Page 1 of 3 123 LastLast
Results 1 to 10 of 30

Thread: PHẠM DUY: ĐẠI NHẠC SỈ !?

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    PHẠM DUY: ĐẠI NHẠC SỈ !?

    PHẠM DUY: ĐẠI NHẠC SỈ !?
    Nhạc sĩ Phạm Duy sẵn sàng cho sự ra đi!



    (NLĐO) – Vị khách mời của Cà phê với sao tuần này là nhạc sĩ Phạm Duy. Đă 92 tuổi nhưng người nghệ sĩ tài hoa của làng nhạc Việt vẫn cần mẫn làm việc, góp hương cho đời. Ông chia sẻ về những công việc đang làm, những hoài băo khi tuổi già…
    Nhạc sĩ Phạm Duy nói rằng nhiều khi nghĩ lại ḿnh thấy ḿnh cũng may, sướng hơn khối ông đấy chứ. Chắc ǵ những ông Hoàng Cầm, Văn Cao, Trịnh Công Sơn,… c̣n sống ở cái tuổi này mà đă sướng nhỉ.

    Phóng viên: Thêm 14 ca khúc nữa của Phạm Duy được cấp phép phổ biến trên thị trường. Ngày càng nhiều ca khúc của ông được cấp phép, ông thấy vui chứ?

    -Nhạc sĩ Phạm Duy: Tôi thấy cũng b́nh thường thôi. 10 năm chẵn, tính từ ngày tôi về Việt Nam sinh sống mà được phép phổ biến 100 ca khúc, thế cũng vui lắm rồi. Có ông bạn tôi nói vui: “Ông có 1000 bài hát, vậy tính ra đến năm 2102, số ca khúc của ông mới được phổ biến hết”. Lúc ấy tôi cũng chết rồi, đâu c̣n điều kiện để nghe lại trọn vẹn các tác phẩm của ḿnh. Kể ra cũng tiếc thật!

    * Trong số 14 ca khúc được phép phổ biến lần này có tác phẩm Mùa thu chết (thơ Apollinaire; dịch lời Việt: Bùi Giáng), một thời bị nhiều ư kiến quy kết là nói đến mùa thu cách mạng nay được Nhà nước cho phép phổ biến ông có thấy ḿnh như được giải oan?

    - Tôi chẳng nghĩ ǵ cả, ai từng hiểu sai là quyền của họ, tôi cũng không cần phải giải thích ǵ v́ điều đó cả.

    Tôi vẫn hăng say làm việc

    *Như vậy, thời gian này ông chỉ ngồi đợi những ca khúc của ḿnh được phổ biến thôi sao?

    - Không. Đó là những ca khúc đă cũ rồi. Và bạn bè chúng tôi nói chuyện với nhau cũng để vui thế thôi. Tôi vẫn làm việc đấy chứ! Tôi đă hoàn thành trọn vẹn Truyện Kiều, 10 bài Hương ca và 10 bài hát phổ thơ Bích Khê. Tính ra th́ mấy bài hát mới của tôi cũng đă phổ biến rồi. Thôi thế cũng xong.

    Phạm Duy trong đêm "Phạm Duy - Người phiêu lăng". Nguồn ảnh: Ngọc Trần (Tin Mới)

    *Ông c̣n nghĩ đến việc làm một đêm diễn cho riêng ḿnh trong thời gian tới nhân có thêm những bài hát cũ đựơc phổ biến và cả những bài hát mới đă hoàn thành?

    - Nghĩ lại, tôi thấy ḿnh là người may mắn đấy chứ! Tôi cũng có nhiều đêm diễn của riêng ḿnh rồi. Nhưng, tôi cũng là một người tham. Được một tôi lại muốn có hai, và nhiều hơn nữa. Nếu bây giờ tôi làm một đêm diễn cho riêng ḿnh, chắc phải tốn cả tỷ đồng nhỉ. Tôi có phải tỉ phú đâu mà làm được điều ấy. Tôi cũng thường đề nghị Công ty Phương Nam (đơn vị độc quyền các ca khúc của Phạm Duy- PV) làm thêm những đêm diễn cho ḿnh nhưng có vẻ khó. Cuộc sống hiện đang khó khăn lắm. Thế cũng được rồi. May ra, khi tôi chết đi, t́nh h́nh sẽ khá hơn. Nhiều người lại thích làm những đêm nhạc cho tôi nữa chứ chẳng chơi.

    *Ở tuổi 92, ông vẫn hăng say làm việc. Có sự thay đổi nào trong tư duy, cách nh́n của ông về sáng tác, cuộc đời không?

    - Tôi tự thấy ḿnh tiến bộ hơn trong sáng tác. Trước đây, tôi được tiếng lăng mạn trong ca khúc th́ bây giờ tôi c̣n lăng mạn gấp nhiều lần. Tôi già đi th́ cảm xúc luôn đạt điểm cực, buồn th́ cũng buồn hơn trăm lần nhưng vui cũng vui hơn vạn lần. Nếu xem đây là sự thay đổi th́ có lẽ đó là thay đổi của tôi ở cái tuổi này. C̣n mọi thứ vẫn b́nh thường. Tôi vẫn viết về những thứ mà tôi cho là hay nhất, đúng nhất.

    *Có lẽ ông may mắn thật v́ ở tuổi này nhiều người c̣n không nhớ nổi tên ḿnh trong khi ông vẫn c̣n làm việc được?

    - Chắc vậy thật. Cơ bản th́ tâm hồn tôi lúc nào cũng đầy nhiệt huyết cả, nhất là trong âm nhạc. Tôi chọn sự b́nh dị và cứ sống một cách b́nh dị thế thôi. Ai yêu nhạc của tôi họ cứ hát và nếu không thích th́ chịu vậy. Ở tuổi này, tôi cũng có một ít tiền để tự lo cho cuộc sống của ḿnh.

    Nhạc sĩ vẫn hăng say làm việc. Nguồn ảnh: Ngọc Trần (Tin Mới)

    Tôi chẳng phải làm việc để kiếm tiền, chẳng để t́m danh. Về gia đ́nh, con cái cháu chắt đều trưởng thành và có thành tựu. Nhiều khi nghĩ lại ḿnh thấy ḿnh cũng may, sướng hơn khối ông đấy chứ. Chắc ǵ những ông Hoàng Cầm, Văn Cao, Trịnh Công Sơn,… c̣n sống ở cái tuổi này mà đă sướng nhỉ.

    Sống ở quê hương làm tim tôi an nhàn

    *Nếu nói về một sở thích, đam mê ở thời điểm này, ông sẽ thích ǵ nhỉ?

    - Tôi chẳng c̣n thích ǵ nữa đâu. Bây giờ, thời gian của tôi để dành để chống đỡ với bệnh tật thôi. Tuổi già khổ lắm. Nếu bất chợt tôi thấy hứng thú việc ǵ th́ làm nấy thôi chứ vui thích ǵ nữa bây giờ.

    *Sao lại khổ khi ông bảo ông đă có mọi thứ rồi kia mà?

    Phạm Duy sinh ngày 5 - 10 – 1921, tên thật Phạm Duy Cẩn là một nhạc sĩ, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc của Việt Nam. Ông được coi là một trong những cây đại thụ của nền Tân nhạc Việt Nam với số lượng sáng tác đồ sộ và đa dạng về thể loại, trong đó có những bài đă trở nên rất quen thuộc với người Việt. Ngoài sáng tác, Phạm Duy c̣n có nhiều công tŕnh khảo cứu về âm nhạc Việt Nam có giá trị. Ông cũng từng giữ chức giáo sư nhạc ngữ tại trường Quốc gia Âm nhạc Sài G̣n. Năm 2005, ông về Việt Nam định cư và một số ca khúc của ông mới bắt đầu được cho phép phổ biến.


    - Tuổi trẻ th́ làm sao mà biết được cái khổ của người già. Tôi ăn ǵ cũng phải nghĩ. Một ngày phải có người đến mát-xa tay chân mới thấy đỡ mệt. Một đêm chỉ ngủ được 3 tiếng, c̣n lại mắt cứ trơ ra đấy. Khổ lắm chứ!

    *Cái khổ của thể xác có làm cho trái tim của một nhạc sĩ tài hoa mệt theo không?

    - Có chứ. Cách đây 10 năm, tôi có thể đáp ứng được những yêu cầu của thời đại. Một sự kiện xă hội, tôi có thể ngồi hàn huyên sôi nổi. Nhưng giờ th́ thôi rồi, tôi già quá rồi. Tôi biết thân biết phận rồi. Cứ lấy một ví dụ thế này, trái tim một nghệ sĩ dễ rung cảm lắm. Nếu cách đây 20 năm, một người đẹp đi ngang sẽ làm tôi xao xuyến ngay và có thể tôi c̣n theo cô ấy nữa ấy chứ. Nhưng giờ già rồi, tôi quay lưng, chạy trốn với cả người đẹp.

    *Cũng buồn nhỉ nếu mọi điều diễn ra theo chiều hướng mà bản thân không c̣n kiểm soát được nữa, ông có thấy thế không?

    - Nhiều người hỏi “Tôi về Việt Nam làm ǵ khi tôi đă già?”. Tôi bảo, tôi làm thinh thôi. Tôi già nên cần một nơi b́nh yên, nơi làm cho trái tim tôi an nhàn nhất. 5 năm trở lại đây, tôi ở hẳn Việt Nam rồi. Sự an nhiên là điều tôi cảm nhận được từ nơi này. Hơn hết, tôi đă mơ ước được về lại quê hương và giờ ước mơ thành sự thật. Tôi thấy vui! Thế là quá đủ cho một đời người rồi. Con người dù có xuất phát điểm khác nhau, trở thành những người khác nhau nhưng khi về già, họ sẽ có chung một mơ ước giống nhau là trở về với một cuộc sống b́nh dị nhất, cuộc đời an nhiên nhất. Tôi có đựơc điều ấy rồi, vui!
    *Ông luôn bảo đă xong rồi là ư chỉ về điều này?

    - Tôi hạnh phúc và vui. Nếu “nổ” một tí th́ gọi là viên măn cho nó óach. Nhưng viên măn khó lắm, cuộc đời ai được trọn vẹn và tṛn đầy. Chỉ là ḿnh chấp nhận cuộc sống với những quy luật của riêng nó thôi. Thế th́ ḿnh sẽ vui.

    Phạm Duy nhận hoa từ ca sĩ Ư Lan. Nguồn ảnh: Thiện Hùng (Pháp Luật TPHCM)

    *Tức là ông vẫn c̣n điều chưa được vẹn toàn?

    - Ở tuổi này, người ta sống cùng con cháu th́ sẽ vui hơn nhiều. Nhưng tôi đang sống một ḿnh cũng cô đơn và cô độc lắm. Ai mà chả sợ cái cô đơn hay cô độc. Nhưng nhiều khi tôi lại gật gù, cô độc cũng hay. Nghĩ thế tôi lại thấy thích cuộc sống cô độc của riêng ḿnh.

    Chuẩn bị trước cho sự ra đi
    *Có khi nào ông cố gắng thay đổi một điều ǵ đó hay làm một cái ǵ đó mà ông chưa hài ḷng trước đây không?

    - Không. Bất cứ niềm vui, nỗi buồn nào tôi cũng thấy ổn cả. V́ chính những điều ấy tạo nên cuộc sống của ông Phạm Duy bây giờ đấy thôi. Việc duy nhất mà tôi phải làm và đang làm lúc này là chuẩn bị sẵn sàng cho sự ra đi của ḿnh thôi. Tôi phải chuẩn bị trứơc v́ biết đâu mai tôi đi rồi th́ sao. Ai biết được giờ khắc ra đi của ḿnh bằng chính ḿnh, nhất là khi tôi đă già thế này rồi.

    Phạm Duy và con rể Tuấn Ngọc trong đêm nhạc "Cỏ hồng". Nguồn ảnh: Ngọc Trần (VNExpress)

    *Sao phải chuẩn bị khi ông đă cảm nhận được sự an nhiên?

    - À không. Tôi chỉ muốn chủ động hơn cho quăng thời gian c̣n lại của ḿnh thôi. Tôi phải sắp xếp để dặn ḍ con cái ḿnh biết làm ǵ chứ. Tôi muốn ḿnh đựơc chôn cất ở đâu đó và con tôi đưa mẹ chúng về bên cạnh tôi. Chỉ thế thôi.

    Mong đây là cuộc phỏng vấn cuối đời

    *Sống một cuộc sống nổi tiếng, điều đó có bao giờ làm ông thấy phiền?

    - Phiền chứ nhưng chẳng lẽ tôi nói ra điều ấy, người ta mắng tôi chết. Phiền v́ sự tự do của tôi chẳng c̣n. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, cũng nhờ nổi tiếng mà mọi người biết và yêu mến tôi. Nhưng, nói thật, tôi mong đây là cuộc phỏng vấn cuối cùng của cuộc đời tôi. Tôi không thích ai đó nhắc đến ḿnh nữa. Ngay cả khi chết đi, tôi cũng mong con cái ḿnh chôn cất hay đốt xác tôi một cách lặng lẽ, âm thầm thôi. Cứ phô trương lên chẳng để làm ǵ. Cuộc sống c̣n nhiều thứ phải lo phải làm lắm, cứ quan tâm đến một người như tôi để làm ǵ nhỉ. Chỉ phô trương phản cảm thôi.

    *Ông nổi tiếng với những bản t́nh ca, đến giờ có khi nào ông nghĩ về những bản t́nh thật của đời ḿnh?

    - Không, tôi quên hết rồi. Thời gian trôi đi th́ những thứ khác cũng phải phai mờ đi. 92 tuổi mà c̣n nhắc đến những cuộc t́nh thưở đôi mươi th́ có khác nào cả dở hơi. Tôi chẳng dở hơi thế đâu! Bây giờ, tôi chỉ nghĩ mỗi ngày ḿnh phải uống 10 viên thuốc để cơ thể chống đỡ được ngày nào hay ngày ấy thôi. Thế cũng đủ với tôi rồi.

    Cục Nghệ thuật Biểu diễn vừa có quyết định số 151/QĐ-NTBD và 166/QĐ-NTBD cho phép phổ biến thêm 14 ca khúc của nhạc sĩ Phạm Duy trong số 40 bài theo đề nghị của Công ty Phương Nam phim (đơn vị đại diện khai thác nhạc Phạm Duy tại VN).

    Trong số các ca khúc được cấp phép lần này chỉ có Nắng chiều rực rỡ (1988) được Phạm Duy viết cả nhạc và lời, 7 bài được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc từ thơ Bích Khê: Hoàng hoa, Tôi chết rồi tiếng nói như châu, Một cơi trời, Huế đa t́nh, Thi vị, Sầu lăng tử, Mơ tiên. Các ca khúc c̣n lại đều được nhạc sĩ phổ nhạc từ thơ của các tác giả khác, trong đó nhiều bài được ông sáng tác khi c̣n ở Sài G̣n vào thập niên 1960-1970 như: Thú đau thương (thơ: Lưu Trọng Lư), Con quỳ lạy Chúa trên trời(thơ: Nhất Tuấn), Mùa thu chết(thơ: Apollinaire; dịch lời Việt: Bùi Giáng), Huyền thoại một vùng biển(thơ: Thái Phương Thư), Hăy yêu chàng (thơ :Nguyễn Tất Nhiên) và nhạc phẩm duy nhất được sáng tác ở hải ngoại năm 1985 là Màu thời gian(thơ: Đoàn Phú Tứ).

    Giám đốc Phương Nam phim - ông Lê Lam Viên cho biết sẽ sớm tiến hành việc thu âm các ca khúc này cho album tiếp theo của nhạc sĩ Phạm Duy, cũng như tổ chức những chương tŕnh giới thiệu ca khúc vừa được cấp phép của ông với công chúng.

    Thùy Trang (thực hiện)

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Phạm Duy: NHỮNG ĐIỀU XẢY RA TRƯỚC KHI DUY QUANG RA ĐỜI




    - Người t́nh cuối của tôi (nhạc sĩ Phạm Duy) trước khi tôi lấy Thái Hằng là cô Xuân Huơng, bởi vậy mới có bài bài hát : … khoan khoan ḥ ơi, thuyền về tới bến mê rồi… thật ra là : Xuân Huơng nàng ơi, thuyền về tới bến mê rồi…

    Nàng Xuân Huơng không thể so b́ với Thái Hằng được, tôi sẽ cho quư bạn đọc biết tôi phải tốn bao công sức mới làm xiêu ḷng Thái Hằng, nhưng tôi phải cám ơn Xuân Huơng v́ nhờ nàng mà tôi đă không hăm hở theo đuổi tán cô Thái Hằng như các anh Văn Cao v.v…



    Nếu tôi cũng hùa theo các anh kia th́ tôi cũng bị người đẹp cho ra ŕa, v́ tôi không thể so sánh với anh Văn Cao, huynh trưởng của tôi. Văn Cao cho tôi biết : sở dĩ Thái Hằng không chỊu lấy ai cả v́ nàng đang ôm 1 mối t́nh với 1 người đă hy sinh v́ dân tộc, anh ta đă bỊ quân Nhật bắn chết ngay khi anh dẫn đầu 1 nhóm chiến sĩ xung phong tấn công 1 đồn bót kem-pei-tai (dữ dằn như Guestapo của Hitler).

    Tôi biết điều bí mật này, nên tôi sáng tác lời của vài bản nhạc Âu Tây Cổ, serenata v.v. trong đó tôi viết những câu như : “chiều nay hát cho xanh câu yêu đời, cho người thôi hết thuơng đau, cho t́nh yêu đên bên tôi” (ư’ tôi muốn Thái Hằng ngưng thuong đau v́ su hy sinh của anh kia) Thái Hằng đă chỊu hát những ca khúc đó, và dần dần nàng cảm phục tôi, v́ thời điểm đó tôi được người ta biết đến như 1 ca sĩ, chứ không phải 1 nhạc sĩ như thời nay.

    Khi t́nh đă lên ngôi, tôi lại nhận được công tác đi cùng với 1 đoàn chiến sĩ vào miền Trung. Điều này càng làm cho mối t́nh của hai đứa tôi thêm lăng mạn v́ yêu nhau rồi, mà phải sống trong mong nhớ xa nhau.

    Thế là các bài nhạc sau đây được ra đời : Quê Nghèo với lời ca nguyên thủy : bao giờ anh lấy được đồn Tây hỡi anh, để cho cô con gái không buồn v́ lính Tây (ngày nào các cô cũng bị lính Tây hăm hiếp)

    Sau khi tôi về với Bảo Đại, th́ bài nay được sửa là : bao giờ cho lúa về đầy sân hỡi ai, để cho cô con gái không buồn v́ gió Đông.

    Sau đó là bài : Bà Mẹ Gio Linh có câu : mẹ mưng con giết nhiều Tây ra công tưới vun cày cấy…. Đặc biệt bài : Về Miên Trung có 1 đoạn vui lắm : về đây với lúa với nàng, thay bao nỗi khổ tiếng đàn tôi mừng reo…

    Vâng, đám cưới cỦa chúng tôi rất vui, nhưng chỉ có thể đăi mỗi vỊ khách 1 bát phở v́ quán phở Thăng Long của ông bố vợ tôi hồi này vắng khách rồi. Pḥng hoa trúc của chúng tôi chính là cái quán phở, và cái giường hạnh phúc chính là các cái ghế dài cho khách kê lại sát nhau rồi trải chiếu lên. Mà nào chúng tôi có được ở đó lâu. tôi được mời lên vùng Việt Bắc mà họp đại hội các văn nghệ sĩ nghe bác Tố Hữu tuyên bố đường lối chính trỊ phải theo, khi sáng tác văn thơ và nhạc.

    Thái Hằng đ̣i đi theo, tôi phải chiều người vợ mới toanh này, nhưng đi bộ được 1/2 quăng đường từ Thanh Hóa đến Việt Bắc th́ nàng bỊ tắt kinh, ghé trạm y tế th́ được biết nàng có thai.

    Tôi mừng lắm hẹn với nàng rằng : nếu nó là con trai th́ sẽ đặt tên nó là thằng Quảng (ai dè cô thư kư ghi vào khai sinh lại thiếu dấu hỏi) thế là cái tên Phạm Duy Quang theo nó suớt đời.

    Có lẽ các bài như Quê Nghèo , Bà Mẹ Gio Linh, Về Miền Trung được nhiều ông to nghe và yêu thích, nên tôi được HCM gọi vào văn pḥng (chỉ là 1 cái nhà tranh vách đất) cho biết tôi đă được Đảng cho đi du học về nhạc tận Mát Kơ Va. Tôi không dám từ chối ngay, mà ra ngoài nói với Tố Hữu : nhà tôi đang ốm nghén con đầu ḷng, tôi lo lắm, nên xin hoăn sau khi con tôi đầy tháng.

    Khi về đến Thanh Hóa, th́ Đảng không phân cho tôi 1 công tác nào nữa, do đó không có tiền lương… chúng tôi phải chia làm 2 nhóm :

    - Nhà tôi (Thái Hằng), Thái Thanh, và bà mẹ vợ đi về Hanoi trước ngày 1 tháng 5

    - Tôi, Phạm Đ́nh Chương và ông bố vợ tôi đi vào ngày 1-5 là ngày người CS lăng xăng lo tổ chức mừng Lễ Lao Động thế giới

    Tôi gặp lại vợ tại Hanoi (tại nhà 1 người họ hàng), nhưng CS dằn mặt tôi bằng cách cho một anh đang làm gián điệp nội thành đến gặp tôi và khen tôi biết điều, nên đă không tiết lộ bí mẬt quân sự nào cho Pháp. Duy Quang ra đời 1950, ai cũng mừng v́ mẹ tṛn con vuông.

    Sau đó tôi đem tất cả gia đ́nh vào Saigon v́ trong Nam người ta chịu chơi hơn ngoài Bắc, lại có đài phát thanh Pháp Á cho các cô ca sĩ Thái Thanh, Thái Hằng trổ tài…(Đỗ Hưng viết theo trí nhớ của PD)

    tb oNLINE

  3. #3
    Diêt VC
    Khách
    Những loại bài như thế này chỉ làm bẩn mắt đọc giả.:mad:

    Copy & Paste xem ra không dể,v́ nó đ̣i hỏi người làm việc này có đầu óc tỉnh táo,để tránh thấy rác tưởng là vàng mà đi ngậm về xả diễn đàn.

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Phạm Duy “c̣n đó… muôn đời”



    Nhạc sĩ Phạm Duy với Hộ khẩu & Chứng minh nhân dân


    Ông Phạm Duy sắp đi xa. Một bài viết của người đàng hoàng.

    Trần Mạnh Hảo - Phạm Duy c̣n đó nỗi buồn

    Văn hóa - nghệ thuật

    Trần Mạnh Hảo
    Viết báo, viết văn, làm thơ, viết phê b́nh văn học
    Tác giả gửi đến Dân Luận

    Phạm Duy “c̣n đó…muôn đời”
    “Thơ hay có thể bị...

    ... vua bắt
    Trăng nhé ngh́n đêm bạc tiếng gà”
    (Trích bài thơ “LƯ BẠCH” của Trần Mạnh Hảo)
    Chúng tôi (TMH) xin mượn tên cuốn sách: “Phạm Duy” c̣n đó nỗi buồn” của họa sĩ, nhà văn Tạ Tỵ làm tiêu đề cho bài viết về nhạc sĩ Phạm Duy của ḿnh.

    Phạm Duy - (từng là ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng nhất của nền tân nhạc Việt Nam, từng là giáo sư dạy trường Quốc gia âm nhạc Sài G̣n, một nhà nghiên cứu âm nhạc xuất sắc, một nhà văn, nhà báo có phong cách riêng khi viết báo, viết hồi kư) - kể từ bài hát đầu tiên phổ thơ Nguyễn Bính, bài “Cô hái mơ” viết năm 1942 đến nay, đă có hàng mấy trăm bài hát (có người c̣n cho ông đă viết đến con số trên dưới 1000 bài?) làm xúc động ḷng người Việt Nam suốt hơn 70 năm nay. Phạm Duy không chỉ là một hiện tượng âm nhạc vắt qua hai thế kỷ; hơn nữa, ông c̣n là một hiện tượng xă hội, một hiện tượng văn hóa, một hiện tượng lịch sử, cần phải có nhiều nhà Phạm Duy học mai sau nghiên cứu về ông.
    Thuở nhỏ, thời kháng chiến chống Pháp, kẻ viết bài này từng nghe bà mẹ ḿnh - một người hát thánh ca trong ban Ca vịnh nhà thờ - từng dùng nhạc Phạm Duy ru con. Những lời ca, giai điệu Phạm Duy đă thấm vào hồn tôi từ thơ bé qua tiếng hát ru của mẹ như bài “Nương chiều”:
    “Chiều ơi, lúc chiều về rợp bóng nương khoai, trâu ḅ về giục mơ xa xôi, ơi chiều…Chiều ơi, áo chàm về quảy lúa trên vai, in h́nh vào sườn núi chơi với, ới chiều…”
    Bài “Nhạc tuổi xanh”:
    …“Rừng ta ta cứ đi, nhà ta ta cứ xây, ruộng ta ta cứ cày…Diệt xong quân Pháp kia cười vang ta hát câu tự do…”
    Thỉnh thoảng, khi buồn vui, mẹ tôi lại khe khẽ hát mấy bài Phạm Duy viết trong kháng chiến chống Pháp, ví như : “Cây đàn bỏ quên”, “Khối t́nh Trương Chi”, “Bên cầu biên giới”, “Tiếng đàn tôi”, “ Mười hai lời ru”…
    Những bài hát của Phạm Duy, của Văn Cao (trước 1945) của mẹ tôi được chép trên giấy học tṛ; có khi là những bản chép nguyên cả khuôn nhạc in bột trên giấy bản nhầu nát; có khi, bố tôi (một người hát nhạc nhà thờ trong ban Ca vịnh biết chơi đàn và biết xướng âm bản nhạc) phải dùng hộp bao diêm làm dụng cụ kẻ nhạc, đặng chép lại bản nhạc cho rơ ràng giúp mẹ tôi…
    Cải cách ruộng đất, gia đ́nh tôi bị quy lên địa chủ, các bản nhạc chép tay kia của Phạm Duy, Văn Cao… đều bị mất. Nhưng mẹ tôi thi thoảng buồn, lại ngồi một ḿnh khe khẽ hát nhạc Phạm Duy, Văn Cao, Đỗ Nhuận... Những bản nhạc tuyệt vời của Phạm Duy, Văn Cao, Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Yên, Văn Chung, Doăn Mẫn, Canh Thân, Đoàn Chuẩn, Việt Lang, Hoàng Qúy, Tô Vũ, Hoàng Giác…bị quy là nhạc vàng, nhạc phản động, đồi trụy, bị cấm.
    Tôi thường sang nhà người bà con hàng xóm, cùng với ông em họ (lớn tuổi hơn tôi) tên là chú Bá, ghé tai vào cái radio hiệu Siêng Mao nghe đài Sài G̣n phát nhạc vàng thời tiền chiến, mặt lấm la lấm lét như hai tên ăn trộm…Một hôm chú Bá vừa đi đường vừa nghêu ngao bài “Nhớ Chiến khu” của Đỗ Nhuận (thực ra bài này chính là bài nhạc cách mạng, nhưng âm giai buồn buồn da diết giọng nhạc vàng của “Suối mơ”, “Bến Xuân”…) nên Bá bị công an xă bắt, quy lên hát nhạc vàng của bọn Mỹ Diệm phát ra từ cái radio phản động…Chiếc radio Siêng Mao của Bá bị công an xă tịch thu…
    Từ đó, suốt tuổi thơ, tôi không c̣n được nghe những giai điệu tiền chiến bất hủ kia nữa. Cho măi tới sau này, khi ở trong rừng miền Nam, trở thành một nhà báo và mua được cái radio bé tí, tôi lại tiếp tục được nghe (lén) nhạc Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Phạm Đ́nh Chương, Cung Tiến…dưới hầm hào bom đạn…
    Ngày 30/4/1975, từ rừng Lộc Ninh về Sài G̣n, chưa kịp hoàn hồn, tôi đă bị Sài G̣n đánh chiếm bằng văn hóa, bằng văn học, bằng sách vở, âm nhạc. Phạm Duy và Trịnh Công Sơn đă tái chiếm tâm hồn tôi; và h́nh như tôi, đă tự nguyện quy hàng thứ âm nhạc, thứ văn học, văn hóa mà chế độ mới đang kết án, cho là văn hóa phản động, đồi trụy. Các loại sách dịch gần như vô tận của Sài G̣n c̣n sót lại sau đại họa đốt sách của chế độ mới đă xâm lược đầu óc tôi, giải phóng tôi thoát khỏi ngục tù của dốt nát, của u mê, của cuồng tín ngớ ngẩn một thời, “bắt” tôi vào trường tự nguyện “học tập cải tạo” đến giờ chưa chịu thả ra…
    May mắn thay, đầu tháng 5/1975, anh Trịnh Công Sơn đă cho tôi và Trần Nhật Thu mượn cái máy nghe nhạc cũ kỹ mà anh không c̣n dùng tới. Suốt mấy tháng trời, các kiệt tác âm nhạc của bên thua trận như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, các bài hát tuyệt vời của Phạm Đ́nh Chương, Cung Tiến, Văn Phụng, Hoàng Trọng, Phạm Thế Mỹ, Tuấn Khanh, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Trần Thiện Thanh, Y Vân, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Lê Uyên Phương, Trần Trịnh, Phạm Mạnh Cương, Trường Sa, Anh Bằng, Khánh Băng, Nguyễn Ánh 9, Nguyễn Trung Cang, Lê Trọng Nguyễn, Hoàng Nguyên, Văn Giảng, Đan Thọ, Vũ Đức Sao Biển, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Đức Quang…qua tiếng hát của các danh ca : Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Hà Thanh, Thanh Lan, Duy Trác, Sĩ Phú, Anh Khoa, Elvis Phương… đă bắt sống tâm hồn tôi làm tù binh, cùng với thơ Nguyên Sa, thơ Nhă Ca, văn Vơ Phiến, Mai Thảo, Phan Nhật Nam, B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam…nhốt thế giới tinh thần tôi vào trang sách, vào khuôn nhạc khóa sol năm ḍng kẻ của họ và “lưu đày” tâm hồn tôi lại măi với những bài ca đích thực con người…
    Tôi yêu các nhạc sĩ có một bài hát bất hủ để đời, ví như: “Xuân và tuổi trẻ” (La Hối phổ thơ Thế Lữ), “Cô láng giềng” của Hoàng Qúy, “Em đến thăm anh một chiều mưa” của Tô Vũ, “Biệt ly” của Doăn Mẫn, “Giáo đường im bóng” của Nguyễn Thiện Tơ, “Hướng về Hà Nội” của Hoàng Dương, “Nắng chiều” của Lê Trọng Nguyễn, “Ai lên xứ hoa đào” của Hoàng Nguyên, “Trăng mờ bên suối” của Lê Mộng Hoàng, “Chiều tím” của Đan Thọ, “Ai về sông Tương” của Văn Giảng, “Thu ca” của Phạm Mạnh Cương, “Sang ngang” của Đỗ Lễ, “Thương nhau ngày mưa” của Nguyễn Trung Cang, “Thu hát cho người” của Vũ Đức Sao Biển, “Tôi đưa em sang sông” của Nhật Ngân và Y Vũ…
    Huống hồ, với thiên tài Phạm Duy đă có hàng mấy chục bài hát bất hủ để đời, trong đó có đến vài chục bài thuộc hàng kiệt tác, th́ tôi càng kính phục ông hơn, yêu mến ông biết là chừng nào. Chính v́ vậy, ngay từ khi chưa biết chữ, nghe mẹ tôi hát nhạc Phạm Duy, đôi tai tôi đă bị ông này lấy mất, để rồi ông thả tâm hồn tôi suốt hơn sáu mươi năm nay lang thang cùng nỗi “khóc cười theo vận nước nổi trôi” của Phạm tiên sinh.
    Chúng tôi xin phép kể ra các ca khúc tuyệt vời và rất hay của nhạc sĩ Phạm Duy mà cá nhân tôi yêu thích, đă góp phần làm thay đổi cuộc đời tôi:
    “Nương chiều”, “T́nh ca”, "Nhạc tuổi xanh", “Bên cầu biên giới”, “Ngậm ngùi”, “Áo anh sứt chỉ đường tà”, Ngày trở về, Mùa thu chết, Thuyền viễn xứ, Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Bà mẹ quê, Cây đàn bỏ quên, Ngh́n trùng xa cách, Việt nam Việt nam, Bên ni bên nớ, C̣n chút ǵ để nhớ, Nha trang ngày về, Đưa em t́m động hoa vàng, Kỷ niệm, Ngày xưa Hoàng thị, Giọt mưa trên lá, T́nh hoài hương, Tiếng đàn tôi, Đố ai, Tiếng sáo thiên thai, Nụ tầm xuân, Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà, Cành hoa trắng, Cô gái Bắc kỳ nho nhỏ, Thương t́nh ca, Thà như giọt mưa, Cỏ hồng, Người về, Đường em đi, Chuyện t́nh buồn, Nhớ người thương binh, Con đường t́nh ta đi, Ông trăng xuống chơi, Chiến sĩ vô danh, Tuổi ngọc, Phượng yêu, C̣n ǵ nữa đâu, Thương ai nhớ ai, Gọi em là đóa hoa sầu, Em đi lễ chùa này, Ngày đó chúng ḿnh, T́m nhau, Kiếp nào có yêu nhau, Yêu là chết ở trong ḷng, Khối t́nh Trương Chi, Tóc mai sợi vắn sợi dài, Nước mắt mùa thu, Chiều về trên sông, Tôi đang mơ giấc mộng dài, Hẹn ḥ, Nước mắt rơi, Kỷ vật cho em, Tiễn em, Trả lại em yêu, Chủ nhật buồn, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Ta yêu em lầm lỡ, Giết người trong mộng, Bao giờ biết tương tư, Em hiền như Masoeur, Đừng nh́n nhau nữa em ơi, Nước non ngàn dặm ra đi, Ai đi trên dặm đường trường, Gió đưa cành trúc la đà, Con đường cái quan ….
    Những kiệt tác ca, tuyệt t́nh ca trên gồm đủ thể loại ca nhạc như cách mạng ca, sơn hà ca, quê hương ca, t́nh ái ca, tâm tư ca, trường ca, rong ca, đạo ca, thiền ca, tâm ca, tâm phẫn ca, tục ca, vỉa hè ca, thiên địa ca, vô thường ca, hư vô ca, nhật nguyệt ca, vũ trụ ca, sầu mộng ca, hoan lạc ca, Phật ca, Chúa ca, quỷ ca, Càn khôn ca, Ta bà ca, Lăo Trang ca, Thần tiên ca, sinh diệt ca, liêu trai ca, mộ địa ca, hú hồn ca, yêu tinh ca, du mục ca, tang bồng ca, ma xó ca, ngật ngưỡng ca, túy lúy ca, siêu h́nh ca, vô ngôn ca…
    Phạm Duy c̣n có đóng góp lớn là món NGOẠI CA, tức công việc chuyển ngữ cho các kiệt tác âm nhạc nước ngoài vào thị hiếu âm nhạc Việt Nam mà khi hát lên, nhiều người vẫn cho là ca khúc Phạm Duy…
    Những tuyệt tác ngoại quốc được Phạm Duy chuyển ngữ và chỉnh sửa, phỏng lời, hoặc nắn lại nốt nhạc cho hợp tai người Việt Nam gồm : Ave Maria, Mối t́nh xa xưa, Ḍng sông xanh, Khúc hát thanh xuân, Chiều tà, Dạ khúc, Trở về mái nhà xưa, Mơ màng, Ánh đèn màu, Vũ nữ thân gầy, T́nh vui, Chuyện t́nh, Em đẹp nhất đêm nay, Cánh buồm xa xưa, Giàn thiên lư đă xa, Vai áo màu xanh, Hận t́nh trong mưa, Nắng thu, Bài ca ngợi t́nh yêu, Emmanuelle, Himalaya, Hờn ghen, Khi xưa ta bé, Không cần nói anh yêu, Khúc hát thanh xuân, Lại gần hôn em, Nắng xuân, Ngày tân hôn, Người yêu nếu ra đi, Biết ra sao ngày sau, T́nh yêu ôi t́nh yêu, Vĩnh biệt người t́nh, Vĩnh biệt t́nh ta….
    Thật không thể nào tin được, một ông Phạm Duy bằng xương bằng thịt lại có thể viết được ngần ấy bài tuyệt t́nh ca hay đến thế, mê hoặc hồn người Việt Nam đến thế. Có cảm giác chỉ một ḿnh Phạm Duy đă là cả một thời đại tân nhạc Việt Nam. Có cảm giác trong người ông Phạm Duy c̣n giấu ẩn cả trăm ngh́n người khác; hoặc trong thân xác ông c̣n giấu cả trăm ngh́n bộ óc khác, trăm ngh́n trái tim khác; trong hồn ông c̣n giấu trăm ngh́n hồn khác; trong đôi tai ông c̣n giấu trăm ngh́n đôi tai khác. Cho nên ông mới đủ sức làm ra một gia tài âm nhạc vô cùng đồ sộ, với một chất lượng không thể nào tưởng tượng ra được, rằng đây là sản phẩm của chỉ một con người?
    Khi nghe tin nhạc sĩ Phạm Duy bước vào tuổi 93 đang lâm trọng bệnh, tôi ngồi trong nhà, một ḿnh tha thẩn ngoài sân nghe lại một cách hệ thống mấy chục album nhạc Phạm Duy trên Internet suốt cả nửa tháng trời mà lấy làm vô cùng thán phục ông. H́nh như ông Phạm Duy chính là ḷ sản xuất ma xó vào loại lớn nhất thế giới? Trong mỗi bài hát, chừng như Phạm Duy đều gài vào năm ḍng kẻ nhạc khóa sol của ông một con ma xó, hầu hớp hồn người nghe?
    Tôi đồ rằng tâm hồn ông Phạm Duy có chứa một cái dạ dày (tất nhiên là dạ dày tinh thần) to bằng cả bầu trời? Quái kiệt giời sai xuống trần gian có tên là Phạm Duy có cái dạ dày tâm hồn biết tiêu hóa muôn muôn sự vật, từ sự vật thể chất đến sự vật tinh thần, rồi biến chúng thành giai điệu, thành lời ca. Không có cái ǵ chúng ta nh́n thấy, cảm thấy, mơ thấy, sờ thấy, ngửi thấy, nghe thấy, mơ thấy mà không có trong âm nhạc Phạm Duy. Từ góc sân nhà nơi ta lẫm chẫm tập đi, tập nh́n, tập nghe, tập khóc, tập cười, tập bú mớm, tập ăn, tập uống, tập làm người, thảy thảy đều có trong âm nhạc Phạm Duy.
    Con sâu cái kiến, con giun, con dế, con chuồn chuồn, con chim, con cá, con kênh, con sông, con bê, con nghé, con mèo, con chó, con lợn , con gà, con voi, con vịt, con đom đóm, con người…đều hốt nhiên t́m đến năm ḍng kẻ nhạc, năm đại lộ Phạm Duy mà leo, mà ḅ, đi lại, chạy, chảy, bay, bơi trong âm nhạc Phạm Duy…Cái cây, cái cối, cái chày, cái thằng con nít, cái nồi, cái niêu, cái chum, cái vại, cái nhà, cái xe, cái mâm, cái chết, cái sống, cái hư vô, cái thực tại, cái vô thường, cái hữu hạn, cái vô vi, cái sinh diệt, cái ác, cái thiện, cái tốt, cái xấu, cái sai, cái đúng, cái đẹp, cái thoáng chốc, cái muôn đời, cái đểu, cái chân, cái mê, cái tỉnh, cái giả, cái buồn, cái vui, cái bất tử, cái siêu h́nh, cái yoni (cái l…) cái Linga (cái c…), cái vợ, cái con, cái váy, cái khăn, cái nón, cái mồm, cái tay, cái chân, cái tóc, cái lông, cái dại, cái khôn, cái mùi, cái mát, cái tai, cái âm dương, cái phồn thực, cái mất, cái c̣n…đều được cái dạ dày âm nhạc khủng long của Phạm Duy tiêu hóa mà biến thành muôn vàn âm giai, muôn vàn làn điệu, muôn vàn lời ca ma ám, ám lấy hồn người?
    Phạm Duy, ông có phải là thượng đế của âm giai, phù thủy của khóa sol, ma xó của bảy thanh âm: đồ rê mi pha sol la xi, thần linh của tiết tấu, quỷ sứ của nhịp điệu, con ma của ngôn từ…hay không mà hàng trăm bản nhạc của ông không hề bị hội chứng đều đều, lặp lại (monotone) trêu chọc, phá đám?
    Phạm Duy, có phải ngay từ trong bụng mẹ, máu Sông Hồng đă ngấm vào máu ông, hồn cốt Thăng Long trong ca dao, dân ca, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Trăi, thơ thiền Lư Trần cùng với heo may Hồ Gươm, mưa phùn Hồ Tây, gió bấc Kinh Bắc, hương cốm mùa thu chim ngói Mễ Tŕ, thoang thoảng hương hoa các làng hoa Ngọc hà, Nghi tàm, Nhật tân, Quảng bá ngát hơi xuân…đă làm nên máu thịt hồn ông? Nên đất ấy, hồ ấy, thu ấy, khí thiêng ấy, chim ấy, thơ văn ấy, gió bấc ấy, hương hoa ấy, làn điệu chèo ấy, quan họ ấy… đă mượn hồn ông mà hát lên cơi u u đất trời, hát lên nỗi ḷng con người buồn vui khóc cười xứ Bắc?
    Từ tấm bé, qua gia đ́nh, cha mẹ, qua khí trời bàng bạc thu Hà thành, qua sách vở nhà trường, qua nỗi mơ hồ thiên địa, Phạm Duy đă tắm ḿnh trong tâm hồn dân tộc. Từ năm 1947, ông đă có một định hướng nghệ thuật hết sức đúng đắn : để cả cuộc đời nghiên cứu dân ca, ca dao, tiếp thu tinh hoa âm nhạc dân tộc, phát triển và nâng cao chúng để kết hợp với nhạc Tây phương vừa du nhập vào nước ta qua nhạc nhà thờ, qua các bản giao hưởng cổ điển trong đĩa nhạc, các ca khúc Pháp, Ư… tân thời hát trong tiệm nhảy, quán café được thanh niên trí thức Hà thành học đ̣i bắt chước…
    Có thể nói, Phạm Duy là nhạc sĩ đầu tiên đă nghiên cứu âm nhạc dân tộc một cách hệ thống, rốt ráo, đă học tập, tiếp thu tinh hoa cha ông trong nhạc ngũ cung, nâng cao lên để kết hợp với trào lưu “âm nhạc cải cách” (musicque renovée) thời 1938-1945 mà thành phong cách phi phong cách (một phong cách đa phong cách không dừng lại ở một air nhạc nào) có tên là phong cách Phạm Duy, khiến người nghe nhạc ông không hề cảm thấy sự nhàm chán …
    Phạm Duy, ông không phải là tháp Bayon bốn mặt của đền đài Angkor Thom, Angkor Wat xứ Chùa Tháp. Nhưng ông chính là tháp Bayon muôn mặt của ḍng tân nhạc Việt Nam suốt 70 năm qua. Gương mặt tâm hồn ông, gương mặt âm nhạc ông quả là muôn mặt: mặt dịu hiền, mặt thiết tha êm đềm êm ái, mặt tinh khiết, mặt tươi như mặt thiếu phụ đêm xuân yêu chồng, mặt cau có đau khổ như mặt gă trai thất t́nh, mặt quằn quại, mặt ṿ xé tang thương, mặt mê ly khoái lạc, mặt dúm dó nhàu nát, mặt thất thần, mặt điêu linh, mặt lênh đênh phiêu bạt, mặt thất sắc vô hồn, mặt hoen rỉ tối tăm, mặt hư vô hư ảnh, mặt nết đa đoan trang, mặt đĩ thơa, mặt giập nát, mặt sáng bừng như trăng, mặt hoa da phấn, mặt ngây ngô, mặt tiếu lâm, mặt hồng diện đa dâm thủy, mặt nạ người, mặt yêu tinh, mặt nạ ḍng vớ được giai tơ, mặt hoài nghi khôn xiết, mặt thăm thẳm vực sâu, mặt buồn đêm ngơ ngác…Tất cả muôn mặt đó họp chợ lại thành gương mặt Phạm Duy - một ḿnh làm cả một nền âm nhạc…He he he he…
    Đi tận cùng tâm hồn dân tộc, Phạm Duy đă gặp tinh hoa thế giới và trở thành hiện đại bằng sự sáng tạo mang chất thiên tài của ḿnh.
    Xin quư bạn đọc nghe vài người khác nói về nhạc sĩ Phạm Duy:
    Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tư: “Trong ‘gia tài’ của Phạm Duy, có những tác phẩm mà qua lăng kính của ḿnh ông đă nói lên những triết lư sâu sắc. Chẳng hạn như ‘Ngh́n trùng xa cách, người đă đi rồi. C̣n ǵ đâu nữa mà khóc với cười’… Công tâm mà nói, trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là một nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để đời và măi măi c̣n trong ḷng người Việt Nam qua nhiều thế hệ”. (Trong bài viết Phạm Duy, người bạn, người anh, người thầy của tôi).
    Nhạc sĩ Lê Uyên Phương: “Như tiếng chuông vọng đến từ hư vô. Như những tia chớp sáng ngời trong đêm tối. Như những tia nắng ấm đầu tiên của một ngày trong mùa Đông giá lạnh. Như những tia nắng chiều rực rỡ của một ngày đầy vui buồn của kiếp sống. Âm nhạc Phạm Duy đă đến trong mỗi cuộc đời Việt Nam như không khí trong bầu khí quyển của ca dao, tục ngữ, của truyện Kiều, của Cung Oán Ngâm Khúc, của Chinh Phụ Ngâm, của ngôn ngữ, của âm thanh, của cảm xúc Việt Nam. Trong đáy ḷng của mỗi người Việt Nam, từ đă từng là một thiếu niên trong thời kháng chiến hay đến hôm nay là một thanh niên ở cuối thế kỷ 20, đều mang một dấu vết nào đó c̣n sót lại của bầu dưỡng khí đă nuôi lớn tâm hồn họ trong gần nửa thế kỷ này” (Trích bài viết Phạm Duy, nắng chiều rực rỡ)
    Thi sĩ Nguyên Sa: ‘Hôm nay, có những người thích Rong Ca, có những người mê Bầy Chim Bỏ Xứ, có những người ngất ngây với Hoàng Cầm Ca, có những tín đồ của Thiền Ca. Có những người yêu Phạm Duy của new age, của nhạc giao hưởng, của mini opera và của thánh ca hơn Phạm Duy của T́nh ca, Phạm Duy của dân ca, Phạm Duy của Kháng chiến ca, Phạm Duy của thơ phổ nhạc. Và ngược lại, có những người, với họ, chỉ có Phạm Duy của T́nh ca mới là Phạm Duy. Chỉ có Phạm Duy Kháng Chiến Ca. Chỉ có Phạm Duy thơ phổ nhạc. Chỉ có Phạm Duy, chỉ có Phạm Duỵ... Nhưng đó, bạn thích Phạm Duy nào, tùy bạn. Cũng vậy thôi, viên kim cương có một ngàn mặt. Khác biệt với tấm gương chỉ có một mặt. Cho nên phải chọn lựa, phải bàn căi, phải bất đồng, phải suối ngàn đầu, sông trăm nhánh chảy về vĩnh viễn một đại dương”.
    ***
    Nhạc sĩ Phạm Duy
    với Hộ khẩu & Chứng minh nhân dân
    Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 5/10/1921 tại Hà Nội trong một gia đ́nh văn nghiệp. Cha là Phạm Duy Tốn thường được xem như nhà văn xă hội đầu tiên của nền Văn học Mới hồi đầu thế kỷ 20. Anh là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng ḥa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine...
    Cuộc đời của ông ngoài việc ca hát, sáng tác nhạc c̣n có giai đoạn thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, học thầy Tô Ngọc Vân, và cùng chung lớp với Bùi Xuân Phái, Vơ Lăng... Năm 1942 ông có sáng tác đầu tay Cô hái mơ. Năm 1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều.
    Bạn muốn biết thêm về tiểu sử nhạc sĩ Phạm Duy, chỉ cần vào trang t́m kiếm http://www.google.com/đánh hai từ Phạm Duy là từ điển mạng (Wikipedia) sẽ cung cấp đủ cho bạn. Cũng như vậy, bạn vào trang t́m kiếm trên, đánh từ khóa: Album nhạc Phạm Duy là có thể nghe được ngót trăm Album nhạc của ông người trời họ Phạm…
    Ngày 14/8/1999 tại nhà riêng, thị trấn Midway City, miền Nam California, danh ca Thái Hằng, hiền thê của nhạc sĩ Phạm Duy đă từ trần, hưởng thọ 72 tuổi (1927-1999), bỏ lại trên trần gian một người chồng tưởng nghiêng trời lệch đất, tưởng như một con khủng long âm nhạc lừng lững trần ai, bỗng giờ đây bị nỗi cô đơn khủng khiếp đến rợn người úp chụp lên đầu như trời sập. Chính từ nỗi cô đơn đến tuyệt vọng v́ sự ra đi của người bạn đời mà ư định “cóc chết ba năm quay đầu về núi”, tức về hẳn Việt Nam sống nơi Phạm Duy h́nh thành. Sau một lần về nước thử xem một ông già từng chống cộng, nay chỉ thích chống gậy (!) coi cộng sản có c̣n thích bắt nhốt ḿnh hay nữa không như hồi năm 1975? Nói dại, nếu hồi ấy ông không lẹ chân di tản, lỡ kẹt lại, Phạm Duy có thể phải ở tù cho tới chết. Năm 2005 Phạm Duy về nước sống thật, quyết định ở luôn quê hương cho đến khi ông xanh gọi về với tổ tiên.
    Lập tức Phạm Duy bị một số báo chí hải ngoại cực đoan (chống cộng bằng chính phương pháp chụp mũ chính trị kiểu cộng sản) ném đá tơi bời hoa lá. Họ dùng tất cả sự tục tằn, thô bỉ, thậm chí dùng cả cứt đái của toàn nhân loại đổ chụp lên đầu một ông già thân cô thế cô, một ḿnh hồi hương về cố quốc để sống nốt những ngày tàn và để chết. Họ gọi ông bằng thằng, bằng mày, bằng chó ghẻ, bằng quân nọ, quân kia. Họ cho ông ăn tất cả món dơ bẩn nhất trần đời. Rằng, làm như tất cả tội lỗi của cộng sản đều do Phạm Duy gây ra. Rằng, làm như Phạm Duy chính là thằng già đă mang tà thuyết về làm hại dân tộc, đất nước vậy …
    Phạm Duy vốn là một tay chơi, một bố già đanh đá có hạng, một người nếu cần cũng mồm loa mép giải như ai, cũng anh chị Cầu Muối như ai, cũng có thể chơi cả đ̣n đầu đường xó chợ dao búa (dao búa kiểu chữ nghĩa, dao búa tượng trưng) xem có chết ai nào, có mà c̣n khuya mới bắt nạt được bố nhá! Phạm Duy một ḿnh lủi thủi, túc tắc “bút chiến” với cái đám vong thân chính trị ô hợp, một trăm ông chống cộng đều chống nhau kia bằng chiến trường Internet. Trong cuộc chiến muôn chống lại một này, chữ nghĩa trên màn h́nh vi tính của hai bên đều a-la-sô xung phong ồ ạt, để lại từng đống xác chữ chết như ngả rạ trên chiến trường ảo điện báo.

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Phạm Duy “c̣n đó… muôn đời”
    P2




    Phạm Duy dùng chiếc que bông phèng cà rỡn chọc vào tổ ong ṿ vẽ hải ngoại: này các con giời kia, các con đă mấy chục năm nghe nhạc chùa của bố không phải trả tiền, nay c̣n tính ăn thịt bố chỉ c̣n xương bọc da nữa hay sao? Rằng, bố làm nhạc khi toàn ngồi trên bệ xí nhà vệ sinh đấy, nhạc của bố đôi khi cũng bốc mùi tí ti, sao các con chỉ cảm thấy thơm điếc mũi thế hả? (Chuyện này th́ thiên tài Alb. Einstein đă từng tuyên bố: tôi nghĩ ra thuyết tương đối khi ngồi trong toilet đấy!). Thế là đám kẻ thù của “thằng già lơ láo về hàng cộng sản” liền nhảy dựng lên kêu gọi, rằng ai có tro dùng tro, ai có trấu dùng trấu, ai có phân dùng phân, phen này quyết ném vào mặt thằng “dê già”, thằng “loạn luân” “ăn chè Nhà Bè” năm xưa toàn bộ tinh thần căm thù không đội trời chung của người quốc gia chân chính ha ha ha …
    Họ thi nhau bịa chuyện bôi nhọ Phạm Duy, bới móc đời tư của ông rồi chửi rủa bằng những từ ngữ bẩn thỉu nhất, hè nhau quy chụp chính trị một ông già cô đơn muốn về quê cha đất tổ để chết. Riết rồi Phạm Duy cũng mệt, hơi đếch đâu mà căi nhau với đám bùng nhùng ba bứa ấy? Nè, bố mượn phép thắng lợi tinh thần của chú AQ Lỗ Tấn mà tạm phán rằng: các “moa” chửi “toa” cũng như đang chửi bố các “moa” mà thôi…
    Những người đồng hương tị nạn ném đá vào Phạm Duy qua biển Thái B́nh Dương chung quy cũng chả làm cóc ǵ được ông, lại c̣n có khi bị khí chất đanh đá cá cày đáo để chua ngoa của “vũ khí mất gà” nơi ông chơi lại tóe khói chứ chẳng chơi. Nhưng khi những người anh em bên kia giới tuyến nơi cố quốc cũng nhạc sĩ như ai, cũng trí thức trí ngủ như ai thi nhau ném đá vào ông th́ ông đành thở dài, im lặng chịu đau, giả mù, giả câm giả điếc để ngồi nghe nỗi đời nhiễu nhương ra đ̣n thù ghen ghét tài năng.
    Ấy là vào năm 2005, sau khi về nước, Phạm Duy được công ty văn hóa tư nhân Phương Nam mua đứt bản quyền trọn đời âm nhạc, trả cho ông một số tiền thù lao kha khá là một căn nhà khang trang để ở và những đêm ca nhạc rầm rộ. Công ty Phương Nam độc quyền bán vé kinh doanh những đêm nhạc Phạm Duy, lời ăn lỗ chịu, tuyệt nhiên không có sự bù lỗ của nhà nước như khi các ông nhạc sĩ quốc doanh làm đêm nhạc dối già.
    Công chúng náo nức đi nghe nhạc Phạm Duy đông chật các nhà hát, thậm chí không đủ vé bán, có người c̣n phải mua vé lậu, vé chui đắt gấp hai ba lần giá vé chính thức. Phạm Duy bị “vây giữa t́nh yêu” bởi ḷng yêu mến của công chúng nơi cố quận với ông đă bị dồn nén mấy chục năm trời nay chợt bùng vỡ. Ông bị d́m đến có cơ ngạt thở trong những tràng pháo tay nổ rền như dàn sơn pháo đại hợp xướng Tân Tây lan chơi liên tù t́ thời chiến tranh Việt Mỹ.
    Thói đời, ma cũ bắt nạt ma mới, đám nhạc sĩ cây đa cây đề trong Hội nhạc sĩ Việt Nam thấy NGÀY TRỞ VỀ của Phạm Duy được công chúng đón rước rất huy hoàng, hoành tráng, có vẻ giống như dân Pháp xưa đón Nă Phá Luân chiến thắng từ châu Phi trở về… bèn nóng mặt, ghét cay ghét đắng mà hè nhau ném đá vào Phạm Duy, toàn những cục đá vu cáo chính trị to bằng nắm tay, có vẻ muốn khích nhà cầm quyền cấm tiệt nhạc Phạm Duy, hay giam lỏng ông cho nhạc cách mạng của các ông nhạc sĩ bất tài lên ngôi…
    Mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy tại quốc nội, nhạc sĩ kiêm nhà báo Nguyễn Lưu (con trai nhân sĩ Nguyễn Xiển 1907-1997, từng là tổng thư kư đảng xă hội Việt Nam, phó chủ tịch ban thường vụ quốc hội Việt Nam) viết trên báo “Đầu tư” ngày 13-3-2006 bài: “Không thể tung hô” như sau:

    “Tôi muốn nói đến trường hợp của nhạc sĩ Phạm Duy, người mới được xưng tụng sau đêm nhạc "Ngày trở về" (diễn ra tại Nhà hát Ḥa B́nh, TP.HCM). Một người bạn, nhà văn Chu Lai đă tỏ ra tâm đắc với ư tưởng này và cho biết, Tạp chí Thế giới mới số mới nhất có đăng một bài viết, với nội dung gói gọn: "Một người từng bỏ kháng chiến theo thực dân Pháp, khi Pháp rút lại theo Ngô Đ́nh Diệm và khi ngụy quyền sụp đổ lại chạy qua Mỹ. Và tại đó, đă viết hàng loạt bài kêu gọi chống Cộng, với giọng điệu “sặc mùi” hiếu chiến. Nay, thấy Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, lại xin trở về! Hà cớ ǵ phải tung hô, xưng tụng đến như thế!".

    Cũng trên bài báo này, nhạc sĩ Nguyễn Lưu quy chụp chính trị nhạc sĩ Phạm Duy bằng đ̣n vu khống chính trị bịa đặt trắng trợn như sau:
    "Đỉnh cao" sự nghiệp chống Cộng của Phạm Duy là bài Mùa thu chết. Ở đó, tác giả đă công khai tư tưởng chống Cộng của ḿnh. Ông ta đă từ bỏ t́nh yêu với Tổ quốc bằng một bút pháp thật sâu cay, đểu giả và ít ai quên cái mùa thu trong ca khúc ấy chính là Cách mạng mùa thu, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. (Bài báo Không thể tung hô của tác giả Nguyễn Lưu đăng trên Báo Đầu tư ngày 13.3.2006)
    Xin nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu coi lại xuất xứ bài hát này của nhạc sĩ Phạm Duy: “Mùa thu chết” rất nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy là phổ thơ của thi hào Pháp Apollinaire (1880-1918) . Bài thơ của Apollinaire chỉ có 5 câu, mang tựa đề L'Adieu (Vĩnh biệt), nguyên văn:
    J'ai cueilli ce brin de bruyère
    L'automne est morte souviens-t'en
    Nous ne nous verrons plus sur terre
    Odeur du temps brin de bruyère
    Et souviens-toi que je t'attends
    Tạm dịch:
    Ta ngắt một cành thạch thảo
    Em hăy nhớ cho mùa thu đă chết rồi
    Chúng ta không c̣n được nh́n nhau nữa trên đời
    Mùi thời gian đẫm hương thạch thảo
    Em hăy nhớ rằng ta vẫn chờ em
    Căn cứ trên giấy trắng mực đen vừa dẫn trên, Nguyễn Lưu cần phải viết thêm một bài lên án chính tác giả bài thơ là thi hào Apollinaire - người đă mất từ năm 1918 – chính là người đă “chống cộng” v́ dám bảo Mùa thu cách mạng tháng tám 1945 ĐĂ CHẾT, chứ nào phải Phạm Duy…Chưa từng thấy sự xuyên tạc văn bản nào trắng trợn và hèn hạ, dốt nát hơn sự xuyên tạc của ông Nguyễn Lưu với bài thơ phổ nhạc “Mùa thu chết” này…
    Nguyễn Lưu c̣n kéo thêm các nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, nhạc sĩ Tân Huyền vào băng nhóm ném đá Phạm Duy chỉ v́ tṛ ghen tức, đố kị người tài năng hơn ḿnh, khi thấy quần chúng bày tỏ ḷng yêu thích nhạc Phạm Duy một cách cuồng nhiệt trong đêm nhạc “Ngày trở về” như đă nêu trên.
    Ngay sau bài mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy của Hội nhạc sĩ Việt Nam do nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu làm tiên phong, đă đến lượt quân đỏ xuất tướng bằng bài viết “Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói” của Khánh Thi trên tờ “An ninh thế giới” số tháng 4-2009 của Trung tướng công an Hữu Ước. Nhà báo Khánh Thy ghi lại sự phản ứng rất tức giận của ba nhạc sĩ cây đa cây đề trong nước, xin trích vài đoạn sau:

    Nhạc sỹ - NSND Trọng Bằng – nguyên tổng thư kư (tức chủ tịch) Hội nhạc sĩ Việt Nam


    Tôi có đọc trên báo thấy có nhiều lời tâng bốc cũng hơi là lạ, không quen.
    Dư luận chúng ta hơi dễ dăi và nhẹ dạ. Nhưng vấn đề là Phạm Duy phải tỉnh táo. V́ ông hoàn toàn hiểu ông là ai, quá khứ đối với dân tộc của Phạm Duy là một tội lỗi. Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đă tham gia cách mạng, v́ thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có tŕnh độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện, và ông Văn Cao c̣n biết tôn trọng những người nhạc sỹ đàn em đi vào con đường âm nhạc bác học, một người rất khiêm nhường biết ḿnh, biết ta.
    Giả sử có một nhạc sỹ X, Y, Z nào đó hỏi: Khi chúng tôi đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc th́ ông làm ǵ? Chắc chắn rằng nếu là người hiểu biết đều hiểu rơ khi đó ông là tác giả của các bài hát chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại công cuộc giải phóng dân tộc.

    NS Phạm Tuyên


    Bởi lẽ t́m ṭi trong âm nhạc của Phạm Duy cũng chỉ có hạn thôi, trong khi đó t́m ṭi về mặt sáng tạo âm nhạc ở trong nước ta có rất nhiều tài năng, nhiều khả năng.
    Ngay vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng th́ làm thế nào mà so sánh nổi với Văn Cao hay bất cứ một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng. Sự đóng góp của nhạc sỹ Văn Cao rất phong phú, bây giờ được ghi nhận là người có đóng góp lớn cho đất nước và âm nhạc Việt Nam.
    Tôi chỉ có một suy nghĩ nhỏ, chúng ta chúc cho ngày trở về của nhạc sỹ Phạm Duy là một sự trở về của lá rụng về cội. C̣n đánh giá về con người, nhất là đánh giá về tác phẩm th́ phải rất thận trọng, công bằng và đúng bản chất, một phần nào đó phải có giới hạn. Đừng chạy theo thị hiếu, theo cơ chế thị trường mà quá đề cao sự đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, như vậy mới xứng đáng với lịch sử, với những người đă đổ máu xương cho đất nước, cho dân tộc được có ngày hôm nay.

    NS Hồng Đăng


    Nhưng gần đây, báo chí lại rộ lên về những chương tŕnh của Phạm Duy. Tôi cũng nghe rất nhiều người phàn nàn là tác phẩm của Phạm Duy như thế mà báo chí tâng bốc, đề cao đến mức y như là nhân vật số một của âm nhạc Việt Nam hiện nay, và là người nhạc sỹ kỳ tài. Điều ấy là vô lư, như thế không đúng, huống ǵ lại xem như người có công lớn (?!).
    So sánh một cách thẳng thắn, những bài hát của Phạm Duy có một vài bài công chúng thích và không phải bài nào công chúng cũng thích.
    Trong lúc ấy chúng ta có những tên tuổi lừng lẫy từ Đỗ Nhuận, Văn Cao, Lê Yên, Nguyễn Đức Toàn, Huy Du, Hoàng Vân, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, và c̣n rất nhiều người khác đă gắn bó với những ngày gian khổ, thiếu thốn cùng cực của đất nước chỉ để góp một chút ǵ của ḿnh cho cuộc chiến tranh vệ quốc.
    Từ ngày anh đi, anh Duy ạ, nền âm nhạc của chúng ta đă khác trước nhiều lắm. Từ một đội ngũ thưa thớt thời của anh, giờ đây không biết bao nhiêu tên tuổi nổi lên một cách xứng đáng, có hiểu biết, có t́m ṭi, khác xa thời anh bỏ khu III, khu IV mà đi. Tất nhiên anh Phạm Duy có thể kiêu một tư cũng chẳng sao, (thói thường mà)! Nhưng những người hướng dẫn dư luận có lẽ nên nghĩ kỹ một tí, để khách quan hơn, công bằng hơn. C̣n riêng một chi tiết nhỏ về chuyên môn: Các anh em nhạc sỹ sau này khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm.

    Khánh Thy
    Nguồn: An ninh thế giới

    Thiết nghĩ, những phát biểu, những phản ứng đầy ghen tức, đố kỵ rất cảm tính, thiếu lư tính của ba nhạc sĩ trên sau đêm nhạc rất huy hoàng của nhạc sĩ Phạm Duy diễn ra trong nhà hát lớn Hà Nội cuối tháng 3/2009, sẽ măi măi là vết nhọ trên gương mặt âm nhạc của ba vị này, không cách ǵ gột sạch.
    Điều tôi băn khoăn là sao nhạc sĩ Phạm Tuyên (con út cụ thượng Phạm Quỳnh, người từng bị Việt Minh thủ tiêu sau Cách mạng tháng tám 1945) một người điềm đạm, chín chắn, một trí thức con ḍng cháu giống, danh gia vọng tộc, sao lại đi phát ngôn những lời ghen ăn tức ở, ganh tài lộ liễu hơi bị tầm thường với nhạc sĩ Phạm Duy thế? Xưa nay, tôi từng quư mến anh Phạm Tuyên (người đă phổ nhạc bài thơ thiếu nhi “Mèo đi guốc” của tôi, cũng như nhạc sĩ Nguyễn Lưu, người cũng đă từng phổ nhạc bài thơ Kôn Tum của tôi tức TMH)
    Chính ra, nhạc sĩ Phạm Tuyên - người có nhiều nét tương đồng hoàn cảnh với nhạc sĩ Phạm Duy, hơn ai hết phải biết cảm thông với vị nhạc sĩ “ba ch́m bảy nổi chín lênh đênh” do các trào lưu chính trị xô đẩy suốt mấy chục năm này, sao lại đi ném đá vào người có số phận éo le như ḿnh thế? Phạm Tuyên đi theo cách mạng bằng mặc cảm tự ti đầy ḿnh, nhục nhă vô hạn với một lư lịch xấu nhất nước: con đại phản động (Phạm Quỳnh) bị cách mạng xử bắn, đă phải nhún nhường làm thân phận con sâu cái kiến, đấm ngực ăn năn tội bằng các bài hát “yêu đảng vượt chỉ tiêu trên giao” suốt mấy chục năm mới được vào đảng…Nhưng thôi, chúng tôi không nói nữa, v́ anh Phạm Tuyên c̣n cả nghĩ hơn tôi nhiều…
    Văn hào nước Áo gốc Do Thái Stefan Zweig (1881-1942), người đă cùng với vợ là bà Lotte tháng 2 năm 1942 tại Rio de Janeiro, đă làm cuộc tự tử chính trị, bằng cách hai ông bà tự nguyện chết trên ghế điện trong tâm trạng cô đơn tuyệt vọng, để phản đối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai vô nhân đạo do Hítle gây ra, đă từng có câu nói nổi tiếng: “Thân phận con người trong thế kỷ hai mươi là thân phận con người chính trị”.
    Ở Việt Nam, ngót 70 năm qua, không chỉ nhạc sĩ Phạm Duy mà đến con kiến cũng phải mang thân phận chính trị. Từng con người Việt Nam mang thân phận bao cát treo lủng lẳng để các tay boxe chính trị thi nhau đấm như mưa trong các cuộc tập dượt đấu quyền anh cách mạng, quyền anh chiến tranh…
    Phạm Duy mang thân phận bao cát treo lủng lẳng trước những cú đấm tập dượt trời giáng của các tay quyền anh chính trị từ cả hai phía đỏ và xanh, khiến ông bị xô dạt từ bờ chính trị này sang bờ chính trị khác mà không sao chủ động…
    Các nhà “bới móc học” từng cho xem tấm ảnh Phạm Duy mặc bộ đồ bà ba đen của một chiêu hồi viên đứng trên nền nhạc “Giọt mưa trên lá” để công bố tin chấn động thế giới rằng, tay “tắc kè chính trị” này từng chống cộng khét tiếng đấy à nha…
    Có thể trong cuộc đời riêng, v́ hoàn cảnh sống đưa đẩy tới chân tường, bắt buộc Phạm Duy phải bị chính trị hóa, nhưng âm nhạc của ông, tuyệt đại đa số các bài hát hay nhất không hề bị chính trị hóa. Có thể ông đă phải mặc bộ đồ bà ba đen của viên chức trong bộ chiêu hồi, nhưng bài hát “Giọt mưa trên lá” của ông là một kiệt tác âm nhạc không hề phục vụ chính trị, rất khác các bài hát của mấy nhạc sĩ vừa ném đá ông trong chế độ miền Bắc, luôn luôn lấy âm nhạc phục vụ chính trị làm mục đích…
    Âm nhạc Phạm Duy đạt được giá trị muôn đời v́ đă vượt lên trên các đối kháng chính trị nhất thời. Ấy là cái khác nhau một trời một vực giữa Phạm Duy và Phạm Tuyên vậy.
    Nếu cứ lấy lăng kính đạo đức, lăng kính chính trị để soi lên cuộc đời các ông to bà lớn của cả hai phía quân xanh quân đỏ, chúng ta đều chỉ nh́n thấy những âm bản thê thảm mà thôi. Lấy lăng kính chính trị, lăng kính đạo đức ra soi mói cuộc đời riêng của Phạm Duy, rồi phủ nhận sự đóng góp vô cùng to lớn cho dân tộc, cho Tổ Quốc Việt Nam bằng âm nhạc yêu nước, yêu con người, yêu nhân loại hết cỡ của ông, như hai phía của cực đoan chính trị vừa hùa nhau ném đá ông kể trên, thiết nghĩ là một việc làm thiếu lương thiện.
    Trong bộ sách hồi kư đồ sộ của ḿnh, Phạm Duy cũng thừa nhận ông có tài, có tật, ông cũng như ai tham sân si, cũng ăn chơi hút sách cờ bạc…trai gái; nhưng không có rượu chè bê tha à nha. Vụ “ăn chè nhà Bè” là vụ báo chí chơi xỏ ông, bịa đặt thêm mắm thêm muối để đưa tin rẻ tiền cốt bán báo. (c̣n tiếp)

    http://www.saungon.net/tbl/index.php?itemid=1716

  6. #6
    Diêt VC
    Khách

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời



    (TNO) Sau thời gian điều trị các bệnh về tim, gan, gút, nhạc sĩ Phạm Duy đă trút hơi thở cuối cùng vào chiều nay 27.1 tại pḥng cấp cứu Bệnh viện 115, TP.HCM, thọ 92 tuổi. Gia đ́nh của nhạc sĩ Phạm Duy đă xác nhận với Thanh Niên Online thông tin trên.
    Facebook Twitter 0 b́nh chọn Viết b́nh luận Lưu bài này



    Nhạc sĩ Phạm Duy - Ảnh: Thiên Hương

    Nhạc sĩ Phạm Duy tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 5.10.1921, tại phố Hàng Cót, Hà Nội.

    Ông được xem là một trong những nhạc sĩ lớn của nền tân nhạc VN với số lượng nhạc phẩm đồ sộ cũng như đa dạng thể loại (nhạc cách mạng, nhạc quê hương, nhạc t́nh đôi lứa, trường ca, rong ca, đạo ca, thiền ca, tâm ca...). Cùng với sáng tác, ông c̣n có nhiều công tŕnh khảo cứu về âm nhạc VN có giá trị.

    Sau năm 1975, Phạm Duy sang sinh sống tại Hoa Kỳ. Đến tháng 5.2005 ông chính thức trở về Việt Nam định cư. Nhiều ca khúc của ông cũng dần được cấp phép phổ biến trở lại như Mùa thu chết, Giọt mưa trên lá, Tạ ơn đời, Tiễn em, Đi đâu cho thiếp theo cùng (đến nay khoảng 60 bài)…

    Mới đây nhất là 8 ca khúc trong 10 bài của tập Đạo ca vừa được cấp phép biểu diễn. Song, tâm nguyện cuối đời của ông, từng được ông chia sẻ trên giường bệnh, là "phát hành cuốn phim tài liệu Phạm Duy - nhạc và đời" đến nay vẫn chưa thành...

    Cha của nhạc sĩ Phạm Duy là nhà văn Phạm Duy Tốn. Vợ của ông là ca sĩ Thái Hằng nhưng bà đă qua đời vào năm 1999. Các con của ông cũng là những ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng như con trưởng là ca sĩ Duy Quang (vừa qua đời vào tháng 12.2012), ca sĩ Thái Hiền, Thái Thảo, nhạc sĩ ḥa âm Duy Cường...


    Nhạc sĩ Phạm Duy giao lưu trong chương tŕnh Tạ ơn đời mừng sinh nhật ông vào ngày 5.10.2012 - Ảnh: Thiên Hương

    Đến cuối đời vẫn miệt mài sáng tác

    Cách đây không lâu, khi t́m gặp nhạc sĩ Phạm Duy vào đúng dịp sinh nhật của ông (ngày 5.10.2012), vị nhạc sĩ lăo làng này khiến chúng tôi khá bất ngờ v́ sức khỏe dẻo dai và sự minh mẫn của ông.

    Nhạc sĩ cho biết 30 năm ở ngoại quốc tưởng chừng đă khiến ông cạn kiệt nguồn cảm hứng. Thế nhưng từ khi trở về Việt Nam, ông “như sống lại” với những ư tưởng và cảm hứng dào dạt để cho “ra ḷ” gần 40 tác phẩm mới.

    Ông khoe đă hoàn thành 10 bài Hương ca, 10 bài phổ nhạc từ thơ Bích Khê mang tên Dị khúc đồng thời hoàn tất Truyện Kiều với 37 khúc, dài gần 3 tiếng đồng hồ. Những tác phẩm này đều đang trong quá tŕnh xin cấp phép để phát hành rộng răi.

    Ngoài ra, khi đó nhạc sĩ Phạm Duy cũng cho biết đang thực hiện một quyển sách tập hợp các kinh nghiệm mà ông học hỏi được trong suốt 30 năm ở xứ người, cũng như toàn bộ những tinh hoa ông chắt lọc được trong hành tŕnh đến với âm nhạc.

    Đồng thời, ông c̣n dự định phát hành quyển sách mang tên Vang vọng một thời viết về xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của các ca khúc.

    “Tôi mắc bệnh… nghiện làm việc dù sức khỏe đă không c̣n được như xưa. Lúc trước tôi ngồi 5 tiếng trước máy vi tính, giờ th́ chỉ 2 tiếng th́ phải nghỉ tí rồi mới làm tiếp được”, nhạc sĩ Phạm Duy tâm sự khi gặp chúng tôi vào dịp sinh nhật của ông năm vừa rồi.

    Vào khoảng tháng 11.2012, nhiều nguồn tin cho biết sức khỏe nhạc sĩ Phạm Duy đă suy giảm rất nhiều. Khi đó, Thanh Niên Online đă lập tức liên lạc với ông. Qua điện thoại, người nhạc sĩ già vẫn tỉnh táo và trả lời rành rọt rằng: “Tôi bị bệnh tim tái phát, nằm viện được gần một tuần th́ xin bác sĩ về nhà v́ nằm viện tốn kém quá…”.

    Khi ấy chỉ vừa xuất viện được ít ngày, vẫn phải nhờ đến xe lăn để di chuyển nhưng nhạc sĩ Phạm Duy đă liền bắt tay vào công việc soạn nhạc. Trong mail gửi cho bạn bè thân hữu, ông viết: “Moa đă ra viện. Lại làm việc như thường”.

    Từng “hỏi gở” nhạc sĩ Phạm Duy về sự ra đi, khi ấy ông cười bảo: “Tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện tôi sẽ chết v́ tôi sẽ không bao giờ chết được cả. Tôi có chết đi chăng nữa th́ nhạc của tôi vẫn sẽ hiện hồn trên môi những người ca hát. Vậy th́ làm sao tôi chết được? C̣n cái chết xác thịt th́ ai cũng phải chết thôi. Tôi sống đến giờ cũng hơi lâu rồi...”.

    Trước khi qua đời, nhạc sĩ Phạm Duy đă dành cho Thanh Niên những giây phút trải ḷng trong loạt bài 7 kỳ "Phạm Duy và bạn thơ". Mời độc giả xem thêm:


    “Hoàng Cầm dạy cho tôi t́nh yêu quê hương đất nước. Tôi c̣n học được ở Hoàng Cầm một tinh thần vững vàng, dù cuộc đời người thi sĩ ấy nhiều lắm những trắc trở và khổ cực”. (Phạm Duy). Trong ảnh: Nhà thơ Hoàng Cầm và nhạc sĩ Phạm Duy - Ảnh: nhân vật cung cấp

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Phạm Duy và “lên non t́m động hoa vàng ngủ say”



    (trích trong Vang bóng một thời)



    Nhạc sĩ Phạm Duy đă kể lại nguyên do của sự ra đời bài hát “Đưa Em t́m động hoa vàng”

    “Vào năm 1971, ông Nguyễn Đức Quỳnh bị ung thư dạ dày và vào nằm trong bệnh viện cho hai bác sĩ Phạm Biểu Tâm và Trần Ngọc Ninh cứu chữa ở Saigon. Ngày tôi tới thăm ông tại bệnh viện th́ gặp Phạm Thiên Thư ở đó. Và chúng tôi yêu mến nhau ngay.



    Sau đó, chúng tôi gặp nhau gần như hằng ngày. Gặp tu sĩ Tuệ Không kiêm thi sĩ Phạm Thiên Thư là tôi như thoát xác, vượt ra khỏi những đắng cay, chán chường và bế tắc của tâm ca, tâm phẫn ca, vỉa hè ca. Phạm Thiên Thư đưa cho tôi tập thơ Đưa em t́m động hoa vàng hay bài thơ Gọi em là đóa hoa sầu... để tôi phổ thành những bài hát thanh cao nhất của thời đại. Đối với tôi lúc đó, h́nh ảnh thiền, chùa, động hoa vàng thật là mát mẻ và rất cần thiết. Bài Đưa em t́m động hoa vàng được rút ra từ mấy trăm câu thơ của thi sĩ, và ta chỉ cần có ba đoạn ca là nói lên hết được cái cảnh ngày xưa, có kẻ từ quan, lên non t́m động hoa vàng... Để làm ǵ? Không phải chỉ để nhớ nhau mà chính ra là để ẩn náu vậy!”

    “Rằng xưa có gă từ quan

    Lên non t́m động hoa vàng ngủ say

    Thôi th́ thôi để mặc mây trôi

    Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan

    Thôi th́ thôi chỉ là phù vân

    Thôi th́ thôi nhé có ngần ấy thôi

    Chim ơi chết giữa cội hoa

    Tiếng kêu rơi rụng giữa ngân hà

    Mai ta chết dưới cội đào

    Khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu”

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Nhạc sĩ Phạm Duy



    27.01.2013
    Tác giả Ngh́n Trùng Xa Cách, nhạc sĩ Phạm Duy vừa qua đời vào chiều Chủ nhật 27/01/2013 tại Sài G̣n, ở tuổi 92. Phạm Duy, tên thật Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 05/10/1921 tại Hà Nội. Với tác phẩm đầu tay là Cô Hái Mơ, viết năm 1942, Phạm Duy bước vào thế giới âm nhạc từ năm 1942. Biến cố năm 1975 đưa ông sang định cư tại Mỹ và đến năm 2005, ông trở lại sống ở Sài G̣n, Việt Nam cho đến nay. Có thể nói hơn 70 năm sống với âm nhạc, Phạm Duy đă để lại nhiều tác phẩm đi vào ḷng người, những ca khúc của ông gắn liền với những biến cố thăng trầm của đất nước. Bài viết dưới đây của ca sĩ - nhà văn Quỳnh Giao viết về một ca khúc của Phạm Duy chưa đầy một tuần trước ngày ông qua đời. Trân trọng giới thiệu cùng bản đọc VOA.

    Ngày Xuân, Nghe Lại Ca Khúc "Xuân Hành" Của Phạm Duy
    Quỳnh Giao

    Có phải là ngẫu nhiên không mà hai nhạc phẩm đầy tính chất anh hùng ca của Lizst và Beethoven đều lấy âm giai Mi giáng Trưởng (Mi bémol Majeur)? Đó là Cầm tấu khúc số 1 của Lizst có tên là "Héro" và Cầm tấu khúc số 5 của Beethoven có tên là "Emperor" viết cho đại đế Napoléon.

    Nhạc sĩ Phạm Duy
    ​​Trong nền tân nhạc Việt, các ca khúc về lịch sử hay những bài hùng ca thường được viết trên âm giai Fa Trưởng. Nói về nhạc thuật, các âm giai Trưởng như Do, Ré và Fa nghe thấy trong sáng và hợp với giọng Kim. Khi giọng Kim là giọng chính (chant), bè phụ thường được viết thấp hơn để làm nổi giọng chính. Những ca khúc như “ Việt Nam Minh Châu Trời Đông” của Hùng Lân, “Nước Non Lam Sơn” hay “Bóng Cờ Lau” và “Tiếng Chim Gọi Đàn” của Hoàng Quư, “Hội Nghị Diên Hồng” hay “Bạch Đằng Giang” của Lưu Hữu Phước, “Việt Nam, Việt Nam” của Vơ Đức Thu, “Việt Nam Anh Dũng” của Dương Thiệu Tước”, “Việt Nam Hùng Tiến” của Thẩm Oánh…v.v. đều được viết trên cung Fa Trưởng.

    Thật sự, th́ âm giai trong sáng hay u tối, êm dịu hay gay gắt chỉ có ảnh hưởng với nhạc khí, chứ không ảnh hưởng với giọng hát. Giọng hát nhẹ êm hay mạnh mà cứng là do âm sắc (timbre) của người tŕnh bày. Giọng Thổ thường dầy hơn giọng Kim, ngược lại th́ giọng Kim lanh lảnh và thánh thót hơn giọng Thổ. Riêng các nhạc sĩ sáng tác và sử dụng dương cầm, mà Frederic Chopin là một điển h́nh, th́ chuộng loại âm giai mang nhiều dấu giáng (bémol). Ông cho rằng đàn những nốt giáng (phím đen trên dương cầm) th́ tiếng đàn êm hơn, và về kỹ thuật th́ ngón tay trườn trên phím, càng sâu càng dễ di chuyển lả lướt hơn…

    Trong khung cảnh chung như vậy, ca khúc “Xuân Hành” của Phạm Duy lại được viết trên cung Mi giáng Trưởng, trong sáng mà êm dịu hơn âm giai Fa Trưởng.

    Những ai mới nghe ca khúc này th́ tự hỏi rằng tác giả dùng chữ "hành" trong ư nghĩa nào. Hành có thể là hành tŕnh, hành khúc, hoặc biết đâu c̣n là một thể thơ cổ, như bài “Tỳ bà hành” mà ai cũng biết qua bản dịch của Phan Huy Vinh, hay bài “Hiệp khách hành” mà các độc giả của Kim Dung có thể c̣n nhớ và nhất là “Hành phương Nam” của Nguyễn Bính?

    Người nghe hay người thưởng ngoạn có quyền mở rộng sự cảm nhận để hiểu tác phẩm từ sở thích hay nhận thức khác biệt của ḿnh.

    Nhưng nhạc sĩ Phạm Duy là người cẩn trọng, như tên của ông.

    Trong cuốn "Ngàn Lời Ca" được xuất bản tại hải ngoại năm 1987, ông giải thích khung cảnh sáng tác của từng bài mà gọi đó là "sự tích". Ông tŕnh bày rằng ḿnh đă soạn nhiều ca khúc về hành tŕnh của con người trong cuộc đời, trong đó có ba bài hành là "Lữ Hành", "Dạ Hành" và "Xuân Hành". Chúng ta liền hiểu ra ư nghĩa của chữ hành trong tác phẩm.



    ​​Nếu "Lữ Hành" là cuộc hành tŕnh thơ thới và bất tận của loài người và được ông sáng tác tại Sài G̣n vào năm 1953 đầy hy vọng th́ "Dạ Hành" là lúc con người đi trong đêm tối. Mà bóng tối ở đây không là một khái niệm về thời gian khi thiếu ánh mặt trời. Bóng tối là chông gai hiểm hóc của phận người và ca khúc cũng được viết tại Sài G̣n nhưng mà là Sài G̣n khói lửa của chiến chinh năm 1970.

    Rồi Phạm Duy mới nói về cuộc đi b́nh thường là bài "Xuân Hành", sáng tác năm 1959, ở giữa hai bài hành kia. Hành tŕnh b́nh thường và muôn thuở như câu hỏi đầy vẻ triết học là "người là ai, từ đâu tới và sẽ đi về đâu".... Người từ ḷng người đi ra rồi sẽ trở về ḷng người. Người vừa là thần thánh, vừa là ma quỷ, biết thương yêu dai mà cũng biết hận thù dài….Nhất là biết vui buồn giữa hai nhịp đập của con tim, ngay cả khi tim ngừng đập.

    Với khoảng cách thời gian, nghĩa là có thêm sự chín muồi của cuộc sống, ta có thể nghe lại ba bài hành này mà thoát khỏi hoàn cảnh của Sài G̣n thời 53, 59 hay 70. Nghe lại với tâm cảnh của chính ḿnh. Đấy cũng là lư do mà tôi thích bài “Xuân Hành” hơn cả.

    Về nhạc thuật th́ đấy là một ca khúc có nhịp điệu uy nghi hùng dũng, trong sáng mà êm dịu chứ không chát chúa như nhiều bài hùng ca hoặc một khúc quân hành. Bài "Lữ Hành" rất hay nhưng ít người hát v́ từ đầu đến cuối là dùng nhịp chơi – syncope. Đôi khi có người c̣n tŕnh bày theo điệu "swing" khá giật mà không phản ảnh được nội dung sâu sắc thánh thiện của lời ca. So với "Lữ Hành" th́ bài "Xuân Hành" dễ hát hơn, nhưng cũng cần tŕnh bày hợp ca nên đ̣i hỏi kỹ thuật ḥa âm mới diễn tả hết giá trị của tác phẩm. Phải chăng v́ vậy mà ngày xưa, chúng ta ít được nghe ca khúc này ở ngoài các chương tŕnh của đài phát thanh?

    Bây giờ mà nghe lại, khi tư duy đă lắng đọng, người ta c̣n thấy ra một giá trị khác, là nội dung của lời từ.

    Phạm Duy đă dẫn chúng ta vào tác phẩm với lời giới thiệu về câu hỏi muôn đời là người từ đâu tới và đi về đâu. Nhưng trong ca khúc mà cũng là một đời người từ thuở là mầm non chớm nở đến khi trở thành lá úa, ông c̣n diễn tả nhiều điều khác nữa. Nổi bật trong đó là chữ nhân, hay tinh thần nhân ái là chữ mà ông dùng. Chúng ta sinh ra là từ ḷng người với tiếng khóc và nụ cười, với thương yêu và hận thù lẫn đắm say. Nhưng chân lư muôn đời là trưa hôm qua có thể c̣n là người, đêm hôm sau th́ đă thác, có khi là vị thần hoặc một lũ ma lẻ loi....

    Chữ sinh và hủy chỉ là hai mặt của cuộc đời và ai ai cũng như vậy. Nhưng, nội dung mang tính chất thánh ca của tác phẩm nằm trong thông điệp ch́m ẩn bên dưới: sự bất diệt trong ṿng tử sinh đó là chữ nhân. Nếu sinh ra và sống măi với ḷng nhân th́ chẳng ai nên sợ cái chết. Cuộc hành tŕnh của đời người mang ư nghĩa thăng hoa của một mùa Xuân khi nó được hướng dẫn bởi ḷng tử tế.

    Khi liên lạc với chú Phạm Duy - người viết vẫn gọi ông như vậy với sự tôn kính - về bài Xuân Hành, tôi đă lẩm nhẩm hát lại và ngẫm lại rồi nghĩ đến một thông điệp tôn giáo.
    Đó là lẽ tử sinh của luân hồi, là ngũ uẩn gồm có sắc-thọ-tưởng-hành-thức. Nhờ sự suy ngẫm đó ḿnh t́m ra một chữ "hành" trong kinh sách nhà Phật. Đấy là ư khác của "hành" trong bài Xuân Hành. Rất đơn giản th́ hành động tốt sẽ tạo ra thiện nghiệp để có ngày vượt khỏi lẽ tử sinh. Phải chăng, câu "Đường nhân ái c̣n đi măi măi" của ca khúc nói về một cách sống bất tử? Nếu quả như vậy th́ thông điệp này c̣n sâu xa hơn lời ca trong bài "Đường Chiều Lá Rụng" của Phạm Duy....[QG]

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hai nhà thơ ở Mỹ nhớ nhạc sĩ Phạm Duy


    Huy Phương


    Chủ nhật, 27 tháng 1, Phạm Duy, nhạc sĩ được nhiều thế hệ người Việt mến mộ, đă qua đời tại Sài G̣n sau thời gian nằm bệnh viện, thọ 92 tuổi.

    Cung Trầm Tưởng, Saint Paul, Minnesota

    Từ Saint Paul, thủ phủ của tiểu bang Minnesota Hoa Kỳ, thi sĩ Cung Trầm Tưởng, người có nhiều bài được Phạm Duy phổ nhạc; trong đó có Tiễn Em, Mùa Thu Paris…nhớ lại thời gian trước 1975:

    “Khi c̣n ở Việt Nam tôi có nhiều sinh hoạt văn nghệ với anh Phạm Duy, và nhất là chiều chiều chúng tôi hay ngồi ở La Pagode, nơi tụ tập của văn nghệ sĩ, chính trị gia, doanh nhân Việt Nam Cộng Ḥa.”

    Về tính t́nh của Phạm Duy, nhà thơ Cung Trầm Tưởng cho biết:

    “Anh Phạm Duy có tài lắm, có nhiều người nói anh kiêu ngạo, nhưng anh rất khiêm tốn với những người bạn thân thiết, trong đó may mắn có tôi.”

    Khi nhà thơ sang định cư tại Hoa Kỳ năm 1993, nhạc sĩ đích thân đến thăm. Từ khi nhạc sĩ về Việt Nam th́ hầu như Tết nào cũng gọi điện thoại chúc Tết thi sĩ. Tháng 7 năm ngoái, khi nhà thơ ra mắt tập thơ ở Nam Cali th́ từ Việt Nam nhạc cũng gọi điện thoại sang chúc mừng ngay trong buổi ra mắt sách:

    “Tôi không ngạc nhiên nhưng tôi xúc động vô cùng bởi ở ngoài đời, anh Phạm Duy với tôi là hai người bạn chung thủy về mặt t́nh cảm. Riêng cá nhân tôi có nhiều kỷ niệm đẹp với anh, đặc biệt nhờ anh phổ nhạc thơ của tôi mà tên tuổi của tôi được phổ biến rộng răi ở Việt Nam và các nước.

    Cách đây 20 năm, anh Phạm Duy có đến nhà tôi ở Saint Paul, anh có thổ lộ với nhà tôi và tôi nghe được là như thế này: ‘Chị Tưởng ạ, tôi thế nào cũng phải chết ở quê hương v́ tôi thấy ḿnh phải trở về với đất tổ.’
    Bây giờ th́ ít nhất ư nguyện của anh đă thành đạt.”

    Hoàng Song Liêm, Fairfax, Virginia

    Nhà thơ cựu Trung tá Không quân Việt Nam Cộng Ḥa này nói rằng khi c̣n làm Trưởng Pḥng Tâm Lư Chiến, một vài người con của nhạc sĩ Phạm Duy phục vụ trong ban văn nghệ của ông:

    “Tôi có cơ may được biết ba cây cổ thụ của làng âm nhạc Việt Nam, Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn, nhưng Phạm Duy là người tôi rất gần, đặc biệt ông đă gửi mấy người con ông vào Không quân; Duy Quang, Duy Minh, và Duy Cường.

    Khi nhạc sĩ nói với tôi: "Tôi đẻ chúng nó ra và nay chúng nó nằm trong quyền sinh sát của ông’; tôi bèn trả lời ‘Dạ không, tôi phải dành cho chúng sự chú ư đặc biệt chứ."

    Ai cũng phải công nhận Phạm Duy là một thiên tài. Ông sáng tác rất nhanh, đặc biệt trong Không quân, trong những trường hợp tử vong đặc biệt, ông đă sáng tác những bài như Phạm Phú Quốc, Trần Thế Vinh, và ông cũng đề nghị với tôi sáng tác một bài riêng cho Không Quân Việt Nam.

    Khi tôi về Việt Nam đến thăm ông ở pḥng trà Lam Sơn, ông bảo các con ra chào chú Liêm, nói tóm lại tôi với ông cũng như người trong gia đ́nh.

    Tôi rất quư mến ông. Nghe tin ông ra đi tôi vẫn c̣n bàng hoàng mặc dù ông đă trên 90.”

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 12-04-2012, 10:05 PM
  2. Replies: 6
    Last Post: 17-11-2011, 02:37 AM
  3. Replies: 26
    Last Post: 03-05-2011, 02:12 PM
  4. Replies: 15
    Last Post: 04-01-2011, 10:42 PM
  5. Replies: 2
    Last Post: 28-12-2010, 11:08 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •