Page 2 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 11 to 20 of 45

Thread: Bên thắng cuộc - Huy Đức

  1. #11
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương IV : Nạn Kiều
    P2



    Sáng 17-1-1974, Hạm đội HQ16 báo cáo tiếp: “Hai tàu đánh cá Trung Quốc không tuân lịnh ra khỏi lănh hải. Ngoài ra, hai tàu khác chở quân Trung Cộng đang đến gần đảo và trên bờ có cắm nhiều cờ Trung Cộng”. Hạm trưởng HQ16, Trung tá Lê Văn Thự, cho một toán đổ bộ lên đảo, nhổ cờ Trung Quốc thay bằng cờ Việt Nam Cộng Ḥa. Toán đổ bộ gặp nhiều người Trung Quốc nhưng đôi bên đều kềm chế.



    Bộ Tư lệnh Hải quân ở Sài G̣n sau khi nghe Tướng Thoại cập nhật t́nh h́nh đă phái Khu trục hạm Trần Khánh Dư của Trung tá Vũ Hữu San ra tăng cường. Toàn bộ t́nh h́nh được tŕnh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lúc 8 giờ sáng cùng ngày khi ông trực tiếp tới Bộ Tư lệnh Vùng Một. Nghe xong, Tổng thống ngồi xuống lấy giấy bút trực tiếp viết “Chỉ thị cho Tư lệnh Hải quân Vùng Một: T́m cách ôn ḥa mời các chiến hạm Trung Quốc ra khỏi lănh hải Việt Nam. Nếu họ không thi hành th́ được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này. Nếu họ ngoan cố th́ toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa”.



    Ngày 18-1-1974, theo ủy nhiệm của Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Đại tá Hà Văn Ngạc lên tuần dương hạm Trần B́nh Trọng của Trung tá Phạm Trọng Quỳnh, trực chỉ Hoàng Sa. V́ là sỹ quan có cấp bậc cao nhất trong vùng chiến sự lúc đó, Đại tá Ngạc trở thành người chỉ huy cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa. Cùng đi có Hộ tống hạm Nhật Tảo của Thiếu tá Ngụy Văn Thà. Khi hải đội của Đại tá Ngạc đến Hoàng Sa, có ít nhất bốn chiến hạm của Trung Quốc có mặt. Trước thái độ khiêu khích của các tàu Trung Quốc, Đại tá Ngạc báo với Tướng Thoại qua bộ đàm, “việc chạm súng chắc là không sao tránh khỏi”. Sáng 19-1-1974, các chiến hạm của đôi bên đều gây áp lực nặng nề lên nhau. Đại tá Ngạc đồng ư với Tướng Thoại “khi t́nh h́nh căng thẳng quá th́ sẽ khai hỏa trước để giảm thiểu thiệt hại”.

    Khoảng 10 giờ 30 phút sáng 19-1-1974, Đại tá Ngạc báo cáo: “Bắt đầu khai hỏa”. Máy vô tuyến vẫn để “on”, Tướng Hồ Văn Kỳ Thoại nghe rơ những tiếng nổ chát chúa của cuộc chiến đấu. Khi chứng kiến tàu Trung Quốc bốc cháy, “toán đổ bộ thuộc tàu HQ16 đang ngồi trên xuồng cao su đă cùng cất vang bài hát “Việt Nam, Việt Nam”.

    Trận đánh bất cân sức ấy diễn ra chỉ trong ṿng ba mươi phút. Phía Trung Quốc: hai hộ tống hạm bị bắn ch́m, hai trục lôi hạm bị bắn hỏng, một đô đốc, sáu đại tá và hàng chục sỹ quan cấp tá, cấp úy khác tử trận. Phía Hải Quân Việt Nam: hộ tống hạm Nhật Tảo bị ch́m, Thiếu tá Ngụy Văn Thà cùng với hai mươi bốn chiến sỹ khác hy sinh, hai mươi sáu chiến sỹ mất tích; khu trục hạm Trần Khánh Dư bị hư hại, hai chiến sỹ hy sinh; tuần dương hạm Trần B́nh Trọng bị hư hại, hai chiến sỹ hy sinh cùng với hai nhân viên người nhái; tuần dương hạm Lư Thường Kiệt bị trúng đạn, nghiêng một bên; mất liên lạc với toán đổ bộ gồm mười lăm thủy thủ (về sau, chiếc xuồng chở mười lăm thủy thủ này trôi dạt nhiều ngày về Quy Nhơn, được thuyền đánh cá cứu vớt, một người chết v́ kiệt sức); hai mươi ba thủy thủ khác cũng trôi dạt trên biển, may mắn được tàu Skopionella của hăng Shell (Mỹ) cứu vớt.





    Ngày hôm sau, 20-1-1974, mười chiến hạm Trung Quốc bắt đầu đổ quân lên hai ḥn đảo Cam Tuyền và Hoàng Sa, bắt đi bốn mươi ba người, gồm hai mươi tám quân nhân và các nhân viên khí tượng. Một người Mỹ, Gerald Kosh, t́nh cờ theo tàu Lư Thường Kiệt ra Hoàng Sa chơi hôm 15-1-1974, cũng bị bắt. Trong thời điểm ấy, theo Tướng Thoại: “Các chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ ở rất gần các vị trí chiến hạm Việt Nam”. Trước khi trận chiến xảy ra, Bộ Tư lệnh Hải quân nói với Đề đốc Thoại là “yên tâm”; nhưng trong suốt cả quá tŕnh sau đó, Hạm đội Bảy của Mỹ đă không làm ǵ kể cứu vớt các đồng minh lâm nạn. Hoàng Sa của Việt Nam bị Bắc Kinh chiếm đóng kể từ ngày 19-1-1974. C̣n miền Bắc Việt Nam, khi ấy đang dựa vào Trung Quốc như một đồng minh để tiến hành cuộc chiến tranh ở miền Nam, cũng gần như im lặng.



    Tướng Giáp nói rằng ông nhận được tin mất Hoàng Sa khi đang điều trị bệnh sỏi mật ở Liên Xô. Ngày 25-3-1975, sau “chiến thắng Buôn Ma Thuột”, Tướng Giáp với tư cách là bí thư Quân ủy Trung ương kiến nghị Bộ Chính trị “tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ”198. Ngày 2-4-1975, Tướng Giáp trực tiếp chỉ thị cho Tướng Lê Trọng Tấn lúc bấy giờ đang ở Đà Nẵng: tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa. Trước đó, ngày 30-3, Quân ủy cũng điện cho Vơ Chí Công và Chu Huy Mân yêu cầu chỉ đạo thực hiện. Chiều 4-4-1975, Quân ủy điện tiếp cho Quân khu V: “Kịp thời đánh chiếm các ḥn đảo vùng Nam Hải, đặc biệt là các đảo Nam Sa. Việc này phải chuẩn bị gấp và bí mật, chỉ để cán bộ có trách nhiệm biết”199.



    Ngày 9-4-1975, Cục Quân báo có tin quân đội Sài G̣n rút khỏi các đảo, Quân ủy gửi điện “tối khẩn” cho Vơ Chí Công, Chu Huy Mân và Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng Hữu Thái: “Các anh cho kiểm tra và hành động kịp thời… Nếu để chậm, có thể quân nước ngoài chiếm trước, v́ hiện nay một số nước ngoài đang có ư đồ xâm chiếm”200. Ngày 13-4-1975, Tướng Giáp nhắc thêm: “Chỉ đánh các đảo quân ngụy miền Nam chiếm đóng”201. Từ ngày 14-4-1975 đến ngày 28-4-1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam lấy xong những ḥn đảo do quân đội Sài G̣n chiếm giữ, nhưng tránh đụng tới các đảo ở Hoàng Sa đang ở tay Trung Quốc.



    Tháng 9-1975, trong chuyến đi đầu tiên đến Bắc Kinh, sau khi giành thắng lợi ở miền Nam, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn tới Trung Nam Hải. Ông Duẩn đă đến tận giường bệnh của Mao Trạch Đông để nói lời cám ơn với Mao Trạch Đông: “Nước chúng tôi chưa có bao giờ vui như hôm nay. Nếu chúng tôi không có Trung Quốc là hậu phương lớn bao la, không có đường lối của Mao Chủ tịch, không có sự viện trợ của các đồng chí cung cấp, chúng tôi không thể thành công được”202. “Với nụ cười khó nhọc trên gương mặt người mang bệnh, Mao Trạch Đông hơi vẫy tay, tỏ ra hiền ḥa thân thiết… Người đă dùng những câu nói không được mạch lạc lắm để nói với Lê Duẩn: Nhân dân Việt Nam thắng lợi rồi, Nam Bắc đă thống nhất rồi, tôi rất phấn khởi, rất phấn khởi”.



    Chắc hẳn là Lê Duẩn đă không chỉ xử sự theo phép tắc ngoại giao khi đến tận giường bệnh của Mao Trạch Đông để xác nhận: “Không có viện trợ của Trung Quốc, chúng tôi không thể thành công”. Không mấy người dân Việt Nam là không biết đến súng AK, nón cối, lương khô, gạo sấy, thịt hộp… được cung cấp từ Trung Quốc. Bộ đội miền Bắc thời chiến tranh có thể nói là đă được Trung Quốc trang bị đến từng “cái kim, sợi chỉ”. Nhưng ngoài chuyện ân nghĩa với đồng minh, ông Lê Duẩn c̣n phải chịu trách nhiệm trước quốc gia mà ông lănh đạo. Trong chuyến đi Trung Quốc ấy, ngày 24-9-1975, khi gặp Đặng Tiểu B́nh, ông Lê Duẩn đă yêu cầu Phó Thủ tướng Đặng Tiểu B́nh đàm phán vấn đề Hoàng Sa nhưng đă bị Đặng Tiểu B́nh từ chối. Bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh đă làm cho người dân Trung Quốc nghĩ rằng Hoàng Sa đă thuộc về Trung Quốc.



    Ngày 5-5-1975, khi nghe Đài Tiếng nói Việt Nam công bố, “Ngày 11-4-1975, Hải quân Việt Nam đă giải phóng quần đảo Trường Sa”, một phóng viên Tân Hoa Xă tên là Lăng Đức Quyền (Ling Dequan) – khi ấy đang chuẩn bị rời Hà Nội vào miền Nam – đă cảm thấy “như một cú sốc”. Quyền giải thích với nhà báo Mỹ Nayan Chanda: “V́ trước đó họ đă công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên những ḥn đảo ấy”.

    Người Trung Quốc cho rằng: “Từ năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đă thông báo cho Thủ tướng Chu Ân Lai rơ ràng xác nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lănh thổ Trung Quốc. Nhưng hiện nay họ tiền hậu bất nhất ngang nhiên tuyên truyền đây là lănh thổ của họ, sửa đổi bản đồ vẽ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào bản đồ Việt Nam”203. Năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng, trong vai tṛ đồng minh, có công hàm ủng hộ Tuyên bố của Chu Ân Lai về “hải phận mười hai hải lư kể từ đất liền của Hoa Lục”204. Tuyên bố này được đưa ra trong t́nh trạng chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan có dấu hiệu vi phạm vùng biển chủ quyền Trung Quốc.



    Đây là một giai đoạn mà mối quan hệ quốc tế vô sản với Bắc Kinh được tin cậy hơn mối quan hệ giữa những người Việt Nam với nhau mà không có cùng ư thức hệ. Theo ông Dương Danh Di205: “Hai năm trước đó, Trung Quốc đă chủ động trả lại cho Việt Nam đảo Bạch Long Vĩ mà họ giữ giúp từ năm 1954 khi được trao trả từ tay người Pháp. Lúc đầu, Việt Nam chưa nhận v́ than phiền là không có phương tiện ra đảo. Thế là Trung Quốc tặng luôn hai chiếc ca-nô. Niềm tin vào sự vô tư của Trung Quốc tăng lên, tâm lư để bạn giữ (đảo) cho c̣n hơn để trong tay ‘Ngụy’ không phải là không xuất hiện”.



    Ông Trần Việt Phương, người có hai mươi lăm năm làm thư kư riêng cho Phạm Văn Đồng, thừa nhận: “Lúc bấy giờ quan hệ Việt-Trung đang rất tốt. Việt Nam đang có quan niệm ngây thơ về chủ nghĩa quốc tế vô sản, quan niệm ngây thơ từ người cao nhất của ta chứ không phải ở cấp độ vừa206. Trung Quốc hiểu ra sự ngây thơ đó và đă có ư đồ không tốt. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam có trong máu hàng ngh́n năm kinh nghiệm với Trung Quốc, cho dù có sự ‘ngây thơ quốc tế vô sản’ cũng không đến mức có thể dẫn tới sự nhầm lẫn hoàn toàn. Việt Nam đă có kinh nghiệm về sự lợi dụng của Trung Quốc trong Hiệp định Geneva. Nhưng ở thời điểm ấy, Việt Nam đang cần họ”. Cũng theo Việt Phương, trước khi kư công hàm này, Phạm Văn Đồng có bàn bạc với Hồ Chí Minh và vấn đề c̣n được đưa ra bàn ở “cấp cao nhất”.



    Về thực chất, không thể coi những tài liệu ấy có đủ giá trị pháp lư để công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Trước ngày 30-4-1975, miền Bắc không có thẩm quyền để nói về Hoàng Sa và Trường Sa, bấy giờ đang là phần lănh thổ hợp pháp của Việt Nam Cộng Ḥa, một quốc gia đang hiện diện ở Liên Hiệp Quốc.



    Sợ “con ngựa thành Troy”



    Trước ngày 30-4-1975, tại khu vực Sài G̣n-Chợ Lớn có một số đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc hoạt động. Theo nguyên tắc của Quốc tế Cộng sản, đảng viên cộng sản bất cứ là người nước nào, đang sống ở đâu th́ phải tham gia hoạt động với đảng nơi nước ḿnh đang ở. Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đă có một số đảng viên cộng sản Trung Quốc ở Nam Kỳ hoạt động dưới quyền của Xứ ủy Nam Bộ.

    Từ năm 1959, theo đề nghị của Bắc Kinh, những đảng viên thuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Sài G̣n như Lâm Lập, Trịnh Nam, sẽ chịu trách nhiệm xây dựng cơ sở trong giới “người Hoa lớp trên”, c̣n đảng viên người Hoa thuộc quyền lănh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam th́ xây dựng cơ sở trong giới “người Hoa là công nhân, lao động”. Theo ông Nghị Đoàn, trưởng Ban Công Tác Người Hoa: “Nhóm Lâm Lập, Trịnh Nam, Trầm Nhan… từ Trung Quốc chạy sang Việt Nam hồi cuối thập niên 1940 sau khi bị Quốc Dân Đảng khủng bố”. Ngay trong ngày 30-4-1975, Lâm Lập đă cho một lực lượng có vũ trang tới chiếm ṭa Đại sứ Đài Loan nằm trên đường Hai Bà Trưng207. Thành ủy phải thuyết phục rất khó khăn, Lâm Lập mới chấp nhận giải giới. Ông Phạm Văn Hùng kể: “Họ có lực lượng, có những đảng viên của Lâm Lập có chân trong các quận ủy”.



    Khi ấy, những cơ sở đảng người Hoa thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam như Ngô Liên, Nghị Đoàn, cũng phải đấu tranh với Lâm Lập. Lâm Lập không muốn bàn giao các cơ sở của ḿnh cho Đảng Cộng sản Việt Nam mà muốn duy tŕ các hoạt động tại Sài G̣n-Chợ Lớn với tư cách là những cơ sở đảng nhận lệnh từ Trung Quốc. Đ̣i hỏi đó không được Việt Nam chấp nhận. Khi Lâm Lập đến 41 Tú Xương để gặp ông Vơ Văn Kiệt, ông Kiệt giao thư kư Phạm Văn Hùng tiếp, với nhiệm vụ là làm sao phải truyền được thông điệp cho Lâm Lập: “Hết nhiệm vụ, mời các đồng chí về”. Đến cuối năm 1976, nhóm Lâm Lập mới chấp nhận trở về Trung Quốc.



    Những tổ chức cộng sản vẫn c̣n chân rết tại Sài G̣n là một trong những nguyên nhân khiến cho Hà Nội luôn tŕ hoăn việc cho phép Bắc Kinh mở lănh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh cho dù Trung Quốc đă cho Việt Nam lập ở nước họ tới ba ṭa lănh sự.

    Măi tới ngày 15-6-1978, khi sự kiện người Việt-gốc-Hoa nổ ra, Bộ ngoại giao Việt Nam mới gửi công hàm thông báo cho phía Trung Quốc biết: Chính phủ Việt Nam đồng ư để Trung Quốc đặt tổng lănh sự quán tại Sài G̣n vào đầu quư 4-1978. Thông báo này chỉ c̣n giá trị lưu trữ. Ngay ngày hôm sau, 16-6-1978, Bộ Ngoại giao Trung Quốc gởi công hàm cho biết quyết định của Chính phủ Trung Quốc: “Đóng cửa ba tổng lănh sự quán Việt Nam ở Quảng Châu, Côn Minh, Nam Ninh và yêu cầu toàn bộ cán bộ nhân viên Việt Nam ở ba tổng lănh sự quán này rút về nước trong thời gian ngắn nhất”.



    Theo ông Trần Phương, với mức độ cảnh giác quá cao đối với cán bộ gốc Hoa, năm 1978, Ban Bí thư có Chỉ thị 53, theo đó: “Những vị trí quan trọng không giao cho người gốc Hoa”208. Việc thi hành Chỉ thị 53 đă tạo ra một không khí chính trị vô cùng ngột ngạt, tổ chức đă rất mạnh tay với những cán bộ có cha ông đến từ Trung Quốc.



    Ông Trần Phương, năm ấy là bộ trưởng, phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch, kể: “Phó Văn pḥng Ủy ban là con ông Hoàng Mậu, bí thư Thành ủy Hải Pḥng, nhưng bố Hoàng Mậu lại là người Hoa, dù ông cũng có tham gia cách mạng. Cậu ấy cùng ông Chánh Văn pḥng đến gặp tôi nói: ‘Em xin anh, cho em chuyển về một vụ không quan trọng’. Tôi lấy chỉ thị ra nói: ‘Cậu cứ ngồi đấy, cậu là ai, bố cậu là ai tôi biết’. Nhưng, cậu ấy vẫn khăng khăng: ‘Thôi, anh cứ cho em đi, em ngồi đây nhỡ có người nghi ngờ ǵ th́ chết em’. Về sau tôi chuyển cậu ấy sang Vụ Văn xă. Nhiều địa phương, nhiều cơ quan làm rất rốt ráo. Ở trường con tôi học có một ông giáo gốc Hoa, ḿnh khuyên ông ở lại nhưng ông vẫn đi Canada, ông nói: ‘Em thấy, em đi th́ nhẹ nhàng hơn là ở lại’”.



    Thành phố Hồ Chí Minh đă làm nhẹ Chỉ thị 53 bằng cách giữ hầu hết cán bộ người Hoa ở cương vị cũ, trừ người đứng đầu các cơ quan nội chính. Tuy nhiên, lư lịch của hầu hết cán bộ đă bị lục tung, trong đó có cả lư lịch của ông Tư Kết, cựu thư kư của ông Mai Chí Thọ. Tư Kết ngay lập tức bị buộc thôi chức trưởng Pḥng An ninh Bảo vệ Nội bộ PA 25 về công tác ở Sở Văn hóa Thông tin Thành phố. Nghe tin thư kư cũ của ḿnh là người Hoa, chính ông Mai Chí Thọ cũng phải kêu lên: “Tao có thấy thằng Tư Kết Hoa chút nào đâu!”. Bản thân ông Tư Kết cũng chỉ biết rơ gốc gác của ḿnh khi Chỉ thị 53 được thi hành. Ngày xưa, do nhà nghèo, bà ngoại đă phải gả mẹ ông, một cô gái hai mươi tuổi, cho ông La Đức, một tiểu chủ người Hoa chuyên luyện thuốc phiện, năm ấy đă sáu mươi tuổi, để giúp những người con trai khác của bà ngoại có việc làm. Ông La Đức mất khi Tư Kết hăy c̣n trong bụng mẹ.



    Không có một chỉ thị thành văn nào nói rơ phải trục xuất người Hoa. Nhưng theo nhà nghiên cứu Dương Danh Di, các cấp ủy được triển khai: “Để người Hoa ở lại, đảng bộ phải chịu trách nhiệm về mọi hậu quả an ninh chính trị”. Sự sợ hăi của những cán bộ gốc Hoa trong thời gian ấy lớn tới mức một trí thức cách mạng từng làm bộ trưởng Bộ Công Nghiệp Nhẹ như ông Kha Vạng Cân mà năm 1979, khi con trai ông sinh cháu, ông Cân đă khuyên con nên cho cháu mang họ Việt của mẹ để về sau nó không c̣n bị kỳ thị209.



    Chỉ thị 53 không chỉ ảnh hưởng tới người Hoa. Ông Hoàng Chính, người vào Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1937, đă bị bắt năm 1978 khi đang công tác ở Văn pḥng Chính phủ. Lư do theo ông Vũ Cẩm, phó chủ tịch Quảng Ninh: “Khi làm bí thư tỉnh Hải Ninh, ông Hoàng Chính đă chủ trương để Hải Ninh kết nghĩa với một tỉnh của Trung Quốc và có quan hệ với Triệu Tử Dương, thời ấy đang là bí thư tỉnh Tứ Xuyên”.



    “Nạn Kiều”



    Tháng 8-1978 tại Ga Hàng Cỏ, và sau đó ở Lạng Sơn, đă nổ ra hai cuộc biểu t́nh của người Hoa. Chính quyền nhanh chóng dập tắt, tuy nhiên, chuyện “gián điệp Trung Quốc” được nói đến gần như vào mỗi tối thứ Bảy hàng tuần trong tiết mục “Kể chuyện cảnh giác” của Đài Tiếng nói Việt Nam.



    Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thừa nhận: “Ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc dụ dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để t́m cớ xa lánh Việt Nam, bắt tay với Mỹ… Nhưng nói cho khách quan, phía lănh đạo của ta cũng thành kiến và nghi ngờ người Hoa sẽ là đội quân thứ năm của Trung Quốc nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh”. Ở một số địa phương, vấn đề người Hoa đă ngấm ngầm xảy ra từ trước đó.



    Năm 1955, sau khi tiếp quản Quảng Ninh và Hải Pḥng, Ban Hoa vận đă vận động người Hoa bỏ chữ “kiều” trong tên gọi các cộng đồng ngoại kiều khác để trở thành một dân tộc trong cộng đồng Việt Nam. Họ đă phải “b́nh đẳng” chịu “cải tạo” trong chiến dịch cải tạo công thương nghiệp tiến hành ở miền Bắc cuối thập niên 1950 và bắt đầu chịu áp lực nhiều hơn kể từ sau ngày Bắc-Nam thống nhất.



    Từ cuối năm 1976, người Hoa ở Hải Pḥng, Quảng Ninh, đă không được làm những nghề “có thể làm gián điệp” như thợ cắt tóc, thợ điện gia dụng, không được quan hệ với người nước ngoài… Ông Trịnh Văn Trọng có vợ, nhà thơ Dư Thị Hoàn, là người Hoa ở Hải Pḥng. Ông Trọng kể khi chiến dịch “nạn Kiều” bắt đầu, người Hoa ở Quảng Ninh, Hải Pḥng, ra đường th́ bị kêu là “thằng Hán gian”, về nhà th́ gặp cán bộ phường tới phân tích: “T́nh h́nh Việt Nam-Trung Quốc rất căng, nếu ở lại không biết điều ǵ sẽ xảy ra. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho người Hoa trở về Tổ quốc”.



    Các chính sách áp dụng ở Quảng Ninh c̣n cứng rắn hơn bởi bàn tay của Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm. Giữa thập niên 1970, Quảng Ninh có hơn mười sáu vạn người Hoa nói các thứ tiếng khác nhau, mỗi dân tộc có một trường riêng để dạy con em họ. Người Hoa sống thành từng cộng đồng riêng biệt. Ông Vũ Cẩm, khi ấy là trưởng Ty Giáo dục Quảng Ninh, nói: “Tôi xuống các trường cũng phải cần phiên dịch”. Năm 1976, theo ông Vũ Cẩm, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm gọi ông lên yêu cầu: “Anh phải xóa hết trường Hán, tiếng Hán”. Ông Cẩm đề nghị ông Tâm xem lại v́ các trường sở này h́nh thành ở đây đă từ lâu đời, nhưng ông Tâm không chịu.



    Ông Vũ Cẩm nói: “Tôi không rơ ông Tâm nhận chủ trương này từ ai nhưng ông nói như ra lệnh bằng một chỉ thị mồm chứ bản thân ông cũng không dám ra nghị quyết. Tôi nghĩ măi và cuối cùng do ông Tâm thúc ép đành phải thảo một văn bản, không nói là giải tán các trường của người Hoa mà nói là thống nhất hệ thống giáo dục, một xă chỉ có duy nhất một trường phổ thông dạy bằng tiếng Việt. Soạn rồi, tôi không dám kư, giao cho các phó Ty, các phó của tôi cũng không anh nào chịu kư. Tôi lên báo cáo Bộ Giáo dục, Bộ bảo tùy địa phương nhưng cũng không dám ra văn bản. Cuối cùng, tôi phải kư. Tuy nhiên, để đảm bảo cuộc sống cho đội ngũ giáo viên người Hoa, tôi quy định: các giáo viên người Hoa được hưởng nguyên lương để đi học tiếng Việt”.



    Nhưng chỉ ít lâu sau, cũng như mười sáu vạn người Hoa khác, điều đe dọa đối với những giáo viên này không c̣n là vấn đề việc làm. Năm 1978, theo ông Vũ Cẩm: “Ông Nguyễn Đức Tâm gặp các tỉnh ủy viên người Việt nói, thái độ Trung Quốc đối với Việt Nam không tốt, chúng ta không nên bầu người gốc Hoa vào cấp ủy. Khi đó, trong tỉnh ủy Quảng Ninh vẫn c̣n hơn mười người gốc Hoa, có những người rất có công như anh Lư Bạch Luân đă từng là phó bí thư tỉnh Hải Ninh, sau khi nhập tỉnh, anh Luân làm phó chủ tịch tỉnh mới – tỉnh Quảng Ninh”. Khi Trung Quốc rút các kỹ thuật viên giúp Việt Nam khai thác mỏ, họ vận động anh hùng lao động Vọng Nải Hoài, một kỹ thuật viên giỏi, bỏ Việt Nam về Trung Quốc. Theo ông Vũ Cẩm: “Nhân đấy, ông Nguyễn Đức Tâm có sáng kiến, anh rút về th́ tôi cho người Hoa về hết luôn”210.



    Trong lịch sử di dân của loài người, cuộc di dân cưỡng bức của người Hoa năm 1978 ở Quảng Ninh có lẽ là một trong những chương bi thương nhất. Nhiều người Hoa đă đến đây từ nhiều đời, đă chọn Việt Nam làm quê hương; nhiều người không nói tiếng Hoa, không hề nhớ gốc gác ḿnh từ đâu. Tất cả đều bị khép vào thành phần phải trở về Trung Quốc.



    Bị ép quá, một phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Tỉnh, ông Voong Hổi, đă tự sát bằng cách tự mổ bụng. Theo ông Vũ Cẩm, ông Hổi sau đó được cứu sống, tuy không c̣n bị đuổi đi nữa nhưng phải chịu kỷ luật khai trừ Đảng. Ông Vũ Cẩm kể: “Một cán bộ của tôi, anh Lâm Anh Văn, đang là trưởng Pḥng Giáo dục huyện Quảng Hà, cũng bị công an bắt phải trở về Trung Quốc. Anh ta gặp tôi nói, buộc đi th́ đi chứ anh sẽ không sang Trung Quốc đâu”.



    Ở xă Hà An, huyện Yên Hưng, có một gia đ́nh, chồng là Trần Vĩnh Ngọc, hiệu trưởng một trường phổ thông, vợ là Chu Thị Họa. Chị Họa quê ở Thái B́nh, là người Việt Nam. Anh Ngọc sinh ở Việt Nam, có mẹ là người Việt, cha là người Hoa, nhưng ông chết từ khi anh c̣n nhỏ. Trần Vĩnh Ngọc được xếp vào diện người Hoa. Theo ông Vũ Cẩm: “Bị công an yêu cầu phải trở về Trung Quốc, Ngọc tới gặp tôi xin ở lại v́ nó có biết quê quán ở đâu đâu, tiếng Hoa cũng không biết. Tôi gặp Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm báo cáo. Ông Tâm lạnh lùng bảo tôi đừng can thiệp vào, để cho công an người ta làm. Bế tắc, Ngọc về bắt ba đứa con quàng khăn đỏ đội viên thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, buộc nằm lên giường rồi lấy chăn bông đè lên cho tới chết. Xong, anh ta lấy búa đập vỡ đầu vợ rồi lấy dao tự đâm vào tim ḿnh. Nghe tin, tôi chạy xuống th́ cả gia đ́nh đều đă chết. Tôi bảo cậu Trưởng Pḥng Giáo dục phải làm tang lễ tử tế rồi đi báo Nguyễn Đức Tâm. Tưởng Tâm sẽ phải suy nghĩ ai dè ông ta sắt đá nói ‘kệ’, gương mặt gần như vô cảm”.



    Ông Vơ Văn Kiệt kể: “Năm 1978, tôi ra Quảng Ninh khi anh Nguyễn Đức Tâm đang ở Móng Cái trực tiếp chỉ đạo vấn đề người Hoa. Tôi có cảm giác như ở đây cũng có không khí ‘cải tạo’, rất nhiều người Hoa đă sống lâu đời ở Việt Nam bị đưa về Trung Quốc. Quảng Ninh, Móng Cái vắng ngắt”. Theo cuốn Địa chí Quảng Ninh Tập 1, người Hoa vốn sống tập trung ở chín huyện trong tỉnh, nhưng sau năm 1978 chỉ c̣n lại 5.000 người; 160.000 người Hoa ở Quảng Ninh đă phải ra đi trong vụ “nạn kiều”. Những anh hùng lao động một thời được báo chí ca ngợi tưng bừng như Vọng Nải Hoài, Mừu Nhịp Mùi cũng phải về Trung Quốc.



    Người dân Quảng Ninh vẫn nhớ, ngay cả khi Trung Quốc đă đóng cửa khẩu, xe công an vẫn chở người Hoa đi về biên giới. Theo ông Vũ Cẩm, mỗi làng mỗi xă như vậy may ra chỉ c̣n sót lại một hai gia đ́nh người Hoa. Khi vụ người Hoa xảy ra, ông Nguyễn Việt Lân, nguyên bí thư Tỉnh đoàn Hải Ninh211, nguyên phó bí thư Móng Cái, tuy không bị đuổi nhưng bị buộc phải vào sâu bên trong. Ông Vũ Cẩm kể: “Cậu ấy vào Hạ Long làm nghề cán ḿ sợi. Tôi muốn giúp nên thỉnh thoảng lại mang bột ḿ đến cho cậu ấy gia công. Cậu ấy hỏi: ‘Ông không sợ tôi bỏ thuốc độc à?’. Tôi biết cậu ấy bị o ép lắm. Công an ŕnh rập kín, hở suốt ngày. Một đêm cậu ấy mở ti-vi oang oang trong nhà, bật đèn sáng để đánh lừa công an rồi đưa cả nhà xuống tàu vượt biên sang Úc”.



    Hải Pḥng là địa phương tiếp theo áp dụng chính sách khá thẳng tay với người Hoa. Ông Đoàn Duy Thành, năm 1978 là phó chủ tịch Thành phố Hải Pḥng, thừa nhận: Hơn ba mươi ngh́n trong số ba mươi bảy ngh́n người Hoa ở thành phố này đă phải ra đi. Đặc biệt, ở Cát Bà, trước có gần mười ngh́n người Hoa, năm 1978 chỉ c̣n vài chục người ở lại. Nhà thơ Dư Thị Hoàn viết về cảnh ra đi ở Hải Pḥng: “Tết thanh minh năm ấy, không ngờ lại là bữa tiệc cuối của sum họp đại gia đ́nh, h́nh ảnh má và các em các cháu tôi chen lấn trong ḍng người lũ lượt ra ga, leo lên tàu hỏa. Thê thảm nhất là đàn bà con trẻ, họ lếch thếch, hỗn loạn, và yếu ớt, họ giao phó nỗi hốt hoảng cho bất kỳ ai có mặt hôm đó, giao phó cho đoàn tàu chở họ tới một đất nước được gọi là tổ quốc trong muôn vàn bất trắc và mong manh? Họ trở về quê hương và không hiểu tại sao, v́ lẽ ǵ? Chị chồng tôi ra tận nhà ga ôm lấy ba mẹ con tôi đang gào khóc nh́n đoàn tàu mất hút trong đêm tối”.



    Ở Sài G̣n, theo Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Trần Quốc Hương: “Chúng tôi không đuổi mà thông báo ai muốn rời Việt Nam th́ đăng kư, hơn 90% người Hoa ở Thành phố đă đăng kư ra đi”. Luật sư Nguyễn Đăng Trừng, năm ấy là phó Pḥng chống phản động bành trướng bá quyền Công an Thành phố Hồ Chí Minh, thừa nhận: “Công an cũng đă mạnh tay cô lập những đối tượng t́nh nghi là c̣n quan hệ với Trung Quốc”. Một trong những “đối tượng” mà ông Nguyễn Đăng Trừng trực tiếp thụ lư lúc ấy là ông Lư Ban.



    Ông Lư Ban thuộc một trong số các đảng viên Việt Nam chạy sang Diên An sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-1931. Sau Cách mạng tháng Tám, từ căn cứ của những người cộng sản Trung Quốc, Lư Ban cùng các đồng chí Việt Nam khác của ông ở Diên An trở về trong đợt đầu như Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Sơn, Trương Ái Dân, Cao Tử Kiến. Ông đă từng là ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, thứ trưởng Bộ Ngoại thương.



    Năm 1978, nhiều thông tin nói rằng ông Lư Ban có những mối liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc. “Tinh thần chỉ đạo” là phải có “biện pháp đặc biệt, không để các đối tượng ở trong điểm nóng, khi t́nh h́nh xấu diễn ra th́ phát huy tác dụng”. Ông Lư Ban bị bắt. Sau một thời gian cách ly để điều tra, ông Trừng thừa nhận: “Té ra ông Lư Ban là một người rất trung thành với Đảng”. Nhạc sỹ Lâm Âm đang là biên chế ở Sở Văn hóa Thông tin cũng bị bắt dù sau đó không t́m thấy bất cứ bằng chứng “phản động” nào. Một thời gian sau, Pḥng chống phản động bành trướng bá quyền yêu cầu Sở Văn Hóa Thông tin “bảo lănh”, ông Lâm Âm được tha. Nhưng, theo ông Tư Kết: “Vừa có lệnh thả ra th́ nhạc sỹ Lâm Âm bị tai biến và chết”.



    “Những tháng đầu năm 1978, thành phố phá năm mươi hai vụ nhen nhóm chính trị, phản động, bắt 1.106 tên (gấp ba lần năm 1977); số trốn đi nước ngoài cũng tăng gấp ba lần (2.130 vụ với 8.139 người)”212. Trong số 8.139 người bị bắt đầu năm 1978 có ông Lư Tích Chương, cha của Lư Mỹ – “tấm gương điển h́nh” trong chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”.



    Khi ông Lư Tích Chương bị bắt, Lư Mỹ đang được “Đảng và Nhà nước đưa đi Cuba” tham gia Liên hoan Thanh niên Thế giới. Theo Lư Mỹ: “Khi tôi ở Cuba, ba tôi ốm phải vào bệnh viện Saint Paul. Một chiều cô em út của tôi lúc ấy mới chín tuổi mang cơm cho ba, vào tới nơi, gọi tên không thấy, nhân viên bệnh viện nói, trong pḥng của ổng giờ toàn công an, hôm ấy họ vào và bắt đi nhiều bệnh nhân người Hoa đang điều trị trong bệnh viện”. Sau một tháng ở Cuba, khi Lư Mỹ về, ông Mai Chí Thọ đưa xe đến Thành đoàn đón, nói là cho đi thăm ba nhưng vào trại giam th́ ông Lư Tích Chương được thả. Ở tù ra, sức khỏe ông Chương suy sụp, gia đ́nh quyết định “đi”.

  2. #12
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương IV : Nạn Kiều
    P3




    Trên các phương tiện truyền thông, Bắc Kinh gọi người Việt-gốc-Hoa là “nạn kiều”; Hà Nội nói Bắc Kinh “bịa đặt”. Báo Tuổi Trẻ ngày 30-6-1978 viết: “Bị tác động bởi chiến dịch cưỡng ép di cư của phía Trung Quốc [người Hoa] đă kéo nhau hàng loạt đi Trung Quốc một cách bất hợp pháp”. Cũng theo bài báo này: “Ta đă bắt quả tang một số tên thực hiện chiến dịch này dưới sự chỉ đạo của Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội như Lư Nghiệp Phu, Trần Hoạt, Tô Minh Nguyên, Ôn Thịnh Nàm, Lă Giang Đông, Quan Gia Nghĩa, Lư Đào Lê”. Cũng theo Báo Tuổi Trẻ: “Ngày 30-4, chủ nhiệm Văn pḥng công việc Hoa kiều thuộc Quốc vụ viện Trung Quốc, ông Liêu Thừa Chí, công khai lên tiếng, gián tiếp đổ trách nhiệm cho Việt Nam”. Ngày 4-5-1978, Bộ Trưởng Ngoại giao Xuân Thủy tuyên bố: “Đảng và Chính phủ Việt Nam trước sau như một, vẫn đối xử với bà con người Hoa như bát nước đầy. Có một số bà con người Hoa trốn đi Trung Quốc, đó là do bọn xấu tác động”. Ngày 24-5-1978, người phát ngôn Văn pḥng công việc Hoa kiều Quốc vụ viện Trung Quốc ra tuyên bố chính thức phản đối Việt Nam “bài xích, khủng bố, xua đuổi Hoa kiều”. Ngày 28-5-1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Bộ ngoại giao Trung Quốc yêu cầu chấm dứt tuyên truyền kích động; đại diện hai nước gặp nhau càng sớm càng tốt, có thể vào đầu tháng 6-1978, để cùng nhau bàn bạc, giải quyết những bất đồng về vấn đề người Hoa ở Việt Nam, và bàn cả đề nghị của Trung Quốc đưa tàu sang Việt Nam đón người Hoa về Trung Quốc. Ngày 2-6, Bộ ngoại Trung Quốc gởi công hàm cho Bộ ngoại giao Việt Nam khước từ các đề nghị nói trên của Việt Nam, đồng thời tuyên bố Trung Quốc “đă quyết định” đưa tàu sang thành phố Hải Pḥng và thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 8-6-1978 để đón người Hoa về nước. Bộ ngoại giao Việt Nam “phê phán thái độ ngang ngược nói trên của nhà đương cục Trung Quốc”. Ngày 5-6, Bộ Ngoại giao Việt Nam một mặt “kêu gọi bà con người Hoa hăy yên tâm ở lại Việt Nam làm ăn b́nh thường”, mặt khác đưa ra cam kết: “Bà con nào muốn rời khỏi Việt Nam đi Trung Quốc th́ sẽ được chính quyền Việt Nam giúp làm các thủ tục xuất cảnh để ra đi thuận tiện”.



    Trước tháng Giêng năm 1979, có khoảng 30.000 người Hoa chạy sang Việt Nam, chủ yếu là từ Campuchia. Ngoài ra c̣n có hơn 4.000 người Khmer khác. Số người Hoa về nước trên hai con tàu của Trung Quốc chỉ mang tính tượng trưng, theo ông Mai Chí Thọ, trong chuyến đầu họ chỉ chở được 2.400 người. Một ḍng người khác đă phải gồng gánh về phía bên kia theo đường bộ213.



    Tại cuộc họp báo ngày 15-6-1978, Chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh Mai Chí Thọ nói: “Chúng ta tự hỏi, nếu họ thực tâm muốn chăm lo cho Hoa kiều, tại sao họ lại không lên tiếng đối với việc Hoa kiều bị bọn cầm quyền phản động Campuchia xua đuổi tàn ác, ngược đăi… Đáng lư những Hoa kiều họ cần phải rước trước hết là người Hoa đang sống đau khổ, tủi nhục dưới chế độ tàn bạo của bọn cầm quyền phản động Campuchia. Thái độ trái ngược của phía Trung Quốc không khỏi làm cho mọi người nghi ngờ việc họ tổ chức rước Hoa kiều về nước chẳng qua là nhằm thực hiện một ư đồ khác. Thực tế họ chỉ muốn gây khó khăn cho Việt Nam mà thôi”214. Câu chuyện của Tằng Dục Hính, đăng trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 23-6-1978, cho thấy tương lai trở về “tổ quốc” của người Hoa cũng khá tối tăm: “Chúng tôi đáp xe lửa Hà Nội đi Lào Cai, từ ga Lào Cai đến Cầu Kiều chúng tôi phải qua một trạm công an Việt Nam. Tại đây họ thu lại tất cả những giấy tờ mà chính phủ Việt Nam cấp cho người Hoa chúng tôi từ trước đến nay… Nh́n về phía Trung Quốc tôi nghe được rất rơ tiếng loa, tiếng nhạc quen thuộc của Đài Phát thanh Bắc Kinh và nh́n thấy rất đông người đang chờ đón tiếp… Ngày thứ ba ở trên đất Trung Quốc, 3-6- 1978. Buổi chiều, sau khi nộp xong bản khai lư lịch, chúng tôi được một ông cán bộ người Trung Quốc nói giọng Bắc tiếng Việt Nam rất rành cho biết chúng tôi phải đăng kư đi nông trường trồng cao su Mông Xi, nếu ai chậm trễ th́ phải đi Tây Tạng!”.

    Theo Tằng Dục Hính, v́ sợ đi Tây Tạng, anh và người bạn Chí Tiền Thành cùng hai thanh niên Hải Pḥng nữa đă lội qua sông Hồng ngay trước khi nước chảy rất xiết để trốn về Việt Nam vào ngày 7-6-1978, và được “các đồng chí công an Việt Nam giúp đỡ” cho về thành phố. Tằng Dục Hính nói tiếp: “Ở Hà Khẩu, tôi biết là có 80 đến 90% bà con muốn trở về lại Việt Nam nhưng không dám”215.



    “Phương án II”



    Cũng trong những ngày ấy, ở miền Nam, công an bắt đầu triển khai “Phương án II”. Theo ông Nguyễn Đăng Trừng, phó Pḥng chống phản động bành trướng bá quyền, Phương án II cũng là một trong những biện pháp “nghiệp vụ” nhằm đưa “đối tượng ra khỏi điểm nóng” – vấn đề là đối tượng của phương án này là cả triệu người Hoa đang sống ở Việt Nam.



    Chỉ rất ít người được biết đến Phương án II. Tuy là phó bí thư thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ông Trần Quốc Hương cũng chỉ được nghe giám đốc Sở Công an thành phố cho biết, Phương án II là một kế hoạch được “phổ biến miệng để giữ bí mật”, theo đó: Người di tản được đóng vàng để công an mua thuyền hoặc đóng thuyền cho đi mà không sợ bị bắt hay gây khó khăn. Việc thực hiện Phương án II chỉ do ba người là bí thư, chủ tịch và giám đốc công an tỉnh quyết định. Công an được giao làm nhiệm vụ đứng ra thu vàng và tổ chức cho người di tản.

    Ngày 19-11-1978, ông Lư Tích Chương đưa gia đ́nh rời Việt Nam theo Phương án II. Cuộc đấu tranh đi – ở bắt đầu diễn ra trong nhà Lư Mỹ khi cô đang học năm thứ nhất, khoa Lư, tại Đại học Sư phạm. Theo Lư Mỹ th́ một trong những lư do cô không vượt biên cùng gia đ́nh là v́ khi sang Cuba và Liên Xô cô cảm thấy “nước ngoài” rất xa lạ với những ǵ mà cô đang sống. Nhưng Lư Mỹ cũng không phủ nhận một lư do quan trọng khác là khi ấy “Thành đoàn cũng tập trung giành giật cô”.



    Bí thư Thành đoàn Phạm Chánh Trực và các “đồng chí” khác trong Thường vụ đă trực tiếp động viên; bạn trai khi ấy của cô cũng là một mẫu người cộng sản lư tưởng. Đích thân Chủ tịch Thành phố Mai Chí Thọ nhiều hôm cũng đưa Lư Mỹ về nhà ăn cơm. Bên cạnh Lư Mỹ lúc ấy c̣n có những bạn bè người Hoa không vượt biên cùng gia đ́nh như Lai Kim, Đỗ Long. Họ cũng được ông Mai Chí Thọ quan tâm, ông nói: “Mấy chú cũng rất đau ḷng khi tụi bây phải lựa chọn như vầy, nhưng, v́ tổ quốc, v́ t́nh thế”. Khi ấy, nếu những người như Lư Mỹ mà vượt biên th́ cái thần tượng mà Thành đoàn dựng lên sẽ sụp đổ. Thành đoàn đă thắng, Lư Mỹ ở lại.



    Đó là những ngày tháng mà Lư Mỹ nói là “nên quên đi trong cuộc đời”, nhưng những ǵ đă xảy ra cũng chưa phải là cay đắng nhất. Gia đ́nh vừa đi được mấy hôm th́ một tối, khi Lư Mỹ đi học về đến nhà, thấy khóa cửa bị đập, trong nhà có khá đông người. Lư Mỹ hỏi th́ được nói họ có quyết định vào “chốt” căn nhà của Mỹ. Nếu việc ông Lư Tích Chương bị bắt có thể v́ lọt vào trong một chiến dịch “đại trà” th́ “tịch thu nhà” lại là điều ít ai nghĩ Cách mạng sẽ làm với một “điển h́nh” như Lư Mỹ. Nó xảy ra trắng trợn và quá mau lẹ. Lư Mỹ cắn răng đi t́m đồ đạc th́ thấy hầu như trong nhà không c̣n ǵ quư giá. Căn nhà 531A Cách Mạng Tháng Tám của gia đ́nh Mỹ vốn là một cửa hàng bách hóa lớn và sang trọng, giờ ấy tan hoang. Cô báo Thành đoàn, báo ông Mai Chí Thọ. Những người đă từng ở bên Lư Mỹ khi cô nhiệt tâm “cải tạo” gia đ́nh đến giờ đấy bỗng dưng im lặng.

    Lư Mỹ đă mất nhiều năm để xin lại căn nhà của cha mẹ ḿnh mà không kết quả. Năm 1985, Thành phố cấp một căn nhà khác cho cô ở Quận 5. Trường hợp của Lư Mỹ là rất đặc biệt, trong khi hàng ngàn người vượt biên theo Phương án II đă không đi được mà c̣n mất cả vàng lẫn nhà. Ông Nguyễn Thành Đệ, ngụ tại 21-23 Tô Hiến Thành, Quận 10 là một ví dụ.



    Ngày 29-4-1975, khi người em rể – sỹ quan Việt Nam Cộng Ḥa – kêu di tản, ông Đệ đă không đi. Ông nói: “Thôi, Cộng sản dù ǵ cũng là người Việt, qua bển toàn Mỹ”. Cũng như nhiều người khác, ông Đệ đă trả giá đắt cho quyết định xuất phát từ quan niệm đồng bào. Cho dù không phải là người Hoa, nhưng năm 1979, ông Đệ vẫn được móc nối đăng kư “xuất cảnh bán chính thức”. Gia đ́nh ông chín người, phải đóng cho chủ “tàu 224” tổng cộng 200 lượng vàng thay v́ chỉ đóng tám lượng một người theo quy định.



    Ngày 17-6-1979, gia đ́nh ông Đệ xuống Minh Hải để chuẩn bị lên tàu, nhưng không may cho ông, vừa xuống tới nơi th́ có lệnh tạm ngưng thực hiện Phương án II. Nghĩ ḿnh ra đi theo hướng dẫn của nhà nước hẳn hoi, gia đ́nh ông cùng nhiều người khác ráng nán lại để đ̣i lại số vàng đă nộp. Nhưng, “bắc thang lên hỏi ông giời”.

    Sau gần hai tháng chờ vàng, gia đ́nh ông quay lại Sài G̣n, mới biết ngày 23-6- 1979, tức là chỉ sau sáu ngày ông Đệ về Minh Hải, căn nhà 21-23 Tô Hiến Thành đă bị Quận 10 “quản lư”. Gia đ́nh ông được “xét sử dụng tầng trệt nhà 23” và được “chiếu cố” không phải trả tiền thuê nhà… ḿnh. Chính quyền Quận 10 “quản lư” căn nhà 21-23 là chiểu theo Chỉ thị 14 ngày 2-4-1977của Thành phố, theo đó: “Xử lư tạm thời tài sản của những người trốn đi nước ngoài bị bắt”.



    Tuy nhiên, gia đ́nh ông Đệ không phải “trốn đi nước ngoài” cũng như chưa hề “bị bắt”. Nhà ông cũng chưa thuộc diện “nhà vắng chủ” theo Thông tri số 201-BXD/ NĐ, ngày 23-6-1978 của Bộ Xây dựng. Ngày 4-8-1980, ông Đệ quay lại Minh Hải làm đơn xin xác nhận là ông “xuất cảnh đàng hoàng”. Tính tổ chức của Phương án II được địa phương xác nhận rơ ràng bằng mực đen, giấy trắng216.



    Theo Báo cáo kiểm tra việc thực hiện Phương án II của Ban 69 th́ ở thời điểm ấy, số người có hoàn cảnh như ông Nguyễn Thành Đệ ở các tỉnh miền Nam, tức là đă “làm nghĩa vụ” nộp tiền và vàng mà không đi được v́ lệnh ngừng, lên tới 18.435 người. Từ cuối năm 1979, ông Nguyễn Thành Đệ bắt đầu hành tŕnh đ̣i lại nhà và cũng kể từ năm đó, gia đ́nh ông gồm mười hai người phải sống ở tầng trệt nhà 23 Tô Hiến Thành với diện tích tổng cộng 35m2.



    “Ban 69”



    Theo ông Trần Quốc Hương, khi Bộ Chính trị quyết định thành lập Ban 69, ông Trần Văn Sớm (Hai Sớm), ủy viên Trung ương Đảng, thành viên Ban 69 cho biết Ban đă có buổi làm việc với Chủ tịch Nước Trường Chinh để báo cáo t́nh h́nh cụ thể những địa phương “thu vàng nhiều và nộp lên trên ít”. Chủ tịch Trường Chinh cho Ban biết: “Chủ trương này chưa bao giờ được đưa ra Bộ Chính trị để bàn và quyết định, cho nên khi vào Thành phố Hồ Chí Minh nghe được thông tin về Phương án II, Chủ tịch đă đề nghị họp Bộ Chính trị cho ngưng ngay và thành lập Ban Kiểm tra xem xét việc thi hành”.

    Ban 69 được Ban Bí thư quyết định thành lập ngày 20-3-1981 nhằm “kiểm tra các tỉnh Miền Nam” với ba nội dung: “Việc cho người Hoa đi nước ngoài (gọi tắt là Phương án II – PA2); việc buôn bán lậu với tàu nước ngoài của một số tỉnh; việc bắt giữ vượt biên trái phép”. Tuy nhiên, Ban 69 chủ yếu xem xét việc thực hiện Phương án II.



    Báo cáo ngày 20-10-1981 của Ban 69 phân tích: “Cay cú trước thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp cách mạng giải phóng Miền Nam, thống nhất tổ quốc của nhân dân ta, bọn bành trướng Bắc Kinh sử dụng bọn Pôn-pốt đánh phá ta từ phía Tây nam, đồng thời âm mưu dùng đội quân thứ năm để gây bạo loạn lật đổ từ bên trong phối hợp với hành động chiến tranh từ bên ngoài, gây ra vụ ‘nạn kiều’ tạo nguyên cớ cho cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Bắc. Phối hợp với các thế lực đế quốc, phản động quốc tế, chúng mở chiến dịch tuyên truyền nói xấu ta; vừa kích động người Hoa chạy về Trung Quốc với cái chúng gọi là ‘nạn kiều’. Để phá tan một nguy cơ có thể gây ra t́nh h́nh phức tạp về chính trị, Trung ương chủ trương giải quyết đối với người Hoa với ba phương án: cho họ ra nước ngoài theo con đường Liên Hợp Quốc HCR (gọi tắt là PA1); cho họ ra nước ngoài làm ăn (gọi tắt là PA2); cho họ đi các địa phương sản xuất theo khả năng của họ (gọi tắt là PA3). Nhưng họ chọn con đường đi làm ăn ở nước ngoài, Trung ương giao cho Bộ Nội vụ trực tiếp tổ chức thực hiện PA2 này”.



    Theo Ban 69: “Có địa phương lúc đầu thấy thực hiện có nhiều khó khăn, dẫn đến do dự, lừng chừng, nhưng sau đều quyết tâm thực hiện. Theo chỉ đạo của Bộ Nội vụ th́ các tỉnh được phép tổ chức thực hiện PA2 ngay từ đầu gồm có: Quảng Nam-Đà Nẵng, Nghĩa B́nh, Phú Khánh, Thuận Hải, Đồng Nai, Bến Tre, Kiên Giang, TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Minh Hải; các tỉnh không được phép làm nhưng sau đó xin làm: Sông Bé, An Giang, Hậu Giang, Cửu Long, Long An”. Cũng theo Báo cáo của Ban 69: “Sau 1 đợt ta tổ chức cho người Hoa đi có xảy ra tai nạn, bọn đế quốc và phản động quốc tế mở chiến dịch tuyên truyền nói xấu ta. Để tạo thuận lợi cho công tác chính trị ngoại giao đối với thế giới, Thủ tướng Chính Phủ đă có mệnh lệnh vào tháng 12-1978 ngưng việc cho người Hoa đi nước ngoài. V́ c̣n một số người và tàu đă đăng kư đóng nghĩa vụ bị kẹt lại chưa đi được gây ra những khó khăn phức tạp cho địa phương. Tháng 4-79 Thủ tướng cho phép tiếp tục đi đến hết tháng 5-79 phải chấm dứt. Một số nơi có xin phép cấp trên cho đi 13.000 người nhưng thực đi 7-8 vạn người mà vẫn c̣n đọng lại hàng vạn người và hàng trăm tàu thuyền”.



    Báo cáo của Ban 69 thừa nhận: “Là một công việc hệ trọng có quan hệ đến chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nhưng Ban Bí thư trung ương Đảng không có một văn bản nào về lănh đạo và chỉ đạo các cấp ủy Đảng lănh đạo và thực hiện PA2 này, các cấp ủy Đảng ở địa phương rất lúng túng. Bộ Nội vụ có kế hoạch 244 nhắc các giám đốc sở, trưởng ty công an các tỉnh, thành báo cáo ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy để xin ư kiến lănh đạo, nhưng khi phổ biến trực tiếp thêm câu nói do yêu cầu bí mật nên công tác này chỉ có bí thư, chủ tịch và trưởng ty công an biết. V́ vậy, việc thực hiện PA2 này, hầu hết ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy đều không biết. Tỉnh ủy, thành ủy lại càng không biết, chỉ có ba đồng chí bí thư, chủ tịch, trưởng ty công an biết thôi”.



    Thư kư riêng của ông Vơ Văn Kiệt thời điểm đó, ông Phạm Văn Hùng, nói: “Cũng như ông Mười Hương, ông Kiệt không đồng ư với nhận định của Trung ương, coi người Hoa ở Chợ Lớn là ‘đạo quân thứ năm’, nhưng khi chính sách cải tạo đẩy đến chỗ người Hoa phải vượt biên th́ ông Kiệt thấy rằng để họ ra đi có tổ chức vẫn tốt hơn là ra đi hoàn toàn bất hợp pháp, nên ông tán thành Phương án II”.



    =Theo ông Vơ Văn Kiệt, Thành phố cũng chỉ tổ chức rất hạn chế. Ông nói: “Tôi báo cáo là Thành phố không có khả năng đóng tàu, để các tỉnh thực hiện Phương án II th́ tốt hơn”. Báo cáo của Ban 69 cho biết: “Đồng chí Vơ Văn Kiệt, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, bí thư Thành ủy Thành Phố Hồ Chí Minh, có lần mời các bí thư tỉnh ủy lên chỉ thị về việc tổ chức cho người Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh đi nước ngoài”. Chính v́ cách làm này mà tuy con số người Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh ra đi chỉ “phối kiểm” được trên 10.000 người, nhưng theo Ban 69, thực tế đi được “khoảng 70.000 người”.



    Kết quả kiểm tra của Ban 69 cho thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa báo cáo của Bộ Nội vụ và thực tế thực hiện Phương án II. Báo cáo của Bộ nội vụ nói rằng: “Từ tháng 8-78 đến 6-79, mười lăm tỉnh, thành đă cho người Hoa đi nước ngoài bằng tàu, thuyền gồm 156 chuyến với số người là 59.329 người, đă thu 5.612 kg vàng, năm triệu đồng Việt Nam, năm mươi bảy ngàn đô la Mỹ, 235 ô tô, 1.749 nhà và gian nhà”. Nhưng, số liệu sau khi Ban 69 kiểm tra cho thấy: “Số tàu đă cho đi: 533; Số người đă đi: 134.322; Thu vàng: 16.181kg; Ngoại tệ: 164.505 đô la; Tiền ngân hàng VN: 34.548.138 đồng; Một số tài sản khác: 538 ô tô, xe du lịch; 4.145 nhà và gian nhà”217.



    Báo cáo của Ban 69 nhận xét: “Tuy đối tượng cần đưa đi ở các tỉnh trước hết là Thành phố Hồ Chí Minh chưa giải quyết hết yêu cầu, việc phối hợp đưa 70 ngàn người Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh trong tổng số gần 140 ngàn người Hoa đă đi là một thành tích lớn. Việc thu vàng và tài sản của PA2 cũng là một thành tích rất lớn”. Tuy nhiên, qua kiểm tra, Ban 69 “đă rút ra được một số kinh nghiệp về nguyên tắc lănh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt nội bộ Đảng cũng như trong tổ chức thực hiện và công tác quản lư của chính quyền”. Theo đó, “khuyết điểm bao trùm” gồm: “Về chính trị nhiều nơi xét duyệt danh sách không thẩm tra xác định để lọt người Việt, người không đối tượng cho đi mà kẻ địch đang t́m mọi cách tổ chức, sử dụng để thực hiện âm mưu lâu dài là đánh phá trở lại chúng ta. Các địa phương phối kiểm chưa chặt số người Hoa ở tỉnh khác đến đăng kư đi ở tỉnh ḿnh”.



    Đặc biệt, theo Báo cáo của Ban 69: “Nhiều tỉnh vận động cho người đi nước ngoài, khi họ xuống tàu rồi tổ chức bắt thu tài sản (Bến Tre, Quảng Nam-Đà Nẵng). Nhiều tỉnh cho đi sau khi có lệnh cấm tháng 5-79 (Minh Hải, Đồng Nai, Bến Tre, Cửu Long, Nghĩa B́nh, Phú Khánh, Long An, Sông Bé) do nặng v́ lợi ích chính trị và kinh tế của địa phương… Về khách quan do địch tích cực phá hoại mua chuộc.



    Nhưng về chủ quan do ta quản lư không chặt chẽ về tư tưởng và do cán bộ hư hỏng. Một số cán bộ công an, cán bộ các ngành có liên quan đến PA2 có sai phạm. Trong lực lượng vũ trang ở mười bốn tỉnh đă có 105 sĩ quan từ thượng tá đến chuẩn úy vi phạm (kể cả chống bắt vượt biên)”.



    Theo Ban 69 th́ Bộ Nội vụ “quy định chế độ, nguyên tắc, quyền hạn không chặt chẽ, làm cho một số cán bộ tham ô, hối lộ, xâm phạm tài sản xă hội chủ nghĩa, làm quỹ riêng địa phương, buôn bán với nước ngoài, gây thất thoát lớn”. Báo cáo của Ban 69 cho biết: “Sau khi Bộ Nội vụ tổ chức rút kinh nghiệm và hướng dẫn mức đóng nghĩa vụ thống nhất vào ngày 20-11-1978, nhiều địa phương không chấp hành đúng. Người ra đi có khả năng đóng góp mà ta chưa tích cực thu cùng một quy định của Bộ Nội vụ, có địa phương thu đủ, có địa phương thu không đủ. Bọn trung gian, đầu mối, thu của người đi nhiều nhưng nộp cho ta ít. Tính hết các khoản trên đây th́ chỉ số thất thoát cũng gần bằng số thu được. Con số thất thoát lớn chưa từng thấy… Là công cụ sắc bén của Đảng, của lực lượng chuyên chính vô sản, nhưng tính tổ chức kỷ luật của cán bộ công an làm Phương án II rất yếu: quá tŕnh thực hiện PA2 cấp dưới không báo cáo đầy đủ lên cấp trên; không sơ tổng kết; báo cáo gian dối… Một số cán bộ chủ chốt ở các ty công an sai phạm, cán bộ và lực lượng ngành một số hư hỏng, thoái hóa, tham ô tập thể khá rơ, có nhiều dư luận xấu, nội bộ nghi ngờ nhau. Kẻ địch, phần tử xấu đả kích lực lượng chính quyền vô sản”.



    Một số “vấn đề nổi lên” khi thực hiện Phương án II, được Ban 69 chỉ ra trong Báo cáo: “Đối tượng cần đưa đi chưa đưa đi hết. Để lọt người Việt trốn đi, một số nơi đă kiểm tra cho thấy: Bến Tre có 81 người Việt; Phú Khánh có 466 người Việt; Thuận Hải, 29 người Việt; Nghĩa B́nh có 32 người (mới kiểm tra ở hai phường); Quảng Nam-Đà Nẵng, 2; An Giang, 8; Cửu Long, 43; Sông Bé, 30. Thả can phạm đang bị giam để cho đi, không trao đổi để có sự nhất trí với các cơ quan ṭa án và viện kiểm soát nhân dân cùng cấp: Hậu Giang, 17; Phú Khánh, 22; Đồng Nai, 63; Minh Hải, 80; Bến Tre, 11; Quảng Nam-Đà Nẵng, 40. Danh sách không được thẩm tra kỹ, chủ yếu dựa vào tự khai của chủ tàu. Số ở TP Hồ Chí Minh đăng kư đi ở các tỉnh, các tỉnh không phối hợp thẩm tra: 70.000 người Hoa ở TP Hồ Chí Minh đă đi mới phát hiện được 10.000 người”.



    Đặc biệt, theo Ban 69, “nguy hiểm ở chỗ không xét duyệt kỹ để lọt đối tượng ra đi rồi trở lại hoạt động (ở Minh Hải, tháng 6-79 có 60 người xuất cảnh sang Mă Lai, sau 20 ngày lại trở về) cho đại diện móc tàu nước ngoài không quản lư hết để nó móc nối tổ chức đường dây đưa người vào, người ra (TPHCM), để lọt hộ của Hồ Thị Út có quan hệ đến chỉ đạo của bọn ở Hong Kong (Bến Tre). Việc miễn giảm không được tập thể Ban chỉ đạo PA2 thông qua, hầu hết các nơi đều miễn giảm cho trẻ em từ 4 tuổi đến 12 tuổi có nơi c̣n giảm cho người 15 tuổi. Sửa tuổi để miễn giảm đóng nghĩa vụ: Hậu Giang, 179 trường hợp; Bến Tre 102; Cửu Long 20… Công an đốt xé, sửa đổi sách v́ gian dối số tàu, người, vàng, tiền: Hậu Giang, Kiên Giang, Ninh Hải, Bến Tre, Nghĩa B́nh, Đồng Nai, Phú Khánh, Thuận Hải, Quảng Nam-Đà Nẵng. Dùng nghiệp vụ để đối phó với kiểm tra: bắt một số người để bịt đầu mối như Kiên Giang, Minh Hải”.



    Có nhiều trường hợp “giữ tiền Phương án II làm của riêng. Nghiêm trọng hơn, pḥng bảo vệ chính trị Ty Công an tỉnh An Giang đă cấp biển xe, chứng nhận họ là nhân viên nhà nước, làm giấy kư hợp đồng với họ về việc tổ chức để cho người Hoa đi lại hoạt động. Cấp bao nhiêu giấy chưa rơ, hậu quả của nó chưa lường hết được”. Theo Ban 69, “một số nơi có nhận văn bản 244, có được phổ biến nhưng không thu đúng quy định của Bộ Nội vụ gây thất thu như: Hậu Giang, 4.866 lượng; Minh Hải, 48.195 lượng; Bến Tre, 3.789 lượng; Cửu Long, 27.000 lượng; Nghĩa B́nh, 27.000 lượng; Phú Khánh, 10.987 lượng; Thuận Hải, 1.220 lượng; An Giang, 1.445 lượng”. Theo Báo cáo của Ban 69, Ban đă phát hiện ra một số cơ quan cấp tỉnh lập quỹ đen trái phép218.



    Vụ Cát Lái



    Đặc biệt, báo cáo của Ban 69 cho biết: “Do kiểm tra không chặt chẽ về công tác bảo đảm an toàn, đă có chín tàu bị tai nạn chết 902 người: Đồng Nai, một tàu; Bến Tre, một tàu, chết năm mươi bốn người; Sông Bé, một tàu hư, tàu Liên Xô kéo vào; Tiền Giang, ba tàu, chết 504 người; Long An, một tàu, chết ba mươi tám người; Thành phố Hồ Chí Minh, một tàu, chết 227 người; Nghĩa B́nh, một tàu, chết bảy mươi tám người”.



    Vụ ch́m tàu Phương án II chết hàng trăm người ở Thành phố xảy ra vào giữa năm 1979, gần bến phà Cát Lái, Thủ Đức, nhưng gần như rất ít người sống ở Sài G̣n vào thời bấy giờ nghe nói tới câu chuyện đau ḷng này. Đại tá Phạm Ngọc Thế, khi ấy là phó Pḥng Hậu cần Công an Thành phố, người đảm trách việc t́m xác và chôn cất các nạn nhân, kể: Hôm ấy là ngày thứ 7, đúng giờ G, chủ tàu bắc loa kêu những người đă có danh sách ra đi xuống tàu. Đêm hôm trước họ đă bí mật tập kết ở xung quanh đó, công an canh pḥng cẩn mật cho họ ở ṿng ngoài. V́ ai cũng sốt ruột chờ đón giây phút ấy nên hàng trăm người tranh nhau xuống tàu rất nhanh.

    Tàu có ba tầng, những người mua chỗ ở tầng dưới, rẻ hơn, khi tàu chưa chạy thấy ngột ngạt quá leo lên, ngồi cả trên mui, khiến cho con tàu cḥng chành. Càng cḥng chành, họ lại càng chạy qua, chạy lại, khiến cho tàu nghiêng hẳn và nhanh chóng bị ch́m. Ông Thế nói, nếu con tàu ấy không ch́m tại bến th́ khi ra khơi nó cũng sẽ không chịu nổi v́ nó vốn chỉ là một chiếc tàu kéo.



    Trên thực tế, nói Phương án II là do công an tổ chức, nhưng gần như mọi việc từ thu tiền, mua tàu đều khoán hết cho “Ban liên lạc những người ra đi bán hợp pháp”. Theo Đại tá Thế, họ nghĩ một con tàu có thể kéo được hàng chục chiếc ghe th́ cũng có thể chở được hàng trăm người, nên họ mua và thiết kế lại trong ba tháng. Con tàu dài khoảng 30m, rộng 10m, khoang chứa đá giữ cân bằng được sửa lại để trữ nước, thay máy, thay cấu trúc các khoang. Đóng xong, nh́n con tàu có vẻ rất ngon, nhưng nó cứ như là một cái hột vịt. Khi ch́m, tàu chúi xuống, cắm mũi xuống bùn, những người đă chui vô khoang không có cách nào để ra. Phần lớn những người đi trên chuyến tàu này, kể cả trưởng tàu, đều là người Hoa làm nghề buôn bán, không hề có chút kinh nghiệm sông nước ǵ.



    Theo Đại tá Phạm Ngọc Thế th́ khi ấy Thành ủy phải điều hai cần cẩu sáu mươi tấn từ Vũng Tàu vô để “kéo rị rị từng chút”. Cũng phải tới ngày thứ ba th́ mới đưa tàu lên được. Con số người chết theo báo cáo của Ban 69 là 227 người. Theo Đại tá Phạm Ngọc Thế: “Có khoảng hơn bốn mươi người sống sót. Cứ mỗi cái xác được đưa ra, chúng tôi chỉ dám để hai mươi phút để bộ phận nghiệp vụ lấy dấu tay rồi chuyển qua ngay cho bộ phận mai táng, v́ đă bắt đầu nặng mùi. Cứ hàng chục xác một được xếp lên xe, phủ bạt, rồi chạy từ Cát Lái về mai táng ở khu đất cách đấy chừng ba cây số”.



    Đại tá Phạm Ngọc Thế kể: “Chúng tôi vét sạch ḥm ở các quận. Khâm liệm xong vẫn c̣n dư mấy cái v́ có bốn trường hợp phải chôn đôi bởi các bà mẹ trước khi chết ôm chặt lấy con mà chúng tôi th́ không nỡ tháo khớp tay họ ra để chia ĺa t́nh mẫu tử”. Ông Thế nói: “Thành ủy ra lệnh cho chúng tôi chôn cất họ rất chu đáo ở một khu vực cách cầu Giồng Ông Tố, Thạnh Mỹ Lợi, khoảng 500m”. Theo ông Thế th́ những người sống sót cũng cứ như mất hồn v́ chứng kiến xác người thân của ḿnh đang trương lên, phải khó khăn lắm mới đưa ra được khỏi con tàu đă ch́m ba, bốn ngày dưới nước.



    Tuy gây ra những hậu quả như vậy nhưng Phương án II vẫn “là một chủ trương lớn của bộ chính trị, nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp, có quan hệ đối nội, đối ngoại, tiến hành trong thời điểm có chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Thù trong giặc ngoài, bọn phản động quốc tế t́m mọi cách đánh phá ta trên mọi lĩnh vực, do tính chất bí mật, không phổ biến rộng, chỉ giao phó Bộ Nội vụ tổ chức thực hiện”. V́ thế, Ban 69 đề nghị “thành công và thiếu sót đều phải được đánh giá trong điều kiện lịch sử đó”. Ban 69 cũng lưu ư: “Việc thực hiện PA2 hầu hết đều thuộc các Đảng bộ Miền Nam. Nếu cứ có sai phạm là kỷ luật th́ các đồng chí lănh đạo chủ chốt, các cấp ủy ở Miền Nam phải chịu. Nếu việc xử lí kỷ luật nhiều cấp ủy, nhiều đồng chí chủ chốt ở các Đảng bộ Miền Nam th́ trong lịch sử Đảng ta sẽ để lại một ấn tượng cho thế hệ mai sau. V́ vậy việc xử lư kỷ luật trong thực hiện PA2 cần được cân nhắc theo tính chất đặc biệt của nó”.

  3. #13
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương V: Chiến tranh




    Nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh ở CPC và biên giới phía Bắc năm 1979 (Biên giới Tây Nam/ Pol Pot/ Đi dây/ Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ/ “Kẻ Thù Lịch Sử”/ Thất bại trong tấn công ngăn chặn [Pre-emptive War]/ “Nhất biên đảo”/ “Áo lính lại khoác vào ngay”).

    *

    *

    Mặc dù từ giữa năm 1977, Pol Pot bắt đầu được nói tới như những bóng ma áo đen, đêm đêm cầm dao quắm lẻn sang giết chóc dọc biên giới Tây Nam, nhưng người dân Việt Nam vẫn sững sờ khi ngày 25-1-1978, t́nh trạng chiến tranh được Chính phủ công khai thừa nhận. Kể từ khi Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, đất nước trải qua ba mươi năm chiến tranh liên tiếp chiến tranh. Chưa kịp hưởng một ngày thực sự yên vui, trai tráng lại phải khoác lên vai cây súng, lần này là đánh nhau với những “người anh em” Cộng sản.



    Biên giới Tây Nam



    Ngày 25-1-1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Ngô Điền, vụ trưởng Vụ Thông tin Báo chí Bộ Ngoại Giao, chủ tŕ họp báo, cho biết nhà cầm quyền Campuchia đă huy động phần lớn lực lượng quân đội của họ đến đóng dọc biên giới, mở những cuộc tiến công quy mô tiểu đoàn, trung đoàn, rồi sư đoàn vào sâu trong lănh thổ Việt Nam. Cuộc họp báo của ông Ngô Điền diễn ra bốn ngày sau khi Khmer Đỏ kết thúc một cuộc tấn công kéo dài trên vùng biên giới Tây Nam. Từ ngày 11 đến 19-1-1978, ba trung đoàn Khmer Đỏ đă đánh vào vùng Tịnh Biên, Phú Cường ở bờ đông kênh Vĩnh Tế, sâu hơn 3km trong lănh thổ Việt Nam. Ngày 18-1-1978, hai trung đoàn khác đă tiến công lấn chiếm khu vực Giang Thành, thuộc huyện Hà Tiên, Kiên Giang. Trong ngày 21-1-1978, ba tiểu đoàn Khmer Đỏ chiếm Rộc Xây, một khu vực ở sâu trong đất Việt Nam từ 10-12km.



    Ông Ngô Điền nói: “Nghiêm trọng là ngày 19-1-1978, lần đầu tiên họ (Pol Pot) dùng pháo tầm xa cỡ lớn đặt trên đất Campuchia bắn hàng trăm quả đạn vào thị xă Châu Đốc và vùng chung quanh thị xă Tây Ninh làm chết và bị thương nhiều người, phá hoại nhà cửa và tài sản của nhân dân Việt Nam”219.



    Ông Điền đặc biệt lưu ư: “Lực lượng vũ trang Campuchia không chỉ tàn sát người Việt Nam mà c̣n tàn sát một số người Campuchia dọc biên giới, mổ bụng, moi gan rồi quay phim chụp ảnh nhằm mục đích vu cáo Việt Nam”. Hai tù binh Khmer Đỏ do ông Ngô Điền đưa đến cuộc họp báo đă “thừa nhận những hành động của Pol Pot” và tiết lộ: “Ban chỉ huy trung đoàn nói với chúng tôi rằng, Việt Nam muốn xâm lược Campuchia, Việt Nam là kẻ thù số một”220.



    Khmer Đỏ đă khai chiến một ngày sau khi họ chiếm được Phnom Penh. Ngày 18-4-1975, ngay sau khi Khmer Đỏ chiếm được thành phố Ta Keo, Soeun, chỉ huy trung đoàn 120, đă cho triển khai quân dọc biên giới Việt Nam. Seoun, con rể của Ta Mok, tư lệnh quân đội Khmer Đỏ, tuyên bố: “Chúng ta phải đánh Việt Nam v́ mười tám tỉnh của chúng ta, kể cả Prey Nokor (Sài G̣n) đang ở đó”.



    Ngày 19-4-1975, một người con rể khác của Ta Mok, Khe Muth, đă cho hải quân đổ bộ lên đảo nhỏ thuộc vịnh Thái Lan và tấn công đảo Phú Quốc. Quân đội Sài G̣n đă phải chiến đấu với quân của Khe Muth cho tới tận ngày 30- 4-1975. Ngày 1-5-1975, Khmer Đỏ quấy rối nhiều nơi dọc theo biên giới từ Tây Ninh đến Hà Tiên. Ngày 4-5-1975, một lực lượng đổ bộ lên đảo Phú Quốc, nhưng đă bị Quân đội Nhân dân Việt Nam, vừa thay thế Quân đội Sài G̣n, đánh đuổi. Ngày 10-5-1975, Pol Pot cho quân đổ bộ lên quần đảo Thổ Chu, triệt phá làng mạc, bắn giết và bắt đi 515 người.



    Ông Phạm Văn Trà, khi ấy là trung đoàn trưởng Trung đoàn U Minh, đơn vị trực tiếp đánh chiếm đảo Phú Quốc và Poulo Vai từ tay Khmer Đỏ, kể: “Hàng trăm ngư dân của ta sinh sống lâu nay ở trên đảo Phú Quốc, thấy tàu đổ quân Pol Pot lên bờ lại nghĩ là quân Giải phóng, không đề pḥng và không kịp chạy, liền bị chúng bắt ngay lập tức. Chỉ những ai đi vắng mới thoát nạn. Lính Pol Pot tập trung tất cả thường dân vô tội, xả súng bắn chết rồi hất xác xuống biển”221.



    Ngày 2-6-1975, ông Nguyễn Văn Linh, đại diện cho Đảng Lao động Việt Nam tới Phnom Penh gặp Bí thư Pol Pot. Trong chiến tranh, hai người đă từng biết nhau và tại cuộc gặp này, Pol Pot nói: “Quân đội Campuchia do không nắm được địa lư nên đă để xảy ra va chạm đổ máu rất đau xót”222. Pol Pot nói vậy, nhưng măi cho tới ngày 6-6-1975, khi Quân đội Việt Nam tiến đánh, bắt sống sáu trăm tù binh, Khmer Đỏ mới bỏ chạy và bị truy đuổi tới một ḥn đảo mà phía Việt Nam gọi là Ḥn Trọc, phía Campuchia gọi là Poulo Vai. Một tuần sau, Pol Pot, Nuon Chea và Ieng Sary viếng thăm Hà Nội, đề nghị Việt Nam kư một “hiệp ước hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau”. Do Pol Pot lồng vào vấn đề ranh giới trên vịnh Thái Lan nên lúc đó “hiệp ước” chưa được kư.



    Từ trung tuần tháng 5-1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng các đảo mà phía Việt Nam gọi là Ḥn Ông, Ḥn Bà, phía Campuchia gọi là Poulo Wai, được thành lập. Poulo Wai nằm cách thị xă Rạch Giá 220km và cách An Thới, Phú Quốc 113km về phía tây. Ḥn Ông cao năm mươi mốt mét, Ḥn Bà cao sáu mươi mốt mét, nằm song song, cách nhau ba cây số, diện tích tương đương nhau. Mỗi đảo có một băi cát vàng; c̣n lại bốn bề của đảo đều là vách đá dựng đứng. Quân đội Sài G̣n từng xây trên đảo Ḥn Bà một cây đèn biển và một sân bay dă chiến, chủ yếu cho trực thăng và máy bay trinh sát L.19 đậu. Trung đoàn U Minh được giao đánh chiếm Poulo Wai trong ṿng hai đến ba ngày. Mặc dù được trang bị tàu há mồm và có sự hiệp đồng tác chiến của máy bay ném bom A.37, trực thăng vũ trang và máy bay trinh sát L.19, nhưng do lực lượng Pol Pot chiếm đảo sử dụng hỏa lực mạnh nên chiến sự kéo dài từ ngày 5-6-1975 cho đến sáng 14-6-1975, Trung đoàn U Minh mới làm chủ hoàn toàn hai đảo, bắt sống 782 lính Khmer Đỏ223.



    Ngày 2-8-1975, đích thân Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đến Phnom Penh, kư với Pol Pot một bản thông cáo chung. Phía Việt Nam đồng ư trả lại Poulo Wai cho Campuchia. Ngày 4-8-1975, khi Nuon Chea, phó bí thư Trung ương Đảng Campuchia, tới Hà Nội, ông ta được Nguyễn Văn Linh thông báo: “Lực lượng vũ trang Việt Nam không c̣n ở đảo Trọc nữa”. Nuôn Chea nói: “Vấn đề đảo Wai, thay mặt Đảng, chúng tôi xin cảm ơn sâu sắc”. Nhưng khi ông Linh thắc mắc về số phận của 515 người dân Thổ Chu bị Khmer Đỏ bắt đi hôm 10-5-1975, Nuôn Chea chỉ hứa: “Sẽ giải quyết”224. Từ đây, sẽ không ai c̣n được nghe nói tới số phận của 515 người dân Việt Nam này.



    Tháng 4-1976, hai đảng Campuchia và Việt Nam thỏa thuận sẽ có cuộc gặp vào tháng 6 năm đó giữa lănh đạo cấp cao để bàn bạc giải quyết vấn đề biên giới, tạo tiền đề cho việc kư kết về mặt nhà nước một hiệp ước về biên giới225. Cuộc đám phán gần như không đạt được kết quả nào, nhưng ngày 23-5-1976 trong thư gửi Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, Nuon Chea vẫn dùng những lời lẽ thắm thiết: “Công việc của hai đoàn chúng ta trong thời gian qua đă đạt được thắng lợi lớn, củng cố và phát triển hơn nữa t́nh đoàn kết chiến đấu… Hai đoàn chúng ta đă hiểu biết, thông cảm với nhau và hết sức chân thành trên tinh thần là bạn chiến đấu là anh em cách mạng”226.



    Khmer Đỏ cho đến lúc bấy giờ vẫn được gọi là đồng chí, và Hà Nội đă không phân tích đúng mức các báo cáo của bộ đội biên pḥng lúc bấy giờ. Theo ông Ngô Điền: “Năm 1978, tôi đưa đoàn nhà báo nước ngoài đến vùng biên giới An Giang và Tây Ninh, bản thân tôi sững sờ, ghê tởm trước hành động dă man của bọn diệt chủng. Về Hà Nội, tôi gặp anh Phạm Văn Xô, ủy viên Trung ương Đảng. Khi ở Trung ương Cục miền Nam anh thường được giao liên hệ với bọn Pol Pot – Ieng Sary. Tôi thuật lại cho anh những điều mắt thấy tai nghe về tội ác của Pol Pot. Cho đến lúc đó, anh Hai Xô vẫn c̣n cho rằng những tội ác đấy có thể do chủ trương của lănh đạo địa phương”227.



    Chỉ trong năm tháng đầu tiên sau ngày Pol Pot cầm quyền, đă có hơn 150 ngh́n người từ Campuchia chạy sang tị nạn tại các tỉnh biên giới Việt Nam; trừ những người gốc Việt, hàng chục ngh́n người Hoa và người Khmer đă bị buộc quay trở lại. Số phận của họ, cũng như của hàng triệu người Campuchia khác, được tin là đă bị các Angkars đặt dưới dao, dưới búa228. Hàng trăm người thân của những người Khmer Issarak tập kết ra miền Bắc Việt Nam, trở về gia nhập Khmer Đỏ từ năm 1970, cũng đă bị giết khi đến Campuchia t́m chồng, cha, sau ngày “Phnom Penh giải phóng”.



    Pol Pot



    Cuối tháng 7-1976, lần đầu tiên một đoàn nhà báo nước ngoài được phép đến Campuchia. Đoàn do ông Trần Thanh Xuân, phó tổng giám đốc Thông tấn xă Việt Nam, dẫn đầu. Tuy vẫn rất lịch lăm, thân thiện và tỏ rơ “t́nh hữu nghị giữa hai dân tộc”, nhưng trong suốt quá tŕnh làm việc, Pol Pot vẫn giữ tư thế nguyên thủ quốc gia với ông Xuân. Không ai biết, trong thời gian học đại học ở Paris, cũng như nhiều người Khmer cộng sản khác, Pol Pot thường xuyên đến nhà ông Xuân, có khi chỉ là để lục cơm nguội. Ở Paris, nhà ông Xuân được những người Khmer coi như một cơ sở của Đông Dương Cộng sản Đảng. Cử chỉ riêng tư duy nhất mà ông ta thể hiện là trước khi chia tay đoàn nhà báo, Pol Pot ghé tai ông Xuân hỏi nhỏ: “Chị có khỏe không anh?”. Thời thơ ấu, Pol Pot được mô tả là một cậu bé nghiêm túc học hành thay v́ tham gia các tṛ chơi với bạn bè cùng lứa. Cha mẹ Pol Pot, một phú nông ở vùng Kongpong Thom, “có sáu con trâu và chín hecta ruộng”. Pol Pot – đứa con út của họ, sinh ngày 19-5-1925 với tên gọi là Saloth Sar – thay v́ làm ruộng ở quê nhà, đă được đưa đến Phnom Penh, nơi chị gái đang là một cung nữ và anh trai đang làm việc trong ban nghi lễ Hoàng cung thời vua Monivong.



    Sau một năm sống trong môi trường khép kín của Hoàng gia, cậu bé Saloth Sar bắt đầu sáu năm trong một trường ḍng quư tộc. Năm mười sáu tuổi, Saloth Sar quay lại Kongpong Thom học trung học. Lúc ấy, Phnom Penh đang náo động bởi các phong trào đ̣i độc lập của giới thanh niên học sinh. Thành phố lớn nhất mà Saloth Sar đặt chân tới là Sài G̣n, chặng nghỉ trước khi xuống tàu sang Pháp sau khi nhận được học bổng học ngành vô tuyến điện. Năm 1949, tới Paris, Saloth Sar bắt đầu hoạt động cho dù được người anh trai làm việc ở Hoàng cung khuyên là không nên dính dáng tới chính trị. Tại đây, Saloth Sar gặp Yeng Sary, một sinh viên người Khmer sinh ra ở Việt Nam.



    Trong đám cưới của Yeng Sary với Khieu Thirith – một sinh viên đang học về văn chương Anh tại Sorbonne – Saloth Sar đă gặp và sau đó cưới Khieu Ponnary, chị gái Thirith. Họ cùng tham gia phái bộ Campuchia trong Đảng Cộng sản Pháp. Trong thời gian đó, chàng sinh viên Saloth Sar vẫn được coi là một con người lịch lăm, khiêm tốn. Bạn bè có cảm giác cậu ta không giết nổi ngay cả một con gà. Tháng 1-1953, Saloth Sar trở về Campuchia v́ bị cắt học bổng sau ba năm liên tiếp thi rớt. Những ngày đó, Sihanouk vừa ra lệnh thiết quân luật, trấn áp phong trào đ̣i độc lập đă trở nên cực đoan ở Phnom Penh. Sar theo anh trai, Saloth Chhay, bắt liên lạc với tổ chức cộng sản tại Campuchia. Sau khi xác minh đúng Saloth Sar đang là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Phạm Văn Ba – một đảng viên người Việt Nam – đồng ư cho anh ta sinh hoạt trong Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer. Sau Đại hội lần thứ II – tháng 2-1951, Đảng Cộng sản Đông Dương đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam – những người cộng sản Lào, Khmer trong năm ấy đă được giúp đỡ để lập ra đảng riêng.



    Ngày 21-9-1951, Lê Đức Thọ và Nguyễn Thành Sơn triệu tập các đảng viên người Khmer có mặt ở Việt Bắc tổ chức Đại hội thành lập Đảng Nhân Dân Cách mạng Khmer; Anchar Mean, người được biết nhiều với cái tên Việt Nam là Sơn Ngọc Minh, được cử làm chủ tịch. Sơn Ngọc Minh là người sáng lập Phong trào Isarak năm 1948, một phong trào có ảnh hưởng trên địa bàn bốn tỉnh gần Việt Nam. Tuy nhiên, các tổ chức cộng sản trên đất Khmer lúc ấy vẫn được lănh đạo bởi những đảng viên người Việt. Saloth Sar và một số đảng viên đă từng du học ở Pháp về được đưa vào sinh hoạt trong một chi bộ phần lớn là đảng viên Việt Nam và do một người Việt làm bí thư. Những người Khmer này thường chỉ được các đàn anh Việt Nam giao những công việc tạp vụ; điều này đă để lại cho họ nhiều ấn tượng không tốt.



    Người Pháp trao trả độc lập cho ông hoàng Sihanouk từ năm 1953. Chính phủ Hoàng gia đă ngăn cản việc Hiệp định Geneva dành cho những người Khmer Cộng sản có được một vùng “tập kết” như những người kháng chiến Issara của Lào. Hơn 1.000 đảng viên người Khmer được đưa ra miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, trong đó có Sơn Ngọc Minh. Những đảng viên ở lại hoạt động bí mật dưới quyền của Sieu Heng và Tou Samouth, chịu sự truy lùng gắt gao của chính quyền Sihanouk. Năm 1959, Sieu Heng đầu hàng, nhiều cơ sở Đảng bị đàn áp. Tháng 9-1960, Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer tổ chức đại hội bầu Tou Samouth, một người có quan hệ tốt với miền Bắc Việt Nam, làm bí thư. Nhưng, năm 1962, Tou Samouth đă “mất tích” khi vừa từ Hà Nội về; Pol Pot, khi ấy đang là phó bí thư, đương nhiên trở thành bí thư. Thế hệ những người Khmer Cộng sản gốc nông dân và các Phật tử ủng hộ những người cộng sản Việt Nam bắt đầu được thay thế bởi những người đă từng du học ở Paris, nuôi tinh thần chống Việt Nam, cho dù khi ấy Khmer Đỏ phải dạt về vùng rừng núi giáp Việt Nam và phải dựa vào những người Việt Nam Cộng sản.



    Đi dây



    Norodom Sihanouk được coi là một “ông hoàng đi dây”. Tuy nhiên, trong nửa cuối thế kỷ 20, không chỉ có ông – vị vua của một một quốc gia thờ thần bốn mặt – các bên dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam đều có những mối quan hệ phức tạp với nhau. Trong khi trục lợi vai tṛ trung lập của Phnom Penh, tất cả đều để mặc cho Pol Pot phát triển nhanh phong trào Khmer Đỏ.



    Kể từ khi người Việt mở mang bờ cơi xuống phía Nam, nhà Nguyễn bắt đầu nh́n thấy vị trí chiến lược của Lào và Campuchia đối với an ninh quốc gia. Hoàng đế Minh Mạng đă từng coi Campuchia là “phên dậu” trong thế chống lại quân Xiêm. Người Pháp cũng đă không dừng tham vọng thuộc địa của họ ở Việt Nam mà đưa quân ngược ḍng Mekong, đến Lào, Campuchia, rồi gộp chung ba quốc gia khác biệt về văn hóa thành một xứ gọi là Đông Dương. Trong chiến tranh chống Pháp, Đại tướng Vơ Nguyên Giáp coi “Đông Dương là một đơn vị chiến lược, là một chiến trường”. Khi miền Bắc xác định, “bạo lực” là “đường lối của cách mạng miền Nam”, một con đường men theo lănh thổ Lào, Campuchia – thường được gọi là đường ṃn Hồ Chí Minh – bắt đầu được thiết lập. Người Mỹ biết rất rơ miền Bắc Việt Nam sử dụng các căn cứ ở Hạ Lào và ở Campuchia như một bàn đạp cho các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam. Khi chưa chính thức vào Nhà Trắng, Nixon đă yêu cầu “báo cáo chính xác về những ǵ kẻ địch có ở Campuchia”, đồng thời đặt ra mục tiêu “phá hủy các căn cứ được xây dựng ở đó”. Người Mỹ cũng biết khá chính xác việc miền Bắc sử dụng cảng Sihanoukville để nhận vũ khí từ Liên Xô.



    Trong thập niên 1960, Sihanouk đă khá thẳng tay với Cộng sản, Chính phủ Hoàng gia tuyên án tử h́nh vắng mặt Saloth Sar; năm 1967, ba bộ trưởng cánh tả – Khieu Samphan, Hou Youn, Hu Nim – đă phải bỏ vào rừng với Khmer Đỏ. Nhưng Sihanouk lại là “bạn thân” với Bắc Kinh và Hà Nội. Ông làm ngơ cho miền Bắc Việt Nam lập căn cứ trên lănh thổ của ḿnh. Mối quan hệ khăng khít của Sihanouk với Hà Nội, Bắc Kinh và các quốc gia trong Phong trào không liên kết đă gây lo ngại cho Việt Nam Cộng ḥa. Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm được nói là đă ủng hộ lănh tụ đối lập Sam Sary và giúp đỡ cuộc nổi loạn của Tướng Dap Chuon. Đại sứ Việt Nam Cộng ḥa Ngô Trọng Hiếu từng bị cáo buộc đứng sau lưng một vụ mưu sát Sihanouk bằng bom. Tháng 8-1963, Sihanouk cắt quan hệ ngoại giao với miền Nam Việt Nam và sau đó từ chối viện trợ kinh tế, quân sự của Mỹ. Tháng 5-1965, Sihanouk cắt quan hệ với Mỹ và sang tháng 6-1965, ông công khai ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Miền Bắc Việt Nam đánh giá cao vai tṛ của Hoàng thân Sihanouk tới mức, cuối năm 1964, khi Pol Pot theo đường ṃn Hồ Chí Minh ra Hà Nội, ông ta đă được đề nghị ủng hộ chính sách “chống ngoại bang” của ông Hoàng. Pol Pot đă ghi điều này vào “sổ đen” như một bằng chứng các đồng chí Việt Nam đă không hết ḷng với ông ta.



    Mục tiêu của Pol Pot không phải là chống Mỹ mà là cầm quyền, nhưng làm sao có thể cầm quyền khi Chính phủ Hoàng gia vững mạnh. Từ Hà Nội, Pol Pot đến Bắc Kinh và ở lại đây năm tháng. Thời gian đó, Cách mạng Văn hóa đang ngự trị đất nước Trung Hoa. Pol Pot chia sẻ nhiều mục tiêu của cuộc cách mạng này và nhận ra sự khác biệt trong con đường cách mạng của Pol Pot và Hà Nội. Từ đầu năm 1968, Khmer Đỏ bắt đầu tiến hành những hoạt động du kích lẻ tẻ, bắt cóc, phục kích nhắm vào các quan chức trong Chính quyền Sihanouk. Một số cuộc nổi dậy do Pol Pot tổ chức ở nông thôn bị Sihanouk khủng bố tàn khốc. Du kích Khmer Đỏ xin Việt Nam vũ khí để tự vệ, nhưng phía Việt Nam không thể đáp ứng v́ khi ấy miền Bắc đang cần Sihanouk. Sihanouk, tất nhiên, phức tạp hơn rất nhiều so với những ǵ mà các bên đánh giá. Một mặt, ông làm ngơ cho miền Bắc lập các căn cứ trên đất Campuchia; mặt khác, ngày 10-1-1968, khi gặp Chester Bowles, phái viên của Tổng thống Mỹ Johnson, Sihanouk nói: “Chúng tôi không muốn có người Việt Nam nào ở Campuchia. Chúng tôi sẽ rất vui mừng nếu các ngài có thể giải quyết được vấn đề này. Chúng tôi không phản đối việc truy t́m ráo riết ở những vùng bỏ hoang. Các ngài sẽ giải phóng chúng tôi khỏi Việt Cộng”229. Nhà Trắng đă “dịch” câu nói này theo nghĩa “Sihanouk mời Mỹ tấn công” vào những căn cứ ấy. Hai tháng sau đợt oanh kích bí mật của Mỹ, ngày 13-5-1969, trong một cuộc họp báo, Sihanouk nói: “Không có ai bị mất nhà cửa hay thiệt mạng trong đợt ném bom này, không có người Campuchia nào cả”230. Năm 1969, Sihanouk t́m cách nối lại quan hệ ngoại giao với Washington, nhưng trước khi việc thành, năm 1970, ông bị Lonnol đảo chính.



    Ngày 7-1-1970, Sihanouk cùng bà hoàng Monique và tùy tùng gồm mười một người rời thủ đô Phnom Penh. Trong khi ông đang nằm “chữa bệnh béo ph́, bệnh máu, và chứng tiểu tiện ra Anbumin” ở châu Âu, tại Phnom Penh, các tướng tá và chính trị gia – những người năm 1963 đă phản đối việc ông từ chối viện trợ kinh tế của Mỹ và sau đó, năm 1965, cắt đứt quan hệ ngoại giao – bắt đầu buộc tội ông bất lực khi để quân đội Bắc Việt Nam “tràn ngập ở vùng biên giới”. Ngày 8-3-1970, tại Svay Rieng, một cuộc biểu t́nh chống Việt Nam nổ ra. Ngày 11-3-1970, khoảng 20.000 thanh niên Campuchia đă cướp phá ṭa đại sứ của Bắc Việt Nam tại Phnom Penh. Lẽ ra, ngày 13-3-1970, Sihanouk phải về Phnom Penh để kiểm soát t́nh h́nh, nhưng ông vẫn đến thủ đô Moscow (Liên Xô cũ) theo kế hoạch. Chủ tịch Xô-Viết Tối cao Nikolai Podgorny đă khuyên ông về nước ngay, nhưng Sihanouk đă ở lại đó năm ngày. Ngày 18-3-1970, Quốc hội Campuchia phế truất chức quốc trưởng của ông. Sihanouk choáng váng khi Thủ tướng Liên Xô Kosygin cho hay tin trên đường tiễn ông ra sân bay. Không ai trong đoàn tùy tùng dám cả gan báo tin này cho ông cả. Tất nhiên, miền Bắc Việt Nam có bị tổn thất sau cuộc đảo chính. Ông Nguyễn Nhật Hồng, người thanh toán các chi phí bí mật để vận chuyển vũ khí qua ngả Campuchia, xác nhận điều Kissinger viết trong cuốn Ending the Vietnam War: kể từ sau năm 1970, cảng Sihanoukville không c̣n được miền Bắc dùng để cung cấp vũ khí cho miền Nam nữa. Ông Hồng kể: “Khi Trung Quố c và Liên Xô xung đột với nhau, đó ng cử a biên giớ i, hàng hóa từ Liên Xô không thể chuyển bằng tàu liên vận qua biên giới Trung Quốc, miền Bắc phải thuê tàu viễn dương chở vũ khí viện trợ của Liên Xô về cảng Sihanoukville. Việc này được cả Sihanouk và Lonnol đồng ư”. Đổi lại, một khoản “lót tay” bằng 20% trị giá hàng nhập cảng sẽ được chi cho hai người. Pḥng Thanh toán Đặc biệt B29 mở cho Sihanouk và Lonnol mỗi người một tài khoản bí mật ở Thụy Sỹ231. Trong những năm 1966-1969, lượng hàng hóa mà miền Bắc Việt Nam chuyển qua cảng Sihanoukville gồm: 20.478 tấn vũ khí, 1.284 tấ n quân trang, 731 tấ n thuố c men, 65.810 tấ n gaọ , 5.000 tấ n muố i, và 4.115 tấ n thực phẩ m hôp̣ và khô.



    Theo ông Nguyễn Nhật Hồng: “Từ năm 1969, Lonnol yêu cầu khoản 10% của ông phải được trả bằng vũ khí. Tôi nghĩ, các nhà phân tích t́nh báo của ta có thể đoán biết được ư đồ đảo chính của Lonnol khi ông ta lấy súng thay v́ lấy tiền”. Theo ông Hồng, “khoản thanh toán đặc biệt chi lót đường” này được bản “Báo cáo Tổng kết công tác ngoại hối đặc biệt” do ông Mai Hữu Ích kư ngày 25-11-1979, ghi là “chi phı́ vâṇ tải tuyệt mật”, với tổng số tiền lên tới 36.642.653 USD.



    Lịch sử dường như đă xếp đặt để ông Hoàng Sihanouk kết thúc một chặng đường chính trị của ḿnh tại Bắc Kinh, nơi vẫn tổ chức đón tiếp ông theo nghi thức của một ông hoàng đang trị v́. Thủ tướng Chu Ân Lai đă ra tận cầu thang máy bay ôm hôn, và phía sau ông, “gần như toàn bộ ngoại giao đoàn” ở Bắc Kinh có mặt. Sau khi lên chiếc xe cắm cờ cả của Campuchia và Trung Hoa, Chu Ân Lai nói với Sihanouk: “Đêm qua, tôi đă cho tất cả các trưởng đoàn ngoại giao biết rằng Chính phủ Trung Quốc vẫn coi ngài là quốc trưởng hợp pháp duy nhất của Campuchia. Tôi cũng cho họ biết là tôi rất mong muốn tất cả các đại sứ có mặt để đón ngài tại sân bay”232. Sự tinh tế của người Trung Hoa không dừng ở đấy. Chu Ân Lai đă tặng Sihanouk một dinh thự vào loại đẹp nhất Bắc Kinh. Đồng minh thân cận nhất của Bắc Kinh là Bắc Triều Tiên, cũng chỉ trong vài tháng, xây cho ông Hoàng lưu vong một dinh thự kiểu cung điện nh́n ra mặt hồ. Tại đây, Sihanouk vẫn là một ông vua. Đích thân Kim Nhật Thành thường xuyên mời Sihanouk và thân quyến thịt nướng, trứng cá và rượu vang Pháp. Những phim phương Tây mới nhất mà cha con ông Kim nhập về sau khi xem xong đều chuyển cho Sihanouk mượn. Năm 1991, Sihanouk đă đưa đội sỹ quan cận vệ người Bắc Triều Tiên do Kim Nhật Thành “tặng” về Phnom Penh sử dụng. Trong cuộc “hội đàm” ngày 19-3-1970, Chu chuyển lời của Mao Trạch Đông nhắn với Sihanouk: “Nếu Hoàng thân không chấp nhận việc đă rồi và quyết định lănh đạo một phong trào kháng chiến chống Mỹ giải phóng Campuchia th́ Trung Quốc sẽ ủng hộ và sẵn sàng trợ giúp những ǵ có thể”233. Tuy nhiên, cả Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông khi ấy chưa ai nghĩ đến khả năng bắt tay giữa Pol Pot và Sihanouk.



    Ngày 21-3-1970, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng bí mật tới Bắc Kinh, cả hai thuyết phục Chu Ân Lai và Pol Pot cùng hợp tác. Hai hôm sau, ngày 23-3-1970, Sihanouk đưa ra “tuyên bố năm điểm”, bắt tay với Khmer Đỏ, những người đă từng bị chính ông ta “xử tử h́nh vắng mặt”. Sihanouk cũng tuyên bố sẽ thành lập “quân đội giải phóng” và “mặt trận thống nhất dân tộc”, ông đồng thời ca ngợi cuộc đấu tranh chống Mỹ của những người Cộng sản Việt Nam, Lào và Campuchia. Tại Bắc Kinh, “Chính phủ Sihanouk” được cung cấp vật chất và cá nhân ông được chăm sóc như một nguyên thủ quốc gia234. Ngày 24-4-1970, Sihanouk được đưa trở về vùng “ba biên giới” để tham gia Hội thảo Thượng đỉnh về các Dân tộc Đông Dương cùng với Thái tử Souvanouvon của Pathet Lào, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam, và Phạm Văn Đồng. Khi trở lại Bắc Kinh vào ngày 27-4-1970, Sihanouk ra một tuyên bố chung cam kết “hỗ trợ có đi có lại” trong “cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung: Đế quốc Mỹ”. Trước đó, lực lượng miền Bắc Việt Nam tại Campuchia đă tổ chức rải truyền đơn và phát lời kêu gọi của Sihanouk, tổ chức tuyển dụng và huấn luyện giúp Sihanouk một lực lượng gọi là Khmer Rumdo.



    Kissinger cáo buộc miền Bắc Việt Nam nuôi dưỡng Khmer Đỏ và giúp đỡ để Pol Pot chiếm được chính quyền. Kissinger cho rằng: “Nếu có người nào đó gây ra cuộc chiến tranh ở Campuchia và biến sự diệt chủng của Khmer Đỏ thành hiện thực th́ đó chính là Hà Nội”235. Tuy nhiên, bom đạn Mỹ đă đóng một vai tṛ quan trọng236.

  4. #14
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương V: Chiến tranh
    P2




    Bằng những chiến dịch tuyên truyền, vừa hù dọa, vừa kích động ḷng căm thù Mỹ và chính quyền Lonnol, Khmer Đỏ đă tuyển được hàng trăm ngh́n thanh niên tham gia lực lượng của họ237. Năm 1974, mọi thanh niên từ mười sáu tuổi trở lên bị buộc gia nhập lực lượng Khmer Đỏ, những người từ chối có thể bị Khmer Đỏ bắn chết. Những đứa trẻ bị buộc phải cầm súng trong giai đoạn này đă trở nên vô cùng hung hăn. Khi đàm phán Hiệp định Paris, Lê Đức Thọ đă đ̣i loại bỏ các cơ cấu phi cộng sản ở Campuchia. Khi ấy, ông Thọ và các đồng chí của ông ở Hà Nội không thể nào ngờ, chính “ông anh” Trung Cộng không hề mong muốn một chiến thắng về ư thức hệ ở Campuchia. Tháng 6-1972, Chu Ân Lai nói với Kissinger: “Trung Quốc muốn ở Lào và Campuchia có một kết cục trong đó ‘các nhân tố tư bản’ có thể tham gia trong chính phủ và giới cầm quyền truyền thống có thể là người đứng đầu quốc gia”238. Chu nói thẳng với Kissinger: “Chúng tôi có thể tin rằng Thái tử Sihanouk là người đứng đầu nhà nước ở Campuchia và người đứng đầu nhà nước ở Lào sẽ là nhà vua”239. Tháng 2-1973, khi Kissinger thăm Bắc Kinh sau chuyến đi tới Hà Nội, ông nhận ra: “Các lănh đạo Bắc Kinh bắt đầu hiểu rằng việc Hà Nội chi phối Đông Dương có thể là một thắng lợi về ư thức hệ nhưng là một thất bại về địa chính trị đối với Trung Quốc”240.



    Campuchia càng ngày càng trở thành một ván bài phức tạp, có quá nhiều người chơi mà không ai tin tưởng ai. Trung Quốc biết Khmer Đỏ là lực lượng chính nhưng cũng sợ Khmer Đỏ mạnh tới mức làm hỏng con bài Sihanouk. Thật khó để định lượng trong chính sách thù địch với Việt Nam của Pol Pot có bao nhiêu lư do từ việc Hà Nội sốt sắng ủng hộ Hoàng thân Sihanouk. Tháng 4- 1970, khi Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đề nghị thiết lập một lực lượng quân sự phối hợp giữa Khmer Đỏ và lực lượng ủng hộ Hoàng gia, Pol Pot lúc ấy đang ghé qua Hà Nội, đă thẳng thừng từ chối. “Con bài” Sihanouk không chỉ làm mất ḷng Pol Pot mà c̣n khiến cho những người Khmer tập kết chạnh ḷng. Kể từ khi lưu vong, năm nào Sihanouk cũng sang Việt Nam ăn Tết. Để làm đẹp ḷng ông Hoàng, những khi Sihanouk đến Hà Nội, những người Khmer Issarak, cựu thù của ông, sống ở Thủ đô đều được “mời” đi các tỉnh khác. Theo ông Ngô Điền: “Cố Thủ tướng Chăn Si, một cán bộ tập kết gắn bó với Việt Nam, khi tâm sự về điều này đă rơm rớm nước mắt, trách ta coi nhẹ những người cộng sản Campuchia mà đề cao quá mức vua chúa”241.



    Năm 1973, Việt Nam đă đưa Sihanouk trở về “vùng giải phóng”, nơi về danh nghĩa ông là người đứng đầu nhưng trên thực tế đang do Khmer Đỏ nắm. Sihanouk đă nhiều lần đề nghị Chu Ân Lai thu xếp chuyến đi này nhưng Chu Ân Lai từ chối. Sau Hiệp định Paris, Sihanouk gặp trực tiếp Yeng Sary, đại diện của Khmer Đỏ tại Bắc Kinh, nhưng cũng bị Yeng Sary lảng tránh. Sau đó, Sihanouk đă cầu cứu Hà Nội và được Thủ tướng Phạm Văn Đồng sốt sắng nhận lời, ông đă nhờ Bắc Kinh tác động thêm để Pol Pot chấp nhận chuyến đi của Sihanouk242. Khmer Đỏ đă khai thác được triệt để uy tín của Sihanouk trong chuyến đi này để gây thanh thế đối ngoại, nhưng về đối nội, Pol Pot không cho phát bản tuyên bố của ông. Đặc biệt, Khmer Đỏ đă tranh thủ chuyến đi để nói xấu Việt Nam với Sihanouk243.



    Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ

    Người Mỹ tin rằng miền Bắc Việt Nam đă trang bị pháo binh hạng nặng và trợ giúp công binh cho Khmer Đỏ trong chiến dịch cuối cùng tiến vào Phnom Penh. Tướng Giáp xác nhận: “Lúc này, quân và dân Campuchia đă từng bước phá vỡ sức đề kháng của quân đội Lonnol ở ngoại vi thủ đô Phnom Penh. Được ta trợ giúp đạn súng lớn, bạn đă nă pháo vào trung tâm thành phố. Ngày 12-4, Mỹ tổ chức cuộc hành quân mang tên Diều Hâu, di tản cố vấn và binh lính Mỹ ra khỏi thủ đô bằng đường không. Ngày 17-4, Phnom Penh được giải phóng”244. Đêm trước khi được Khmer Đỏ “giải phóng”, Phnom Penh gần như không ngủ, phần v́ cả thành phố ch́m trong tiếng súng, phần v́ người dân chờ đợi một biến cố mới cho dù không ai lúc ấy có thể tưởng tượng được những điều mà Pol Pot sẽ làm.

    Vào lúc 7 giờ 30 sáng 17-4-1975, Chính quyền Lonnol ra lệnh cho quân đội đầu hàng. Cờ trắng được nh́n thấy ở khắp nơi, trong khi hàng ngàn người dân, chủ yếu là thanh niên, học sinh, đă xuống đường chào đón Khmer Đỏ với niềm tin đă tới ngày ḥa b́nh. Thoạt đầu, người dân tỏ ra yên tâm khi thấy những người lính Khmer Đỏ chỉ bắn chỉ thiên nhằm ngăn chặn nạn hôi của và văn hồi trật tự. Khoảng 1 giờ trưa, khi lực lượng Khmer Đỏ từ Quân khu Bắc tiến về chiếm Đài Phát thanh Quốc gia, ra lệnh cho tất cả các bộ trưởng, tướng lĩnh, các viên chức cao cấp của Chính quyền Lonnol ra tŕnh diện vào lúc 2 giờ chiều, sách báo “của bọn đế quốc” bắt đầu bị ném ra đường và đốt. Hoàng thân Sirik Matak và Thủ tướng Long Boret từ chối di tản theo đề nghị của Đại sứ Mỹ. Sirik Matak sau đó bị bắt khi tị nạn trong ṭa Đại sứ Pháp c̣n Long Boret th́ gọi điện thoại chỉ đường cho Khmer Đỏ tới tận nhà. Cả hai đều bị giết. Sáng sớm hôm sau, 18-4-1975, số phận của những người ra tŕnh diện được định đoạt: các tướng lĩnh của Lonnol bị đưa đi hành quyết tại sân vận động Olympic, các quan chức dân sự bị giết ở Hội quán Thể thao. Hai anh em nhà Lonnol, Chủ tịch Quốc hội Ung Bun Hor, nhà sư Saundech Saugh, các tướng lĩnh và nhiều bộ trưởng cũng bị giết. Chính quyền ở các địa phương cũng bị đối xử tương tự. Ngày 23-4- 1975, ở Battambang, các sỹ quan được Khmer Đỏ đưa lên sáu chiếc xe nói là đi đón Sihanouk nhưng kết quả là họ đă bị hành quyết ở một nơi hoang vắng.



    Nhưng phải đến khi Pol Pot trục xuất toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả các đô thị trên cả nước th́ người dân mới biết rơ trong số các nạn nhân của chế độ gồm có cả ḿnh. Nếu như trong ngày 18-4-1975, dân chúng ở Phnom Penh c̣n có thể hỏi han khi nghe lệnh sơ tán th́ ngày hôm sau, họ phải đối diện với những tên lính mười bốn, mười lăm tuổi lăm lăm súng trong tay: hoặc ra khỏi nhà, hoặc ăn lựu đạn.



    Không chỉ có cảnh cáo, những người phản đối đă bị bắn chết trước mắt người thân. Người dân chỉ kịp nhặt nhạnh vài thứ đồ đạc, nhà cửa bị buộc phải bỏ lại đằng sau. Chỉ vài ngày sau, họ sẽ nhận ra tài sản không đáng giá so với những ǵ sẽ mất. Nhiều gia đ́nh phải li tán, vợ chồng, con cái bị xé, mỗi người bị đưa tới một nơi. Họ đă phải đi bộ nhiều ngày, có người phải đi bộ năm, sáu tuần liên tục, về các vùng mà Pol Pot dự định xây dựng các hợp tác xă bậc cao. Những người ốm yếu bị vất lại. Người dân bắt đầu nh́n thấy tương lai của ḿnh qua những xác chết nằm la liệt trên đường. Khoảng 0,53% số dân Phnom Penh đă bị chết trên đường đi245. Tính cả số các quan chức bị hành quyết và người dân bị bắn do không chịu chấp hành, hơn hai mươi ngh́n người đă bị giết trong những ngày đầu “Phnom Penh giải phóng”. Pol Pot nhận được “tin chiến thắng” khi đang ở Oudong với Khieu Samphan. Khieu Samphan nhớ lại: “Khi ấy, chúng tôi tránh thể hiện cảm xúc. Không có tiếng súng chào mừng hay điều ǵ tương tự. Tôi không chúc mừng ông ta (Pol Pot). Ông ta nói đơn giản đây là một chiến thắng vĩ đại mà nhân dân Campuchia tự giành được”246. Pol Pot lặng lẽ về Phnom Penh vào ngày 24-4-1975, sau khi ra lệnh đưa toàn bộ người dân thành phố về các vùng nông thôn. Ngày 17-4-1975, Yeng Sary đang ở Quảng Trị. Thay v́ theo đường Hồ Chí Minh đi Rattanakiri, Yeng Sary bay ngược trở lại Bắc Kinh để ngày 24-4-1975, được đưa trở về Phnom Penh bằng một chiếc Boeing 707. Sau ba ngày đại hội đặc biệt toàn quốc, khi được giao phát ngôn cho Chính quyền, Khieu Samphan cho rằng chính “máu xương của nhân dân” đă viết nên “trang sử chói ḷa của dân tộc”247. Pol Pot, với một gương mặt được mô tả là tử tế, nụ cười luôn thường trực trên môi và rất kiệm lời, bắt đầu ban hành chính sách tám điểm: di tản toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả các thành phố; thủ tiêu tất cả chợ búa; ngưng lưu hành tiền tệ; buộc các nhà sư phải lao động tại các nông trang; hành h́nh các nhà lănh đạo Lonnol; thành lập các hợp tác xă cao cấp trên toàn quốc, áp dụng chế độ nhà ăn tập thể; trục xuất toàn bộ người Việt Nam; triển khai quân dọc biên giới, đặc biệt là biên giới Việt Nam248. Trong số ra tháng 8-1975, Tung Padevat, tờ báo nội bộ của Khmer Đỏ, giải thích việc đưa hết dân chúng ra khỏi Phnom Penh là nhằm xóa sở hữu tư, bắt tư sản phải lao động chân tay như những người nông dân. Bài báo viết: “Sự thật là, chúng ta mạnh hơn và có ảnh hưởng hơn khu vực tư nhân khi chúng ta ở vùng nông thôn”. Việc băi bỏ sử dụng đồng tiền, theo bài báo này, không chỉ để đánh giai cấp tư sản, mà: “Tiền bạc sẽ dẫn đến sở hữu tư… Nếu chúng ta sử dụng tiền, nó sẽ rời vào tay tư nhân… Nếu đồng tiền rơi vào tay kẻ xấu hoặc kẻ thù, chúng sẽ dùng tiền để hối lộ, làm tha hóa cán bộ… Rồi, trong một năm, mười năm, hai mươi năm nữa, cái xă hội trong sáng của Campuchia sẽ trở thành Việt Nam”249. Khát vọng vượt các “đảng anh em” trong xây dựng chủ nghĩa cộng sản, tái lập đế chế Angkor, đă biến Pol Pot từ một kẻ trói gà không chặt trở thành một tên giết người điên rồ. Trong một tài liệu mật của Trung ương phát hành ngày 19-9-1975, nghĩa là sau vừa đúng năm tháng xây dựng chủ nghĩa xă hội, Khmer Đỏ khẳng định: “So sánh với cách mạng ở Trung Quốc, Bắc Hàn và Việt Nam, chúng ta đang đi trước họ ba mươi năm”250. Hàng triệu người bị buộc phải lao động nặng nhọc 12- 15 giờ mỗi ngày, trong khi ăn không đủ no v́ gạo phải để dành cho chỉ tiêu xuất khẩu hai triệu tấn trong năm 1977.



    Trong tuyên bố của Khieu Samphan đưa ra vào ngày 27-4-1975, ngay sau Đại hội Toàn quốc Đặc biệt, Sihanouk vẫn được coi là “một nhà yêu nước vĩ đại” và vẫn được giữ vị trí đứng đầu nhà nước. Trong thời gian ấy, Sihanouk đang ở B́nh Nhưỡng, nơi Kim Il Sung xây cho ông một ṭa lâu đài nh́n ra mặt hồ Chhang Sou On. Tháng 9-1975, Pol Pot gửi Phó Thủ tướng Khieu Samphan và Bộ trưởng Thông tin Yeng Thirith, vợ Yeng Sary, tới B́nh Nhưỡng mời Sihanouk trở lại Phnom Penh. Khieu Samphan nói với ông: “Chúng ta đă có điều kiện để trở thành 100% cộng sản. Chúng ta có thể vượt qua thậm chí người anh Trung Hoa. Với bước đại nhảy vọt, chúng ta có thể tiến đến mục tiêu chủ nghĩa cộng sản bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa xă hội”251. Họ cùng đi tàu trở lại Bắc Kinh, ở đó, Khieu Samphan tháp tùng Sihanouk và bà hoàng Monique đến thăm Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Mao lúc ấy tám mươi hai tuổi “gần như trần truồng trên giường bệnh”252 nhưng có vẻ như ông vẫn h́nh dung được những ǵ học tṛ ông đang làm ở Campuchia. Mao chỉ thị cho đại diện Khmer Đỏ: “Đừng đưa Hoàng thân Sihanouk và bà Hoàng tới công xă”.

    Những lời của Mao đă có giá trị cứu mạng Sihanouk. Chu Ân Lai, khi ấy cũng đang ở trên giường bệnh ung thư giai đoạn cuối, nói với Khieu Samphan và Yeng Thirith với giọng mà Sihanouk mô tả là khẩn nài: “Xin hăy đi từng bước lên chủ nghĩa cộng sản. Đừng đi theo mô h́nh đại nhảy vọt sai lầm của chúng tôi”. Sihanouk nhớ lại là cả Khieu Samphan và Thirith đều “cười ranh mănh”. Khmer Đỏ không cho rằng họ có học tập ai đó, thậm chí cả Mao Trạch Đông; họ muốn xây dựng một xă hội chưa từng có trong lịch sử.



    Ngày 9-9-1975, Sihanouk rời Bắc Kinh trong cờ hoa, Đặng Tiểu B́nh gọi đây là “sự trở về trong vinh quang”. Sự thật là Pol Pot chỉ cần uy tín của Sihanouk để lấy lại chiếc ghế của Campuchia tại Liên Hiệp Quốc. Ở Phnom Penh, khi ông Hoàng đề nghị Pol Pot cho gặp một người chú già và một người d́ của ông bị đưa đi công xă từ hồi tháng 4-1975, ông đă bị từ chối. Đại diện Pol Pot nói với Sihanouk là ông sẽ được gặp họ sau chuyến đi đến Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Trong suốt chuyến đi New York, Yeng Sary luôn cập kè bên ông. Khi họ chuyển tiếp tại Paris, không ai trong số những người bạn cũ của Sihanouk có thể lọt vào nơi ở của ông để được gặp ông trực tiếp. Sihanouk thừa nhận là khi ấy ông đă nhận ra không khí chết chóc ở Campuchia, nhưng v́ “trách nhiệm và niềm kiêu hănh” cá nhân, tháng 12-1975, Sihanouk cùng bà hoàng Monique, mẹ vợ và hai mươi hai người con, cháu của ông đă trở lại Phnom Penh. Kết cục là trong hơn ba năm sống với Khmer Đỏ, Sihanouk đă trở thành một tù nhân; năm người con và mười ba người cháu của ông đă bị Angkar đưa đến các công xă để rồi không bao giờ nghe nhắc đến tên họ nữa. Sihanouk khi mới trở về vẫn là quốc trưởng của Chính phủ Hoàng gia được lập ra ở Phnom Penh, nhưng ông và Thủ tướng Pen Nouth, người trung thành của ông, chỉ có hư danh. Ngày 20-3-1976, Quốc hội Campuchia được bầu với thành phần chủ yếu là các bí thư quân khu và chi khu của Khmer Đỏ. Theo hiến pháp mới, Campuchia sẽ có một hội đồng chủ tịch nhà nước do Quốc hội bầu lên. Sihanouk phải đệ đơn từ chức để cho Khieu Samphan làm chủ tịch. Hai phó chủ tịch thứ nhất và thứ hai là hai vị tư lệnh quân khu: So Phim, Quân khu Đông và Nhim Ros, Quân khu Tây Bắc. Ngày 12-4-1976, Pol Pot bắt đầu xuất hiện công khai với vai tṛ thủ tướng, Yeng Sary làm bộ trưởng Ngoại giao, Son Sen làm bộ trưởng Quốc pḥng. Ngày 22-7-1975, trước 3000 đại biểu của các đơn vị quân đội, Pol Pot nói: “Trên toàn thế giới, trong lịch sử đấu tranh cách mạng và kể từ khi nước Mỹ ra đời, không ai, không có quốc gia nào, lại có thể đánh đuổi đế quốc đến tên cuối cùng và giành thắng lợi hoàn toàn”253 như Khmer Đỏ; c̣n Pol Pot cho rằng: “Đây là một thắng lợi mẫu mực cho nhân dân thế giới”.



    “Kẻ Thù Lịch Sử”



    Từ ảo tưởng này, tại lớp chính trị tổ chức cho 700 cán bộ chủ chốt của Đảng trong hai tháng cuối năm 1975, Nuon Chea cho rằng Campuchia bấy giờ vừa là công trường lao động, vừa là chiến trường chống Việt Nam. Chính sách thù địch với Việt Nam mà Khmer Đỏ tiến hành không chỉ bằng định kiến lịch sử được dồn nén qua nhiều thế kỷ, mà c̣n bằng cả mối quan hệ ngắn ngủi giữa những người cộng sản khi cùng sinh hoạt trong Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được Trần Phú, theo lệnh Quốc tế Cộng sản, thay bằng một đảng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Tuy là Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng ngay cả những phái bộ ở Lào hay Campuchia đều có lượng đảng viên người Việt Nam chiếm số đông. Từ năm 1935, “Liên bang Đông Dương” bắt đầu được những người theo đường lối Quốc tế Cộng sản cực đoan tính tới. Tháng 7-1946, Hồ Chí Minh tới Fonteinebleau. Khi những người Việt Nam trong Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu những đảng viên người Khmer với phái đoàn Việt Nam và đề nghị họ “đi gặp Bác Hồ”, Thiounn, người về sau là một bộ trưởng của Pol Pot, nói: “Chúng tôi trả lời, ông ta không phải là bác của chúng tôi. Họ lại bảo, chúng ta là anh em, các bạn nên thể hiện sự tôn trọng, nhưng chúng tôi cũng từ chối” 254. Từ năm 1970, nhiều đơn vị Việt Nam đóng quân tại các căn cứ nằm dọc theo biên giới Campuchia đă bị tấn công mà thủ phạm về sau được xác định là lực lượng của Khmer Đỏ. Không chỉ hướng sự thù địch vào người Việt, từ năm 1973, Khmer Đỏ bắt đầu chống lại cả Khmer Rumdo, lực lượng ôn ḥa, ủng hộ Sihanouk và từng được Việt Nam huấn luyện. Ngày 4-11-1973, sau khi bắt cóc ba nhóm Khmer Rumdo, lực lượng Khmer Đỏ thuộc Khu 25 ở Kandal, gặp những người Khmer Rumdo ở Prey Veng, yêu cầu Khmer Rumdo hủy bỏ chủ trương hợp tác với các lực lượng miền Bắc Việt Nam. Những người Khmer Rumdo từ chối. Cuộc tranh căi đă dẫn đến một cuộc đọ súng và với sự tham gia của các đơn vị Việt Nam, Khmer Rumdo đă tiêu diệt bốn mươi hai lính Khmer Đỏ, đẩy lui phần c̣n lại. Từ đó, các cuộc đụng độ giữa hai lực lượng gần như thường xuyên xảy ra. Mấy tháng trước đó, khi di chuyển từ Khu IX lên Trung ương Cục, ông Vơ Hồng Thắm, thư kư riêng của ông Kiệt, đă bị Khmer Đỏ giết khi vừa chạy xuồng qua biên giới Campuchia đoạn tiếp giáp với Hồng Ngự, Đồng Tháp. Cái chết của ông Thắm không phải là cá biệt. Đầu thập niên 1970, các đơn vị nhỏ lẻ của quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn thường bị tập kích. Chỉ sau khi các đơn vị miền Bắc Việt Nam tấn công trừng phạt, Khmer Đỏ mới tạm hạn chế quấy rối. Năm 1970, hơn 800 cán bộ người Khmer tập kết ra miền Bắc Việt Nam được đưa trở lại Campuchia đă bị Khmer Đỏ dần dần thủ tiêu v́ coi họ là những “người Khmer, đầu Việt”. Một số chạy thoát sang Việt Nam, nhưng theo ông Vơ Văn Kiệt: “Thoạt đầu, Trung ương Cục chủ trương trả lại cho Khmer Đỏ, kết quả là tất cả họ khi về tới cứ của Pol Pot đều bị giết. Về sau, Trung ương Cục thống nhất với Pol Pot, phía Việt Nam chỉ trao trả những cán bộ nào chấp nhận trở lại hàng ngũ Khmer Đỏ”. Sau ngày 30-4-1975, Việt Nam cũng đang say sưa với chiến thắng, những chiến dịch gây hấn biên giới của Pol Pot đă không được đánh giá đúng mức và các nhà lănh đạo, trong các chuyến đi tới Campuchia, cũng đă không đủ nhạy cảm để nhận ra Khmer Đỏ là ai, và đă không có ấn tượng đầy đủ trước không khí chết chóc đang bao trùm quốc gia chùa tháp. Ngày 2-6-1975, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh theo đường bộ từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Phnom Penh gặp Pol Pot để giải quyết các vụ đụng độ ở các đảo Phú Quốc và Poulo Wai. Đường dài gần 200km qua ba tỉnh trước khi tiến đến thủ đô, nhưng ông đă không nhận thấy dấu hiệu khác thường ǵ. Đúng hai tháng sau, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn lại dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam đến Campuchia trong một chuyến thăm đáp trả chuyến đi ngày 12-6-1975 của Pol Pot, Nuon Chea và Yeng Sary. Một thành phố Phnom Penh vắng tanh đă không trở thành mối băn khoăn của ông và tùy tùng. Đúng một năm sau đó, Pol Pot cho phép một đoàn nhà báo Việt Nam đi đến nhiều nơi ở Campuchia, các nhà báo có nhận ra sự “vắng vẻ lạ thường” ở Phnom Penh nhưng rồi đă choáng ngợp khi Pol Pot tŕnh diễn “t́nh anh em giữa hai đảng và hai dân tộc”255. Theo một thành viên của đoàn, nhà báo Tô Quyên, Chính phủ Pol Pot- Yeng Sary đă tái hiện “t́nh đoàn kết chiến đấu và hữu nghị tươi đẹp ấy” bằng một đêm tŕnh diễn văn nghệ tại nhà hát lớn thủ đô Phnom Penh. C̣n Thủ tướng Pol Pot th́ tiếp đăi đoàn vô cùng nồng thắm256.



    Chỉ mấy tuần sau khi đoàn nhà báo Việt Nam rời Phnom Penh, cuộc thanh trừng những nhân vật Khmer Đỏ có dính líu tới Việt Nam bắt đầu được Pol Pot tiến hành. Năm ấy, một số nhà lănh đạo Khmer Đỏ vốn là đảng viên từ thời Đảng Cộng sản Đông Dương như Keo Meas đề nghị tổ chức kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập Đảng Campuchia, tính theo ngày 30-9-1951, ngày mà tại Việt Bắc, lănh tụ Sơn Ngọc Minh tuyên bố thành lập Đảng Campuchia. Tuy nhiên, đó là một quá khứ mà Pol Pot không muốn dính líu. Mười ngày trước sinh nhật Đảng, Pol Pot ra lệnh đ́nh chỉ việc chuẩn bị lễ kỷ niệm, đồng thời ra lệnh bắt Keo Meas và Nay Sarang, một nhà lănh đạo cao cấp khác. Họ bị đưa đến nhà ngục nổi tiếng, Tuol Sleng, bị tra tấn cho đến khi “nhận tội” rồi bị giết chết. Pol Pot đă viết lại lịch sử bằng cách ra một văn bản, xác định thời điểm thành lập Đảng không phải là năm 1951 mà là 1960, năm Đảng Campuchia tổ chức đại hội và, sau đó, bầu ông ta làm phó bí thư. Pol Pot giải thích: “Chúng ta cần đặt lịch sử Đảng vào trong những ǵ trong sạch và hoàn hảo, vạch ra đường lối độc lập và tự chủ cho chúng ta”257. Sihanouk nhận ra thái độ của Khmer Đỏ với Việt Nam từ trước khi ông trở về Phnom Penh.



    Theo Nayan Chanda: Nhân dịp Quốc khánh Việt nam, 2-9-1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đă mời Sihanouk và Khiêu Samphan, khi ấy đang là khách của Việt Nam, dự “tiệc gia đ́nh”. Thành phần tham gia gồm Hà Nội, Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam, các nhà lănh đạo Lào, và Khmer Đỏ. Khieu Samphan đă làm Sihanouk “mất tinh thần và ngạc nhiên” khi “lạnh lùng từ chối” và nói rằng Campuchia muốn một bữa tiệc song phương. Sau đó, Khieu Samphan giải thích với Sihanouk: “Chúng ta không bao giờ để rơi vào cái bẫy của người Việt Nam, kẻ đang muốn thống trị và nuốt chửng Campuchia bằng cách lôi kéo vào liên bang Đông Dương của họ”258. Tháng 12-1976, khi Việt Nam tổ chức Đại hội Đảng lần thứ IV, đại hội như một đại lễ mừng chiến thắng, Khmer Đỏ chỉ gửi điện mừng thay v́ cử đại biểu đến Hà Nội như hai mươi chín “đảng anh em” khác259. Nhưng đến tận lúc ấy, Việt Nam vẫn coi biên giới Tây Nam là nơi tiếp giáp với một “người anh em”. Trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1.000km ấy, Việt Nam chỉ bố trí bốn mươi hai đồn biên pḥng; trong khi đó, bốn sư đoàn Khmer Đỏ gấp rút hoàn thành tuyến công sự dày đặc kéo dài từ bờ Vịnh Thái Lan đến vùng Sông Bé.



    Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War)



    Ngày 14-1-1977, gần một trung đoàn Pol Pot tấn công các đồn, chốt Việt Nam ở khu vực Buprang, gây cho phía Việt Nam những thiệt hại nghiêm trọng. Dân t́nh lo lắng, cán bộ các cấp cũng bắt đầu hết sức băn khoăn. Chiến tranh bắt đầu leo thang trong năm 1977: 30-4-1977, Pol Pot cho quân tấn công trên tuyến biên giới thuộc địa bàn Quân khu IX; tháng 8-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu VII; tháng 10-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu V. Ở Quân khu IX lúc ấy, chỉ một sư đoàn bộ binh được giữ ở trạng thái thường trực, trong khi hai sư đoàn bộ binh c̣n lại chuyển sang làm kinh tế – Sư 4 ở tứ giác Long Xuyên, Sư 8 ở Đồng Tháp Mười, chủ yếu đào kinh260. Tinh thần của bộ đội, v́ thế, cũng có những “diễn biến khá phức tạp”. Theo Tướng Trà: “Sau bao nhiêu năm chiến đấu liên tục, gian khổ, ác liệt, chính sách hậu phương quân đội chưa được giải quyết thỏa đáng; yêu cầu được nghỉ phép, phục viên của anh em chưa được giải quyết, nhất là số anh em quê miền Bắc, hàng năm, bảy năm, thậm chí cả chục năm biền biệt xa nhà; rồi tư tưởng ‘xả hơi’, nghỉ ngơi, bộ đội đang từ thành phố, thị xă… nay lên vùng biên khai hoang, làm kinh tế, trần ḿnh suốt ngày với cỏ dại, cây hoang, śnh lầy, chua phèn; thiếu thốn cơ cực đủ bề”261.



    Toàn biên giới Tây Nam cũng hầu như không có bộ binh thường trực, nên khi Pol Pot tấn công th́ ở vào thế bị động, đối phó lúng túng và chịu tổn thất lớn. Tướng Lê Đức Anh thừa nhận: “Các tỉnh, các quân khu phía Nam thiếu sẵn sàng chiến đấu, biên giới bỏ ngỏ; chỉ huy tác chiến nặng về đánh theo lối chính quy hiệp đồng binh chủng nên tiêu hao đạn dược th́ lớn mà hiệu suất chiến đấu rất thấp. Tháng 9- 1977, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp đề nghị Bộ Chính trị có chủ trương giải quyết t́nh h́nh biên giới Tây Nam”. Đêm 30-4-1977, Khmer Đỏ đưa quân đánh lấn suốt một dải biên giới từ Tây Ninh đến Hà Tiên, Kiên Giang. Tang tóc lại bao trùm không chỉ ở nơi xảy ra chiến sự. Trên tuyến biên giới do Quân khu IX đảm trách, từ huyện Mộc Hóa, Long An đến Hà Tiên, Kiên Giang, Pol Pot dùng bảy tiểu đoàn quân chính quy cùng với lực lượng địa phương thuộc quân khu Tây Nam đánh thẳng vào khu vực Bảy Núi, Tịnh Biên-An Giang. Hàng trăm dân thường dân bị tàn sát, hàng trăm ngôi nhà bị đốt. Các đơn vị đứng chân gần biên giới của Quân khu IX tuy đă nỗ lực tác chiến, nhưng theo ông Phạm Văn Trà: “Hầu hết đang làm nhiệm vụ sản xuất xây dựng kinh tế, chưa chuẩn bị đối phó với địch, nên có phần bất ngờ, bị động, lúng túng, thậm chí bị tổn thất”. Ngay đêm 30-4-1977, Tướng Lê Đức Anh ra lệnh cho Sư đoàn 330 chuyển sang trạng thái sẵn sàng cơ động lên tuyến biên giới đánh địch, đồng thời, theo ông Trà, Quân khu cũng được trên đồng ư cho thành lập thêm Sư đoàn 339 làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Bắt đầu từ đây, chiến sự không c̣n xảy ra trên đường biên. Một tháng rưỡi sau, Tư lệnh Quân khu IX Lê Đức Anh quyết định đưa một lực lượng gồm hai trung đoàn bộ binh có xe bọc thép M113, một trung đoàn tăng thiết giáp, hai phi đội máy bay tiêm kích, đánh hiệp đồng binh chủng ở quy mô sư đoàn từ hướng Kiên Giang, thọc sâu vào đất Campuchia, ṿng về tiêu diệt phần lớn lực lượng Khmer Đỏ đang chiếm giữ Đầm Chích, xă Vĩnh Điện. Nhưng, theo Tướng Phạm Văn Trà, khi Sư đoàn 4 đang khôi phục tuyến biên giới Hà Tiên th́ Khmer Đỏ tràn qua cửa khẩu Vịnh Bà, đánh sâu vào lănh thổ tỉnh Đồng Tháp, chiếm một số khu vực, trong đó có khu vực tăng gia sản xuất tập trung của Sư đoàn 8. Tướng Lê Đức Anh lại phải lệnh: “Đưa ngay một trung đoàn lên Đồng Tháp”262. Sau khi Trung đoàn 1, Sư 330, bị điều lên lên Đồng Tháp theo lệnh của Tướng Anh, một hướng quan trọng là Tịnh Biên và Thất Sơn bị bỏ trống. Vừa lấy lại phần địa bàn của Sư 8 bị Khmer Đỏ chiếm giữ th́ Ba Chúc, Tịnh Biên của An Giang lại bị Khmer Đỏ tập trung một lực lượng lớn đánh vào. Sư đoàn 4 buộc phải lùi về phía sau, Khmer Đỏ mặc sức tàn sát người dân vùng Ba Chúc. Tướng Lê Đức Anh lại phải điều Trung đoàn 1, sư 330, trở về giải vây rồi đẩy quân Pol Pot lùi qua bên kia kênh Vĩnh Tế. Không lâu sau, khi Trung đoàn 1 vừa rút đi, quân Pol Pot lại quay lại đánh Ba Chúc với quy mô cấp sư đoàn, lực lượng của Tỉnh đội An Giang không giữ được. Trung tuần tháng 12-1977, Quân khu IX đă thi hành phương thức pḥng thủ mà Tướng Trà gọi là học theo kế “tiên phát chế nhân” của Lư Thường Kiệt thời chống Tống. Sư đoàn 330, gồm ba trung đoàn bộ binh chính quy, cùng hai tiểu đoàn địa phương quân An Giang, được trang bị một số xe M-113, đánh thẳng vào khu vực cố thủ của Khmer Đỏ ở núi Tham Đưng và núi Som sâu trong đất Campuchia từ hai mươi đến ba mươi cây số. Toàn tuyến pḥng thủ của Pol Pot từ Ki Ri Vông đến quận lỵ Rề Minh thuộc tỉnh Tà Keo bị chọc thủng không mấy khó khăn. Thật trớ trêu khi người dân Campuchia đă vui mừng khi thấy quân đội nước ngoài đánh tới263. Các lực lượng của Quân khu IX đă ở lại trên đất Campuchia tổng cộng hai mươi ngày. Chưa đầy hai tuần sau khi quân Việt Nam rút về, giữa tháng 1-1978, quân Pol Pot tiến đánh ồ ạt vào các xă Nhơn Hội, Khánh B́nh, thuộc huyện Châu Đốc, An Giang. Đặc biệt, ngày 15-1-1978, bảy tiểu đoàn của Trung đoàn 14 cùng với Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 2 của Pol Pot đánh chiếm Ba Chúc và núi Phú Cường thuộc huyện Tịnh Biên. Sư đoàn 4 và lực lượng địa phương của An Giang lại một lần nữa không giữ được địa bàn, để quân Khmer Đỏ tiến sâu vào lănh thổ Việt Nam trên năm cây số, phá sập hai cây cầu trên trục đường từ thị trấn Nhà Bàng đi Ba Chúc, Chi Lăng. Đi tới đâu, lính Khmer Đỏ xả súng bắn giết tới đó, chúng bắt cả trẻ em, người già và ngang nhiên đập phá chùa chiền, tượng Phật. Sở chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 330 đóng trên núi Trà Sư bị bao vây ba bề. Lính Khmer Đỏ lại mặc sức sát hại người dân Ba Chúc. Lính Khmer Đỏ không chỉ ném lựu đạn, xả súng bắn chết hàng ngh́n thường dân ở hai ngôi chùa, nhiều thường dân khác c̣n bị giải ra đồng, xả súng bắn chết264. Theo ông Trà: “Xác chết chất thành đống trong xóm ấp và ngoài đồng. Không khí chết chóc bao trùm; quạ đen bay đầy trời”. Theo Tướng Phạm Văn Trà, sau khi đánh tan lực lượng Khmer Đỏ ở Phú Cường và Ba Chúc, băi chiến trường được giữ lại gần một tuần lễ để các nhà báo trong nước và quốc tế đến quay phim. Chiến tranh biên giới với Campuchia bắt đầu được công bố265.

  5. #15
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương V: Chiến tranh
    P3



    “Nhất Biên Đảo”



    Hơn hai năm trước đó, trong lễ mừng chiến thắng, tổ chức vào ngày 15-5-1975 tại Hà Nội, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đă làm cho hàng triệu con tim “sởn gai ốc” khi, với giọng Quảng Trị trầm ấm, ông tuyên bố: “Chào mừng tổ quốc vinh quang của chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát khỏi họa chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập tự do”266. Bí thư Lê Duẩn nói tiếp: “Trong 4.000 năm lịch sử của dân tộc ta th́ hơn 100 năm lại đây là chặng đường đấu tranh chống ngoại xâm gay go nhất, quyết liệt nhất, nhưng cũng thắng lợi vẻ vang nhất”. Tại buổi lễ long trọng này, ông Lê Duẩn bày tỏ niềm tin: “Một dân tộc đă làm nên những chiến công hiển hách ấy xứng được hưởng ḥa b́nh, tự do và hạnh phúc. Dân tộc ấy cũng nhất định có đủ tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng để vươn lên những đỉnh cao của thời đại, biến đất nước nghèo nàn lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề và trên đó, đế quốc Mỹ đă gieo biết bao tội ác, thành một nước văn minh, giàu mạnh, thành tŕ bất khả xâm phạm của độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xă hội ở Đông Dương và Đông Nam Á”267. Ngay sau đó, Bộ Quốc pḥng cho giải thể hàng loạt các đơn vị chiến đấu.



    Tháng 10-1976, Bộ Chính trị ra nghị quyết “về vấn đề quân đội làm kinh tế”, xác định: “Cách mạng nước ta đă chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn làm cách mạng xă hội chủ nghĩa”. Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến” từ lúc ấy cũng bắt đầu được thay bằng khẩu hiệu: “Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xă hội”. Hà Nội gần như không có phản ứng chính thức ngay cả khi Pol Pot đă cho đánh tới quy mô cấp sư đoàn268. Áp lực từ các đơn vị quân đội và các địa phương tăng dần lên. Ông Nguyễn Thành Thơ kể: Cuối năm 1977, trong một lần đưa Tổng Bí thư Lê Duẩn thăm Cần Giờ bằng tàu quân sự, đến Văn pḥng Huyện ủy đă khoảng 12 giờ, anh Ba nói, “Mệt quá cho tôi nghỉ một lát”. Anh nghỉ một lúc rồi nói: “Các anh có ǵ hỏi, tôi giải đáp”. Anh em chúng tôi có khoảng ba mươi người, phấn khởi rộ lên: “Xin hỏi K nó quấy rối biên giới ta, tàn sát cướp phá rất dă man, sao ta đối phó rất lôi thôi, chúng tôi khó hiểu”. Anh Lê Duẩn trả lời: “Các đồng chí hỏi đúng vào một t́nh h́nh cả nước đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu lắm, ngủ không được. Không phải là vấn đề Khmer Đỏ, vấn đề Pol Pot mà là vấn đề ai ở đằng sau Khmer Đỏ, đằng sau Pol Pot. Ta đă đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung Quốc đánh ta thôi. Nếu ta không chiếm K, Trung Quốc cũng không chiếm ta”.



    Cuối năm 1977, khi đánh sâu vào đất Campuchia, theo ông Trần Phương, quân đội Việt Nam phát hiện nhiều tài liệu cho thấy Trung Quốc đứng sau lưng Pol Pot. Tháng 1-1979, khi tiến vào Phnom Penh, Quân đội Việt Nam c̣n thu được văn bản hiệp định viện trợ quân sự không hoàn lại mà Tướng Wang Shangrong, phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, kư với Son Sen tại Phnom Penh ngày 10-2-1976. Trong các năm 1977, 1978, Trung Quốc cung cấp cho Khmer Đỏ pháo binh, pháo pḥng không, thuyền tuần tiễu… Đặc biệt, 500 chuyên gia quân sự Trung Quốc đă được gửi sang để huấn luyện Khmer Đỏ sử dụng những vũ khí, khí tài quân sự ấy. Cố vấn Trung Quốc thậm chí c̣n gặp cả người của lực lượng Fulro đang hoạt động chống Chính quyền Việt Nam ở vùng Tây Nguyên269. Làn sóng người Khmer tị nạn, nhất là những người tị nạn qua ngả Thái Lan, đă giúp thế giới biết được phần nào nội t́nh Campuchia. Trung Quốc sẽ không dám bất chấp dư luận quốc tế để ủng hộ một chế độ diệt chủng, nhất là ủng hộ những hành vi chiến tranh, nếu Việt Nam không để cơ hội b́nh thường hóa quan hệ với Mỹ rơi vào tay Trung Quốc. Sau ngày “chiến thắng đế quốc Mỹ”, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Cuba nhiều lần thiết tha mời anh Ba Lê Duẩn sang thăm. Fidel cứ giục măi, nhiều đồng chí nhắc, anh Ba mắng: ‘Các chú muốn dân đói à?’. Rồi, anh Ba nói với Bộ Ngoại Giao: ‘Đúng là Fidel sang ta mấy lần, nhưng ta mới thắng Mỹ, sang Cuba không tuyên bố chống Mỹ th́ Cuba không chịu, tuyên bố chống Mỹ th́, các chú thấy, sang cạnh nhà nó chửi nó, nó cấm vận ḿnh suốt đời th́ ḿnh chết. V́ lợi ích quốc gia, tôi chưa thể đi được’. Rồi anh Ba cử Lê Đức Thọ đi, anh dặn: ‘Nên nói với đồng chí Fidel, tôi rất muốn sang, nhưng sức khoẻ có vấn đề, bác sĩ không cho đi máy bay xa, đồng chí Fidel thông cảm”.



    Theo ông Đậu Ngọc Xuân, lúc ấy, nhiều người đă bất ngờ trước tư duy mềm dẻo này của ông Lê Duẩn. Cũng thời điểm ấy, theo ông Xuân: “Khi Bộ Chính trị bàn về vấn đề ‘ta có thừa kế cổ phần IMF mà chính quyền Sài G̣n cũ có tham gia không?’, có người nói: ‘Ta mà kế thừa Nguỵ à?’, có người lưu ư: ‘IMF là tư bản đấy!’, anh Ba quát: tại sao không!”. Đặng Tiểu B́nh đă đánh trúng mối lo của Lê Duẩn khi về sau sẽ ví Việt Nam là Cuba ở phương Đông trong bối cảnh Việt Nam đang có những nỗ lực bất thành nối lại bang giao với Mỹ. Ông Trần Quang Cơ, năm ấy là vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ, kể, chỉ hơn một tháng sau khi làm chủ Sài G̣n, Việt Nam có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp miệng270. Tiếp đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trước Quốc hội: “Việt Nam mời gọi Hoa Kỳ b́nh thường hóa và yêu cầu chính quyền Mỹ chi tiền tái thiết như đă hứa”. Các đại diện của hai ngân hàng Mỹ, Bank of America và First National City Bank, được mời họp về khả năng có thể giao thương, và các công ty Mỹ được thông báo rằng họ có thể kư kết t́m dầu ở thềm lục địa Việt Nam. Đáp lại những tín hiệu này, ngày 7-5-1976, Tổng thống Gerald R. Ford đề nghị Quốc hội Mỹ tạm ngưng cấm vận Việt Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện cho việc đối thoại giữa hai nước. Ngày 8-5-1976, Ngoại trưởng Kissinger gửi công hàm cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận vấn đề “b́nh thường hóa”. Ngày 6-1-1977, Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra lộ tŕnh ba bước b́nh thường hóa quan hệ với Việt Nam và trước mắt có thể đặt quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. Tuy vậy, Tổng thống Mỹ Geral R. Ford có vẻ như vẫn chưa sẵn sàng khi đưa ra điều kiện để nối lại bang giao: Việt Nam phải làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ mất tích (MIA), trong đó có việc trao trả hài cốt Mỹ. Phía Việt Nam cũng đ̣i bằng được Mỹ phải bồi thường chiến tranh, trong khi Mỹ cho rằng Việt Nam đă vi phạm Hiệp định Paris nên không thể bàn đến khoản tiền thỏa thuận trước khi kư Hiệp định Paris được. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, sau những diễn tiến này, ông Lê Duẩn nói: “B́nh thường hóa là thua trận lần thứ hai, họ không chịu đâu”.



    Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đă giảm điều kiện “làm đầy đủ hồ sơ lính Mỹ mất tích” xuống c̣n “làm đầy đủ trong khả năng có thể”. Tháng 3-1977, Carter gửi một phái đoàn sang Hà nội để bàn về việc nối lại bang giao. Ngày 17-3-1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đă tiếp Đặc phái viên của Tổng thống Mỹ Leonard Woodcock. Cùng ngày, Woodcock đến chào Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Những nỗ lực b́nh thường hoá dưới thời Carter là có thật. Chỉ ba mươi phút sau khi tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống Jimmy Carter rời lễ đài đi vào bên trong ṭa nhà Quốc hội, và trước khi sang Nhà Trắng, ông kư lệnh ân xá cho những người Mỹ đă từng chạy sang Canada trốn lính nhằm tránh cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông Carter thừa nhận đó là “một quyết định khó khăn” và ông đă phải nhận những lời chỉ trích. Nhưng Tổng thống Carter nói: “Tôi nghĩ đó là một bước cần thiết để khởi đầu việc hàn gắn và đưa chúng ta ra khỏi nỗi ám ảnh Việt Nam để đi tới một kỷ nguyên mới tốt đẹp hơn”271. Ngày 4-5-1977, chính quyền của ông Carter đồng ư để Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Sau chuyến đi của ông Leonard Woodcock, Mỹ chủ trương b́nh thường hóa vô điều kiện. Ngày 3-5-1977, phiên đàm phán đầu tiên giữa hai phái đoàn Việt-Mỹ đă diễn ra tại Đại sứ quán Việt Nam ở Paris. Ông Trần Quang Cơ272, người tham gia cuộc đoàn đàm phán này, nhớ lại: “Một trong những điều ngáng trở tiến tŕnh đàm phán là do chúng ta cứ khăng khăng đ̣i Mỹ phải chi 3,2 tỷ đô-la bồi thường chiến tranh”. Số tiền viện trợ 3,2 tỷ đô-la được coi như là một “thành công kép” mà Cố vấn Lê Đức Thọ mang về từ những cuộc hội đàm ở Paris273. Khoản tiền này đă từng được những nhà hoạch định kế hoạch kinh tế hậu chiến của Việt Nam tính toán như một nguồn quan trọng để thực thi kế hoạch.



    Trước khi đoàn lên đường sang Paris đàm phán b́nh thường quan hệ Việt-Mỹ, theo ông Trần Quang Cơ, ông Lê Đức Thọ, theo cung cách xin viện trợ của Liên Xô, đă cung cấp cho đoàn cả một danh sách dài bao nhiêu máy cày, bao nhiêu máy kéo để đ̣i Washington phải trả. Ông Trần Quang Cơ nhớ lại: “Holbrook nói thẳng với ông Phan Hiền: thôi th́ cứ đặt ‘pḥng quyền lợi’ đi, cứ b́nh thường hóa cái đă rồi khoản tiền 3,2 tỷ chúng tôi sẽ t́m cách viện trợ sau. Trưởng đoàn lúc ấy là ông Phan Hiền lập tức bay về Hà Nội báo với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng không được”. Khi Biên giới Tây Nam gần như được đặt trong t́nh huống chiến tranh và Trung Quốc đă được Ban Chấp hành Trung ương coi là “kẻ thù”, Việt Nam bắt đầu nhận thấy vai tṛ của việc quan hệ b́nh thường với một siêu cường như Mỹ.



    Đầu năm 1978, ở Tokyo (Nhật), Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phan Hiền tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng b́nh thường hóa vô điều kiện với Mỹ”. Lúc này, Jimmy Carter gần như đă nghiêng về chủ trương “chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô” theo đề nghị của Cố vấn An ninh Quốc gia Z. Brzezinski. Tổng thống Jimy Carter thừa nhận: “Yêu cầu lúc đầu của phía Việt Nam là chúng ta phải bồi thường chiến tranh theo một số cách thức. Nhưng cuối cùng, tôi nhớ là năm 1978, họ rút lại đ̣i hỏi này. Điều phức tạp là cũng năm đó, tôi phải dồn tâm trí và đích thân đàm phán b́nh thường hoá với Trung Quốc. Những cuộc hội đàm giữa Israel và Ai Cập lúc ấy cũng đang diễn ra tại trại David. Tôi phải nói rằng, năm 1978, vấn đề Việt Nam không c̣n là ưu tiên hàng đầu của tôi nữa”274.



    Cùng thời gian này, FBI tung ra vụ “gián điệp” liên quan đến đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, ông Đinh Bá Thi. Ronald Humphrey, nhân viên của Cơ quan thông tin Hoa Kỳ, cùng David Truong, người của Hội Việt-Mỹ, bị bắt v́ lấy cắp mấy bức điện tín được coi là không quan trọng lắm của Mỹ. Đại sứ Đinh Bá Thi bị trục xuất. 19-5-1978, một ngày trước khi Brzezinski tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu B́nh tuyên bố: Trung Quốc là NATO phương Đông; đồng thời Đặng ví Việt Nam với Cuba, một “tiền đồn của Liên Xô” ở bên cạnh Mỹ. Ngày 23-8-78, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Cyrus Vance đi thăm Bắc Kinh. Ngày 21-8-78, bảy hạ nghị sĩ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng ḥa do Hạ nghị sĩ Dân chủ G.V.Montgomery, chủ tịch Ủy ban POW/MIA, dẫn đầu vẫn đến Hà Nội. Việt Nam đă cố bày tỏ thiện chí bằng cách trao trả cho Mỹ một số bộ hài cốt và cử ông Trần Quang Cơ đích thân dẫn đoàn vào miền Nam, thăm thánh thất Cao Đài và một trại người Campuchia tị nạn chiến tranh ở biên giới Tây Ninh. Đoàn của Hạ nghị sỹ Montgomery là đoàn người Mỹ đầu tiên được phép thăm Sài G̣n kể từ sau 30-4-1975. Nhưng, theo ông Trần Quang Cơ, quyết định chấp nhận công thức do phía Mỹ đưa ra “b́nh thường hóa vô điều kiện” vào lúc ấy đă là quá muộn.



    Cuối tháng 9-1978, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tới Mỹ sau một thời gian ông nằm ở Đà Nẵng dự thảo Hiệp định Hợp tác Toàn diện với Liên Xô. Cuộc đàm phán giữa ông Thạch và Holbrooke diễn ra lạnh nhạt. Theo ông Trần Quang Cơ, người có mặt trong cuộc đàm phán này, Holbrooke nói: “Mỹ coi trọng châu Á, Mỹ cần b́nh thường hóa quan hệ giữa hai nước nhưng lo ngại Liên Xô đặt căn cứ ở Cam Ranh”. Lúc đó, theo dự đoán của người Mỹ, có khoảng từ 3.500-4000 cố vấn Liên Xô đang có mặt ở Việt Nam275. Những ngày sau khi kết thúc chiến tranh, Lê Duẩn đă khá thận trọng trong mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, nhưng độc lập luôn bị thách thức trong mối quan hệ với những người “anh em cộng sản”. Cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều đặt Việt Nam vào thế phải đứng hẳn về một bên. Ngày 31-8-1975, trên đường đi dự Quốc khánh Việt Nam, Tướng Trần Tích Liên, ủy viên Bộ Chính trị, tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, đă không đi thẳng tới Hà Nội mà dừng chân tại Khu Gang Thép Thái Nguyên. Tại Nhà máy đang được xây dựng bởi Trung Quốc này, Tướng Liên đọc một diễn văn kêu gọi “chống bá quyền” mà ai cũng biết là chống Liên Xô. Hà Nội đă khá mềm dẻo khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng vẫn “ôm hôn thắm thiết” Trần Tích Liên, nhưng các báo xuất bản tại Việt Nam không nói ǵ tới bài diễn văn “chống bá quyền” của Trung Quốc.



    Cuối tháng 9-1975, khi Lê Duẩn tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu B́nh, người mới được phục chức phó thủ tướng sau khi bị “bè lũ bốn tên” đưa ra khỏi Trung Nam Hải, nêu vấn đề “chống bá quyền” và ngầm khuyên nhủ Việt Nam liên kết với Bắc Kinh chống lại Moscow. Khi đáp từ, Lê Duẩn đă tránh đề cập tới “bá quyền” đồng thời “cám ơn sự giúp đỡ của các nước xă hội chủ nghĩa anh em” tất nhiên là bao gồm Liên Xô. Sự né tránh đứng hẳn về phía Trung Hoa và vấn đề Hoàng Sa đă khiến cho chuyến đi của Lê Duẩn hoàn toàn thất bại: Trung Quốc từ chối viện trợ; Lê Duẩn từ chối thảo luận thông cáo chung; tiệc liên hoan bị hủy bỏ. Trung Quốc càng ngờ vực Việt Nam hơn khi một tháng sau đó, trong chuyến đi tới Moscow, Lê Duẩn có một “Thông cáo chung”, theo đó, Việt Nam nhất trí với Liên Xô trong đường lối đối ngoại. Đây là một thay đổi lớn.



    Tháng 3-1976, khi tham dự Đại hội XXV của Đảng Cộng sản Liên Xô, Lê Duẩn nhấn mạnh: Mỗi đảng cộng sản có thể theo đuổi một đường lối riêng, phù hợp với điều kiện của mỗi nước276. Liên Xô đă từng bất ngờ khi Việt Nam từ chối gia nhập khối Comecon277 trong khi xin gia nhập IMF. Tháng 12-1976, khi đến Hà Nội dự Đại hội Đảng lần thứ IV, Suslov được mô tả là đă giận dữ khi lần thứ hai thất bại trong việc thuyết phục Việt Nam vào Comecon278. Nhưng để “tiến nhanh lên xă hội chủ nghĩa”, Việt Nam lại rất cần tiền bạc. Trong khi đó, Trung Quốc cắt viện trợ, Liên Xô từ chối giúp đỡ, hy vọng vào 3,2 tỷ đô la “bồi thường chiến tranh” của Washington tiêu tan. Phạm Văn Đồng bị các nước lớn như Anh, Đức cự tuyệt và người Pháp th́ lạnh nhạt.



    Ở trong nước, từ năm 1977, chính sách “sản xuất lớn” áp dụng vội vàng lại gây ra đói kém, mất mùa. Ngày 2-6-1977, trên đường từ Đông Âu trở về, Đại tướng Vơ Nguyên Giáp ghé qua Bắc Kinh, nhưng người đối đẳng với ông là Bộ trưởng Quốc pḥng Diệp Kiếm Anh đă không ra sân bay đón. Tướng Giáp gần như đă bị làm nhục trong suốt chuyến đi này279. Một tuần sau, khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng dừng chân ở Bắc Kinh, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lư Tiên Niệm chính thức cáo buộc Hà Nội “lật lọng đối với Công hàm 1958”. Sau những sự cố ngoại giao đó, Việt Nam càng cảnh giác cao với Bắc Kinh.



    Ngày 2-5-1978, Ủy ban Thường Vụ Quốc hội ra Quyết định đổi một đồng tiền dùng chung cho hai miền. Theo đó, một đồng ngân hàng miền Bắc được đổi bằng một đồng tiền mới; 0,80 đồng tiền miền Nam “ăn” được một đồng. Không có biến động đáng kể v́ lần đổi tiền này không nhằm “cải tạo tư sản” dù được đưa ra ngay sau “cải tạo tư sản”. Lư do công khai là “để thống nhất tiền tệ trong cả nước”. Nhưng, theo ông Nguyễn Nhật Hồng, đồng tiền Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam phát hành tại miền Nam từ ngày 22-9-1975 là tiền thuộc lô “Hàng 65” được Trung Quốc giúp in. Tuy nhiên, sau khi in, bản kẽm bị “bạn” giữ lại, Việt Nam xin lại mấy lần không được. Năm 1978, nhằm tránh Trung Quốc sử dụng bản kẽm mà họ đang giữ để in tiền tung ra phá hoại, Chính quyền cho đổi “Hàng 65” bằng một loại tiền mới được in từ Tiệp Khắc.



    Sự căng thẳng giữa Trung Quốc-Việt Nam càng thêm kịch tính sau cái chết của nữ nghệ sỹ Thanh Nga. Đêm 26-11-1978, vào lúc 23 giờ 30, xe của nghệ sỹ Thanh Nga rời rạp hát về đến trước nhà riêng ở số 114 Ngô Tùng Châu, Quận 1, th́ bị một kẻ lạ mặt dùng súng khống chế người bảo vệ và chồng của nghệ sỹ Thanh Nga, luật sư Phạm Duy Lân. Cùng lúc, kẻ lạ mặt thứ hai dựng xe honda, nhảy vào bắt con của Nghệ sỹ Thanh Nga là bé Cúc Cu đang ngồi ghế sau với mẹ. Nghệ sỹ Thanh Nga chống trả quyết liệt, Luật sư Lân từ ghế lái xe quay lại hỗ trợ vợ, lập tức bị kẻ lạ mặt nổ súng bắn chết. Thanh Nga hét lên và đến lượt chị cũng bị bắn. Hai kẻ lạ mặt tẩu thoát. Cái chết của vợ chồng nghệ sỹ Thanh Nga làm rúng động cả nước v́ khi bị bắn, chị chưa kịp thay bộ đồ “Thái hậu Dương Vân Nga”, một vai diễn hừng hực lửa chống “kẻ thù phương Bắc”. Trước đó, Thanh Nga cũng đă nhận được một số thư từ đe dọa khi chị diễn vai Trưng Trắc trong Tiếng Trống Mê Linh và đă từng bị ném lựu đạn khi đang diễn trên sân khấu Lux. Vụ án Thanh Nga v́ thế lúc đầu được coi như là một chuyên án chính trị. Quan tài hai vợ chồng quàn tại 81 Trần Quốc Thảo thu hút hàng vạn người Sài G̣n280.



    Sự cự tuyệt của Trung Quốc và Mỹ cuối cùng đă đặt Việt Nam vào thế “nhất biên đảo”. Từ tháng 7-1977, các phái đoàn quân sự của Liên Xô bắt đầu đến các căn cứ quân sự cũ của Mỹ ở miền Nam. Tháng 10-1977, chuyến thăm Việt Nam của phái đoàn quân sự Liên Xô được công khai trên các phương tiện truyền thông. Cùng lúc, Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho Pol Pot. Giữa tháng 10-1978, ở New York, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các nhà đàm phán Hoa Kỳ kư thỏa thuận b́nh thường hóa. Có lẽ ông Thạch cũng muốn có một nỗ lực cuối cùng. Nhưng Hoa Kỳ đă từ chối v́ ba “trở ngại” mới: sự thù địch của Việt Nam với Campuchia, mối quan hệ với Liên Xô, và t́nh trạng gia tăng thuyền nhân Việt Nam. Sau một tháng trời chờ đợi, Nguyễn Cơ Thạch phải rời New York tay không, ông chuyển tiếp ở Paris, rồi từ đó qua thẳng Moscow. Trước đó, sáng 30-10-1978, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng đă rời Hà Nội trên một chiếc Ilyyushin-62 bay tới Liên Xô. Ngày 3-11-1978, Hiệp ước Hợp tác Toàn diện với Liên Xô trong ṿng hai mươi lăm năm, bao gồm điều khoản cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh như một căn cứ quân sự, đă được kư kết. Hiệp ước đă như một “món quà” đối với Đặng Tiểu B́nh. Hai ngày sau, ông ta đến Thái Lan, bắt đầu chuyến công du ASEAN, thuyết phục các quốc gia ở đây coi Việt Nam và Liên Xô, thay v́ Trung Quốc, là mối đe dọa chính. Trong khi đó, vững tin vào mối quan hệ với “siêu cường”, Việt Nam bắt đầu xử lư mối bận tâm ở phía Tây Nam đất nước.



    “Áo lính lại khoác vào ngay”281



    Từ tháng 6 đến tháng 12-1978, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức bốn hội nghị Bộ Chính trị, Quân ủy và Ban Chấp hành Trung ương để bàn về vấn đề Campuchia. Tính từ tháng 12-1977 đến ngày 14-6-1978, có 6.902 bộ đội Việt Nam bị hy sinh, 23.742 bị thương; ngoài ra, có 4.100 thường dân bị thương và bị giết. Trung ương xác định phải giải quyết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam càng nhanh càng tốt.



    Ngày 13-12-1978, 10/19 sư đoàn của Pol Pot tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đă đánh vào Bến Sỏi ḥng chiếm Tây Ninh. Hai sư đoàn đánh vào Hồng Ngự, Đồng Tháp. Hai sư đoàn đánh vào Bảy Núi, An Giang. Hai sư đoàn đánh vào Hà Tiên. Một sư đoàn đánh vào Trà Phô, Trà Tiến, Kiên Giang. Ngày 23-12-1978, Lực lượng quân Việt Nam với ṇng cốt là ba quân đoàn chủ lực cùng với lực lượng của các Quân khu V, VII, IX, dưới sự chỉ huy của Tướng Lê Trọng Tấn, bắt đầu tấn công trên toàn mặt trận, đẩy Khmer Đỏ lùi dần về phía Tây. Khmer Đỏ không bất ngờ trước những phản ứng này. Nhưng thay v́ tập hợp lực lượng để đối phó với Việt Nam, Pol Pot đă tranh thủ thanh lọc quân đội, đảng và cả nhân dân, để có những “người Khmer thuần khiết” nhằm “bảo vệ đất đai và ṇi giống”282. Những cuộc thanh trừng của Pol Pot đă đẩy hàng loạt sỹ quan của Khu Đông phải chạy vào rừng như Ouk Bun Xươn, Heng Somrin, Chea Sim, Hun Sen. Những người này về sau đă tới Việt Nam. Trong thời gian đó, ông Lê Đức Thọ bay vào Nam để chuẩn bị cho một giải pháp chính trị. Một nhóm lănh đạo gồm bảy người do Lê Đức Thọ lựa chọn từ số những người Khmer tập kết c̣n sót lại và số vừa chạy sang từ Khu 203. Lê Đức Thọ cũng dựng lên một “Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết Cứu nước” gồm mười bốn người rồi đưa về Campuchia tổ chức lễ ra mắt tại Mimot vào ngày 2-12-1978. Một lực lượng đặc công cũng được giao nhiệm vụ đột nhập Hoàng cung để t́m Hoàng thân Sihanouk nhưng thất bại. Lá bài Sihanouk lần nào cũng được Trung Quốc khai thác hữu hiệu hơn Việt Nam. Ngày 5-1-1979, Pol Pot đă nghe lời khuyên của Bắc Kinh, đề nghị Sihanouk đến Liên Hiệp Quốc lên án “hành động xâm lược của Việt Nam”. Ngày 6-1-1979, ông Hoàng đă lên chiếc Boeing 707 của Bắc Kinh bay sang BangKok. Ngày 7-1-1979, Quân đội Việt Nam vượt phà Neak Lương tới Phnom Penh nhanh tới mức lực lượng Khmer Đỏ chỉ kịp rời thành phố trước khi đại quân tới khoảng một giờ. Ngày 11-1-1979, Yeng Sary mới chạy đến biên giới Thái Lan và được quân đội Thái đưa về BangKok để đi tiếp tới Bắc Kinh. Ngày 13-1-1979, Yeng Sary bị Đặng Tiểu B́nh trách mắng. Trong khi đó, ở Liên Hiệp Quốc, Sihanouk đọc diễn văn lên án “hành động xâm lăng của Việt Nam” đồng thời tố cáo chế độ bạo tàn của Pol Pot. Theo đề nghị của Sihanouk, Liên Hiệp Quốc đă đưa ra thảo luận nghị quyết buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Tuy nhiên, nghị quyết này đă bị Liên Xô dùng quyền lực Thường trực Hội đồng Bảo an phủ quyết. Từ phiên họp của Liên Hiệp Quốc, Sihanouk bí mật t́m gặp Đại sứ Mỹ Andrew Young, nhưng nước Mỹ đă đẩy Sihanouk trở lại tay của Đặng Tiểu B́nh khi từ chối yêu cầu của ông xin tị nạn.



    Chỉ hai ngày sau khi Việt Nam đưa quân vào Phnom Penh, 9-1-1979, Ngoại trưởng Mỹ Cyrus Vance tuyên bố với ông Trần Quang Cơ: “Các cuộc nói chuyện Mỹ- Việt về b́nh thường hóa đă tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam”283. Ngày 15-12-78, Mỹ và Trung Quốc ra thông cáo chung, chính thức công nhận nhau và tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 1-1-79. Ngày 29-1-1979, Jimmy Carter đón Đặng Tiểu B́nh tại Washington bằng hai mươi phát đại bác. Đặng Tiểu B́nh biết ảnh hưởng quốc tế của cuộc chiến tranh xâm lược Việt nam nên đă thông báo với Tổng thống Carter mức độ “giới hạn” của cuộc tấn công. Tuy khuyên Đặng “không nên có hành động xâm lược”, nhưng trong cuộc họp riêng giữa hai người, Carter không cho Đặng thấy là cuộc tấn công sẽ ảnh hưởng đến bang giao của hai nước. Vào lúc 5 giờ 25 sáng ngày 17-2-1979, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ cực Tây Bắc (Phong Thổ, Lai Châu) đến cực Đông Bắc (địa đầu Móng Cái). Tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn đă dựng người dân dậy khi mờ sáng. Vào thời điểm ấy, Trung Quốc tập trung sát biên giới khoảng 450 ngh́n quân284 và sử dụng 200 ngh́n quân trong ngày đầu xâm lược285. Việt Nam bị bất ngờ hoàn toàn286. Các lực lượng tự vệ ở khu vực Hữu Nghị Quan hầu hết bị quân Trung Quốc giết chết ngay từ những phút đầu tiên. Phụ nữ, trẻ em chỉ kịp chạy về phía sau hốt hoảng. Ở hướng Trà Lĩnh, Cao Bằng, hàng trăm người dân đă phải chạy vào hang núi tránh pháo và sáng ra, họ nh́n thấy quân Trung Quốc í ới gọi nhau ngay sát dưới chân.



    Tháng 2-1979, ở biên giới, Trung Quốc có tới sáu mươi sư đoàn tinh nhuệ, trong khi ở phía Bắc, theo Tướng Lê Phi Long, cục phó Cục Tác chiến, lực lượng vũ trang Việt Nam tổng cộng chỉ c̣n khoảng mười một sư đoàn. Đội quân chủ yếu làm kinh tế ấy đă phải phản công trong điều kiện hết sức bất ngờ. Chỉ huy các đơn vị đóng tại Lạng Sơn, ngày 15-2-1979, c̣n được triệu tập để nghe nhận định: “Địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn vào ngày 22-2”287. Ở Cao Bằng, sáng 16-2, tất cả các đồn trưởng biên pḥng đều được triệu tập về thị xă Cao Bằng nhận lệnh. Sáng hôm sau, khi họ cố t́m về đơn vị th́ Trung Quốc đă tràn sang. Sáng 17-2, Đại đội 22 của thị xă Cao Bằng mới được trang bị thêm mười bảy khẩu súng chống tăng B41. Nhiều nơi, chỉ khi nh́n thấy chữ “Bát Nhất” trên xe tăng Trung Quốc, người dân mới hay đất nước lại chiến tranh. Chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc đă sử dụng tới sáu sư đoàn, ở Lạng Sơn ba sư đoàn và Lào Cai ba sư đoàn. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng một sư đoàn và bốn mươi tăng; Lạng Sơn, một sư đoàn và bốn mươi tăng; Lào Cai, hai trung đoàn và bốn mươi tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát biên giới vào ngày 17-2 lên tới chín quân đoàn chủ lực288. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát Xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xă Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xă. Tại Lào Cai, khu mỏ Apatit bị đập nát từ các nhà máy cho đến các thiết bị, máy móc; hai nhà ga gần nhất là Gốc Đa và Làng Pèng bị phá tan hoang; chiếc cầu nối đường sắt qua con suối chảy ra từ làng Cóc cũng bị lính Trung Quốc đánh sập. Sapa chỉ c̣n là một đống gạch vụn. Đồng Đăng, Lạng Sơn cũng bị tàn phá. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc lần lượt đập nát từng ngôi nhà, từng công tŕnh và trước khi rút lui đă ốp ḿn cho nổ tung từng cột điện. Ở Bát Xát, Lào Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hăm hiếp, bị giết một cách dă man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Tại thôn Tổng Chúp, xă Hưng Đạo, huyện Ḥa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút quân, lính Trung Quốc đă giết bốn mươi ba người, gồm hai mươi mốt phụ nữ, hai mươi trẻ em, trong đó có bảy phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pot. Mười người bị ném xuống giếng, hơn ba mươi người khác, bị chặt ra nhiều khúc, thây vứt hai bên bờ suối.



    Bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị biên giới đă nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Con đường tiến vào thị xă Cao Bằng đă được quân Trung Quốc gọi là những “khe núi đẫm máu”289. Đặc biệt, Tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Śn, cũng đă khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Măi tới ba tuần sau quân Trung Quốc mới chiếm được thị xă Lạng Sơn, trong khi đây là nơi mà Đặng muốn chiếm được ngay trong tuần đầu tiên ḥng gửi một thông điệp đe dọa tới Hà Nội. Khoảng 25.000 lính Trung Quốc bị chết, 37.000 quân khác bị thương. Tổn phí chiến tranh hết khoảng 5.5 tỷ Nhân dân tệ trên tổng chi tiêu ngân sách năm 1979 của Trung Quốc là 22,3 tỷ.



    Cuộc chiến mà Đặng Tiểu B́nh nói là để “dạy cho Việt Nam một bài học”, theo các nhà phân tích quân sự phương Tây, “chính Việt Nam mới là người đă dạy cho Trung Quốc bài học” 290. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ măi h́nh ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân Việt Nam cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đ̣n vu hồi, quân đội Trung Quốc đă bộc lộ là một đội quân đă quá lâu không ở trong t́nh trạng sẵn sàng tác chiến. Ngày 2-3-1979, như để giải thích cho việc “án binh bất động” khi đồng minh của ḿnh bị tấn công, tại Moscow, Tổng Bí thư Brezenev tuyên bố: “Đừng ai nghi ngờ việc Liên Xô trung thành với Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác gắn bó Liên Xô với Việt Nam”. Cùng ngày 2-3-1979, hăng thông tấn xă Tass của Liên Xô phát đi một tuyên bố: “Quân đội Trung Quốc phải rút ngay khỏi lănh thổ Việt Nam… Những tên xâm lược Trung Quốc cần biết rằng chúng càng gây nhiều tội ác bao nhiêu, th́ sẽ càng bị trừng phạt nghiêm khắc bấy nhiêu” 291.



    Ngày 4-3-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời kêu gọi “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một ḷng, anh dũng tiến lên”. Lời kêu gọi cho rằng, “ngày nay, chúng ta có sức mạnh vĩ đại hơn bao giờ hết, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và của ba ḍng thác cách mạng của thời đại”. Ngày 5-3-1979, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 83-CP, “quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân” nhằm “đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của bọn phản động theo chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc”. Cùng ngày, Chủ tịch nước ra lệnh “Tổng động viên”. Trên báo Nhân Dân, Hoàng Tùng xă luận: “Cả nước đánh giặc, toàn dân là lính”. Cùng thời điểm đó, hai quân đoàn tinh nhuệ nhất của Việt Nam, sau khi đuổi Pol Pot khỏi Phnom Penh, được vận chuyển bằng máy bay ra phía Bắc: Quân đoàn II lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Ŕ, Bắc Kạn. Ngày 6-3-1979, Trung Quốc tuyên bố “chiến thắng” rồi bắt đầu rút quân.

  6. #16
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương VI: Vượt biên



    http://bodoilambao.wordpress.com/201...-vi-vuot-bien/



    Điều ǵ đă khiến cho hàng triệu người VN phải bỏ nước ra đi. Bi kịch của người dân và thái độ chính quyền trước cuộc tị nạn lớn nhất của người Việt Nam trong lịch sử (“Vượt biên”/ Từ “trí thức yêu nước”/ Đến “thường dân”/ Trước khi tới biển/ Trại tị nạn).

    *

    *

    Ngày 7-8-1987, khi Trần Minh Triết292 lên thuyền, anh kể: “Tôi thấy chuyến vượt biên c̣n có hai thầy giáo và hai người bạn học cùng lớp của ḿnh”. Những năm ấy, người dân miền Nam nói: “Nếu cây cột đèn mà biết đi chắc nó cũng đă bứng đất mà đi mất”. Nếu như những ǵ xảy ra trong các trại cải tạo có thể được giữ kín, th́ vượt biên lại là vấn đề gây chú ư ngay sau khi có các thuyền nhân tới được vùng biển quốc tế. Những chiếc thuyền đánh cá nhỏ nhoi chở hàng trăm người đối chọi với sóng dữ, với cướp biển, với sự thờ ơ của các quốc gia lân bang đă gây rúng động dư luận.



    “Vượt biên”



    Vụ vượt biên đầu tiên bị bắt và bị đưa ra công khai do “đám chủ công ty vàng lá Kim Thành” tổ chức. Nhưng, do tính đơn lẻ của nó, chính quyền và dư luận chưa đánh giá vượt biên thực sự là một vấn đề. Báo chí Sài G̣n, kể cả tờ báo của của nhóm các dân biểu đối lập trước 30-4-1975 như Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, cũng coi những người vượt biên này như tội phạm.



    Vụ việc được nhật báo Tin Sáng viết: “Lực lượng vơ trang giải phóng quận Nhà Bè vừa tóm được trọn ổ bọn người định vượt biên trốn ra nước ngoài đem theo một số lượng lớn vàng và kim cương vào ngày 22-8 vừa qua. Được biết kẻ chủ mưu là đám chủ công ty vàng lá Kim Thành. Đám này đă đứng ra tổ chức cho một số tài phiệt Hoa kiều và một số sĩ quan chế độ cũ trốn ra nước ngoài. Hiện nay cả bọn đang bị câu lưu và chờ ngày ra ṭa xét xử”293. Báo Sài G̣n Giải Phóng c̣n cho biết thêm: “Phần lớn số này là những sĩ quan ngụy ác ôn, trốn tránh học tập cải tạo”294.



    Tờ Tin Sáng viết tiếp: “Sau khi cả bọn bị bắt, Ủy ban Quân quản đă đến tiếp thu căn nhà lầu hai tầng tại số 39 Phan Châu Trinh vào lúc 4 giờ 15 phút ngày 26-8. Đây là tiệm vàng Kim Đô, bán các loại nữ trang bằng vàng ở phía ngoài, nhưng phía trong là cả một cơ sở đúc vàng”.
    Biên bản họp Trung ương Cục do ông Hà Phú Thuận lập vào ngày 3-9-1975 cho biết chi tiết vụ vượt biên đầu tiên này: “Ta c̣n bắt giữ chín tên: La Quang, Sầm Hào Tài, Đặng Ngôn, Đào Hưng, Huỳnh Diệu Quang, Lê Văn Y và Nguyễn Văn Thôi. Hai tên sau cùng là nhân viên hàng không, nhiều lần tổ chức mua bán vàng lậu từ Hong Kong – Sài G̣n và Sài G̣n – Hong Kong thời Ngụy. Khi bắt Lê Văn Y ta lấy được 200 lượng vàng. Sơ kết, ta đă lấy được 8.437 lượng vàng 24 cara; 70 hột xoàn từ một đến năm ly; 182 triệu tiền miền Nam; 10.550 đôla, 1.700 tiền Thái Lan. Toàn bộ tiền vàng đă kiểm kê và giao cho ngân hàng”. Chính quyền quân quản đă tịch thu nhà của chủ tiệm vàng Kim Thành. Quyết định này về sau sẽ có giá trị như một án lệ.



    Biên bản ngày 3-9-1975 c̣n nhắc đến một vụ vượt biên nữa do “chủ hăng Việt Hoa, công ty Kiến Trúc tổ chức” mà chính quyền biết được qua lời khai của “cơ sở”. Những người vượt biên trong vụ này khi bị phát hiện đă “đổ vàng xuống sông và xé đô la”. Đặc biệt, theo biên bản: “Cơ sở ta cho biết, nó nói đă hối lộ cán bộ hai triệu nên nó được thả. Được về, nó tỏ ra hối tiếc với số vàng và đôla. Nó nhận xét có thể mua chuộc được cán bộ, cán bộ ta cũng ăn hối lộ nhưng ăn ít mà hở hang – thua Ngụy, ăn nhiều mà kín, những vụ hối lộ lớn hai ba năm sau mới bị lộ. Hiện nay chúng chuyển tiền ra miền Bắc về Hong Kong qua trung gian cán bộ. Chúng chủ trương có hai hy sinh: hy sinh tài sản c̣n sinh mạng th́ t́m mọi cách để trốn ra đi bằng mọi đường chủ yếu là hối lộ… Có mấy vụ liên quan đến cán bộ như sáu cán bộ Ban Thống nhất ở không đăng kư và sau đó trốn đi. Một cán bộ Thông tấn xă Trung ương tên Lương Mạnh ở đường Nguyễn An Ninh đă làm biên nhận lấy hai triệu bạc cho cơ quan Thông tấn xă”.

    Đến tháng 11-1977, cuộc họp Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu ghi nhận hiện tượng vượt biên. Nghị quyết 44/NQ-77 của cuộc họp này viết: “Trên lĩnh vực an ninh chính trị nổi lên các hiện tượng đáng chú ư như số vụ, số người bỏ Tổ quốc chạy trốn ra nước ngoài vẫn tiếp tục tăng trong đó có cả cán bộ, nhân viên đang công tác trong các cơ quan nhà nước… Đối với một bộ phận nhân dân, thậm chí cả một số ít cán bộ, đảng viên, trước khó khăn về đời sống kinh tế… đă xuất hiện tâm lư dao động, băn khoăn, hoài nghi, đặc biệt là giới trí thức và tầng lớp trung gian, thiếu tin tưởng ở tiền đồ của Cách mạng”.



    Ngày 7-5-1979, tại Hội nghị Cải tạo Công thương nghiệp Tư doanh diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh với thành phần gồm lănh đạo các tỉnh thành từ B́nh Trị Thiên tới Minh Hải, ông Vơ Văn Kiệt nói: “Tôi xin nêu vài con số về số người trốn ra nước ngoài: Từ tháng 10-1978 đến tháng 3-1979, có trên 20.000 người, không kể số người Hoa ta cho họ đi sau khi cải tạo. Trong số này có trên 1.500 cán bộ, nhân viên, cán bộ khoa học, kỹ sư, bác sỹ… Đáng chú ư, có trên ba mươi vụ cướp tàu đánh cá trốn, mười lăm vụ cướp chúng ta ngăn chặn được”295. Nhưng ngay sau đó, ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận: “Những con số trên đây c̣n thấp so với sự thật”.



    Chỉ tính riêng những người may mắn được cứu vớt đưa tới các trại tị nạn, con số đă cao hơn nhiều số được báo cáo. Năm 1975 mới chỉ có 377 người; năm 1976 đă tăng đến 5.619 người; năm 1977 tăng lên 21.276 người; năm 1978, con số cao gấp tám lần so với mức thống kê của chính quyền, 106.489 người; năm 1979, chỉ tính đến tháng 7, đă là 292.315 người296.



    Không chỉ có vượt biên bằng thuyền, một số không nhỏ khác thậm chí c̣n đến Thái Lan qua ngả Campuchia trong những năm tháng Quân đội Nhân dân Việt Nam đang đánh nhau với Khmer Đỏ. Năm 1981, khi nhà văn Phan Nhật Nam đang ở trong tù, vợ và hai con ông, một chín tuổi, một mười bốn tuổi đă theo đường bộ qua ngả Campuchia. Ông Nam nói: “Không hiểu nhờ phép màu nào mà vợ con tôi trốn thoát. Ở biên giới Campuchia – Thái Lan có đêm giày lính Pol Pot gần như đạp ngay trước mặt”.



    Tháng 11-1985, sau chín lần vượt biên bằng thuyền bất thành, và sau khi gia đ́nh được chính phủ Thụy Điển bảo lănh nhưng không được Việt Nam cho phép, chàng trai hai mươi mốt tuổi Lê Phương Đông đă đi bộ suốt bốn tháng theo ngả Campuchia. Anh bị quân đội của Son Sann297 bắt cùng bốn người Việt Nam khác. Cả bốn người bị giam giữ tại trại lính của Son Sann và bị buộc phải lao động khổ sai.



    Sau mấy tháng, Đông và ba người cùng đi được một người lính Thái Lan giúp trốn thoát. Tháng 4-1987, Đông được đưa sang Thụy Điển. Lê Phương Đông là con trai của nữ nhà văn Nhă Ca và nhà thơ Trần Dạ Từ. Cả hai đều bị bắt, và cho tới khi Đông tới Stockholm, ông Trần Dạ Từ vẫn đang ở trong tù. Từ trường hợp của vợ chồng nhà văn Nhă Ca, năm 1981, chính phủ Thụy Điển và Hội Văn bút Quốc tế bắt đầu gây áp lực lên chính quyền Hà Nội yêu cầu thả những nhà văn bị giam giữ. Năm 1984, Thụy Điển cũng đă bảo lănh cho hơn 700 người Việt Nam ra đi.



    Trước đó, ca sỹ Mỹ Joan Baez, người đă từng phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam, năm 1979 đă dẫn đầu một cuộc biểu t́nh lên tới 12.000 người, đốt nến và đi bộ đến Nhà Trắng, cho công bố một thư ngỏ “phản đối chính sách tàn bạo của Chính phủ Việt Nam”.



    Ngày 20-7-1979, Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc triệu tập một hội nghị về thuyền nhân Việt Nam tại Geneva với sáu mươi quốc gia tham dự. Tại hội nghị, Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Nguyễn Cơ Thạch, nói “thuyền nhân” chỉ là “những phần tử bất măn của chế độ cũ, những kẻ có nợ máu với nhân dân, những thành phần đĩ điếm, trốn tránh lao động”. Khi về nước, ông Nguyễn Cơ Thạch lại có thái độ khác. Ông Trần Quốc Hương (Mười Hương), bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, kể: “Tôi ra Hà Nội, Nguyễn Cơ Thạch chửi: các anh làm ăn thế nào để người ta vượt biên. Trong khi đó, anh Lê Đức Thọ lại nói, các anh phục kích bắt vượt biên là không nên. Tội ǵ làm cho mang tiếng. Không thể giữ được họ đâu, ngày xưa vợ con lính sống bằng lương Mỹ, giờ họ sống bằng cái ǵ. Tôi biết quốc tế có Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR), tôi chỉ thị cho công an, phối hợp với họ làm chương tŕnh cho họ ‘đoàn tụ’ đi. Cho đi hết. Ta không giữ cái đó làm ǵ. Đây là tội chúng nó, phải để chúng nó gánh”298. Ở thành phố, những nhà lănh đạo như ông Mười Hương biết, “thuyền nhân” không phải là “những kẻ nợ máu hay đĩ điếm”.



    Từ “trí thức yêu nước”

    Nhiều trí thức Sài G̣n cũ, không phải vô cớ, đă trở thành thuyền nhân. Con đường để họ phấn đấu trở thành “con cưng” của chế độ mới không hề bằng phẳng. Họ vừa có thể bị khinh rẻ bởi các đồng nghiệp cũ, vừa bị kỳ thị bởi các “trí thức xă hội chủ nghĩa” vừa từ miền Bắc vô, vừa bị bế tắc bởi môi trường làm việc thiếu thốn và không được chế độ mới hoàn toàn tin cậy.



    Khi t́nh h́nh kinh tế trở nên khó khăn, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh quan tâm tới các trí thức Sài G̣n cũ bằng cách trợ cấp thêm mỗi tháng mấy lít xăng, mấy chục kư gạo, một ít than củi, nhưng lại không thể giúp họ phá vỡ những bức bách để có thể làm những điều mà người trí thức mong muốn. Vậy mà theo ông Vơ Văn Kiệt: “Một số trí thức từ miền Bắc vào hoặc đi tập kết về than phiền, ‘Thành ủy nuôi mấy ông cũ, tụi này heo nuôi’. Anh em ở ngoài vô cũng đ̣i tái đánh giá để cấp bằng lại đối với những trí thức trong Nam, kể cả những người đă làm tiến sỹ ở Pháp, Mỹ”.



    Những ngày ấy, tiến sỹ học ở Liên Xô về được tính hệ số 1, tiến sỹ ở Pháp được tính hệ số 0,9, c̣n tiến sỹ ở Mỹ th́ chỉ được tính hệ số 0,8. Trong đợt đầu, một người từng lấy bằng tiến sỹ ở Mỹ, từng được phong giáo sư trước năm 1975 như ông Chu Phạm Ngọc Sơn cũng chỉ được nơi ông giảng dạy đề nghị phong phó giáo sư299. Ông Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nhà tôi, năm 1954 di cư từ Bắc vô, rất sợ, v́ đang là trưởng Pḥng Xét nghiệm của Bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Giải phóng vô nói bả là giai cấp áp bức phải giao lại chức cho người khác không có chuyên môn lên thay. Cái bàn cũng không có ngồi mà bả không dám kêu ca ǵ cả”.



    Sau ngày 30-4-1975, Chu Phạm Ngọc Sơn là một nhà chuyên môn hợp tác toàn diện với chế độ. Ông và một số nhà khoa học khác thường không câu nệ khi nhận các đơn đặt hàng thực hiện những công tŕnh “khoa học” phục vụ nhu cầu chính trị. Theo Tổng thư kư Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh Huỳnh Kim Báu: “Những năm ấy, các trí thức Sài G̣n vẫn nhận được điện thoại từ Văn pḥng Thành ủy hỏi xem: ‘Có công tŕnh khoa học chào mừng 3-2 hay 19-5 không?’. Những Giáo sư như Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Thới th́ mắng ngay: ‘Không có thứ khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả’. Nhưng một số người khác th́ có, người th́ làm ra chất tẩy rửa ‘pentonic’, người chứng minh ‘ăn mấy kư khoai ḿ bổ bằng một kư thịt ḅ’, người th́ ‘ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo’. Nhưng ngay cả những ‘nỗ lực’ đó cũng không giúp kiến tạo được ḷng tin”.



    Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nh́n vào lư lịch, thấy trước đây năm nào tôi cũng đi Mỹ nghiên cứu hoặc đi dạy, người ta cứ thắc mắc sao đi Mỹ quá trời. Tôi nộp đơn xin vô Hội Trí thức Yêu nước, mấy lần bị từ chối”. Năm 1980, trong thời gian Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn đi Liên Xô, một người con của ông vượt biên không thành. Người con gái của ông cũng cảm thấy bế tắc khi thi không đậu vào dự bị y khoa. Biết chuyện, ông Vơ Văn Kiệt thỉnh thoảng qua lại, tṛ chuyện, khi hiểu thêm nội t́nh, ông nói với Giáo sư Sơn: “Thôi, anh cứ để cho cô ấy và mấy cháu đi, đi chính thức. Bên đó có điều kiện cho các cháu học hành. Sau này nếu các cháu trở về th́ tốt, nếu không, tôi với anh cũng được làm tṛn bổn phận”.



    Ông Huỳnh Kim Báu kể: Sau giải phóng, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn vào Sài G̣n, sau khi nghe Mai Chí Thọ, Trần Trọng Tân báo cáo t́nh h́nh, ông nói: “Năy giờ có một chiến lợi phẩm rất lớn mà các đồng chí không đề cập, đó là lực lượng trí thức được đào tạo từ nhiều nguồn. Lenin nói, không có trí thức là không có xă hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Kim Báu, cách mà chính quyền sử dụng trí thức chủ yếu là “làm kiểng”.



    Giáo sư Phạm Hoàng Hộ tuy ở thời điểm đó vẫn c̣n là hiệu phó Đại học Khoa học, nhưng theo ông Báu: “Đấy chỉ là một chức vụ bù nh́n, không có vai tṛ ǵ trong giáo dục”. Giáo sư Hộ là hiệu phó nhưng không phải đảng viên, nên khi có vấn đề ǵ th́ những người trong Đảng họp riêng, quyết định xong, có việc nói với ông, có việc ông không bao giờ được biết. Từ rất sớm, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đă phản đối cách đào tạo đưa thời gian học chính trị quá nhiều vào chương tŕnh. Ông cảnh báo: “Nếu chính trị can dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ mất căn bản”.

    Giáo sư Phạm Hoàng Hộ nói lên điều này sau khi chính ông đă được trải nghiệm trong những ngày học chính trị. Năm 1977, một lớp học kéo dài mười tám tháng về “Chủ nghĩa xă hội khoa học” dành riêng cho các trí thức miền Nam đă được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Vơ Ba, người tham gia tổ chức lớp học này, kể: “Chính quyền tưởng rằng sau lớp học sẽ có được một tầng lớp trí thức của chế độ cũ yêu mến và phụng sự chủ nghĩa xă hội. Tuy nhiên, nếu như Marxism đă từng được các trí thức miền Nam quan tâm như là một môn khoa học th́ giờ đây họ lại nghe những giảng sư miền Bắc nói về Marx hết sức giáo điều. Chưa kể, những người đứng lớp c̣n rao giảng với tư thế của người chiến thắng, tự tôn, tự đắc”. Những đảng viên tham gia lớp học như ông Vơ Ba cũng thừa nhận: “Trước giới trí thức Sài G̣n, chính quyền đă thất bại ngay trong lần tŕnh diễn đầu tiên”.
    Chưa kết thúc lớp học, Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung, một giáo sư triết học nổi tiếng của Sài G̣n, một người được coi là “hằn học với Giáo hội”, đă coi cộng sản cũng là “một giáo hội”. Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung cho rằng h́nh thức “kiểm điểm” mà cộng sản áp dụng trong sinh hoạt chính là một thứ “xưng tội man rợ”. Về đường lối, ông cho rằng: “Có thể có những điều Lenin nói đă đúng vào năm 1916, nhưng sau bảy mươi năm mà ta áp dụng là không lư trí”. C̣n Giáo sư Châu Tâm Luân th́ khi nghe các giảng sư miền Bắc say sưa nói về con đường “tiến lên chủ nghĩa xă hội bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản” đă mỉa mai: “Sao không t́m hiểu xem sau chủ nghĩa cộng sản là ǵ để nhân tiện bỏ qua, ḿnh bỏ qua luôn hai, ba bước”. Giáo sư Châu Tâm Luân lấy bằng tiến sỹ về kinh tế nông nghiệp ở Đại học Illinois, Mỹ, năm hai mươi lăm tuổi, trở về dạy cùng lúc ở hai trường đại học Minh Đức và Vạn Hạnh. Ông là một trong những trí thức phản chiến hàng đầu, bị chế độ Sài G̣n bắt giam đầu năm 1975 cho tới những ngày cuối tháng 4-1975 mới được Chính quyền Dương Văn Minh thả ra. Giáo sư Châu Tâm Luân là một thành viên của nhóm “sứ giả” được ông Dương Văn Minh phái vào trại Davis300 và được giữ lại ở đây cho đến trưa ngày 30-4-1975. Sau giải phóng, chính quyền xếp ông vào diện “người của ta”. Ông là đại biểu khóa I Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.



    Về phía ḿnh, Giáo sư Châu Tâm Luân cũng là một trong những trí thức kỳ vọng nhiều vào chế độ mới. Mấy tháng “sau giải phóng”, giá cả sinh hoạt tăng vọt lên, trong khi dân t́nh lo âu th́ ông lại cho là giá tăng v́ “tâm lư”, giống như cách giải thích thời ấy của chính quyền301. Sau khi cho rằng nhà nước không thể dùng ngoại tệ để nhập hàng như trước đây, Giáo sư Châu Tâm Luân viết: “Giờ đây không c̣n bọn tay sai đem máu của con em nhân dân đổi lấy đô la nữa th́ cần phải tiết kiệm tối đa số ngoại tệ mà dân phải lao động đổ mồ hôi mới đem về được cho quốc gia… V́ vậy ngoài sự tiếp tay chánh quyền kiểm soát gian thương, chúng ta cũng cần kềm hăm bớt kẻ địch ở ngay trong ḷng ḿnh…”302.



    Khi trao cho Giáo sư Châu Tâm Luân nhiều trọng trách, Chính quyền nghĩ đơn giản ông là người “dùng” được. Nhưng, cũng như nhiều trí thức Sài G̣n, ông đă không hành xử như là một công cụ. Từ năm 1976, Giáo sư Châu Tâm Luân không được đứng lớp v́ kiến thức kinh tế của ông là “kinh tế tư bản”, tuy nhiên, ông vẫn c̣n được để ngồi trong Hội đồng Khoa học của trường. Chỉ ít lâu sau, Đảng ủy trường nhận xét ông muốn “tranh giành lănh đạo với Đảng”.



    Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi ngạc nhiên, chế độ cũ hai lần giao chức cho tôi mà tôi có màng tới đâu”. Nhưng té ra vấn đề không phải là “ghế”, mà là những ư kiến của ông ở Hội đồng Khoa học luôn luôn khác với ư kiến của chi bộ. Trong một cuộc họp, khi nghe ông Đỗ Mười thao thao nói về “hợp tác hóa”, về chủ trương phải đưa những người bần cố nông lên làm lănh đạo hợp tác và “phải đào tạo họ”, Giáo sư Luân hỏi: “Nhà nước định đào tạo trong bao lâu?”. Ông Đỗ Mười nói: “T́nh h́nh gấp rút, đào tạo ba ngày”. Giáo sư Châu Tâm Luân nhớ lại: “Tôi bắt đầu ngao ngán v́ muốn thay đổi th́ phải bắt đầu từ cái đầu mà… những ‘cái đầu’ th́ như thế”. Sau lần gặp ông Đỗ Mười, nhà kinh tế nông nghiệp Châu Tâm Luân được đưa về Viện Khoa học Xă hội.



    Không chỉ có những đụng độ tại cơ quan. Ở Hội đồng Nhân dân, Giáo sư Châu Tâm Luân là trưởng Ban Nông nghiệp. Trong một phiên họp toàn thể thảo luận về các chương tŕnh khoa học của Thành phố, sau khi nghe ông Luân tranh luận, một đại biểu trong Hội đồng mặc quân phục đứng dậy xin ngưng cuộc căi vă, và lớn tiếng: “Các chuyên viên đă để ra rất nhiều thời giờ soạn thảo, đại biểu đó tư cách ǵ mà đ̣i sửa qua sửa lại”. Ông Luân cố dằn ḷng: “Tôi xin ngưng cuộc thảo luận, bởi như vị đại biểu vừa nói, đă có các chuyên viên nghiên cứu cho chúng ta rồi th́ chúng ta chỉ c̣n là chuyên viên giơ tay thôi”. Chủ tŕ phiên họp, ông Mai Chí Thọ không nói ǵ, chỉ yêu cầu biểu quyết. Nh́n thấy ông Luân không giơ tay, ông Mai Chí Thọ hỏi: “Ai không chấp thuận?”. Ông Luân cũng không giơ tay, ông nói: “Toàn thể chấp thuận, một phiếu trắng”.

    Một số cán bộ cách mạng tốt bụng bắt đầu lo lắng cho vị giáo sư trẻ tuổi này, một trưởng Ban Đảng khuyên: “Tôi sáu mươi tuổi, người ta vẫn xem tôi như con nít, phải ăn nói thận trọng lắm. Anh nhớ, anh chỉ mới hơn ba mươi tuổi”. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tại diễn đàn của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôi đề nghị phải áp dụng ‘kinh tế thị trường có sự quản lư của nhà nước’. Ông Xuân Thủy nghe, nói với tôi: ‘Anh phải có người đỡ đầu, anh về nói với Sáu Dân đi’. Tôi trả lời ông Xuân Thủy: ‘Nếu tôi nói đúng th́ các anh phải nghe chứ sao lại cần người đỡ đầu?’.

  7. #17
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương VI: Vượt biên
    P2



    Sau đó, ông Mai Chí Thọ nhắc: ‘Cậu đúng, nhưng áp dụng như vậy th́ phức tạp quá, làm sao chúng tôi quản lư được. Muốn làm phải có những người như cậu. Mà nói thật chúng tôi chưa thể tin hoàn toàn những người như cậu’”. Theo ông Luân: “Những năm ấy, tôi chê ông Vơ Văn Kiệt nhát, ‘xé rào’ là vá víu; phải ‘phá vỡ’ để áp dụng kinh tế thị trường chứ không thể phá những đoạn rào. Ông Mai Chí Thọ nghe, nhắc: ‘Phải giữ chính quyền trước hết, chính sách sai th́ c̣n sửa được chứ mất chính quyền là mất hết’. Về sau tôi mới thấy ông Mai Chí Thọ đă nói rất thật ḷng, họ đă ngủ rừng hàng chục năm để có chính quyền, làm sao họ để mất cái mà họ vừa giành được đó”.



    Hai vợ chồng Giáo sư Châu Tâm Luân đều học ở Mỹ. Trước năm 1975, gia đ́nh ông đă định cư ở một nước Bắc Âu, nhưng cả hai đều chọn con đường về nước. Sau năm năm cố gắng cḥi đạp trong chế độ mới, ông không t́m thấy một cơ may thay đổi nào. Đầu năm 1979, ông vẫn c̣n được trả lời phỏng vấn các phóng viên nước ngoài, nhưng càng về sau th́ không thấy nhà báo nào gặp ông nữa. Giáo sư Châu Tâm Luân nói: “Tôi bắt đầu có dự cảm bất ổn. Khi t́nh cờ gặp một vài phóng viên, nghe họ nói mấy lần đến Việt Nam xin gặp tôi đều được chính quyền trả lời là Giáo sư Châu Tâm Luân đang đi công tác xa. Tôi biết tôi đang dần dần bị cô lập”.



    Dù từng hoạt động trong các phong trào chống đối dưới chế độ Sài G̣n, ông Huỳnh Kim Báu vẫn phải thừa nhận: “Trước 1975, mặc dù chính quyền bị coi là bù nh́n, nhưng trí thức vẫn được trọng dụng, họ có quyền thực sự trong chuyên môn. Sau giải phóng, chính quyền được nói là của ḿnh nhưng trí thức gần như chỉ được dùng như bù nh́n, trong khi đa phần họ là những người khảng khái”.



    Năm 1977, có lần hệ thống nước máy của Thành phố bị đục, ông Vơ Văn Kiệt mời các nhà trí thức tới hiến kế. Nhiều người phát biểu, riêng ông Phạm Biểu Tâm ngồi im. Ông Kiệt hỏi: “Sao vậy anh Tâm?”. Ông Phạm Biểu Tâm nguyên là chủ tịch Hội Sinh viên Hà Nội trước 1945. Năm 1963, con gái Ngô Đ́nh Nhu là Ngô Đ́nh Lệ Thủy thi y khoa đă bị ông đánh rớt dù bị nhà Ngô gây áp lực. Ông là một nhà giáo được sinh viên kính nể. Ông Tâm được nói là rất quư ông Kiệt, nhưng có lẽ do quá bị dồn nén, ông đứng dậy nói: “Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khỏe, v́ cái ǵ cũng đă có mấy anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh đâu phải chuyện tụi tui”.



    Một thời gian sau, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trả lại chức hiệu phó. Trường sợ mang tiếng không nhận, ông khóa pḥng, giao ch́a khóa, tự chấm dứt vai tṛ “chim kiểng” của ḿnh. Theo ông Vơ Văn Kiệt, Thành ủy vẫn để Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hàng năm sang Pháp dạy học. Trong một lần đi Pháp, ông ở lại luôn bên đó rồi viết thư về cho ông Kiệt nói rằng, công việc nghiên cứu nhiều, ông cần phải ở nơi có phương tiện cho ông làm việc, khi nào đất nước thực sự cần, ông sẽ về.



    C̣n Giáo sư Châu Tâm Luân, nhân một buổi tối rủ ông Vơ Ba tới nhà chơi, đă đưa cho Vơ Ba coi một tập đánh máy hai mươi trang về “t́nh h́nh kinh tế nông nghiệp miền Nam”, rồi nói: “Vơ Ba ơi, ḿnh rất mừng v́ bản báo cáo này của ḿnh đă được Mặt trận Tổ quốc đánh máy gởi đi. Hai lần trước th́ họ không chịu đánh máy. Nhưng, Vơ Ba ạ, họ đánh sai hết, những thuật ngữ như ma trận họ đánh thành mặt trận ông ạ”. Mấy hôm sau, Vơ Ba chạy qua nhà Giáo sư Luân th́ thấy cửa đóng, bên trong thấp thoáng bóng mấy công an đến “chốt nhà”. Cho dù, sang tới Thái Lan ông bị các thuyền nhân khác đánh rất đau, khi viết thư về, trả lời câu hỏi của ông Huỳnh Kim Báu, “liệu vượt biên có phải là một quyết định sai lầm”, Giáo sư Châu Tâm Luân vẫn cả quyết: “Không, Báu! Dù phải trả giá đắt, ḿnh vẫn thấy đi là đúng”.



    Trong số các trí thức miền Nam, ông Vơ Văn Kiệt “xếp” Giáo sư Châu Tâm Luân vào hàng “khó tính”. Tuy nhiên, ông kể: “Đến nhà Châu Tâm Luân ḿnh rất thích v́ ảnh thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, có khi như búa bổ. Ảnh hy vọng khi đất nước ḥa b́nh, với sự ph́ nhiêu của đất đai miền Nam, sẽ có dịp thi thố giúp phát triển nền nông nghiệp. Nhưng một thời gian sau, thấy cơ chế như thế th́ không thể nào đóng góp được”.



    Một người khác từng quen biết Bí thư Thành ủy Vơ Văn Kiệt nhưng cũng phải vượt biên là Kỹ sư Phạm Văn Hai, giám đốc nhà máy dệt Phong Phú. Ông Phạm Văn Hai là người đưa kỹ nghệ nhuộm vào miền Nam. Ông có hai người con, một người được đặt tên là Phạm Chí Minh, một người là Phạm Ái Quốc. Sau ngày 30-4, ông Phạm Văn Hai vẫn nhiệt t́nh tư vấn để phục hồi ngành dệt và nghiên cứu chất kích thích cây cỏ. Nhưng năm 1977 ông quyết định “đi”. Vượt biên hai lần, cả hai lần đều bị bắt. Lần đầu bị bắt ở Kiên Giang, Thành ủy lănh. Lần hai, bị bắt ở thành phố, ông Vơ Văn Kiệt vào thăm, ông Hai nói: “Cho dù anh quan tâm nhưng như thế này th́ không làm được”. Ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận: “Những người như Kỹ sư Phạm Văn Hai, như Giáo sư Châu Tâm Luân…, nếu chỉ khó khăn về cuộc sống họ sẽ vượt qua, nhưng nếu bị đặt vào hoàn cảnh không thể đóng góp th́ họ không chịu được. Tôi cũng không biết làm ǵ hơn, chỉ đề nghị mấy ảnh đừng vượt biên nguy hiểm”.
    Ông Vơ Văn Kiệt nhớ lại: “Tôi tiếc đứt ruột khi để những anh em trí thức ấy ra đi, nhưng biết là nếu họ ở lại th́ cơ chế hiện thời cũng chưa cho phép ḿnh sử dụng họ”. Trước khi vượt biên, ông Dương Kích Nhưỡng, một công tŕnh sư cầu cống, thủy điện, nói với ông Vơ Văn Kiệt: “Ước mơ của các anh rất đẹp, nhưng các anh làm như thế này là không được. Đi đâu cũng nghe nói tới nghị quyết, làm cái ǵ cũng chỉ theo tinh thần nghị quyết này, chủ trương kia thay v́ theo pháp luật. Trị nước mà bằng nghị quyết và chỉ thị chung chung th́ không được”.
    Tổng Thư kư Hội Trí thức Yêu nước Huỳnh Kim Báu nhớ lại: ông Kiệt biết là các trí thức bắt đầu vượt biên, ông gọi tôi lên và dặn “Nghe ngóng, nếu có anh em trí thức bị bắt ở đâu, anh phải lănh về”. Khi nhận được tin công an B́nh Thuận bắt giam Kỹ sư Dương Tấn Tước, ông Kiệt cấp giấy cho ông Báu ra B́nh Thuận xin “di án về Thành phố”. Ông Báu kể: “Công an B́nh Thuận thấy giấy của Thành ủy th́ cho nhận ‘can phạm’. Nhưng khi anh Tước thấy tôi mừng quá định kêu lên, tôi đă phải giả vờ làm mặt lạnh, bước tới, c̣ng tay anh Tước. Dọc đường, tôi cứ phải làm thinh mặc cho Kỹ sư Dương Tấn Tước ngơ ngác. Qua khỏi B́nh Thuận, tôi mới mở c̣ng và giải thích: Công an B́nh Thuận mà biết, người ta chụp đầu cả tôi”.
    Đích thân ông Kiệt cũng nhiều lần đến các trại giam để bảo lănh các trí thức. Theo ông Phạm Văn Hùng và Nguyễn Văn Huấn, hai người giúp việc thời đó của ông, h́nh thức “xử lư” đối với những trí thức vượt biên của “Anh Sáu Dân” là kêu tụi tôi đích thân đi làm lại hộ khẩu và sổ gạo cho họ. Nhưng phần lớn các trí thức đă ra đi lặng lẽ. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi đi tất cả sáu lần. Lần bị giữ lâu nhất là ở Rạch Giá, cả tháng trời. Nhưng tôi không khai ḿnh là ai. Như bốn lần trước, ở nhà cứ lo một cây vàng th́ được thả”. Có những người không chịu nhờ Thành ủy, hoặc “lo” bằng vàng. Theo ông Huỳnh Kim Báu, khi vượt biên bị bắt, Giáo sư Lê Thước đă tự sát.

    Đến “thường dân”

    Sau ngày “giải phóng”, dồn dập các sự kiện xảy ra trên khắp miền Nam: hết sỹ quan, công chức bị đưa đi “học tập”, đến cải tạo tư sản, đến đổi tiền rồi đưa dân đi kinh tế mới. Người dân miền Nam vừa chịu cảnh gia đ́nh ly tán, vừa bắt đầu phải đứng xếp hàng mua những thực phẩm vốn chưa bao giờ thiếu ở vùng đất màu mỡ này.



    Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ303 kể: “Ba tháng sau ngày 30-4, cha tôi mất sau khi nh́n cảnh đời thay đổi khác hẳn với những ǵ mà ông chờ đợi. Cảnh nhà đơn chiếc sau khi ông anh thứ hai của tôi di tản, hai ông anh c̣n lại bị đưa đi cải tạo. Mẹ tôi rơi vào khủng hoảng. Những người bà con từ Nghệ An vào đều hỏi tôi đúng một câu: chúng mày có ăn học tại sao lại không đi Mỹ. Những người giữ chức vụ lớn trong chính quyền dạy chủ nghĩa cộng sản, trước đám đông nói khác, nhưng ngồi trong gia đ́nh th́ không giấu được khi nói về một miền Bắc xă hội chủ nghĩa điêu tàn. Họ cảnh cáo tôi về những chuyện đấu tố sắp xảy ra. Trong tổ dân phố của tôi cũng bắt đầu ám chỉ việc gia đ́nh có người đi Mỹ, nhà cho Mỹ mướn, con có liên hệ đến Nguyễn Văn Thiệu… Mẹ tôi nghe rồi trở bệnh”.
    Nhưng điều mà một bác sỹ như ông Nguyễn Đức Tuệ cảm thấy đụng chạm trực tiếp tới ḿnh là khi chứng kiến chính trị chen vào mọi mặt. Những buổi học tập chính trị, những buổi họp tổ là dịp để các bác sĩ thiếu tay nghề bù đắp bằng cách cố tranh đấu được đứng vào “hàng ngũ Đảng”. Phương châm “hồng thắm hơn chuyên” đă khiến cho tŕnh độ y khoa của các bác sĩ ngày càng đi xuống. Bác sỹ Tuệ kể: “Trong những buổi sáng giao ban ở bệnh viện B́nh Dân, chúng tôi đă phải ngồi chịu trận nghe các đồng chí y sĩ từ rừng ra răn dạy các thầy tôi như đại Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Giáo sư Trần Ngọc Ninh! Bệnh viện B́nh Dân, nơi tôi làm việc, vốn là một bệnh viện nổi tiếng về giải phẫu, càng ngày càng thiếu thuốc men phương tiện, các cuộc mổ xẻ thiếu thuốc mê và thiếu dụng cụ”.
    Sau vụ “nạn kiều”, chiến tranh lại xảy ra ở hai đầu đất nước. Giặc giă, đói kém, sự sợ hăi đến từ cả bên trong lẫn bên ngoài, khiến cho lượng người vượt biên tăng vọt trong khoảng cuối năm 1979, đầu năm 1980. Một trong những người bắt đầu vượt biên sau chiến tranh là Lục Phương Mai. Cha Mai, ông Lục Văn Sáu, là một kỹ sư Tây học nổi tiếng trong ngành xây dựng, gia đ́nh có nhiều người nắm những chức vụ có nhiều quyền lực trong chế độ Sài G̣n, nhưng vợ ông Sáu lại là Việt Cộng. Anh em Lục Phương Mai không thể nào di tản theo các thành viên khác của đại gia đ́nh v́ vào đúng chiều 28-4-1975 th́ ông Lục Văn Sáu mất. Khi đó, mẹ Mai vẫn c̣n đang bị chính quyền Sài G̣n giam trong một nhà tù ở Thủ Đức. Sáng 30-4-1975, khi anh chị em Mai đang cúng “mở cửa mả” cho cha th́ “Việt Cộng vô”, mẹ Mai một ḿnh lê lết đi bộ ra khỏi nhà tù. Măi tới khoảng 3 giờ chiều mấy anh em mới t́m thấy mẹ.
    Ba mươi tháng Tư, với gia đ́nh Mai, không phải là một ngày đoàn tụ, và những ngày tiếp theo th́ c̣n khốn khổ hơn nhiều. Trước đây, ngoài thu nhập của ông Lục Văn Sáu, gia đ́nh c̣n có thể sống phong lưu nhờ vào khoản tiền mà cuối thập niên 1960 chính quyền ông Nguyễn Văn Thiệu trả cho ông nội Mai, địa chủ Lục Phương Giản, sau khi trưng mua ruộng đất của ông để thực thi chính sách “người cày có ruộng”. Sau 30-4-1975, khoản tiền nằm trong ngân hàng Việt Nam Thương Tín ấy không c̣n giá trị.



    Mẹ Lục Phương Mai dù có công nuôi giấu nhiều cán bộ cao cấp của Cách mạng, nhưng khi ra tù th́ cũng không c̣n sức để nhận được bổng lộc, chức tước ǵ. Mấy cô tiểu thư họ Lục bắt đầu nh́n những “con phe” tới nhà khênh ra từng chiếc tủ lạnh, cây đàn. Năm 1979, anh rể Lục Phương Mai là Thượng sỹ Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa Trần Văn Ngọt, một “chuyên gia tổ chức vượt biên”, thu xếp để mấy chị em ra đi.

    Vượt biên khi ấy là lối thoát của những gia đ́nh đă từng dính dấp tới “ngụy” như Thượng sỹ Trần Văn Ngọt. Trong khi những người vợ sỹ quan đi học tập phải son sắt đợi chờ th́ con cái họ được gửi lên những chiếc “thuyền” của bạn bè. Theo ông Phan Lạc Phúc: “Khi tôi đi cải tạo, con gái út tôi mới có năm tuổi. Khi tôi về nó đă mười lăm tuổi, bắt đầu thiếu nữ. Các chị nó vượt biên hết cả chỉ c̣n nó ở lại với mẹ cháu đợi tôi”.
    “Ra đi” cũng là một quyết tâm mănh liệt của những người trở về từ các trại cải tạo. Mặc dù ai ra trại cũng được nhận xét trong tờ lệnh là “đă nghiêm chỉnh chấp hành chính sách cải tạo khoan hồng độ lượng của Đảng và Nhà nước”, nhưng họ bắt đầu cảm thấy ḿnh lại đang bước vào một nhà tù lớn hơn, bởi trên thực tế, họ vẫn không thực sự có tự do. Cả con cái và gia đ́nh đều không nh́n thấy tương lai. Không có một chỗ đứng nào cho họ ở trong chế độ.



    Năm 1977, ông Vượng304 được ra khỏi trại cải tạo. Sau khi tŕnh diện ở phường, ông được một sỹ quan an ninh “rất dễ thương” tới gặp và yêu cầu hợp tác. Công việc tưởng như đơn giản: Mỗi tuần một lần báo cáo gặp ai, đi đâu, có ai từng là t́nh báo của chế độ cũ mà trốn học tập không. Ông Vượng nói: “Tôi hợp tác một tháng để không gây nghi ngờ rồi trốn khỏi Sài G̣n và từ lúc đó bắt đầu t́m đường vượt biên”. Không tính một lần có ư định vượt biên qua ngả Campuchia, bốn lần khác bị lộ trước khi lên thuyền nên chỉ kịp chạy thoát thân, đến lần thứ sáu ông Vượng mới tới được Malaysia.

    Tháng 2-1985, họa sỹ Chóe trở về sau gần chín năm nằm sàn xi măng ở số 4 Phan Đăng Lưu và lao động giữa rừng Gia Lai, bệnh phong thấp và bệnh tiểu đường bắt đầu nặng thêm. Nhưng sức khỏe không phải là thứ có thể dễ dàng quật ngă con người khát khao làm việc của Chóe. Từ một cây cọ phản chiến, ông giờ đây phải “đeo” tờ giấy xác nhận thành phần là “văn nghệ sỹ phản động”. Bà Kim Loan, vợ ông, nhớ lại: “Không có công ăn việc làm, ông ấy càng ngày càng phẫn uất rồi trở thành u uất”. Một trong rất ít người tới thăm họa sỹ Chóe lúc bấy giờ là Huỳnh Bá Thành, nhưng Chóe từ chối tất cả những đề nghị giúp đỡ của Thành, kể cả việc nhập lại hộ khẩu305.
    Ngày 7-4-1976, khi an ninh tới ṭa soạn tờ Lao Động Mới306 bắt Chóe, ông Tổng Biên tập Tống Văn Công nói với người chỉ huy tên là Đô: “Tôi thấy Chóe làm bất kể giờ giấc, anh ấy muốn đóng góp, muốn ḥa nhập. Tôi xin lấy sinh mạng chính trị của ḿnh ra đảm bảo”. Ông Đô liền nói: “Anh biết ǵ mà đảm bảo”.

    Năm 1985, Chóe đến nhà Tống Văn Công: “Bạn bè cũ tránh tôi như hủi, anh có dám tiếp tôi không?”. Họ ngồi với nhau rất lâu, cho dù Chóe không nói ra nhưng ông Công biết người họa sỹ tài ba này đang bế tắc, ông nói: “Ḿnh tự thấy không đủ tư cách khuyên Chóe điều ǵ, v́ chín năm trước ḿnh đă không bảo vệ được bạn. Ḿnh chỉ góp ư, nếu đi th́ đi chính thức, vượt biên nguy hiểm lắm”. Sau lần gặp ấy, Chóe biến mất. Gần hai năm sau, một ngày đầu tháng 8-1987, Chóe đột ngột xuất hiện trước mặt Tống Văn Công, áo quần nhếch nhác. Tống Văn Công chưa kịp hỏi, Chóe đă nói: “Mới ra tù. Hồi đó, tôi vượt biên, bị bắt”.
    Sau gần mười năm ở Khám Chí Ḥa, năm 1985, nhà báo Đoàn Kế Tường cũng được ra tù. Mặc dù biết vợ ông đă bán nhà, vượt biên, quyết định tha của Trại vẫn trả ông về căn nhà ở đường số 2, làng Báo Chí Thủ Đức. Ông Tường về, bấm chuông, một người phụ nữ trung niên ra mở cửa nh́n ông ái ngại, nói: “Căn nhà này xui lắm, em tù tội, lại bị vợ bán nhà bỏ đi. Chồng chị đi kháng chiến về, chị mua nhà này ở chưa được bao lâu th́ ổng bỏ chị đi lấy vợ khác. Thôi, nếu không có chỗ nào để về th́ cứ ở đây với chị”. Đọc được sự chia sẻ khá chân thành của người chủ mới, nhưng ông Đoàn Kế Tường chỉ cám ơn rồi về nhà chị gái ḿnh.
    Bà chị gái thương em, nhưng trong cái không gian chính trị ngột ngạt lúc đó, chứa trong nhà “một thằng tù phản động” như Tường là điều không phải dễ dàng, nhất là mấy đứa con của bà chị đă có mấy năm “ḥa nhập vào chế độ mới”. Bà chị dặn: “Cậu nên ra khỏi nhà lúc 5 giờ sáng và về sau 11 giờ, đừng để công an khu vực nó thấy thằng cậu đi tù về, khó cho mấy đứa”.
    Vào đúng rằm tháng Tám năm 1985, Đoàn Kế Tường nhảy xe Kamaz lên Đaklak. Trời tối, mưa như trút, Tường lang thang từng rẫy cà phê xin việc. Ông kể: “Tờ giấy tùy thân duy nhất mà tôi có là giấy ra tù, không ai dám nhận. Đến nửa đêm th́ gặp rẫy của một thiếu tá cảnh sát đi học tập về, ông nhận. Ông cựu thiếu tá dựng cho tôi một cái cḥi trên hai mẫu cà phê đang phục hóa.



    Cực nhọc nhưng dù sao cũng có việc làm. Được ít lâu th́ anh Trần Hữu Thọ con trai Đại tá Việt Nam Cộng ḥa Trần Hữu Dũng đi qua thấy tôi khổ quá, kêu về nhà ông ở cùng, ngày làm rẫy, tối
    dạy học cho mấy đứa con của anh”. Làm được gần một năm th́, một buổi sáng, ông Thọ ra phố ăn sáng về kể, đội Cảng Sài G̣n lên đá ở Buôn Mê Thuột, ông gặp huấn luyện viên Tam Lang ở đó. Tường buột miệng: “Tam Lang là bạn tôi”. Sáng hôm sau, ông Thọ lại ra phố thuật lại với Tam Lang, Tam Lang xác nhận: “Mai nếu anh lại ra th́ đưa nó đi cùng cho tôi gặp”. Gặp nhau, Tam Lang khuyên Tường: “Sài G̣n thiếu ǵ việc. Về đi, ở đây làm ǵ”.

    Sài G̣n đúng là có rất nhiều việc, nhưng tù phản động như Đoàn Kế Tường th́ cho dù tŕnh độ cỡ nào, lúc đó cũng chỉ có thể đạp xích lô. Một người bạn giới thiệu với Hội thánh Tin Lành để nơi này cho mượn một chiếc xích lô, Tường và một người bạn chia nhau đạp. Đoàn Kế Tường kể: “Sau đổi tiền, kinh tế càng xuống tận đáy, ăn c̣n không đủ lấy đâu tiền đi xích lô”. Đấy là những năm Sài G̣n đầy những ông đạp xích lô trong khi ngóng khách ở các ngả ba, ngả tư, tranh thủ đọc các cuốn sách tiếng Anh, tiếng Pháp. Nhiều người trong số họ cũng vừa mới đi tù về.



    Ông Tường kể: “Một bữa dong xe cả buổi mà không có người khách nào, t́nh cờ gặp thằng bạn thân chạy chiếc Honda tới. Tôi muối mặt hỏi: Tao đói quá, mày cho tao xin mười đồng. Thằng bạn nói đợi chút tao quay lại. Tôi đợi tới trưa không thấy. Về nhà, bà chị cho một lượng vàng, bảo vượt biên đi”.
    Đoàn Kế Tường xuống Cà Mau, tham gia vào chuyến vượt biên do một cựu tù cải tạo, ông Nguyễn Thụy Quế, tổ chức. Ông Tường kể: “Chúng tôi lên một chiếc ghe chở heo chạy từ Năm Căn ra Ngọc Hiển. Gặp con nước ṛng, ghe phải tấp lại chờ. Trên bờ, từ một quán cà phê, bài hát Quê Hương307 cứ được phát lặp đi lặp lại. Năm ấy, Quê Hương nổi như cồn, tôi ở Sài G̣n nghe, nghĩ: tào lao. Nhưng lúc chuẩn bị rời quê hương, tự nhiên xúc động quá. Tôi trốn ghe quay về, chị tôi chửi quá trời. Tôi chủ động t́m gặp Đỗ Trung Quân tính khen. Không ngờ Quân bảo: em mắc nợ anh, anh đi th́ tốt hơn. Khi đó tôi chưa hiểu hết lời Quân nói”.
    Những ngày sau đó của Đoàn Kế Tường là ra ga Ḥa Hưng xếp hàng để sau đó bán chỗ cho người đi tàu mua vé; đêm th́ cho khách đợi tàu thuê chiếu và bán cho họ vài xô nước rửa mặt. Theo ông Tường, điều đó vẫn chưa phải là bi kịch. Một dịp trước ngày 30-4 năm 1987, như thường lệ, công an “truy quét tệ nạn xă hội”, bắt tất cả về công an Quận 3. Sáng hôm sau, công an sàng lọc, ai có chứng minh thư, có hộ khẩu thành phố th́ cho về, ông Tường chỉ có giấy ra trại th́ bị giữ lại để chuẩn bị đưa đi tập trung cải tạo.
    Ông Tường kể: “Đang đứng xớ rớ trong sân công an Quận 3 th́ thấy Huỳnh Bá Thành308 chạy xe Vespa vô. Anh ta dừng lại trước trước đám can phạm. Tôi cúi mặt xuống tránh. Lúc sau, ngẩng lên thấy ông vẫn nh́n trừng trừng, rồi hỏi: Đoàn Kế Tường à? Có lẽ thấy tôi tàn tạ quá, Huỳnh Bá Thành khóc, bảo công an tha tôi rồi cho tôi năm mươi đồng, dặn: mai mốt qua báo Công An gặp tao, có cả thằng Từ Kế Tường nữa. Tôi về, vào chùa Liên Tŕ gặp nhà sư Thích Không Tánh, hỏi nên không, nhà sư gật đầu rồi nói: Tao đă phản động, thêm mày phản động nữa, cái chùa này sẽ không phật tử nào dám đến. Thầy Thích Không Tánh lúc ấy cũng chỉ mới ra tù”. Ông Tường kể tiếp: “Tôi lên, Huỳnh Bá Thành mua cho hai bộ quần áo rồi hỏi:
    ‘Ông muốn đi th́ tôi lo cho đi’. Tôi nói không, lúc này không v́ bài Quê Hương nữa mà v́ không muốn lại bị tù đày. Thành nói: ‘Ông có một tuần để suy nghĩ’. Một tuần sau tôi cũng nói không đi. Thành hỏi: ‘Muốn làm báo lại không, tôi đang cần những người có nghề’. Tôi nhận lời. Rồi Thành thu xếp dẫn tôi tới gặp ông Mai Chí Thọ309, nhân một lần ông Thọ vào Sài G̣n. Sau khi ông Thành giải thích, ông Thọ hỏi: ‘Chú mày dám bảo lănh không?’, ông Thành nói: ‘Dám’. Ông Thọ kêu người đem giấy bút ra cho Thành cam kết. Thế là tôi trở thành người của Công an Thành phố Hồ Chí Minh, một tờ báo đang ăn khách lúc đó”.
    Bài báo đầu tiên đăng lên, tôi kư Đoàn Thạch Hăn nhưng bạn bè cũ vẫn biết đấy là tôi. Chị tôi mừng v́ ngoài chuyện tôi có công ăn việc làm, từ một thằng tù phản động, tôi trở nên có thế ăn thế nói trong chế độ. Nhưng ngay sáng hôm báo ra, Đinh Viết Mâu, cựu thiếu úy biệt kích, là bạn thân trong Chí Ḥa, đạp xe tới nhà chị tôi. Mâu lặng lẽ bước vào tát vào mặt tôi hai tát rồi nói: ‘Thằng phản bội’. Rồi, giữa trời mưa như trút, Mâu đạp xe đi luôn. Tôi đưa bài báo cho ông Khai Trí310, một bạn tù khác, ông nói: “Cậu viết không có ǵ xấu nhưng tôi đọc có cái cảm giác như cậu đang cầm quạt lông ngâm Kiều của Nguyễn Du trong động đĩ”.
    Ông Tường kể tiếp: “Có lẽ những người ca ngợi sự kiên cường của tôi khi c̣n ở trong Chí Ḥa muốn tôi măi măi là người hùng trong mắt họ. C̣n những người ở phía khác th́ cũng nh́n tôi khinh miệt như nh́n một kẻ chiêu hồi. Khi nghe Đỗ Trung Quân nói ‘em mắc nợ anh, anh nên đi’, tôi chưa h́nh dung hết. Càng về sau, tôi càng hiểu v́ sao phần lớn những người tù như tôi phải t́m lối thoát bằng cách vượt biên”.
    Năm 1982, ngay sau khi ra khỏi trại cải tạo, Trung úy Trần Quang Phước lo cho cả gia đ́nh gồm mười bốn người vượt biên. Khi vừa ra cửa biển th́ một lốc máy tàu bị hỏng. Chủ tàu đề nghị mọi người gom tiền để họ vào bờ mua phụ tùng sửa máy. Ai dè họ đi luôn. Mấy giờ sau th́ tàu công an ra. Người tài công cố cho thuyền chạy bằng lốc máy c̣n lại. Trần Minh Triết, con trai ông Phước, năm ấy mười sáu tuổi, nhớ lại: “Một loạt đạn bắn thẳng vào buồng lái, xác người tài công văng xuống biển”. Sau một thời gian chờ thanh lọc, vợ con ông Phước cũng như những đứa trẻ khác, chỉ bị giam hai ngày rồi được tha về. Ông Phước bị giam tại trại giam Trần Phú.

    Trần Minh Triết kể: “Một hôm, tôi đang thụt bida th́ bà già sang, ngoắt ra, dắt đi ngay lên chùa Tĩnh Hội, Nha Trang. Đi không kịp mang quần áo. Mấy thầy chùa đưa về xóm Bóng gửi chờ bắt tàu vô Sài G̣n. Lúc đó mới hay, ông già trong khi được ra khỏi buồng giam đă t́m cách trốn trại. Từ đó, hai anh em tôi mỗi đứa được gửi một nơi, hai ông bà già cũng trốn chui, trốn nhủi. Cả nhà hiếm khi mới được gặp nhau. Dượng tôi đi tập kết về, là bác sỹ một bệnh viện lớn quen biết rất nhiều những người trong chế độ mới, nhưng cũng không thể giúp ǵ hơn. Một hôm ông bảo với ba má tôi: Anh nghĩ các em nên đi, ở đây sống không nổi đâu”.
    Nữ nhà văn Nhă Ca chỉ bị tù hơn một năm. Nhưng trong thời gian hai vợ chồng bà ngồi tù, chính quyền địa phương đă trục xuất ba người con của bà ra khỏi nhà. Căn biệt thự của ông bà trên đường Ngô Tùng Châu, B́nh Thạnh, bị chính quyền lấy giao cho hợp tác xă mây tre lá. Ra tù, Nhă Ca đưa các con về nhà bà ngoại ở số 142 Tự Do. Bà chỉ định buôn bán làm ăn, nuôi con và chờ chồng – nhà thơ Trần Dạ Từ – đang bị đưa đi “cải tạo” trên trại Gia Trung. Nhưng áp lực đến với gia đ́nh bà càng ngày càng thêm dồn dập.
    Năm 1977, hai đứa con của bà, một mười bốn tuổi, một mười một tuổi, bị đuổi khỏi Nhạc viện Thành phố. Năm 1978, ngôi nhà dùng làm cửa hàng ở số 142, bấy giờ gọi là đường Đồng Khởi, bị niêm phong. Bị ép và lo sợ bị “xe cây” tới nhà “hốt đi kinh tế mới” như số phận của nhiều nhà tư sản khác, nửa đêm, Nhă Ca phải đưa các con về Cần Thơ ở nhờ nhà người thân. Bức bối và bế tắc, Nhă Ca đă phải để cho ba đứa con lên tàu vượt biên. Chuyến đi bất thành. Cả ba con của bà bị bắt.
    Trước khi tới biển

    Thời ấy, thường có hai dạng tổ chức vượt biển – tự túc, nghĩa là không dính líu ǵ đến công an, và mua băi. Dạng thứ nhất thường gặp nguy hiểm hơn lúc xuống tàu rời đất liền. Mọi thứ đều lén lén, lút lút trong màn đêm. Những người này thường chọn những đêm không trăng, và chấp nhận bị bắt bất kỳ lúc nào. Dạng thứ hai, thường được mấy người tổ chức móc nối, sắp xếp ngày giờ trùng với ca trực của “tay trong” để đưa người xuống tàu. Không có dạng nào là chắc chắn, nhưng những người đă “móc nối” th́ khả năng bị công an xông ra từ trong các lùm cây là ít hơn.
    Không phải ai cũng có tiền có vàng để đóng cho các chủ tàu: “đĩ điếm” th́ coi như đă hết thời sau ngày 30-4-75; những “gia đ́nh ác ôn” không phải đi học tập th́ trước đó không phải ai cũng có chức tước tiền bạc; những người mà chồng con đang ở trong trại th́ c̣n phải mang gánh nặng thăm nuôi – đối với nhiều người vợ tù, nước có thể bỏ nhưng chồng trong trại giam th́ không thể.



    Trở lại câu chuyện của Thượng sỹ Trần Văn Ngọt và cô em vợ của ông, Lục Phương Mai. Ngày 7-6-1979, từ nhà, mấy chị em, d́ cháu Mai đi xích lô máy ra bến xe miền Tây rồi đi xe đ̣ xuống Tiền Giang. Họ “ém” trong nhà một nông dân, chờ đêm ập xuống th́ nhảy lên một chiếc xuồng con chạy ra ghe lớn đang đậu chờ ngoài cửa sông. Theo dự kiến, 12 giờ đêm chiếc ghe lớn ấy sẽ bắt đầu hành tŕnh. Nhưng khi vừa thấp thoáng thấy cửa sông th́ bỗng từ trong bờ dừa nước, một chiếc bo bo xé nước phóng ra, ép sát con xuồng. Thượng sỹ Trần Văn Ngọt chưa kịp phản ứng đă ăn một báng súng khuỵu xuống. Tất cả trai tráng lẫn đàn bà con gái bị đưa về trại giam Tiền Giang. Ngay trong đêm, đoàn bị chia hai: nam một bên, nữ một bên. Và lập tức, quản giáo quát: “Cởi áo ra”; rồi, “Cởi quần ra”; rồi, “Cởi luôn quần lót”. Quần áo, giày dép đều bị sờ nắn tới từng đường chỉ.
    Trước khi ra đi, những người vượt biên đều đă dự liệu t́nh huống này nên khi chiếc bo bo vừa phóng ra, hạt xoàn, vàng, đô la đều đă bị ném không thương tiếc xuống nước. Với nhiều người, “thà để cá ăn, dứt khoát không để vàng bạc rơi vào tay Việt cộng”. Nhưng Lục Phương Mai vẫn cố giữ lại hai lượng vàng. Trước khi cởi đồ, chị lén lút chuyển hai lượng vàng ấy cho cô cháu gái tên là Thùy, Thùy chuyền cho em gái là bé Tí Hương, năm ấy mới lên sáu tuổi không bị quản giáo để ư. Tí Hương nhét vàng vào bụng để rồi khi mấy d́ cháu về buồng giam liền đưa lại cho d́ giấu trong một tuưp thuốc đánh răng.

    Chín anh em, d́ cháu nhà Lục Phương Mai nằm khoảng hơn một tháng th́ được mẹ viết thư lên Quận ủy “nhận lỗi là đă không giáo dục tốt con em để chúng nó làm điều sai quấy”. Xét gia đ́nh “có công với Cách mạng”, mấy chị em Mai được tha, riêng Thượng sỹ Trần Văn Ngọt th́ bị kêu án ba năm tù311.
    Nếu như chiếc thuyền vượt biên của Lục Phương Mai bị chặn ngay từ cửa sông th́ thuyền của chị em nhà Ngô Hồng Ngọc312 lại đă đi được nhiều giờ trên biển. Ngày 26-12-1983, Ngọc, lúc đó hai mươi ba tuổi, vượt biên cùng với một đứa em, hai người d́ và bốn chị em họ khác. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chúng tôi được đón bằng xe buưt lớn, giống như một đoàn người hành hương, được đưa tới lăng Ngọc Hà – Bà Rịa, vào một nhà dân đợi tới đêm th́ lên một thuyền nhỏ. Chiếc thuyền taxi này chạy khoảng một giờ th́ tới địa điểm đón, từ đó chúng tôi được đưa vào một thuyền đánh cá. Chiếc thuyền nhỏ này – ngang khoảng 2,5m, dài 15m – do sáu gia đ́nh hùn tiền:

  8. #18
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương VI: Vượt biên
    P3




    Gia đ́nh bác sĩ Vận cùng vợ và hai con trai nhỏ (bác sĩ Vận và vợ là y sĩ, họ có trách nhiệm lo sức khỏe cho mọi người cùng đi); một người hoa tiêu cùng gia đ́nh; ông tài công cùng ba gia đ́nh chúng tôi. Thế nhưng, khi được đưa vào thuyền lớn, một nhóm người đông hơn cả số đóng tiền, ém sẵn trước ở đấy, nhân lúc lộn xộn, cùng lên tàu. Thế là con tàu phải chở tới 126 người, lớn, bé, già, trẻ. Từ các tai mắt ở khu vực cho đến lực lượng thường xuất hiện ngoài “bến băi” đều được “lo bao”, lại đi vào dịp cận Tết, nên việc khởi hành diễn ra suôn sẻ”.
    Ngô Hồng Ngọc kể tiếp: “Hai chị em tôi được mẹ đưa cho một túi sâm cắt lát với lời dặn, lúc khát và mệt th́ lấy ra ngậm. Mẹ cũng may lẫn trong gấu áo, gấu quần tôi 1 số tiền đô la Mỹ, trên tay đeo bốn nhẫn nhỏ loại một chỉ, với hi vọng khi tới đảo có thể dùng liên lạc về cho bố mẹ. Xuống thuyền, đàn bà và trẻ em được đưa vào dưới boong, chúng tôi nằm chen chúc lên những thanh gỗ đan vào nhau quét đầy nhựa đường. Mỗi đợt sóng đánh, ruột gan ai nấy quặn lên và ói. Em gái nhỏ của tôi đói và khát, những miếng sâm nhỏ mẹ cho chúng tôi đă nhấm hết mà vẫn
    không hết mệt. Anh Lê, một người bạn của gia đ́nh tôi, phải đi ‘ngoại giao’ để mang về từng bát nước cháo cho chúng tôi chia nhau. Ngày thứ ba trên biển, lâu lâu anh Lê d́u hai chị em tôi lên boong để hít thở chút ít rồi phải quay lại hầm tàu”.
    Ngày thứ tư, thuyền bị cháy máy do tài công ngủ quên, cậu con trai châm nhớt không kịp. Một người em họ của Ngô Hồng Ngọc, Ngô Quang Hưng313, năm ấy mới hơn mười tuổi, nhớ lại: “Trong mấy ngày đêm lênh đênh trên biển, mọi người cố lấy chăn mền căng ra làm buồm, cố ra được ngoài hải phận quốc tế. Có những đêm, nh́n thấy đèn tàu lớn ở phía xa, mọi người kêu gào, dùng đèn pin đánh tín hiệu SOS kêu cứu nhưng tàu lớn vẫn không vào. Có hôm, thấy máy bay bay ngang đầu, lại ḥ hét, lại hy vọng. Một chị đi tiểu trong cái ‘toilet’ được khoanh bằng một tấm bạt sát bên mạn thuyền, bị sóng đập rơi xuống biển… Cứ đêm đến là lại nghe tiếng sóng dập ḥa lẫn với những lời cầu nguyện”. Theo Hồng Ngọc: “Thuyền càng lắc mạnh tôi càng nắm chặt tay em gái, chúng tôi chỉ muốn sống chết có nhau. Xung quanh, con gọi cha mẹ, vợ kêu chồng… Không ai c̣n hy vọng tới bến bờ tự do mà chỉ c̣n hy vọng sống”.
    Cuối cùng, mọi người thở phào khi nh́n thấy đảo. Nhưng khi con thuyền dạt vào cách đảo chừng 300m th́ bị đâm vào đá ngầm, thủng đáy. Mọi người ḅ hết lên boong. Dân đánh cá và một số người bơi giỏi th́ nhảy xuống để bơi vào bờ thoát thân. Ngô Quang Hưng kể: “Khi nhảy xuống, bác sỹ Vận bị bánh lái tàu đập vào đầu, chết. Cái chị đi toilet rơi xuống biển đêm trước, khi ở ngoài khơi th́ cứu được, lần này lại bị chết khi cố bơi vào bờ”. Theo Ngô Hồng Ngọc: “Hai mươi lăm người, cả nam lẫn nữ bị đập mạnh vào đá và bị sóng dập, chết ngay trước mắt chúng tôi: đàn ông nằm sấp, đàn bà nằm ngửa, xác họ nổi lên chỉ sau hai ba phút”.
    Con thuyền từ từ ch́m. Một số người nhanh trí, lấy dây buộc vào các mỏm đá để phụ nữ, trẻ em bám vào, từng bước leo qua từng phiến đá lớn, quanh những xác chết. Thêm một số người chết do sóng đánh mắc kẹt vào kẽ đá. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chừng một giờ sau, một đợt sóng lớn ập tới, từ đảo nh́n ra, thuyền của chúng tôi vỡ vụn thành những tấm gỗ mỏng trôi lênh đênh, cùng với xác người và một vùng loang của máu”. Theo Ngô Quang Hưng: “Một ấn tượng cực kỳ khó quên là trên bờ có cơ man nào là dép Lào. Và nhiều mảnh gỗ không biết từ đâu dạt đến”. Ngọc nói: “Có lẽ, không chỉ thuyền của chúng tôi lâm vào cảnh ngộ này”.
    Điều ám ảnh những người sống sót nhất, theo Ngô Quang Hưng: ““Khi các thuyền nhân đang đấu tranh với sóng, đá ngầm, bánh lái, để t́m cách lên bờ th́ cũng là lúc thủy triều đang dâng. Cái mỏm đá mà chiếc ghe kẹt lại càng lúc càng xa bờ, ch́m dần xuống. Không hiểu thế nào mà c̣n một cậu bé đứng trên mỏm đá đó khi những người c̣n sống sót đă lên hết trên bờ. Sóng th́ quá mạnh. Vách đá dựng đứng. Ba bốn ngày đói khát. Khát khủng khiếp! Không ai có khả năng bơi ngược lại mỏm đá càng lúc càng xa bờ. Tất cả thẫn thờ đứng nh́n. Những cái xác bồng bềnh. Đàn ông sấp. Đàn bà ngửa. Biển ngập dần lên mỏm đá mà cậu bé đứng, lúc này chỉ c̣n là một cái chấm ngọ nguậy. Mọi thứ biến mất như chưa từng tồn tại trên đời: cái ghe, mỏm đá, cậu bé. Đoàn thuyền nhân quay lưng trèo lên đỉnh núi trước khi mặt trời lặn”.



    Gia đ́nh Ngô Hồng Ngọc và gia đ́nh người tài công may mắn c̣n nguyên vẹn. Vách núi, về sau mọi người mới biết là ḥn Bảy Cạnh, dốc đứng, nhưng mọi người vẫn cố gắng trèo lên v́ nước thủy triều. Ngô Hồng Ngọc nói: “Chúng tôi nắm tay nhau cho qua cơn đói khát… Đau buồn nhất là gia đ́nh bác sĩ Vận, ông chết trước mắt vợ con. Người vợ của ông giờ đó đă trở thành góa phụ lại bị găy chân. Chị Thảo, em gái bác sĩ Vận, vừa d́u chị dâu vừa lo kéo hai thằng cháu nhỏ. Chúng vừa nhớ bố vừa đói khát, chốc chốc lại kêu: ‘Bố ơi! Con đói quá. Bố ơi! Con lạnh quá’.
    Tối như đêm ba mươi. Không mấy ai để ư đến thời khắc giao thừa. Chúng tôi chỉ đợi trời sáng để leo qua đỉnh núi, hy vọng ở phía bên kia có người”.
    Nhưng ở phía bên kia vẫn chỉ là đảo hoang. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chúng tôi bẻ củi, chất thành đống lớn, đợi trời tối để sưởi cho bớt lạnh và hi vọng tàu đi ngoài xa có thể nh́n thấy và tới cứu. Thêm một đêm ngóng trông. Khi đống lửa đă sắp tàn th́ nghe có tiếng ca nô chạy vào bờ, tiếng súng bắn và sau đó tiếng loa phóng thanh: ‘Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam… Công an nhân dân Côn Đảo… Yêu cầu bỏ vũ khí…đầu hàng!’. Vẫn là ‘Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam’. Không ǵ có thể làm chúng tôi đau đớn hơn. Sáng mùng Ba Tết, chúng tôi được một xà lan lớn đưa ra biển và đưa vào núi lớn Côn Đảo”.
    Theo Hồng Ngọc: “Từ hôm đó chúng tôi được phát mỗi người hai bộ quần áo tù màu ghi đậm, vải thô xù x́ rồi được đưa vào trong một pḥng giam lớn, hai bên có hai bệ bê tông dài, ở giữa là lối đi. Chúng tôi nằm xếp lớp trên đó, không chăn, không gối. Hàng ngày, được phát hai lần cơm, lâu lâu mới có muối mè hay rau luộc. Sau giờ điểm danh sáng, cửa pḥng mở, chúng tôi được đi lại, tắm rửa, hay ḷng ṿng quanh mấy hàng hiên. Một số người sẽ được gọi đi ‘làm việc’. Đối diện với trại nữ là khu trại nam. Các tù nhân nam bị nhốt trong nhà, trừ những giờ ra ngoài đi lao động, trồng rau hay dọn vệ sinh. Khi chúng tôi tới, Côn Đảo không c̣n tù chính

    trị. Những người đang ở đây, phần lớn là dân vượt biên, những người bị giữ lâu nhất thường là dân ‘có tóc’ như chủ ghe, tài công”.
    Các thuyền nhân bị giữ ở Côn Đảo bốn tuần th́ được đưa lên một xà lan lớn, chở vào trại giam Cỏ May, Vũng Tàu. Khác với Côn Đảo, trại giam Cỏ May giam đủ loại tù, tù chính trị hạng nặng bị nhốt riêng. Hồng Ngọc bị nhốt chung với các nữ tù chính trị và h́nh sự. Ngọc kể: “Trong pḥng, có người tên là D́ Ba, nghe đâu từng làm sĩ quan tâm lư chiến thời Việt Nam Cộng Ḥa, đă vượt biên sáu lần, cả sáu lần đều vô khám”. Ngọc bị giam bảy tháng ở trại Cỏ May. Một người lính hải quân Việt Nam Cộng Ḥa v́ tội tổ chức vượt biên đă bị nhốt năm năm trong trại.

    Năm 1985, Bộ Luật H́nh sự của Nước Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam lần đầu tiên ra đời, coi vượt biên là một tội h́nh sự, xếp chung vào nhóm tội “xâm phạm an ninh quốc gia”. Trước đó, những người vượt biên bị bắt có thể bị giam mà không cần xét xử hoặc bị xử theo Pháp lệnh Trừng trị các tội Phản Cách mạng do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 1967. Theo Luật sư Trương Thị Ḥa, người đă từng bào chữa cho một số bị cáo “vượt biên”, ṭa áp dụng khá linh hoạt các quy định trong Pháp lệnh 1967, tuy nhiên, phần lớn bị xử tù theo Điều 9: “Tội trốn theo địch hoặc v́ mục đích phản cách mạng mà trốn ra nước ngoài”.

    Trại Gia Trung đă dạy cho Chóe những bài học dài ngày trong buồng biệt giam, để khi vượt biên bị bắt, anh thôi không “căi” là ḿnh vô tội nữa. Tại trại giam Công an Long An, anh đă rất “ngoan” nên “án” ba năm chỉ ở hai năm là được tha. Nhưng bị bắt ngày ấy vẫn được gọi là may.

    Anh Phùng Văn Vinh314 nhớ lại: “Mùa hè năm 1981, ở băi biển Thanh B́nh Đà Nẵng, có bốn người vượt biên bị bắn chết, xác trôi vào được xếp ngay hàng trên bờ chờ người tới nhận… Trên xác họ, đầy kín những lỗ đạn đen xỉn, ruồi vo ve bay… Một xác là của một người thanh niên lai Mỹ với mái tóc vàng óng, nằm dài ngoằng so với những người c̣n lại. Nghe đâu sau đó có ba người được thân nhân tới nhận xác đưa về chôn, c̣n anh thanh niên lai Mỹ v́ không có ai đến nhận, nên đă bị đưa đi mất v́ dân chúng quanh đó không chịu nổi mùi thối… Tôi nghe những người lớn lúc đó thầm th́ bàn tán, chính quyền cố t́nh để vậy để răn đe dân chúng trong vùng. Chẳng là dân Đà Nẵng có tiếng về chuyện liều mạng vượt biển”. Nhưng đó chỉ là những cái chết được nh́n thấy.
    Đường tới các trại tị nạn

    Trong suốt một thập niên rưỡi sau 1975, vượt biên với nhiều người miền Nam là lối thoát duy nhất, nhưng cũng là lối thoát đắt giá nhất. Hàng ngh́n người đă phải trả bằng chính sinh mạng của ḿnh. Hàng ngàn người khác tuy “tới được bến bờ tự do” nhưng sự b́nh yên không bao giờ trở lại sau những nỗi kinh hoàng trên biển. Ngày 24-10-1977, toán vượt biên của Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ315 bước sang ngày thứ năm của hải tŕnh th́ xà lan bị hỏng máy. Họ phải gom hết “pông-sô” làm buồm lái về phía Thái Lan. Hai ngày sau, thực phẩm dự trữ mang theo bắt đầu cạn. Bác sỹ Tuệ kể: “Ban tổ chức cuộc vượt biên họp ‘mở rộng’ đưa ra ‘chính sách công xă’, gom thực phẩm của tất cả các nhóm trên xà lan, tập trung và chia đều khẩu phần hàng ngày. Thùng nước trên xà lan được khử trùng bằng chlorine, đun nấu ăn và nước uống. Mỗi gói cơm sấy được nấu thành cháo chia cho gia đ́nh mười người… Ngày thứ mười, có bốn chiếc thuyền buôn lớn đi qua, chúng tôi đốt lửa báo hiệu, chúng tôi vẫy tay, chúng tôi đánh cờ semaphore bằng quần áo… Nhưng những chiếc thuyền ấy đă bỏ đi mặc dù thấy nhóm người chúng tôi bơ vơ giữa biển trên chiếc xà lan nhỏ bé”.

    Chiều ngày thứ mười một của chuyến hành tŕnh, theo Bác sỹ Tuệ: “Biển êm sóng lặng, chúng tôi chợt thấy một chiếc thuyền đánh cá neo lại từ phía xa chân trời. Hy vọng lại vươn lên trong buổi chiều trên biển. Chúng tôi vẫy tay, chúng tôi la hét, chúng tôi phất quần áo làm cờ ra hiệu nhưng không thấy những người trên thuyền đáp ứng. Cuối cùng, sự may mắn đă đến khi lưới đánh cá của chiếc thuyền đó trôi ngay gần chiếc xà lan! Hai người bạn trẻ tuổi, Đức và Thành, can đảm nhảy xuống biển, bơi đến, bám chặt lưới cho đến khi các ngư phủ Thái Lan kéo cả hai lên thuyền. Mọi người trên xà lan nh́n theo hồi hộp chờ đợi… Chiếc xà lan được những ngư dân Thái kéo vào thành phố Pattani ở bờ Đông Thái Lan vào ban đêm. Những ánh đèn thành phố nh́n từ ngoài biển là những ánh sáng hy vọng. Xà lan bị cô lập ở bến Pattani. Cảnh sát lên kiểm tra, chúng tôi không chánh thức được lên đất liền, nhưng được phép tiếp xúc với dân địa phương, được mua hàng và lần đầu tiên được uống Coca Cola sau hai năm kể từ ngày được giải phóng”.

    Toán vượt biên của bác sỹ Tuệ chỉ được ở lại Pattani hai ngày để mua thêm thực phẩm. Sửa chữa máy xong, xà lan của họ bị tàu Thái hộ tống đưa ra biển hướng về phía Songkhla nơi có trại tị nạn cho người Việt. Xà lan đi hai ngày, đến Songkhla, thấy bến nhưng bị tàu tuần Thái chĩa súng đuổi ra. Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ kể tiếp: “Một ngày sau, xà lan lại chết máy. ‘Pông sô’, áo mưa lại kết lại làm buồm, xà lan trôi nổi bảy ngày, cuối cùng nhờ có luồng nước kéo trở lại Songkhla. Xà lan tấp bến. Chúng tôi bồng bế nhau, già trẻ lớn bé lội xuống biển. Cùng lúc, dân Thái Lan tràn lên quăng hành lư xuống và cướp đi luôn, máy tàu bị họ phá và giật xuống biển. Cả đoàn phải ở ngoài bờ biển, màn trời chiếu đất, ban đêm chúng tôi đào những hố cát để làm giường tránh gió và canh chừng cho các bà các cô, sợ dân Thái Lan hăm hiếp. Ban ngày dân địa phương bu quanh nh́n chúng tôi bị rào bởi ṿng rào dây thừng như đi xem sở thú. Họ quăng đồ ăn, quăng trái cây vào như cho khỉ ăn. Tự do chưa thấy chỉ thấy cướp”.



    Ba ngày sau, ông tỉnh trưởng Songkhla xuất hiện với lính cận vệ. Họ dẫn theo sáu mươi bảy thuyền nhân khác đi bằng thuyền từ Phú Quốc đến Songkhla. Chính sách Thái lúc bấy giờ không nhận người tị nạn. Những người này bị đuổi ra băi để nhập chung với nhóm của Bác sỹ Tuệ. Ông Tuệ kể: “Tôi biết chút tiếng Mỹ, đứng nói chuyện với tỉnh trưởng Songkhla xin ở lại. Tỉnh trưởng Songkhla cầm gậy chỉ huy đánh vợ tôi đang bồng con trên tay, miệng th́ la ‘let’s go’. Các con của những phụ nữ khác cũng bị giằng ra khỏi tay mẹ, ném từng đứa một lên xà lan, các bà mẹ đành phải theo con. Lính Thái đánh anh Hải chảy máu mũi. Tôi đứng bên cạnh ông tỉnh trưởng, nổi nóng tiến gần ngay cạnh ông ta, cận vệ sợ tôi đánh ông tỉnh trưởng, một người vội vàng rút khẩu súng Colt lên đạn chĩa vào đầu tôi. Một trung sĩ cận vệ tử tế, nói nhỏ: bác sĩ đừng chống cự, họ sẽ bắn ông thật đấy”.



    Bác sỹ Tuệ kể tiếp: “Ở trên xà lan hơn mấy tuần, khói dầu diesel đóng lên mặt mũi, thân thể chúng tôi đen như mọi, đầu tóc ngứa ngáy, chải th́ thấy chí rận rơi xuống. Nhiều trẻ em da bị lở loét v́ nắng và dầu. Con bé Ngọc của chúng tôi, ngày xuống xà lan ăn mặc tươm tất, quần áo đẹp đẽ tự tay bà ngoại may, khi bước ra khỏi khoang xà lan đă thành ‘cô bé lọ lem’, quần áo dính nước sét hầm xà lan đổi thành màu cháo ḷng… Một tuần ở Narathiwat, vợ chồng tôi thân với vợ chồng một y tá trẻ ngành quân y Thái. Biết chúng tôi sẽ phải ra đi chứ không được đưa về trại tị nạn ở Thái Lan như chúng tôi tưởng, họ nói với tôi là họ không nghĩ chúng tôi sẽ có thể sống sót trong cuộc hành tŕnh sắp đến nên xin cho bé Ngọc ở lại làm con nuôi, nếu chúng tôi may mắn đến được đất liền, qua Mỹ lúc ấy chúng tôi có thể làm giấy tờ hội ngộ. Đề nghị tử tế và thành thật này làm chúng tôi bâng khuâng và suy nghĩ. Em tôi, Hồng và Hiến họp lại đêm hôm ấy nói rằng: Sống chết có nhau, nay đă đi đến đây chỉ c̣n một quăng đường ngắn, anh em có xui xẻo th́ xui xẻo cùng. Vợ chồng tôi đă quyết định để bàn tay Trời định đoạt”.

    Ngày 19-10-1977, nhóm vượt biên của Bác sỹ Tuệ đến Trengganu, Thái Lan, sau bốn mươi ngày lênh đênh. Cho dù có lúc sống chết chỉ c̣n trong gang tấc, chuyến đi của họ được coi là may mắn. Đoàn có 168 người, gồm sáu mươi phụ nữ và sáu mươi trẻ em, không bị nạn hải tặc, không có người bị bệnh nặng, không có người phải bỏ xác trên biển.

    Chuyến vượt biên thứ sáu cũng đă đưa Thiếu úy Phan Ngọc Vượng tới được một trại tị nạn ở Malaysia. Nhưng trước đó, chuyến vượt biên thứ năm của ông vào cuối năm 1978 đă bất thành dù có nhiều t́nh cờ may mắn. Chiếc ghe đưa họ ra khơi là loại ghe bầu chạy trên sông Tiền, thường được gọi là ghe cà dom. Đi được ba ngày, ba đêm th́ chết máy, chiếc ghe trôi vô định ngoài hải phận quốc tế, gặp gần năm chục chiếc tàu chạy qua mà không có một chiếc nào cứu giúp. Ngày thứ tư, vào khoảng 5 giờ chiều, xuất hiện một chiếc tàu tên là Hegenburger, chạy gần. Ông Vượng quyết định nhảy xuống biển bơi ra chặn đầu.
    Con tàu đồ sộ kéo c̣i giận giữ trong mấy phút rồi thả một chiếc ca-nô cùng một sỹ quan và ba người lính xuống. Ca-nô vừa chạm nước, viên sỹ quan rút súng, đạn găm ngay sau lưng ông Vượng. Rồi chiếc ca-nô chạy nhanh tới, trong tích tắc, ông Vượng được kéo lên. Viên sỹ quan hỏi: “Ông là ai?”. Ông Vượng: “Tôi là người tị nạn Việt Nam! C̣n các ông?”. Viên sỹ quan: “Chúng tôi từ Đông Đức”. Ông Vượng: “Sao ông bắn tôi?”. Viên sỹ quan: “Ông không thấy hai con cá mập nó đang dí sau lung à?”.



    Trước khi gặp thuyền trưởng, ông Vượng được đưa vô nhà hàng trên tàu, ông được đặt ngồi trước một đĩa thịt ḅ và một lon Coca. Đó là bữa ăn ngon nhất trong cuộc đời của ông Vượng. Những người trên tàu đă rất lịch sự nhưng không chịu đưa những thuyền nhân đến Hong Kong. Thoạt đầu, họ đă bỏ đi, nhưng sau khi biết cơn băo tới gần có thể nhận ch́m con tàu hỏng máy chở các thuyền nhân Việt Nam, tàu Hegenburger đă quay trở lại và sau khi thương lượng, những người vượt biên chấp nhận quay trở vào bờ tránh băo.



    Gần sáng th́ họ nh́n thấy bờ biển Vũng Tàu. Thủy thủ tàu Hegenburger báo cho chính quyền rồi quay đầu. Khoảng 5 giờ sáng, tàu công an xuất hiện. Thuyền trưởng chiếc ghe vượt biên, nguyên là một trung úy hải quân vừa đi học tập về, nhảy xuống biển. Ông Vượng biết, nếu bị bắt lại, những người như ông và viên trung úy sẽ phải mục xương trong tù. Ông Vượng cũng nhảy xuống biển. Mới bơi được mấy sải th́ một thằng nhỏ trên ghe ném cho ông miếng xốp khá lớn. Chính miếng xốp đó đă cứu mạng ông. Viên trung úy hải quân lần ấy đă không thể bơi vào bờ.
    Vài giờ sau, ông Vượng được mấy người Nga kéo lên một chiếc cano nhưng thái độ của họ khiến ông Vượng e rằng sẽ bị giao cho công an nên khi thấy một chiếc ghe câu nhỏ đi qua, ông Vượng gọi: “Ơi! Cứu anh!”. Hai thiếu niên trên ghe câu hỏi: “Vượt biên à? Nhảy đi!”. Ông Vượng nhảy xuống. Ông Vượng được hai cậu bé đưa về nhà trong một làng chài. Nghỉ ngơi, ăn uống xong, hai cậu bé đưa ông về Sài G̣n với giá một lượng vàng. Lúc đó, đi honda không hẳn là an toàn, nhưng đi xe đ̣ th́ chắc chắn không thoát v́ công an sẽ xét, nếu không có giấy đi đường là bắt liền. Chập tối, họ lên đường, và tới 11 giờ đêm th́ về tới nhà mẹ ông Vượng ở G̣ Vấp. Bà mẹ già bật khóc: “Sao lần nào đi cũng không tới nơi vậy con?”.
    Toàn bộ số người c̣n lại trên chiếc ghe cà dom bị đưa về Vũng Tàu, mọi người khai hết “tội” cho Phan Ngọc Vượng. Họ bị giam giữ tại trại Cỏ May hai tháng rồi được phóng thích. Câu chuyện Phan Ngọc Vượng một ḿnh tổ chức vượt biên, tuy không trót lọt, nhưng với tŕnh độ ngoại ngữ và khả năng ứng phó trong những t́nh huống hiểm nghèo khá tốt đă được dân vượt biên đồn thổi. Ông Vượng sau đó đă được những người giàu có chi tiền đề nghị ông chủ tŕ một cuộc vượt biên cho gia đ́nh họ. Chuyến đi ấy tổng cộng bốn mươi chín người trong đó có năm người em của ông Vượng. Khác với năm lần trước, chuyến vượt biên thứ sáu của ông may mắn bất ngờ.
    Chập tối ngày thứ tư, một tàu đánh cá Thái Lan cặp vào mạn của chiếc ghe vượt biên. Ông Vượng kể: “Tôi kêu tất cả phụ nữ chui xuống hầm, đề pḥng. Phía tàu đánh cá cho một đại diện lên gặp thuyền trưởng nói chuyện. Vào, thấy trong pḥng ông thuyền trưởng trang trí đầy tượng Phật, tôi đă thấy ḿnh may mắn. Ông thuyền trưởng hỏi: ‘Các anh cần ǵ?’. Tôi nói: ‘Cần một ít nước uống và xin chỉ đường giùm’. Ông cho nước uống và chè đỗ xanh, rồi hỏi: ‘C̣n dầu không?’. Tôi nói: ‘Thưa c̣n’. Ông chỉ tay và nói: ‘Cứ đi theo hướng này th́ chiều mai mày sẽ tới Malaysia’. Khoảng bốn giờ chiều hôm sau, chúng tôi nh́n thấy một rặng dừa”.

    Thay v́ được chào đón, khi chiếc ghe vượt biên tới gần bờ, điều mà họ nh́n thấy là những họng súng đen ng̣m trên tay mười hai cảnh sát mặc đồ rằn ri đang chĩa thẳng vào những người tị nạn. Ông Vượng, khi ấy chỉ mặc một chiếc quần jeans, quyết định nhảy xuống biển, vừa giơ hai tay, vừa đi vào. Cảnh sát quát: “Stop!”.

    Ông Vượng nói: “Refugees”. Cảnh sát: “Bao nhiêu người?”. “49”. “Có vàng, đô-la không?”. “Có”. “Ok, ra mang vàng vào đây tao cho vô”. Ông Vượng đi ra, chủ tàu lấy năm lượng cùng một ít nữ trang đưa ông Vượng mang vào bờ. Sau khi nhận vàng, cảnh sát nói: “Đục tàu đi rồi cho vô”.
    Vào băi, bốn mươi chín người phải chịu cảnh màn trời chiếu đất. Các viên cảnh sát thỉnh thoảng qua gặp nói đưa tiền, muốn mua ǵ họ mua cho. Bốn ngày sau, có thêm một tàu của người Hoa “vượt biên bán chính thức” đến. Họ có 140 người đa số là người Việt. Thêm một tuần lễ sau đó, 189 người phải tự xoay xở trên băi, đào giếng kiếm nước, lượm củi nấu ăn. Ngày thứ mười một, một người bận quân phục sỹ quan, đầu đội nón bê rê xanh đến, gặp ông Vượng, người duy nhất biết tiếng Anh, nói: “Tôi là người của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc”. Không phải ai vượt biên cũng có cơ hội gặp được người của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc.
    Ngày 27-5-1989, chỉ cần biên pḥng khám xét lâu thêm vào tiếng nữa là Phạm Thanh Tùng316 cùng chín mươi sáu người khác có thể bị đông cứng trong khoang chứa cá. Sau một hành tŕnh dài từ Sài G̣n về Châu Đốc giống như những người đi vía Bà, nhóm vượt biên của Tùng lần lượt được xếp nằm trên những chiếc xuồng chở dừa. Chủ thuyền lấy lá dừa tươi tấp lên những người vượt biên rồi chở về hướng Bắc Mỹ Thuận. Bốn giờ sáng th́ tàu cặp ghe lớn lúc đó đang neo đậu giữa ḍng.

    Tổng cộng chín mươi bảy người, gồm cả vợ con người chủ tàu, được xếp vô khoang cá. Hàng chục cây đá được xếp chồng lên nhiều lớp để che. Ra tới cửa biển th́ đụng tàu biên pḥng, cuộc khám xét kéo dài cho đến khi da một đứa trẻ trên tàu đă bắt đầu tím tái. Chủ tàu cho chạy thêm khoảng một giờ, cầm chắc đă ra khỏi tầm truy đuổi, mới huy động những thanh niên c̣n khỏe liệng hết đá cây xuống biển. Khi đó nhiều người đă lịm đi v́ rét cóng. Đó là chuyến vượt biên lần thứ mười một của Phạm Thanh Tùng. Ngày 1-6-1989, con tàu của Tùng vào tới đảo Talampuru (Philippines).

    Chỉ đi sau chuyến tàu của Tùng một ngày, ngày 2-6-1989, có một chiếc tàu vượt biên khác cũng vào gần tới đảo Talampuru. Thay v́ đậu ngoài xa chờ dẫn đường, khi thấy một cơn băo đến gần, con tàu tiến nhanh vào đảo. Tàu của họ bị kẹt vào băi san hô và ngay sau đó, con tàu bị sóng lớn đánh vỡ ra từng mảnh. Khi băo tan, chỉ có năm người sống sót bơi được vào bờ. Họ nói, con tàu khởi hành với 117 người.
    Ngày 7-8-1987, để tránh bị biên pḥng phát hiện, ông Trần Quang Phước, một cựu trung úy hải quân Việt Nam Cộng ḥa, quyết định ra đi khi Nha Khí tượng dự báo có băo cấp 7. Con tàu chở hai mươi bảy người trong đó có bốn người trong gia đ́nh ông Phước. Con trai ông, anh Trần Minh Triết kể: “Con tàu đi tới khuya th́ bắt đầu băo. Cả tàu say sóng nằm la liệt chỉ c̣n lại hai cha con. Ba tôi cầm lái. Đi tới trưa hôm sau th́ ra tới ngoài khơi xa. Ba tôi giao tay lái cho tôi. Lần đầu tiên tôi nh́n thấy những con sóng tiếp nối những con sóng, cứ ập tới con thuyền nhỏ bé như những ngọn núi. Tôi chỉ c̣n biết nghe lời cha tôi mà tiếp tục đi, chỉ biết trao thân cho đại dương, lúc nào cũng có cảm giác ḿnh sắp bị những con sóng nhấn sâu xuống ḷng biển”. Như có phép màu, chỉ bốn ngày sau, con tàu nhỏ đi tới Malaysia. Trần Minh Triết nói: “Sau mười lăm lần vượt biên không thành kể từ năm 1982, cha con chúng tôi được đưa vào trại Sungeipesi”.

    Tại trại tị nạn Sungeipesi, cuối năm 1987, Trần Minh Triết ở chung nhà với một phụ nữ trẻ. Triết kể: “Chiều chiều, xuống cầu thang, tôi thấy chị ấy cứ nép người vào một góc tối, khóc lên rưng rức. Chúng tôi phải để cho chị ấy khóc bởi chỉ cần đụng vào là chị ấy hoảng lên, co rúm lại. Không ai dám hỏi han. Trên biển, chị ấy đă bị hải tặc hiếp dâm nhiều lần”. Khi chuyển vào trại Paulo Bidong, Triết gặp một cô gái khác trạc tuổi ḿnh. Cô cùng một người khác được vớt lên và được coi là hai người sống sót trên một con tàu vượt biên bị hải tặc trên vùng biển Thái Lan. Cô gái bị hăm hiếp nhiều lần trong khi chứng kiến anh trai ḿnh bị chặt làm ba khúc. Trần Minh Triết kể: “Chiều nào cô cũng rủ tôi ra biển. Nhưng chỉ khi ánh mắt chúng tôi chạm tới biển là cô lại lăn đùng ra đất, mắt trợn ngược lên, miệng cứng lại”. Dung, tên cô gái, chỉ ở Paulo Bidong bốn mươi lăm ngày, thay v́ ở gần hàng năm như những thuyền nhân khác. Cô được một tổ chức thiện nguyện bảo lănh đưa đi chữa bệnh.

    Ông Nguyễn Văn Mai317 kể: “Trong thập niên 1980, tôi bay đến các trại tị nạn nhiều lần và chứng kiến hàng ngàn câu chuyện đau ḷng. Ở một trại tị nạn ở Thái Lan, tôi gặp một phụ nữ bị hải tặc cưỡng hiếp nhiều lần, khi được Hội Chữ thập đỏ giúp chữa trị, những vết thương của chị đă mưng mủ. Mùi hôi thối lựng một góc lán. Các bác sỹ c̣n phát hiện ra là chị bị dính thai. Thai đôi và không b́nh thường. Theo các bác sỹ th́ giữa các ngón tay của hai đứa trẻ có các màng dính, họ khuyên nên bỏ. Người chồng là một nông dân chất phác, đă có bốn đứa con, nói: đứa nhỏ này không có tội, ông trời định cho nó cái nghiệp ở trong vợ tôi th́ không có lí do ǵ để tôi phá”. Ông Mai kể tiếp: “Không ai có thể ngờ người chồng đă quyết định như thế. Khi người vợ bị hiếp, bọn hải tặc đă cầm mă tấu bắt anh và các con đứng xem”. Không ai biết chắc có bao nhiêu nạn nhân của hải tặc Thái Lan trong những ngày tháng đó. Cho đến ngày 16-4-1989, tại vùng biển Malaysia, một thuyền chở 130 người tị nạn vẫn bị hải tặc tấn công. Theo Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc, sau khi hăm hiếp phụ nữ, hải tặc đă phóng lửa đốt tàu, chỉ có một người sống sót trên chuyến vượt biên xấu số đó318.

    Tại Hội nghị Quốc tế lần II về người Tị nạn Đông Dương, tổ chức trong hai ngày 13 và 14-6-1989, UNHCR cho biết: Chỉ trong ṿng từ cuối năm 1988 cho đến tháng 6-1989 đă có hai mươi tám tàu cùng 590 thuyền nhân được ghi nhận là mất tích319.



    Theo số liệu của UNHCR, con số thuyền nhân Việt Nam đă từng cập bến các quốc gia lên đến gần một triệu người: Australia 1.750 người; Macau 7.128 người; Singapore 32.000 người; Philipines 51.722 người; Thái Lan 117.321 người; Indonesia 121.708 người; Hong Kong 195.833 người; Malaysia 254.495 người; một số không nhiều lắm cũng dừng chân ở Nhật Bản, Đài Loan, Đại Hàn320… Nhưng, biển mênh mông, những ǵ thống kê được chưa phải là toàn bộ sự thật.

    Nhiều thuyền nhân c̣n nhớ, tại trại Palawan, Philippines, có chiếc thuyền gỗ được đặt trước cửa văn pḥng Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc. Khi chiếc ghe này bị tấp vào bờ, bên cạnh những xác chết trương ph́nh, người ta thấy chỉ c̣n một phụ nữ mang thai sắp đến ngày sinh. Không ai hiểu bởi phép mầu nào, bà mẹ này cho đến lúc ấy vẫn c̣n thoi thóp. Bà đă sống sót cho đến khi sanh hạ đứa bé và kịp cho biết, con thuyền khi khởi hành có tất cả năm mươi người. Không phải chuyến vượt biên nào cũng có người sống sót để nói đến số phận của những nạn nhân c̣n lại.



    Vĩnh viễn không ai biết có bao nhiêu người Việt Nam vượt biên trong giai đoạn từ 1975 đến đầu thập niên 1990 đă bỏ ḿnh trên biển, bao nhiêu con tàu đă bị biển nhận ch́m, bao nhiêu con tàu đă bị hải tặc cướp và giết hết, bao nhiêu phụ nữ và trẻ em đă bị chúng hăm hiếp.



    Lịch sử thuyền nhân Việt Nam bắt đầu khép lại từ năm 1996, khi Liên Hiệp Quốc quyết định đóng cửa các trại tị nạn trong khu vực và khi cuộc sống trong nước bắt đầu dễ thở hơn, chấm dứt một bi kịch kéo dài suốt hai thập niên trên biển.

  9. #19
    Hoàng Nguyên
    Khách
    Quote Originally Posted by alamit View Post
    Bên Thắng Cuộc (Huy Đức)
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương VI: Vượt biên
    P3




    Gia đ́nh bác sĩ Vận cùng vợ và hai con trai nhỏ (bác sĩ Vận và vợ là y sĩ, họ có trách nhiệm lo sức khỏe cho mọi người cùng đi); một người hoa tiêu cùng gia đ́nh; ông tài công cùng ba gia đ́nh chúng tôi. Thế nhưng, khi được đưa vào thuyền lớn, một nhóm người đông hơn cả số đóng tiền, ém sẵn trước ở đấy, nhân lúc lộn xộn, cùng lên tàu. Thế là con tàu phải chở tới 126 người, lớn, bé, già, trẻ. Từ các tai mắt ở khu vực cho đến lực lượng thường xuất hiện ngoài “bến băi” đều được “lo bao”, lại đi vào dịp cận Tết, nên việc khởi hành diễn ra suôn sẻ”.
    Ngô Hồng Ngọc kể tiếp: “Hai chị em tôi được mẹ đưa cho một túi sâm cắt lát với lời dặn, lúc khát và mệt th́ lấy ra ngậm. Mẹ cũng may lẫn trong gấu áo, gấu quần tôi 1 số tiền đô la Mỹ, trên tay đeo bốn nhẫn nhỏ loại một chỉ, với hi vọng khi tới đảo có thể dùng liên lạc về cho bố mẹ. Xuống thuyền, đàn bà và trẻ em được đưa vào dưới boong, chúng tôi nằm chen chúc lên những thanh gỗ đan vào nhau quét đầy nhựa đường. Mỗi đợt sóng đánh, ruột gan ai nấy quặn lên và ói. Em gái nhỏ của tôi đói và khát, những miếng sâm nhỏ mẹ cho chúng tôi đă nhấm hết mà vẫn
    không hết mệt. Anh Lê, một người bạn của gia đ́nh tôi, phải đi ‘ngoại giao’ để mang về từng bát nước cháo cho chúng tôi chia nhau. Ngày thứ ba trên biển, lâu lâu anh Lê d́u hai chị em tôi lên boong để hít thở chút ít rồi phải quay lại hầm tàu”.
    Ngày thứ tư, thuyền bị cháy máy do tài công ngủ quên, cậu con trai châm nhớt không kịp. Một người em họ của Ngô Hồng Ngọc, Ngô Quang Hưng313, năm ấy mới hơn mười tuổi, nhớ lại: “Trong mấy ngày đêm lênh đênh trên biển, mọi người cố lấy chăn mền căng ra làm buồm, cố ra được ngoài hải phận quốc tế. Có những đêm, nh́n thấy đèn tàu lớn ở phía xa, mọi người kêu gào, dùng đèn pin đánh tín hiệu SOS kêu cứu nhưng tàu lớn vẫn không vào. Có hôm, thấy máy bay bay ngang đầu, lại ḥ hét, lại hy vọng. Một chị đi tiểu trong cái ‘toilet’ được khoanh bằng một tấm bạt sát bên mạn thuyền, bị sóng đập rơi xuống biển… Cứ đêm đến là lại nghe tiếng sóng dập ḥa lẫn với những lời cầu nguyện”. Theo Hồng Ngọc: “Thuyền càng lắc mạnh tôi càng nắm chặt tay em gái, chúng tôi chỉ muốn sống chết có nhau. Xung quanh, con gọi cha mẹ, vợ kêu chồng… Không ai c̣n hy vọng tới bến bờ tự do mà chỉ c̣n hy vọng sống”.
    Cuối cùng, mọi người thở phào khi nh́n thấy đảo. Nhưng khi con thuyền dạt vào cách đảo chừng 300m th́ bị đâm vào đá ngầm, thủng đáy. Mọi người ḅ hết lên boong. Dân đánh cá và một số người bơi giỏi th́ nhảy xuống để bơi vào bờ thoát thân. Ngô Quang Hưng kể: “Khi nhảy xuống, bác sỹ Vận bị bánh lái tàu đập vào đầu, chết. Cái chị đi toilet rơi xuống biển đêm trước, khi ở ngoài khơi th́ cứu được, lần này lại bị chết khi cố bơi vào bờ”. Theo Ngô Hồng Ngọc: “Hai mươi lăm người, cả nam lẫn nữ bị đập mạnh vào đá và bị sóng dập, chết ngay trước mắt chúng tôi: đàn ông nằm sấp, đàn bà nằm ngửa, xác họ nổi lên chỉ sau hai ba phút”.
    Con thuyền từ từ ch́m. Một số người nhanh trí, lấy dây buộc vào các mỏm đá để phụ nữ, trẻ em bám vào, từng bước leo qua từng phiến đá lớn, quanh những xác chết. Thêm một số người chết do sóng đánh mắc kẹt vào kẽ đá. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chừng một giờ sau, một đợt sóng lớn ập tới, từ đảo nh́n ra, thuyền của chúng tôi vỡ vụn thành những tấm gỗ mỏng trôi lênh đênh, cùng với xác người và một vùng loang của máu”. Theo Ngô Quang Hưng: “Một ấn tượng cực kỳ khó quên là trên bờ có cơ man nào là dép Lào. Và nhiều mảnh gỗ không biết từ đâu dạt đến”. Ngọc nói: “Có lẽ, không chỉ thuyền của chúng tôi lâm vào cảnh ngộ này”.
    Điều ám ảnh những người sống sót nhất, theo Ngô Quang Hưng: ““Khi các thuyền nhân đang đấu tranh với sóng, đá ngầm, bánh lái, để t́m cách lên bờ th́ cũng là lúc thủy triều đang dâng. Cái mỏm đá mà chiếc ghe kẹt lại càng lúc càng xa bờ, ch́m dần xuống. Không hiểu thế nào mà c̣n một cậu bé đứng trên mỏm đá đó khi những người c̣n sống sót đă lên hết trên bờ. Sóng th́ quá mạnh. Vách đá dựng đứng. Ba bốn ngày đói khát. Khát khủng khiếp! Không ai có khả năng bơi ngược lại mỏm đá càng lúc càng xa bờ. Tất cả thẫn thờ đứng nh́n. Những cái xác bồng bềnh. Đàn ông sấp. Đàn bà ngửa. Biển ngập dần lên mỏm đá mà cậu bé đứng, lúc này chỉ c̣n là một cái chấm ngọ nguậy. Mọi thứ biến mất như chưa từng tồn tại trên đời: cái ghe, mỏm đá, cậu bé. Đoàn thuyền nhân quay lưng trèo lên đỉnh núi trước khi mặt trời lặn”.



    Gia đ́nh Ngô Hồng Ngọc và gia đ́nh người tài công may mắn c̣n nguyên vẹn. Vách núi, về sau mọi người mới biết là ḥn Bảy Cạnh, dốc đứng, nhưng mọi người vẫn cố gắng trèo lên v́ nước thủy triều. Ngô Hồng Ngọc nói: “Chúng tôi nắm tay nhau cho qua cơn đói khát… Đau buồn nhất là gia đ́nh bác sĩ Vận, ông chết trước mắt vợ con. Người vợ của ông giờ đó đă trở thành góa phụ lại bị găy chân. Chị Thảo, em gái bác sĩ Vận, vừa d́u chị dâu vừa lo kéo hai thằng cháu nhỏ. Chúng vừa nhớ bố vừa đói khát, chốc chốc lại kêu: ‘Bố ơi! Con đói quá. Bố ơi! Con lạnh quá’.
    Tối như đêm ba mươi. Không mấy ai để ư đến thời khắc giao thừa. Chúng tôi chỉ đợi trời sáng để leo qua đỉnh núi, hy vọng ở phía bên kia có người”.
    Nhưng ở phía bên kia vẫn chỉ là đảo hoang. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chúng tôi bẻ củi, chất thành đống lớn, đợi trời tối để sưởi cho bớt lạnh và hi vọng tàu đi ngoài xa có thể nh́n thấy và tới cứu. Thêm một đêm ngóng trông. Khi đống lửa đă sắp tàn th́ nghe có tiếng ca nô chạy vào bờ, tiếng súng bắn và sau đó tiếng loa phóng thanh: ‘Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam… Công an nhân dân Côn Đảo… Yêu cầu bỏ vũ khí…đầu hàng!’. Vẫn là ‘Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam’. Không ǵ có thể làm chúng tôi đau đớn hơn. Sáng mùng Ba Tết, chúng tôi được một xà lan lớn đưa ra biển và đưa vào núi lớn Côn Đảo”.
    Theo Hồng Ngọc: “Từ hôm đó chúng tôi được phát mỗi người hai bộ quần áo tù màu ghi đậm, vải thô xù x́ rồi được đưa vào trong một pḥng giam lớn, hai bên có hai bệ bê tông dài, ở giữa là lối đi. Chúng tôi nằm xếp lớp trên đó, không chăn, không gối. Hàng ngày, được phát hai lần cơm, lâu lâu mới có muối mè hay rau luộc. Sau giờ điểm danh sáng, cửa pḥng mở, chúng tôi được đi lại, tắm rửa, hay ḷng ṿng quanh mấy hàng hiên. Một số người sẽ được gọi đi ‘làm việc’. Đối diện với trại nữ là khu trại nam. Các tù nhân nam bị nhốt trong nhà, trừ những giờ ra ngoài đi lao động, trồng rau hay dọn vệ sinh. Khi chúng tôi tới, Côn Đảo không c̣n tù chính

    trị. Những người đang ở đây, phần lớn là dân vượt biên, những người bị giữ lâu nhất thường là dân ‘có tóc’ như chủ ghe, tài công”.
    Các thuyền nhân bị giữ ở Côn Đảo bốn tuần th́ được đưa lên một xà lan lớn, chở vào trại giam Cỏ May, Vũng Tàu. Khác với Côn Đảo, trại giam Cỏ May giam đủ loại tù, tù chính trị hạng nặng bị nhốt riêng. Hồng Ngọc bị nhốt chung với các nữ tù chính trị và h́nh sự. Ngọc kể: “Trong pḥng, có người tên là D́ Ba, nghe đâu từng làm sĩ quan tâm lư chiến thời Việt Nam Cộng Ḥa, đă vượt biên sáu lần, cả sáu lần đều vô khám”. Ngọc bị giam bảy tháng ở trại Cỏ May. Một người lính hải quân Việt Nam Cộng Ḥa v́ tội tổ chức vượt biên đă bị nhốt năm năm trong trại.

    Năm 1985, Bộ Luật H́nh sự của Nước Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam lần đầu tiên ra đời, coi vượt biên là một tội h́nh sự, xếp chung vào nhóm tội “xâm phạm an ninh quốc gia”. Trước đó, những người vượt biên bị bắt có thể bị giam mà không cần xét xử hoặc bị xử theo Pháp lệnh Trừng trị các tội Phản Cách mạng do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 1967. Theo Luật sư Trương Thị Ḥa, người đă từng bào chữa cho một số bị cáo “vượt biên”, ṭa áp dụng khá linh hoạt các quy định trong Pháp lệnh 1967, tuy nhiên, phần lớn bị xử tù theo Điều 9: “Tội trốn theo địch hoặc v́ mục đích phản cách mạng mà trốn ra nước ngoài”.

    Trại Gia Trung đă dạy cho Chóe những bài học dài ngày trong buồng biệt giam, để khi vượt biên bị bắt, anh thôi không “căi” là ḿnh vô tội nữa. Tại trại giam Công an Long An, anh đă rất “ngoan” nên “án” ba năm chỉ ở hai năm là được tha. Nhưng bị bắt ngày ấy vẫn được gọi là may.

    Anh Phùng Văn Vinh314 nhớ lại: “Mùa hè năm 1981, ở băi biển Thanh B́nh Đà Nẵng, có bốn người vượt biên bị bắn chết, xác trôi vào được xếp ngay hàng trên bờ chờ người tới nhận… Trên xác họ, đầy kín những lỗ đạn đen xỉn, ruồi vo ve bay… Một xác là của một người thanh niên lai Mỹ với mái tóc vàng óng, nằm dài ngoằng so với những người c̣n lại. Nghe đâu sau đó có ba người được thân nhân tới nhận xác đưa về chôn, c̣n anh thanh niên lai Mỹ v́ không có ai đến nhận, nên đă bị đưa đi mất v́ dân chúng quanh đó không chịu nổi mùi thối… Tôi nghe những người lớn lúc đó thầm th́ bàn tán, chính quyền cố t́nh để vậy để răn đe dân chúng trong vùng. Chẳng là dân Đà Nẵng có tiếng về chuyện liều mạng vượt biển”. Nhưng đó chỉ là những cái chết được nh́n thấy.
    Đường tới các trại tị nạn

    Trong suốt một thập niên rưỡi sau 1975, vượt biên với nhiều người miền Nam là lối thoát duy nhất, nhưng cũng là lối thoát đắt giá nhất. Hàng ngh́n người đă phải trả bằng chính sinh mạng của ḿnh. Hàng ngàn người khác tuy “tới được bến bờ tự do” nhưng sự b́nh yên không bao giờ trở lại sau những nỗi kinh hoàng trên biển. Ngày 24-10-1977, toán vượt biên của Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ315 bước sang ngày thứ năm của hải tŕnh th́ xà lan bị hỏng máy. Họ phải gom hết “pông-sô” làm buồm lái về phía Thái Lan. Hai ngày sau, thực phẩm dự trữ mang theo bắt đầu cạn. Bác sỹ Tuệ kể: “Ban tổ chức cuộc vượt biên họp ‘mở rộng’ đưa ra ‘chính sách công xă’, gom thực phẩm của tất cả các nhóm trên xà lan, tập trung và chia đều khẩu phần hàng ngày. Thùng nước trên xà lan được khử trùng bằng chlorine, đun nấu ăn và nước uống. Mỗi gói cơm sấy được nấu thành cháo chia cho gia đ́nh mười người… Ngày thứ mười, có bốn chiếc thuyền buôn lớn đi qua, chúng tôi đốt lửa báo hiệu, chúng tôi vẫy tay, chúng tôi đánh cờ semaphore bằng quần áo… Nhưng những chiếc thuyền ấy đă bỏ đi mặc dù thấy nhóm người chúng tôi bơ vơ giữa biển trên chiếc xà lan nhỏ bé”.

    Chiều ngày thứ mười một của chuyến hành tŕnh, theo Bác sỹ Tuệ: “Biển êm sóng lặng, chúng tôi chợt thấy một chiếc thuyền đánh cá neo lại từ phía xa chân trời. Hy vọng lại vươn lên trong buổi chiều trên biển. Chúng tôi vẫy tay, chúng tôi la hét, chúng tôi phất quần áo làm cờ ra hiệu nhưng không thấy những người trên thuyền đáp ứng. Cuối cùng, sự may mắn đă đến khi lưới đánh cá của chiếc thuyền đó trôi ngay gần chiếc xà lan! Hai người bạn trẻ tuổi, Đức và Thành, can đảm nhảy xuống biển, bơi đến, bám chặt lưới cho đến khi các ngư phủ Thái Lan kéo cả hai lên thuyền. Mọi người trên xà lan nh́n theo hồi hộp chờ đợi… Chiếc xà lan được những ngư dân Thái kéo vào thành phố Pattani ở bờ Đông Thái Lan vào ban đêm. Những ánh đèn thành phố nh́n từ ngoài biển là những ánh sáng hy vọng. Xà lan bị cô lập ở bến Pattani. Cảnh sát lên kiểm tra, chúng tôi không chánh thức được lên đất liền, nhưng được phép tiếp xúc với dân địa phương, được mua hàng và lần đầu tiên được uống Coca Cola sau hai năm kể từ ngày được giải phóng”.

    Toán vượt biên của bác sỹ Tuệ chỉ được ở lại Pattani hai ngày để mua thêm thực phẩm. Sửa chữa máy xong, xà lan của họ bị tàu Thái hộ tống đưa ra biển hướng về phía Songkhla nơi có trại tị nạn cho người Việt. Xà lan đi hai ngày, đến Songkhla, thấy bến nhưng bị tàu tuần Thái chĩa súng đuổi ra. Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ kể tiếp: “Một ngày sau, xà lan lại chết máy. ‘Pông sô’, áo mưa lại kết lại làm buồm, xà lan trôi nổi bảy ngày, cuối cùng nhờ có luồng nước kéo trở lại Songkhla. Xà lan tấp bến. Chúng tôi bồng bế nhau, già trẻ lớn bé lội xuống biển. Cùng lúc, dân Thái Lan tràn lên quăng hành lư xuống và cướp đi luôn, máy tàu bị họ phá và giật xuống biển. Cả đoàn phải ở ngoài bờ biển, màn trời chiếu đất, ban đêm chúng tôi đào những hố cát để làm giường tránh gió và canh chừng cho các bà các cô, sợ dân Thái Lan hăm hiếp. Ban ngày dân địa phương bu quanh nh́n chúng tôi bị rào bởi ṿng rào dây thừng như đi xem sở thú. Họ quăng đồ ăn, quăng trái cây vào như cho khỉ ăn. Tự do chưa thấy chỉ thấy cướp”.



    Ba ngày sau, ông tỉnh trưởng Songkhla xuất hiện với lính cận vệ. Họ dẫn theo sáu mươi bảy thuyền nhân khác đi bằng thuyền từ Phú Quốc đến Songkhla. Chính sách Thái lúc bấy giờ không nhận người tị nạn. Những người này bị đuổi ra băi để nhập chung với nhóm của Bác sỹ Tuệ. Ông Tuệ kể: “Tôi biết chút tiếng Mỹ, đứng nói chuyện với tỉnh trưởng Songkhla xin ở lại. Tỉnh trưởng Songkhla cầm gậy chỉ huy đánh vợ tôi đang bồng con trên tay, miệng th́ la ‘let’s go’. Các con của những phụ nữ khác cũng bị giằng ra khỏi tay mẹ, ném từng đứa một lên xà lan, các bà mẹ đành phải theo con. Lính Thái đánh anh Hải chảy máu mũi. Tôi đứng bên cạnh ông tỉnh trưởng, nổi nóng tiến gần ngay cạnh ông ta, cận vệ sợ tôi đánh ông tỉnh trưởng, một người vội vàng rút khẩu súng Colt lên đạn chĩa vào đầu tôi. Một trung sĩ cận vệ tử tế, nói nhỏ: bác sĩ đừng chống cự, họ sẽ bắn ông thật đấy”.



    Bác sỹ Tuệ kể tiếp: “Ở trên xà lan hơn mấy tuần, khói dầu diesel đóng lên mặt mũi, thân thể chúng tôi đen như mọi, đầu tóc ngứa ngáy, chải th́ thấy chí rận rơi xuống. Nhiều trẻ em da bị lở loét v́ nắng và dầu. Con bé Ngọc của chúng tôi, ngày xuống xà lan ăn mặc tươm tất, quần áo đẹp đẽ tự tay bà ngoại may, khi bước ra khỏi khoang xà lan đă thành ‘cô bé lọ lem’, quần áo dính nước sét hầm xà lan đổi thành màu cháo ḷng… Một tuần ở Narathiwat, vợ chồng tôi thân với vợ chồng một y tá trẻ ngành quân y Thái. Biết chúng tôi sẽ phải ra đi chứ không được đưa về trại tị nạn ở Thái Lan như chúng tôi tưởng, họ nói với tôi là họ không nghĩ chúng tôi sẽ có thể sống sót trong cuộc hành tŕnh sắp đến nên xin cho bé Ngọc ở lại làm con nuôi, nếu chúng tôi may mắn đến được đất liền, qua Mỹ lúc ấy chúng tôi có thể làm giấy tờ hội ngộ. Đề nghị tử tế và thành thật này làm chúng tôi bâng khuâng và suy nghĩ. Em tôi, Hồng và Hiến họp lại đêm hôm ấy nói rằng: Sống chết có nhau, nay đă đi đến đây chỉ c̣n một quăng đường ngắn, anh em có xui xẻo th́ xui xẻo cùng. Vợ chồng tôi đă quyết định để bàn tay Trời định đoạt”.

    Ngày 19-10-1977, nhóm vượt biên của Bác sỹ Tuệ đến Trengganu, Thái Lan, sau bốn mươi ngày lênh đênh. Cho dù có lúc sống chết chỉ c̣n trong gang tấc, chuyến đi của họ được coi là may mắn. Đoàn có 168 người, gồm sáu mươi phụ nữ và sáu mươi trẻ em, không bị nạn hải tặc, không có người bị bệnh nặng, không có người phải bỏ xác trên biển.

    Chuyến vượt biên thứ sáu cũng đă đưa Thiếu úy Phan Ngọc Vượng tới được một trại tị nạn ở Malaysia. Nhưng trước đó, chuyến vượt biên thứ năm của ông vào cuối năm 1978 đă bất thành dù có nhiều t́nh cờ may mắn. Chiếc ghe đưa họ ra khơi là loại ghe bầu chạy trên sông Tiền, thường được gọi là ghe cà dom. Đi được ba ngày, ba đêm th́ chết máy, chiếc ghe trôi vô định ngoài hải phận quốc tế, gặp gần năm chục chiếc tàu chạy qua mà không có một chiếc nào cứu giúp. Ngày thứ tư, vào khoảng 5 giờ chiều, xuất hiện một chiếc tàu tên là Hegenburger, chạy gần. Ông Vượng quyết định nhảy xuống biển bơi ra chặn đầu.
    Con tàu đồ sộ kéo c̣i giận giữ trong mấy phút rồi thả một chiếc ca-nô cùng một sỹ quan và ba người lính xuống. Ca-nô vừa chạm nước, viên sỹ quan rút súng, đạn găm ngay sau lưng ông Vượng. Rồi chiếc ca-nô chạy nhanh tới, trong tích tắc, ông Vượng được kéo lên. Viên sỹ quan hỏi: “Ông là ai?”. Ông Vượng: “Tôi là người tị nạn Việt Nam! C̣n các ông?”. Viên sỹ quan: “Chúng tôi từ Đông Đức”. Ông Vượng: “Sao ông bắn tôi?”. Viên sỹ quan: “Ông không thấy hai con cá mập nó đang dí sau lung à?”.



    Trước khi gặp thuyền trưởng, ông Vượng được đưa vô nhà hàng trên tàu, ông được đặt ngồi trước một đĩa thịt ḅ và một lon Coca. Đó là bữa ăn ngon nhất trong cuộc đời của ông Vượng. Những người trên tàu đă rất lịch sự nhưng không chịu đưa những thuyền nhân đến Hong Kong. Thoạt đầu, họ đă bỏ đi, nhưng sau khi biết cơn băo tới gần có thể nhận ch́m con tàu hỏng máy chở các thuyền nhân Việt Nam, tàu Hegenburger đă quay trở lại và sau khi thương lượng, những người vượt biên chấp nhận quay trở vào bờ tránh băo.



    Gần sáng th́ họ nh́n thấy bờ biển Vũng Tàu. Thủy thủ tàu Hegenburger báo cho chính quyền rồi quay đầu. Khoảng 5 giờ sáng, tàu công an xuất hiện. Thuyền trưởng chiếc ghe vượt biên, nguyên là một trung úy hải quân vừa đi học tập về, nhảy xuống biển. Ông Vượng biết, nếu bị bắt lại, những người như ông và viên trung úy sẽ phải mục xương trong tù. Ông Vượng cũng nhảy xuống biển. Mới bơi được mấy sải th́ một thằng nhỏ trên ghe ném cho ông miếng xốp khá lớn. Chính miếng xốp đó đă cứu mạng ông. Viên trung úy hải quân lần ấy đă không thể bơi vào bờ.
    Vài giờ sau, ông Vượng được mấy người Nga kéo lên một chiếc cano nhưng thái độ của họ khiến ông Vượng e rằng sẽ bị giao cho công an nên khi thấy một chiếc ghe câu nhỏ đi qua, ông Vượng gọi: “Ơi! Cứu anh!”. Hai thiếu niên trên ghe câu hỏi: “Vượt biên à? Nhảy đi!”. Ông Vượng nhảy xuống. Ông Vượng được hai cậu bé đưa về nhà trong một làng chài. Nghỉ ngơi, ăn uống xong, hai cậu bé đưa ông về Sài G̣n với giá một lượng vàng. Lúc đó, đi honda không hẳn là an toàn, nhưng đi xe đ̣ th́ chắc chắn không thoát v́ công an sẽ xét, nếu không có giấy đi đường là bắt liền. Chập tối, họ lên đường, và tới 11 giờ đêm th́ về tới nhà mẹ ông Vượng ở G̣ Vấp. Bà mẹ già bật khóc: “Sao lần nào đi cũng không tới nơi vậy con?”.
    Toàn bộ số người c̣n lại trên chiếc ghe cà dom bị đưa về Vũng Tàu, mọi người khai hết “tội” cho Phan Ngọc Vượng. Họ bị giam giữ tại trại Cỏ May hai tháng rồi được phóng thích. Câu chuyện Phan Ngọc Vượng một ḿnh tổ chức vượt biên, tuy không trót lọt, nhưng với tŕnh độ ngoại ngữ và khả năng ứng phó trong những t́nh huống hiểm nghèo khá tốt đă được dân vượt biên đồn thổi. Ông Vượng sau đó đă được những người giàu có chi tiền đề nghị ông chủ tŕ một cuộc vượt biên cho gia đ́nh họ. Chuyến đi ấy tổng cộng bốn mươi chín người trong đó có năm người em của ông Vượng. Khác với năm lần trước, chuyến vượt biên thứ sáu của ông may mắn bất ngờ.
    Chập tối ngày thứ tư, một tàu đánh cá Thái Lan cặp vào mạn của chiếc ghe vượt biên. Ông Vượng kể: “Tôi kêu tất cả phụ nữ chui xuống hầm, đề pḥng. Phía tàu đánh cá cho một đại diện lên gặp thuyền trưởng nói chuyện. Vào, thấy trong pḥng ông thuyền trưởng trang trí đầy tượng Phật, tôi đă thấy ḿnh may mắn. Ông thuyền trưởng hỏi: ‘Các anh cần ǵ?’. Tôi nói: ‘Cần một ít nước uống và xin chỉ đường giùm’. Ông cho nước uống và chè đỗ xanh, rồi hỏi: ‘C̣n dầu không?’. Tôi nói: ‘Thưa c̣n’. Ông chỉ tay và nói: ‘Cứ đi theo hướng này th́ chiều mai mày sẽ tới Malaysia’. Khoảng bốn giờ chiều hôm sau, chúng tôi nh́n thấy một rặng dừa”.

    Thay v́ được chào đón, khi chiếc ghe vượt biên tới gần bờ, điều mà họ nh́n thấy là những họng súng đen ng̣m trên tay mười hai cảnh sát mặc đồ rằn ri đang chĩa thẳng vào những người tị nạn. Ông Vượng, khi ấy chỉ mặc một chiếc quần jeans, quyết định nhảy xuống biển, vừa giơ hai tay, vừa đi vào. Cảnh sát quát: “Stop!”.

    Ông Vượng nói: “Refugees”. Cảnh sát: “Bao nhiêu người?”. “49”. “Có vàng, đô-la không?”. “Có”. “Ok, ra mang vàng vào đây tao cho vô”. Ông Vượng đi ra, chủ tàu lấy năm lượng cùng một ít nữ trang đưa ông Vượng mang vào bờ. Sau khi nhận vàng, cảnh sát nói: “Đục tàu đi rồi cho vô”.
    Vào băi, bốn mươi chín người phải chịu cảnh màn trời chiếu đất. Các viên cảnh sát thỉnh thoảng qua gặp nói đưa tiền, muốn mua ǵ họ mua cho. Bốn ngày sau, có thêm một tàu của người Hoa “vượt biên bán chính thức” đến. Họ có 140 người đa số là người Việt. Thêm một tuần lễ sau đó, 189 người phải tự xoay xở trên băi, đào giếng kiếm nước, lượm củi nấu ăn. Ngày thứ mười một, một người bận quân phục sỹ quan, đầu đội nón bê rê xanh đến, gặp ông Vượng, người duy nhất biết tiếng Anh, nói: “Tôi là người của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc”. Không phải ai vượt biên cũng có cơ hội gặp được người của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc.
    Ngày 27-5-1989, chỉ cần biên pḥng khám xét lâu thêm vào tiếng nữa là Phạm Thanh Tùng316 cùng chín mươi sáu người khác có thể bị đông cứng trong khoang chứa cá. Sau một hành tŕnh dài từ Sài G̣n về Châu Đốc giống như những người đi vía Bà, nhóm vượt biên của Tùng lần lượt được xếp nằm trên những chiếc xuồng chở dừa. Chủ thuyền lấy lá dừa tươi tấp lên những người vượt biên rồi chở về hướng Bắc Mỹ Thuận. Bốn giờ sáng th́ tàu cặp ghe lớn lúc đó đang neo đậu giữa ḍng.

    Tổng cộng chín mươi bảy người, gồm cả vợ con người chủ tàu, được xếp vô khoang cá. Hàng chục cây đá được xếp chồng lên nhiều lớp để che. Ra tới cửa biển th́ đụng tàu biên pḥng, cuộc khám xét kéo dài cho đến khi da một đứa trẻ trên tàu đă bắt đầu tím tái. Chủ tàu cho chạy thêm khoảng một giờ, cầm chắc đă ra khỏi tầm truy đuổi, mới huy động những thanh niên c̣n khỏe liệng hết đá cây xuống biển. Khi đó nhiều người đă lịm đi v́ rét cóng. Đó là chuyến vượt biên lần thứ mười một của Phạm Thanh Tùng. Ngày 1-6-1989, con tàu của Tùng vào tới đảo Talampuru (Philippines).

    Chỉ đi sau chuyến tàu của Tùng một ngày, ngày 2-6-1989, có một chiếc tàu vượt biên khác cũng vào gần tới đảo Talampuru. Thay v́ đậu ngoài xa chờ dẫn đường, khi thấy một cơn băo đến gần, con tàu tiến nhanh vào đảo. Tàu của họ bị kẹt vào băi san hô và ngay sau đó, con tàu bị sóng lớn đánh vỡ ra từng mảnh. Khi băo tan, chỉ có năm người sống sót bơi được vào bờ. Họ nói, con tàu khởi hành với 117 người.
    Ngày 7-8-1987, để tránh bị biên pḥng phát hiện, ông Trần Quang Phước, một cựu trung úy hải quân Việt Nam Cộng ḥa, quyết định ra đi khi Nha Khí tượng dự báo có băo cấp 7. Con tàu chở hai mươi bảy người trong đó có bốn người trong gia đ́nh ông Phước. Con trai ông, anh Trần Minh Triết kể: “Con tàu đi tới khuya th́ bắt đầu băo. Cả tàu say sóng nằm la liệt chỉ c̣n lại hai cha con. Ba tôi cầm lái. Đi tới trưa hôm sau th́ ra tới ngoài khơi xa. Ba tôi giao tay lái cho tôi. Lần đầu tiên tôi nh́n thấy những con sóng tiếp nối những con sóng, cứ ập tới con thuyền nhỏ bé như những ngọn núi. Tôi chỉ c̣n biết nghe lời cha tôi mà tiếp tục đi, chỉ biết trao thân cho đại dương, lúc nào cũng có cảm giác ḿnh sắp bị những con sóng nhấn sâu xuống ḷng biển”. Như có phép màu, chỉ bốn ngày sau, con tàu nhỏ đi tới Malaysia. Trần Minh Triết nói: “Sau mười lăm lần vượt biên không thành kể từ năm 1982, cha con chúng tôi được đưa vào trại Sungeipesi”.

    Tại trại tị nạn Sungeipesi, cuối năm 1987, Trần Minh Triết ở chung nhà với một phụ nữ trẻ. Triết kể: “Chiều chiều, xuống cầu thang, tôi thấy chị ấy cứ nép người vào một góc tối, khóc lên rưng rức. Chúng tôi phải để cho chị ấy khóc bởi chỉ cần đụng vào là chị ấy hoảng lên, co rúm lại. Không ai dám hỏi han. Trên biển, chị ấy đă bị hải tặc hiếp dâm nhiều lần”. Khi chuyển vào trại Paulo Bidong, Triết gặp một cô gái khác trạc tuổi ḿnh. Cô cùng một người khác được vớt lên và được coi là hai người sống sót trên một con tàu vượt biên bị hải tặc trên vùng biển Thái Lan. Cô gái bị hăm hiếp nhiều lần trong khi chứng kiến anh trai ḿnh bị chặt làm ba khúc. Trần Minh Triết kể: “Chiều nào cô cũng rủ tôi ra biển. Nhưng chỉ khi ánh mắt chúng tôi chạm tới biển là cô lại lăn đùng ra đất, mắt trợn ngược lên, miệng cứng lại”. Dung, tên cô gái, chỉ ở Paulo Bidong bốn mươi lăm ngày, thay v́ ở gần hàng năm như những thuyền nhân khác. Cô được một tổ chức thiện nguyện bảo lănh đưa đi chữa bệnh.

    Ông Nguyễn Văn Mai317 kể: “Trong thập niên 1980, tôi bay đến các trại tị nạn nhiều lần và chứng kiến hàng ngàn câu chuyện đau ḷng. Ở một trại tị nạn ở Thái Lan, tôi gặp một phụ nữ bị hải tặc cưỡng hiếp nhiều lần, khi được Hội Chữ thập đỏ giúp chữa trị, những vết thương của chị đă mưng mủ. Mùi hôi thối lựng một góc lán. Các bác sỹ c̣n phát hiện ra là chị bị dính thai. Thai đôi và không b́nh thường. Theo các bác sỹ th́ giữa các ngón tay của hai đứa trẻ có các màng dính, họ khuyên nên bỏ. Người chồng là một nông dân chất phác, đă có bốn đứa con, nói: đứa nhỏ này không có tội, ông trời định cho nó cái nghiệp ở trong vợ tôi th́ không có lí do ǵ để tôi phá”. Ông Mai kể tiếp: “Không ai có thể ngờ người chồng đă quyết định như thế. Khi người vợ bị hiếp, bọn hải tặc đă cầm mă tấu bắt anh và các con đứng xem”. Không ai biết chắc có bao nhiêu nạn nhân của hải tặc Thái Lan trong những ngày tháng đó. Cho đến ngày 16-4-1989, tại vùng biển Malaysia, một thuyền chở 130 người tị nạn vẫn bị hải tặc tấn công. Theo Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc, sau khi hăm hiếp phụ nữ, hải tặc đă phóng lửa đốt tàu, chỉ có một người sống sót trên chuyến vượt biên xấu số đó318.

    Tại Hội nghị Quốc tế lần II về người Tị nạn Đông Dương, tổ chức trong hai ngày 13 và 14-6-1989, UNHCR cho biết: Chỉ trong ṿng từ cuối năm 1988 cho đến tháng 6-1989 đă có hai mươi tám tàu cùng 590 thuyền nhân được ghi nhận là mất tích319.



    Theo số liệu của UNHCR, con số thuyền nhân Việt Nam đă từng cập bến các quốc gia lên đến gần một triệu người: Australia 1.750 người; Macau 7.128 người; Singapore 32.000 người; Philipines 51.722 người; Thái Lan 117.321 người; Indonesia 121.708 người; Hong Kong 195.833 người; Malaysia 254.495 người; một số không nhiều lắm cũng dừng chân ở Nhật Bản, Đài Loan, Đại Hàn320… Nhưng, biển mênh mông, những ǵ thống kê được chưa phải là toàn bộ sự thật.

    Nhiều thuyền nhân c̣n nhớ, tại trại Palawan, Philippines, có chiếc thuyền gỗ được đặt trước cửa văn pḥng Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc. Khi chiếc ghe này bị tấp vào bờ, bên cạnh những xác chết trương ph́nh, người ta thấy chỉ c̣n một phụ nữ mang thai sắp đến ngày sinh. Không ai hiểu bởi phép mầu nào, bà mẹ này cho đến lúc ấy vẫn c̣n thoi thóp. Bà đă sống sót cho đến khi sanh hạ đứa bé và kịp cho biết, con thuyền khi khởi hành có tất cả năm mươi người. Không phải chuyến vượt biên nào cũng có người sống sót để nói đến số phận của những nạn nhân c̣n lại.



    Vĩnh viễn không ai biết có bao nhiêu người Việt Nam vượt biên trong giai đoạn từ 1975 đến đầu thập niên 1990 đă bỏ ḿnh trên biển, bao nhiêu con tàu đă bị biển nhận ch́m, bao nhiêu con tàu đă bị hải tặc cướp và giết hết, bao nhiêu phụ nữ và trẻ em đă bị chúng hăm hiếp.



    Lịch sử thuyền nhân Việt Nam bắt đầu khép lại từ năm 1996, khi Liên Hiệp Quốc quyết định đóng cửa các trại tị nạn trong khu vực và khi cuộc sống trong nước bắt đầu dễ thở hơn, chấm dứt một bi kịch kéo dài suốt hai thập niên trên biển.


    Vẹm con HĐ bỏ thêm cái h́nh này vô.

  10. #20
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương VII : “Giải Phóng”


    16/12/2012 · bởi Bộ đội làm báo

    http://bodoilambao.wordpress.com/201...ii-giai-phong/



    Cuộc chiến tranh được gọi là giải phóng có thực sự giải phóng sau những ǵ mà những người cộng sản áp dụng tại miền Nam (Sài G̣n thay đổi/ Kinh tế mới/ Đốt sách/ Cạo râu/ “Cách mạng là đảo lộn”/ Ḷng người/ Những người sinh ra không đúng cửa/ “Cánh cửa” Thanh niên xung phong/ Cửa không đủ rộng/ “Nổi loạn”/ “Sài G̣n lại bắt đầu ghẻ lở”).



    *

    *



    Sài G̣n thay đổi



    Nhiều người Việt đă cầm súng với niềm tin họ chiến đấu là để giải phóng miền Nam. Trong suốt nhiều thập niên, truyền thông nhà nước đă lặp đi lặp lại điều này như là chân lư. “Giải phóng” là cách nói để mô tả sự kiện kết thúc vào ngày 30-4-1975. “Giải phóng” là từ không chỉ được dùng bởi những người đi từ trong các chiến khu mà c̣n được nói như một phản xạ tự nhiên của không ít người dân. Có hàng triệu người đă bỏ nước ra đi, nhưng hàng chục triệu người miền Nam vẫn chọn con đường ở lại, rồi chính họ sẽ có những trải nghiệm đáng nhớ về “giải phóng”.
    Sài G̣n thay đổi

    Chiều 2-5, từ trường Petrus Kư, Ban Kinh tài Thành ủy đưa nhóm ông Vơ Văn Kiệt sang “tiếp quản” nhà 222 và 224 đường Phan Thanh Giản321. Ngôi nhà này vốn là nơi ở của tùy viên quân sự Anh. Người giúp việc cho ông tùy viên lại cũng là một cơ sở bí mật của Cách mạng. Ông Vơ Văn Kiệt tới, gia đ́nh rất mừng, và từ hôm đó họ trở thành “cán bộ Thành ủy”.

    Lại nói về người lái chiếc xe GMC chở “đại quân” vô Sài G̣n chiều 30-4. Khi đưa ông Kiệt tới trường Petrus Kư, Tư Thạch kêu anh lái xe quay lại đón những anh em đi sau. Xong việc, Tư Thạch cho anh về. Tới chiều ông Kiệt hỏi: “Hai chú tài xế chiều nay đâu?”. Anh em nói: “Ảnh về rồi”. Ông Kiệt kêu: “Có hỏi tên tuổi, nhà cửa người ta không?”. Không ai hỏi cả.

    Trong ngày hôm đó, biết bao người đă “xuống đường”, rất nhiều người trong số họ đă làm một việc ǵ đó rồi trở thành “cán bộ”, lớp cán bộ về sau được gọi là “Cách mạng 30-4”; rất nhiều người khác, sau khi “phục vụ cách mạng”, đă trở về nhà và đă vô danh như thế.

    Chiều 2-5-1975, khi t́nh h́nh đă tạm ổn định, ông Kiệt kêu Chín Anh về B́nh Thạnh kiếm gia đ́nh ông Sáu Hoa. Gia đ́nh ông Sáu Hoa là một cơ sở nuôi giấu “Việt Cộng” trong nội thành từ đầu thập niên 1950. Giữa năm 1956, ông Lê Duẩn được ông Nguyễn Văn Linh đón lên Sài G̣n và đưa về giấu trong nhà ông Sáu Hoa gần ba tháng. Năm 1963, từ Củ Chi, ông Vơ Văn Kiệt cũng vào Sài G̣n trên một chuyến xe do Sáu Hoa lái ra đón. Cùng với nữ giao liên Sáu Trung, từ đó, theo yêu cầu của ông Kiệt, Sáu Hoa sẽ c̣n đưa ông Kiệt đi lại công khai nhiều lần. Khi từ Trung ương Cục xuống Khu IX nhận chức bí thư khu ủy, ông Kiệt đă dùng xe của Sáu Hoa đi công khai từ Châu Đốc xuống Rạch Giá. Ông Kiệt cũng đă từng ở lại căn nhà 99/9 Nơ Trang Lơng, B́nh Thạnh của Sáu Hoa. Từ đây, một người cháu của ông, Chín Anh, sẽ theo ông Kiệt ra “Khu”.

    Chiều 1-5-1975, Chín Anh về B́nh Thạnh. Chiếc U-oat322 đi tới đâu, người dân nghiêng ngó, xầm x́ tới đó, và khi nó quẹo vô hẻm 99/9, bà con ngỡ ngàng. Mấy đứa con nhà Sáu Hoa kêu to: “Việt cộng! Việt cộng!”. Có lẽ bọn trẻ cũng không biết đó là tiếng kêu mừng hay sợ. Cho đến lúc này, vợ chồng ông Sáu Hoa vẫn hết sức dè dặt, cái dè dặt của người hoạt động trong ḷng đối phương quá nhiều năm và đă gặp quá nhiều bất trắc. Lúc đó, vẫn chưa có ai trong xóm biết rơ Sáu Hoa là “Cộng”, kể cả mấy người con của ông. Nhưng lũ trẻ nhanh chóng nhận ra một trong mấy ông đi xe là Chín Anh. Bấy giờ th́ chúng mừng rỡ thật.

    Chưa kịp ngồi xuống, Chín Anh nói: “Chú Sáu Dân cho gọi bác lên gặp ổng gấp”. “Ảnh ở đâu?”, Sáu Hoa lập cập hỏi. “Th́ bác thay đồ lẹ lên, sáng giờ ổng nhắc bác hoài”, Chín Anh giục. Sáu Hoa khoác vội áo, ra xe. Tới nơi, ông Kiệt chạy ra tận cửa, hai người ôm lấy nhau: “Mạnh hả? Hết chết rồi hả?”. Hai ngày sau, ông Kiệt về nhà Sáu Hoa ăn bữa cơm đoàn tụ. Ông ôm từng đứa con của vợ chồng Sáu Hoa, ḷng lặng đi. Tính mạng của những thiếu niên này đă từng bị đe doạ ngay chính trong ngôi nhà đó, trong suốt những năm ông Lê Duẩn, ông Nguyễn Văn Linh và ông Kiệt sống bí mật ở đây. Ông Kiệt bước tới, bước lui, lên gác, nh́n căn pḥng, sờ những đồ vật quen thuộc, những thứ đă từng che cho ông sống.

    Năm 1957, trước khi ra Bắc, ông Lê Duẩn triệu tập Xứ ủy sang Phnom Penh và quyết định điều ông Vơ Văn Kiệt về Sài G̣n thay ông Linh làm bí thư Khu ủy. Sài G̣n cuối năm 1958, khi ông Kiệt đặt chân trở lại, không c̣n b́nh yên. Chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đánh tróc từng cơ sở của những người cộng sản. Những cấp ủy viên mà ông Kiệt nhận bàn giao từ Phnom Penh lần lượt bị giết hoặc vô tù. Ông Kiệt đành phải tiếp cận Sài G̣n qua ngả Gia Định. Ông nhận thấy nếu có Gia Định th́ Sài G̣n sẽ “tiến thoái” dễ hơn. Ông đề nghị sáp nhập Gia Định vào Khu ủy Sài G̣n và được Trung ương chấp thuận.

    Sau ngày 30-4-1975, trước nhu cầu sắp xếp cho hàng loạt bí thư khu ủy, tỉnh ủy từ trong rừng ra, việc định lại địa giới hành chánh đă có nhiều bàn căi. Theo ông Nguyễn Thành Thơ323: “Ngày 3-5-1975, anh Mai Chí Thọ mời tôi tới truyền đạt chủ trương tách T4324: tôi làm bí thư Sài G̣n; anh Mai Chí Thọ làm bí thư tỉnh Gia Định. Rồi anh Mai Chí Thọ kêu tôi bàn giao hết”. Sau khi “bàn giao gần hết cho ông Mai Chí Thọ”, ngày 5-6-1975, ông Thơ lại nhận được thư mời tới số 7 Thống Nhất325, nghe ông Vơ Văn Kiệt phổ biến chính thức: “Trung ương Cục không tán thành tách Sài G̣n-Gia Định, vậy anh là phó bí thư Thành ủy, công việc cũ không thay đổi, nay mai sẽ giao việc mới cho anh”.

    Trong thời kỳ quân quản, ông Vơ Văn Kiệt là bí thư Đảng ủy Đặc biệt, đồng thời được giới thiệu là bí thư Thành ủy Sài G̣n-Gia Định. Ngày 20-1-1976, Chủ tịch Hội đồng Chánh phủ Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam Huỳnh Tấn Phát kư Quyết định 03, thay thế Ủy ban Quân quản bằng Ủy ban Nhân dân Cách mạng, chức chủ tịch được giao cho ông Vơ Văn Kiệt; chức bí thư Thành ủy được giao cho ông Nguyễn Văn Linh; ông Mai Chí Thọ lănh chức phó chủ tịch Ủy ban kiêm giám đốc Công an Thành phố.

    Trong buổi lễ bàn giao tổ chức vào sáng 21-1-1976 tại Dinh Độc Lập, Thượng tướng Trần Văn Trà cho rằng: “Chúng ta đă nắm chắc t́nh h́nh trong tay, chế độ cách mạng đă được bảo đảm vững chắc, trật tự trị an ngày càng ổn định. Thành quả ấy đạt được nhờ… nhân dân đă thực sự tham gia xây dựng chính quyền của ḿnh”326.

    Tháng 12-1976, sau Đại hội Đảng lần thứ IV, ông Vơ Văn Kiệt trở thành ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị; ông Nguyễn Văn Linh là ủy viên chính thức, được điều về Trung ương, chức bí thư Thành ủy giao lại cho ông Kiệt. Từ trước đó, ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận là chính ông đă thúc đẩy việc lấy tên Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức đặt cho Sài G̣n-Gia Định.

    Mấy câu thơ: “Ai đi Nam Bộ / Tiền Giang, Hậu Giang / Ai về Thành phố Hồ Chí Minh / Rực rỡ tên Vàng…”327, mà Tố Hữu viết tháng 8-1954, khi Hồ Chí Minh c̣n nắm quyền, được coi là “sáng kiến thành văn” đầu tiên về việc đặt tên mới cho Sài G̣n. Có lẽ v́ Tố Hữu khi ấy không chỉ là một nhà thơ “anh cả” mà c̣n là trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, nên ư kiến của ông gần như được mặc nhiên thừa nhận. Lịch sử cũng không ghi nhận bất cứ một phản ứng nào từ Hồ Chí Minh. Các văn nghệ sỹ cách mạng cũng coi đó là “vinh dự” của Sài G̣n.

    Trong tuần lễ trước ngày 30-4-1975, nhạc sỹ Cao Việt Bách đă đặt tên cho một bài hát của ḿnh là Tiếng Hát Từ Thành Phố Mang Tên Bác. Bản Thông cáo ngày 3- 5-1975 về việc thành lập Ủy ban Quân quản cũng nói: “Thành phố Sài G̣n, thành phố được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Ngày 6-5-1975, tờ Sài G̣n Giải Phóng ra đời. Sau đó, tờ Tin Sáng, tờ báo của những người thuộc “lực lượng thứ ba” của Sài G̣n trước 30-4-1975, trên nhiều chuyên mục cũng cho chạy những hàng tít lớn: Thành phố Hồ Chí Minh…

    Tuy nhiên, tại kỳ họp đầu tiên của quốc hội thống nhất, khai mạc tại thủ đô Hà Nội ngày 25-6-1976, ông Trường Chinh đă không hoàn toàn đồng ư với cách đặt vấn đề của ông Vơ Văn Kiệt. Khi ông Kiệt đề nghị Bộ Chính trị để Quốc hội “công nhận Sài G̣n mang tên Thành phố Hồ Chí Minh”, ông Trường Chinh nói: “Quốc hội không phải công nhận mà là xem xét việc đặt tên cho thành phố, v́ chỉ Quốc hội mới có thẩm quyền này”.

    Ông Vơ Văn Kiệt nhớ lại: Đến giờ giải lao, ông vào pḥng dành riêng cho chủ tịch đoàn ở phía sau Hội trường Ba Đ́nh, nơi có mặt Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh, phản đối: “Tại sao Quốc hội lại c̣n phải đặt tên cho Thành phố trong khi chỉ là thừa nhận một sự thật lịch sử?”. Ông Trường Chinh dứt khoát: “Lịch sử phải có văn bản, chưa có văn bản nào nói Sài G̣n đă được đổi tên”. Ông Kiệt nói:

    “Lịch sử có nhiều điều không có văn bản”. Ông Trường Chinh ôn tồn: “Thường người ta lấy tên lănh tụ đặt cho thủ đô”. Ông Vơ Văn Kiệt căi: “Thưa anh, tên của Lênin có phải đặt cho thủ đô đâu!”. Ông Trường Chinh vẫn kiên định: “Quốc hội vẫn phải là cơ quan quyết định việc này”. Ông Kiệt không thể thuyết phục ông Trường Chinh, đành đề nghị: “Nếu như các anh đưa ra Quốc hội quyết định th́ các anh phải giải tŕnh đầy đủ quá tŕnh Thành phố mang tên Bác”. Trước Quốc hội, ông Trường Chinh chỉ nói rất ngắn gọn về việc đổi tên Sài G̣n.

    Nhiều năm sau, ông Vơ Văn Kiệt mới hiểu ông Trường Chinh lưỡng lự không chỉ v́ vấn đề thủ tục. Ông Kiệt nói: “Anh Trường Chinh muốn giữ tên Sài G̣n, một cái tên đă được biết đến suốt gần 300 năm”. Tuy nhiên, trong suốt hàng chục năm, Hồ Chí Minh đă được cả hệ thống chính trị suy tôn làm “Cha Già Dân Tộc”, nên khi có người muốn lấy tên ông đặt cho Sài G̣n th́ không ai dám đứng ra ngăn cản. Quốc hội đă dễ dàng biểu quyết việc đổi tên Sài G̣n; cũng như, vào lúc 8:20 sáng ngày 2-7-1976, đă dễ dàng đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thành nước Cộng hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam.

    Trước đó, tháng 8-1975, một loạt đường phố ở Sài G̣n cũng đă được Tuyên huấn Thành ủy cho đổi tên. Tên của các liệt sỹ cách mạng đă được dùng để thay cho tên của những vua chúa, danh nhân thời “đế quốc phong kiến”: Lư Tự Trọng thay thế Gia Long, Vơ Thị Sáu thay thế Hiền Vương, Lư Chính Thắng thay cho cụ Tam Nguyên Yên Đỗ,… Các sự kiện mà những người cộng sản đă ghi vào lịch sử cũng được sử dụng để đổi mới các tên đường như Cách Mạng Tháng Tám, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Đồng Khởi… Người dân Sài G̣n tức cảnh: “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lư / Đồng Khởi lên rồi hết Tự Do”. Những thay đổi của miền Nam, của Sài G̣n, không chỉ ở trên những tên đường, tên phố.



    Kinh tế mới



    Đầu năm 1977, cậu bé Thái Cẩm Hoàng328 thấy nhà ḿnh thường xuyên có khách. Ông tổ trưởng tổ dân phố cùng vài cán bộ ngày nào cũng tới vận động gia đ́nh đi kinh tế mới. Ông nói với mẹ Hoàng: “Chị phải đi th́ chồng chị mới được về sớm”. Cha Hoàng, Đại úy Thái Tú B́nh, đại đội trưởng đại đội chiến tranh chính trị thuộc tiểu khu Quảng Nam, giờ ấy đang là tù cải tạo. Ông B́nh bị bắt ngay sau ngày 29-3-1975, ngày Đà Nẵng được “giải phóng”.

    Cuối tháng 3-1975, Hoàng – năm ấy lên bảy – theo mẹ di tản vào Sài G̣n. Ở băi biển Đà Nẵng, Hoàng đă phải bước trên những xác chết để lên tàu. Kết thúc chiến tranh, Chính quyền Sài G̣n yêu cầu người dân trở về quê cũ, Thái Cẩm Hoàng và các em được mẹ đưa trở lại Hội An, mở một tiệm chạp-pô. Buôn bán khó khăn nhưng trong thời gian đó, mẹ Hoàng c̣n phải bỏ tiệm đi đắp đập Phú Ninh hơn ba tháng. Hoàng kể: “Một hôm, vừa đói, vừa nhớ mẹ quá, tôi đi bộ từ Hội An lên Đà Nẵng t́m đến nhà d́. Cả nhà hoảng hốt đi t́m. Khi trở về, ông chú đánh cho một trận. Đánh xong, ông ôm tôi vào ḷng, khóc”.

    Mẹ Hoàng h́nh dung được điều ǵ chờ đợi gia đ́nh ở khu kinh tế mới. Nhưng đấy không phải là lựa chọn của những người vợ lính. Hàng xóm chạy qua chạy lại, những người có cùng hoàn cảnh chỉ biết nh́n nhau gạt nước mắt. Biết không thể “chống chính quyền cách mạng”, trước thời điểm rời Hội An, mẹ Hoàng nhờ bà nội qua sống cùng, hy vọng giữ lại được căn nhà. Bà nội tuổi cao, chính quyền không thể buộc bà đi kinh tế mới.

    Ngày đi, từ sáng sớm, xe ca mấy chục chiếc đậu trên đường Phan Chu Trinh, nối đuôi nhau từ trường Bồ Đề đến sân Ty Thông tin Chiêu hồi. Thoạt đầu bọn trẻ con rất vui v́ sắp được đi chơi xa, nhưng khi thấy người lớn khóc, bọn trẻ bắt đầu hiểu vấn đề nghiêm trọng hơn chúng tưởng. Xe chạy ba ngày hai đêm th́ hết đường. Đoàn xe ca dừng lại, chờ xe ủi, ủi đường tới đâu th́ tiến vào tới đó. Chập tối, đoàn xe dừng lại cho mọi người lấy đồ đạc rồi quay về, để lại hơn ngh́n con người giữa rừng.

    Hoàng nhớ lại: “Hôm sau, các gia đ́nh được chia đất. Từ người lớn cho tới trẻ con đều phải đi chặt cây làm nhà”. Mấy ngày tiếp đó, một đoàn xe tải khác đến, Chính quyền cấp cho dân kinh tế mới khẩu phần lương thực đủ ăn trong ba tháng. Hoàng kể: “Khi biết đoàn người mới đến dựng nhà là dân miền Nam, đồng bào ở buôn Chư Cà Ti, huyện Krongpak, Daklak, đă chủ động sang giúp. Đó là một khu vực đêm đêm Fulro vẫn quấy phá chính quyền nhưng Fulro để yên cho người Thượng và dân kinh tế mới. Chiều chiều, bọn trẻ vẫn cắt rừng đi lấy nước ở sông Ana, cách đấy hàng cây số”.

    Chính sách được thi hành ở mỗi địa phương thường có những điểm khác nhau. Không phải ở đâu vợ con những người đang ở trong các trại cải tạo cũng phải đi kinh tế mới. Nhiều địa phương coi đưa dân ra khỏi thành phố là để phân bố lại lao động và giải tỏa những áp lực xă hội nảy sinh sau ngày 30-4-1975. Ông Nguyễn Văn Ly, tên thường gọi là Tư Kết, năm 1975 là thư kư riêng của ông Mai Chí Thọ329, kể: “Mỗi đêm, vào khoảng mười một giờ, tôi lại cập nhật các báo cáo nhanh của công an và Bộ Tư lệnh Thành. Không có báo cáo nào là không nói về t́nh h́nh người tự tử. Thỉnh thoảng, anh trai của ông Mai Chí Thọ là Tướng Đinh Đức

    Thiện qua thành phố, ghé chơi. Thấy tôi loay hoay với mấy bản báo cáo, ông hỏi, ‘T́nh h́nh sao?’. Tôi kể cho ông t́nh trạng nhiều người cảm thấy bế tắc dẫn đến nạn tự tử ở Sài G̣n. Ông Đinh Đức Thiện nói: vậy là bỏ mẹ rồi, phải đưa đi kinh tế mới mới có công ăn việc làm cho người ta, chứ không c̣n chết nữa”. Không chỉ Tướng Đinh Đức Thiện nghĩ “kinh tế mới” có thể giải tỏa những bế tắc cho người dân miền Nam. Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 24, họp từ ngày 13-8-1975, xác định: “Cấp bách nhất hiện nay là sắp xếp công ăn việc làm cho ba triệu người. Đây là một công việc khó khăn, nhưng ta có thuận lợi lớn là có thể mở thêm ngay vài triệu hecta canh tác đất tốt, dễ làm, nhiều vùng lại không xa Sài G̣n lắm. Hướng sắp xếp là giảm bớt dân các thành thị, đưa 1,5 triệu đến hai triệu người về nông thôn, vừa sản xuất nông nghiệp, vừa sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp”.

    Chỉ sau Hội nghị Trung ương lần thứ 24 không lâu, ngày 14-9-1975, trong một cuộc làm việc với khoảng bảy mươi kiến trúc sư tại hội trường Đại học Kiến Trúc Sài G̣n, Giám đốc Sở Kiến trúc và Quản lư Nhà đất Huỳnh Kim Trương nói rằng Thành phố sẽ đưa khoảng 1,5 triệu dân “về quê lập nghiệp”. Báo Tin Sáng ngày 16-9-1975 dẫn lời ông Trương: “Từ đây cho tới cuối năm 1975 chúng ta c̣n phải giảm bớt ba trăm ngàn dân ra khỏi Thành phố Hồ Chí Minh để đưa họ về các vùng lân cận tham gia vào công tác sản xuất. Và đến hết năm 1976 sẽ có thêm một triệu hai trăm ngàn dân về quê làm ăn theo đúng chương tŕnh đă được ấn định”.

    Ông Trương cho biết: “Khoảng 600 kiến trúc sư và sinh viên sắp tốt nghiệp kiến trúc sẽ nắm giữ vai tṛ thiết kế các khu chỉnh trang, cũng như các loại nhà ở cho dân chúng. Ưu tiên này nhằm phục vụ cho các giới đồng bào lao động, những gia đ́nh cách mạng, từ lâu đă hy sinh nhiều nhưng cho đến nay vẫn c̣n ăn nhờ ở đậu”330. Ông nhấn mạnh: “Công việc của chúng ta hiện này chỉ là một cách trả ơn, trả nghĩa cho những người đó”.

    Từ những ngày cuối tháng 8-1975, chính quyền cho xe chở hàng chục ngh́n dân về quê. Tính đến đầu tháng 10-1975, có hơn 15.000 dân được đưa đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Người th́ lên B́nh Phước, Tân Phú, Tây Ninh; người th́ xuống Sóc Trăng, Kiến Tường, Vĩnh Long. Chỉ riêng tháng 10-1975, đă có “hơn 100.000 đồng bào Thành phố lên đường xây dựng vùng kinh tế mới. Tính cả gần năm tháng sau giải phóng, đă có gần 240.000 người phấn khởi trở về quê cũ làm ăn”331. Ngày 28- 10-1975, hội nghị mở rộng của Thường vụ Thành ủy chính thức thông qua chủ trương “đẩy mạnh cuộc vận động chính trị sâu rộng trong quần chúng nhân dân nhằm đưa 1,5 triệu người không có công ăn việc làm đi xây dựng các vùng kinh tế mới”.

    Trước đó, theo “Bản Báo cáo về Thực trạng và Khả năng Kinh tế miền Nam” được ông Nguyễn Văn Nam, một quan chức của Ủy ban liên lạc công thương đọc tại “Nhà hát Tây”332 ngày 4-8-1975: “Phân bố lại lực lượng lao động trong cả nước là yêu cầu khách quan cần thiết của đất nước”. Bản Báo cáo cho rằng: “Nền kinh tế do Mỹ để lại chỉ là một sự phồn vinh giả tạo. Kẻ thụ hưởng chỉ là các tầng lớp tư sản quan liêu c̣n đại đa số quần chúng vẫn sống một cuộc đời cơ cực, không có ngày mai”333.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 11
    Last Post: 24-07-2011, 11:06 PM
  2. Replies: 13
    Last Post: 29-12-2010, 08:13 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 21-09-2010, 02:50 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •