏi mà chế độ không biết phải xử trí ra sao. Nếu không đáp ứng th́ sẽ tỏ ra đuối lư, vô lư và mất uy tín trầm trọng. Nếu đáp ứng th́ chẳng khác nào mở lối cho phong trào dân chủ mạnh mẽ tiến lên với những đ̣i hỏi ngày một lo lớn hơn.

    Lực lượng dân chủ đối kháng phải luôn luôn đưa ra những hành động, những kế hoạch nhằm đẩy đối phương vào thế “mất - mất” và luôn luôn “được - được” cho phong trào dân chủ.

    Chiến Dịch Vận Động Muối do lănh tụ Gandhi chủ xướng trong cuộc vận động giành độc lập cho Ấn Độ vào mùa Xuân năm 1930 là kế hoạch kỳ diệu để đẩy thực dân Anh vào thế tiến thoái lưỡng nan. Vào lúc đó, chính quyền thực dân Anh quy định rằng việc sản xuất muối đều do người Anh quản lư và cũng là một nguồn thu thuế quan trọng của chính quyền thuộc địa Anh. Ai cũng cần muối hàng ngày, từ người nghèo đến người giàu, nam và nữ, người Ấn giáo hay người Hồi giáo.

    Việc cấm người Ấn Độ sản xuất muối là một sự bóc lột trắng trợn của thực dân Anh đối với người Ấn Độ. Lời kêu gọi mọi người dân Ấn tuần hành ra bờ biển và lấy muối của ông Gandhi là một thách thức đối với luật cấm sản xuất muối của thực dân Anh. Chính quyền Anh bị đối diện với thế tiến thoái lưỡng nan: Nếu bắt giữ ông Gandhi và những người Ấn phá luật muối th́ họ sẽ bị công luận phê phán mất thể diện, và sẽ biến ông Gandhi và những người chống đối như ông trở thành những người anh hùng. Nếu không hành động ǵ cả, th́ coi như đă mặc nhiên công nhận quyền làm muối của người Ấn Độ, nghiă là người Anh không những sẽ mất thế độc quyền muối và nguồn thu thuế, mà c̣n mất thế cầm quyền trong con mắt của hàng triệu người Ấn đang bị đô hộ. Cuối cùng, chính quyền thực dân Anh đă phải đầu hàng bằng cách bải bỏ đạo luật cấm người Ấn sản xuất muối.

    Áp dụng tại Việt Nam

    Sau khi thẩm định về tầm quan trọng của mỗi trụ cột và mức độ khó hay dễ để kéo hay tấn công th́ Đảng Việt Tân nhận thấy ở giai đoạn hiện tại các trụ cột công an, quân đội, trụ cột thông tin, trụ cột pháp lư là những trụ cột có tầm mức quan trọng chiến lược nhất trong việc chống đỡ chế độ CSVN, và khả năng làm soi ṃn những cột trụ này của phong trào dân chủ đấu tranh bất bạo động có mức độ cao hơn các trụ cột khác.

    Trụ cột công an: Công an hiện đang là cánh tay trấn áp của đảng CSVN, là bộ phận giúp đảng chống bạo loạn và bảo vệ chính trị.. Những biện pháp trấn áp, bóc lột, trừng phạt, ... làm cản trở phong trào dân chủ hiện nay của chế độ đều do công an thực hiện. Nếu v́ bất cứ lư do ǵ mà công an ngưng thi hành các chỉ thị đàn áp của chế độ th́ phong trào dân chủ sẽ phát triển rất nhanh và nhiều phần là chế độ sẽ sụp đổ nhanh chóng.

    Việc mà phong trào dân chủ cần làm là vừa lôi kéo vừa tấn công. Lôi kéo để cảm hoá những thành phần tốt để họ ngừng tiếp tay với chế độ. Tấn công cá nhân để tách dần thành phần công an ác ôn ra khỏi thành phần quảng đại công an địa phương. Cần thu thập những dữ kiện liên quan đến các hành vi ác ôn, trấn áp của một số công an nhằm phổ biến trên một loại "bảng phong thần" cho quần chúng địa phương được biết để vạch mặt chỉ tên chúng làm gương. Vận động quần chúng tại địa phương cô lập gia đ́nh công an ác ôn. Tạo áp lực từ hải ngoại lên một số đối tượng công an đặc biệt để làm gương.

    Trụ cột quân đội: Đảng CSVN coi quân đội là xương sống của chế độ nên họ đă đặt quân đội phải tuyệt đối trung thành với Đảng. Thay vào đó, nhân sự quân đội được ưu đăi hơn và chiếm một tỷ lệ rất cao trong Trung Ương Đảng, Quốc Hội. Vai tṛ của quân đội rất quan trọng trong việc xoay chuyển tinh h́nh tại Việt Nam và trung hoà thế lực của công an. Về mặt trang bị và huấn luyện tác chiến, các đơn vị công an không có phương tiện và khả năng đàn áp một số đông quần chúng hàng chục ngàn người. Chỉ cần các đơn vị quân đội không chấp hành mệnh lệnh, chắc chắn cán cân lực lượng sẽ nghiêng về phía người dân.

    Hiện nay có rất nhiều thành phần yêu nước trong quân đội đang bất b́nh về các vấn đề chủ quyền đất nước (Hoàng Sa/ Trường Sa) và mối hiểm họa Bắc thuộc lần thứ năm. Đặc biệt là thành phần sĩ quan cao cấp và trung cấp tại các quân khu. Đây là điểm tương đồng với quảng đại quần chúng mà chúng ta cần quan tâm. Ngoài ra, các gia đ́nh cựu chiến binh đă từng có nhiều công trạng với chế độ cũng là nguồn lực thuyết phục một số thành phần quân đội. Các lực lượng dân tộc dân chủ cần chính thức đưa ra lời kêu gọi nhằm vào thành phần quân đội để họ không đứng về phía bạo quyền quay súng vào dân trong những lúc tính h́nh lên cao điểm.

    Trụ cột truyền thông: Thông tin bị bưng bít khiến người dân không biết được sự thật, không biết được những sự gian trá, những tội ác của chế độ. Đảng CSVN cũng coi báo chí, truyền thông là vũ khí quan trọng để hỗ trợ cho các đ̣n khủng bố và trấn áp của trụ cột công an. Tuy nhiên, thành phần làm việc trong 700 cơ quan báo chí, truyền thông, truyền h́nh, không đồng nhất. V́ lương tâm và v́ sự đ̣i hỏi của quần chúng về những vấn đề nóng bỏng trong xă hội Việt Nam, nhiều nhà báo đă phải xé rào để viết lên sự thật, nhất là đối với các vấn đề chủ quyền đất nước và toàn vẹn lănh thổ.

    Lực lượng dân chủ cần kêu gọi lương tâm chức nghiệp của giới làm báo. Giúp đỡ, hỗ trợ cho các nhà báo có lương tâm, khuyến khích họ lên tiếng về các vấn đề xă hội, và hỗ trợ lẫn nhau khi bị trù dập. Thành lập những câu lạc bộ, nhóm phóng viên tự do nhằm tô đậm sự so sánh trong vấn đề thông tin giữa báo chí nhà nước và báo ngoài luồng. T́m kiếm những hỗ trợ quốc tế, các tổ chức phi chính phủ cho quyền tự do thông tin, các hiệp hội nhà báo, v.v. để bảo vệ các nhà báo cấp tiến trong nước. Cùng lúc, phải vạch mặt chỉ tên các thành phần bồi bút văn nô bẻ cong ng̣i bút phục vụ cho chế độ để làm gương cho những tên khác.

    Trụ cột pháp lư: CSVN đă biến hệ thống tư pháp tại Việt Nam thành một công cụ để hợp pháp hoá những tội ác của họ. Những phiên toà xử dưới chế độ CSVN chỉ là những màn dàn cảnh bịp bợm trắng trợn và lố bịch.

    Đảng CSVN coi pháp lư là những lá chắn để vừa bảo bọc các đ̣n trấn áp thô bạo lên phong trào dân chủ, vừa là sợi dây tḥng lọng xiết cổ họ v́ nhu cầu mở cửa làm ăn buôn bán với bên ngoài. Nói cách khác, trụ cột pháp lư giúp cho Hà Nội thể chế hóa bộ máy đàn áp tinh vi hơn; nhưng ngược lại chính pháp lư đă trói tay CSVN ở một số lănh vực mà chính họ không c̣n có thể tự tung tự tác như trước đây.

    Song song với việc thông tin bị bưng bít, những phiên toà này vẫn c̣n có tác dụng bịt mắt đối với số rất đông đồng bào trong nước. Điều mà các phong trào dân chủ cần làm cũng tương tự như đối với trụ cột truyền thông là vừa lôi kéo và vừa đẩy.

    Tóm lại, các chế độ đều phải tựa lên những trụ cột chống đỡ để tồn tại. Ở Việt Nam hiện nay, Đảng CSVN đă thành công trong việc biến lực lượng công an, quân đội, hệ thống truyền thông và hệ thống pháp lư thành những trụ cột, những công cụ bảo vệ chế độ.

    Chúng ta không cần những lực lượng công an, quân đội cũng như hệ thống truyền thông và pháp lư đi theo phong trào dân chủ, mà chỉ cần các lực lượng và cơ chế nói trên hành xử đúng với chức năng của nó, tức là bảo vệ người dân, bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ sự thật và bảo vệ công lư thay v́ bảo vệ những việc làm sai trái của chế độ CSVN. Khi đó, phong trào dân chủ sẽ có cơ hội phát triển rộng lớn và nhanh chóng và chế độ CSVN sẽ sụp đổ.

    Việc làm của phong trào dân chủ là làm sao để các lực lượng và cơ chế nói trên dứt khoát bỏ đi ư muốn sai trái là bảo vệ chế độ.

    Cám ơn Quư vị và các bạn đă lắng nghe.

    — -

    Ông Đỗ Đăng Liêu


    Ông Đỗ Đăng Liêu đi du học tại Bỉ và Pháp trước năm 1975. Tốt nghiệp Cử Nhân Kinh Tế và Cử Nhân Quản Trị Xă Hội. Mang ước vọng canh tân Việt Nam từ thời c̣n c̣n cắp sách đến trường, Ông Liêu đă thành lập, tham gia và sinh hoạt trong các hội sinh viên Quốc Gia tại Bỉ và Pháp, kể cả Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris, là lực lượng người Việt Quốc Gia hoạt động tích cực và mạnh mẽ trong những năm trước và sau 1975. Ông Liêu tham gia Đảng Việt Tân năm 1989 với ước mong góp phần vào việc giải thể chế độ độc tài toàn trị Cộng Sản Việt Nam để mở lối cho việc canh tân đất nước. Ông Liêu là Ủy Viên Trung Ương Đảng từ năm 2001 tới nay.

  10. #10
    Member
    Join Date
    01-05-2011
    Posts
    1,401
    Bác Đặc Trung có quen ai bên Việt Tân ở Đức, nhắn họ phỏng dịch bài này sang tiếng Đức giùm.

    Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Tổn thất đầu tiên của Tông Tông Obama
    By TonNuJacqueline in forum Tin Việt Nam
    Replies: 9
    Last Post: 15-11-2012, 10:47 AM
  2. ''Trần Nhân Tông Ḥa giải"
    By Dac Trung in forum Tin Việt Nam
    Replies: 10
    Last Post: 26-10-2012, 05:47 AM
  3. Replies: 6
    Last Post: 22-08-2012, 12:13 PM
  4. Replies: 12
    Last Post: 25-06-2011, 08:01 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 09-09-2010, 10:15 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •