Results 1 to 8 of 8

Thread: Những Người Thua Trận

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Những Người Thua Trận

    Những Người Thua Trận


    Huy Phương



    Kính thưa Các Bạn,

    Câu chuyện do Huy Đức viết về ngày 30/4/75 tại Dinh Dộc Lập Saigon trong “Bên Thắng Cuộc” quá đơn giản, quá lịch sự cho những người thắng trận vào dinh Độc Lập.

    Đây mới là sự thật do những nhân chứng có mặt hôm đó trong dinh tŕnh bày, viết thành bản văn, (Đại tá Dương Hiếu Nghĩa, Cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Binh ) tỏ những người lính “tiếp thu” rất hung hản, mọi rợ, thiếu giáo dục, kể cả một ôngTrung Tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ Đoàn Xe Tăng 203.



    Tác giả Huy Đức có biết chuyện này không hay chỉ viết theo văn bản tường thuật của báo chí Hà Nội. Xin quư Vị b́nh tâm đọc kỹ. Nếu cần vào “Hồi Kư Dang Dở” của Dương Hiếu Nghĩa). Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này khi đọc xong tập I: “Giải Phóng” của ” Bên Thắng Cuộc”

    Xin thành thật cám ơn.

    Huy Phương


    (TRÍCH)

    “Trước hết chúng ta nh́n lại cuộc đầu hàng miền Nam ngày 30 tháng 4, 1975 tại Dinh Độc Lập, Sài G̣n. Theo David Butler, tác giả cuốn The Fall of Saigon (1984), ghi lại tường thuật của phóng viên Neil Davis, một người Úc biết tiếng Việt làm việc cho đài truyền h́nh NBC của Mỹ, có mặt trong dinh lúc bấy giờ, th́ khi xe tăng đă vào sân cỏ, hai bộ đội trẻ là Pham Huy Do và Pham Huy Nghe (ghi tên không có dấu tiếng Việt theo như trong sách), tay ôm súng, chạy vào trong dinh, sau khi kéo cờ Mặt Trận trên nóc, Nghe đi t́m Tổng Thống Dương Văn Minh, vừa chạy vừa quát to: “Ai là Dương Văn Minh? Dương Văn Minh hăy bước ra và qú xuống.” Vừa lúc th́ Do dẫn vào bốn chính ủy, một người tự giới thiệu là Trung Tá Bùi Văn Tùng, chỉ huy đoàn chiến xa vào Dinh Độc Lập.

    Sau này tài liệu của Cộng Sản ghi chép th́ Bùi Văn Tùng có nói với Tổng Thống Dương Văn Minh là: “Ông không c̣n ǵ để bàn giao…” Nhưng sự thật, theo “Hồi Kư Dang Dở..” của cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa ghi lại lời kể của Cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Binh (nguyên Quận trưởng G̣ Vấp) có mặt trong Dinh Độc Lập vào giờ ấy, th́:

    “Thấy vị sĩ quan nầy đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, v́ không biết cấp bậc của quân đội Miền Bắc, nên ông Minh tưởng rằng ḿnh đang đứng trước một tướng lănh cao cấp:
    “Thưa quan sáu, tôi đă chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông.”

    Sĩ quan nầy dùng danh từ “mầy tao” xẵng giọng hách dịch và đanh đá lên tiếng:
    “Mầy dám nói là trao quyền hả? Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nh́n. Mầy làm ǵ có ‘quyền’ nào để giao cho tao? Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng nầy đây. Ngoài ra tao xác nhận với mầy là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chính trị của một đơn vị chiến xa. Kể từ bây giờ tao cấm mầy không được ngồi xuống!”

    Cũng với thái độ ấy, y nói với ông Nguyễn Văn Hảo, khi ông này ngỏ ư muốn trao “món quà” 16 tấn vàng cho Bắc Việt:
    “Đó không phải là quà mà là chiến lợi phẩm của chúng tao, tao phải tịch thu, mầy hăy trao ngay cho tao đi!”

    Đọc đến đây, thấy vừa buồn vừa nhục!

    Ngày nay chúng ta đă rơ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa và thân phận của người lính miền Nam đă bị đối xử như thế nào. Về người chết th́ ngay khi Cộng Sản vào Saigon, ngày 3 tháng 5, Nghĩa Trang Quân Đội Hạnh Thông Tây, G̣ Vấp đă bị bọn Cộng Sản Bắc Việt dùng xe ủi đất san bằng hết ngay chiều ngày hôm đó. Về người sống thua trận, th́ cũng trong “Hồi Kư Dang Dở,” Ông Dương Hiếu Nghĩa cho biết: “Ngay tại tỉnh Vĩnh Long, các ông cai tổng Nguyễn Văn Dần, Nguyễn Văn Xôm, Nguyễn văn Thêm đều bị họ kết án là ‘có tội với nhân dân’ mà không thông qua một ṭa án nào, và bị hành quyết ngay khi bị bắt, bằng vũ khí thô sơ như búa, mă tấu… Riêng ngôi mộ của Trung Úy Dù Nguyễn Văn Ngọc ở xă Long Hồ, dù đă chết từ hơn một năm trước, vẫn bị họ đào mả lên, đưa cả quan tài ra giữa chợ Ngă Tư Long Hồ để cho phá nát bằng cốt ḿn.”

    Ở Củ Chi, Hậu Nghĩa, chỉ trong ngày 30 tháng 4-1975, sau ngày Việt Cộng vào, để trả thù chúng bắt anh Nguyễn Văn Chấp, Cảnh sát Đặc biệt xă Phước Hiệp, đánh bằng cây tầm vong, xong nấu nước sôi dội từ trên đầu xuống cho đến chết. Vợ con xin xác đem về chôn nhưng không được. Đại úy Trần Thắng Toàn, Phân Chi khu Trung Lập, sau khi bị bắt, bị nhổ sống hết hàm râu, tùng xẻo từng miếng thịt và cuối cùng bị bắn chết. Anh Tạ Văn Phúc, quân nhân biệt phái cảnh sát tại Xă Tân An Hội, bị những kẻ thắng trận bắt tự đào hố chôn ḿnh, sau đó chúng chặt anh ra làm ba khúc và lùa xuống hố.

    Vài ngày sau khi ông Dương Văn Minh đầu hàng, một toán 81 Biệt Cách Dù ra đầu hàng tại Long Thành, bị bắn và chôn dưới một cái giếng cạn. Nhân chứng c̣n sống nhưng không dám lên tiếng.

    Ở đây chúng ta không nói đến nguyên nhân của chiến tranh Việt Nam và cuộc nội chiến tại Mỹ, cũng không thể so sánh nếp sống và tư cách của tướng lănh Mỹ với tác phong “rừng rú” của “bộ đội cụ Hồ” trong hai câu chuyện kể trên. Chỉ xin mượn lời nhà văn Dương Thu Hương để kết luận cho bài này:
    “…Và thật chua chát khi nền văn minh đă thua chế độ man rợ!”
    Đọc lịch sử, nhiều khi muốn khóc.

    (Trích Những Người Thua Trận, tạp ghi của Huy Phương
    đă xuất bản. )

    TB Online

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    “BÊN THẮNG CUỘC” CỦA HUY ĐỨC, TRUYỆN KỂ… NĂM 2012

    Nguyễn Quốc Đống, Cựu SVSQ K.13, TVBQGVN


    30 tháng 12, 2012

    Trung tuần tháng 12, 2012 người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại biết đến sách Bên Thắng Cuộc (BTC) của nhà báo Huy Đức qua lời giới thiệu nồng nhiệt của một số nhân vật trong nước như Nguyên Ngọc, nhà báo, VN; Chu Hảo, nhà xuất bản Tri Thức, Hà Nội, VN; và tại hải ngoại như Mặc Lâm, phóng viên đài RFA; Trần Hữu Dũng, giáo sư đại học Wright, Ohio, Hoa Kỳ; Nguyễn Mạnh Hùng, giáo sư đại học George Mason, Virginia, Hoa Kỳ; Đinh Quang Anh Thái, phụ tá chủ nhiệm nhật báo Người Việt, Nam California…. Đặc biệt sách này đă được rao bán trên hệ thống Amazon dưới dạng sách điện tử, và sẽ được công ty báo Người Việt phát hành vào tháng 1, 2013 tại hải ngoại. Cuốn sách đă gây ra rất nhiều tranh căi. Người bênh th́ hết lời ca tụng, tưởng như không c̣n lời nào hay hơn dành cho 1 tác giả sinh ra và được nuôi dưỡng trong ḷng chế độ CS. Người chống đa số ở hải ngoại, khẳng định đây chỉ là 1 sản phẩm tuyên truyền có lợi cho CS, là nọc độc tai hại mà CS đang muốn cho tiêm nhiễm tại môi trường sống của người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại, những người mà CSVN cần phải khống chế bằng mọi phương tiện chúng có, bằng cả 1 kế hoạch lâu dài và tinh vi là Nghị Quyết 36 ra đời từ tháng 3, 2004. Tôi có một số suy nghĩ như sau về sự kiện BTC, sách của 1 tác giả VC, lại được quảng cáo rầm rộ tại hải ngoại vào thời điểm cuối năm 2012, gần 38 năm sau khi cả nước VN được đặt dưới sự cai trị của Đảng CSVN, người mà tác giả cuốn sách mệnh danh là “Bên Thắng Cuộc”:

    1-Huy Đức, tác giả BTC là ai?

    Năm nay, Huy Đức (HĐ) mới khoảng 50 tuổi. Khi cuộc chiến VN chấm dứt vào tháng 4, 1975, HĐ chỉ là 1 cậu bé 13 tuổi. Sinh ra và lớn lên trong ḷng chế độ CS, cậu bé này cũng phải sống và làm việc như mọi người trong xă hội VN, phấn đấu để trở thành đoàn viên Đoàn Thanh Niên CS Hồ Chí Minh, rồi sau đó thành đảng viên của Đảng CSVN. Có vậy Huy Đức mới có được tương lai và sự nghiệp. Sau này HĐ trở thành sĩ quan của Quân Đội Nhân Dân VN, đă phục vụ tại Kampuchia 3 năm với tư cách là một chuyên viên quân sự, rồi thành nhà báo, được chế độ cho đi du học tại Maryland, Mỹ 1 năm. Hiện nay, HĐ đang được học bổng tu nghiệp tại đại học Harvard, Massachusetts. Vào thời điểm cuối năm 2012, HĐ bỗng trở thành tác giả có sách “bán chạy hạng nhất về lịch sử Đông Nam Á, bán chạy hàng thứ hai về lịch sử Á châu”! (theo lời quảng cáo của báo Người Việt). Nh́n vào lư lịch của HĐ, chúng ta khẳng định được 1 điều, đây là 1 tác giả Việt Cộng, đă nhiều năm phục vụ cho chế độ CSVN, nhiều năm được rèn luyện để suy nghĩ, lư luận, và hành động theo chủ nghĩa Mác-Lê nin. Ông bà ta có 1 câu nói đơn giản nhưng rất đúng: “Ở bầu th́ tṛn, ở ống th́ dài”. HĐ được chế độ CS rèn luyện, nuôi dưỡng, ông ta làm sao mà tránh khỏi bị chế độ CS nhồi sọ, tẩy năo. Dù có người cho rằng HĐ là “nhà bất đồng chính kiến với chế độ, muốn viết sách BTC để ghi lại một thời lịch sử đầy sóng gió, để lănh đạo đất nước nh́n lại mà học hỏi từ sai lầm của ḿnh…”, tôi tự hỏi nhà báo VC này có đủ tuổi đời, đủ kiến thức, đủ khách quan, và đủ can đảm để viết về một giai đoạn lịch sử c̣n gây nhiều tranh căi, một giai đoạn lịch sử mà tuy nhiều nhân chứng đă chết, nhiều nhân chứng sống vẫn c̣n, về một “cuộc chiến” vẫn c̣n đang tiếp diễn dưới nhiều h́nh thức khác nhau giữa Đảng CSVN và những người dân Việt yêu chuộng tự do, dân chủ hay không?

    2- Huy Đức muốn nói lên điều ǵ qua BTC?

    Theo các tài liệu phổ biến, Huy Đức phải bỏ ra 1 thời gian dài để đọc hơn 120 cuốn sách (?), hơn 50 cuốn hồi kư của các nhân vật lịch sử, phỏng vấn rất nhiều người từng có mặt trong các biến cố lịch sử sau 1975 để có tài liệu viết cuốn sách dày cộm gồm 2 quyển này (tác giả mới hoàn thành xong Quyển 1). Tác giả muốn nói lên điều ǵ?



    ….

    “Tôi mong các nhà lănh đạo hiện nay đọc BTC cho dù họ có đánh giá cuốn sách như thế nào.”

    “Nhận ra những sai lầm để đưa dân tộc Việt Nam đi đúng con đường dân chủ, phát triển là mong ước của chúng ta”

    “Nhưng tương lai dân tộc không thể chỉ được trông cậy vào 1 cuốn sách hay chỉ trông cậy vào các nhà lănh đạo ở bên thắng cuộc.”

    “Sự thật không chỉ giúp chúng ta t́m ra phương thuốc đúng để chữa lành các vết thương cũ mà c̣n giúp những người đang nắm vận mệnh quốc gia không phạm các sai lầm mới.”

    “Không ai muốn hứng chịu những điều không hay nhưng nếu cứ trú ngụ trong sự sợ hăi th́ sự thật bao giờ được nói ra bạn ạ.”

    (Lời Huy Đức viết trên Facebook)

    Qua những điều tâm sự nói trên, chúng ta nhận biết được HĐ có ư muốn “giúp các nhà lănh đạo CS đi đúng con đường dân chủ để phát triển đất nước như sự mong ước của toàn dân, muốn vượt qua sự sợ hăi của chính ḿnh để nói lên sự thật của lịch sử…”

    Đọc “Lời Cám Ơn” ở đầu cuốn sách, chúng ta thấy HĐ đă dùng rất nhiều tài liệu do “bên thắng cuộc” (CSVN) cung cấp. Tác giả phỏng vấn các đảng viên CS gộc như tổng bí thư, chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng, phó thủ tướng, bí thư trung ương đảng, ngoại trưởng… Thử hỏi những tên CS này cung cấp được bao nhiêu phần trăm sự thật cho HĐ để ông này thu góp làm tài liệu cho “cuốn sách sử” của ông ta. Chúng ta biết rơ người CS có bao giờ tôn trọng sự thật. Chúng rành rẽ mọi thủ đoạn để giấu diếm sự thật, lừa bịp người dân Việt trong, ngoài nước, và cả cộng đồng quốc tế. Năm 1946, chúng có nói cho dân Việt biết thủ lănh của chúng Hồ Chí Minh (HCM) là đảng viên của CS Quốc Tế không, hay vẫn rêu rao HCM là người yêu nước, muốn cùng toàn dân tranh đấu để giành độc lập cho nước nhà. Năm 1957, khi tiến hành cuộc chiến xâm lược miền Nam, CS miền bắc có nói sự thật cho dân miền Bắc biết là chúng làm theo chỉ thị của CS Tàu, hay dối gạt họ, bảo là “tiến hành chiến tranh đánh đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, để cứu nước Việt”. Suốt thời kỳ chiến tranh 1957-1975, chúng có dám nói lên sự thật là tại miền Nam, người dân có cuộc sống hơn hẳn miền bắc về vật chất lẫn tinh thần hay không? Hay chúng gạt người dân, bắt họ phải để dành từng hột gạo, từng cây kim, sợi chỉ… cho thân nhân tại miền Nam, để rồi ngày 30-4 khiến họ phải ngỡ ngàng trước cuộc sống sung túc và tự do tại vùng đất được họ “giải phóng”? Thật là khôi hài khi tác giả Huy Đức phỏng vấn những tên đại bịp để mong “trả lại sự thật cho lịch sử”.

    Đinh Quang Anh Thái, phụ tá chủ nhiệm báo Người Việt, Nam California, nhận xét “BTC là tác phẩm “thực” nhất, cho đến thời điểm này, ghi lại một giai đoạn lịch sử khốc liệt, thông qua tư liệu, của dân tộc từ biến cố 1975 đến nay…” “Thực” nhất mà sao sách mới được phổ biến có 2 tuần lễ đă bị biết bao nhân chứng sống vạch ra bao điều sai lầm, láo khoét v́ dựa vào tài liệu bịp bợm của CS miền bắc VN, và bọn thân cộng ở miền Nam VN. Trường hợp điển h́nh là đoạn viết về cuộc lui quân của TQLC-VNCH tại cửa biển Thuận An (lời phản đối của thiếu tá Lê Quang Liễn, tiểu đoàn phó TĐ 7 TQLC gửi tác giả HĐ), đoạn viết về cầu Saigon ngày 30-4-1975(nhận xét của thiếu tá Nguyễn Văn Nghiêm, tiểu đoàn trưởng TĐ 12 Nhảy Dù), đoạn viết về trận đánh Xuân Lộc tháng 4, 1975(nhận xét của chiến hữu Lê Phi Ô, TĐ 344)…

    “Một công tŕnh khảo cứu lịch sử đặc sắc được viết với lương tâm trong sáng và tay nghề lăo luyện của một nhà báo chuyên nghiệp có trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước” (lời ca ngợi của Chu Hảo) mà lại chứa những điều sai sự thật, những bóp méo lịch sử như thế? Vậy sách có bảo đảm được công bằng cho người trong cuộc không? Hay đây lại là dịp cho “bên thua cuộc” thua thêm lần nữa?

    Tôi thắc mắc tại sao tác giả Huy Đức phải nhọc công lâu như vậy mới “nh́n ra” được sự thật về các lănh đạo CSVN? Năm 1954, 1 triệu người dân miền Bắc trong đó có những người dân rất b́nh thường, đă nh́n ra “sự thật” về con người CS nên đă dứt khoát bỏ lại gia đ́nh, sản nghiệp, và di cư vào Nam. Sau 1975, người dân miền Nam cũng liều chết vượt biển, vượt biên t́m tự do ở nhiều nước tại châu Mỹ, châu Âu, châu Úc… v́ biết quá rơ về con người CS và chế độ CS. Thậm chí nhạc sĩ Việt Khang, 1 thanh niên đang sống trong nước, năm nay mới 34 tuổi, tức là được sinh ra và lớn lên trong chế độ xă hội chủ nghĩa, chưa hề sống trong chế độ tư bản ngày nào, mà c̣n thấy được sự thật trần trụi về đất nước VN dưới sự cai trị của các lănh đạo CS, một đất nước “với giặc Tàu ngang tàng, với kẻ cầm quyền giàu sang dối gian, với cảnh người dân vô tội chết ngậm ngùi v́ tay súng giặc Tàu…” Việt Khang nói lên sự thật, và đă phải trả giá với bản án 4 năm tù giam được tuyên bố tháng 10, 2012 vừa qua. Huy Đức đă nói lên được những sự thật nào để mở mắt cho lănh đạo CSVN, và để trả lại công bằng cho “bên thua cuộc”, là những người dân miền Nam đang sống trầm luân ngay tại quê hương ḿnh, là những người Việt đang lưu vong sống đời tỵ nạn tại khắp nơi trên thế giới?

    3- Tác giả BTC có thể giúp lănh đạo CS mở mắt, nhận thức sai lầm để đưa dân tộc VN đi đúng con đường dân chủ, phát triển… hay không?

    Nh́n vào tựa của cuốn sách, chúng ta thấy tác giả sẽ không bao giờ có thể đạt mục tiêu mong muốn, tức là để “lănh đạo CSVN nhận thức sai lầm cũ của ḿnh, không phạm sai lầm mới, t́m ra phương thức đúng để chữa lành các vết thương cũ…” Sách mang tên “Bên Thắng Cuộc”. Đây không phải là “cuộc chiến tự vệ của 1 dân tộc nhằm giành lại chủ quyền 1 quốc gia (Ấn Độ chống thực dân Anh), cuộc chiến chống độc tài phát xít (đồng minh chống phe Trục trong thế chiến thứ 2), hay cuộc chiến chống CS xâm lược (Nam Hàn chống Bắc Hàn). Đây là cuộc chiến do miền Bắc VN (theo chủ nghĩa CS) tiến hành để xâm lược miền Nam (theo thể chế tự do, dân chủ). Đây là cuộc chiến khởi sự do khác biệt về ư thức hệ giữa 2 miền Nam và Bắc VN. Tác giả Huy Đức gọi lănh đạo miền bắc là “Bên Thắng Cuộc”, mặc nhiên công nhận thành tích của bọn xâm lược này trong chiến tranh tại miền Nam (1957-1975).

    Từ trước đến nay, chưa bao giờ CSVN nhận chúng “sai lầm” một điều ǵ cả. Chúng luôn luôn nhận ḿnh là “kẻ thắng”. Hăy đọc lại các khẩu hiệu của chúng, nào là “Đảng Cộng Sản Việt Nam Quang Vinh, Người Tổ Chức Mọi Thắng Lợi”, “Chủ Nghĩa Mác-Lê nin Bách Chiến Bách Thắng”… Nay Huy Đức cũng công nhận Đảng CSVN là “Bên Thắng Cuộc” th́ làm sao dám đề nghị Đảng phải “nhận ra những sai lầm để đưa dân tộc VN đi đúng con đường dân chủ…”

    Huy Đức có nêu tên một số đảng viên CS mà ông ta cho là “có tội”, những tên hoặc đă chết, hoặc hiện đă bị thất sủng nên không thể tự biện hộ (theo nhận xét của 1 độc giả BTC). Chúng ta không thể quên đường lối cai trị của Đảng CS: cá nhân trách nhiệm, tập thể lănh đạo. Không thể có chuyện đảng viên CS tự ư làm bất cứ chuyện ǵ, chúng chỉ thi hành những việc do cấp trên giao phó. V́ vậy khi chuyện xấu xa xảy ra, chúng đều biện minh “chỉ làm theo lệnh Đảng” (Nguyễn Tấn Dũng bị chỉ trích nặng nề v́ không diệt nổi quốc nạn tham nhũng, v́ vụ Vinashin kinh doanh thua lỗ nặng… nhưng vẫn không chịu từ chức, vẫn cho là ḿnh chỉ thi hành lệnh của Đảng…) Huy Đức muốn lănh đạo CS “nh́n nhận sai lầm trong quá khứ” để sau đó “biết đi đúng hướng, đem dân chủ cho người dân, và sự phát triển cho đất nước” chăng? Ở đây, chính tác giả sai lầm ở chỗ “không nhận chân được bản chất phi nhân, tàn ác của con người CS”, không dám đối diện với sự thật là “người CS không có ư thức dân tộc, quốc gia mà chỉ có ư thức về 1 thế giới đại đồng, nơi tất cả các nước CS đều có t́nh anh em, có nghĩa vụ phải giúp nhau để tồn tại và phát triển”. Sự thật phũ phàng này đă được thực tế chứng minh. Năm 1979, Tàu cộng xua quân tàn phá 6 tỉnh biên giới phía bắc, san bằng nhiều làng mạc, giết hại cả chục ngàn quân, dân VN mà CSVN vẫn phải gọi chúng là “láng giềng tốt”, phải lập nghĩa trang ghi nhớ công ơn của “liệt sĩ người Trung quốc”, đàn áp và bỏ tù những công dân VN yêu nước xuống đường biểu t́nh chống giặc Tàu giết hại ngư dân VN, chiếm biển đảo của VN…

    Qua tựa đề BTC, phải chăng tác giả công nhận lănh đạo CS đúng ở chỗ tiến hành “chiến tranh chống Mỹ cứu nước”, và chỉ sai ở chỗ “chưa đi đúng con đường dân chủ, phát triển cho đất nước”? Bọn cầm quyền hiện nay đă và đang giam tù biết bao nhiêu người dân trong nước lên tiếng đ̣i tự do, dân chủ, nhân quyền, dân quyền. Vậy mà chúng vẫn tô điểm cho tên nước VN là “độc lập-tự do-hạnh phúc”. Không ǵ mỉa mai hơn! Bao nhiêu xương máu của người dân 2 miền Nam, Bắc đổ ra không làm chúng xúc động và nhận ra sai lầm khi khởi sự chiến tranh tại miền Nam, bao nhiêu sĩ quan quân lực VNCH và viên chức của chính quyền VNCH chết trong các trại tù tập trung cải tạo, bao nhiêu người dân miền Nam chết tại các vùng kinh tế mới, bao nhiêu người dân vô tội chết thảm trên đường trốn chạy CS, bao nhiêu cái chết thương tâm của các cô gái Việt phải bán thân tại các nước vùng Đông Nam Á, bao nhiêu cảnh người dân cả Nam lẫn Bắc bị mất nhà, mất đất nhọc nhằn đi khiếu kiện hàng chục năm trời…có làm lănh đạo CSVN nhận biết sai lầm của chúng hay không? Từng đó chuyện không làm lănh đạo CSVN mở mắt, Huy Đức tài cán ǵ mà ḥng “mở mắt” cho chúng? Sách lại phổ biến tại địa bàn của “kẻ thua cuộc”, là những người trong cuộc, là những nhân chứng sống, là những người đâu cần tới sách của HĐ để biết được sự thật!

    Lịch sử chứng minh chủ nghĩa Mác-Lê nin dạy người CS “dùng bạo lực cách mạng để cướp chính quyền, và dùng bạo lực để giữ quyền”. Nếu người dân chưa biết sự thật, th́ chúng che giấu, dùng các chiêu bài (độc lập, tự do, dân chủ…) để lừa bịp họ. Nếu sự thật bị phanh phui, chúng sẽ dùng nhà tù, họng súng, khủng bố để khiến người dân sợ hăi mà phải chịu khuất phục. Nhạc sĩ Tô Hải phải thú nhận “phải hèn mới c̣n sống được đến ngày hôm nay” (Nhật Kư của 1 Thằng Hèn). Con người c̣n có phẩm giá nữa không khi phải tự nhận ḿnh là 1 thằng hèn? Điều 4 của Hiến Pháp CS, điều 88 của Bộ Luật H́nh Sự CSVN cho thấy bọn lănh đạo CS sẽ duy tŕ quyền lực của chúng bằng mọi giá, bất chấp sự tranh đấu ôn ḥa của người dân, bất chấp lời kêu gọi tôn trọng nhân quyền của các giới trí thức cũng như của thường dân trong nước cũng như hải ngoại, bất chấp sự kết án của quôc tế… BTC được tung ra tại hải ngoại vào thời điểm muộn màng này cũng chỉ là 1 lời “cầu xin” dân chủ, liệu có được chúng (CSVN) “ban cho” hay không? Câu trả lời này, chúng ta, người Việt hải ngoại, nạn nhân của CS đều biết rơ.

    4- Việc phát hành BTC tại hải ngoại trong cộng đồng những nạn nhân của CS vào thời điểm này mang ư nghĩa ǵ?

    Khi sách mới phát hành vào trung tuần tháng 12, 2012, có người gọi nó là một hiện tượng chấn động. Một số người Việt hải ngoại tưởng đâu đây là “sách quư”, cảm động v́ đọc được những lời nghe thật mát tai, v́ tác giả là VC mà khi viết về VNCH, “bên thua cuộc”, lại dùng những chữ như “tổng thống Thiệu, thủ tướng Khiêm, sĩ quan quân đội VNCH…”, gọi việc tự sát của 5 vị tướng VNCH ngày 30-4-1975 là “tuẫn tiết”… Chẳng lẽ ở vào thời điểm này, 38 năm sau cuộc chiến, HĐ gọi các lănh đạo CS là chủ tịch nước, là Hồ chủ tịch, là thủ tướng Vơ Văn Kiệt, là phu nhân tổng bí thư này nọ, mà dám gọi các lănh đạo của miền Nam là “thằng Thiệu, thằng Kỳ, thằng Khiêm…” như chúng đă hỗn xược gọi những vị này sau ngày 30-4-1975 hay sao? Chúng ta thử tưởng tượng nếu 5 vị tướng trên mà sa vào tay giặc cộng th́ số phận của họ sẽ bi thảm như thế nào, một là họ sẽ bị chúng hành quyết trước công chúng như trường hợp của đại tá Hồ Ngọc Cẩn, hai là sẽ bị chúng giam tù làm nhục nhiều năm như trường hợp của nhiều tướng lănh VNCH khác. Như vậy đâu phải chỉ v́ một vài chữ nhẹ nhàng, mát tai khiến ta hả dạ, hay chỉ v́ một số chương kể về các chiêu độc của kẻ thắng cuộc như: bắt tù cải tạo, đánh tư sản, nạn kiều…. mà chúng ta tin vào thiện ư của tác giả, ôm lấy tác phẩm này vào ḷng, và giúp quảng bá nó trong cộng đồng tỵ nạn CS tại hải ngoại như một số cá nhân và tổ chức tại hải ngoại đang làm hay không?

    Những người ngợi khen BTC là những ai? Hăy thử điểm tên một số người Việt tại hải ngoại để xem “Họ là ai?”

    Thứ nhất : Trần Hữu Dũng, giáo sư đại học Wright, Ohio, Hoa Kỳ. Ông này là con của 1 bác sĩ riêng của Tôn Đức Thắng.

    Thứ hai: Nguyễn Mạnh Hùng, giáo sư đại học George Mason, Virginia, Hoa Kỳ, người đă bị khoa học gia Dương Nguyệt Ánh nhận xét là “có tư tưởng thiên tả theo lối tây phương…, cái tư tưởng của nhóm người đă sỉ nhục quân dân VNCH ṛng ră nửa thế kỷ qua” . Ông này cũng có nhiều bài viết xuất hiện trên trang web của thủ tướng VC Nguyễn Tấn Dũng (bài viết của NT Nhẫn về BTC)

    Thứ ba: Đinh Quang Anh Thái, phụ tá chủ nhiệm báo Người Việt. Báo này đang quảng cáo rầm rộ cho BTC, và sẽ đứng ra phát hành sách này vào tháng 1, 2013. Báo NV như chúng ta biết, do nhiều lần xúc phạm đến người Việt tỵ nạn CS, nhiều lần có hành động làm lợi cho CS, nhiều lần phải xin lỗi cộng đồng v́ các hành động nhục mạ cờ vàng, nhục mạ quân, dân, cán, chính VNCH, ca tụng cán bộ CSVN, đă bị 155 tổ chức cộng đồng và đoàn thể cựu quân nhân cũng như dân sự tại Hoa Kỳ tuyên bố khai trừ ra khỏi sinh hoạt của người Việt quốc gia vào ngày 26 tháng 8, 2012 vừa qua. Một tờ báo có thành tích bất hảo như thế, nay lại đứng ra bảo trợ cho 1 nhà báo CS để quảng bá 1 cuốn sách được thực hiện do việc góp nhặt các tài liệu của CS nói về cuộc xâm lăng miền Nam đẫm máu của chúng. Tên tuổi của những kẻ đang t́m cách đánh bóng cuốn sách này và tác giả của nó đă nói lên sự thật mà chúng ta cần phải biết.

    Nếu sống với VC nhiều năm, chúng ta biết được 1 điều “chúng không làm điều ǵ mà không có kế hoạch”. Ở vào thời điểm hiện nay, việc Huy Đức viết sách nói về những chuyện “thất nhân tâm” của lănh đạo CS chẳng phải là 1 quả bom gây chấn động dư luận! Thời VNCH, mới chỉ nửa nước biết được bộ mặt gian ác của CS. Sau 1975, cả nước biết được những tội ác của Đảng CSVN. Và nay sau 38 năm cai trị của VC trên toàn nước VN, cả thế giới đều biết được chế độ CSVN “hèn với giặc, ác với dân” như thế nào. Huy Đức viết sách nói về những chuyện mà người dân hải ngoại c̣n biết rơ hơn ai hết, nên không gây xúc cảm trong ḷng người đọc (lời tiến sĩ Vũ Thị Phương Anh). Chúng ta có thể đi đến kết luận Đảng CSVN đang dùng khổ nhục kế để giúp tài liệu tuyên truyền của chúng xâm nhập được vào cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Nọc độc tuyên truyền này sẽ từ từ ngấm vào các thế hệ con cháu của chúng ta, khiến chúng sẽ có suy nghĩ và nhận định sai lầm về các thế hệ cha, ông. Với cách tŕnh bày thiếu nhất quán, chẳng hạn khi nói về quân đội VNCH, tác giả HĐ dùng đến 3 tên gọi khác nhau: quân đội VNCH, quân đội Saigon, và ngụy quân (lời tác giả Lê Mạnh Hùng), thử hỏi độc giả sau này làm sao c̣n phân biệt được đúng sai, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay, người Việt tỵ nạn CS sống rải rác khắp nơi, thiếu tổ chức và lănh đạo, thiếu tiền bạc và thế lực. Con cháu chúng ta có thể chỉ c̣n nhớ được rằng cha, ông chúng phải bỏ nước ra đi v́ “làm tay sai cho đế quốc Mỹ”, v́ “không có chính nghĩa nên bị thua cuộc” , chúng sẽ mang “mặc cảm tội lỗi, sẽ mang tiền bạc và tài năng về giúp nước để chuộc tội” v…v…(?)

    Hẳn chúng ta chưa quên kế hoạch của CSVN liên kết với những khoa bảng phản chiến Mỹ cũng như Việt tại Trung Tâm William Joiner thuộc đại học Boston, Massachusetts cách đây nhiều năm, âm mưu viết lại “căn cước cho người tỵ nạn Việt Nam”. Kế hoạch này thất bại v́ người Việt tỵ nạn CS tại Hoa Kỳ khám phá ra âm mưu thâm độc này, đă hết ḷng hỗ trợ cho chiến hữu Nguyễn Hữu Luyện đứng lên kiện Trung Tâm này. Công tŕnh nghiên cứu về việc “tái xây dựng diện mạo cho người Việt hải ngoại” hay việc gán cho họ tờ căn cước đỏ không thành công v́ vụ kiện lịch sử này.

    Ngày nay tại hải ngoại, chúng ta đang trực diện tranh đấu với kẻ thù CS trên nhiều mặt trận: chính trị, văn hóa, văn nghệ, tôn giáo, xă hội… Về chính trị, chúng ta lập được 1 pḥng tuyến vững chắc, phân rơ lằn ranh Quốc-Cộng, phân biệt bạn- thù dựa trên quan điểm, lập trường, tư tưởng và nhận định, chứ không dựa trên sự việc có là người cùng tổ chức, cùng sinh hoạt trong một địa phương, hay trong một cộng đồng hay không. Chúng ta đă vận động được giới lập pháp các cấp thành phố, quận hạt, tiểu bang thông qua các nghị quyết công nhận cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH là cờ chính thức của cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ. Chúng ta đă vận động được hội đồng 3 thành phố Santa Ana, Westminster, Garden Grove tại Orange County, Nam Cali thông qua các sắc lệnh “cấm cửa viên chức CSVN đến các thành phố này”. Chúng ta không để bọn văn công VC quấy nhiễu đời sống của chúng ta bằng các buổi tŕnh diễn ru ngủ, tuyên truyền cho văn hóa VC… VC có cả 1 kế hoạch lâu dài nhằm đánh phá và khuất phục chúng ta; đó là Nghị quyết 36 với ngân sách lên đến nhiều triệu đô la. Thua keo này, chúng lại tiếp tục bày keo khác chứ không bao giờ từ bỏ mục tiêu. Chúng ta hẳn c̣n nhớ vào đầu tháng 7, 2012, nhật báo Người Việt, Nam Cali đă cho đăng bài của Sơn Hào nhục mạ chế độ VNCH là “làm tay sai cho giặc Mỹ”. Trung tuần tháng 10, tại Houston, Texas, nghị viên Hoàng Duy Hùng và 1 vài cá nhân thuộc 1 số đảng phái họp với thứ trưởng VC Nguyễn Thanh Sơn tại ṭa thị chính Houston, sau đó công khai cổ vơ cho đường lối “đối thoại” với VC. Nay cuối tháng 12, nhật báo NV lại đứng ra phát hành sách cho 1 tác giả VC ngay trong vùng đất sống của người Việt tỵ nạn CS. VC thực sự đang làm 1 cuộc tổng tấn công vào cộng đồng Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại. Lần này, chúng dùng 1 đặc công văn hóa, 1 tên VC có nhiều năm phục vụ cho chế độ với vai tṛ một sĩ quan quân đội, một nhà báo, và hiện nay đang sống và làm việc tại Mỹ với sự trợ giúp của rất nhiều người Mỹ cũng như Việt (theo lời kể của chính đương sự trong BTC).

    5- Người Việt hải ngoại có phản ứng ǵ đối với việc đặc công văn hóa Huy Đức xuất hiện trong cộng đồng?

    Tất nhiên chúng ta không thể ngồi yên. Nhiều cá nhân và đoàn thể đă lên tiếng kết án cuốn sách là “tuyên truyền cho CS, là chạy tội cho chúng, là che giấu những tội ác tày trời của CS đối với đất nước và người dân VN, là bôi nhọ lịch sử Việt cận đại, là làm sống lại những trang sử đầy máu và nước mắt của người dân miền Nam, là nhắc lại quá khứ đau buồn khiến những vết thương ngày xưa lại tiếp tục rỉ máu, làm họ thấy nhục nhă và đau đớn…” V́ thế, chúng ta không thể tiếp tay cho việc “loan truyền nọc độc CS tại vùng đất sống duy nhất của chúng ta hiện nay”. Mất nơi này vào tay CS, chúng ta sẽ không c̣n nơi nào để mà đi tỵ nạn, để được sống yên b́nh. Cờ đỏ sao vàng sẽ thay thế cờ vàng của người Việt tỵ nạn khi chúng ta không đối phó được với bọn Việt gian thân cộng. Nhà báo Ngô Nhân Dụng, người viết xă luận cho báo Người Việt mới đây đă lên tiếng kêu gọi đồng hương Việt đừng mang theo cờ vàng của VNCH khi đi biểu t́nh chống Tàu cộng tại Đức để tỏ t́nh đoàn kết với mọi người dân Việt!? (Một Ngày cho tổ quốc Việt Nam) . Đoàn Quân Dân Cán Chính VNCH Nam California kêu gọi đồng hương cùng họ tham gia biểu t́nh trước cửa ṭa soạn NV để chống lại việc giúp sách của VC Huy Đức xâm nhập vào cộng đồng người Việt tỵ nạn CS (Đoàn biểu t́nh tự phát này của chiến sĩ Ngô Kỷ đă kiên tŕ biểu t́nh chống báo NV ṛng ră gần 5 năm qua nhằm vạch mặt 1 tờ báo nhiều lần làm lợi cho CS mà cứ tự nhận ḿnh là phục vụ cho đồng hương người Việt hải ngoại). Mọi người nhắc nhở nhau phải “tẩy chay NV, không đọc NV, không mua NV, không quảng cáo trên NV, không thuê mướn hội trường của NV, không vào ṭa soạn của NV, riêng với sách của nhà báo VC Huy Đức mới vừa được NV phát hành th́ “không mua, không đọc, không giới thiệu cho bạn bè, và phải tích cực lên tiếng chống sách này bằng mọi phương tiện có được”.

    Tóm lại, BTC là 1 cuốn sách đang gây nhiều tranh căi. Độc giả có những ư kiến trái ngược nhau về cuốn sách này và về tác giả của nó, v́ suy nghĩ của họ, kinh nghiệm của họ đối với chế độ CS, và con người CS không giống nhau. Điều này cũng dễ hiểu. Có những kẻ chưa từng cầm súng chiến đấu chống CS, chưa từng bị CS đầy đoạ trong các trại tù khổ sai, chưa từng có người thân bị chết trong nhà tù CS, hay trên đường trốn chạy CS th́ làm sao họ có mối thù sâu đậm với CS được. Nay nếu họ lại được CS ban cho bổng lộc, cho ăn học thành tài, cho công ăn việc làm, cho danh lợi, cho tiền tài…, việc họ ra mặt ủng hộ VC là điều dễ hiểu. C̣n đa số người Việt hải ngoại đều là nạn nhân của CS, hiểu rơ CS chỉ là phường “bán nước, buôn dân”, họ không thể ngồi yên để chúng phá hoại cuộc sống yên lành của họ tại hải ngoại. Có người nói “cần đọc BTC để biết được sự thật về CSVN”. Gần 38 năm sau ngày CSVN chiếm được cả nước, mọi sự thật về cái vô nhân, cái tàn bạo của chế độ CS đă bị phơi bày, cái sai lầm của chủ thuyết Mác-Lê nin đă bị vạch trần; c̣n ai bị lừa nữa đâu mà phải cần đọc cuốn sách dày cộm của Huy Đức để biết được sự thật về chế độ CSVN và con người CSVN. Chúng ta chỉ cần đọc bài viết “Bị Lừa” ngắn độ 2 trang giấy của anh bộ đội tập kết năm 1954 Châu Hiển Lư là biết rơ sự thật rồi. Thậm chí chỉ cần đọc lời 2 bài hát của nhạc sĩ Việt Khang, bài “Anh là ai?”, và “Việt Nam tôi đâu?”, cũng “tỏ tường được mọi sự” về đất nước và con người VN rồi. Cần chi phải bỏ tiền mua sách của VC, bỏ th́ giờ quư báu đọc sách của VC, để nghe chúng chửi ḿnh là “kẻ thua cuộc”, nghe chúng tuyên truyền chúng là “bên thắng cuộc”, để con cháu ḿnh cảm thấy nhục v́ là “hậu duệ của kẻ thua cuộc” v.. v…. C̣n nỗi nhục nào lớn hơn nữa!

    Có người đọc 1 số chương đầu rồi không thể tiếp tục đọc nổi v́ sách viết ra những điều sai trái không thể chấp nhận được. Chính tác giả Huy Đức thú nhận trong Thư Xin Lỗi thiếu tá Lê Quang Liễn là “phần lớn sách báo nói về người tù cải tạo tại thời điểm tháng 9, 1975 đều là những lời tuyên truyền”. Đă biết là “sai, là tuyên truyền”, tại sao tác giả HĐ c̣n ghi lại trong sách của ông ta, như vậy đây chính là bằng chứng hùng hồn cho việc tác giả đồng lơa với CSVN trong việc “nhục mạ quân, dân VNCH” và “tuyên truyền láo khoét cho CS”. Có nhiều người cho biết họ “chưa đọc và cũng không có nhu cầu đọc sách này” v́ biết rơ đây chỉ là sản phẩm tuyên truyền của CS. Tôi là 1 trong số những người này. Tôi không đọc BTC v́ biết rơ Huy Đức với tuổi đời c̣n quá nhỏ khi cuộc chiến Việt Nam chấm dứt, không thể nào hiểu rơ được những hoàn cảnh lịch sử của đất nước dưới sự cai trị của Đảng CSVN, những kẻ không bao giờ cần biết đến sự thật, những kẻ đă khiến đất nước và người dân Việt Nam lâm vào t́nh trạng khốn cùng như ngày nay. Những trang sách viết bởi những người tù cải tạo, những người vượt biên, vượt biển, những nạn nhân của đổi tiền, của đánh tư sản, của hợp tác lao động…, những lời kể của gia đ́nh tôi, của chiến hữu tôi, của bạn bè tôi, của đồng bào tôi, và nhất là kinh nghiệm bản thân tôi có được sau gần 10 năm tù trong các trại tù CS từ nam ra bắc lại không đáng tin cậy hơn lời kể của tác giả Huy Đức, một sĩ quan VC, một nhà báo VC hay sao?

    Tác giả của Bên Thắng Cuộc “muốn trả lại sự thật cho lịch sử, muốn lănh đạo CSVN nhận ra những sai lầm mà đi cho đúng đường, để đem lại dân chủ cho người dân”. Chu Hảo c̣n hy vọng tác giả Huy Đức với công tŕnh khảo sát lịch sử đặc sắc này sẽ thực hiện “công minh lịch sử” và (như vậy) “mới có ḥa giải dân tộc thực sự”. Đây là 1 lư luận nực cười v́ CSVN chưa bao giờ muốn ḥa giải với người dân của “bên thua cuộc” cả. Chúng chỉ kêu gọi họ “quên quá khứ, xóa bỏ hận thù xưa, cùng chúng xây dựng đất nước, lo cho cuộc sống hạnh phúc của người dân!? Tác giả BTC đang làm công việc “khảo cứu lịch sử Việt”, vậy ông ta có biết lịch sử người Việt là “lịch sử chống giặc Tàu”, tổ tiên người Việt phải đổ bao máu xương để giữ cho ḍng giống Việt không bị Hán hóa sau 1,000 năm Bắc thuộc, và để con cháu ḍng Việt c̣n đất mà sống tới ngày nay hay không? Ông ta có biết là chính các chiến sĩ VNCH của “bên thua cuộc” đă đổ máu để bảo vệ đảo Hoàng Sa tháng 1 năm 1974, trong khi Phạm Văn Đồng, thủ tướng của “bên thắng cuộc” lại kư công hàm ngày 14-9-1958 công nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Tàu hay không? Những kẻ “bên thắng cuộc” của Huy Đức đă lộ nguyên h́nh là những tên bán nước, sẽ bị lịch sử Việt kết án, và người dân Việt muôn đời phỉ nhổ. Chẳng biết tác giả Huy Đức có dám nói ra sự thật lịch sử này không? Sách “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức, v́ thế không phải là 1 “công tŕnh khảo cứu đi t́m sự thật cho lịch sử”, mà chỉ là 1 “sản phẩm tuyên truyền” độc hại của VC.

    Nguyễn Quốc Đống

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Người thua cuộc đọc “Bên Thắng Cuộc”


    Sài G̣n - Tháng 2/2009, tưởng nhớ 30 năm nước Việt Nam cộng sản bị người đồng chí đàn anh cộng sản Trung Quốc đánh qua biên giới phía bắc, có một nhà báo từ Sài G̣n ra Hà Nội và lặn lội trèo đèo vượt suối đúng nghĩa đen để đi t́m sự thực về sự bội phản giữa những đảng cộng sản Đông Nam Á mà Nayan Chanda gọi là huynh đệ hận thù khi đặt tên cho cuốn Brother Enemy mà ông phát hành năm 1986 về lịch sử Đông Dương tính từ ngày thất thủ Sài G̣n. Nhà báo ấy là Huy Đức.

    Ông Nayan Chanda viết là trước rạng đông ngày thứ Bảy 17/02/1979, khi sương mù dày đặc phủ kín những núi đồi nằm dọc biên giới Việt Trung, Quân đội Giải phóng Nhân Dân TQ đă trút cơn thịnh nộ. Tầm cỡ tấn công lần nầy khác hẳn với lần trước vào năm 1788 khi hoàng đế Càn Long của nhà Thanh phái một đạo quân gồm bộ và kỵ binh sang để dựng một vương triều bù nh́n ở Hà Nội theo chọn lựa của ḿnh. Trong một cuộc biểu dương hỏa lực ngoạn mục, hàng trăm khẩu đại pháo tầm xa 130 ly và 122 ly cùng với các giàn hỏa tiễn 140 ly tới tấp trút đạn vào lănh thổ Việt Nam, với cường độ mỗi trái trong một giây đồng hồ. Về sau một kư giả Mỹ tới thăm lại chiến trường ghi nhận rằng trận địa pháo quá sức dày kín, nên nghe từ xa cứ như một chuỗi ́ ầm kéo dài như một trận mưa bom B-52. Nhà báo nầy kể là có lúc, trận địa pháo kéo dài suốt hai mươi phút, thay v́ chỉ một phút hay hơn một phút như người Mỹ trải thảm bằng bom. Rồi, như nước vỡ bờ tràn xuống từ đập cao, khoảng 85 ngàn tay súng Trung quốc được xe thiết giáp yểm trợ ùa qua Việt Nam bằng hai mươi sáu điểm dọc theo biên giới. Với chiến thuật biển người cố hữu đă dùng trong chiến tranh Triều Tiên trước kia, làn sóng binh lính đă đánh bật dân quân du kích và bộ đội biên pḥng Việt Nam trú đóng trên các đỉnh đồi và những vách đá dựng đứng.

    Khi Huy Đức trở lại thăm cũng vào tháng Hai. Chiến trường cũng mịt mù trong sương núi. Bên cạnh những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên pḥng Lũng Cú vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa, anh đă gặp những người dân như vợ chồng cụ già Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi để nghe kể lại cái chết 30 năm trước của con trai ḿnh khi Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái. Huy Đức ghi nhận: “Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công tŕnh, ốp ḿn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hăm hiếp, bị giết một cách dă man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Th́, tại thôn Tổng Chúp, xă Hưng Đạo, huyện Ḥa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đă giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.”

    Lần ṃ lên tới vùng rừng núi thuộc huyện biên giới Vị Xuyên của tỉnh Hà Giang, kư giả Huy Đức đă gặp được ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang của huyện. Nghĩa trang có 1.680 ngôi mộ th́ 1.600 mộ đă là của bộ đội Việt Nam chết v́ súng đạn của Trung quốc, vào thời điểm mà cứ nửa đêm về sáng, xe quân sự lại chở xác về, từng túi xếp chồng lên nhau. Trở lại Tổng Chúp, nhà báo đă phải nhờ người địa phương dẫn đường tới cái giếng nơi quân Trung Quốc dùng búa và dao chặt 43 phụ nữ và trẻ em Việt Nam hôm 9/03/1979, rồi quăng xuống giếng. Cái giếng bây giờ nằm lọt trong một mảnh vườn riêng của dân, không có lối vào, phải nhờ thanh niên cùng đi chặt bớt cành tre để nhà báo chụp h́nh ghi lại sự kiện nay đă ch́m trong gai tre và lau lách. Bài phóng sự “Biên giới Tháng Hai” đăng lên trang mạng báo Sài G̣n Tiếp Thị đă bị nhà nước rút xuống ngay trong cùng buổi sáng đă trở thành một nghi vấn trong tâm tư người viết.



    Chỉ đạo không công cho Thủ tướng

    Đúng nửa năm sau, hôm 25/08/2009, đảng cộng sản Việt Nam bất b́nh v́ bài viết của Huy Đức đăng trên Sài G̣n Tiếp Thị ca ngợi sự sụp đổ Bức tường Bá Linh, gọi đấy là bức tường ô nhục, và chỉ trích các nhà cựu lănh đạo Xô Viết đă dẫn dắt nhân dân Đông Âu đi vào vũng lầy trầm luân trong nhiều năm. Sau khi mất việc, Huy Đức viết rằng trong 21 năm làm báo, anh đă từng bị mất việc nhiều lần, anh không có ư định chia tay với nghề báo, nhưng đây là thời gian thích hợp để anh viết lại một vài chương sách, làm một vài việc mà anh cảm thấy như là món nợ với một người đă khuất.

    Thêm hai năm nữa trôi qua, đầu tháng 8/2011, người ta đọc thấy trên mạng bài của Huy Đức chê Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng tới nhiệm kỳ thứ hai mà cũng không kiếm được người viết diễn văn đủ tŕnh độ, làm lời lẽ của nguyên thủ chẳng khác ǵ ngôn ngữ của một chuyên viên cấp vụ. Ngoài ra, Huy Đức nhận xét rằng “Cái mà một bậc nguyên thủ quốc gia mưu cầu phải là lưu danh chứ không phải là tiền bạc. Tất nhiên, để được lịch sử ghi nhận công lao th́ khó hơn chia phần trăm và nhận bao thơ. Trong cái chính thể do Đảng Cộng sản Việt Nam lănh đạo, Nguyễn Tấn Dũng là vị Thủ tướng có nhiều quyền lực nhất. Thật khó để nói về đóng góp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong nhiệm kỳ đầu nhất là về mặt chính sách.” Sợ ông Dũng chậm tiêu, anh nhà báo phải đứng ra làm nhà giáo, để bày vẽ cho học tṛ ḿnh: “Có rất nhiều điều chúng ta muốn làm cho đất nước nhưng chúng ta không có quyền. Có rất nhiều điều có thể ông Dũng cũng muốn làm, nhưng thế và lực cũng không cho phép. Với năng lực của cá nhân Thủ tướng và đội ngũ cố vấn hiện thời, Chính phủ chưa nên ban hành chính sách ǵ mới. Việc đầu tiên, trong phạm vi quyền Hiến định của ḿnh, Chính phủ nên sắp xếp lại các cơ quan chính phủ theo hướng tách bạch chức năng hành pháp chính trị và hành chính công vụ.”

    Ở Mỹ hay ở bên Tây, nói như vừa nói th́ được xem là xây dựng, là sử dụng quyền tự do ngôn luận, là dân chủ. Trong một quốc gia cộng sản, nói như thế không những là phản động, mà c̣n phạm thượng. Huy Đức không chỉ coi thường Nguyễn Tấn Dũng. Huy Đức cũng chẳng thèm úy kỵ những bậc thánh và thần của chế độ Hà Nội. Ví dụ, đến cả cố tổng bí thư Lê Duẩn cũng được anh nhà báo chiêu hồn, gọi tên đích danh: “ông Lê Duẩn cho rằng tinh thần của Hiến pháp 1980 phải dựa trên ba yếu tố: làm chủ tập thể, chuyên chính vô sản và sở hữu toàn dân. Cả chuyên chính vô sản và làm chủ tập thể đă găy và cái kiềng ba chân ấy chỉ c̣n cái chân sở hữu toàn dân cà nhắc.”

    V́ đảng cộng sản Việt Nam và chính quyền Hà Nội không nhớ hay không biết thế nào là sĩ diện, hay v́ nghĩ rằng Nguyễn Tấn Dũng là người mù c̣n có thể dắt đường được, Huy Đức làm cố vấn không công: “Việc các chính quyền địa phương bị thao túng bởi các doanh nghiệp, tiếp tay cho họ cướp đất, đang là mầm mống của những vụ gây bất ổn về chính trị. Có lẽ chính quyền cũng nên biết xấu hổ khi người dân ở các vùng đất chống Mỹ như Bến Tre, Long An… giờ đây khi bị mất đất thay v́ cậy đến chính quyền mà họ đă đổ máu để lập nên đă phải khăn gói đến cầu xin trợ giúp trước các cơ quan ngoại giao của Mỹ. Việt Nam, xét về bản chất, không c̣n là một quốc gia cộng sản mà chỉ là quốc gia độc đảng. Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu chấp nhận kinh tế nhiều thành phần, chưa bao giờ khu vực kinh tế quốc doanh được coi là một khu vực kinh doanh hiệu quả. Không thể có cái gọi là chủ nghĩa xă hội như đức tin của một số người nếu những anh nắm nhiều nhất tài nguyên và vốn liếng quốc gia lại làm ra tiền ít nhất. Một nội các mà một số thành viên của nó đă phải chi phí rất nhiều để ngồi vào không thể sẵn sàng chia tay với quyền cấp từng tờ giấy phép. Đối với một ḍng họ có một người ngồi trên ghế Thủ tướng tới hai nhiệm kỳ th́ điều đáng tự hào là những ǵ người đó đă làm chứ không phải là lượng đất đai, cổ phiếu mà các thành viên trong gia đ́nh nắm được.”

    Khen

    Cứ tưởng anh nhà báo bị treo niêu nên dọa viết sách. Không ngờ anh chàng nói sao th́ làm vậy. Nói về đứa con tinh thần của ḿnh, Huy Đức giải thích: “Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ kể lại những ǵ đă xảy ra ở Sài G̣n, ở Việt Nam sau ngày 30/4: cải tạo, đánh tư sản, đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975, và về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để giành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.”

    Nếu cựu đại tá Bùi Tín thu thập nhiều nhưng chỉ bật mí chẳng bao nhiêu các bí mật mà ông ấy biết qua Bộ Mặt Che Giấu của Chế Độ (ấn bản tháng 11/1999 của nhà phát hành Kergour) do người thân thích của ông c̣n đang sống bên trong “nhà tù lớn” Việt Nam (chữ của tác giả trong Bên Thắng Cuộc), Huy Đức không thèm đếm xỉa tới những tṛ độc địa của bộ máy công an cộng sản, để nói bật ra nhiều lần hơn chuyện thâm cung bí sử của chính quyền Hà Nội, làm người đọc khó ḷng tách bạch đấy là cuốn kư sự hay một bản cáo trạng về tội ác và sai phạm của đảng Cộng sản trong hành tŕnh đưa cả dân tộc tới chỗ lầm than. Huy Đức cho biết anh thu thập chất liệu cho cuốn sách trong hơn hai mươi năm. Trong ṿng ba năm, từ tháng 8-2009 khi mất việc ở Sài G̣n Tiếp Thị đến tháng 8/2012 vừa qua, tác giả đă viết full-time. Viết xong, anh gửi bản thảo đến một số nhà xuất bản trong nước, và, dĩ nhiên, đă bị từ chối. Một số nhà xuất bản tiếng Việt ở Mỹ và Pháp muốn in, nhưng tác giả quyết định tự ḿnh xuất bản cuốn sách để lănh trách nhiệm cá nhân và giữ vị trí khách quan cho cuốn sách.

    Bộ sách Bên Thắng Cuộc của Huy Đức chia làm 2 cuốn: Giải phóng và Quyền Bính. Mở trang “Mục lục” của cuốn một, Giải Phóng, người đọc thấy ngay khối lượng đề tài đồ sộ mà tác giả tŕnh bày với người đọc. Sau Mấy lời của tác giả và Lời cảm ơn, Huy Đức sắp xếp cuốn một thành 2 phần. Phần 1 viết về Miền Nam với các chương 1 về ngày 30 tháng Tư với các tiêu đề Đi từ bưng biền, Xuân Lộc, Tướng Big Minh, Trại Davis, Nguyễn Hữu Hạnh, Sài G̣n trong ṿng vây, Xe tăng 390, Đầu hàng, Tuẫn tiết; chương 2 về cải tạo với các tiêu đề Những ngày đầu, “Ngụy Quyền”, “Ngụy Quân”, “Đoàn tụ”, “Phản động”, Tù và cải tạo, “Thăm Nuôi”, “Học Tập” [các ngoặc kép đóng mở do chính Huy Đức với ngụ ư mỉa mai]; chương 3 về chuyện đánh tư sản với các tiêu đề “Chiến dịch X-2”, Đổi tiền, “Gian thương”, “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”, Hai gia đ́nh tư sản, Kinh tế mới; chương 4 về nạn kiều với các tiêu đề Đội quân thứ năm, Hiệp định Geneva, “Chổi ngắn không quét xa”, Hoàng Sa, Sợ “con ngựa thành Troy”, “Nạn Kiều”, “Phương án II”, “Ban 69”, Vụ Cát Lái; chương 5 về chiến tranh với các tiêu đề Biên giới Tây Nam, Pol Pot, Đi dây, Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ, “Kẻ Thù Lịch Sử”, Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War), “Nhất Biên Đảo”, “Áo lính lại khoác vào ngay”; chương 6 về vượt biên với các tiêu đề “Vượt biên”, Từ “trí thức yêu nước”, Đến “thường dân”, Trước khi tới biển, Đường tới các trại tị nạn; chương 7 về “giải phóng” [trong ngoặc kép] với các tiêu đề Sài G̣n thay đổi, Kinh tế mới, Đốt sách, Cạo râu, “Cách mạng là đảo lộn”, Ḷng người, Những người được sinh ra không đúng cửa, “Cánh cửa” Thanh niên Xung phong, “Nổi loạn”, “Sài G̣n lại bắt đầu ghẻ lở”. Phần 2 mang tên Thời Lê Duẩn với các chương 8 về thống nhất với các tiêu đề Nước Việt Nam là một, “Bắc hóa”, Chủ nghĩa xă hội, “Con đường của Bác”, “Mỗi người làm việc bằng hai”, Lê Duẩn và mối t́nh miền Nam, Chấp chính và chuyên chính; chương 9 về xé rào với các tiêu đề Bế tắc, Mậu dịch quốc doanh, Máy bỏ không công nhân cuốc ruộng, Tháo gỡ, Nghị quyết Trung ương 6, Bù giá vào lương, Cắm cờ xé rào, Khoán chui, Ông Kiệt xé rào ông Linh lănh đạn, “Ai thắng ai”; chương 10 về đổi mới với các tiêu đề Hội nghị Đà Lạt, Nhóm giúp việc mới, Người của những khúc quanh lịch sử, Từ chính sách Kinh Tế Mới, Đến chọc thủng thành tŕ bao cấp, Giá-Lương-Tiền, Nă pháo vào bộ tổng, Khép lại trang sử Lê Duẩn, Vai tṛ của Mikhail Gorbachev, Tuyên ngôn đổi mới, Bàn tay Lê Đức Thọ, Phút 89; chương 11 về Campuchia với các tiêu đề “Pot ở đầu phum ta cuối phum”, “Xuất khẩu cách mạng”, Tư tưởng nước lớn, Bị cô lập, Phương Bắc, Hội nghị Thành Đô, Campuchia thời hậu Việt Nam. Sau cùng là Phụ lục 1 về sự thật lịch sử về xe tăng số 390 và xe tăng số 384, Phụ lục 2 về Tướng Big Minh sau 1975, về sơ yếu lư lịch tác giả, và bảng danh mục sách tham khảo.

    V́ bộ sách bao gồm quá nhiều vấn đề mà tác giả bắt gặp, thao thức, rồi chắt chiu lại trên cả ngàn trang giấy, chúng tôi chỉ xin tường thuật sơ lược những đoạn chở chất lư luận gay cấn, những vấn đề tanh tởm của chế độ, hay những phát hiện bất ngờ của anh trong cương vị may mắn được tiếp xúc với những nhân vật cao cấp mà ngôn ngữ miền Bắc gọi chung là “trên” – những bậc thánh và thần của chế độ.

    30 Tháng Tư

    30 tháng Tư là ngày mà tất cả “bộ đội cụ Hồ” – từ lính lác lên tới tướng tá – xưng tụng bằng tên “ngày đại thắng”, ngày nhà báo Pháp Olivier Todd chọn chữ Cruel Avril (Tháng Tư Tàn Ác) để đặt tên cho tác phẩm của ḿnh khi giao cho nhà xuất bản Robert Laffront ở Paris in vào năm 1987, và tiến sĩ George Veith gọi cuốn sách của ông là Black April (Tháng Tư Hắc Ám). Riêng Huy Đức – thằng bé Trương Huy San 13 tuổi vào thời điểm lịch sử ấy – nhập ngũ vào lúc Trung quốc đánh Việt Nam, được chính phủ dành ra 3 năm để huấn luyện thành sĩ quan hóa học và sử dụng 4 năm kế tiếp trong cương vị chuyên gia quân sự ở chiến trường Campuchia, đă ṃn răng với cơm của bác và đảng, để phát giác ra rằng “ngày 30/04/1975 – ngày nhiều người tin là miền Bắc đă giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nh́n lại suốt hơn ba mươi năm, giật ḿnh với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc.”

    Nếu Bộ Chính trị Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam có chất vấn, th́ câu trả lời đă nằm rải rác ở nhiều nơi trong sách. Ví dụ như, theo lời Huy Đức, trước 30/04/1975, tại Sài G̣n có 735 đảng viên tại chỗ, nhưng đến cuối tháng 5/1975, đúng một tháng sau, số đảng viên đă nhanh chóng tăng lên đến 6.553 người. Ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận: không ai trong số những người tiếp quản Sài G̣n năm 1975 có kiến thức về quản lư nhà nước. Hoặc như, trong chiến dịch cải tạo công thương nghiệp, chính phủ đă trưng mua và mua, trưng thu và tịch thu hầu hết phương tiện vận tải của tư nhân, nói là mua và trưng mua, nhưng thực chất, giá xe do Nhà nước định trên thực tế chỉ tương đương với 1% giá thật. Đă vậy, công ty chỉ mua chịu trả dần, mỗi lần một ít. Có người đến khi không c̣n ở công ty, hoặc đă chết vẫn chưa được trả hết. Mà dù có được trả hết th́ khoản tiền đó cũng không đủ mua chiếc xích lô.

    Bằng chiến dịch cướp cạn qua h́nh thức kinh tế quốc doanh và công tư hợp doanh có tên “cải tạo” nầy, theo Huy Đức, nhà nước thủ đắc 100% ngành năng lượng, 45% ngành cơ khí, 45% ngành xay xát lương thực, 100% ngành bia, nước ngọt, bột ngọt, thuốc lá, 45% trong các ngành chế biến đường, dầu thực vật, 60% ngành dệt, 100% ngành sản xuất giấy, 80% ngành sản xuất bột giặt, xà pḥng. Thương nghiệp quốc doanh nắm 80% nguồn hàng công nghiệp và 92% số xă trên toàn miền Nam có hợp tác xă mua bán. Tác giả viết: “Chính quyền tin rằng: ‘Ngành thương nghiệp xă hội chủ nghĩa là cơ quan hậu cần của toàn dân, là người nội trợ của toàn xă hội’. Chẳng bao lâu sau, niềm tin này sẽ nhanh chóng tan thành mây khói.”

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Người thua cuộc đọc “Bên Thắng Cuộc”
    P2




    “Đi ngoài ra nước”

    Mặc dù bị chế diễu bằng cụm từ “đi ngoài ra nước”, chủ trương cho dân “đi ra nước ngoài” đă là một trong những chính sách lớn, có liên quan đến sinh mạng cả triệu người, được nhà nước thí mạng để kiếm vàng. Ngày 20/03/1981, đảng Cộng sản thành lập “Ban 69” để gánh vác chủ trương cho người Hoa đi nước ngoài để lấy vàng (Chiến dịch PA2, tức Phương Án 2), việc buôn bán lậu với tàu nước ngoài của một số tỉnh và việc bắt giữ vượt biên trái phép.

    “Theo chỉ đạo của Bộ Nội vụ th́ các tỉnh được phép tổ chức thực hiện PA2 ngay từ đầu gồm có: Quảng Nam-Đà Nẵng, Nghĩa B́nh, Phú Khánh, Thuận Hải, Đồng Nai, Bến Tre, Kiên Giang, TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Minh Hải; các tỉnh không được phép làm nhưng sau đó xin làm: Sông Bé, An Giang, Hậu Giang, Cửu Long, Long An.” Sau đợt 1 với tai nạn thương tâm xẩy ra, vào tháng 12/1978 có lệnh ngưng cho người Hoa ra đi. Nhưng qua tháng 4/1979 chính phủ cho tiếp tục đi đến hết tháng 5/1979. Một số nơi xin phép cho đi 13 ngàn người nhưng sau khi 70 – 80 ngàn người đi mà vẫn c̣n đọng lại hàng vạn người khác. Là một chủ trương liên quan đến mạng sống của người dân, Ban 69 báo cáo: “Là một công việc hệ trọng có quan hệ đến chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nhưng Ban Bí thư trung ương Đảng không có một văn bản nào về lănh đạo và chỉ đạo các cấp ủy Đảng lănh đạo và thực hiện PA2 này, các cấp ủy Đảng ở địa phương rất lúng túng.”

    Ban 69 cũng đưa ra khác biệt rất lớn giữa báo cáo của Bộ Nội vụ và thực tế do PA2 thực hiện. Trong khi báo cáo của Bộ nội vụ ghi nhận từ tháng 8/1978 đến 6/1979, mười lăm tỉnh, thành đă chỉ cho người Hoa xuất ngoại 156 chuyến tàu thuyền với số người là 59.329 người, thu vào 5.612 kg vàng, 50.000.000 đồng Việt Nam, 57.000 đô la Mỹ, 235 xe hơi các loại, 1.749 nhà và gian nhà – th́ Ban 69 thống kê con số thực tế đă cho đi gồm 533 chuyến tàu, 134.322 đầu người, thu vào 16,181 tấn vàng, 164.505 đô la, 34.548.138 đồng VN, 538 xe hơi các loại, và 4.145 căn nhà. Chính Ban 69 cũng không thể lấy thúng úp voi: “Nhiều tỉnh cho người đi nước ngoài, khi họ xuống tàu rồi tổ chức bắt thu tài sản (Bến Tre, Quảng Nam-Đà Nẵng). Nhiều tỉnh cho đi sau khi có lệnh cấm tháng 5-79 (Minh Hải, Đồng Nai, Bến Tre, Cửu Long, Nghĩa B́nh, Phú Khánh, Long An, Sông Bé) do nặng v́ lợi ích chính trị và kinh tế của địa phương… Về chủ quan do ta quản lư không chặt chẽ về tư tưởng và do cán bộ hư hỏng. Một số cán bộ công an, cán bộ các ngành có liên quan đến PA2 có sai phạm. Trong lực lượng vũ trang ở mười bốn tỉnh đă có 105 sĩ quan từ thượng tá đến chuẩn úy vi phạm. Bộ Nội vụ quy định chế độ, nguyên tắc, quyền hạn không chặt chẽ, làm cho một số cán bộ tham ô, hối lộ, xâm phạm tài sản xă hội chủ nghĩa, làm quỹ riêng địa phương, buôn bán với nước ngoài, gây thất thoát lớn. Tính hết các khoản trên đây th́ chỉ số thất thoát cũng gần bằng số thu được. Con số thất thoát lớn chưa từng thấy… Là công cụ sắc bén của Đảng, của lực lượng chuyên chính vô sản, nhưng tính tổ chức kỷ luật của cán bộ công an làm PA2 rất yếu: cấp dưới không báo cáo đầy đủ lên cấp trên; báo cáo gian dối… Một số cán bộ chủ chốt ở các ty công an sai phạm, cán bộ và lực lượng ngành một số hư hỏng, thoái hóa, tham ô tập thể khá rơ, có nhiều dư luận xấu, nội bộ nghi ngờ nhau. Công an đốt xé, sửa đổi sách v́ gian dối số tàu, người, vàng, tiền: Hậu Giang, Kiên Giang, Minh Hải, Bến Tre, Nghĩa B́nh, Đồng Nai, Phú Khánh, Thuận Hải, Quảng Nam-Đà Nẵng. Dùng nghiệp vụ để đối phó với kiểm tra: bắt một số người để bịt đầu mối như Kiên Giang, Minh Hải. Có nhiều trường hợp giữ tiền PA2 làm của riêng. Nghiêm trọng hơn, pḥng bảo vệ chính trị Ty Công an tỉnh An Giang đă cấp biển xe, chứng nhận họ là nhân viên nhà nước, làm giấy kư hợp đồng với họ về việc tổ chức để cho người Hoa đi lại hoạt động.” Tóm lại, trong việc buôn bán sự sống con người cho sóng nước, các chính quyền địa phương gây thất thu tài chính như: Hậu Giang 4.866 lượng, Minh Hải 48.195 lượng, Bến Tre 3.789 lượng, Cửu Long 27.000 lượng, Nghĩa B́nh 27.000 lượng, Phú Khánh 10.987 lượng, Thuận Hải 1.220 lượng, An Giang 1.445 lượng, chưa kể một số cơ quan cấp tỉnh lập quỹ đen trái phép.

    Về khía cạnh đạo đức và nhân đạo của nhà nước, Huy Đức kể rằng do kiểm tra không chặt chẽ về công tác bảo đảm an toàn, đă có chín tàu bị tai nạn làm chết 902 người: Đồng Nai, một tàu; Bến Tre, một tàu, chết năm mươi bốn người; Sông Bé, một tàu hư, tàu Liên Xô kéo vào; Tiền Giang, ba tàu, chết 504 người; Long An, một tàu, chết ba mươi tám người; TpHCM, một tàu, chết 227 người; Nghĩa B́nh, một tàu, chết bảy mươi tám người. Vụ ch́m tàu PA2 chết hàng trăm người ở Thành phố xảy ra vào giữa năm 1979, gần bến phà Cát Lái, Thủ Đức, nhưng gần như rất ít người sống ở Sài G̣n vào thời bấy giờ nghe nói tới câu chuyện đau ḷng này. Đại tá Phạm Ngọc Thế, khi ấy là phó Pḥng Hậu cần Công an Thành phố, người đảm trách việc t́m xác và chôn cất các nạn nhân, kể: “Hôm ấy là ngày thứ 7, đúng giờ G, chủ tàu bắc loa kêu những người đă có danh sách ra đi xuống tàu. Đêm hôm trước họ đă bí mật tập kết ở xung quanh đó, công an canh pḥng cẩn mật cho họ ở ṿng ngoài. V́ ai cũng sốt ruột chờ đón giây phút ấy nên hàng trăm người tranh nhau xuống tàu rất nhanh. Tàu có ba tầng, những người mua chỗ ở tầng dưới, rẻ hơn, khi tàu chưa chạy thấy ngột ngạt quá leo lên, ngồi cả trên mui, khiến cho con tàu cḥng chành. Càng cḥng chành, họ lại càng chạy qua, chạy lại, khiến cho tàu nghiêng hẳn và nhanh chóng bị ch́m. Ông Thế nói, nếu con tàu ấy không ch́m tại bến th́ khi ra khơi nó cũng sẽ không chịu nổi v́ nó vốn chỉ là một chiếc tàu kéo. Khi ấy Thành ủy phải điều hai cần cẩu sáu mươi tấn từ Vũng Tàu vô để kéo rị rị từng chút. Cũng phải tới ngày thứ ba th́ mới đưa tàu lên được.” Theo Đại tá Thế: “có khoảng hơn bốn mươi người sống sót. Cứ mỗi cái xác được đưa ra, chúng tôi chỉ dám để hai mươi phút để bộ phận nghiệp vụ lấy dấu tay rồi chuyển qua ngay cho bộ phận mai táng, v́ đă bắt đầu nặng mùi. Cứ hàng chục xác một được xếp lên xe, phủ bạt, rồi chạy từ Cát Lái về mai táng ở khu đất cách đấy chừng ba cây số. Những người sống sót cũng cứ như mất hồn v́ chứng kiến xác người thân của ḿnh đang trương lên, phải khó khăn lắm mới đưa ra được khỏi con tàu đă ch́m ba, bốn ngày dưới nước.”

    Người Việt chỉ nghe tới chuyện “Nạn kiều” của người Hoa ở Việt Nam, nhưng khó có đủ điều kiện để nắm vững chi tiết. Riêng trong cương vị nhà báo, Huy Đức có cơ hội nhận thấy: “Trong lịch sử di dân của loài người, cuộc di dân cưỡng bức của người Hoa năm 1978 ở Quảng Ninh có lẽ là một trong những chương bi thương nhất. Nhiều người Hoa đă đến đây từ nhiều đời, đă chọn Việt Nam làm quê hương; nhiều người không nói tiếng Hoa, không hề nhớ gốc gác ḿnh từ đâu. Tất cả đều bị khép vào thành phần phải trở về Trung Quốc. Bị ép quá, một phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Tỉnh, ông Voong Hổi, đă tự sát bằng cách tự mổ bụng. Ở xă Hà An, huyện Yên Hưng, có một gia đ́nh, chồng là Trần Vĩnh Ngọc, hiệu trưởng một trường phổ thông, vợ là Chu Thị Họa. Chị Họa quê ở Thái B́nh, là người Việt Nam. Anh Ngọc sinh ở Việt Nam, có mẹ là người Việt, cha là người Hoa, nhưng ông chết từ khi anh c̣n nhỏ. Trần Vĩnh Ngọc được xếp vào diện người Hoa. Theo ông Vũ Cẩm: ‘Bị công an yêu cầu phải trở về Trung Quốc, Ngọc tới gặp tôi xin ở lại v́ nó có biết quê quán ở đâu đâu, tiếng Hoa cũng không biết. Tôi gặp Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm báo cáo. Ông Tâm lạnh lùng bảo tôi đừng can thiệp vào, để cho công an người ta làm. Bế tắc, Ngọc về bắt ba đứa con quàng khăn đỏ đội viên thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, buộc nằm lên giường rồi lấy chăn bông đè lên cho tới chết. Xong, anh ta lấy búa đập vỡ đầu vợ rồi lấy dao tự đâm vào tim ḿnh.’”

    Trước tội ác dây chuyền của đảng viên như thế, đảng Cộng sản bèn chủ trương tự tha bỗng cho ḿnh: “Nếu cứ có sai phạm là kỷ luật th́ các đồng chí lănh đạo chủ chốt, các cấp ủy ở Miền Nam phải chịu. Nếu việc xử lí kỷ luật nhiều cấp ủy, nhiều đồng chí chủ chốt ở các Đảng bộ Miền Nam th́ trong lịch sử Đảng ta sẽ để lại một ấn tượng cho thế hệ mai sau. V́ vậy việc xử lư kỷ luật trong thực hiện PA2 cần được cân nhắc theo tính chất đặc biệt của nó”. Thế là huề tiền.

    Đổi tiền

    Đổi tiền là chuyện dài cướp cạn 3 hồi xảy ra ở Việt Nam, sau 1975, ai cũng biết. Hồi 1, lấy lư do “để tước đoạt bớt phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, t́nh báo, với nhận thức tiền là phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, t́nh báo”, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam bằng Chiến dịch X3 ra lệnh trong thời gian hạn định từ 8 giờ sáng đến 11 giờ tối ngày 22/09/1975, mỗi hộ gia đ́nh từ đèo Hải Vân trở vào Nam bất kể bao nhiêu đầu người được đổi tối đa 100.000 đồng tiền “Chánh quyền Sài G̣n cũ” với tỷ giá 500 đồng tiền VNCH đổi được một đồng bạc cộng sản (tối đa 200 đồng mới); cán bộ nhà nước được đổi mỗi người 15.000đ (30đ mới); mỗi hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương nghiệp, vận tải được đổi 100.000đ; mỗi tổ chức kinh doanh lớn được đổi từ 100.000 đến 500.000đ; và mỗi khách văng lai được đổi 20.000đ, tiền c̣n dư phải nộp cho ban đổi tiền, lấy biên nhận về địa phương giải quyết. Cũng trong ngày nầy, từ lănh thổ B́nh Trị Thiên trở ra Bắc, 1 đồng miền Bắc được đổi thành 0,8 đồng tiền mới của miền Nam. Huy Đức viết trong cuốn 1 Bên Thắng Cuộc rằng “Nhiều người, nhiều gia đ́nh quá uất ức v́ tài sản bị cướp một cách trắng trợn nên đă tự tử.” Vừa đổi xong, dân chưa ḥan hồn, ngày 3/05/1978 nhà cầm quyền lại đổi tiền thêm lần nữa: 1 đồng tiền miền Bắc đổi thành 1 đồng tiền mới, c̣n ở miền Nam th́ 1 đồng giải phóng (đă đổi ngày 22/09/1975 trước kia) rớt giá xuống c̣n 8 hào tiền mới. Mỗi đầu người chỉ đổi được 100 đồng tiền mới, hộ có trên 3 người, người thứ ba trở đi chỉ được đổi tối đa 50đ và bất kể hộ ấy đông tới bao nhiêu người, cả gia đ́nh chỉ được đổi tối đa 500đ. Hộ dân quê chỉ được đổi bằng nửa hộ thị thành, tiền dư phải kư gởi cho ngân hàng, khi cần dùng có thể rút ra với điều kiện chứng minh được số tiền đó do sức lao động của ḿnh làm ra chứ không phải hưởng lợi từ sức lao động của người khác. Lần đổi tiền nầy được nhà nước lấy lư do thống nhất tiền tệ cả nước, nhưng Huy Đức cho hay đồng tiền đổi lần trước vào ngày 22/09/1975 là tiền thuộc lô “Hàng 65” do Trung Quốc in giúp, rồi bị giữ bản kẽm lại, Việt Nam xin mấy lần không được, nên lần nầy Việt Nam bắt đổi lấy một loại tiền mới được in từ Tiệp Khắc. Hồi thứ ba tiến hành vào ngày 14/09/1985 theo mức 10 đồng tiền hiện hành bỗng rớt xuống thành 1 đồng tiền mới. Trước 1975, chính quyền cộng sản đă từng đổi tiền 3 lần sau khi cướp được chính quyền tại miền Bắc. Lần thứ nhất: ngày 15/05/1947, bằng sắc lệnh 48, nhà nước đổi 1 đồng bạc Đông Dương lấy 1 đồng bạc “Tài chính”. Lần thứ hai, với sắc lệnh số 15 do chính Hồ Chí Minh kư, dân miền Bắc phải đổi 10đ tiền Tài chính ăn 1 đồng tiền ngân hàng; cuộc đổi tiền nầy chỉ kết thúc sau 20 tháng, dài nhất trong lịch sử đổi tiền của Việt Nam và khôi hài nhất trong lịch sử tiền tệ thế giới. Lần thứ ba, vào tháng 2/1959, chính phủ bắt dân đổi tiền nữa, với tỷ lệ 1.000đ đổi lấy 1đ tiền mới. Huy Đức ghi xuống trang sách của ḿnh: “Người dân miền Nam từng nghe những ‘luận điệu’ như Việt Cộng về th́ sẽ lấy ḱm rút móng những ai sơn móng tay, bắt đàn bà con gái lấy thương binh. Ít ai lường được sẽ có những mũi ḱm êm ái hơn như… đổi tiền.”

    Về Hoàng Sa và Trường Sa

    Huy Đức đă dành một phần của cuốn sách để phân tích về chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau khi rơ rệt ghi chiến công đẫm máu của Hải quân Việt Nam Cộng ḥa trong trận hải chiến với Trung cộng năm 1974 để bảo vệ lănh thổ, anh nhắc lại việc “bán nước” của Phạm Văn Đồng khi xác nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lănh thổ Trung Quốc. Huy Đức trích lời Trần Việt Phương (một thư kư trong đoàn đàm phán Hiệp định Geneva của Việt Nam) làm chứng rằng “Phạm Văn Đồng có bàn bạc với Hồ Chí Minh và vấn đề c̣n được đưa ra bàn ở ‘cấp cao nhất’”. Như thế, hành động dâng hiến Hoàng Sa và Trường Sa là tội của toàn đảng Cộng Sản VN từ chủ tịch HCM trở xuống, chứ không riêng Phạm Văn Đồng – ông thủ tướng của một quốc gia từng thừa nhận “khi Chu Ân Lai nói sông Bến Hải sẽ được lấy làm giới tuyến, ông Phạm Văn Đồng không biết là Việt Nam có con sông ấy.” Từ quan điểm lịch sử ấy, Huy Đức tuyên bố “Về thực chất, không thể coi những tài liệu ấy có đủ giá trị pháp lư để công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Trước ngày 30/04/1975, miền Bắc không có thẩm quyền để nói về Hoàng Sa và Trường Sa, bấy giờ đang là phần lănh thổ hợp pháp của Việt Nam Cộng Ḥa, một quốc gia đang hiện diện ở Liên Hiệp Quốc.”



    Ai phải ra đi?

    Có thể nói mặt tích cực và điểm son của cuốn 1 bộ Bên Thắng Cuộc là những đoạn xoáy vào thực tế bầm dập mà đảng Cộng sản lèo lái đất nước lên xă hội chủ nghĩa. Ở một trong những lúc gay cấn v́ phải trực diện với sự thật, thay v́ màu mè đẽo gọt hay nguỵ trang, Huy Đức viết: “Bên ngoài th́ giặc dă, bên trong th́ bức bối, đói kém, không khí càng trở nên ngột ngạt, nhất là từ giữa năm 1978. Lượng người bỏ nước ra đi càng lúc càng tăng, cỗ xe như đang lao xuống dốc mà không ai nh́n thấy chân phanh ở đâu. Ông Vơ Văn Kiệt quyết định gặp gỡ giới trí thức Thành phố. Với hy vọng có được sự chia sẻ từ những người Sài G̣n vốn được coi là có cảm t́nh với ‘Cách mạng’, ông Kiệt đă nói khá chân thành: ‘Anh em cố gắng ở lại, trong ṿng ba năm nữa, nếu t́nh h́nh vẫn không thay đổi, tôi sẽ đưa anh em ra phi trường’. Cả hội trường im lặng. Rồi, giáo sư Nguyễn Trọng Văn đứng lên: ‘Chúng tôi sẵn sàng ở lại, nhưng nếu ba năm nữa mà t́nh h́nh không thay đổi th́ tôi cho rằng người nên ra đi phải là các anh’”. Phần thiếu sót mà Huy Đức không viết ra là, sau khi đă d́m đất nước xuống bùn, chẳng có anh Việt Cộng nào ra đi cả. Nếu họ đi, c̣n băng đảng nào trụ lại để diễn tuồng hài chuyên chính vô sản?



    Chuyện “học tập”, chuyện thăm nuôi

    Nói về “đạo đức cách mạng” của cán bộ quản giáo trong hàng ngũ thắng cuộc, Huy Đức viết “những người trực tiếp giáo dục lại các ‘ngụy quân và ngụy quyền’ là những người lớn lên trong một xă hội hoàn toàn khép kín. Những giai thoại nói mấy chú bộ đội ngày mới vô, thấy Sài G̣n giàu có, đă giữ tư thế cho miền Bắc xă hội chủ nghĩa bằng cách khoe: ‘Ngoài đó, ti vi tủ lạnh chạy đầy đường’, không chỉ là những chuyện kể khôi hài. Chuyện bộ đội tiếp quản biệt thự, cao ốc, nh́n thấy cái bồn cầu sứ trắng tinh tưởng là bồn rửa rau, cho rau vào, giật nước, thấy rau trôi mất bèn kêu: ‘Bọn tư bản nó gài bẫy’ cũng không hẳn là tiếu lâm chính trị. Hầu hết bộ đội miền Bắc đều ra đi từ những làng quê nghèo đói. Họ được dạy rằng người dân miền Nam đang phải rên xiết, lầm than; nhiều thanh niên miền Bắc trong ngày 30/04/1975 c̣n ước ao được nhanh chóng vào Nam để giáo dục những thanh niên lầm đường lạc lối. Không ít quản giáo khi tiếp xúc với những sỹ quan được đào tạo chính quy của miền Nam đă nhận ra sức hiểu biết của ḿnh đang ở đâu. Cũng có những người v́ mặc cảm đă dùng quyền uy lấn át. Nhưng cũng có những người tiếp tục trung thành với những ǵ được dạy. Sự say sưa làm ‘thầy’ của họ đă tạo ra không ít t́nh huống trớ trêu. Không chỉ bị hành hạ về tinh thần, thật khó lư giải v́ sao những người chiến thắng lại giam giữ những đối thủ đă đầu hàng ḿnh lâu như vậy.”

    Mỗ xẻ năo trạng và tŕnh độ của bên thắng cuộc, Huy Đức không quên đưa ra nhận xét về thành phần quản giáo trại giam, ban ngày vô cùng hắc ám nhưng khi đêm xuống đă hèn hạ t́m gặp những người tù vừa được thăm nuôi để “xin tư mỡ”. Trong khi đó vợ con tù cải tạo ở nhà th́ phải đối phó với các quan cách mạng địa phương. Anh viết về những điều mà đảng và nhà nước t́m cách lấp liếm: “Bán nhà chưa phải là bi kịch lớn nhất. Có những người vợ đă phải đi bán thân. Có những người vợ đă phải sử dụng thế mạnh của đàn bà để kinh doanh, buôn bán. Khi người trụ cột kinh tế là đàn bà, con gái và trẻ em, lại phải t́m cách qua mặt công an, luồn lọt công quyền, ứng biến khi sơ thất ngay cả trên đường xa… th́ không thể nào trách những người phụ nữ ấy. Chuyện một bà tứ tuần có mang với anh tài xế xe hàng, một bà vợ sỹ quan bán chợ trời cặp với anh lính cũ của chồng ḿnh… cũng không có ǵ bất ngờ khi nó được đưa vào trại.” Huy Đức kể chuyện cán bộ kiêu hùng mắng tù: “Nhà nước giam giữ các anh không phải nhằm mục đích chia rẽ gia đ́nh, và chúng tôi chiến đấu không phải là để cướp đoạt vợ con của các anh!”, rồi kết luận: “nếu có ai mất vợ th́ cũng chỉ v́ thời thế” và ghi thêm: “Vợ của nhà thơ Tạ Kư đă đi lấy chồng ‘Việt Cộng’ khi ông c̣n bị giam ở trại T6, Long Khánh”.



    Kinh tế mới

    Những người miền Nam may mắn rời Việt Nam vào năm 1975 không có cơ hội nếm trải khí thế cách mạng mà Huy Đức gọi là “được lănh đạo bởi người mới từ trong rừng ra”, mang theo sự “quá tay” và “nhầm lẫn” cũng như nhập cảng các h́nh thức cai trị của các nước Cộng sản đàn anh để đày đọa đồng bào ḿnh. Một trong các chính sách ấy là kinh tế mới. Tác giả kể:

    “Ngày đi, từ sáng sớm, xe ca mấy chục chiếc đậu trên đường Phan Chu Trinh, nối đuôi nhau từ trường Bồ Đề đến sân Ty Thông tin Chiêu hồi. Thoạt đầu bọn trẻ con rất vui v́ sắp được đi chơi xa, nhưng khi thấy người lớn khóc, bọn trẻ bắt đầu hiểu vấn đề nghiêm trọng hơn chúng tưởng. Xe chạy ba ngày hai đêm th́ hết đường. Đoàn xe ca dừng lại, chờ xe ủi, ủi đường tới đâu th́ tiến vào tới đó. Chập tối, đoàn xe dừng lại cho mọi người lấy đồ đạc rồi quay về, để lại hơn ngh́n con người giữa rừng. Hôm sau, các gia đ́nh được chia đất. Từ người lớn cho tới trẻ con đều phải đi chặt cây làm nhà. Đó là một khu vực đêm đêm Fulro vẫn quấy phá chính quyền nhưng Fulro để yên cho người Thượng và dân kinh tế mới. Chiều chiều, bọn trẻ vẫn cắt rừng đi lấy nước ở sông Ana, cách đấy hàng cây số. Ông Tư Kết, thư kư riêng của ông Mai Chí Thọkể không có báo cáo nào là không nói về t́nh h́nh người tự tử… Nhà nước cấp đất đai, nhà cửa, gạo và tiền để sống ba tháng đầu. Nhưng thực tế không như mơ tưởng, nhất là với những người dân trước đó quen sống ở thành phố có điện, có nước, chỉ biết ngồi bàn giấy hay buôn bán, nay bỗng nhiên phải cuốc đất, trồng khoai ở nơi thâm sơn… Ăn hết tiền, hết gạo, nhiều người dân lục tục bỏ về. Các thành phố lại phải gánh chịu thêm những áp lực mới, nhất là từ những người dân bỏ kinh tế mới về khi nhà cửa không c̣n, do đă bán đi trước đó hoặc do bị coi là nhà ‘vắng chủ’ đă bị ‘Cách mạng 30-4’ nhảy vào ‘chốt’ mất.”

    Trước khi Huy Đức lên tiếng báo động về h́nh thức thanh trừng nầy, nhà báo Pháp Michel Tauriac cho biết ông đă từng đặt chân tới khu kinh tế mới Nhị Xuân, chỉ cách Sài G̣n 28 km về hướng tây bắc: “Một con kênh giả tạo, cặp theo mỗi bờ kênh là các mái nhà lá rập khuôn nhau xếp hàng dài như được dàn dựng để lên ảnh. Chỉ c̣n thiếu hàng rào kẽm gai để giống tạc như một trại trừng giới. Không nước sạch, không điện. C̣n chung quanh, sa mạc và cô lập. Từ năm 1979, hai ngàn con người bị ném vào đó. Đất đai khô cằn, nước phèn chua chát, nơi người ta thử trồng dứa và mía, để rồi thất bại. Đây là nơi lính Mỹ gọi là vùng oanh kích tự do, chưa một loài cây thực vật nào có thể đâm chồi. Nhưng những người Cộng sản có một đức tin: không có một định luật tự nhiên nào mạnh hơn Đảng. Ngót một triệu rưỡi hecta đất hoang phải làm thục, cho dù khoa thổ nhưỡng học muốn hay là không muốn. Cho dù bàn tay con người có thể hay bất khả. Không cần biết đám người nầy đă hay không hề được chuẩn bị thứ công việc đồng áng ấy.” (Hồ sơ đen của Cộng sản Việt Nam, ấn bản 08/2001 của NXB Plon, trang 70). Như thế, nếu Michel Tauriac gặp tác giả Bên Thắng Cuộc, hẳn ông phải đồng ư với Huy Đức khi nghe phát biểu: “Kinh tế mới là nơi đày ải, đầy khó khăn gian khổ không thể nào sống được”.

    Đỉnh cao trí tuệ

    Người Cộng sản mỗi khi mở miệng nói về ḿnh, họ thường dùng 2 h́nh tượng, một, tự cho ḿnh là hậu duệ của loài khỉ, và hai, họ là đỉnh cao trí tuệ – những nhà lănh đạo đất nước mà “việc dự trữ lương thực của một thành phố như Sài G̣n có lúc chỉ c̣n đủ ăn vài ngày”.

    Ở tiểu mục “Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng”, Huy Đức thuật lại lời cán bộ Vũ Đ́nh Liệu: “Máy móc thu được của các nhà tư sản không những không tiếp tục làm ra của cải mà bị vất vào kho để cho tới khi hư hỏng”. Điều nầy được Trần Hồng Quân xác nhận: “Khoảng cuối năm 1978, trung ương nhờ trường Đại học Bách Khoa cho sinh viên vào kho ‘hiện vật cải tạo’ để xem những máy móc trong đó có cái ǵ c̣n dùng được. Nhưng sinh viên th́ chỉ biết mấy cái máy tiện, máy phay, những máy móc dùng trong công nghiệp nhẹ th́ chưa bao giờ được tiếp xúc, nên không thể làm ǵ. Cuối cùng, trung ương ra lệnh tháo ră những chiếc máy đó ra, thu hồi những ṿng bi làm phụ tùng, c̣n phần lớn th́ dùng như phế liệu”. Bản cáo trạng “Bên Thắng Cuộc” viết: “Đây là những máy móc mà trước giải phóng đă giải quyết việc làm cho hàng vạn công nhân và làm ra biết bao của cải cho xă hội.”

    Tháng 9-1975, cán bộ Nguyễn Quang Lộc được điều từ miền Bắc vào để nắm giữ các nhà máy của tư sản miền Nam. Được phân công tiếp quản hăng Bột giặt Viso của ông Trần Văn Khôi, ông Lộc đă tâm sự: “điều tôi lo nhất là những cán bộ từ miền Bắc vào”. Là kỹ sư, nhưng ông Lộc thú nhận chưa bao giờ nh́n thấy một dây chuyền sản xuất như ở Viso, ngoài ra, vào từ miền Bắc thiếu thốn, thấy cái ǵ trong nhà máy cũng có giá, không tránh khỏi thèm thuồng. Nhưng thay v́ học hỏi, không ít kẻ ở đỉnh cao trí tuệ nầy lại tự cao, tự đại, chuyên môn chưa áp dụng được đă lo mót của. Cán bộ đă thế, nhà nước c̣n hơn thế. Ông Lộc nh́n nhận t́nh trạng cướp cạn: “Nhà máy đă bị cơ chế quản lư xé nhỏ, các bộ cắt dọc, địa phương cắt ngang. Sáu mươi xe tải của Viso giao cho Bộ Giao thông Vận tải, hai máy phát điện giao Bộ Điện lực, khu liên hợp sản xuất nguyên liệu hóa chất giao cho Tổng cục Hóa chất, dây chuyền đóng gói bột giặt giao cho Bộ Công nghiệp nhẹ”. Khi cần mấy cái bồn dự trữ nhiên liệu, thợ bậc bảy ngoài Bắc vào làm không được. Ông Lộc đành phải gọi một ông thợ người Hoa. Ông nầy bảo “Ngộ làm được. Cho ngộ năm thợ phụ, hai thợ hàn, hai thợ g̣, mỗi ngày cho thêm hai bữa phụ bằng xôi và mấy két nước ngọt”. 15 ngày sau, toán thợ miền Nam nầy dựng xong 4 cái bồn đứng.

    Trước 30 tháng Tư, Tái Thành Kỹ Nghệ là nhà máy dệt có công nghệ tân tiến nhất Sài G̣n. Chiếm được miền Nam, cộng sản đổi tên thành nhà máy Dệt Thành Công. Chưa tới hai năm sau, Thành Công đứng trước bờ vực thất bại, một số công nhân phải kiếm sống bằng cách tận dụng vải vụn, tơ rối để chế biến thành găng tay, búp bê nhồi, đan mũ, đan tất và làm đồ chơi h́nh thú nhồi vải vụn. Số lớn c̣n lại kể cả công nhân lành nghề, kỹ sư, thợ điện phải xuống Long An gặt mướn, ra Long Thành chăn ḅ, về Cà Mau làm ruộng, lên Đồng Nai, Sông Bé phá rừng làm rẫy trồng củ ḿ. Trong nội thành Sài G̣n, cán bộ cao cấp cỡ Tư Kết được chia chác tư dinh ở số 21 đường Duy Tân – cơ ngơi của tổng giám đốc hăng Esso – để ngài thư kư riêng của Mai Chí Thọ phá vườn bông trồng rau muống và dùng hồ bơi làm chỗ nuôi cá rô phi. Tất nhiên, mẩu chuyện nầy chỉ là một trong ngàn lẻ một chuyện có tên “giải phóng”.

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Người thua cuộc đọc “Bên Thắng Cuộc”
    P3




    Tiếu lâm tân thời

    Dù không chống trả lại được miền Bắc v́ Mỹ cắt quân viện, và dù tổng thống Dương văn Minh đă tuyến bố đầu hàng, không phải tất cả dân miền Nam đều đă đầu hàng như tổng thống của ḿnh, hay quy phục đám người rừng mà Huy Đức gọi là “bên thắng cuộc”. Không vũ khí, dân miền Nam bèn chống Cộng bằng sự miệt thị đối phương. Không phải quá nhọc công, tác giả đă nghe tràn tai, và ghi lại ở hơn một chỗ trong sách, nên những mẩu chuyện bỉ ổi và bần cùng của miền Bắc lẽ ra nên được bưng bít đi, th́ Huy Đức đă phơi bày lên giấy để làm bằng chứng lịch sử.

    Năm 1987, trong cuốn Nỗi buồn Chiến tranh, Bảo Ninh, nhà văn bộ đội xuất ngũ từ tiểu đoàn 5, trung đoàn 24, sư đoàn 10 thuộc mặt trận B-3 Tây Nguyên là người đầu tiên xác nhận chuyện cán bộ miền Bắc vào Nam hốt của cải, xẻ vụn, nhét đầy ba lô cơng về Bắc: “Trên tàu Thống Nhất chuyến ấy [vào cuối mùa thu năm 76] toàn là thương phế binh và lính về vườn. Ba lô ken dày trên giá, vơng chăng dọc ngang ḷng toa biến đoàn tàu thành một băi khách. Cảnh chợ chiều nhốn nháo, nháo nhào không khác ǵ lại một thứ tùy nghi di tản. Đă thế lại c̣n kiểm tra lên, kiểm tra xuống, lục lọi săm soi từng cái túi cóc ba lô tuồng như người ta cho rằng một núi của cải ở miền Nam sau giải phóng bị hư hao thất thoát, bị xâu xé, tranh đoạt, bị hốt vơ cào xúc cho đến sạch sành sanh là bởi anh bộ đội chứ không phải bởi bọn người nào khác…” Nếu Bảo Ninh khui việc chở cả núi của cải của miền Nam ra Bắc chỉ để thanh minh là hành động của các bộ đảng và chính quyền chứ không phải của lính tráng, th́ Huy Đức phân tích kỹ càng hơn, khi viết “cuộc chiến tranh được nói là ‘giải phóng miền Nam’ đă nối nền kinh tế bị nhốt kín suốt hai mươi năm của miền Bắc với nền kinh tế thị trường ở miền Nam. Cuộc ‘Bắc tiến’ ngoạn mục của những chiếc quạt bàn, tủ lạnh, xe máy Honda đă phần nào giải phóng tư duy cho chính những người đă lănh đạo chiến tranh”.

    Không chỉ là thực tế không mấy thanh niên miền Bắc nào có hơn hai bộ áo quần trong chiến tranh, chủ yếu bằng vải sợi xanh, cũng như hiếm phụ nữ nào có được cái quần lụa và chiếc áo bằng vải phin Hong Kong, tác giả c̣n phơi bày: “Ước mơ của người Hà Nội trong thập niên 1970 là một chiếc xe đạp Thống Nhất, một cái quạt tai voi hay một đôi dép nhựa Tiền Phong. Tiêu chuẩn của các cô gái Hà Nội cũng thật là đơn giản: ‘Một yêu anh có may ô, Hai yêu anh có cá khô ăn dần, Ba yêu rửa mặt bằng khăn, Bốn yêu anh có chiếc quần đùi hoa’. Chỉ những người đạt các danh hiệu thi đua mới có thể được phân phối xe đạp. Xe đạp muốn lưu hành cũng phải đăng kí xin cấp giấy chứng nhận sở hữu và biển số xe. Cho đến cuối thập niên 1970, người dân miền Bắc muốn sở hữu radio cũng cần giấy phép.” Chiếm xong miền Nam, bộ đội giải ngũ hoặc về phép thăm nhà ngoài Bắc, của cải tay xách tay mang ào ạt đến nổi thủ tướng chính phủ phải chỉ thị việc mang theo hàng hóa từ miền Nam ra miền Bắc cần được kiểm soát chặt chẽ. Vấn đề miền Bắc vào Nam vơ vét từ cái quạt máy đến đồng hồ, xe đạp được dân miền Nam cập nhật nhạc phẩm Nối Ṿng Tay Lớn của Trịnh Công Sơn thành “Từ Bắc vô Nam tay cầm bó rau; Tay kia cầm sợi dây, để bắt con cầy”, làm ông Lê Duẫn phải phân bua “con cái miền Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới, đă nói là dân miền Bắc vào đây vơ vét hàng hóa”, cho dù trợ lư của thủ tướng Phạm Văn Đồng làm thơ phủ nhận giá trị của bất cứ ǵ ở phía tư bản, thậm chí, “Trăng Trung Hoa tṛn hơn trăng nước Mỹ, Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sĩ”.

    Nhờ đức tính b́nh tĩnh, Huy Đức đă lắng nghe được các câu thơ và bài vè dân gian về chế độ. Ví dụ hồi tháng 8/1975 khi nhà nước đổi tên đường ở Sài G̣n, dân chúng đă nhanh chóng truyền khẩu câu thơ “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lư, Đồng Khởi lên rồi hết Tự Do”, hay nói về quyền lực của công an: “Các-mác mà đến Việt Nam, Râu dài tóc rậm công an bắt liền. Các-mác cầu cứu Ăng-ghen, Ăng-ghen cũng phải đóng tiền tóc râu. Truyền cho bốn biển năm châu: [Đến Việt Nam th́ nhớ] Râu Mao Chủ tịch tóc đầu Lê nin”, và về thực trạng cuộc sống nhân dân trăm bề khó khăn dưới sự lănh đạo của đảng: “Cây đinh phải đăng kư, Trái bí cũng sắp hàng, Khoai lang cần tem phiếu, Thuốc điếu phải mua bông, Lấy chồng phải cai đẻ, Bán lẻ chạy công an, Lang thang đi cải tạo, Hết gạo ăn bo bo, Học tṛ không có tập…”, rồi đến t́nh h́nh tù chính trị về từ các trại cải tạo không thể xin việc làm trộn lẫn với sĩ quan cách mạng thất nghiệp: “Đầu đường đại tá bơm xe, Giữa đường trung tá bán chè đỗ đen, Cuối đường thiếu tá buôn kem…” một t́nh trạng thê thảm mà Huy Đức đành kết luận rằng “tinh thần của dân chúng dường như không c̣n có khả năng gượng dậy” và dẫn chứng bằng giai thoại tiếu lâm nầy: “Một hôm, ba nhà lănh đạo cao nhất của đảng đi chung một chuyến chuyên cơ, ngó xuống hạ giới thấy dân t́nh nheo nhóc, đói khát, mặt mũi thiểu năo. Bỗng một người hỏi: ‘Bây giờ ḿnh ném cái ǵ xuống th́ đám dân ấy mới tươi tỉnh lên được nhỉ?’. Bác Đồng nói trước: ‘Chắc họ đang đói. Hăy ném cho họ mấy bữa cơm không độn’. Bác Chinh cho rằng: ‘Điều họ thiếu là lư tưởng. Hăy ném cho họ lư luận về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xă hội’. Bác Duẩn lắc đầu: ‘Không phải! Không phải! Họ cần làm chủ tập thể’. Trong khi ba bác c̣n chưa thống nhất được nên ném ǵ cho dân th́ anh phi công lái chuyến chuyên cơ rụt rè đề nghị: ‘Dạ thưa, cháu có ư kiến được không ạ?’. Ông Lê Duẩn nói ngay: ‘Tại sao không? Cứ phát huy dân chủ’. Bấy giờ anh phi công mới nói: ‘Dạ, muốn cho đám dân t́nh dưới đó reo vang hạnh phúc th́ chỉ có cách là ném cả ba bác ra khỏi máy bay thôi ạ’.”

    Kẽ hở của “Bên Thắng Cuộc”

    Điểm son lớn nhất trong sách của Huy Đức là dám viết những ǵ mà người khác không dám viết, những điều mà dưới chế độ tàn bạo của Cộng sản, người ta chỉ dám thầm th́ vào tai nhau. Qua Bên Thắng Cuộc, tác giả đă dùng ng̣i bút điêu luyện của ḿnh để lật ngửa những điều cấm kỵ, đẩy Lê Đức Thọ và Phạm Văn Đồng vào cương vị vật tế thần, để thần tượng hóa hai nhân vật Vơ Văn Kiệt và Lê Duẩn – bằng cách dẫn lời của những người chứng khác. Nhưng, dẫn lời của người khác để làm lập luận cho ḿnh khi không có điều kiện để kiểm chứng và suy luận là cửa ngơ mở rộng cho kẽ hở, sai sót. Cũng như bên thắng cuộc, sách Bên Thắng Cuộc đă không tránh được kẽ hở và sai sót. Nhỏ, như tên của một vài tên tuổi miền Nam mà ai cũng biết: chủ nhà sách Khai Trí ở số 62 Lê Lợi, Sài g̣n, do ông Nguyễn Hùng Trương thành lập năm 1952 cho đến khi bị “cách mạng” tước đoạt năm 1976 và đốt 60 tấn – chứ không là Nguyễn Văn Trương. Ông Trương bị bắt vào tháng 04/1976, vào nhà tù Chí Ḥa nhiều năm, rồi xuất cảnh sang đoàn tụ với con trai ở Sugar Land, ngoại ô Houston. Năm 1996, cả tin vào chính sách đổi mới của chính quyền Việt Nam, ông đă quay về lại ở căn nhà số 237 Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ) gần ngă tư Hai Bà Trưng để chờ nhà nước trao trả nhà sách – lời hứa không bao giờ được thực hiện – và mất ngày 11/03/2005. Sai sót nhỏ khác ở đoạn viết về họa sĩ tài danh Nguyễn Hải Chí: tên của người con gái ông Chu Tử được Huy Đức viết sai, chứng tỏ tác giả không hề tiếp cận nhân vật sống đang làm chủ căn nhà ở số 104 Công Lư, cũng không có dịp gặp Chóe trước khi anh ấy xuất cảnh đi chữa bệnh và mất trong ṿng tay bè bạn tại thành phố Fairfax, Virginia, Hoa Kỳ. Nếu t́m hiểu lại, Huy Đức sẽ biết con gái của ông Chu Văn B́nh (vợ họa sĩ Đằng Giao) tên thật là Chu Vị Thủy, thay v́ Chu Thị Thủy. Sai sót về địa danh: ở đoạn nói về người vợ tù cải tạo đi thăm nuôi, Huy Đức viết “May mắn, chạy suốt ngày ra tới Phước Tài th́ đêm, không được lên đèo An Khê, ngồi ngủ trên xe cho tới 6 giờ sáng.” Sau 30/04, người thua cuộc nầy có thời gian dài kiếm sống bằng nghề lơ xe, nhưng chưa hề nghe tới tên Phước Tài mà tác giả viết. Có lẽ Huy Đức muốn nói tới ngă ba Phú Tài ở Qui Nhơn, nơi Quốc lộ 1A có lối rẽ qua Quốc lộ 19 để đi Pleiku. Huy Đức có thể tự bào chữa rằng đó chỉ là các lỗ nhỏ. Vâng. Người Pháp nói lỗ nhỏ làm đắm thuyền. Nếu lỗ quá nhỏ so với công tŕnh vĩ đại của tác giả, th́ xin kể tiếp những mảng sai sót lớn hơn – những sự kiện được Huy Đức trích từ những nguồn bất khả tín để làm giảm giá trị một tác phẩm mà tác giả dày công t́m hiểu, ghi chép, suy nghĩ và chắt chiu. Ở tiểu mục “Nhất Biên Đảo”, ngay bên dưới câu chuyện kể về văn bản hiệp định viện trợ quân sự không hoàn lại cho Khmer Đỏ được kư kết giữa Trung tướng Vương Thượng Vinh, phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, với Son Sen tại Phnom Penh ngày 10-2-1976, Huy Đức viết về việc chính phủ Hà Nội đánh mất cơ hội b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ rất sớm, sau khi Sài G̣n thất thủ chưa tới 2 năm. Sách Bên Thắng Cuộc viết “Ngày 17-3-1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đă tiếp Đặc phái viên của Tổng thống Mỹ Leonard Woodcock.” Nhà báo lừng danh gốc Ấn Độ Nayan Chanda không đồng ư như thế. Ở trang 139 của cuốn Huynh đệ Hận thù, ấn bản đầu tiên năm 1986, Chanda kể lại cuộc phỏng vấn mà Leonard Woodcock dành cho ông vào ngày 17/08/1984 tại Washington, rằng chính Nguyễn Duy Trinh dẫn xác tới nhà khách chính phủ vào tối hôm trước nơi Woodcock ở, để gặp người Mỹ. Cũng may, chi tiết mà Huy Đức thuật lại lời ông Trần Quang Cơ cho rằng “Một trong những điều ngáng trở tiến tŕnh đàm phán là do chúng ta cứ khăng khăng đ̣i Mỹ phải chi 3,2 tỷ đô-la bồi thường chiến tranh” rất chính xác. Thái độ cứ gặp mặt người Mỹ là ṿi vĩnh mà nhà văn Duyên Anh gọi bằng chữ “Giặc Ô kê”, xảy ra ngay trong lần Nguyễn Duy Trinh tới t́m, và nghe ông Woodcock mời mọc: “Tôi hy vọng vào cuối cuộc viếng thăm của chúng tôi, chúng ta sẽ có thể đề ra căn bản cho một quan hệ bang giao gần gũi hơn”. Nhưng ông ngoại trưởng, một con người miệng nhỏ như miệng cá và cặp mắt sắc sảo, là một mẫu người cứng rắn, đă trả lời cụt ngủn rằng không chung tiền theo tinh thần Hiệp định Paris th́ không tin tức ǵ cả về người Mỹ mất tích. Woodcock chẳng vừa. Ông nầy phản pháo lại ngay rằng Hiệp định Paris đă bị khai tử từ khuya và vấn đề nên được giải quyết theo tinh thần nhân đạo: “Chúng tôi không lặn lội từ nửa ṿng trái đất phía bên kia tới đây để tham dự một cuộc khẩu chiến”. Cuộc gặp gỡ đă kết thúc như thế.

    Chưa đầy một tuần sau khi sách Bên Thắng Cuộc được phổ biến đến người đọc, tác giả đă vấp phải phản ứng mảnh liệt của các cựu quân nhân TQLC và Nhảy Dù Việt Nam Cộng Ḥa do đoạn mà Huy Đức trích lời của Phan Xuân Huy. Sáng 29/04/1975, binh sĩ TĐ12 Dù do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Nghiêm và thiếu tá tiểu đoàn phó Nguyễn Trọng Nhi chỉ huy vẫn chống trả quyết liệt ở khu vực ngă tư Hàng Xanh sát cầu Sài G̣n. Ở mặt trận nầy không có đơn vị Biệt Động Quân như Phan Xuân Huy hư cấu. Thiếu tá Nghiêm cho biết “Sau khi Dương văn Minh kêu gọi đầu hàng lúc 10:45 AM, Nguyễn Trọng Nhi lái xe vào trong thành phố để xem sao và cho biết đầy hổn loạn; Phú Lâm, Ngă tư Bảy Hiền đă xong. Không có ông Thiếu tá tên Chỉnh nào cả, cũng không một ai bén mảng đến gần cầu để tiếp xúc với chúng tôi. Chúng tôi quyết định không phá sập cầu. Sau đó tất cả chúng tôi rời vị trí lúc 12 giờ trưa ngày 30/04/1975.” Chuyện cầu Sài G̣n đă không bị giật sập là thế. Việc dân biểu miền Nam Phan Xuân Huy tự gắn huy chương cho đóng góp của ḿnh vào chiến thắng của tướng Văn Tiến Dũng bằng việc cộng tác với cụm điệp báo an ninh A10 của phía Cộng sản là chuyện để đảng Cộng sản xem xét lại. Nhưng biết bài phóng sự của Phan Xuân Huy đăng trên Tin Sáng “khiến người đọc có cảm giác nó được viết bởi một cán bộ tuyên huấn từ ‘R’ về hoặc từ Bắc vào” mà vẫn trích, Huy Đức tự xếp ḿnh thành cá mè một lứa với phịa sử gia Phan Xuân Huy khi cho phép tác phẩm của ḿnh có những chi tiết sử liệu vô căn cứ như “phỏng vấn bà ‘LQL’, người vừa trở lại Sài G̣n sau chuyến thăm chồng là ‘Thiếu tá Tiểu Đoàn phó Tiểu Đoàn 7, Thủy Quân Lục Chiến Ngụy’… ‘Thiếu tá và cả Tiểu đoàn 7 của ông đă bị tên tướng ngụy Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An và đă cùng toàn bộ binh lính trong Tiểu đoàn 7 đầu hàng quân đội giải phóng ngày 27/03 vừa qua’”. Trong chiến tranh, tôi theo chân nhiều đơn vị VNCH, nhưng chiến trường rộng, khả năng giới hạn, chưa được gặp và quen thiếu tá Lê Quang Liễn, TĐ Phó TĐ7/TQLC. Tới Mỹ, tôi được hội thiện nguyện YMCA xin cho một chân lao động phổ thông ở hảng bào chế dược phẩm Alcon. Một năm sau, thêm một người tị nạn nữa được đưa vào pḥng của tôi, đó là cựu quân nhân Lê Quang Liễn. Sau 18 năm, ông Liễn đă nghỉ hưu cách đây 2 năm. Khi kể lại đoạn văn Huy Đức nói về Lê Quang Liễn đầu hàng cho các bạn đồng sự người Việt ở hảng Alcon đọc, không ai tin ông Liễn là mẩu người chịu khuất phục kẻ khác v́ bạo lực hay vũ khí. Ngay sau đó tôi đă t́m cách liên lạc với anh Phạm Cang, cựu tiểu đoàn trưởng TĐ7/TQLC, là cấp chỉ huy trực tiếp của ông Liễn, và với anh Phạm Vũ Bằng, cựu bác sĩ quân y TQLC, để kiểm chứng việc “toàn bộ binh lính trong Tiểu đoàn 7 đầu hàng quân đội giải phóng ngày 27/03”. Các chi tiết xảy ra tại tọa độ 16° 32′ 19.56″ vỹ Bắc và 107° 41′ 22.81″ kinh Đông tức băi biển thôn An Dương, xă Phú Thuận, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – nơi nhà báo Phan Xuân Huy và người vợ cũ của ông Liễn không có mặt là thế nầy: chiều hôm 25/03, TQLC giao tranh ác liệt với địch để dành các cao điểm sát bờ biển. Trong trận nầy phía TĐ4 có đại đội trưởng Tô Thanh Chiêu tử trận, phía TĐ7 có 2 trung đội trưởng tử thương. Bản thân TĐ trưởng Phạm Cang cũng bị mảnh pháo 82 ly ghim vào mặt. Một số thường dân chạy theo lính đă trúng đạn chết, trong đó có sinh viên Lê Quang Thể 19 tuổi là em ruột ông Liễn. Sáng hôm sau, một quân vận đĩnh LCM vào gần bờ đón thương binh, TĐ trưởng Cang phân nhiệm cho TĐ phó Liễn hướng dẫn anh em đưa thương binh và tử sĩ của đơn vị xuống tàu tản thương. Dưới trận mưa pháo dày đặc của địch, tàu kéo cửa và lùi ra khơi trong khi Liễn c̣n kẹt trên tàu, chưa kịp mang xác em trai ḿnh lên. Để thoát nạn, ông Liễn chỉ việc ở lại trên quân vận đĩnh với đồng đội bị thương, nhưng tiểu đoàn phó đă quyết định nhảy xuống nước, lội vào bờ, để tiếp tục chiến đấu với đồng đội. Trên đường vừa đánh vừa rút xuôi Nam về phía cửa Tư Hiền, quân nhân TQLC lần lượt bị bắt sau khi hết đạn, không có chuyện đầu hàng như Phan Xuân Huy dựng đứng. Ngoài ra, khi nói lính TQLC “đă bị tên tướng ngụy Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An”, Phan Xuân Huy tự chứng tỏ ḿnh không có cả khái niệm sơ cấp nhất về hệ thống quân giai: các đơn vị TQLC triệt thoái không thành công khỏi cửa Thuận An là những người lính thuộc quyền của trung tướng Lâm Quang Thi, tư lệnh Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Quân đoàn 1 tại Huế. Vào những giờ phút dầu sôi lửa bỏng ấy của TQLC, chính ông Thi tự khai trong cuốn Thế kỷ Dài 25 Năm in tại Texas năm 2001: “Tôi dùng trực thăng chở vợ tôi qua phi trường. Bà ấy đă cùng gia đ́nh của tướng Khánh, tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân, đáp một trong những chuyến bay quân sự cuối cùng rời Đà Nẵng, dưới sự hộ tống dày đặc của quân cảnh. Đêm đó, quân Bắc Việt bắt đầu pháo vào thành phố và phi trường” (trg 361).

    Có người đă công minh nhận định rằng câu nói bất hủ “Đừng nghe những ǵ Cộng sản nói, mà hăy nh́n kỹ những ǵ Cộng sản làm” của ông Nguyễn Văn Thiệu đă được Huy Đức sử dụng như kim chỉ nam, và c̣n hơn thế. Qua sách Bên Thắng Cuộc, chúng ta thấy Huy Đức là mẫu người vừa nghe Cộng sản nói, vừa xem xét những ǵ Cộng sản làm. Đáng tiếc, khi phân tích về chế độ, xă hội và chính trị của miền Nam trước và sau ngày 30/04, Huy Đức đă dành rất nhiều đoạn, một cách trang trọng, để trích dẫn Đoàn Kế Tường như một nhân chứng lịch sử khả tín. Huy Đức viết: “Năm 1969, nhân Đại hội Văn – Nghệ – Sỹ Quân đội toàn quốc, Đoàn Kế Tường nhờ Chu Tử xin cho về lại Sài G̣n làm báo. Chu Tử, một nhà báo quen biết nhiều nhân vật có thế lực, đă nhờ Trung tướng Lê Nguyên Khang can thiệp, đưa Tường cuối năm ấy về Sài G̣n làm trong tờ báo Đời của Quân đội. Đầu năm 1970 khi Chu Tử ra thêm tờ nhật báo Sóng Thần, Đoàn Kế Tường vừa viết cho Đời vừa viết thêm cho Sóng Thần. Tại đây, anh chơi thân với họa sỹ Ớt (Huỳnh Bá Thành), đang làm cho báo Điện Tín. Tường kể: ‘Buổi trưa chúng tôi vẫn cùng nhau binh xập xám’” và ‘Ở Chí Ḥa, tù nhân Đoàn Kế Tường đă từng tổ chức biểu t́nh ‘đ̣i đi tắm’ hay ‘Họ bị cai ngục dẫn đến một pḥng trống. Bọn trật tự cầy cáo trói tay họ lại và đấm đá hội đồng. Người nào cũng tím bầm mắt, máu khô c̣n ứa trên mép. Rồi họ bị tống vào biệt giam khu FG. Không chịu nổi biệt giam Chí Ḥa, họ đành làm Tự kiểm nhận lỗi. Riêng Đoàn Kế Tường kiên tŕ” hoặc “Ông Tường kể tiếp: ‘Có lẽ những người ca ngợi sự kiên cường của tôi khi c̣n ở trong Chí Ḥa muốn tôi măi măi là người hùng trong mắt họ. C̣n những người ở phía khác th́ cũng nh́n tôi khinh miệt như nh́n một kẻ chiêu hồi.’” hay “Tôi [ĐKT] trốn tŕnh diện dù có quá khứ là thiếu úy biệt kích rồi cùng người bạn thân là Dương Đức Dũng tham gia vào tổ chức Dân quân phục quốc”.

    Đoàn Kế Tường là một cựu thiếu sinh quân, năm sinh 1950. Tháng 7/1972, sau bài tường thuật trận đánh Phú Thứ sau lưng phi trường Phú Bài, Đoàn Kế Tường được đưa về Sài G̣n ra mắt ṭa soạn Sóng Thần. Ở đây, Tường gặp Triều Giang, một kư giả của tờ báo, và 2 người lập gia đ́nh với nhau. Triều Giang là con nuôi của ông Chu Tử. Nhờ vợ ḿnh, Tường được ông CT giúp, vận động để được thuyên chuyển từ Tiểu đoàn 33 Pháo Binh thuộc Sư đoàn 3 đóng ở Vùng 1 Chiến Thuật, về thẳng Sài G̣n. Báo Đời không là báo quân đội. Đứng tên Chu Tử, nhưng người gồng gánh tờ tuần báo lại là Đỗ Qúy Toàn. Báo Sóng Thần do nhóm Hà Thúc Nhơn xuất bản, đứng tên nhà văn nữ Trùng Dương làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, và nhà văn Uyên Thao làm Tổng Thư Kư. Ông Chu Tử chỉ đứng tên làm chủ biên, và chịu trách nhiệm mục “Ao Thả Vịt”. Những hôm ông Chu Tử không viết, nhất là trong thời gian Chu Trọng Ly, con trai ông, quyên sinh, ông chỉ viết bữa đực bữa cái, và Uyên Thao là người viết Ao Thả Vịt. Là người có thể trực tiếp đến nhà tù Chí Ḥa để xin phỏng vấn, nếu Huy Đức thành tâm t́m hiểu, anh cứ hỏi và sẽ được cán bộ trại giam cho biết lịch sử người hùng duy nhất kiên cường “tổ chức biểu t́nh” đ̣i đi tắm trong tù là có thật, hay chỉ là sản phẩm giả tưởng của một tay khoác lác. Ngoài ra, cho dù ái mộ Đoàn Kế Tưởng, chẳng ai chứng minh được người hùng Chí Ḥa nầy t́m đâu ra mấy năm để trám vào chỗ trống thời gian tính từ khi “người” rời trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, đi quân trường để trở thành sĩ quan, và ra đơn vị làm thiếu úy Biệt Kích, rồi đào ngũ để đầu thai làm hạ sĩ của tiểu đoàn 33 Pháo Binh 105 ly Tân lập dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Nguyễn Bảo Cường. Cứ vào văn khố quốc gia lục t́m các số báo Sóng Thần phát hành từ giữa tháng 6 đến cuối tháng 7/1972 độc giả sẽ thấy những tấm ảnh đầu tay do ĐKT chụp bằng máy ảnh Minolta SRT-101 ngoài chiến trường Trị Thiên, và lật lại các số báo Công an Tp HCM phát hành vào tháng 6/1986, để thấy rơ chân tướng của nhân vật nầy khi nhận đơn đặt hàng của Huỳnh Bá Thành để viết bài nói xấu sau lưng vợ ḿnh (đă liều chết dẫn con vượt biên). Sau khi Tường rời Chí Ḥa, nhiều người – trong đó có Ông Khai Trí – luôn cảnh giác và t́m cách tránh mặt “người hùng biểu t́nh trong khám đường Chí Ḥa”, để khỏi bị công an bắt như Huỳnh Bá Thành đă c̣ng tay Chóe.

    Dù để d́m các nhà lănh đạo Lê Duẩn và Vơ Văn Kiệt xuống ngang với Phan Xuân Huy và Đoàn Kế Tường, hay để thăng hoa loại tầm thường lên ngang vai với tổng bí thư đảng Cộng Sản, tác giả Huy Đức cũng đă đầu tư quá nhiều, nhiều đến phải lấp liếm các tội ác của đảng Cộng sản trong việc thảm sát dân thường ở Huế hồi Tết Mậu Thân 1968, trên Đại lộ Kinh Hoàng hồi tháng 5/1972 và trên Liên Tỉnh Lộ 7B hồi trung tuần tháng 3/1975. Chẳng ai cấm một đảng viên Cộng sản dành ra 20 năm trường kỳ mai phục và khổ luyện, nay nhận lệnh xuống núi viết sách để tuyên truyền cho chế độ, phong thánh bên thắng cuộc, và phỉ báng những người thua cuộc. Đáng tiếc, sứ mạng của nhà văn đă không trọn vẹn yêu cầu của đảng và nhà nước. Nếu khéo kết hợp chiêu thức khổ nhục kế và tinh vi hơn trong chiến thuật ngụy trang, không chừng Huy Đức đă thành công, để độc giả khó phát hiện được tham vọng của tác giả qua tác phẩm Bên Thắng Cuộc: vừa lừa dối người đọc, vừa tự lừa dối ḿnh. Một nửa khúc bánh ḿ vẫn là bánh ḿ, nhưng một nửa sự thực không c̣n là sự thực. Lần nầy, đảng và chính phủ Việt Nam đă tính sai một nước cờ, khi hạ lệnh cho Huy Đức khai hỏa một trận Điện Biên Phủ mới, bằng bộ sách được tiền hô hậu ủng ồn ào, nhưng rốt cục chỉ làm người đọc thấy ḿnh bị lừa phỉnh.

    NgyThanh

    Tác giả gởi trực tiếp cho VRNs.

    Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.
    http://chuacuuthenews.wordpress.com/...en-thang-cuoc/

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Đọc 'Bên Thắng Cuộc' của Huy Đức


    Nguyễn Mạnh Trinh

    08.01.2013
    Từ khi cuốn Bên Thắng Cuộc của tác giả Huy Đức được phát hành đến nay, đă có nhiều ư kiến cả trong nước lẫn hải ngoại. Có người khen, có người chê, nhưng phần đông đều coi như là một cuốn sách đặt ra nhiều vấn đề mà người Việt Nam cần quan tâm.

    Trong bài mở đầu, Huy Đức viết: “Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30/04/1975 - ngày nhiều người tin là Miền Bắc đă giải phóng iền Nam. Nhiều người thận trọng nh́n lại suốt hơn ba mươi năm, giật ḿnh với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là Miền Bắc. Hăy để cho các nhà kinh tế, chính trị học và xă hội học nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng lịch sử này. Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ kể lại những ǵ đă xảy ra ở Sài G̣n, ở Việt Nam sau ngày 30 tháng Tư: cải tạo, đánh tư sản, đổi tiền… cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975 và về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.

    Tư liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm. Trong ṿng ba năm từ tháng 8/2009 đến tháng 8/2012 tôi đă dành toàn bộ thời gian của ḿnh để viết…”

    Theo như Huy Đức viết, ông chỉ là người kể chuyện, tŕnh bày những sự kiện lịch sử Việt Nam trong “Bên Thắng Cuộc”. Thế mà, ở trang b́a, không biết “cách đọc” và “cách hiểu” ra sao mà lại có người viết: “Cuốn sách phân tích t́nh h́nh Việt Nam từ năm 1975 - của một nhà báo sinh ra và lớn lên trong chế độ Cộng sản - một cách chuyên nghiệp và công bằng hiếm có. Nó là một kho tàng dữ liệu quư báu có thể làm ngạc nhiên cả những chuyên viên theo dơi chính trị Việt Nam trong nhiều thập niên qua.”

    Những điều mà tác giả Huy Đức đề cập đến hầu hết đều là những vấn đề mà chế độ trong nước gọi là “nhạy cảm” và đôi khi c̣n bị cấm đoán nữa. Trong khi phần lớn những vấn đề ấy lại thường xuyên được đề cập ở hải ngoại và là những điều không mới lạ lắm. Một điều dễ nhận thấy là trong phong cách nghĩ và viết của Huy Đức vẫn c̣n chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng địch-ta thời chiến tranh. Mặc dù tác giả có cố công để nêu lên và vạch trần sự thực nhưng những dữ kiện ấy vẫn được chọn lọc trong một giới hạn được cho phép. V́ khai thác những tài liệu, chứng cớ từ báo chí sách vở trong nước nên tác giả không thoát ra được những ngôn từ hay ư nghĩ đă ăn sâu vào tâm thức của những người sống trong chế độ Cộng sản. Lúc th́ gọi là ngụy quân, ngụy quyền, lúc th́ gọi là Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, lúc th́ gọi là địch quân, lúc th́ quân Nam Việt Nam, lúc th́ quân đội Sài G̣n, chứng tỏ ảnh hưởng của chế độ Cộng sản vẫn c̣n hằn dấu trong tác phẩm. Từ đó thấy sự chắp vá không nhất quán trong tác phẩm.

    Huy Đức đă viết về những ngày đầu tháng 5/1975 ở Sài G̣n như sau: Cuộc cướp chính quyền sớm nhất ở Sài G̣n được nói đến đă diễn ra vào lúc 7 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975 tại Phường Trần Quang Khải, Quận 1. Chi bộ đảng bí mật ở đây đă cho vây bót Tân Định, tước vơ khí của những cảnh sát viên vào giờ ấy chỉ mong sớm được về với gia đ́nh. Ngay sau khi Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố bàn giao chính quyền ở Quận 11 cờ cũng được cắm trong dinh quận trưởng. Tiến tŕnh “cướp chính quyền” và xây dựng chính quyền thường được bắt đầu như trường hợp ở Phường Cây Bàng… “Khi tiếng súng của quân giải phóng bắn tới tấp vào các căn cứ quân sự của địch, nhân dân Phường Cây Bàng đồng ḷng nổi dậy phá kềm, truy quét kẻ địch, giành quyền làm chủ về tay ḿnh và tràn ra đường đón quân giải phóng. Khi các chiến sĩ ta tiến vào, đồng bào mừng reo hoan hô nhiệt liệt. Ngay sau khi dẹp xong giặc ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tự quản được thành lập. Các tổ chức nhân dân cách mạng cũng được khẩn trương xây dựng. Đến nay, 2 tháng 5, Phường Cây Bàng đă thành lập xong Tổ An ninh, Hội Mẹ Giải phóng, Tổ Thông tin Tuyên truyền, Tổ Y tế và Ủy ban Tự quản. Đang xúc tiến thành lập Tổ Cứu đói và Pḥng chống Hỏa hoạn…”

    Những người ở Sài G̣n thời điểm đó có ai hay biết ǵ về tiến tŕnh cướp chính quyền không? Sự thật ở đâu qua những câu viết như thế? Có phải v́ ảnh hưởng của những bài học cướp chính quyền c̣n sót lại? Lấy những bài báo viết theo mục đích tuyên truyền nhất thời th́ chẳng phải là một công việc kiếm t́m sự thực lịch sử mà c̣n tạo thành những bức màn che giấu sự thực. Cũng như trường hợp trích đoạn bài viết trên báo Tuổi Trẻ của dân biểu VNCH - một nhân vật thiên tả - Phan Xuân Huy, về Thiếu tá Lê Quang Liễn, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 7 TQLC Quân lực VNCH dù biết là vu cáo để tuyên truyền cho đến khi bị phanh phui th́ xin lỗi nhưng chống chế một cách thật khôi hài là viết như thế để chứng tỏ rằng trong giai đoạn ấy cũng có những bài báo không trung thực. Sao trong lúc trích dẫn ở trong sách không có nhận xét ấy mà đến khi bị than phiền khiếu nại mới cải chính xin lỗi?

    Đề cập đến những lănh tụ Cộng sản, đặc biệt là Lê Duẩn và Vơ Văn Kiệt, tác giả phác họa ra một chân dung đời thường, với một vài chi tiết về đời sống gia đ́nh, đời sống thường nhật để cố t́nh tạo ra một con người với cả những nét xấu cũng như những điểm tốt nhưng tuyệt nhiên không nhận định phê phán. Có những sự kiện được đưa ra với dụng ư để tŕnh bày cái được gọi là “sự thực” dưới một nhăn quan khác. Ví dụ như đoạn văn sau đây: “Giữa trưa ngày 7/1/1979 khi nghe con rể là Giáo sư Hồ Ngọc Đại đánh thức báo tin ‘Quân ta đă vào Phnom Penh’, ông Lê Duẩn chỉ ‘ừ’ rồi ngủ tiếp. Ông Hồ Ngọc Đại nói ‘tôi rất ngạc nhiên. Khi nhận được điện thoại từ Cục Tác chiến tôi cũng không ngờ chuyện long trời lở đất như thế mà ông vẫn ngủ. Đưa đại quân đến thủ đô một quốc gia khác tưởng nhẹ như một giấc ngủ trưa của một đấng quân vương nhưng phải mười năm sau Quân đội Việt Nam mới rút được chân ra khỏi đó’” Cũng là một sự kiện nhưng hiểu theo nhiều cách. Lê Duẩn không thấy sự kiện ấy quan trọng bởi v́ sự kiện mà con rể vào báo đă mất thời gian tính bởi v́ ông con rể này không trực tiếp ở Bộ Tổng Tham mưu quân đội nên không thể là tin mới nhất. Thành phố Nam Vang đă bị Khmer Đỏ bỏ trống th́ việc chiếm đóng là dĩ nhiên thôi. Nhưng Huy Đức đă dùng thủ thuật để tạo ra một phác họa khác hơn về chân dung Lê Duẩn. Chả thế mà trong Teq's Blog của cùng “phe ta” với Huy Đức đă có người khen:

    “Theo tôi cuốn sách này có một điểm xuất sắc lớn và một điểm mới mẻ lớn: Mới mẻ ở chỗ cuốn sách đem đến những chân dung cụ thể về các vị lănh đạo. Các vị lănh đạo được nhắc tới trong sách được kể một cách sống động, rất con người thường nhật. Chẳng hạn như (bác) Lê Duẩn trước nay tôi vẫn chỉ nghe phê phán về những sai lầm những năm cầm quyền cuối đời. Th́ ở trong sách này, (bác) Duẫn hiện lên một cách sáng sủa có những tư duy vĩ đại (trong bối cảnh đó, như cách mà ‘bác’ nghĩ là cần b́nh thường hóa quan hệ với Mỹ ngay sau chiến thắng năm 1975) bên cạnh những sai lầm vĩ đại (cũng trong thời điểm đó)”. Điểm mới mẻ này làm tôi nghĩ dường như cuốn sách được viết để thanh minh cho các vị lănh đạo, và hơn nữa, cho chế độ. Bên cạnh những phê phán (không mới, đài địch nói ra rả) th́ có những ngợi ca (có vẻ như) kín đáo mà (thực sự là) du dương. Chắc là ngu ngốc mà lại cố tỏ ra nguy hiểm, tôi thấy đây là một cuốn có tác dụng tuyên truyền.

    Không biết lời khen này về Bên Thắng Cuộc và Huy Đức có đúng không?[NMT]

    voa

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    NHẬN XÉT VỀ “BÊN THẮNG CUỘC”



    Bác sĩ Nguyễn Văn Bảo

    Hồi kư là chân tay của sử kư. Viết hồi kư (hoặc sử kư) th́ cần viết cho đúng, không cần viết cho hay. Có sao viết vậy. Không tô điểm. Không bôi nhọ. Không thêm bớt. Nếu yêu một nhân vật nào trong hồi kư (cùng phe đảng, cùng tôn giáo, cùng chính thể) rồi tô điểm họ thành đáng yêu, đáng kính th́ tác phẩm dù hay bao nhiêu cũng vô gía trị. Ngược lại, nếu ghét nhân vật nào (thuộc phe đảng đối lập, tôn giáo đối lập, chính thể đối lập) rồi bôi nhọ, vu khống họ, th́ tác phẩm cũng vô gía trị. Lời văn trong hồi kư cũng phải minh bạch, trang nhă, tránh biểu lộ cảm t́nh cá nhân.



    Những yếu tố ghi trong hồi kư phải là những sự kiện đă xảy ra y hệt như thế, chứ không phải đă xảy ra giống như thế hoặc na ná như thế . Yếu tố nào không được ḿnh mục kích hoặc chưa được ḿnh phối kiểm th́ phải mở một dấu ngoặc để nói xuất xứ của nó; mức độ đáng tin cậy của xuất xứ cũng phải được ghi rơ. Một hồi kư mà không xác thực th́ chỉ là một phóng tác; dẫu hay tới mức siêu việt cũng chỉ có gía trị văn chương chứ không có gía trị lịch sử (tỷ dụ bộ Tam Quốc Chí). V́ vậy cho nên hầu hết những cuốn hồi kư của người Cộng Sản đă không được thếgiới tự do hoan nghênh.

    Con C̣ có một phát biểu:Một sử gia không yêu nước, yêu ṇi, yêu đảng, yêu bản thân bằng yêu sự thật. Sự thật, dù bất lợi cho quốc gia dân tộc hoặc nguy hại cho bản thân, cũng cần được phô bày nguyên vẹn. Chép sử thếgiới mà thiên vị (favor) quốc gia ḿnh th́ chỉ là viết một bản văn tuyên truyền. Chép sử quốc nội mà thiên vị đảng ḿnh th́ sựtuyên truyền thêm lố bịch. Nếu đảng mà ḿnh thiên vị là đảng độc nhất của chính quyền độc tài th́ tác phẩm của ḿnh chỉ là một bản thú tội đồng lơa. Nếu bị uy hiếp mà viết sai sự thật th́ cuốn sử của ḿnh cũng bất thành sử.

    Cuốn Bên Thắng Cuộc chỉlà một sử kư nửa vời v́ tác gỉa, tuy không bôi nhọ phe tự do, nhưng đă khéo léo che đạy cho phe Cộng sản. Ông bào chữa cho tội ác “Cải Cách Ruộng Đất” rằng họ Hồ bất đắc dĩ phải làm như vậy dưới áp lực nặng nề của Stalin và Mao Trạch Đông, rồi sau đó chuộc lỗi bằng cách giải nhiệm Trường Chinh, gán cho y cái lỗi đi qúa trớn. Ông công nhận Trường Chinh và Lê Duẩn đă phạm nhiều “sai lầm” rồi sau này (lúc cả nước sắp chết đói ) chịu hối cải, đi theo đường lối sửa sai của Vơ Văn Kiệt. Ông lẫn sai lầm với tội ác. Phạm sai lầm th́ có

    thể sửa sai để được tha thứ. Phạm tội ác th́ phải đền tội. Có lẽ ông muốn lịch sử giảm cho Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh và hàng ngàn đảng viên trung ương và địa phương cái tội chửi bố mẹ, tiêu diệt giai cấp trung lưu, cầm tù hàng trăm ngàn người vô tội và làm suy sụp kinh tế quốc gia….. Những kẻ phạm tội tày trời như vậy mà không bịtrừng trị, xác c̣n được ướp để phụng thờ, tên c̣n được dùng để đặt tên cho thành phố, đường phố! Huy Đức chưa một lần nêu rơ được điểm đó trong tác phẩm của ông.

    Trong gần ngàn trang giấy, ông chưa một lần dùng từ tội ác cho những lănh tụ Việt cộng. Tuy sử gia không có nhiệm vụ phê phán nhưng từ tội áclà danh xưng của những hành động nhưvậy chứ không phải là phê phán. Nói cách khác, người nào làm những hành động ấy tức là người gây ra tội ác, bất kể đă làm lợi ích ǵ cho quốc gia. Giải thích loanh quanh với ư đồ muốn cho tội ác ấy lu mờ đi tức là gián tiếp che đạy (cover-up) cho phạm nhân. Lối hành văn của ông làm cho độc gỉa nghĩ rằng đó là sai lầm chứ không phải tội ác,

    Tịch thu nhà cửa, ruộng vườn, vàng bạc của dân và đổi tiền của dân một cách phi pháp để sau này làm giầu cho đảng viên là những hành động cướp bóc. Ông cũng chưa một lần dùng danh xưng cướp bóc cho những hành động ấy. Lối hành văn của ông làm cho độc gỉa nghĩ rằng đó là sai lầm chứ không phải cướp bóc.

    Những việc như “ Cải Cách Ruộng Đất” và “Cải Tạo” th́ hiển nhiên là tội ác, không cần bàn căi thêm lời nào. C̣n một số việc khác, nếu muốn biết chúng là tội ác hay sai lầm th́ chỉ cẩn một chút síu vô tư là phân biệt được. Thí dụ: Cổvơ cho hàng chục vạn dân lên vùng Kinh Tế Mới mà không tiên liệu khó khăn đểhọ thất bại th́ có thể coi là một sai lầm; nhưng cưỡng bách dân lên đó để họ khốn khổ th́ là một tội ác. Huy Đức đă không làm nổi bật sự khác biệt giữa tội ác và sai lầm trong hầu hết những thê thảm mà Việt Cộng đă gây cho dân Việt trong qúa nữa thế kỷ vừa qua.

    Tóm lại, tuy có biệt tài hành văn, Huy Đức đă không thể giấu nổi nét bao che (cover-up) trong tác phẩm của ông.

    Tuy nhiên, Huy Đức cũng ghi chép được rất nhiều sự kiện mà trong nửa thế kỷ nay chưa có một đảng viên VC nào dám đả động tới (mục Đánh Tư Sản, Đổi Tiền, Cải Tạo, Kinh Tế Mới..). Những sự kiện này mặc nhiên khẳng định (confirm) nhiều dữ kiện đă được phe tự do đề cập tới trước đây.

    Có một chi tiết độc đáo trong Bên Thắng Cuộc: Lê Đức Thọ, chỉ là cố vấn cho chính phủ cộng sản Campuchia tại Nam Vang (vừa được Hà Nội lập lên sau khi lật đổ Pol Pot), mà đểchủ tịch nước này, khi cần tham khảo, phải tới pḥng khách tại tư dinh ḿnh, ngồi chờ ḿnh kỳ cọ trong pḥng tắm. Tư cách cố hữu của Thọ đă biện minh cho hành động này. Kissinger, trong một cuộc phỏng vấn trên TV Hoa Kỳ, đă mô tả Thọ là một người bướng bỉnh, tàn nhẫn và kiêu căng. Một Kissinger (cũng tàn nhẫn và kiêu căng nhưThọ) mà tả Thọ như vậy th́ ta không ngạc nhiên khi thấy Thọ tiếp nguyên thủ quốc gia của nước đồng minh một cách xấc xược, bất chấp nghi thức ngoại giao.

    Có lẽ Huy Đức không muốn phản lại chủ cũ hoặc sợ Đảng trả thù nên chỉ dám chép sựthật một cách nửa vời. Nếu hai lư do đó là đúng th́ chúng là hai nguyên nhân chính đă làm giảm gía trị tác phẩm của ông. Ông từng nói rằng cuốn sách của ông mới chỉ là bản thảo. Nếu sau này ông chịu tu chỉnh cho khách quan hơn th́ người Việt tự do, vốn sẵn ḷng vị tha, sẽ hoan hỷ mua sách tái bản của ông và giúp ông hội nhập vào thế giới tự do để trở thành một sử gia thực sự,khỏi phải vể nước chịu VC trả thù (ông hiện tu nghiệp trong đại học Harvard, tiểu bang MA).

    Tôi công bằng mà ghi nhận rằng ông là cán bộ Cộng Sản đầu tiên đă dành nhiều công lao để ghi chép hàng trăm sự việc có ích lợi cho sử sách sau này và là người mở một lối đi mới cho những kư giả trong nước.

    Với sự dè dặt thường lệ(liên hệ tới mức khách quan yếu ớt của tác phẩm) tôi nghĩ rằng bản hiện thời của“ Bên Thắng Cuộc”, tuy chưa xứng là một sử kư hoặc hồi kư, nhưng cũng đáng cho các sử gia tham khảo hoặc kiểm chứng. Sớm hay muộn, rồi cũng có nhiều nhân chứng lịch sử giúp ông kiện toàn tác phẩm này, nếu ông thực tâm muốn như vậy.

    Bác sĩ Nguyễn văn Bảo

    Tái bút

    Thành thực xin lỗi một số vị đă v́ cảm t́nh mà khen qúa đáng hoặc v́ hận thù mà chê qúađáng tác phẩm Bên Thắng Cuộc. Có vị c̣n chụp mũ những người khen là thân Cộng, hoặc VC nằm vùng. “Chụp mũ” đă có từ trước năm 1975 ở VNCH rồi di tản ra ngoại quốc. Nó không phải là tật cố hữu của người Quốc Gia mà là một tiêm nhiễm tật xấu của CS (người CS gán cho bất cứ ai không đồng ư với họ là phản động).

    TB Online

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    “Bên Thắng Cuộc” dưới cái nh́n của một nhà kinh tế
    Mặc Lâm, biên tập viên RFA
    2013-01-19

    Quyển sách Bên Thắng Cuộc của tác giả Huy Đức có lẽ là tác phẩm được đón đọc nhiều nhất của mọi giới trong cũng như ngoài nước từ trước tới nay. Tuy nhiên Bên Thắng Cuộc cũng là cuốn sách gây tranh căi sôi động nhất trong cộng đồng người đọc sách.

    Nguồn: Sách Bên Thắng Cuộc's facebook

    H́nh trên facebook của Sách Bên Thắng Cuộc.

    Những bài viết khen tặng, phê b́nh cũng như phê phán gay gắt xuất hiện chỉ vài ngày khi cuốn sách ra đời đă làm cho độc giả thêm hứng khởi khi t́m mua nó. Một trong những bài viết có tính cách khách quan của một tác giả hiện sống tại hải ngoại được chúng tôi chọn ra trong chương tŕnh Văn Hóa Nghệ Thuật hôm nay là của Tiến Sĩ Đinh Xuân Quân để bàn thêm về cuốn sách này.

    TS Đinh Xuân Quân là một kinh tế gia về phát triển và tổ chức cơ chế. Ông từng bị tù cải tạo, vượt biển t́m tự do tại Hoa Kỳ để rồi sau đó có dịp về làm việc tại Việt Nam trong chương tŕnh phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) nhằm giúp cải tổ hành chánh và kinh tế từ năm 1994 đến 1997.

    Trước năm 1975 ông làm cho Quỹ Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia và tham gia vào Nhóm kinh tế hậu chiến thuộc Bộ Kế Hoạch của VNCH. Ông là GS Kinh tế tại Đại Học Luật và ĐH Minh Đức. Cho đến nay ông đă làm chuyên gia cố vấn cho trên 20 nước trên thế giới, kể cả gần đây làm cố vấn kinh tế - hành chính cho Phủ TT Iraq và Phó TT tại Afghanistan dưới sự bảo trợ của World Bank, UNDP và USAID.

    Hôm nay TS Đinh Xuân Quân dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn chung quanh cuốn sách Bên Thắng Cuộc, quyển một có tựa là Giải Phóng. Do thời lượng không cho phép, chúng tôi chỉ xin hỏi trong lĩnh vực chuyên môn của ông nhằm t́m hiểu thêm nhận xét của một chuyên gia đă sống trong chính giai đoạn mà cuốn sách nhắc tới.
    Phơi bày sự thực

    000_APP2000041601815-250.jpg
    Ông Lê Duẩn chụp vào ngày 15/5/1975. AFP photo
    Mặc Lâm: Thưa TS ông từng viết rằng “Bên Thắng Cuộc đă mang một ánh sáng mới cho những trang sử cận đại Việt Nam khi tác giả đă cố gắng có cái nh́n cân bằng – trung thực mặc dù thiếu phân tích”. Đây có phải là nét nổi bật nhất của Bên Thắng Cuộc hay không?

    TS Đinh Xuân Quân: Tôi thấy nó có rất nhiều điểm rất quan trọng. Tác giả bày cho ḿnh một bữa cơm có rất nhiều món v́ vậy khi độc giả hay người ăn th́ người ta mới biết ngon hay dở. Đây cũng vậy, tác giả cho ḿnh những dữ kiện, nói dữ kiện lên nhưng không phân tích, tác giả để người đọc tự phân tích lấy, tự đánh giá lấy.

    Hai nữa tôi nghĩ đây là một tài liệu c̣n hơn WikiLeaks nữa, có thể nói là BookiLeaks hay cái ǵ tương tự như vậy.

    Hai nữa tôi nghĩ đây là một tài liệu c̣n hơn WikiLeaks nữa, có thể nói là BookiLeaks hay cái ǵ tương tự như vậy.

    TS Đinh Xuân Quân

    Tất cả dữ kiện, những ǵ đă xảy ra sau 1975 được nó moi ra hết, tôi lấy cho quư vị vài ví dụ. Khi ông Nguyễn Văn Linh nói chuyện với ông Đỗ Mười th́ ông ta nói “sắp mất chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa rồi mà c̣n báo cáo ǵ nữa?”, c̣n ông Lê Duẩn th́ nói “ḿnh làm ǵ th́ làm không thể để mất quyền hạn được”. Do đó nó cho thấy điều ǵ? Trong những năm sau 1975 những người lănh đạo có thể nói là chỉ có Lê Duẩn thôi, và những người trong Bộ Chính Trị họ đă quản lư nước Việt Nam ra sao, họ làm những cái ǵ, và những ǵ quan trọng trong đầu họ? Đó chỉ là giữ quyền, giữ quyền hạn. Tôi chỉ lấy ra một vài chuyện như vậy để thấy rằng cuốn sách này rất quan trọng, nó cho ḿnh thấy ánh sáng mới.

    Ví dụ nữa là ai cũng biết là có đổi tiền nhưng ai quyết định đổi tiền và tỷ lệ là bao nhiêu? Những người nào được hưởng. Ví dụ như lấy tiến lấy vàng của người Việt gốc Hoa th́ ai quyết định cái đó? Đó là cả một chương tŕnh, một chính sách làm nghèo dân miền Nam. Cuốn sách này đem ra những chứng cớ cho ḿnh biết. Cũng như ḿnh ăn phở ḿnh biết mùi vị của món phở đó nhưng ḿnh không biết người ta đứng đàng sau nấu phở. Không biết người ta cho cái ǵ vô trong đó.

    Cuốn sách này nó đưa ra được những sự thực v́ vậy tôi nói nó là một ánh sáng mới, một cái ǵ đó rất mới đối với những ǵ ḿnh đă thấy trong quá khứ.
    Phá nát kinh tế miền Nam

    saigon-before-75-250.jpg
    Một góc Sài G̣n trước năm 75. Photo courtesy of Dân Làm Báo.
    Mặc Lâm: Trong Bên Thắng Cuộc nó nêu lên rất nhiều vấn đề trong đó có những sai lầm trong phần kinh tế. Ông nhận thấy thế nào dưới đôi mắt một kinh tế gia từng làm việc tại Việt Nam trong chương tŕnh phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP)?

    TS Đinh Xuân Quân: Người ta vẫn nói kinh tế miền Nam là phồn vinh giả tạo, nhờ viện trợ của Mỹ, nhưng cuốn sách nó cho ḿnh thấy điều ǵ? Nó cho ḿnh thấy cả một quy tŕnh đi từ chỗ đánh tư sản mại bản, tới đổi tiền, tới đánh gian thương, rồi tập trung tất cả phương tiện sản xuất, bắt người ta vô tập thể hóa… tất cả những chuyện đó là cả một quy tŕnh do Bộ chính trị muốn khoác cái cùm kinh tế tập thể lên miền Nam, do đó phá kinh tế miền Nam. Không những phá kinh tế miền Nam mà phá luôn cả kinh tế miền Bắc v́ vậy mà họ gần như chết đói, chỉ một chút nữa th́ cả Việt Nam đói hết rồi.

    Những người này không hiểu ǵ về kinh tế do đó mang bao nhiêu tai họa cho miền Nam. Không những cho miền Nam mà sau này cả cho miền Bắc luôn.

    TS Đinh Xuân Quân

    Điều này là do quản lư sai lầm. V́ ngu xuẩn và duy ư chí, quá duy ư chí, chỉ nghĩ rằng Xă Hội Chủ Nghĩa mới thành công được c̣n nếu không th́ kinh tế không thành công được.

    Do đó cuốn sách này cho ḿnh thấy những chuyện ấy chứ hồi xưa tới giờ ḿnh có biết là ai đâu. Đâu biết người nào đứng ra làm những chuyện này! Ḿnh chỉ biết có đánh tư sản mại bản là ông Đỗ Mười nhưng mà ai lôi ông Đỗ Mười vô? Ai quyết định điều ấy? Từ cuốn sách này ḿnh thấy rơ ràng quy tŕnh quyết định vận mạng kinh tế của đất nước do vài người làm mà thôi. Những người này không hiểu ǵ về kinh tế do đó mang bao nhiêu tai họa cho miền Nam. Không những cho miền Nam mà sau này cả cho miền Bắc luôn.
    TT Vơ Văn Kiệt xé rào

    VoVanKiet150.jpg
    Cựu Thủ tướng Việt Nam Vơ Văn Kiệt về sống ở Sài G̣n sau khi nghỉ hưu. RFA file photo.
    Mặc Lâm: Theo ông th́ vai tṛ của ông Kiệt thông qua các chương sách có phản ảnh rơ nét quyết tâm mà ông thủ tướng này đă chứng tỏ hay không?

    TS Đinh Xuân Quân: Phải nói rằng ông Vơ Văn Kiệt là một thủ tướng rất thực tiễn. Ông ta cố gắng giải quyết những khó khăn của đất nước, những khó khăn về kinh tế. Trong cuốn sách cho biết chính ông này xé rào. Xé cái cuộn giây Xă Hội Chủ Nghĩa nhờ vậy mà cứu đói được Sài G̣n, cứu đói được miền Nam. V́ những chuyện xé rào này dần dần nó đưa tới chuyện đổi mới cởi mở về kinh tế, và không bắt buộc cả nước Việt Nam dưới nền kinh tế tập trung bao cấp nữa.

    Mô h́nh bao cấp này thất bại hoàn toàn do đó ḿnh thấy con người ông Vơ Văn Kiệt, mà theo tôi hiểu tôi cũng đă gặp những cố vấn của ông ta, th́ ông ta sẵn sàng để thay đổi. Lúc đó do một số chuyện nên không thể thay đổi hết được.

    Nếu ḿnh theo dơi chuyện này th́ biết rằng lúc đó Việt Nam không những muốn đổi mới về kinh tế mà cả về chính trị nữa. V́ có hai phe căi nhau do đó tới bây giờ “kinh tế thị trường theo định hướng Xă Hội Chủ Nghĩa” lúc đó tính bỏ luôn cái đuôi “Xă Hội Chủ Nghĩa” nhưng hai bên vẫn c̣n tranh chấp nhiều nên Việt Nam tới giờ này vẫn phải mang cái đuôi đó. Những hậu quả của vấn đề định hướng xă hội đó vẫn c̣n tới nay và v́ vậy Việt Nam vẫn c̣n thua kém rất nhiểu nước trong vùng Đông Nam Á.
    Không nên có thành kiến

    ben-thang-cuoc-250.jpg
    B́a sách "Bên thắng cuộc" phần I. Photo courtesy of Osinbook.
    Mặc Lâm: Cái tên sách đă gây tranh căi rất nhiều tại hải ngoại, ông là người đang sống giữa cộng đồng người Việt hải ngoại, nhận xét của ông về cái tựa ra sao?

    TS Đinh Xuân Quân: Cái tựa Bên Thắng Cuộc có thể tự hỏi tại sao không phải là Bên Thắng Trận? Theo tôi hiểu th́ tác giả không đánh giá cao một chiến thắng mà bên kia cho là lớn lắm, đó là một. Cái thứ hai ḿnh ở nước Mỹ th́ bao giờ ḿnh cũng có dân chủ và lúc nào cũng có tự do ngôn luận. Tôi nghĩ tự do ngôn luận là một điều rất hay. Những người Việt Nam tỵ nạn có được nó rất tốt nhưng bao giờ cũng vậy, khi có dân chủ tự do th́ nó phải có trách nhiệm.

    Một người nào đó nói là ông tác giả này từ miền Bắc tới như vậy là “cộng con”! Nói như vậy là không có suy nghĩ, có thành kiến trước khi ḿnh muốn đánh giá hay trao đổi. Khi ḿnh ở trong một xứ dân chủ th́ phải đánh giá cuốn sách qua nội dung của nó chứ chưa đọc cuốn sách mà nói là cuốn sách này thân cộng, làm lợi cho cộng sản… trong khi báo Công An Thành phố đang chửi và đánh ông tác giả này th́ tôi nghĩ đây là một chuyện không hay.

    Bao giờ cũng vậy, dân chủ phải đi song song với trách nhiệm. Thành ra muốn chỉ trích hay muốn khen th́ phải dựa trên những chứng cớ rơ ràng. V́ vậy chúng ta phải thoát khỏi cái cùm, khi nghe tới cộng sản th́ thấy sợ rồi.

    Nhiều người hiện nay cũng đă về Việt Nam lấy vợ rồi cộng sản hết hay sao? Đối với tôi bao giờ cũng vậy tự do phải đi song song với trách nhiệm và khi ḿnh muốn khen hay chê, chỉ trích ǵ th́ phải dựa trên nội dung mà ḿnh làm.

    Mặc Lâm: TS vừa nhắc tới bài báo trên tờ Công An Thành Phố HCM làm tôi chú ư đến cách mà các tác giả trong bài báo này đổ lên đầu Huy Đức khi cho là ngang với những người chống cộng như Dương Thu Hương, như Trần Khải Thanh Thủy hay Bùi Tín, Vũ Thư Hiên. Ông có thấy đây là dấu hiệu cho biết rằng nếu Huy Đức trở về Việt Nam sẽ nhận những hậu quả nghiêm trọng hay không thưa ông?

    TS Đinh Xuân Quân: Tôi tin hoàn toàn chuyện đó. Tôi muốn chia sẻ với quư vị là khi làm cho Liên Hiệp Quốc, khi ai đó viết một điều ǵ mà bị cộng sản đánh, th́ thông thường những người làm cho LHQ không những bị đánh mà c̣n bị đuổi ra khỏi nước th́ thường thường họ được lên chức!

    Trong trường hợp của tác giả (Huy Đức) ở đây tôi rất lo cho tính mạng của ông ta. Tại v́ không phải chỉ có bị bắt bớ mà quư vị đọc cuốn sách quư vị thấy biết bao nhiêu ông tướng c̣n bị accident phải thiệt mạng? Có rất nhiều cách để ám hại như ám sát, giết hay bắt tù… trong cuốn sách này nó nói rất nhiều về chuyện đó, thành ra tôi thấy chả lẽ những người chưa đọc cuốn sách lại tiếp tay cho báo Công An hay sao?

    Khi ḿnh làm điều ǵ th́ phải vượt qua được định kiến. Sự thật sẽ giải thoát cho quư vị. Khi muốn biết sự thật th́ quư vị hăy đọc. Đọc xong rồi mới đánh giá được. Cuốn sách này đa số dành cho những người sống ở Việt Nam, bị kềm kẹp không biết được những tin tức, và đây là lần đầu tiên họ thấy những chuyện ǵ đă thật sự xảy ra đối với đất nước h́nh chữ S này. Qua cuốn sách này ḿnh mới thấy được tác giả khá can đảm.

    Mặc Lâm: Xin cám ơn TS Đinh Xuân Quân.

    Phần trên là cuộc nói chuyện giữa Mặc Lâm và TS Qinh Xuân Quân vê phần I của bên Thắng Cuộc. Cho tới nay theo chúng tôi biết Bên Thắng Cuộc quyển 2 mang tên Quyền Bính đă ra mắt bản điện tử trong khi cuốn một đă có bán sách in. Khi Quyền Bính tới tay chúng tôi, nó sẽ được xem xét và gửi tới quư vị những thông tin chung quanh nó qua các bài viết của những người đọc có uy tín, mong quư vị đón theo dơi.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 38
    Last Post: 13-12-2012, 02:43 PM
  2. Replies: 1
    Last Post: 08-05-2012, 08:52 PM
  3. F-35 thua Su-35 trong môi trường giả lập
    By NguờiPhu_KhuânVác in forum Tin Việt Nam
    Replies: 60
    Last Post: 10-10-2011, 12:15 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 07-11-2010, 03:00 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •