Page 2 of 2 FirstFirst 12
Results 11 to 16 of 16

Thread: Chiến tranh Việt Nam

  1. #11
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Chiến tranh Việt Nam
    Wikipedia

    Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, hay Chiến tranh Việt Nam (1954-1975)
    Một phần của Chiến tranh Lạnh và Chiến tranh Đông Dương

    .
    Địa điểm Đông Nam Á với chiến trường chính là toàn bán đảo Đông Dương
    Nguyên nhân bùng nổ Mong muốn giành độc lập và thống nhất cho đất nước của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và sự ra đời Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam với mục tiêu đánh bại Chủ nghĩa thực dân mới mà Hoa Kỳ muốn áp đặt ở Việt Nam[1]
    Hoa Kỳ can thiệp chính trị và quân sự vào Việt Nam nhằm thi hành Chính sách chống Cộng theo Thuyết domino, với mục đích duy tŕ ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á.
    Việt Nam Cộng ḥa từ chối tuyển cử thống nhất đất nước và thi hành chính sách "Tố Cộng Diệt Cộng" theo đạo luật 10-59, muốn thống nhất Việt Nam nhưng không chấp nhận đàm phán hoặc tranh cử với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa[2].

    Kết quả
    Chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa
    Việt Nam thống nhất dưới chính quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
    Hoa Kỳ triệt thoái lực lượng viễn chinh khỏi Đông Dương

    Thay đổi lănh thổ
    Việt Nam Cộng ḥa bị sụp đổ và phần lớn lănh thổ của nó được quản lư bởi Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam và sau này thống nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thành nước Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam

    Tham chiến:
    Việt Nam Cộng ḥa
    Hoa Kỳ
    Hàn Quốc
    Thái Lan
    Úc
    New Zealand
    Philippines
    Đài Loan

    Chiến trường liên quan:
    Cộng ḥa Khmer
    Vương quốc Lào Tham chiến:
    Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa
    Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

    Hỗ trợ:
    Liên Xô[3]
    Trung Quốc[4]
    Các nước khác trong hệ thống xă hội chủ nghĩa

    Chiến trường liên quan:
    Khmer Đỏ
    Pathet Lào

    Chỉ huy
    Chính trị
    Flag of South Vietnam.svg Ngô Đ́nh Diệm
    Flag of South Vietnam.svg Nguyễn Văn Thiệu
    Flag of the United States.svg Dwight D. Eisenhower
    Flag of the United States.svg John F. Kennedy
    Flag of the United States.svg Lyndon Johnson
    Flag of the United States.svg Richard Nixon
    Flag of South Korea (bordered).svg Park Chung Hee

    Quân sự
    Flag of the United States.svg Robert McNamara
    Flag of the United States.svg William Westmoreland
    Flag of the United States.svg Creighton Abrams
    Flag of South Korea (bordered).svg Chae Myeong shin
    Flag of South Korea (bordered).svg Lee Sei ho Chính trị
    Flag of Vietnam.svg Hồ Chí Minh
    Flag of Vietnam.svg Lê Duẩn
    Flag of Vietnam.svg Phạm Văn Đồng
    FNL Flag.svg Nguyễn Hữu Thọ
    FNL Flag.svg Huỳnh Tấn Phát

    Quân sự
    Flag of Vietnam.svg Vơ Nguyên Giáp
    Flag of Vietnam.svg Nguyễn Chí Thanh
    Flag of Vietnam.svg Văn Tiến Dũng
    FNL Flag.svg Trần Văn Trà
    FNL Flag.svg Hoàng Văn Thái
    FNL Flag.svg Lê Trọng Tấn
    FNL Flag.svg Chu Huy Mân
    FNL Flag.svg Song Hào
    FNL Flag.svg Hoàng Minh Thảo
    FNL Flag.svg Lê Đức Anh

    Lực lượng
    Quân số: Khoảng 1.200.000 (tháng 7-1968), gồm:
    Flag of the United States.svg Hoa Kỳ: 541.933
    Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng hoà: ~600.000
    Flag of Thailand.svg Thái Lan: 5.900
    Flag of South Korea.svg Hàn Quốc: 50.355
    Flag of the Philippines.svg Philippines: 1.825
    Úc: 7.379
    New Zealand: 523
    Đài Loan: 31.
    Trang bị hạng nặng (năm 1968):
    3.787 xe tăng - xe thiết giáp, 2.540 đại bác các loại,
    Hơn 2.000 máy bay và 3.300 trực thăng (chiếm 60% Không quân Hoa Kỳ)
    4 tàu sân bay, 263 tàu chiến và hơn 1.500 tàu xuồng cỡ nhỏ (chiếm 40% Hải quân Hoa Kỳ). Quân số:~520.000, trong đó khoảng 280.000 chiến đấu ở miền Nam (1968).
    Trang bị hạng nặng (năm 1968):
    180 xe tăng T-34 và PT-76, 150 xe thiết giáp, 850 đại bác
    ~90 máy bay và trực thăng, 65 hệ thống pḥng không SA-2, ~1.000 pháo pḥng không
    12 tàu phóng lôi và vài chục tàu vận tải cỡ nhỏ.
    Tổn thất
    Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng ḥa
    Chết: ~250.000-316.000[5][6]
    Bị thương: ~1.170.000
    Flag of the United States.svg Hoa Kỳ.
    Chết: 58.209[5], 2.000 Mất tích
    Bị thương: 305.000[7]
    Flag of Laos (1952-1975).svg Vương quốc Lào
    Chết: 30.000
    Bị thương không rơ [8]
    Flag of South Korea (bordered).svg Hàn Quốc
    Chết: 4.407[5]
    Bị thương: 11.000
    Flag of Australia.svg Úc
    chết: 520[5]
    bị thương: 2.400*
    Flag of New Zealand.svg New Zealand
    chết: 37
    bị thương: 187
    Cờ của Thái Lan Thái Lan
    Chết: 1.351[5]
    Tổng số chết: ~346.000-412.000
    Tổng số bị thương: ~1.490.000+ (chưa kể quân Hoàng gia Lào)
    Flag of Vietnam.svg FNL Flag.svg Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam
    Chết và mất tích: ~1.100.000[9][7]
    Bị thương: ~600,000+
    Flag of the People's Republic of China.svg Trung Quốc
    Chết: 1.100[4]
    Bị thương: 4.200[4]
    Cờ của Liên Xô Liên Xô
    Chết: 16 (chủ yếu do bệnh)[10]

    Tổng số chết: ~1.101.000
    Tổng số bị thương: ~604.000+
    Thường dân Việt Nam: 2.000.000–5.100.000*
    Thường dân Campuchia: ~700.000*
    Thường dân Lào: ~50.000*

    Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh Đông Dương (1945–1979). Đây là cuộc chiến giữa hai bên, một bên là Việt Nam Cộng ḥa ở miền Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ và một số đồng minh khác như Úc, New Zealand, Đại Hàn, Thái Lan và Philippines tham chiến trực tiếp; một bên là Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ở miền Bắc Việt Nam cùng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tại miền Nam Việt Nam, do Đảng Lao động Việt Nam (tên của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 11 tháng 2 năm 1951 đến trước ngày 20 tháng 12 năm 1976) lănh đạo được sự viện trợ vũ khí từ các nước xă hội chủ nghĩa (cộng sản), đặc biệt là của Liên Xô và Trung Quốc. Cuộc chiến này tuy gọi là "Chiến tranh Việt Nam" nhưng chiến sự lan ra toàn cơi Đông Dương, lôi cuốn vào ṿng chiến cả hai nước lân cận là Lào và Campuchia ở các mức độ khác nhau. Do đó cuộc chiến c̣n được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ 2.

    Tên gọi

    Tại Việt Nam, sách báo c̣n dùng tên Kháng chiến chống Mỹ cứu nước để chỉ cuộc chiến tranh này,[11] cũng là để phân biệt với các cuộc chiến tranh khác đă xảy ra ở Việt Nam khi chống Pháp, chống Nhật, chống Mông Cổ, chống Trung Quốc... Một số người[12] cảm thấy tên Kháng chiến chống Mỹ không trung lập do trong cuộc chiến c̣n có những người Việt tham chiến cùng Hoa Kỳ;[12] một số khác th́ lại cho rằng tên Chiến tranh Việt Nam thể hiện cách nh́n của người phương Tây hơn là của người sống tại Việt Nam.[12] Tuy nhiên về mặt học thuật, hiện nay các học giả ngoài Việt Nam thường sử dụng tên "Chiến tranh Việt Nam" v́ tính chất quốc tế của nó.[12]

    Tên gọi ít được sử dụng hơn là Chiến tranh Đông Dương lần 2, được dùng để phân biệt với Chiến tranh Đông Dương lần 1 (1945-1955), Chiến tranh Đông Dương lần 3 (1975-1989, gồm 3 cuộc xung đột ở Campuchia và biên giới phía Bắc Việt Nam).

    Cuộc chiến này chính thức kết thúc với sự kiện 30 tháng 4, 1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng ḥa đầu hàng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam, tiếp quản miền Nam cho đến khi đất nước thống nhất. Nhà nước thống nhất với quốc hiệu là Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời vào năm 1976.
    Mục tiêu của các bên trong Chiến tranh Việt Nam

    Mục tiêu của các bên trong Chiến tranh Việt Nam rất phức tạp và đa diện tùy theo lập trường của các bên, nhưng có thể rút ra một số đặc điểm sau:

    Đối với các nhà lănh đạo của Mỹ[13] và Việt Nam Cộng ḥa[14][15] th́ đây là cuộc chiến tranh giữa hai hệ tư tưởng: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản. Chính phủ Mỹ muốn ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á (Xem Thuyết Domino), và đă đứng ra cáng đáng chi phí cho cả cuộc chiến,[16][17][18] và có giai đoạn quân đội Mỹ đă trực tiếp chiến đấu trên chiến trường thay cho quân đội Việt Nam Cộng ḥa.[19][20][21][22] Theo quan điểm của những người ủng hộ chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà, đây là cuộc chiến để giữ miền Nam Việt Nam không thuộc về những người cộng sản.

    Về quan điểm của người dân và học giả Hoa Kỳ, có hai chiều hướng chính. Một phía tin vào chính phủ và ủng hộ cuộc chiến chống Cộng của quân đội Hoa Kỳ. Phía kia cho rằng đây là cuộc chiến tranh xâm lược theo kiểu thực dân mới, c̣n Việt Nam Cộng ḥa chỉ là một dạng chính phủ bù nh́n mà Hoa Kỳ kế thừa từ Pháp[23][24] c̣n chính sách chống Cộng sản của chính phủ Mỹ theo Jonathan Neale chỉ là cái cớ để phục vụ cho quyền lợi của những tập đoàn tư bản Mỹ.[25]

    Đối với các nhà lănh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam th́ đây là cuộc chiến tranh nhằm thực hiện các mục tiêu giành độc lập, thống nhất hoàn toàn cho đất nước và xây dựng chủ nghĩa xă hội, mục tiêu vẫn c̣n dang dở sau 9 năm kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ.[26] Họ nh́n nhận cuộc chiến này là một cuộc chiến chống ngoại xâm, chống lại chủ nghĩa thực dân mới mà Mỹ áp đặt tại miền Nam Việt Nam.[27][28][29]

    Đối với đa số người Việt Nam, sau 2000 năm chiến đấu chống các lực lượng ngoại xâm, người Mỹ đơn giản là sự hiện diện mới nhất của ngoại bang trên đất nước Việt Nam. Người Việt Nam xem cuộc chiến chống Mỹ là giai đoạn mới nhất của cuộc đấu tranh trường kỳ giành độc lập từ cuối thế kỷ 19[30][31][32] Những người này đă góp nên sức mạnh cho phong trào dân tộc mănh liệt do Hồ Chí Minh lănh đạo.[33] Phong trào do Đảng Lao Động Việt Nam, với uy tín trong nhân dân đạt được từ việc đă tổ chức Mặt trận Việt Minh giành độc lập cho đất nước và kiên tŕ chiến đấu chống thực dân Pháp, và tổ chức do đảng này thành lập là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đi tiên phong, đă đạt được sự ủng hộ rộng răi của nhân dân.[34][35][36][37][38] Trong khi đó, Việt Nam Cộng ḥa th́ ngày càng phụ thuộc vào Hoa Kỳ và không duy tŕ được vai tṛ độc lập của họ trong con mắt người dân (nhất là sau khi Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm bị sát hại trong vụ đảo chính được cho là do Mỹ giật dây) – nhất là khi đa số lănh đạo của họ là những người trong chính phủ Trần Trọng Kim, h́nh thành dưới chế độ bảo hộ của phát xít Nhật, hay đă từng làm việc cho Quốc gia Việt Nam, một chính thể bị nhiều người xem là tay sai của Pháp.[39] Tiền thân của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa là Quân đội Quốc gia Việt Nam cũng được thành lập dựa trên một hiệp ước giữa Quốc gia Việt Nam với Pháp, sau đó được Việt Nam Cộng ḥa tổ chức lại theo kiểu Mỹ. Ngoài những người có cảm t́nh với các bên tham chiến, đại đa số những người dân miền Nam c̣n lại không quan tâm về các hệ tư tưởng chính trị, họ chỉ muốn được yên ổn để làm ăn.[40] Theo quan điểm của nhiều sử gia, cuộc chiến này, do đó, mang tính dân tộc rất cao:[41][31][42][34] sự độc lập và thống nhất của đất nước, sự ủng hộ của đa số nhân dân đă trở thành yếu tố quyết định giúp những người Cộng sản thắng lợi chứ không phải là nhờ vào hệ tư tưởng hay ưu thế quân sự.

    Trên cục diện quốc tế đây là cuộc "chiến tranh nóng" trong ḷng Chiến tranh Lạnh đang diễn ra quyết liệt lúc đó trên thế giới.[43] Cả Liên Xô và Trung Quốc dù có những xung đột sâu sắc với nhau vẫn cùng viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa chống lại Mỹ, điều họ cũng làm với Khối Ả Rập và nhiều phong trào cánh tả ở châu Phi và Mỹ Latinh khác.

    Cuộc chiến tranh này được nhiều người phân đoạn theo các cách khác nhau: Người Mỹ[44][45][46][47] thường quan niệm "Chiến tranh Việt Nam" được tính từ khi khi họ trực tiếp tham chiến trên bộ đến khi chính quyền Việt Nam Cộng ḥa đầu hàng (từ 1965 (nhiều nguồn cho là 1964)[45] đến 1975). Có nhiều nguồn[48][49][50][51] khác lại coi cuộc chiến bắt đầu từ 1960 đến 1975, tính từ khi Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa bắt đầu công khai ủng hộ đấu tranh vũ trang tại miền Nam. Nhưng quan điểm chung[11][52] và chính thống hiện nay của chính phủ Việt Nam[11] vẫn coi Chiến tranh Việt Nam được tính từ 1955 đến 1975.
    Viện trợ nước ngoài

    Bài chi tiết: Viện trợ nước ngoài và Chiến tranh Việt Nam (quốc tế, 1960-1965)

    Chiến tranh Việt Nam là một trong những cuộc chiến tranh tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại. Hoa Kỳ đă viện trợ ồ ạt cho Việt Nam Cộng ḥa cũng như trực tiếp tham chiến, hoạch định và điều khiển các chiến lược chiến tranh (Đặc biệt, Cục bộ, Việt Nam hóa...), với tổng chiến phí lên tới hơn 686 tỷ đôla (thời giá năm 2008). 5 nước đồng minh của Mỹ cũng gửi quân tới trực tiếp tham chiến tại Việt Nam gồm Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Thái Lan, Philipines.

    Tuy không thể sánh về số lượng với Mỹ, song Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa cũng nhận được sự giúp đỡ vật chất khá lớn (khoảng 7 tỷ đôla) từ Liên Xô, Trung Quốc, và khối các nước xă hội chủ nghĩa. Nhưng khác với Việt Nam Cộng ḥa, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa không chấp nhận cho nước ngoài đem quân tới tham chiến trực tiếp (nhằm giữ vững tính tự quyết của ḿnh). Lực lượng quân đội và chuyên gia quân sự khối Xă hội Chủ nghĩa chỉ được phép đóng từ Thanh Hóa trở ra và chỉ hỗ trợ trong các hoạt động gián tiếp như pḥng không, xây dựng, kỹ thuật và huấn luyện, và chịu sự điều động của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa khi cần. Các đường lối lănh đạo và việc tham chiến chỉ do Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tự hoạch định và tiến hành, không chịu điều khiển từ bên ngoài. Thực tế dù cả Liên Xô và Trung Quốc gây sức ép cũng không thể làm Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thay đổi các sách lược của ḿnh.[53]

    Có thể nói viện trợ nước ngoài có vai tṛ và tác động to lớn đến quy mô, cường độ và h́nh thái chiến tranh Việt Nam.
    Chủng loại Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng ḥa (số lượng c̣n lại vào năm 1975, không tính số bị phá hủy trước đó)[54]
    từ Hoa Kỳ Flag of North Vietnam.svgViệt Nam Dân chủ Cộng ḥa (tính tổng cả giai đoạn 1960-1975)[55]
    từ Trung Quốc, Liên Xô và các nước xă hội chủ nghĩa
    Súng bộ binh 1.900.000 3.608.863
    Phi cơ 1.200 458 (năm 1975 c̣n khoảng 150 chiếc)
    Trực thăng 600 Không có số liệu, chừng vài chục
    Xe tăng-xe thiết giáp 2.074 2.210 (năm 1975 c̣n 570 chiếc)
    Tên lửa SA-2 Không có trang bị 23
    Súng cối 14.900 Chừng vài ngàn
    Súng phóng lựu chống bộ binh 47.000 Không có trang bị
    Pháo các loại 1.532 (chỉ tính cỡ 105mm trở lên) 8.438 (khoảng 1/4 cỡ từ 105mm trở lên, năm 1975 huy động 1.076 khẩu các loại)
    Xe cơ giới các loại 56.000 16.116
    Máy thông tin 50.000 (vô tuyến)
    70.000 (hữu tuyến) Không có trang bị
    Bệ phóng rốc két Không có trang bị 1.357

  2. #12
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Chiến tranh Việt Nam
    Wikipedia

    Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, hay Chiến tranh Việt Nam (1954-1975)
    Một phần của Chiến tranh Lạnh và Chiến tranh Đông Dương
    P2




    Phó tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson, Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa Ngô Đ́nh Diệm và Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài G̣n Nolting

    Sự phân đoạn như sau cốt chỉ để tiện tham chiếu cho các diễn biến chính trên chiến trường. Trong báo chí và các diễn đàn về Chiến tranh Việt Nam c̣n rất nhiều cách phân đoạn khác nhau tuỳ theo trọng điểm phân tích.
    Những di sản của Chiến tranh Đông Dương lần thứ I


    Ngay từ năm 1949, sau khi Nội chiến Trung Quốc kết thúc, tiếp đó là chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, giới chính khách Mỹ cảm thấy lo sợ về làn sóng đi theo chủ nghĩa Cộng sản tại các nước thế giới thứ ba. Chính phủ Mỹ đưa ra Thuyết Domino, theo đó Mỹ tin rằng nếu một quốc gia đi theo Chủ nghĩa cộng sản, các quốc gia thân phương Tây lân cận sẽ bị đe dọa. Bởi vậy, Hoa Kỳ bắt đầu viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến chống lại Việt Minh (chỉ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa), một tổ chức/chính quyền họ cho là có liên hệ với Liên Xô và Trung Quốc. Đồng thời Mỹ tích cực chuẩn bị cho việc lập "khối Cửu Long" gồm Campuchia, Lào, Thái Lan, nhằm biến ba nước dọc sông Mê Kông thành căn cứ quân sự, dùng ba nước này làm bàn đạp ở Đông Dương.

    Mỹ tuyên bố "ủng hộ nguyện vọng độc lập dân tộc tại Đông Nam Á" trong đó có Việt Nam, nhưng với điều kiện "lănh đạo của những nhà nước mới không phải là người cộng sản", họ đặc biệt ủng hộ việc thành lập các "nhà nước phi cộng sản" ổn định trong khu vực tiếp giáp Trung Quốc. Theo thuyết Domino, Mỹ hỗ trợ các đồng minh tại Đông Nam Á để chống lại các phong trào mà họ cho là "lực lượng cộng sản muốn thống trị Châu Á dưới chiêu bài dân tộc".[56] Bằng viện trợ, Mỹ ép Pháp phải nhượng bộ chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam. Chính sách của Mỹ là hỗ trợ người Pháp chiến thắng trong cuộc chiến chống Việt Minh, sau đó sẽ ép người Pháp rút lui khỏi Đông Dương.[57]

    Khi chiến tranh chấm dứt vào năm 1954, Mỹ đă trả 78% chiến phí cho Pháp,[58] thậm chí phi công Mỹ cũng tham gia chiến đấu cùng Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Thời gian này ở tất cả các cấp bộ trong quân đội viễn chinh Pháp đều có cố vấn Mỹ. Người Mỹ có thể đến bất cứ đâu kiểm tra t́nh h́nh không cần sự chấp thuận của tổng chỉ huy. Việc Mỹ trực tiếp tham chiến tại chiến tranh Đông Dương chỉ c̣n là vấn đề thời gian 1-2 năm. Thậm chí khi Điện Biên Phủ nguy cấp, Mỹ đă tính tới chuyện dùng bom nguyên tử để cứu nguy cho Pháp. Một phần Hạm đội 7 với 2 tàu sân bay đă cập vịnh Hạ Long vào cuối tháng 4, sẵn sàng xuất kích khi có lệnh.

    Bản thân người Pháp cũng cố gắng hết sức để chí ít cũng có một "lối thoát danh dự". Sau thất bại của chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh", để giảm bớt áp lực chính trị-quân sự, Pháp đàm phán với Bảo Đại và những chính trị gia Việt Nam có lập trường chống Chính phủ kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa để thành lập Quốc gia Việt Nam thuộc Liên Hiệp Pháp.[59] Tới cuối chiến tranh, Quân đội Quốc gia Việt Nam đă phát triển lên tới 230.000 quân, chiếm 60% lực lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương,[60] được đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Văn Hinh.[61] Quân đội này sẽ trở thành ṇng cốt của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa sau này.[62]

    Tuy nhiên công thức "Viện trợ Mỹ, viễn chinh Pháp, quân bản xứ" vẫn không cứu văn được thất bại. Sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, Pháp đă mất hẳn ư chí tiếp tục chiến đấu giữ thuộc địa Đông Dương.[63]

    Hiệp định Genève quy định các bên tham gia chiến tranh Đông Dương phải ngừng bắn, giải giáp vũ khí. Theo sự dàn xếp của các cường quốc, Việt Nam chia ra thành hai khu vực tập kết tạm thời cho hai bên đối địch. Miền Bắc dành cho các lực lượng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, miền Nam dành cho tất cả các lực lượng thuộc Liên hiệp Pháp. Vĩ tuyến 17 được xem là ranh giới, và một khu phi quân sự tạm thời được lập dọc theo hai bờ sông Bến Hải thuộc tỉnh Quảng Trị. Quân đội hai bên phải rút về khu vực được quy định trong ṿng 300 ngày. Trong thời gian chuyển tiếp đó, người dân hai miền được quyền lựa chọn nơi sinh sống là khu vực mà ḿnh muốn và sẽ được hỗ trợ trong việc di chuyển.

    Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị ghi rơ: t́nh trạng chia cắt này chỉ là tạm thời cho đến khi cuộc tổng tuyển cử tự do thống nhất Việt Nam sẽ được tổ chức vào năm tháng 7/1956, dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu của những nước trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đă nói trong Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự. Đồng thời Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève cũng công nhận chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lănh thổ của Campuchia, Lào, Việt Nam, và ghi nhận bản Tuyên bố của chính phủ Pháp về việc sẵn sàng rút quân đội Pháp khỏi lănh thổ các nước này theo yêu cầu và thỏa thuận với chính quyền sở tại. Tuyên bố này c̣n nói rằng các chính quyền tại hai khu vực quân sự tại Việt Nam không được cho phép các hành động trả thù đối với những người đă từng cộng tác với phía bên kia cùng gia đ́nh họ[64]. Bản Tuyên bố không có chữ kư của bất cứ phái đoàn nào tham dự Hội nghị[65] tuy nhiên vẫn được các nước cam kết chấp thuận chính thức.[66]

    Trước khi Hiệp ước Genève được kư kết 6 tuần, Pháp đă kư riêng với Quốc gia Việt Nam một hiệp ước khác vào ngày 4/6/1954 giữa Thủ tướng Joseph Laniel và Thủ tướng Nguyễn Phúc Bửu Lộc công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Chính phủ này sẽ không c̣n bị ràng buộc bởi những hiệp ước do Pháp kư kết. Nhưng cũng có những lập luận cho rằng Quốc gia Việt Nam vẫn bị ràng buộc bởi Hiệp định Geneva, bởi v́ chính phủ này chỉ sở hữu một vài thuộc tính của một chủ quyền đầy đủ, và đặc biệt là nó phụ thuộc vào Pháp về quốc pḥng.[67]

    Phái đoàn Quốc gia Việt Nam (vốn không được tham gia đàm phán) đă từ chối kư và không công nhận Hiệp định Genève, đồng thời ra Tuyên bố Hiệp định Genève chứa "những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt". Tuyên bố cũng cho biết Quốc gia Việt Nam sẽ "tự dành cho ḿnh quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở".[68] Phái đoàn Hoa Kỳ cũng từ chối kư Hiệp định và tuyên bố không bị ràng buộc vào những quy định ấy, nhưng nói thêm nước này "sẽ coi mọi sự tái diễn của các hành động bạo lực vi phạm hiệp định là điều đáng lo ngại và là mối đe dọa nghiêm trọng đối với ḥa b́nh và an ninh quốc tế". Trong Tuyên bố của ḿnh, đối với vấn đề tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, chính phủ Mỹ nêu rơ quan điểm "tiếp tục cố gắng đạt được sự thống nhất thông qua những cuộc tuyển cử tự do được giám sát bởi Liên Hiệp Quốc để bảo đảm chúng diễn ra công bằng".[69]

    Kết quả Hiệp định: Quân đội Nhân dân Việt Nam, lực lượng đă giành thắng lợi sau cuộc chiến, tập kết về miền Bắc. Lực lượng Quốc gia Việt Nam cùng với quân đội Pháp tập kết về miền Nam. Theo thống kê của Ủy ban Quốc tế Giám sát Đ́nh chiến có 892.876 dân thường di cư từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam.[70], trong khi 140.000 người khác từ miền Nam tập kết ra Bắc. Quân đội Pháp dần dần rút khỏi miền Nam và trao quyền lực cho chính quyền Quốc gia Việt Nam.

    Chính quyền Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng ḥa) từ chối hiệp thương tổng tuyển cử tự do với lư do mà Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm đưa ra là "không thể có bầu cử tự do với những người cộng sản".[71] Khi trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa, Ngô Đ́nh Diệm c̣n ra nhiều tuyên bố công kích chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.[72]

    Bên cạnh đó, báo cáo của CIA cho Tổng thống Mỹ Eisenhower chỉ ra rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành[73]. Nhà sử học Mortimer T. Cohen cho rằng Ngô Đ́nh Diệm không muốn có cuộc Tổng Tuyển cử v́ ông ta biết rằng ḿnh sẽ thua. Không chỉ Diệm mà bất cứ ai cũng không thể thắng Hồ Chí Minh trong cuộc Tổng Tuyển cử tự do, bởi ông là một George Washington của Việt Nam.[74] Do vậy Hoa Kỳ đă hậu thuẫn Việt Nam Cộng Ḥa để cuộc tuyển cử không thể diễn ra[cần dẫn nguồn]. Cuộc tổng tuyển cử tự do cho việc thống nhất Việt Nam v́ vậy đă không bao giờ được tổ chức.

    Như vậy, xét về quá tŕnh tham gia của các bên tham chiến, cuộc chiến Việt Nam là bước tiếp nối để giải quyết những mục tiêu mà cả 2 bên chưa làm được trong chiến tranh Đông Dương. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Việt Minh) muốn giành độc lập, thống nhất cho Việt Nam và xây dựng chế độ xă hội chủ nghĩa. Mục tiêu của Việt Nam Cộng hoà - theo tuyên bố trước đó của Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đ́nh Diệm - là "thống nhất đất nước trong tự do chứ không phải trong nô lệ"; họ từ chối đàm phán hoặc hiệp thương tổng tuyển cử với Việt Minh với lư do đưa ra là "nghi ngờ những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc".[72] C̣n Hoa Kỳ th́ muốn tiếp tục thi hành chính sách chống Cộng ở Đông Nam Á, ban đầu là viện trợ vũ khí cho Pháp, sau đó là cử cố vấn quân sự và cuối cùng là đem quân trực tiếp tham chiến. Nhiều nhà sử học coi 2 cuộc chiến thực chất chỉ là một với tên gọi "Cuộc chiến mười ngàn ngày", giai đoạn ḥa b́nh 1955-1959 thực chất chỉ là chặng nghỉ tạm thời.[75]
    Giai đoạn 1955-1959

    Mỹ không công nhận kết quả Hiệp định Genève tuy nhiên vẫn tuyên bố ủng hộ nền ḥa b́nh tại Việt Nam do Hiệp định Genève mang lại và thúc đẩy sự thống nhất hai miền Nam Bắc Việt Nam bằng các cuộc bầu cử tự do dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên, báo cáo của CIA cho Tổng thống Mỹ Eisenhower chỉ ra rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành.[73], do đó Mỹ thực tế lại ủng hộ việc Việt Nam Cộng Ḥa từ chối tổ chức Tổng tuyển cử tự do thống nhất Việt Nam[cần dẫn nguồn].

    Mỹ coi miền Nam Việt Nam là địa bàn quan trọng trong chiến lược chống chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á nên bắt đầu các hoạt động can thiệp tại Việt Nam. Đúng 20 ngày sau khi Hiệp định Genève về Đông Dương được kư kết, đô đốc Mỹ Sabin đến Hà Nội, họp với phái đoàn quân sự Mỹ tại đây. Năm 1955, phái đoàn quân sự này của Mỹ do Edward Lansdale chỉ huy, người của CIA và đă làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953, đă thực hiện các hoạt động tuyên truyền tâm lư chiến để kêu gọi dân chúng miền Bắc di cư vào Nam;[76] giúp huấn luyện sỹ quan người Việt và các lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng ḥa) tại các căn cứ quân sự Mỹ ở Thái B́nh Dương; xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại Philippines; bí mật đưa một lượng lớn vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam; giúp đỡ phát triển các kế hoạch "b́nh định Việt Minh và các vùng chống đối".[77] Trong 2 năm 1955-1956, Mỹ đă bỏ ra 414 triệu đôla giúp trang bị cho các lực lượng thường trực quân đội Việt Nam Cộng ḥa, gồm 170.000 quân và lực lượng cảnh sát 75.000 quân, chiếm 80% ngân sách quân sự của chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Số viện trợ này giúp Việt Nam Cộng ḥa đủ sức duy tŕ bộ máy hành chính và quân đội khi không c̣n viện trợ của Pháp. Quân đội Việt Nam Cộng ḥa dần thay thế chiến thuật và vũ khí của Pháp bằng của Mỹ.

    Chính phủ Việt Nam Cộng ḥa tiếp tục theo đuổi chính sách của Quốc gia Việt Nam là từ chối hiệp thương tổng tuyển cử tự do với lư do "nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc"[72]. Lư do này tương tự như trong cuộc bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa I năm 1946, khi một số đảng phái đối lập với Việt Minh không ra ứng cử và cho rằng chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được.[78] Có tài liệu cho rằng lá phiếu không bí mật, v́ Sắc lệnh 51 cho phép những cử tri không biết chữ được nhờ người viết hộ[79][80]. Theo sử gia Trần Trọng Kim (đồng thời là Cựu Thủ tướng Đế quốc Việt Nam được Nhật Bản bảo hộ) th́ có nơi người dân bị cưỡng bách bầu cho Việt Minh.[81] Nhưng trên thực tế, nhiều trí thức, đại biểu có uy tín của các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc đă trúng cử tại Quốc hội khóa I, họ hầu hết chưa phải là đảng viên cộng sản.[78] Có đến 43% đại biểu trúng cử không tham gia đảng phái nào[82], trong đó có cụ Ngô Tử Hạ, một nhân sĩ công giáo và là chủ của các xưởng in lớn.[78] Thực tế, theo các báo cáo của Ủy ban giám sát quốc tế, trong giai đoạn 1954-1956 họ chỉ nhận được 19 đơn khiếu nại về việc trả thù chính trị trên toàn lănh thổ miền Bắc Việt Nam[83].

    Đồng thời với việc từ chối tuyển cử, chế độ Việt Nam Cộng ḥa ra sức củng cố quyền lực, đàn áp khốc liệt những người người kháng chiến cũ, Đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, những người không chịu ly khai chủ nghĩa cộng sản và quy phục. Việt Nam Cộng ḥa đưa ra một loạt các chính sách "Tố Cộng Diệt Cộng", ban hành đạo luật 10-59 công khai hành quyết những người cộng sản bằng máy chém.[84]

    Trong khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa vẫn chuẩn bị cho tổng tuyển cử và cố gắng theo đuổi các giải pháp ḥa b́nh.[85] Hà Nội t́m kiếm hỗ trợ quốc tế, kêu gọi các đồng chủ tịch hội nghị Genève, nhắc nhở Pháp về trách nhiệm đối với việc thống nhất hai miền Việt Nam thông qua Tổng tuyển cử tự do theo đúng tinh thần của Bản Tuyên bố cuối cùng tại Hội nghị Genève. Tháng 7 năm 1956, sau khi yêu cầu đàm phán không được chính quyền Ngô Đ́nh Diệm trả lời, Hà Nội yêu cầu các đồng chủ tịch hội nghị Genève tổ chức một hội nghị mới, yêu cầu này lại được lặp lại vào tháng 8. Các yêu cầu đàm phán với chính phủ Ngô Đ́nh Diệm tiếp tục được gửi vào tháng 6 và tháng 7 năm 1957, tháng 3 và tháng 12 năm 1958, tháng 7 năm 1959, và tháng 7 năm 1960, nhưng đều bị từ chối.

    Trong khi tiến tŕnh yêu cầu và từ chối đàm phán vẫn tiếp diễn, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa c̣n cố tái lập quan hệ thương mại giữa 2 miền,[86] để giúp "nhân dân hai vùng trao đổi kinh tế, văn hóa và xă hội, nhằm tạo thuận lợi cho việc khôi phục cuộc sống b́nh thường của người dân." Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (khoá II) dự kiến: "Muốn thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà b́nh, cần phải tiến hành thống nhất từng bước; từ chỗ tạm thời chia làm hai miền tiến đến chỗ thống nhất chưa hoàn toàn, từ chỗ thống nhất chưa hoàn toàn sẽ tiến đến chỗ thống nhất hoàn toàn." Nhưng cũng như vấn đề bầu cử, Việt Nam Cộng ḥa thậm chí c̣n từ chối cả việc thảo luận.

    Về quân sự, miền Nam Việt Nam từ sau khi kư kết Hiệp định Genève, tồn tại ba lực lượng quân sự chủ yếu là: B́nh Xuyên, các giáo phái (Cao Đài, Hoà Hảo), các đảng phái quốc gia (Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng); Việt Nam Cộng ḥa và những người kháng chiến của Việt Minh đóng ở miền Nam.

    Nh́n chung, trong giai đoạn 1955-1959 quân đội Việt Nam Cộng ḥa giữ ưu thế trên chiến trường miền Nam. Nhiều cuộc xung đột vũ trang giữa quân đội Việt Nam Cộng ḥa với B́nh Xuyên, một bộ phận thân Pháp trong các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo được sự giúp đỡ của người cộng sản, lực lượng quân sự của các đảng phái quốc gia... diễn ra quyết liệt, với kết quả là các lực lượng này thất bại và phải giải thể hoặc gia nhập vào quân đội Việt Nam Cộng hoà. C̣n lại hai lực lượng đối lập nhau gay gắt là: Việt Nam Cộng ḥa và lực lượng Việt Minh miền Nam.

    Trong giai đoạn này, lực lượng Việt Minh c̣n ở lại miền Nam theo ước tính của Mỹ, vẫn c̣n 100.000[70] lui vào bí mật với chủ trương phát động nhân dân đấu tranh chính trị đ̣i thực hiện Tổng tuyển cử, chống các chương tŕnh phát triển xă hội của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm như "Cải cách điền địa", "Cải tiến nông thôn" và bảo vệ cán bộ cách mạng, nhưng họ vẫn sẵn sàng tái hoạt động vũ trang nếu t́nh thế yêu cầu với số vũ khí được chôn giấu từ trước. Từ cuối năm 1955, đă xuất hiện những vụ ám sát với tên gọi "diệt bọn ác ôn và bọn do thám chỉ điểm". Những hoạt động vũ trang của Việt Minh ngày càng gia tăng về quy mô, lan rộng khắp miền Nam. Đến cuối năm 1959 t́nh h́nh an ninh quân sự của miền Nam thật sự bất ổn, những thành viên Việt Minh ở miền Nam đă phát động chiến tranh du kích khắp nơi với quy mô trung đội hoặc đại đội nhưng lấy phiên hiệu đến cấp tiểu đoàn.[87] T́nh h́nh chính trị trở nên xấu đi v́ đường lối cứng rắn của chính phủ Việt Nam Cộng ḥa cũng như thái độ bất hợp tác của Việt Minh, vốn không công nhận tính hợp pháp của chế độ Việt Nam Cộng ḥa.

    Tháng 9 năm 1960, sau khi đấu tranh chính trị hoà b́nh để thống nhất đất nước theo tinh thần của Bản Tuyên bố cuối cùng tại Hội nghị Genève không có kết quả, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa chính thức ủng hộ các hoạt động đấu tranh vũ trang và chính trị của lực lượng Việt Minh miền Nam.[88] Đến thời điểm này, sự căng thẳng của lực lượng Việt Minh ở miền Nam đă lên đến mức mà Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa phải ủng hộ đấu tranh vũ trang ở phía Nam vĩ tuyến 17. Hội nghị Trung ương Đảng Lao động lần thứ 15 (tháng 1-1959) quyết định: "Phải qua con đường đấu tranh cách mạng bằng bạo lực, mà cụ thể là dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ và tập đoàn quân sự tay sai của Mỹ."[89]

    Như vậy năm 1960 trở thành một năm có biến động lớn, mở ra một giai đoạn mới của Chiến tranh Việt Nam.
    Miền Bắc


    Để phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xă hội và chuẩn bị cho cuộc chiến dự kiến có thể sắp xảy ra,[90] tại miền Bắc, Đảng Lao động Việt Nam tái tổ chức lại xă hội (bao gồm cả lực lượng vũ trang) theo mô h́nh xă hội chủ nghĩa như ở các nước Liên Xô, Trung Quốc, kết hợp với các nguyên tắc của một xă hội thời chiến.

    Về nông nghiệp, ngay từ năm 1953, Đảng Lao động tổ chức các chiến dịch cải cách ruộng đất để thực hiện mục tiêu người cày có ruộng, nhưng phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng.[91] Từ năm 1956, các chiến dịch sửa sai được tiến hành. Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố: Thời kỳ khôi phục kinh tế đă kết thúc và mở đầu thời kỳ phát triển kinh tế một cách có kế hoạch. Tháng 11/1958, Đảng Lao động quyết định đề ra kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa trong 3 năm 1958-1960 và tiến hành cải tạo xă hội chủ nghĩa (bao gồm hợp tác hoá nông nghiệp và cải tạo tư bản tư doanh).[92]

    Về văn hóa, những sai lầm của cải cách ruộng đất đă gây tác động đến một số giới văn nghệ sĩ. Theo Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 3 do Lê Mậu Hăn chủ biên, trong bối cảnh phương Tây đang tiến hành gây rối loạn ở hệ thống xă hội chủ nghĩa, lực lượng t́nh báo nước ngoài đă kích động một bộ phận văn nghệ sĩ có chính kiến đối lập tạo nên phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Ban đầu, Nhân Văn-Giai Phẩm chỉ phê phán những sai lầm, nhưng về sau dần phủ nhận sự lănh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, phủ nhận quyền lănh đạo duy nhất của Đảng Lao động Việt Nam về Chính trị và Nhà nước thậm chí kích động kêu gọi nhân dân xuống đường biểu t́nh. Cuối năm 1956, sau các biến động trên thế giới, chính quyền quyết định chấm dứt Nhân Văn-Giai Phẩm.[93]

    Về xă hội, chính sách về kinh tế khiến mô h́nh xă hội cũ thay đổi: giai cấp địa chủ hầu như bị xóa bỏ, giai cấp tư sản th́ được đưa vào các cơ sở công tư hợp doanh, được nhà nước mua lại tài sản để trở về làm lao động.[94] Đời sống xă hội dựa trên nguyên tắc kỷ luật hóa cao độ với sự lănh đạo toàn diện của Đảng Lao động Việt Nam. Xă hội nhanh chóng chuẩn bị cho cuộc sống quân sự hóa cao độ theo phương châm Toàn dân - Toàn diện và Mỗi người dân đều là một chiến sĩ. Quốc hội, cơ quan công quyền tối cao của người dân, sau cuộc bầu cử năm 1946 th́ phải đến năm 1960 mới tuyển cử Khóa II.[95] Quốc hội cũng không được thực thi đầy đủ trách nhiệm lập pháp giao phó mà thường chỉ thông qua sắc lệnh và đạo luật mà Chính phủ đưa ra. Ngay cả trong phạm vi đó, Quốc hội cũng bị hạn chế v́ Quốc hội không thường nhóm họp mà đă có ban Thường vụ Quốc hội đặc quyền đảm nhiệm.[95] Trong thời kỳ này, xă hội Miền Bắc hoàn toàn bị chi phối bởi nỗi lo âu, nghi kỵ dưới sự điều khiển của chính quyền,[96]. Các quyền dân sự bị thu hẹp, các quyền tự do chính trị, tự do ngôn luận, xuất bản báo chí bị hạn chế tối đa.[95][97] Quyền làm việc, cư ngụ, đi lại, giao thiệp, cưới hỏi đều phải có sự cho phép của Nhà Nước. Tóm lại, cả xă hội Miền Bắc hoạt động v́ một mục tiêu chung: làm hậu cần cho chiến trường ở Miền Nam.[97]

    Quân đội Nhân dân Việt Nam được tổ chức lại, nhất là về mặt chính trị, bảo đảm trung thành tuyệt đối với Đảng. Việc hiện đại hóa quân đội được tiến hành nhưng chậm và không đồng bộ, nhiều sư đoàn bộ binh được thành lập thêm nhưng vẫn mang tính bộ binh đơn thuần, hoả lực hạng nặng thiếu và chắp vá. Quân đội chưa có các quân binh chủng kỹ thuật cao như không quân, radar, hải quân, tăng thiết giáp... c̣n đang trong quá tŕnh sơ khai; phương tiện vận tải, thông tin liên lạc c̣n yếu kém. Nguyên nhân là do nền công nghiệp của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa chưa lớn mạnh, đồng thời dựa nhiều nguồn viện trợ từ Liên Xô, Trung Quốc có phần hạn chế trong giai đoạn này. Vào cuối năm 1959, miền Bắc đă bí mật cho tiến hành thăm ḍ, phát triển tuyến đường tiếp vận chiến lược: Đường Trường Sơn – c̣n được gọi là Đường ṃn Hồ Chí Minh. Đây sẽ là một tuyến vận chuyển chiến lược đảm bảo nhu cầu chiến tranh sẽ được mở rộng tại miền Nam sau này. Mặc dù vào lúc đó, tuyến đường này vẫn chỉ là các lối ṃn trong rừng cho giao liên và các toán cán bộ vào Nam.

    Nh́n chung, các nỗ lực tranh đấu của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa vào thời kỳ này là đấu tranh chính trị và ngoại giao để đ̣i tổng tuyển cử theo Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève, mà nếu nó xảy ra các lănh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tin rằng họ sẽ chiến thắng. Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ở giai đoạn này đang tích lũy nhưng chưa có ư định tiến hành chiến tranh tại miền Nam.
    Miền Nam


    Ở miền Nam, nhờ những nỗ lực chính trị của bản thân cộng với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, Ngô Đ́nh Diệm – được bổ nhiệm làm thủ tướng và trở thành tổng thống sau một cuộc trưng cầu ư dân bị tố cáo là gian lận ngày 23 tháng 10 năm 1955 – đă nhanh chóng ổn định t́nh h́nh chính trị, xă hội. Chính phủ Hoa Kỳ đă viện trợ lớn cho Việt Nam Cộng ḥa thực hiện những chương tŕnh cải cách và phát triển xă hội trên nhiều lĩnh vực như xóa mù chữ, tái định cư, cải cách điền địa, phát triển nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp, cải cách hành chính, xây dựng hệ thống luật pháp... Việt Nam Cộng hoà đă đạt được một số thành quả quan trọng: kinh tế phục hồi và phát triển, hệ thống y tế và giáo dục các cấp được xây dựng, văn hoá phát triển, đời sống dân chúng được cải thiện[98]. Với ảnh hưởng tuyệt đối của ḿnh, Hoa Kỳ đ̣i hỏi chính phủ Việt Nam Cộng ḥa phải xây dựng một lănh thổ "phi cộng sản" (tức là theo chủ nghĩa chống Cộng) và sẵn sàng đương đầu với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ở miền Bắc. Đánh giá về chế độ Việt Nam Cộng ḥa, giáo sư Mỹ Noam Chomsky đă nói rằng: "Chính phủ Nam Việt Nam đă trở thành nơi ẩn nấp của những người Việt Nam từng đi theo Pháp trong cuộc chiến đấu chống lại nền độc lập của đất nước họ. Chính phủ Nam Việt Nam không có cơ sở thành tŕ trong nhân dân. Nó đi theo hướng bóc lột dân chúng nông thôn và tầng lớp dưới ở thành thị, trên thực tế nó là sự tiếp tục chế độ thuộc địa của Pháp"[99]. Ngay cả Lầu Năm Góc cũng nhận xét: "Không có sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Diệm hầu như chắc chắn không thể đứng vững được ở miền Nam... Nam Việt Nam về bản chất là một sáng tạo của Hoa Kỳ"[100].

    Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm nhanh chóng thanh lọc bộ máy cầm quyền, đưa những người trung thành với ông vào các vị trí quan trọng. Nhà nước Việt Nam Cộng ḥa, lúc đó mang biểu hiện của h́nh thức tập quyền, chính trị của quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào các đặc tính cá nhân của Ngô Đ́nh Diệm và gia đ́nh ông. Quân đội Việt Nam Cộng ḥa được cấp tốc trang bị và huấn luyện với sự giúp đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, vào thời điểm đó xét về trang bị được xem là đứng đầu khu vực Đông Nam Á, vượt trội hơn Quân đội Nhân dân Việt Nam - đang là đối thủ tiềm tàng ở miền Bắc.

    Điều 7 Hiến pháp Việt Nam Cộng ḥa 1956 quy định "Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi h́nh thái đều trái với các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp". Việt Nam Cộng ḥa "kêu gọi" những người cộng sản đang hoạt động bí mật ly khai tổ chức, ra "hợp tác" với chế độ mới đồng thời cưỡng ép những người bị bắt từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.[101] Dù vậy hệ thống tổ chức bí mật của Việt Minh vẫn tiếp tục tồn tại và phản kháng bằng cách tuyên truyền chống chính phủ, tổ chức những cuộc biểu t́nh chính trị gây sức ép lên chính phủ Việt Nam Cộng ḥa.

    Chính phủ Việt Nam Cộng ḥa tiến hành các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, liên gia pḥng vệ, dồn dân lập ấp chiến lược... một cách quyết liệt[102] không tính đến các đặc điểm tâm lư và quyền lợi của dân chúng cũng như hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. Những biện pháp cứng rắn nhất được áp dụng, ví dụ ngày 16-8-1954, quân Việt Nam Cộng hoà đă nổ súng trấn áp đoàn biểu t́nh ở thị xă G̣ Công, bắn chết 8 người và 162 người bị thương.[103] Trong thời gian từ 1955 đến 1960, theo số liệu của Việt Nam Cộng hoà có 48.250 người bị tống giam,[70] theo một nguồn khác có khoảng 24.000 người bị thương, 80.000 bị hành quyết hay bị ám sát, 275.000 người bị cầm tù, thẩm vấn hoặc với tra tấn hoặc không, và khoảng 500.000 bị đưa đi các trại tập trung.[104] Điều này đă làm biến dạng mô h́nh xă hội, suy giảm niềm tin của dân chúng vào chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và đẩy những người kháng chiến (Việt Minh) vào rừng lập chiến khu.

    Về mặt tôn giáo, chính quyền của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm được lực lượng Công giáo ủng hộ mạnh ở thành thị (gia đ́nh Ngô Đ́nh Diệm cũng đều là người Công giáo) và bị chỉ trích thiên vị Công giáo kể cả trong cơ cấu bộ máy chính quyền[cần dẫn nguồn]. Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm coi những người Công giáo là thành phần đáng tin cậy về mặt chính trị, không có quan hệ hoặc chịu ảnh hưởng của những người cộng sản. Mặc dù vậy, phần lớn người Việt ở miền Nam vẫn giữ truyền thống theo đạo Phật. Mâu thuẫn v́ tôn giáo sau này cũng trở thành một trong những động lực khởi phát cuộc đảo chính của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa chống lại Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm vào tháng 11 năm 1963.

  3. #13
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Chiến tranh Việt Nam
    Wikipedia

    Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, hay Chiến tranh Việt Nam (1954-1975)
    Một phần của Chiến tranh Lạnh và Chiến tranh Đông Dương
    P3



    Giai đoạn 1954 - 1956

    Theo Hiệp định Genève, lực lượng quân sự của mỗi bên tham gia cuộc chiến Đông Dương (1945-1955) sẽ rút khỏi lănh thổ của phía bên kia. Lực lượng Quân đội Nhân dân ở miền Nam phải di chuyển về phía Bắc vĩ tuyến 17. Nhưng theo ước tính của Mỹ, vẫn c̣n 100.000[70] cán bộ, đảng viên các ngành vẫn được bố trí ở lại.[105] Đồng thời một số cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang dày dạn kinh nghiệm được chọn lọc làm nhiệm vụ bảo vệ lănh đạo Đảng, thâm nhập vào tổ chức quân sự và dân sự của đối phương hoặc nắm lực lượng vũ trang giáo phái để dự pḥng cho việc phải chiến đấu vũ trang trở lại.[105] Việt Minh cũng chôn giấu một số vũ khí và đạn dược tốt để sử dụng khi cần.[106] Bên cạnh đó Trung ương Đảng đă cử nhiều cán bộ có kinh nghiệm, am hiểu chiến trường về miền Nam lănh đạo phong trào hoặc hoạt động trong hàng ngũ đối phương.[107]

    Trong giai đoạn này, Việt Minh chủ trương dùng nhiều h́nh thức tuyên truyền chống chính quyền Ngô Đ́nh Diệm và lợi dụng các tổ chức hợp pháp (hội đồng hương, công đoàn, vạn cấy...) tập hợp quần chúng đấu tranh chính trị đ̣i Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ cán bộ - đảng viên. Hoạt động vũ trang bị hạn chế nên thời kỳ này chưa có những xung đột quân sự lớn và công khai giữa hai bên. Các vụ bạo lực chỉ giới hạn ở mức tổ chức các vụ ám sát dưới tên gọi diệt ác trừ gian, hỗ trợ các giáo phái chống chính quyền Ngô Đ́nh Diệm hoặc thành lập các đại đội dưới danh nghĩa giáo phái[108], hoặc dưới h́nh thức các tổ chức quần chúng (dân canh, chống cướp...) để đấu tranh chính trị.

    Chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đối phó với những cuộc đấu tranh chính trị bằng cách thực hiện chiến dịch "tố cộng, diệt cộng" nhằm loại bỏ những cán bộ Việt Minh hoạt động bí mật. Từ tháng 5-1955 đến tháng 5-1956, Ngô Đ́nh Diệm phát động “chiến dịch tố cộng” giai đoạn 1 trên quy mô toàn miền Nam; tháng 6-1955, mở chiến dịch Thoại Ngọc Thầu càn quét những khu từng là căn cứ kháng chiến chống Pháp của Việt Minh. Việt Minh đáp trả bằng những cuộc biểu t́nh đ̣i thả cán bộ của họ hoặc tổ chức các cuộc diệt ác trừ gian - tiêu diệt nhân viên và cộng tác viên của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm được gọi là "bọn ác ôn và bọn do thám chỉ điểm".[109]

    Giai đoạn 1956 - 1959

    Tháng 6/1956, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam họp và ra Nghị quyết "Về t́nh h́nh, nhiệm vụ và công tác miền Nam" khẳng định "nhiệm vụ cách mạng của ta ở miền Nam là phản đế và phản phong kiến” và “H́nh thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của các giáo phái chống Diệm” đồng thời “Cần củng cố lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy tŕ và phát triển lực lượng vũ trang. Tổ chức tự vệ trong quần chúng nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần thiết”.[110]

    Tháng 8/1956, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ Lê Duẩn soạn "Đề cương cách mạng miền Nam". Đề cương xác định rơ: "Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài, phát xít Ngô Đ́nh Diệm, tay sai của Mỹ, giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc, phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ để cùng với miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam ḥa b́nh, thống nhất, độc lập và dân chủ nhân dân."[111]

    Tháng 12/1956, Xứ ủy Nam Bộ mở hội nghị ở Phnompenh (Campuchia) nghiên cứu nghị quyết Bộ Chính trị và "Đề cương cách mạng miền Nam". Hội nghị ra quyết định "Con đường tiến lên của Cách mạng miền Nam là phải dùng bạo lực, tổng khởi nghĩa giành chính quyền... Hiện nay, trong chừng mực nào đó phải có lực lượng vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và tiến tới sau này dùng nó đánh đổ Mỹ Diệm... cần tích cực xây dựng lực lượng vũ trang tuyên truyền, lập đội vũ trang bí mật, tranh thủ vận động cải tạo lực lượng giáo phái bị Mỹ Diệm đánh tan đứng vào hàng ngũ nhân dân, lợi dụng danh nghĩa giáo phái ly khai để diệt ác ôn."[112]

    Để thực hiện đường lối cách mạng mà Bộ Chính trị và Xứ ủy Nam Bộ đă xác định, lực lượng cách mạng toàn miền Nam đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, tổ chức biểu t́nh, chống cải cách điền địa, ám sát và đấu tranh vũ trang (ở mức độ nhỏ[113]) chống chính quyền Việt Nam Cộng ḥa. Tổ chức các cuộc biểu t́nh chống việc thi hành nghĩa vụ quân sự cho chính quyền Việt Nam Cộng ḥa, tổ chức nông dân chống địa chủ thu tiền thuê đất; ám sát, tiêu diệt lực lượng bảo an, "tay sai ác ôn", các đội biệt kích; tổ chức nhân dân vây đồn, vây quận lị; tiêu diệt các khu dinh điền, khu trù mật...[114][115]

    Cứ như vậy, sự đối đầu giữa hai bên ngày càng mạnh, hoạt động bạo lực ngày càng gia tăng, chính trị miền Nam - đặc biệt ở nông thôn - ngày càng bất ổn. Để đối phó với sự gia tăng hoạt động của những người cộng sản, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đẩy mạnh hoạt động chống Cộng. Những biện pháp càn quét của Việt Nam Cộng hoà thu được kết quả khiến những người cộng sản bị thiệt hại nặng.[105]

    Trước t́nh h́nh đó, cuối năm 1958, Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo cho các Liên tỉnh uỷ không được hoạt động vũ trang, cho phần lớn cán bộ đảng viên tạm ngừng hoạt động hoặc đổi địa bàn hoạt động để giữ ǵn lực lượng, một bộ phận ra hoạt động hợp pháp lâu dài. Lực lượng vũ trang vẫn được duy tŕ nhưng không c̣n hoạt động mà rút vào căn cứ Đồng Tháp hoặc biên giới Campuchia sinh sống. Những người đổi địa bàn hoạt động bị bắt hơn phân nửa, một số khác mất tinh thần, bỏ công tác, lo làm ăn. Số c̣n hoạt động nhiều người bị mất tinh thần, giảm liên hệ với quần chúng, giảm hoạt động tuyên truyền. Nh́n chung đến cuối năm 1958, sau 2 năm thực hiện chủ trương dùng đấu tranh chính trị, dùng bạo lực, tổng khởi nghĩa giành chính quyền, lực lượng cách mạng miền Nam thiệt hại nặng, phong trào đấu tranh của cách mạng miền Nam đi xuống.[116]

    Ngày 6/5/1959, Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà thông qua luật số 91 mang tên Luật 10-59 quy định việc tổ chức các Ṭa án quân sự đặc biệt với lư do "xét xử các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Ḥa". Theo luật 10-59, bị can có thể được đưa thẳng ra xét xử mà không cần mở cuộc điều tra, án phạt chỉ có hai mức: tử h́nh hoặc tù khổ sai, xét xử kéo dài 3 ngày là tối đa, không có ân xá hoặc kháng án; dụng cụ tử h́nh có cả máy chém. Sau khi luật này được ban hành, lực lượng cách mạng miền Nam bị chính quyền Diệm đẩy mạnh truy quét, bắt bớ, khủng bố, đặc biệt là các đảng viên Đảng cộng sản nên lực lượng bị hao hụt nặng nề.[117]

    Ngày 13/1/1959, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp Hội nghị lần thứ 15 ra Nghị quyết 15 "Về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà b́nh, thực hiện thống nhất nước nhà". Nghị quyết 15 xác định "V́ chế độ miền Nam là một chế độ thực dân và nửa phong kiến cực kỳ phản động và tàn bạo, v́ chính quyền miền Nam là chính quyền đế quốc và phong kiến độc tài, hiếu chiến, cho nên ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ... Theo t́nh h́nh cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng th́ con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân. Đó là mục tiêu phấn đấu của nhân dân miền Nam hiện nay."[118]

    Tháng 2/1959, sau khi nhận được thông báo nội dung cơ bản Nghị quyết 15, Xứ uỷ Nam Bộ chỉ đạo các tỉnh tăng cường hoạt động vũ trang hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở nông thôn.[105] Trên toàn miền Nam, lực lượng cách mạng miền Nam thực hiện một số cuộc tấn công vũ trang quy mô trung đội hoặc đại đội (được phiên hiệu thành tiểu đoàn) vào các đơn vị lực lượng quân sự của Việt Nam Cộng hoà.

    Nh́n chung trong năm 1959, lực lượng cách mạng miền Nam vẫn cố gắng tái hoạt động vũ trang dù đang gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, phong trào đấu tranh chính trị và hệ thống tổ chức Đảng dần phục hồi, nhiều cơ sở quần chúng được xây dựng.[105] Tuy nhiên đến lúc này, những người cộng sản miền Nam đă rất suy yếu so với năm 1955 nên rất cần sự hỗ trợ lớn từ miền Bắc.[119] Các đoàn cán bộ từ miền Bắc (trong đó có nhiều cán bộ người miền Nam từng tập kết ra Bắc năm 1955) bắt đầu được cử vào để chi viện, tăng cường cho miền Nam.

    Giai đoạn 1960–1965

    Giai đoạn 1960–1965 là giai đoạn miền Bắc công khai hậu thuẫn những người Cộng sản miền Nam và bắt đầu đem quân thâm nhập miền Nam.[120] Những người Cộng sản miền Nam thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam. Trong khi đó, Hoa Kỳ giúp Việt Nam Cộng ḥa tiến hành chiến lược Chiến tranh đặc biệt. Tuy nhiên, quân Giải phóng vẫn thắng thế trên chiến trường, đánh những chiến dịch lớn sát các đô thị. Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm không kiểm soát nổi khủng hoảng chính trị và bị Hội đồng Quân nhân Cách mạng đảo chính. Nhiều tài liệu của cả hai bên cho rằng chính Mỹ đă bật đèn xanh[121][122] cho cuộc đảo chính này và gọi điều này là việc "thay ngựa giữa ḍng". Việt Nam Cộng ḥa sau đó tiếp tục khủng hoảng chính trị cho đến khi Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng thống.

    Bối cảnh miền Bắc


    Trong thập niên 1960 quan điểm của Liên Xô về chiến tranh Việt Nam đă có nhiều thay đổi. Từ quan điểm cùng chung sống ḥa b́nh của Nikita Khrushchev trong chính trị quốc tế, nghĩa là phía Liên Xô muốn có sự chung sống giữa hai nhà nước Việt Nam và thống nhất thông qua trưng cầu dân ư với sự giúp đỡ quân sự hạn chế đến ủng hộ đấu tranh vũ trang làm cách mạng bằng bạo lực của Leonid Brezhnev với viện trợ quân sự to lớn cho miền Bắc Việt Nam. Khi Khrushchev bị hạ bệ, Leonid Brezhnev lên thay, ban đầu chính sách của Liên Xô vẫn giữ nguyên nhưng đến đầu năm 1965, tân thủ tướng Liên Xô, Kosygin, thăm Bắc Kinh, Hà Nội, B́nh Nhưỡng nhằm hai mục đích hàn gắn quan hệ Xô – Trung và ngăn chặn hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam.

    Trong chuyến thăm Hà Nội, tháp tùng Kosygin có các chuyên viên tên lửa. Và ngày 10 tháng 2 năm 1965, Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa kư Hiệp ước hỗ trợ kinh tế và quân sự Việt - Xô. Từ đây sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô cho miền Bắc ngày càng tăng và đóng vai tṛ quan trọng trong chiến tranh Việt Nam.

    Trung Quốc, lúc đó đang cạnh tranh vai tṛ lănh đạo phe Xă hội chủ nghĩa với Liên Xô[123], cũng không muốn vai tṛ của ḿnh kém hơn đối thủ cùng tư tưởng. Họ viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, trong giai đoạn này, c̣n nhiều hơn Liên Xô. Họ khuyến khích Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa chiến đấu giải phóng miền Nam mà không sợ quân đội Mỹ tham chiến.

    Mùa hè 1962, Trung Quốc gửi cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa súng đạn đủ để trang bị cho 200 tiểu đoàn. Trung Quốc đồng ư gửi t́nh nguyện quân vào Bắc Việt Nam nếu quân Mỹ vượt qua vĩ tuyến 17. Tính từ 1956 đến 1963, Trung Quốc đă chuyển cho miền Bắc số lượng vũ khí trị giá khoảng 320 triệu nhân dân tệ[124]. Tháng 12-1964, bộ trưởng quốc pḥng Trung Quốc thăm Hà Nội và kư Hiệp ước hữu nghị hợp tác quân sự Việt-Trung.

    Về phía ḿnh, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa chủ trương giữ quan hệ tốt với cả Trung Quốc lẫn Liên Xô để tranh thủ càng nhiều viện trợ vũ khí càng tốt. Tuy nhiên Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa bác bỏ mọi đề xuất của 2 nước này đem quân tới Việt Nam tham chiến, cũng như không chấp nhận mọi sự can thiệp vào đường lối chiến lược của họ. Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa sẽ tự chiến đấu bằng sức của ḿnh.

    Chiến trường miền Nam



    Thanh niên sinh viên Sài G̣n biểu t́nh chống chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa.

    Từ năm 1960, với chủ trương "Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xă hội" của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng ḥa,[125] quân Giải phóng ở chiến trường miền Nam phát động liên tiếp các đợt tiến công quy mô kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang mà cao trào là phong trào Đồng khởi. Phong trào này gây cho chính phủ Việt Nam Cộng ḥa thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm lúng túng trong việc lập lại trật tự, dẫn đến một phần đáng kể của nông thôn miền Nam đă thành vùng do Mặt trận Giải phóng kiểm soát (cuối năm 1960). Tới cuối năm 1960, quân Giải phóng Miền nam đă kiểm soát 600/1298 xă ở Nam Bộ, 904/3829 thôn ở đồng bằng ven biển Trung bộ và 320/5721 thôn ở Tây Nguyên. Trong 2.627 xă toàn miền Nam, quân Giải phóng đă lập chính quyền tự quản ở 1.383 xă.[126]

    Nhân đà thắng lợi, ngày 20 tháng 12 năm 1960 những người cộng sản miền Nam thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam gồm nhiều đại diện các thành phần tôn giáo, tầng lớp xă hội, dân tộc khác nhau do những người cộng sản lănh đạo. Quân Giải phóng Miền Nam cũng được thành lập ngay sau đó, ngày 15 tháng 2 năm 1961, theo nghị quyết của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam và Quân uỷ Trung ương Quân đội Nhân dân Việt Nam.[127]

    Đứng trước t́nh h́nh trên, tướng Maxwell D. Taylor được phái sang Việt Nam để hỗ trợ gấp cho Việt Nam Cộng ḥa. Kế hoạch Staley-Taylor (hay chiến tranh đặc biệt) với việc sử dụng chủ yếu quân lực Việt Nam Cộng ḥa đă được trang bị bằng vũ khí tối tân do Mỹ cung cấp và thực hiện các kế hoạch quân sự do cố vấn Mỹ hoạch định. Nhà nước Hoa Kỳ cũng tăng thêm nguồn viện trợ kinh tế cho chính phủ Ngô Đ́nh Diệm nhằm tăng quân số và tiêu dùng cho các chi phí quân sự. Với khả năng cơ động cao, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa đă giành được những thắng lợi nhất định. Đồng thời, chính phủ Việt Nam Cộng ḥa thắt chặt chính sách Ấp chiến lược nhằm cách ly quân Giải phóng với dân chúng.

    Hoa Kỳ quyết tâm không bỏ cuộc tại Nam Việt Nam. Năm 1964, Mỹ bắt đầu chuyển hướng sự chú ư từ miền Nam hướng ra miền Bắc và tuyên bố sẽ không chấp nhận việc tăng chuyển quân và vũ khí từ miền Bắc vào Nam.[128] Hoa Kỳ tăng cường can thiệp vào chiến tranh Việt Nam và tháng 2 năm 1965, không quân Mỹ oanh kích miền Bắc. Để đối phó với sự gia tăng chiến tranh của Mặt trận Giải phóng miền Nam, Hoa Kỳ giúp Việt Nam Cộng ḥa tiến hành chiến tranh đặc biệt và tăng cường viện trợ kinh tế cũng như quân sự.


    Thiết giáp xa M-113 của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa trên chiến trường

    Về phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng, lực lượng Quân Giải phóng miền Nam trong thời điểm này được xem là không c̣n đủ để đáp ứng t́nh h́nh do chiến tranh mở rộng về quy mô và số lượng. V́ vậy, binh sĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Bắc đă hành quân vào Nam theo đường ṃn Trường Sơn để tăng cường cho Quân Giải phóng. Tuy nhiên, trong thời kỳ 1960-1965 các đơn vị từ miền Bắc vào chủ yếu đứng chân ṿng ngoài tại tuyến đường Trường Sơn, Tây Nguyên để xây dựng các căn cứ quân sự phục vụ chiến sự sau này.

    Sau gần hai năm đối phó với chiến tranh đặc biệt, Quân Giải phóng miền Nam đă đúc kết kinh nghiệm đối phó với chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận của quân đội Việt Nam Cộng ḥa. Điều này đă tạo ra thắng lợi cho họ trong trận Ấp Bắc (ngày 2 tháng 1 năm 1963 tại tỉnh Tiền Giang). Trong các năm 1963 và 1964 Quân Giải phóng miền Nam thắng thế tiến công trên toàn chiến trường và đến tháng 12 năm 1964 họ tiến hành chiến dịch B́nh Giă tại tỉnh Bà Rịa làm thiệt hại các chiến đoàn thiết giáp cơ động và các đơn vị dự bị chiến lược của quân đội Việt Nam Cộng ḥa.[129] Ngoài ra những người Cộng sản cũng tiếp tục đánh phá cơ cấu hành chính của Việt Nam Cộng ḥa. Tính đến năm 1963 có 6.700 người bị ám sát và 18.200 vụ bắt cóc.[130] Quân đội Việt Nam Cộng ḥa trở nên yếu thế buộc phải lui về thế thủ gần các thành phố lớn.

    Ngày 8 tháng 5 năm 1963 xảy ra sự kiện Phật đản tại Huế, bắt nguồn từ lư do tôn giáo. Sự kiện này đă làm chấn động trên toàn thế giới, cũng như đă tạo ra phong trào phản đối sự lộng hành gia đ́nh trị của chính phủ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, dưới sự chỉ huy của tướng Dương Văn Minh và sự bật đèn xanh của Hoa Kỳ[131], đă làm đảo chính lật đổ, giết chết hai anh em ông Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu và xử bắn ông Ngô Đ́nh Cẩn.

    Ngay sau đó chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa rơi vào khủng hoảng lănh đạo trầm trọng với 14 cuộc đảo chính liên tiếp trong một năm rưỡi, và chỉ ổn định lại khi Hội đồng lănh đạo Quốc gia, đứng đầu bởi hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, lên chấp chính (tháng 6 năm 1965). Tháng 6 năm 1965, trước các thất bại liên tiếp trên chiến trường và t́nh h́nh chính trị rối loạn tại Việt Nam Cộng ḥa, chính phủ Hoa Kỳ quyết định huỷ bỏ kế hoạch Staley-Taylor và đưa quân đội Hoa Kỳ sang trực tiếp tham chiến để giữ miền Nam khỏi rơi vào tay lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.[132]

    Giữa giai đoạn khủng hoảng chính trị đó, nhiều lănh đạo Việt Nam Cộng ḥa vẫn có tham vọng Bắc tiến để thống nhất Việt Nam. Ngày 14 tháng 7 năm 1964, người đứng đầu chính phủ là tướng Nguyễn Khánh công khai tuyên bố sẵn sàng Bắc tiến. Hai ngày sau, tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng khẳng định Không lực Việt Nam Cộng ḥa đă sẵn sàng[cần dẫn nguồn]. Nhưng kế hoạch này đă bị Washington phản đối nên nó không bao giờ trở thành sự thực, bởi Hoa Kỳ lo ngại sẽ lôi kéo Trung Quốc vào ṿng chiến, châm ng̣i cho một cuộc chiến tranh quy mô trên toàn Châu Á.[133]
    Giai đoạn 1965-1968



    Một đơn vị Quân giải phóng miền Nam hoạt động trong khu vực Đồng Tháp Mười, 1966

    Đây là giai đoạn ác liệt nhất của Chiến tranh Việt Nam, được gọi với cái tên Chiến tranh cục bộ. Ngay tên gọi "chiến tranh cục bộ" đă cho thấy tính phức tạp rất dễ bùng nổ của t́nh h́nh mà Tổng thống Lyndon B. Johnson phải giải quyết. Một mặt quân đội Hoa Kỳ phải can thiệp vũ trang nhằm quét sạch lực lượng Quân Giải phóng; mặt khác, họ phải kiềm chế chiến tranh trong phạm vi Việt Nam, không để nó lan ra ngoài ṿng kiểm soát, đụng chạm đến khối Xă hội Chủ nghĩa để có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh như Chiến tranh Triều Tiên. Chính phủ Hoa Kỳ đă thành công trong việc kiềm chế, nhưng việc đó làm họ không thành công trong mục tiêu b́nh định lực lượng Quân Giải phóng. Các đồng minh lớn của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa là Liên Xô, Trung Quốc cũng quyết tâm theo đuổi giúp cho nước này chiến đấu chống Hoa Kỳ. Họ thấy đây là cơ hội rất tốt để làm Hoa Kỳ sa lầy tại Việt Nam. Trong lúc đó, các cường quốc này vươn lên và tranh chấp ngôi vị lănh đạo thế giới.

    Việc Việt Nam Cộng ḥa hoan nghênh đưa quân đội Hoa Kỳ vào miền Nam Việt Nam đă phần nào đẩy lui lực lượng quân Giải phóng và mở ra một hy vọng chiến thắng nhưng, đồng thời, từ đó chính phủ Việt Nam Cộng ḥa luôn phải tham khảo ư kiến của đồng minh Hoa Kỳ trước khi ra quyết định. Họ hiếm khi đưa ra chính sách lớn, các chiến lược-chiến dịch quân sự lớn đều do Mỹ hoạch định. Họ c̣n thậm chí không được tham khảo ư kiến về quyết định của Mỹ năm 1965 đưa một lực lượng lớn quân vào tham chiến trên bộ.[134]

    Trong Kế hoạch hành động đối với Việt Nam viết vào ngày 24 tháng 5 năm 1965, McNaughton đă lên danh sách những mục tiêu của Mỹ trong cuộc chiến:[135]

    70% - Để tránh một sự thất bại đáng xấu hổ của Mỹ (đối với uy tín của chúng ta là kẻ bảo vệ)
    20% - Để bảo vệ [Nam Việt Nam] (và vùng lân cận) khỏi tay Trung Quốc
    10% - Để cho người dân [Nam Việt Nam] có cuộc sống tốt đẹp, tự do hơn
    CŨNG LÀ ĐỂ - Thoát khỏi cuộc khủng hoảng [đối chính quyền Mỹ] mà không có vết nhơ không thể chấp nhận được do những phương thức đă sử dụng
    KHÔNG PHẢI ĐỂ - 'giúp một người bạn', mặc dù sẽ rất khó khăn để ở lại nếu bị buộc phải rời đi.

    Sự leo thang chiến tranh của Hoa Kỳ


    Một lính Mỹ trên trực thăng

    Chính v́ những tế nhị chính trị như vậy nên sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ đă diễn ra theo cách leo thang dần. Đầu tiên họ cho rằng không cần tham chiến vẫn có thể giải quyết chiến tranh nếu ngăn chặn được nguồn tiếp tế của miền Bắc. Hoa Kỳ ra sức ép nếu miền Bắc không chấm dứt tiếp tế cho Quân Giải phóng miền Nam th́ sẽ phải đối mặt với việc bị ném bom. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa bất chấp sức ép của Hoa Kỳ và tiếp tục tiếp tế vào miền Nam. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ vào tháng 8 năm 1964 dẫn tới việc Quốc hội Hoa kỳ đă uỷ nhiệm cho chính phủ Hoa Kỳ tiến hành mọi hoạt động chiến tranh nếu thấy cần thiết mà không cần có sự phê chuẩn của Quốc hội. Ngay sau đó, Hoa Kỳ bắt đầu các cuộc ném bom miền Bắc. Để duy tŕ việc ném bom, Hoa Kỳ phải đưa máy bay và lính không quân vào các sân bay tại miền Nam, lập các căn cứ tại đó. Điều này dẫn đến việc Quân Giải phóng tiến công các sân bay.

    Để bảo vệ các căn cứ trong sân bay, Hoa Kỳ cần gửi thêm thủy quân lục chiến. Sau đó lại xuất hiện vấn đề phải pḥng thủ từ xa và, cuối cùng, là phải t́m-diệt đối phương sâu trong các căn cứ của họ. Thế là quân Mỹ đă dần dần trực tiếp đánh thay cho quân đội Việt Nam Cộng ḥa, và quân đội này dần dần chỉ c̣n là lực lượng thứ yếu, chủ yếu để giữ an ninh tại các vùng họ kiểm soát.

  4. #14
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Chiến tranh Việt Nam
    Wikipedia

    Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, hay Chiến tranh Việt Nam (1954-1975)
    Một phần của Chiến tranh Lạnh và Chiến tranh Đông Dương
    P4


    Miền Bắc và chiến tranh không quân


    Tốp máy bay F105 Của Không quân Mỹ đang oanh tạc Bắc Việt Nam 1966

    Bắt đầu từ tháng 8 năm 1964 miền Bắc đă phải đối phó với chiến tranh trên không rất ác liệt của Không quân và Hải quân Hoa Kỳ. Đầu tiên là chiến dịch Mũi Tên Xuyên (Pierce Arrow) ngày 5 tháng 8 năm 1964, hành động trả đũa sự kiện Vịnh Bắc Bộ[136] do máy bay của Hải quân Mỹ thực hiện, đánh phá các căn cứ hải quân của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ở Lạch Trường (Thanh Hóa), Băi Cháy (Ḥn Gai).

    Tại Băi Cháy, bộ đội cao xạ pḥng không đă chủ động đánh trước khi máy bay Mỹ oanh kích. Hai máy bay Mỹ loại A-4 Skyhawk bị bắn rơi. Phi công Mỹ Everett Alvarez nhảy dù xuống biển đă bị dân chài bắt sống, trở thành người tù binh Mỹ đầu tiên trong Chiến tranh Việt Nam.[137] Tiếp đến là chiến dịch Sấm Rền đầu năm 1965 đánh phá các tỉnh từ Thanh Hóa trở vào, sau đó chiến tranh không quân lan rộng ra toàn miền Bắc Việt Nam. Để đề pḥng các phản ứng của quốc tế, Không quân Mỹ chỉ chừa lại nội thành hai thành phố Hà Nội và Hải Pḥng mà thôi. Chiến tranh không quân nhắm vào hệ thống đường xá giao thông và các mục tiêu công nghiệp, quân sự. Thậm chí các trạm biến thế điện nhỏ, các nhánh đường sắt phụ cũng bị đánh. Bị đánh phá nặng nhất là tại khu vực hai tỉnh Hà Tĩnh, Quảng B́nh, là cuống họng tiếp tế vào Nam, và tại khu vực Vĩnh Linh giáp sông Bến Hải - nơi dân chúng phải sống trong địa đạo.

    Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thoả thuận với Trung Quốc đưa một bộ phận quân đội Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam đóng ở một số vị trí quan trọng như tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên và dọc đường Quốc lộ 1, nhưng không được vượt quá phía nam Hà Nội. Sau đó một số lượng đáng kể nhân viên quân sự Trung Quốc được gửi sang miền Bắc, bắt đầu từ tháng 6 năm 1965. Số quân này không được phép tham chiến mà chỉ để giúp Việt Nam làm đường. Tổng số quân Trung Quốc đă có mặt tại miền Bắc từ tháng 6-1965 đến tháng 3-1973 là gần 320.000 người. Tại mỗi thời điểm, đông nhất có khoảng 130.000 người, bao gồm các đơn vị tên lửa đất đối không, pháo pḥng không, các đơn vị công binh làm đường, ḍ ḿn, và vận tải.[4]

    Việc ném bom miền Bắc khó có thể đánh sụp được tiềm lực chiến tranh của miền Bắc v́ xă hội miền Bắc là xă hội nông nghiệp lạc hậu không có nhiều các mục tiêu công nghiệp lớn. Ở điều kiện miền Bắc Việt Nam, chiến tranh không quân sẽ chỉ có tác dụng lớn nếu như nó đánh gẫy được ư chí chống Mỹ của nhân dân miền Bắc.[cần dẫn nguồn]

    Cuộc sống của người dân miền Bắc ngày càng khó khăn và thêm càng căng thẳng, ngay cả bộ đội cũng bị thiếu ăn. Ở thành thị, dân chúng tản cư về nông thôn để tránh bom, nhu yếu phẩm cho thị dân được bán theo chế độ tem phiếu rất nghiêm ngặt. Nông thôn vắng bóng nam thanh niên. Nữ thanh niên vừa lao động sản xuất vừa được điều động tham gia vào lực lượng dân quân tự vệ bảo vệ trật tự và tham gia huấn luyện quân sự, bắn máy bay. Chính phủ huy động hàng vạn nữ thanh niên đi Thanh niên xung phong vào tuyến lửa tại các tỉnh bị đánh phá nặng nề nhất như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng B́nh, và vào tuyến đường Trường Sơn, sang Lào để làm nhiệm vụ hậu cần, làm đường và đảm bảo giao thông. Tỷ lệ thương vong lớn v́ bom đạn và bệnh tật.

    Về xă hội, địa phương cố gắng tạo điều kiện cho thanh niên lập gia đ́nh trước khi nhập ngũ. Nhà nước t́m mọi cách nâng cao tinh thần của dân chúng cho kháng chiến. Tất cả mọi người đều tham gia các tổ chức quần chúng của Đảng Lao động Việt Nam. Các tổ chức quần chúng trên có vai tṛ nhất định trong việc giữ vững tinh thần và niềm tin trong dân chúng và thi hành các đường lối chính sách của Đảng trong dân. Nhân dân miền Bắc được phổ biến đời sống kinh tế tại miền Nam rất tồi tệ[138], nhân dân miền Nam (nhất là ở vùng nông thôn) đang khốn khổ bởi những cuộc bắn phá, càn quét, rải chất độc hóa học phá hoại mùa màng và chính sách Ấp Chiến lược - "thực tế là trại tập trung" của Mỹ Ngụy.[139]

    Xă hội xuất hiện nhiều tấm gương về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Các nguồn lực được huy động tối đa và có hiệu quả để phục vụ mục tiêu giải phóng miền Nam. Các nhà báo Pháp nhận xét: "Mọi lối sống cá nhân đều biến mất để cùng xây dựng một cố gắng tập thể tuyệt vời, điều hành bởi một bộ máy thống nhất và quy củ".[140] Nói chung, tinh thần của người dân miền Bắc rất cao, họ vẫn có thể chấp nhận hy sinh cao hơn nữa để giành được thắng lợi cuối cùng.

    Lực lượng pḥng không của Quân đội Nhân dân Việt Nam không thể đua tranh với Không quân và Hải quân Hoa Kỳ nên dồn sức bảo vệ các mục tiêu thật quan trọng như Hà Nội, Hải Pḥng, các thành phố lớn, các điểm giao thông quan trọng và các nơi máy bay địch hay qua lại nhiều. Những nơi c̣n lại được phân cho các lực lượng dân quân tự vệ trang bị pháo và súng máy pḥng không đảm trách. Đến năm 1965, lực lượng pḥng không của miền Bắc có trang bị khá hiện đại do Liên Xô cung cấp, gồm nhiều trung đoàn pháo pḥng không các tầm cỡ điều khiển bằng radar, hệ thống radar cảnh giới và dẫn đường cho không quân, hệ thống tên lửa pḥng không và không quân tiêm kích. Các lực lượng pḥng không không quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam đă chiến đấu khá sáng tạo, vô hiệu hóa được các thủ thuật chiến tranh điện tử và chống trả quyết liệt với Không quân và Hải quân Hoa Kỳ.

    Các chiến dịch t́m-diệt


    Ngay sau khi quân đội Hoa Kỳ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam t́nh h́nh chiến sự thay đổi có lợi cho phía Mỹ và Việt Nam Cộng ḥa. Quân Giải phóng miền Nam bị đẩy lui vào thế thủ, bị không quân và kỵ binh bay của Mỹ truy đuổi. Các đơn vị lớn phải rời bỏ vùng đồng bằng trống trải để lui về miền nông thôn hoặc núi rừng. Ở đồng bằng họ chỉ để lại các đơn vị nhỏ và phát động chiến tranh nhân dân đánh du kích. Cố vấn Edward Lansdale đề xuất ư kiến, cho rằng nếu như có thể chiếm được ḷng dân miền Nam th́ du kích sẽ không có chỗ để trốn, nhưng kế hoạch đă thất bại và dẫn đến việc dùng chất độc màu da cam và chính sách t́m-diệt.[141]


    Nông dân bị t́nh nghi là cộng sản

    Tháng 11 năm 1965 đă xảy ra một trận đánh rất ác liệt tại vùng thung lũng sông Ia Drang, gần biên giới Campuchia thuộc tỉnh Kon Tum. Một trung đoàn chính quy Quân Giải phóng miền Nam và một lữ đoàn thuộc Sư đoàn 1 Kỵ binh bay của Mỹ đă dàn quân đánh nhau để thử sức. Thực chất đây là hai trận đánh liên tiếp, trận Xray và trận Albany, diễn ra trong bốn ngày đêm. Mỗi bên thắng một trận[cần dẫn nguồn], hai bên đều bị thương vong nặng, và tuy cùng tuyên bố thắng lợi, đều biết được thực lực đối phương là đáng gờm.

    Sau trận này, quân Giải phóng đă t́m ra cách hạn chế ưu thế quân sự áp đảo của Mỹ. Phía Mỹ có hoả lực cực mạnh và tổ chức chiến đấu hoàn hảo. Đặc biệt có yểm trợ không quân rất hiệu quả mà vũ khí khủng khiếp nhất của họ là máy bay B52, bom napal và trực thăng vũ trang, nên từ đó Quân Giải phóng miền Nam bỏ tham vọng đánh tiêu diệt các đơn vị cấp tiểu đoàn. Họ tránh đánh những trận dàn quân xung phong mà chỉ áp dụng chiến thuật đánh tập kích. Quân của họ luôn bám sát những toán quân Mỹ nhưng không giao chiến, chỉ khi đối phương dựng trại nghỉ ngơi hoặc sơ hở th́ họ tập kích hoặc phục kích, đánh xong nhanh chóng rời chiến trường. Một khi xung phong th́ luôn áp sát đánh gần, dùng lối cận chiến "Nắm thắt lưng địch mà đánh" để không cho đối phương sử dụng pháo binh và không quân. Dù rất hiện đại nhưng quân đội Mỹ không quen chiến đấu trong địa h́nh rừng núi quen thuộc của đối phương, nơi mà vũ khí của họ không phát huy hết tác dụng. Quân Mỹ "t́m-diệt" nhưng chẳng thấy địch đâu tuy bất cứ lúc nào họ cũng có thể xuất hiện.

    Trong hai năm 1966 và 1967 chiến sự giữa hai bên diễn ra chủ yếu tại miền Đông Nam Bộ, nơi có các căn cứ và kho tàng lớn của quân Giải phóng. Bộ chỉ huy chiến trường của Mỹ đă tung ra ba chiến dịch lớn để đánh vào các căn cứ này, đó là các chiến dịch:

    Chiến dịch Cedar Falls – đánh vào khu Tam giác sắt Củ Chi, nơi có hệ thống địa đạo mà Quân Qiải phóng dùng làm bàn đạp thâm nhập Sài G̣n;
    Chiến dịch Attleboro – đánh vào chiến khu Dương Minh Châu
    Chiến dịch Junction City – đánh vào chiến khu C nơi đặt Bộ chỉ huy của Quân Qiải phóng miền Nam.

    Đặc biệt là chiến dịch Junction City, khi Mỹ định đánh một trận lớn để diệt gọn cơ cấu lănh đạo chiến tranh của Mặt trận Giải phóng miền Nam tại vùng rừng Tây Ninh. Bao vây và đánh vào khu căn cứ đầu năo của Trung ương cục miền Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Các cuộc tiến công tuy đă huy động rất lớn các lực lượng của Mỹ nhưng không đem lại kết quả: các cơ cấu lănh đạo, kho tàng, căn cứ của Quân Giải phóng vẫn an toàn, quân Mỹ bị tiến công liên tục, trong thế trận đối phương đă bày sẵn, trong địa bàn quen thuộc của đối phương và phải bỏ dở các cuộc hành quân. Đến cuối năm 1967, tuy đẩy lui chủ lực Quân giải phóng tại vùng đồng bằng lên miền rừng núi, nhưng quân Mỹ vẫn không b́nh định được lực lượng du kích tại miền Nam Việt Nam.

    Lực lượng du kích quân Giải phóng cũng mở rộng tầm tấn công, không những với mục tiêu quân sự mà c̣n tấn công vào cơ cấu tổ chức hành chính địa phương của Việt Nam Cộng ḥa. Nằm trong kế hoạch là chủ trương ám sát các viên chức và công chức địa phương. Chủ trương này ngoài hiệu quả triệt hạ nguồn nhân sự điều hành chính quyền địa phương mà c̣n tác động đến tâm lư đại chúng ở Miền Nam.[142]

    Để chống lại Chính phủ Việt Nam Cộng ḥa đưa vào hoạt động Chiến dịch Phụng Hoàng nhằm phá hoại tổ chức và du kích địa phương của quân Giải phóng. Chiến dịch này đạt cao điểm sau cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968 khi nhiều tổ cán bộ Mặt trận Giải phóng đă lộ diện và bị chỉ điểm.[143]

    Qua 3 năm chiến đấu trực tiếp với quân Mỹ, tuy vẫn đứng vững trên chiến trường, nhưng thương vong của quân Giải phóng cũng tăng lên, nếu cục diện này tiếp tục kéo dài th́ không thể giành được chiến thắng quyết định. Để xoay chuyển t́nh thế tạo đột phá cho cuộc chiến tranh, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam tại Hà Nội quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.

    Đấu tranh ngoại giao và tiếp xúc bí mật



    Ngày 28 tháng 1 năm 1967, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh tuyên bố lập trường và điều kiện cho việc đối thoại Việt-Mỹ là[144]:
    “ Muốn nói chuyện th́ trước hết phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Chỉ sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa th́ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Mỹ mới có thể nói chuyện được ”

    —Nguyễn Duy Trinh

    Ngày 8/2/1967 tổng thống Mỹ Johnson gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong đó có ghi:
    “ We have tried over the past several years, in a variety of ways and through a number of channels, to convey to you and your colleagues our desire to achieve a peaceful settlement. For whatever reasons, these efforts have not achieved any results... ”

    —Johnson

    Đại ư là người Mỹ nhiều lần chuyển đến chính phủ Hồ Chí Minh mong muốn hoà b́nh bằng những kênh khác nhau nhưng không đạt kết quả nào và đề nghị chấm dứt cuộc xung đột tại Việt Nam để không tiếp tục gây đau khổ cho nhân dân hai miền Việt Nam cũng như nhân dân Mỹ. Tổng thống Mỹ cam kết sẽ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam và ngừng tăng thêm quân tại miền Nam Việt Nam ngay khi miền Bắc chấm dứt đưa quân vào miền Nam. Hai bên cùng kiềm chế leo thang chiến tranh để đối thoại song phương một cách nghiêm túc hướng đến hoà b́nh. Việc tiếp xúc có thể diễn ra ở Moskva, Miến Điện hay bất cứ nơi nào Bắc Việt Nam muốn.

    Ngày 15/2/1967 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư trả lời tổng thống Johnson tố cáo Mỹ đă xâm lược Việt Nam, vi phạm những cam kết của đại diện Mỹ tại Hội nghị Geneva, phạm nhiều tội ác chiến tranh tại cả hai miền Nam Bắc Việt Nam. Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhân dân Việt Nam quyết tâm đánh thắng Mỹ bằng mọi giá. Nếu Mỹ muốn trực tiếp đối thoại với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà th́ trước tiên phải ngừng ném bom vô điều kiện miền Bắc Việt Nam. Chỉ có thể đạt được hoà b́nh nếu Mỹ chấm dứt những hoạt động quân sự, rút quân Mỹ và đồng minh khỏi miền Nam để người Việt Nam tự giải quyết vấn đề của ḿnh, đồng thời công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam.[145]

    Cả hai phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ không có tiếng nói chung để giảm cường độ chiến tranh. Phía Mỹ bác bỏ tất cả những điều kiện mà phía Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đưa ra và tiếp tục leo thang chiến tranh. Phải đến khi cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân nổ ra vào năm 1968 th́ Mỹ mới chấp nhận những điều kiện này.

    Sự kiện Tết Mậu Thân



    Vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968, quân Giải phóng tung ra trận Tổng tiến công và nổi dậy khắp miền Nam, đánh vào hầu hết các thành phố, thị xă và các căn cứ quân sự của đối phương. Đây là một sự kiện gây chấn động trên thế giới và có một vai tṛ bước ngoặt trong cuộc chiến tranh này.

    Nắm được điểm yếu của phía Mỹ là dư luận của cả nhân dân và chính giới tại Mỹ ngày càng trở nên thiếu kiên nhẫn và phong trào phản chiến ngày càng lên mạnh[146] khi mà quân đội Mỹ tham chiến quá lâu tại nước ngoài mà không có được một tiến bộ rơ rệt khả dĩ cho phép rút quân về nước, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam hoạch định một chiến dịch nhằm gây tiếng vang lớn ("Một cú đập lớn để tung toé ra các khả năng chính trị" – Lê Duẩn) nhằm buộc Mỹ xuống thang chiến tranh đi vào đàm phán.

    Trong thực tế, vào tháng 1 năm 1968, t́nh báo của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa đă thu thập được các tài liệu nói về cuộc tổng tấn công sắp tới của Quân Giải phóng. Tuy vậy, họ cho rằng đây chỉ là tài liệu do đối phương tung ra để làm nghi binh và không đáng tin cậy. William Westmoreland, tổng chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam, nhận định Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ tấn công vào mùa khô với các trọng điểm là Thừa Thiên, Quảng Trị và Khe Sanh.[147] Hầu hết người Mỹ và đồng minh Việt Nam Cộng ḥa của họ hoàn toàn bất ngờ và bị động trước cuộc tấn công này.

    Cuộc tiến công đă đồng loạt nổ ra vào đêm 30 Tết Mậu Thân, tức ngày 30 tháng 1 năm 1968, trên khắp các đô thị miền Nam. Để khuếch đại tiếng vang đến mức tối đa, các lănh đạo Quân Giải phóng đă lựa chọn phương án mạo hiểm nhất là đánh thẳng vào hậu phương của đối phương. Ngay đêm đầu tiên, lực lượng biệt động Sài G̣n đă nhằm vào các mục tiêu khó tin nhất trong thành phố[148]: Toà Đại sứ quán Mỹ, dinh Tổng thống, Đài phát thanh, Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất... Sau đó quân tiếp ứng thẩm thấu vào thành phố tiếp quản các mục tiêu và tham gia chiến đấu. Cuộc tiến công đă tạo bất ngờ lớn và làm tổn thất đáng kể cho quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng ḥa,[148] gây chấn động dư luận thế giới.

    Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, quân Giải phóng cũng mắc phải những sai lầm trong kế hoạch tác chiến. Trong việc lập kế hoạch cho cuộc tổng tiến công, họ đă có những đánh giá không đúng với thực tế t́nh h́nh và duy ư chí. Kế hoạch trên dựa trên nhận định thấp về khả năng của đối phương và đánh giá quá cao khả năng của họ, nên Quân Giải phóng đă phải chịu thương vong lớn. Một đặc điểm nữa của việc lập kế hoạch tiến công Mậu Thân 1968 là các cấp chỉ huy chiến đấu của Quân Giải phóng miền Nam đă không tách bạch được đâu là mục tiêu chính trị thực chất của cuộc tiến công và đâu là mục tiêu được phổ biến rộng răi trong quân để cổ vũ khí thế chiến đấu.[148] Mục tiêu thực chất là đánh lớn gây tiếng vang hướng tới dư luận và chính giới Mỹ để buộc đối phương xuống thang, đàm phán. C̣n mục tiêu được phổ biến tuyên truyền trong cán bộ binh sĩ để nâng cao sĩ khí là trận cuối cùng "đánh dứt điểm" đối phương. Các cán bộ chiến trường khi lập kế hoạch tác chiến cũng tin tưởng vào quyết tâm đánh dứt điểm của cấp trên nên họ lập kế hoạch và tiến hành đánh theo kiểu trận đánh cuối cùng, làm cho việc tác chiến trở nên bị động đối phó. Điều sai lầm nữa cho Quân Giải phóng là họ đă không linh hoạt thay đổi tuỳ theo t́nh h́nh.[148][149] Khi thấy chưa đạt được mục tiêu trong đợt tấn công đầu tiên họ đă phát động tiếp đợt 2 vào tháng 5, đợt 3 vào tháng 8 khi mà kế hoạch đă bại lộ và đối phương đă đề pḥng và chuẩn bị đón đánh, làm cho thiệt hại của họ càng lớn.

    Sau Tổng tiến công Mậu Thân, Quân Giải phóng bị đánh bật khỏi các đô thị[146]: Các đơn vị quân sự chịu thương vong lớn, các lực lượng chính trị ở đô thị bị bộc lộ và bị triệt phá gần hết, thương vong cao hơn hẳn những năm trước. Thậm chí đă có ư kiến trong giới lănh đạo Quân Giải phóng là cho giải tán các đơn vị cỡ sư đoàn, quay trở về lối đánh cấp trung đoàn trở xuống. Họ tránh giao chiến lớn tại miền Nam và rút lui về các chiến khu tại vùng nông thôn, miền núi hoặc đi ẩn náu tại bên kia biên giới Lào và Campuchia, phải tới năm 1970 lực lượng của họ mới hồi phục lại được. T́nh thế chiến trường yên tĩnh hơn giúp Quân lực Việt Nam Cộng ḥa có thời gian bổ sung lại những thiệt hại lớn trong năm 1968, đồng thời tiến hành các chiến dịch b́nh định nông thôn, đặc biệt là chiến dịch Phượng hoàng nhằm triệt phá phong trào chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ở nông thôn và thành thị. Đó là cơ sở để giới quân sự Mỹ và Việt Nam Cộng ḥa cho rằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đă thất bại.

    Mặt khác, Quân Giải phóng cũng có lư do để cho rằng Mậu Thân 1968 là một thắng lợi chiến lược trong chiến tranh của họ[146], bởi họ đă "đánh bại ư chí xâm lược của Mỹ"[150], bắt buộc Mỹ phải xuống thang và bắt đầu rút khỏi Việt Nam. Lực lượng quân Giải phóng suy yếu th́ sẽ hồi phục lại, c̣n Mỹ một khi đă ra đi th́ khó mà trở lại được.

    Sự kiện Tết Mậu Thân không chỉ khiến cho các bên tham chiến thiệt hại nặng mà c̣n gây thương vong rất nhiều dân thường. Các lực lượng tham chiến đều có những hành động tàn bạo vượt quá chuẩn mực chiến tranh thông thường nhắm vào đối phương hoặc những người dân vô tội bị xem là ủng hộ đối phương như các vụ Thảm sát Mỹ Lai, Saigon Execution, Thảm sát Huế Tết Mậu Thân.


    Vẻ thất thần của Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson và Bộ trưởng Quốc pḥng Robert McNamara. Ảnh chụp ngày 7-2-1968

    Cuộc tổng tiến công đă làm dư luận Mỹ thấy rằng việc đưa quân tham chiến với nỗ lực cao đă làm căng thẳng trong xă hội Mỹ, kinh tế giảm sút, gây nhiều hệ luỵ xấu cho xă hội... mà vẫn không dứt điểm được quân đối phương, chiến tranh kéo dài không biết đến bao giờ mới kết thúc.[146] Điều này đưa đến kết luận là Mỹ không thể thắng được trong cuộc chiến này. Các chính trị gia trong Quốc hội Mỹ gây sức ép lên chính phủ đ̣i xem xét lại cam kết chiến tranh, đ̣i huỷ bỏ uỷ quyền cho chính phủ tiến hành chiến tranh không cần phê chuẩn, thúc ép giải quyết chiến tranh bằng thương lượng.[151]

    Quy mô của cuộc tiến công làm dư luận Hoa Kỳ mất kiên nhẫn và sự tin tưởng với giới quân sự, họ đ̣i chấm dứt chiến tranh và rút quân về nước.[151] Một mặt họ thiếu niềm tin vào hiệu quả của quân đội, mặt khác, các hành động bạo liệt mất nhân tính được tŕnh chiếu trên TV đánh vào lương tâm công chúng. Họ đ̣i hỏi phải chấm dứt chiến tranh ngay lập tức. Họ coi chiến tranh là bẩn thỉu.

    Ngay các nhà lănh đạo chính phủ Hoa Kỳ cũng chia rẽ trong quan điểm sẽ làm ǵ tiếp theo.[151] Các cố vấn hàng đầu của tổng thống và ngay Tổng thống Johnson thoái chí đi đến kết luận không thể tăng quân thêm nữa theo yêu cầu của giới quân sự mà phải xuống thang, đàm phán. Johnson cách chức Bộ trưởng quốc pḥng Mc Namara và tướng Westmoreland, tổng chỉ huy quân Mỹ tại Việt Nam, bản thân ông cũng tuyên bố sẽ không ra tranh cử nhiệm kỳ tiếp theo.

    Kết quả ngày 31 tháng 3 năm 1968, lần đầu tiên kể từ đầu cuộc chiến, chính phủ Hoa Kỳ buộc phải xuống thang chiến tranh. Tổng thống Lyndon B. Johnson tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, sẵn sàng đàm phán để chấm dứt chiến tranh, không tăng thêm quân theo yêu cầu của Bộ chỉ huy chiến trường, và từ chối tranh cử nhiệm kỳ tới. Tân tổng thống Richard M. Nixon, thắng cử v́ hứa chấm dứt chiến tranh, tuyên bố sẽ dần rút quân về nước và đàm phán với Quân Giải phóng. Chiến lược Chiến tranh cục bộ được kỳ vọng sẽ đem lại chiến thắng cho Mỹ giờ bị loại bỏ. Vấn đề của Mỹ bây giờ không c̣n là chiến thắng cuộc chiến nữa mà là rút ra như thế nào.

    Tất cả những điều trên tạo cơ sở cho Quân Giải phóng thấy rằng họ đă đạt được mục tiêu đề ra của cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 cho dù phải hy sinh nhiều lực lượng. Thất bại về chiến thuật đă được bù đắp bằng thắng lợi quan trọng hơn ở tầm chiến lược, bởi nó tác động toàn diện đến t́nh h́nh quân sự, chính trị, tâm lư xă hội, chiến lược chiến tranh của cả nước Mỹ.

    Sự rút quân Mỹ về nước là không thể đảo ngược và như vậy cũng có nghĩa chiến lược Chiến tranh cục bộ với các cuộc hành quân T́m-diệt coi như phá sản. Chiến lược mới của chính phủ Mỹ để thay thế chiến lược cũ - Việt Nam hóa chiến tranh là không thể tránh khỏi. Chiến tranh Việt Nam đi vào giai đoạn mới mà chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Ḥa phải tự ḿnh chiến đấu mà không c̣n lính viễn chinh Mỹ trực tiếp tham chiến cùng (dù vẫn được Mỹ cung cấp yểm trợ hỏa lực và cố vấn quân sự). Về mặt chiến lược lâu dài, đây là bất lợi lớn v́ quân đội Việt Nam Cộng ḥa, dù trang bị hiện đại vẫn không thể so sánh về chất lượng so với quân viễn chinh Mỹ.

    Giai đoạn 1968-1972


    Biên giới Việt Nam – Campuchia 1970


    Xe tăng tiến vào thị trấn Snoul, biên giới Việt Nam-Campuchia năm 1970

    Đây là giai đoạn "sau Mậu Thân" hay giai đoạn "Việt Nam hóa chiến tranh", giai đoạn Hoa Kỳ rút dần khỏi chiến trường Việt Nam. Để đồng minh của họ đứng vững, Hoa Kỳ giúp Việt Nam Cộng ḥa xây dựng quân đội theo h́nh mẫu của quân lực Hoa Kỳ, với các loại vũ khí chiến tranh tối tân mà Hoa Kỳ để lại và với cơ sở hậu cần chiến tranh mà quân đội Hoa Kỳ đă sử dụng. Hoa Kỳ sẽ yểm trợ về không lực tối đa cho quân đội Cộng ḥa trong các giao tranh với Quân Giải phóng.

    Một sự kiện quan trọng đă xảy ra trong thời kỳ này và có hậu quả to lớn cho Đông Dương sau này là việc Hoa Kỳ giúp Lon Nol làm đảo chính tháng 3 năm 1970 ở Campuchia, lật đổ hoàng thân Norodom Sihanouk và phát động chiến tranh chống cộng sản tại Campuchia.

    Thắng lợi tạm thời trên chiến trường sau Mậu Thân đă dẫn Hoa Kỳ đến sai lầm nặng nề[cần dẫn nguồn] này, tạo điều kiện cho Quân giải phóng mau chóng hồi phục và làm cho Campuchia rơi vào một thời kỳ tồi tệ trong lịch sử. Thấy Quân Giải phóng mất đất đứng chân, lui về các căn cứ bên kia biên giới Campuchia, Hoa Kỳ muốn triệt hạ nốt những chỗ đứng cuối cùng của đối phương để giải quyết triệt để chiến tranh. Điều này hóa ra lại làm lợi lớn cho Quân Giải phóng. Trước đây Quân Giải phóng chỉ đóng trên đất Campuchia ở một số vùng sát biên giới với Việt Nam, họ cố gắng lôi kéo, chiều ḷng chính quyền Sihanouk và tự kiềm chế để không mất ḷng chủ nhà. Chính quyền Sihanouk tuy không muốn nhưng không làm ǵ được đành chấp nhận phải sống như vậy với Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Nay với diễn biến chính trị như trên, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa liền quay ra lên tiếng ủng hộ Sihanouk, thực chất là ủng hộ Khmer Đỏ[cần dẫn nguồn], đánh nhau không hạn chế trên đất Campuchia. Từ lúc đó, không c̣n ǵ và không có đối thủ kiềm chế lực lượng Quân Giải phóng Miền Nam trên đất Campuchia nữa. Campuchia trở thành nơi rất an toàn và tiện dụng cho Quân giải phóng phục hồi sinh lực sau Mậu Thân.

    Ngày 30 tháng 4 năm 1970, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa kết hợp cùng quân đội Hoa Kỳ tiến vào khu căn cứ của Quân Giải phóng tại Campuchia nhưng đă bị sa lầy. Ngày 30 tháng 6 năm 1970, chính phủ Mỹ phải ra lệnh rút quân Mỹ về. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa cùng quân của chính phủ Lon Nol không thể tự đương đầu với Quân Giải phóng. Các sư đoàn 5, 7, 9 của Quân Giải phóng không những đánh đuổi quân Việt Nam Cộng ḥa mà c̣n giúp Khmer Đỏ đánh quân chính phủ Lon Nol, giành các tỉnh Đông và Đông Bắc Campuchia để nối thông với Lào.

    Việt Nam hóa chiến tranh



    Tiến tŕnh Việt Nam hóa chiến tranh đă diễn ra tương đối thuận lợi. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa sau Mậu Thân được trang bị hiện đại đă tỏ ra tự tin hơn và đă nắm thế chủ động trên phần lớn chiến trường miền Nam từ năm 1969 đến tận cuối năm 1971. Nhưng điều đó chưa nói lên điều ǵ lớn v́ Quân Giải phóng trong thời kỳ này chưa hồi phục sau Mậu Thân và không chủ trương đánh lớn. Cũng có thể họ hạn chế hoạt động để thúc đẩy việc rút quân của Mỹ.

    Sự yên tĩnh trên chiến trường đă tạo điều kiện thuận lợi cho việc rút quân Mỹ mà không gây ra một sự xấu đi trầm trọng nào. Tranh thủ thời gian yên tĩnh, Việt Nam Cộng ḥa đổ công sức tiến hành b́nh định nông thôn. Từ đó, các nhà lănh đạo Việt Nam Cộng ḥa và Mỹ đă hiểu rất rơ tầm quan trọng của việc chống lại cơ cấu đấu tranh chính trị của những người cộng sản ở địa bàn nông thôn. Một chương tŕnh lớn tái thiết nông thôn được thi hành với viện trợ kinh tế lớn của Hoa Kỳ. Theo thống kê của Mỹ, trong thời kỳ này, chỉ riêng năm 1969, lực lượng du kích đă giết 6.000 người, ám sát hơn 1.200 người, và làm bị thương 15.000 người. Trong số những người thiệt mạng có 90 quan chức xă và xă trưởng, 240 quan chức ấp và ấp trưởng, 229 người tản cư và 4.350 thường dân.[152] Với lư do "bảo vệ dân thường chống lại những hoạt động đe doạ và khủng bố của cộng sản", Chiến dịch Phượng hoàng với sự giúp đỡ của CIA, đă được triển khai nhằm tróc rễ các cơ sở bí mật nằm vùng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.[152]

    Các nỗ lực của Phượng hoàng chủ yếu diễn ra bằng các biện pháp khủng bố, ám sát, thủ tiêu. Các toán nhân viên Phượng hoàng áo đen được CIA huấn luyện và được phái xuống các xóm ấp, họ ở cùng trong dân nghe ngóng thu thập t́nh báo, bắt các phần tử nghi ngờ là cộng sản hoặc thân cộng sản, tra khảo để phanh ra tổ chức, nếu không khai thác được và vẫn nghi là Cộng sản th́ thủ tiêu. Các phần tử cộng sản hoặc thân cộng sản nếu không tiện bắt th́ ám sát. Số người bị thủ tiêu lên đến hàng ngàn người. Một mặt, các biện pháp này đă có hiệu quả tốt về an ninh, t́nh h́nh nông thôn trở nên an toàn hơn rơ rệt cho phía chính quyền Việt Nam Cộng ḥa. Mặt khác, những vụ xử tử, ám sát oan dân thường lại khiến chính quyền Việt Nam Cộng ḥa càng bị người dân xa lánh, khiến chương tŕnh b́nh định bị chặn lại.

    Trong thời kỳ này, viện trợ của Hoa Kỳ dồi dào nên đời sống của dân chúng trở nên tốt hơn, nhất là dân trong các thành phố lớn và nó làm cho dân nông thôn đổ về thành phố để kiếm sống dễ hơn. Lúc này, t́nh trạng tham nhũng trong chính quyền và quân đội lên cao. Trong quân đội rất phổ biến kiểu "lính ma": khai khống quân số đơn vị để sĩ quan lĩnh phần lương dôi ra nhưng thực tế không có quân chiến đấu. Những điều này gây ảnh hưởng lớn đến sức chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa.

    Một vấn đề lớn nữa của Việt Nam hóa chiến tranh là khi Quân lực Việt Nam Cộng ḥa nhất nhất theo các tiêu chuẩn Mỹ th́ họ cũng quen kiểu đánh nhau tốn tiền như quân Mỹ, và sức chiến đấu của quân đội phụ thuộc lớn vào viện trợ của Mỹ[153]. Viện trợ mà giảm th́ ảnh hưởng rơ rệt đến sức chiến đấu của quân đội, điều này góp phần giải thích tại sao quân đội này mau chóng sụp đổ trong năm cuối cùng của cuộc chiến.

  5. #15
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Chiến tranh Việt Nam
    Wikipedia

    Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, hay Chiến tranh Việt Nam (1954-1975)
    Một phần của Chiến tranh Lạnh và Chiến tranh Đông Dương
    P5



    Chiến dịch Lam Sơn 719


    T́nh h́nh miền Nam tương đối yên lặng trong các năm 1969–1971. Quân Giải phóng tích cực dự trữ lương thực, đạn dược tại các căn cứ ở Lào, Campuchia và các vùng rừng núi mà Quân lực Việt Nam Cộng ḥa chưa với tới được. Năm 1970, sau khi quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng ḥa đă thất bại trong việc đánh phá căn cứ của Quân Giải phóng tại Campuchia, tiếp tế từ miền Bắc đă nối thông từ Lào đến Đông Bắc Campuchia và đổ vào các khu căn cứ Tây Ninh. Do đó, nếu không cắt được tiếp tế cho Quân Giải phóng ở Campuchia th́ có thể cắt tiếp tế từ Lào. Và tháng 1 năm 1971, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, dưới sự yểm trợ bằng không quân của Hoa Kỳ, tiến hành chiến dịch Lam Sơn 719: đánh từ Quảng Trị cắt ngang sang Hạ Lào nhằm phá huỷ hệ thống kho tàng của Quân Giải phóng. Cuộc hành quân này ngay từ đầu đă mang tính phiêu lưu phô trương chính trị và đă thất bại v́ những lư do sau

    Cuộc hành quân không bảo đảm tính bất ngờ. Quân Giải phóng đă dự đoán và chuẩn bị đón đánh từ trước.

    Các căn cứ của Quân Giải phóng là những nơi họ đă lâu năm thông thuộc địa bàn và có bố pḥng rất kỹ lưỡng. Ngay quân đội Hoa Kỳ với sức mạnh tổng lực như thế đă không thể làm ǵ nổi. Trong thời kỳ t́m-diệt các chiến dịch Atteleboro và Junction City đều đă thất bại, do đó đưa quân vào đó là sa vào thế trận đă bày sẵn. Hơn nữa vùng Hạ Lào là nơi tập trung rất nhiều binh lực hiện đại của Quân Giải phóng, c̣n mạnh hơn rất nhiều các khu căn cứ khác mà quân Nam Việt Nam chưa có đủ sức mạnh, kinh nghiệm và bản lĩnh để đương đầu.
    Khi hoạch định kế hoạch người ta chú ư nhiều đến khía cạnh phô trương sức mạnh của quân đội Nam Việt Nam đánh được vào "đất thánh Cộng sản" chứ ư nghĩa quân sự th́ ít. ("Chỉ cốt sao đến được Sê Pôn rồi về" – Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.) Chính v́ để phô trương nên ban đầu khi gặp khó khăn rất lớn đă không chấm dứt chiến dịch mà cố gắng tiến nhọc nhằn đến Sê Pôn rồi phải cố sức mở đường máu với thiệt hại lớn mới về thoát dù chỉ là vài chục km cách biên giới.
    Sự phối hợp của quân Mỹ và quân Nam Việt Nam không tốt. Không quân Mỹ chỉ ném bom B52 dọn đường theo yêu cầu, c̣n nhiệm vụ phối hợp hoả lực chiến thuật cho bộ binh tác chiến gần như không làm được[cần dẫn nguồn].
    Lực lượng máy bay trực thăng vào khu vực đậm đặc pḥng không hiện đại đă chờ sẵn của đường ṃn Hồ Chí Minh đă bị thiệt hại quá nặng không thể hoàn thành nhiệm vụ.

    Kết quả cuộc hành quân bị thiệt hại nặng nề nhất là các lực lượng bị tiêu diệt là các đơn vị dự bị chiến lược tốt nhất của Việt Nam Cộng ḥa, cuộc hành quân c̣n thất bại ở chỗ tuy có phá được một số kho tàng hậu cần nhưng về cơ bản đă không làm hại ǵ được cho hệ thống tiếp tế của Quân Giải phóng.

    Sau các cuộc hành quân bất thành của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa vào Campuchia và Hạ Lào, đến đầu năm 1972, Quân Giải phóng đă hồi phục sau Mậu Thân và lại tung ra một đợt tổng tiến công lớn nữa.

    Chiến dịch mùa hè 1972


    Xe tăng T-54 của QĐNDVN

    Tháng 3 năm 1972 lại xảy ra một nỗ lực nữa của Quân Giải phóng nhằm làm thoái chí Hoa Kỳ, buộc họ rút hẳn ra khỏi cuộc chiến. Đây là đ̣n đánh để kết hợp với nỗ lực ngoại giao. Quân Giải phóng đă tung ra một cuộc tổng tiến công và nổi dậy chiến lược mùa xuân năm 1972. Tuy rằng tên và kế hoạch như vậy nhưng rút kinh nghiệm từ năm 1968, quân du kích và cán bộ nằm vùng sẽ không "nổi dậy" tại vùng địch hậu mà chỉ đóng vai tṛ chỉ đường và tải đạn, họ sẽ chỉ ra mặt tại những nơi chủ lực Quân Giải phóng đă kiểm soát vững chắc. Điều đó cho thấy các nỗ lực b́nh định của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng ḥa trong thời gian 1969-1971 đă có những hiệu quả nhất định.

    Đây là cuộc tiến công chiến lược gồm các chiến dịch tiến công quy mô lớn, hiệp đồng binh chủng, tiến công sâu vào hệ thống pḥng ngự của Việt Nam Cộng ḥa trên ba hướng chiến lược quan trọng: Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ. Trong suốt quá tŕnh diễn ra cuộc chiến tranh, chưa bao giờ quân Giải phóng lại phát động một cuộc tiến công ồ ạt dưới sự hỗ trợ của các lực lượng được trang bị tốt đến như vậy, cuộc tiến công này mạnh hơn bất cứ những ǵ mà Việt Nam Cộng ḥa có thể tập trung lại được vào mùa xuân năm 1972.[154]

    Cuộc tấn công năm 1972 của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă không nhận được sự ủng hộ từ 2 đồng minh chủ chốt là Trung Quốc và Liên Xô do 2 quốc gia chỉ mong muốn kết thúc nhanh 1 thỏa ước ḥa b́nh với Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng ḥa tại Paris.[154] Liên Xô đă cắt giảm viện trợ, c̣n Trung Quốc th́ thậm chí c̣n gây sức ép lên Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa để buộc họ ngừng chiến đấu. Tuy thế các lănh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa vẫn quyết tâm khởi động một chiến dịch quy mô nhằm đánh bại triệt để Việt Nam hóa chiến tranh, giành lợi thế trên bàn đàm phán ở Paris.

    Trong 2 tháng đầu, quân Giải phóng liên tiếp chọc thủng cả 3 tuyến pḥng ngự, tiêu diệt hoặc làm tan ră nhiều sinh lực đối phương, gây kinh ngạc cho cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam Cộng ḥa. Hoa Kỳ phải gấp rút điều động lực lượng không quân và hải quân tới chi viện để ngăn đà tiến của quân Giải phóng, đồng thời viện trợ khẩn cấp nhiều vũ khí cho Việt Nam Cộng ḥa để bổ sung cho thiệt hại trước đó.

    Tại Bắc Tây Nguyên, sau các thắng lợi ban đầu của Quân Giải phóng tại trận Đắc Tô - Tân Cảnh, chiến sự mau chóng êm dịu trở lại sau khi đội quân này bị chặn lại trong Trận Kon Tum.

    Tại Đông Nam Bộ, ở tỉnh B́nh Long sau khi thắng lợi tại trận Lộc Ninh, Quân Giải phóng tiến công theo đường 13 để đánh chiếm thị xă An Lộc trong trận An Lộc, dùng xe tăng và pháo binh tấn công dữ dội. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa quyết tâm cố thủ thị xă và đưa quân lên ứng cứu. Không quân Mỹ dùng B-52 đánh phá ác liệt các khu vực tập kết của Quân Giải phóng và gây thiệt hại lớn. Chiến trận xảy ra rất dữ dội tại thị xă, thương vong của hai bên và của dân chúng rất cao. Cuối cùng, Quân Giải phóng không thể lấy nổi thị xă phải rút đi và sau 3 tháng chiến sự đi vào ổn định. Lần đầu tiên tại vùng Đông Nam Bộ, xe tăng T-54 và PT-76 của Liên Xô chế tạo xuất hiện, cho thấy hệ thống tiếp tế của Quân Giải phóng đă hoàn chỉnh v́ đă có thể đưa được xe tăng đến tận chiến trường phía nam.

    Chiến trường chính của năm 1972 là tại tỉnh Quảng Trị. Tại đây có tập đoàn pḥng ngự dày đặc của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, nơi tuyến đầu đối chọi với miền Bắc. Cuộc tiến công của Quân Giải phóng tại Quảng Trị đă thành công to lớn, 40.000 quân pḥng ngự tại đây hoảng loạn, thậm chí Trung đoàn 56 của Sư đoàn 3 đầu hàng không chiến đấu. Chỉ sau một tháng và qua 2 đợt tấn công, Quân Giải phóng đă chiếm toàn bộ tỉnh Quảng Trị, uy hiếp tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế.

    Đến lúc đó, việc giữ vững vùng chiếm được và tái chiếm vùng đă mất tại Quảng Trị đă thành vấn đề chính trị thể hiện ư chí và bản lĩnh của cả hai bên và là thế mạnh để đàm phán tại Hội nghị Paris. Hoa Kỳ để tỏ rơ ư chí của ḿnh bằng cách từ ngày 16 tháng 4 năm 1972 ném bom trở lại miền Bắc với cường độ rất ác liệt: dùng máy bay B-52 rải thảm bom xuống Hải Pḥng, đem hải quân thả thuỷ lôi phong toả các hải cảng tại miền Bắc Việt Nam.

    Tại chiến trường Quảng Trị, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa đem hết quân dự bị ra quyết tái chiếm thị xă Quảng Trị với sự hỗ trợ tối đa bằng máy bay B-52 của Hoa Kỳ. Quân Giải phóng quyết tâm giữ vững khu vực thành cổ Quảng Trị của thị xă. Chiến sự cực kỳ ác liệt, thương vong hai bên rất lớn để tranh chấp một mẩu đất rất nhỏ không dân đă bị tàn phá hoàn toàn. Sau gần 3 tháng đánh nhau quyết liệt, Quân Giải phóng không giữ nổi và Quân lực Việt Nam Cộng ḥa chiếm được thành cổ và thị xă Quảng Trị. Nhưng, dù có hỗ trợ của không quân Mỹ, việc tái chiếm thị xă Đông Hà và các vùng đă mất khác là không thể làm được.

    Sau chiến dịch, Quân Giải phóng nắm giữ thêm 10% lănh thổ miền Nam, có thêm các bàn đạp quân sự, và thị xă quan trọng Lộc Ninh đă trở thành thủ đô mới của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1972, chiến trường đi đến b́nh ổn v́ hai bên đă kiệt sức không thể phát triển chiến sự được nữa.

    Mặc dù chiến dịch không đem đến lợi thế rơ rệt về quân sự nhưng đă làm xă hội Hoa Kỳ quá mệt mỏi. Dư luận Mỹ và thế giới thúc ép chính quyền phải đạt được một nền ḥa b́nh bằng thương lượng theo đúng cam kết giải quyết chiến tranh trong nhiệm kỳ tổng thống của họ. Đến cuối năm 1972, Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă đạt được thoả hiệp cơ bản những ư chính của Hiệp định Paris, và đầu năm 1973, Hoa Kỳ rút hẳn quân viễn chinh khỏi cuộc chiến, chỉ để lại cố vấn quân sự.

    Vừa đánh vừa đàm

    Việc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt Nam là việc phải xảy ra khi chẳng ai dứt điểm được ai bằng quân sự. Sau Mậu Thân, các bên đă ngồi vào thương lượng cho tương lai chiến tranh Việt Nam. Việc thương lượng đă diễn ra rất phức tạp v́, một mặt, các bên chưa thật sự thấy cần nhượng bộ và, mặt khác, Liên Xô và Trung Quốc muốn can thiệp vào đàm phán – đặc biệt là Trung Quốc. Nước này không muốn Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tự đàm phán mà muốn thông qua Trung Quốc giống như hiệp định Geneva năm 1955. Nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa cự tuyệt dù bị áp lực bởi hai đồng minh.

    Hội đàm được chọn tại Paris trải từ tháng 5 năm 1968 đến tháng 1 năm 1973. Ban đầu chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Hoa Kỳ; sau mở ra thành hội nghị bốn bên, thêm Việt Nam Cộng ḥa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam.

    (Để đi đàm phán có chính danh một chính phủ có tính tính pháp lư cao hơn, năm 1969 phía Cộng sản cho thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam trên cơ sở Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam).

    Khi một bên đang thắng thế trên chiến trường th́ đàm phán thường bế tắc và điều đó đúng với Hội nghị Paris suốt thời kỳ từ 1968 đến 1972. Các bên dùng hội nghị như diễn đàn đấu tranh chính trị. Trong suốt quá tŕnh hội nghị các cuộc họp chính thức chỉ mở màn, tố cáo nhau, tranh luận vài điều mà không thể giải quyết được rồi kết thúc mà không đi vào thực chất. Chỉ có các cuộc tiếp xúc bí mật của Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Tiến sĩ Henry Kissinger, cố vấn của tổng thống Hoa Kỳ, là đi vào thảo luận thực chất nhưng không đi được đến thoả hiệp.

    Đến giữa năm 1972, khi Chiến dịch Nguyễn Huệ đă kết thúc và Hoa Kỳ đă quá mệt mỏi bởi chiến tranh kéo dài và thực sự muốn đi đến kết thúc,[155] th́ đàm phán mới đi vào thực chất thoả hiệp.

    Lập trường ban đầu của Hoa Kỳ: quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam phải đồng thời với việc rút Quân đội Nhân dân Việt Nam khỏi Nam Việt Nam. Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu có quyền tồn tại trong giải pháp ḥa b́nh.

    Lập trường ban đầu của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa: quân đội Hoa Kỳ phải rút khỏi Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam có quyền ở lại chiến trường miền Nam. Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu không được tồn tại trong giải pháp ḥa b́nh.

    Trong đó, vấn đề quy chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam là điểm mâu thuẫn chính giữa các bên. Cuối năm 1972 chính phủ Hoa Kỳ, dưới áp lực dư luận, đă mệt mỏi v́ chiến tranh, đă thoả hiệp về vấn đề cơ bản này. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa về phía ḿnh cũng thoả hiệp về quy chế của chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hai bên đi đến thoả hiệp chung: Quân Mỹ và các đồng minh nước ngoài rút khỏi Việt Nam chấm dứt mọi can thiệp quân sự vào vấn đề Việt Nam; Quân đội Nhân dân Việt Nam được ở lại chiến trường Nam Việt Nam; và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được phép tồn tại như một chính phủ có liên quan đến giải pháp ḥa b́nh.

    Sau khi văn kiện hiệp định đă được kư tắt, Henry Kissinger đi Sài G̣n để đệ tŕnh cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu văn bản đă đạt được. Phía Việt Nam Cộng ḥa phản đối dự thảo này và tuyên bố sẽ không kư kết hiệp định như dự thảo.

    Phía Mỹ đứng về phía Việt Nam Cộng ḥa và tuyên bố chưa thể kư được hiệp định, đ̣i thay đổi lại nội dung chính liên quan đến vấn đề cốt lơi: quy chế Quân đội Nhân dân Việt Nam. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa bác bỏ sửa đổi của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đe dọa sẽ ném bom lại miền Bắc Việt Nam nếu Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa từ chối kư theo phương án Hoa Kỳ đề nghị.


    Máy bay B-52 đang ném bom rải thảm

    Tháng 12 năm 1972, Hoa Kỳ cho máy bay B52 ném bom rải thảm Hà Nội, Hải Pḥng và các mục tiêu khác trong 12 ngày (18 tháng 12 đến 30 tháng 12), đó là Chiến dịch Linebacker II. Không khuất phục được Hà Nội, bị thiệt hại nặng nề cho lực lượng không quân và nhất là bị dư luận quốc tế và trong nước phản đối mạnh mẽ, chính phủ Hoa Kỳ buộc phải chấm dứt ném bom quay lại đàm phán và đồng ư kư kết Hiệp định Paris theo phương án đă kư tắt, dù có một vài sửa đổi nhỏ có tính kỹ thuật. Chính phủ Việt Nam Cộng ḥa không tán thành hiệp định nhưng v́ áp lực nếu không chấp nhận th́ Hoa Kỳ sẽ đơn phương kư với Hà Nội và từ bỏ trách nhiệm với Việt Nam Cộng ḥa nên phải chấp nhận kư.


    Phía Hoa Kỳ kư kết hiệp định Paris

    Hiệp định Paris được kư kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, được coi là một thắng lợi quan trọng của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Ngày 29 tháng 3 năm 1973 quân nhân Mỹ cuối cùng rời Việt Nam, chấm dứt mọi sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ đối với vấn đề Việt Nam. Từ nay chỉ c̣n quân đội Việt Nam Cộng ḥa đơn độc chống lại Quân Giải phóng đang ngày càng mạnh.

    Chiến dịch Linebacker II

    Trong chiến dịch này, Hoa Kỳ đem lực lượng không quân chiến lược với máy bay B-52 ném bom rải thảm xuống Hà Nội, Hải Pḥng, Thái Nguyên trong 12 ngày đêm. Về lư do quân sự, chính trị th́ cuộc ném bom này không cần thiết và có hại v́ khi đó Hoa Kỳ đă quyết tâm rút khỏi chiến tranh. Hoa Kỳ biết rất rơ rằng chỉ bằng một cuộc ném bom dù ác liệt đến đâu Hoa Kỳ không thể nào bắt Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa nhượng bộ một vấn đề cốt lơi mà v́ nó họ đă chiến đấu gần 20 năm. Nó chỉ làm dư luận Mỹ và thế giới bất b́nh với chính phủ Hoa Kỳ. Đây chỉ là cách để thể hiện trách nhiệm nghĩa vụ đối với đồng minh (không chỉ đối với Việt Nam Cộng ḥa mà c̣n cả các đồng minh khác nữa). Khi dự thảo hiệp định đă được kư tắt với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, chính phủ Việt Nam Cộng ḥa đă phản đối kịch liệt và không chấp nhận, Hoa Kỳ quyết định dùng bước này để chứng tỏ họ đă cố gắng đến mức cuối cùng cho quyền lợi của đồng minh rồi.

    Hoa Kỳ đă dùng một biện pháp rất cực đoan, tàn bạo mà các chuẩn mực chiến tranh thông thường không cho phép: dùng máy bay B52 rải thảm bom huỷ diệt vào một loạt các khu vực dân cư của các thành phố lớn để đánh vào ư chí của dân chúng và đă gây ra thương vong lớn cho dân cư. Ở Hà Nội, tại phố Khâm Thiên bom trải thảm đă phá sập cả dăy phố và sát hại nhiều dân thường. Tại bệnh viện Bạch Mai, nhiều ṭa nhà quan trọng đă bị phá hủy, cùng với các bệnh nhân và bác sĩ, y tá bên trong. Chiến dịch này đă phá hoại nặng nề nhiều cơ sở vật chất, kinh tế, giao thông, công nghiệp và quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa nhưng đă không làm thay đổi được lập trường của Hà Nội.

    Về mặt quân sự, Hoa Kỳ đă đánh giá thấp lực lượng pḥng không của đối phương. Không lực Hoa Kỳ quá tin tưởng vào các biện pháp kỹ thuật gây nhiễu điện tử để bịt mắt radar và tên lửa pḥng không của đối phương. Để đáp lại, các lực lượng tên lửa pḥng không của Bắc Việt Nam đă giải quyết vấn đề bằng những biện pháp chiến thuật sáng tạo và hợp lư, họ đă bắn các máy bay B-52 theo xác suất và đă thành công vượt xa mức trông đợi. Cũng trong chiến dịch này, lần đầu pháo đài bay B-52 bị hạ bởi một máy bay tiêm kích, do Phạm Tuân điều khiển. Sách báo Việt Nam gọi chiến dịch này là Điện Biên Phủ trên không, như một cách nêu bật thắng lợi của lực lượng pḥng không Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa trong chiến dịch.

    Dưới áp lực của dư luận thế giới và trong nước, thất bại trong việc buộc Hà Nội nhượng bộ, Tổng thống Nixon ra lệnh chấm dứt ném bom vào ngày 30 tháng 12 năm 1972 và hội đàm lại để kư kết hiệp định. Hiệp định Paris có phương án cuối cùng về cơ bản không khác mấy so với phương án đă được kư tắt. Chiến dịch Linebacker II là chiến dịch quân sự cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam.

    Hiệp định Paris

    Hiệp định Paris là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng ḥa, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam kư kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973. Theo các nội dung chính như sau:

    Các quân đội nước ngoài phải rút khỏi Việt Nam. Quân đội Nhân dân Việt Nam, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, Quân Giải phóng miền Nam đóng nguyên tại chỗ và ngừng bắn tại chỗ.

    Miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát. Các bên tạo điều kiện cho dân chúng sinh sống đi lại tự do giữa hai vùng.

    Hiệp thương chính trị giữa các lực lượng chính trị, thành lập chính phủ ḥa hợp dân tộc của miền Nam Việt Nam và tiến tới thống nhất hai miền.

    Ngoài ra c̣n nhiều các điều khoản khác như lập uỷ ban kiểm soát và giám sát và phái đoàn quân sự liên hợp bốn bên, điều khoản Hoa Kỳ đóng góp tài chính tái thiết sau chiến tranh, điều khoản Hoa Kỳ gỡ ḿn đă phong toả các hải cảng Bắc Việt Nam, điều khoản trao trả tù binh...

    Mặt khác, Hiệp định Paris là hiệp định được Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Hoa Kỳ soạn thảo để đảm bảo cho việc Hoa Kỳ ra khỏi chiến tranh. Đối với Hoa Kỳ, đây là cách họ ra khỏi cuộc chiến mệt mỏi này một cách chính đáng. Đối với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng th́ hiệp định này là bước thứ nhất trong hai bước để đi đến thắng lợi cuối cùng. Đối với Việt Nam Cộng ḥa th́ hiệp định này là một tai ương lớn đối với chính thể của họ và đặt sự tồn tại của Việt Nam Cộng ḥa trước một nguy hiểm trong một tương lai gần.

    Để trấn an Việt Nam Cộng ḥa, Tổng thống Nixon đă hứa riêng với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là trong trường hợp quân Giải phóng phát động chiến tranh tiêu diệt Việt Nam Cộng ḥa, Hoa Kỳ sẽ phản ứng một cách thích hợp để bảo đảm an ninh cho Việt Nam Cộng ḥa. Lời hứa này về sau không có giá trị thực tiễn v́ sau đó Quốc hội Hoa Kỳ đă ra nghị quyết không cho phép đưa lực lượng vũ trang trở lại Đông Dương mà không được phép của Quốc hội và quy định khuôn khổ viện trợ cho Việt Nam Cộng ḥa. Với các áp đặt như vậy th́ dù không có sự kiện Watergate, dù Tổng thống Nixon có tại vị th́ cũng không thể giữ lời hứa một cách hữu hiệu được. Đối với người Mỹ, họ thực sự muốn đóng lại cuộc chiến, quên nó đi và mở sang một trang sử mới.


    Hoa Kỳ rút quân theo Hiệp định Paris.
    Nguồn: Sách Chính phủ Việt Nam 1945 – 1998 NXB Chính trị Quốc gia, tháng 7 năm 1999

    Chính v́ vậy trong hiệp định có những điều khoản có vẻ là nhượng bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa nhưng chẳng có ai có thể kiểm chứng và cưỡng chế được; ví dụ điều khoản quy định quân Giải phóng được quyền thay quân và trang bị vũ khí theo nguyên tắc một-đổi-một. Số quân Giải phóng trên chiến trường lúc đó, số quân của họ trên đường ṃn Hồ Chí Minh, số vũ khí họ mang vào và mang ra là những dữ liệu không thể kiểm chứng được. C̣n vũ khí Mỹ vào Việt Nam qua các cảng và cầu hàng không th́ dễ dàng được quản lư. Tương tự, điều khoản về uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế cũng chỉ là h́nh thức v́ quyền lực của uỷ ban này không có đủ để can thiệp ǵ vào các tiến tŕnh sự việc. Các điều khoản về quy chế chính trị như thành lập chính phủ ḥa hợp dân tộc tiến tới thống nhất cũng không có cơ chế thi hành mà chỉ là ư tưởng.

    Nói chung hiệp định này chỉ được thi hành tốt ở những điều khoản rút quân Mỹ (cùng các đồng minh khác) và trao trả tù binh Mỹ mà thôi. Hoa Kỳ thực sự muốn rút và Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa sẵn sàng tạo điều kiện cho việc đó.

    Sau khi quân đội Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3 năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa chuẩn bị cho việc đánh dứt điểm chính quyền Việt Nam Cộng ḥa, c̣n Việt Nam Cộng ḥa cố gắng xoay trở chống đỡ chẳng kể ǵ đến hiệp định. Vai tṛ của hiệp định Paris, trên thực tế, đến đây là đă hết.

  6. #16
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Chiến tranh Việt Nam
    Wikipedia

    Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, hay Chiến tranh Việt Nam (1954-1975)
    Một phần của Chiến tranh Lạnh và Chiến tranh Đông Dương
    P6


    Giai đoạn 1973–1975

    Đây là giai đoạn kết thúc chiến tranh v́ với sự ra đi của quân viễn chinh Hoa Kỳ th́ kết cục cho Chiến tranh Việt Nam đă rơ ràng. Hoa Kỳ chưa hẳn đă rút khỏi cuộc chiến, họ vẫn tiếp tục duy tŕ viện trợ và cố vấn quân sự, nhưng việc quân Mỹ trực tiếp tham chiến sẽ không c̣n nữa. Sau 2 năm quân Mỹ rút hết, quân Giải phóng tiến công trận đánh cuối cùng giải quyết chiến tranh. Việt Nam Cộng ḥa không thể tự bảo vệ, quân đội của họ đă nhanh chóng bị đánh bại và đă đầu hàng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

    Trong các năm từ 1973 đến tháng 2 năm 1975 là thời gian hai phía đối địch chuẩn bị vào các trận đánh nhau to sắp tới. Năm này chỉ được 1–2 tháng đầu là có các ảo tưởng ḥa b́nh: quân sĩ hai bên được phép tiếp xúc với nhau, nhưng sau đó là thời gian hai bên liên tục lên án nhau phá hoại hiệp định và đánh lấn chiếm vùng kiểm soát của nhau, dù ở quy mô nhỏ. Quân đội Việt Nam Cộng ḥa không đủ sức để đánh lớn và quân Giải phóng cũng không có chủ trương đánh lớn vào lúc đó.

    Thời kỳ này có một sự kiện bất ngờ với Việt Nam Cộng ḥa và ngỡ ngàng cho Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa là việc Trung Quốc tấn công chiếm đóng hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974. Vào năm này, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa gặp khó khăn trong việc điều quân dự bị, cụ thể là rút tiểu đoàn Thủy quân lục chiến đang đóng ở Hoàng Sa về đất liền để chống lại lực lượng Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. Hoa Kỳ và hạm đội 7 của họ cũng không giúp đỡ Việt Nam Cộng ḥa tại Hoàng Sa nữa. Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa không công khai phản kháng lại các động thái của Trung Quốc, nhưng Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam đă ra bản Tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung Quốc vào ngày 20/1/1974. Sau hải chiến Hoàng Sa 1974, Trung Quốc đă thay thế Việt Nam Cộng ḥa thực hiện chủ quyền tại quần đảo này; nhưng Việt Nam Cộng ḥa và nước Việt Nam thống nhất sau này vẫn tuyên bố chủ quyền tại đây. Sự việc cũng làm căng thẳng thêm quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa với Trung Quốc (vốn đă xấu đi sau năm 1972), và gây mối nghi ngờ giữa Việt Nam Cộng ḥa với Hoa Kỳ: nó cho thấy Hoa Kỳ sẽ không c̣n đem quân đội bảo vệ họ như trước nữa.

    Thời kỳ 1974–1975 trước trận Ban Mê Thuột có hai trận đánh lớn có vai tṛ đáng chú ư: trận Thượng Đức thuộc tỉnh Quảng Nam bắt đầu khoảng tháng 7 năm 1974 và trận Phước Long tháng 12 năm 1974. Đây là hai trận của giai đoạn này mà Quân giải phóng phát động với một mục tiêu duy nhất là thăm ḍ lực lượng đối phương.

    Tháng 7 năm 1974, Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đưa một sư đoàn đến đánh chiếm chi khu quân sự quận lỵ Thượng Đức thuộc tỉnh Quảng Nam. Đúng theo tính toán của quân Giải phóng, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa liền điều sư đoàn dù tổng trù bị chiến lược đến tái chiếm. Hai bên đánh nhau ác liệt trong ṿng 3 tháng; kết quả quân Giải phóng vẫn giữ vững Thượng Đức và Quân lực Việt Nam Cộng ḥa bỏ cuộc. Sau trận đánh, các nhà lănh đạo của Quân Giải phóng đă kết luận là sức chiến đấu, nhất là sức mạnh tấn công của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa so với 1972 đă suy giảm đi nhiều khi không c̣n có yểm trợ của không quân Mỹ. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa cũng không đủ lực lượng dự bị cơ động để chiến đấu lâu dài: Một quận lỵ quan trọng ở quân khu 1 Việt Nam Cộng ḥa mà cả quân đoàn và quân khu 1 không đủ lực lượng cơ động đến giải vây mà phải dùng đến sư đoàn dù là lực lượng mạnh nhất tổng dự bị chiến lược. Điều này là một luận cứ góp vào kế hoạch tác chiến cho chiến dịch mùa xuân năm 1975 đánh dứt điểm Việt Nam Cộng ḥa.

    Giữa tháng 12 năm 1974, tại mặt trận miền Đông Nam Bộ, quân Giải phóng phát động chiến dịch Phước Long tiến đánh và sau 3 tuần chiếm hoàn toàn tỉnh này. Tuy mất một tỉnh ngay tại đồng bằng Nam Bộ cách Sài G̣n chỉ khoảng 100 km nhưng Việt Nam Cộng ḥa không có phản ứng thích đáng nào để khôi phục. Họ không c̣n quân dự bị cơ động để phản kích nữa. Và quan trọng nhất là Hoa Kỳ chỉ phản ứng ở mức không có dấu hiệu là sẽ can thiệp mạnh. Chiến dịch này đă củng cố tin tưởng của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa là Hoa Kỳ sẽ ít có khả năng can thiệp trở lại.

    So sánh lực lượng hai bên sau khi Hoa Kỳ rút quân

    Trong giai đoạn 1973–1975, sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc cho Quân Giải phóng giảm rơ rệt, tổng số tấn vũ khí và thiết bị quân sự được viện trợ giảm từ khoảng 171.166 tấn/năm trong thời ḱ 1969-72 giảm xuống c̣n khoảng 16.415 tấn/năm trong thời ḱ 1973-75.[156], nhưng cán cân lực lượng vẫn dần có lợi cho Quân Giải phóng. Họ được bổ sung quân số đầy đủ, quân từ miền Bắc hành quân vào Nam bằng cơ giới trên đường ṃn Hồ Chí Minh cả ngày lẫn đêm, đèn pha sáng trưng mà không sợ bị không lực Hoa Kỳ oanh tạc. Trong các năm này, đường ṃn Hồ Chí Minh cũng đă được mở rộng hơn để đảm bảo cho việc cung cấp quy mô lớn cho chiến trường. Các trang thiết bị đạn dược và lương thực cũng đă đủ số trong các kho, từ kho của đơn vị chiến đấu đến kho hậu cứ và kho tại hậu phương miền Bắc. Xăng dầu đă được bơm thẳng theo tuyến đường ống cung cấp từ miền Bắc vào tận Bù Gia Mập tại miền Đông Nam Bộ và rất gần đến các kho đứng chân chiến đấu.

    Đặc biệt ưu thế quan trọng nhất tạo nên áp đảo đối phương là tinh thần chiến đấu. Binh sĩ quân Giải phóng nhận thức được cơ hội thuận lợi chấm dứt chiến tranh giành chiến thắng hoàn toàn nên khí thế lên rất cao và sẵn sàng xung trận.

    Quân đội Việt Nam Cộng ḥa th́ ngày càng gặp khó khăn, tuy phương tiện chiến tranh vẫn c̣n nhiều trong kho, nhưng họ bị hạn chế về kinh phí tài chính v́ viện trợ của Hoa Kỳ đă bị cắt giảm nhiều, khó khăn trong việc trả lương binh lính và nhất là khó khăn trong việc tăng cường và bổ sung quân số. Tuy hơn hẳn đối phương về không quân, nhưng quân chủng này đ̣i hỏi rất nhiều tài chính khi hoạt động, viện trợ của Hoa Kỳ lúc đó không đủ nên không quân chỉ phát huy non nửa uy lực. Các khu dự trữ xăng dầu của Việt Nam Cộng ḥa luôn là nơi bị đặc công Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đánh phá nên nhiều lúc vấn đề nhiên liệu cũng gay gắt.

    Nhưng điều khó khăn lớn nhất cho Quân đội Việt Nam Cộng ḥa là tinh thần chiến đấu của binh sĩ xuống thấp. Sau Hiệp định Paris, các sĩ quan và binh lính đă thấy tương lai mờ mịt cho họ, tâm trạng bi quan chán nản và tinh thần chiến đấu sa sút nghiêm trọng dẫn đến t́nh trạng đào ngũ, trốn lính rất nhiều, bổ sung không kịp.

    Theo các số liệu thống kê về cán cân lực lượng trên chiến trường (quân số, trang bị hạng nặng) th́ tương quan lực lượng nghiêng về Việt Nam Cộng ḥa. Nhưng với những thuận lợi và khó khăn thực chất của hai bên, ưu thế trên chiến trường đă nghiêng dần sang phía Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Việc họ nhanh chóng đè bẹp quân đội Việt Nam Cộng ḥa trong chiến dịch mùa xuân năm 1975 là phản ánh đúng cán cân lực lượng trên chiến trường.
    Cuộc tấn công cuối cùng

    Cuộc tấn công cuối cùng của Quân Giải Phóng Miền Nam diễn ra trong 55 ngày đêm bắt đầu từ ngày 5 tháng 3 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng ḥa đầu hàng vô điều kiện. Nó c̣n được gọi là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Cơ quan tham mưu của Việt Nam Dân Chủ Cộng ḥa lập kế hoạch tiến công đă phân cuộc tiến công này thành các chiến dịch nối tiếp nhau họ gọi là chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng và, cuối cùng, chiến dịch Hồ Chí Minh.

    Chiến dịch Tây Nguyên: với mục tiêu là chiếm Tây Nguyên mà trận mở đầu then chốt là thị xă Ban Mê Thuột tại Nam Tây Nguyên. Tại đây có hậu cứ của sư đoàn 23 của Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Quân đội Nhân dân Việt Nam đă thành công trong việc làm cho đối phương tin rằng mục tiêu tiến công sẽ ở Bắc Tây Nguyên ở hướng thị xă Kon Tum hoặc thị xă Pleiku. Ngày 10 tháng 3 quân Giải Phóng tiến công Ban Mê Thuột. Sau hơn một ngày tiến công rất ác liệt, quân đồn trú đă kháng cự rất quyết liệt nhưng với ưu thế áp đảo quân Giải Phóng đă đánh chiếm được thị xă. Liên tiếp trong các ngày sau đó họ đă chủ động tiến công quân phản kích, quân phản kích của Nam Viêt Nam vừa đổ xuống chưa kịp đứng chân cũng đă bị đánh tiêu diệt. Mất Ban Mê Thuột và không có đủ lực lượng cơ động dự bị khả dĩ có thể phản kích tái chiếm, lại cùng với việc các lực lượng pḥng thủ Bắc Tây Nguyên cũng đang bị uy hiếp nặng nề, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă ra lệnh bỏ Tây Nguyên rút các lực lượng c̣n lại về cố thủ giải đồng bằng ven biển miền trung. Đường rút lui sẽ là theo đường 14 từ Pleiku đi xuống phía nam sau đó đi vào đường số 7 đă bị bỏ từ lâu không sử dụng, mục tiêu là thoát xuống thị xă Tuy Ḥa tỉnh Phú Yên. Đây là một thảm hoạ chết người cho Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Cuộc rút lui đă không bảo toàn được số quân mà trái lại nó làm thành làn sóng hoảng loạn lan khắp các vùng lại c̣n làm rệu ră hết tinh thần binh sĩ trên toàn quốc. Việc rút một số lượng quân lớn như thế trong một thời gian chuẩn bị gấp gáp 2–3 hôm đă diễn ra trên đoạn đường dài hàng trăm km không có kế hoạch, trong khi tinh thần binh sĩ đă xuống rất thấp và, quan trọng hơn cả, binh sĩ mang gia đ́nh và người chạy nạn theo cùng. Tất cả những cái đó đă biến ḍng người cùng xe cộ khổng lồ ùn tắc thành một ḍng náo loạn không thể chỉ huy và chiến đấu. Bị đối phương chặn tại Cheo Reo - Phú Bổn, đoàn quân này đă bị tan tác không c̣n tập hợp lại được nữa. Tây Nguyên thất thủ vào tay quân Giải phóng, hơn 12 vạn quân đồn trú bị tan ră. Tiêu biểu như toàn bộ sư đoàn 23 của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa hơn 1 vạn quân về đến Tuy Ḥa tập hợp đếm lại được c̣n 36 người.

    Chiến dịch Huế-Đà Nẵng: Kể từ sau cuộc rút chạy khỏi Tây Nguyên tin thất bại đă bay khắp miền Nam, binh sĩ mất hết tinh thần, quân đội gần như không chiến đấu mà bỏ chạy. Các nhà lănh đạo chiến tranh của Mặt Trận Giải Phóng nhận định ra quân đội Cộng ḥa đă không c̣n chiến đấu có tổ chức chặt chẽ được nữa; họ liền tiến hành phương án thời cơ tung ngay quân đoàn 2 (hay Binh đoàn Hương Giang được thành lập từ các đơn vị của quân khu Trị – Thiên và khu 5) nhanh chóng tiến công đánh chiếm cố đô Huế và thành phố lớn thứ hai của Việt Nam Cộng ḥa, Đà Nẵng. Quân đội Việt Nam Cộng ḥa vội vă rút lui khỏi Quảng Trị về Huế và trước sức ép của đối phương quyết định rút chạy bỏ Huế nhưng đường núi về phía nam đă bị đối phương cắt mất, họ chỉ c̣n một con đường chạy ra biển để chờ tàu hải quân vào cứu. Cũng giống như cuộc rút chạy khỏi Tây Nguyên, cuộc rút chạy này đă trở thành hỗn loạn và cướp bóc. Số nào được cứu lên tàu hải quân th́ khi lên đến bờ cũng không thể tập hợp lại thành đơn vị chiến đấu được nữa, số c̣n lại bỏ vũ khí tự tan vỡ. Ngày 26 tháng 3 quân Giải Phóng vào Huế. Đà Nẵng cũng không tránh được bị chiếm. Khi quân đoàn 2 của Quân Giải phóng tiến đến Đà Nẵng, cảnh hỗn loạn đang diễn ra, quân lính Việt Nam Cộng ḥa đang cướp bóc. Quân lính và dân cố gắng thoát khỏi thành phố bằng tàu hải quân, các đơn vị ṿng ngoài không c̣n tinh thần chiến đấu nữa; quân Quân Giải phóng bỏ qua ṿng ngoài thọc sâu đánh chiếm thành phố mà không có kháng cự đáng kể. Tại đây 10 vạn binh lính và sỹ quan đă ra hàng (ngày 29 tháng 3). Quân khu 1 Việt Nam Cộng ḥa đă bị xoá bỏ.

    Trong hai tuần đầu tháng 4 các tỉnh thành phố miền trung lần lượt rơi vào tay Quân Giải phóng. Họ từ phía Bắc tràn vào (với Quân đoàn 2) và từ Tây nguyên tràn xuống (với Quân đoàn 3 – hay Binh đoàn Tây Nguyên – được thành lập từ các đơn vị của mặt trận Tây Nguyên). Bây giờ th́ không c̣n sức mạnh nào có thể ngăn nổi sự sụp đổ của Việt Nam Cộng ḥa.

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa dồn hết các toán quân c̣n sót lại của Quân đoàn 2 của họ chuyển sang cho Quân đoàn 3 chỉ huy để cố lập một pḥng tuyến ngăn chặn tại Phan Rang nhưng cũng không chặn được quân Giải phóng mà tư lệnh chiến trường cũng bị bắt. Quân khu 1 và 2 của Việt Nam Cộng ḥa đă bị xoá bỏ. Bây giờ quân Giải phóng đă ào xuống đồng bằng Đông Nam Bộ của quân đoàn và quân khu 3 Việt Nam Cộng ḥa, chỉ c̣n hơn 100 km là đến Sài G̣n.

    Nỗ lực cuối cùng của Việt Nam Cộng ḥa là trông vào tuyến pḥng thủ từ xa của Sư đoàn 18 tại thị xă Xuân Lộc tỉnh Long Khánh. Quân đoàn 4 (hay Binh đoàn Cửu Long) của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam được thành lập từ các sư đoàn và đơn vị tại miền Đông Nam Bộ định chiếm Xuân Lộc trong hành tiến. Nhưng sư đoàn 18 đă chống cự có tổ chức, đây là nỗ lực chiến đấu có tổ chức dài ngày cuối cùng của quân đội Việt Nam Cộng ḥa. Quân đoàn 4 của quân Giải phóng không chiếm được Xuân Lộc trong hành tiến bắt buộc phải dừng lại tổ chức lại trận địa tiến công. Mặt khác họ không để mất th́ giờ với Xuân Lộc mà đi ṿng qua ṿng vây tiến về phía Biên Ḥa. Sau 12 ngày cầm cự, từ 9 tháng 4 đến 21 tháng 4, Sư đoàn 18 của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa bỏ Xuân Lộc rút lui có tổ chức về bên kia sông Đồng Nai cố thủ. Vậy là tuyến pḥng thủ từ xa cuối cùng bảo vệ Sài G̣n không c̣n. Trước t́nh h́nh không thể cứu văn tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức để người khác có cơ hội đàm phán với Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng ông không phải là người có thể nói chuyện được với đối phương. Các dàn xếp của các lực lượng thứ ba đă đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng thống từ ngày 28 tháng 4.

    Chiến dịch Hồ Chí Minh: Sau khi tập hợp đủ lực lượng gồm 15 sư đoàn và rất nhiều trung đoàn, lữ đoàn độc lập khác để đảm bảo áp đảo chắc thắng, Quân Đội Nhân Dân Việt Nam bắt đầu tiến công Sài G̣n để chấm dứt chiến tranh trong một chiến dịch được gọi tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh, bắt đầu từ ngày 26 tháng 4. Quân Đội Nhân Dân Việt Nam tổ chức theo 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4 và đoàn 232 tương đương quân đoàn đánh 5 mũi từ 5 hướng vào Sài G̣n. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa vẫn c̣n hơn 400.000 quân và đă kháng cự ác liệt trên một số hướng, nhưng rốt cục không thể kháng cự lâu dài được nữa. Quân Giải phóng đánh từ ngày 26 đến cuối ngày 28 tháng 4 th́ họ đến được cửa ngơ Sài G̣n và có thể đi thẳng vào thành phố. Để tránh mọi rắc rối với Hoa Kỳ, Quân Đội Nhân Dân Việt Nam dừng lại bên ngoài thành phố 1 ngày để người Mỹ tổ chức di tản xong họ mới vào. 8 giờ sáng 30 tháng 4, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố Sài G̣n bỏ ngỏ và ra lệnh cho quân đội đơn phương ngừng chiến chờ đối phương vào bàn giao chính quyền. Bộ tổng tham mưu ra mệnh lệnh chấm dứt kháng cự. Quân Đội Nhân Dân Việt Nam tiến nhanh vào thành phố và chỉ gặp những kháng cự lẻ tẻ, vô tổ chức. Đến 11 giờ 30 phút Dương Văn Minh lên đài phát thanh đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến tranh Việt Nam chấm dứt.

    Về việc kết thúc chiến tranh


    Những giờ phút cuối cùng của Sài G̣n trước khi thất thủ

    Việc đánh chiếm Sài G̣n kết thúc chiến tranh của phía Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă diễn ra khá ôn ḥa, rất ít đổ máu và thành phố nguyên lành. Tất nhiên sự sụp đổ đầu hàng của Việt Nam Cộng ḥa là kết quả của sức mạnh quân sự áp đảo của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, nhưng việc kết thúc chiến tranh ôn ḥa không đổ máu dân chúng, có đóng góp nhiều của lực lượng thứ ba và vai tṛ không nhỏ của Dương Văn Minh và các phụ tá. Trong bối cảnh không c̣n cơ hội kháng cự, với cách nh́n thực tế và không cực đoan, ông Dương Văn Minh được các lực lượng chính trị thứ ba đưa lên làm tổng thống để đảm bảo một cuộc chuyển giao chế độ êm thấm và không đổ máu, không trả thù.[157] Ông đă làm được việc này bằng cách tuyên bố Sài G̣n bỏ ngỏ và sẵn sàng đón nhận quân Giải phóng vào để làm thủ tục bàn giao chính quyền. Đối với hoàn cảnh chiến sự và chính trị lúc đó có lẽ đây là một giải pháp đúng đắn. Cùng với việc ra mệnh lệnh đơn phương ngừng chiến, thực tế từ sáng sớm 30 tháng 4, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa đă ngừng kháng cự và Quân Giải Phóng Miền Nam vào Sài G̣n mà không gặp kháng cự có tổ chức.

    Ngay sau khi Quân Đội Nhân Dân Việt Nam chiếm thành phố và làm chủ hoàn toàn miền Nam, các cấp chỉ huy chính trị-quân sự của những người Cộng sản miền Nam mà đại diện là Thượng tướng Trần Văn Trà – Tư lệnh quân quản Sài G̣n đă có cách nh́n và việc làm thông cảm, hợp t́nh, hợp lư và những lời nói khích lệ đối với các cấp chính quyền và quân đội đối phương.[cần dẫn nguồn]

    Phong trào phản chiến

    Cuộc chiến tranh tại Việt Nam đă bị phản đối từ đầu thập niên 1960, nhưng không được chú ư và phải cho đến khi 1 người Mỹ là Norman Morrison tự thiêu vào năm 1965 th́ dư luận thế giới mới biết đến.[158]

    Phong trào phản chiến bước sang một bước ngoặt mới khi cuộc biểu t́nh của sinh viên Đại học Kent State (bang Ohio) ngày 4-5-1970 đă bị Vệ binh quốc gia Mỹ đàn áp làm 4 sinh viên bị chết và 9 người khác bị thương.

    Đă có hơn 200 tổ chức chống chiến tranh ở trên khắp các bang ở Mỹ, 16 triệu trong số 27 triệu thanh niên Mỹ đến tuổi quân dịch đă chống lệnh quân dịch, 2 triệu người Mỹ “gây thiệt hại bất hợp pháp” v́ chống chiến tranh Việt Nam, 75.000 người Mỹ bỏ ra nước ngoài v́ không chịu nhập ngũ và đấu tranh chống chiến tranh Việt Nam, trong đó có cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton.[158]

    Trong suốt cuộc chiến, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa kiên tŕ tranh thủ phong trào ḥa b́nh ở Mỹ. Theo đánh giá của giám đốc CIA - William Colby, th́ họ được dư luận ủng hộ mạnh mẽ do việc giới thông tin đại chúng của Mỹ dễ dàng vào được miền Nam Việt Nam trong khi nếu muốn vào miền Bắc Việt Nam lại rất khó, và do đó, tin tức về những khiếm khuyết của quân đội Mỹ và chính phủ Việt Nam Cộng hoà th́ công chúng Mỹ được biết trong khi chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà th́ chẳng có ǵ hết v́ phóng viên nước ngoài không thể tiếp cận.[159]

    Phong trào này đă góp phần quan trọng vào thắng lợi của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa trong cuộc chiến tranh này.[160]. Rút kinh nghiệm từ bài học này, trong chiến tranh vùng Vịnh và các cuộc chiến khác sau này, chính phủ và quân đội Mỹ đă đặt ra những quy định giới hạn về tác nghiệp và đưa tin đối với các phóng viên chiến tranh (không được đưa những tin tức ǵ, ở đâu, lúc nào...), nhất là ở những vùng đang diễn ra giao tranh.

    Kết quả và Việt Nam sau cuộc chiến

    Nam Việt Nam (Đồng bằng sông Cửu long): Một trực thăng UH-1D của Đại đội Không quân 336 Không lực Hoa Kỳ rải chất diệt cỏ lên một vùng rừng rậm. Ngày 26/7/1969

    Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến gây nhiều tàn phá nhất trong lịch sử Việt Nam và gây chia rẽ rất sâu sắc trong ḷng dân tộc Việt Nam cũng như xáo trộn, chia rẽ trong ḷng nước Mỹ và nhiều quốc gia khác trên thế giới.

    Tùy theo nguồn, số người Việt Nam bị thiệt mạng trong chiến tranh Việt Nam là từ 3 đến 5 triệu, hàng triệu người khác tàn tật và bị thương. Những người sống sót tiếp tục phải đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng về kinh tế xă hội và môi trường mà cuộc chiến đă gây ra. Trong đó có tỷ lệ dị dạng bẩm sinh cao nhất thế giới[161] Hàng vạn nạn nhân chất độc hóa học tại Việt Nam hiện nay (Xem Chất độc da cam). Một nửa diện tích rừng của Việt Nam bị phá hủy. Mỹ đă rải ở miền Nam Việt Nam 45.260 tấn (khoảng 75 triệu lít) chất độc hóa học, sự tàn phá môi trường do Mỹ gây ra lớn đến mức đă làm phát sinh một từ tiếng Anh mới, ecocide. Việt Nam đă trở thành đất nước bị ném nhiều bom nhất trong lịch sử thế giới. Số bom ném xuống Việt Nam là 7,85 triệu tấn, gấp gần 3 lần tổng số tấn bom sử dụng trong Thế chiến thứ hai, trong cái gọi là "chính sách lunarization" (mặt trăng hóa). Cơ sở hạ tầng ở cả hai miền Việt Nam đă bị phá hoại gần hết. Tính b́nh quân mỗi người dân Việt Nam từ cụ già đến trẻ sơ sinh phải chịu đựng trên dưới 250 kg bom đạn Mỹ.

    Bước ra sau chiến tranh, cùng với niềm tự hào đă chiến thắng "siêu cường số một" thế giới, Việt Nam đă có được thống nhất và độc lập - mục tiêu mà v́ nó nhiều thế hệ người Việt đă đấu tranh suốt từ thời Pháp thuộc.

    Tuy nhiên, sau chiến tranh, Việt Nam gặp phải nhiều khó khăn. Sự cứng nhắc về chính sách kinh tế; thiên tai, lệnh cấm vận của Mỹ; và sự tàn phá của chiến tranh; 2 cuộc chiến tranh biên giới nổ ra; tất cả đều góp phần vào các vấn đề thời hậu chiến của đất nước.[162] Những điểm yếu về kinh tế, xă hội do rập khuôn theo mô h́nh xă hội chủ nghĩa của Đông Âu đă nhanh chóng phát tác trầm trọng (những điểm mà trong thời chiến dân chúng c̣n tạm chấp nhận).

    Cùng với những chia rẽ sâu sắc vốn có của chiến tranh, rất nhiều sĩ quan quân đội và viên chức thuộc chế độ Việt Nam Cộng ḥa bị bắt đi học tập cải tạo từ vài ngày đến vài năm (thời hạn thường tăng theo cấp bậc, sĩ quan bậc thấp như thiếu úy thường là vài ngày, trong khi các viên chức cấp cao nhất có người bị giam giữ hơn 10 năm), càng làm cho nhân tâm thêm sa sút. Thêm vào đó, nền kinh tế Việt Nam c̣n chịu hao tổn nặng nề do cuộc xung đột kéo dài tại biên giới với Trung Quốc và do việc đóng quân quá lâu (hơn 10 năm) ở Campuchia sau chiến tranh biên giới Tây Nam. Những biến cố cả khách quan lẫn chủ quan về kinh tế và lănh đạo này đă tạo nên làn sóng những người vượt biên ra đi. Sau 10 năm thống nhất, tiến hành đổi mới cho Việt Nam là tất yếu và sống c̣n.

    Đối với Hoa Kỳ, Chiến tranh Việt Nam đă thành một chương buồn trong lịch sử của họ. 5 đời Tổng thống Mỹ với 4 chiến lược chiến tranh lần lượt phá sản. Thất bại trong chiến tranh Việt Nam là thất bại lớn nhất và cũng là duy nhất trong lịch sử 200 năm của Hoa Kỳ, nó gây ra một cú sốc trong tâm lư chính trị của Hoa Kỳ, buộc họ phải nhận thức và đánh giá hiệu chỉnh lại vai tṛ cường quốc của họ trên thế giới. Quân đội Mỹ giảm hẳn hoạt động tại nước ngoài trong suốt 15 năm, cho tới khi Chiến tranh Vùng vịnh nổ ra. Ngoài 58.220 lính chết và 305.000 thương tật (trong đó 153.303 bị tàn phế), rất nhiều lính Mỹ trong số 2,7 triệu lính từng tham chiến tại Việt Nam mắc các chứng rối loạn tâm thần, thông thường được gọi là "Hội chứng Việt Nam".[163] Sự cay đắng của các cựu binh tuổi thanh niên này góp phần tạo nên Hippi, một trào lưu đầy nổi loạn, bất cần đời trong giới trẻ Mỹ trong suốt 20 năm. Nhiều năm sau chiến tranh, hàng chục vạn quân nhân và cố vấn Mỹ đă bị ung thư do đă tiếp xúc với chất độc da cam.

    Nền chính trị và mối liên kết giữa chính phủ và người dân bị chia rẽ nghiêm trọng. Hoa Kỳ đă tốn 676 tỷ đô la cho cuộc chiến (tính theo giá trị đô la của năm 2004 chưa tính các khoản chi tiêu gián tiếp khác [10]), chỉ đứng sau chi phí của Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1.200 tỷ đô la, tính theo thời giá năm 2007[164]). Nếu đem so sánh giá của chiến tranh Việt Nam với các chương tŕnh có tính chất tiêu biểu mà chính phủ nước Mỹ đă thực hiện, th́ Việt Nam vẫn nổi lên một lần nữa là một trong những công cuộc đắt tiền nhất trong lịch sử nước Mỹ. Toàn bộ hệ thống đường sá giữa các bang chỉ tiêu tốn 53 tỷ USD (năm 1972), chương tŕnh vũ trụ đưa người lên Mặt trăng của Mỹ cũng chỉ tốn 25 tỷ USD. Sự hao tổn chiến phí này đă làm thâm hụt ngân sách tăng cao, góp phần đẩy Mỹ vào một thập niên suy thoái kinh tế đầy u ám.

    Vũ khí sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam

    Chiến tranh Việt Nam là một chiến tranh tàn khốc với quy mô lớn kéo dài gần 20 năm. Đây cũng là lần đầu tiên hậu quả tàn khốc của vũ khí được xuất hiện trong các màn h́nh nhỏ của các nước tiên tiến. Mỗi bên đều áp dụng vũ khí tân tiến nhất thời đó. Một loạt các loại vũ khí đă được sử dụng bởi các quân đội khác nhau hoạt động trong chiến tranh Việt Nam, bao gồm các đội quân của Việt Nam Cộng ḥa (Quân lực Việt Nam Cộng ḥa); của Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), thường được phương Tây gọi là quân đội Bắc Việt Nam; Quân giải phóng miền Nam - một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, thường được Mỹ gọi là Việt Cộng (VC); tất cả các đơn vị của quân đội Mỹ; các đồng minh của họ là Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Thái Lan và quân đội Philippines.

    Gần như tất cả các lực lượng liên minh bao gồm Quân lực Việt Nam Cộng ḥa và Úc được trang bị vũ khí của Mỹ, một số trong đó, chẳng hạn như M1 Carbine, đă được dùng để thay thế các loại vũ khí có niên đại từ Chiến tranh thế giới thứ 2. Quân đội nhân dân Việt Nam, mặc dù thừa kế một sưu tập vũ khí của Mỹ, Pháp, và Nhật Bản từ Thế chiến thứ hai và Chiến tranh Đông Dương, nhưng phần lớn được vũ trang và cung cấp bởi Trung Quốc, Liên bang Xô Viết, và của Khối Warsaw. Ngoài ra, một số vũ khí, như K-50M (một biến thể PPsh-41), và phiên bản "tự chế" của RPG-2 đă được sản xuất tại Việt Nam.

    Năm 1969, quân đội Mỹ đă xác định được 40 loại súng trường /carbine, 22 loại súng máy, 17 loại súng cối, 20 súng trường không giật hoặc các loại ống phóng tên lửa, 9 loại vũ khí chống tăng, và 14 vũ khí pḥng không được sử dụng bởi quân đội mặt đất của tất cả các bên. Ngoài ra lực lượng chống cộng sản có 24 loại xe bọc thép và pháo tự hành, và 26 loại pháo và ống phóng tên lửa [165]

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 10-05-2012, 08:21 PM
  2. Biến Cố 30/4/1975 - Việt Nam sau 35 năm chiến tranh kết thúc
    By TuyetNhiNguyen in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 0
    Last Post: 09-03-2012, 07:52 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 04-07-2011, 01:11 PM
  4. Replies: 2
    Last Post: 23-10-2010, 07:03 PM
  5. Replies: 7
    Last Post: 18-10-2010, 03:56 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •