Page 3 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 21 to 30 of 45

Thread: Bên thắng cuộc - Huy Đức

  1. #21
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương VII : “Giải Phóng”
    P2



    Không phải mọi người dân đi kinh tế mới đều bị ép buộc. Theo ông Nguyễn Thành Thơ: “Anh Phạm Văn Xô phụ trách vấn đề kinh tế mới, anh Kiệt giao cho tôi phục vụ anh Hai Xô. Nhiệm vụ của tôi là làm việc với từng địa phương để nắm các đối tượng phải đi kinh tế mới. Tôi thấy nhiều người dân ở trong những căn nhà chật chội, cạnh ao tù, nghèo đói. Chúng tôi vận động th́ họ vui vẻ đi”. Ngay cả ông Tư Kết, đang là thư kư riêng của một nhân vật quyền bính như ông Mai Chí Thọ, cũng tin tưởng vào chính sách này nên đă cùng với anh trai khuyên mẹ, một “bà má phong trào”, bán căn nhà của bà ở Bùi Viện, Quận 1 để đi kinh tế mới. Các quận đoàn lúc ấy đă cử đoàn viên thanh niên, tiên phong phát hoang, mở đường, làm nhà, lập các làng mới trước khi đưa bà con lên.

    Theo ông Nguyễn Thành Thơ, nhà nước cấp đất đai, nhà cửa, gạo và tiền để sống ba tháng đầu. Nhưng thực tế không như mơ tưởng, nhất là với những người dân trước đó quen sống ở thành phố có điện, có nước, chỉ biết ngồi bàn giấy hay buôn bán, nay bỗng nhiên phải cuốc đất, trồng khoai ở nơi thâm sơn. Ông Nguyễn Thành Thơ thừa nhận, ăn hết tiền, hết gạo do Nhà nước cấp, nhiều người dân lục tục bỏ về. Các thành phố lại phải gánh chịu thêm những áp lực mới, nhất là từ những người dân bỏ kinh tế mới về khi nhà cửa không c̣n, do đă bán đi trước đó hoặc do bị coi là nhà “vắng chủ” đă bị “Cách mạng 30-4” nhảy vào “chốt” mất.

    Không phải khu kinh tế mới nào cũng cho dân quay trở về thành phố một cách dễ dàng. Mỗi khi người dân trong vùng kinh tế mới Krongpak, Daklak, muốn về thăm quê đều phải cắt rừng đi từ nửa đêm. Mỗi gia đ́nh chỉ đi mỗi lần một hai người để tránh bị chính quyền để ư. Có rất ít người nghĩ tới việc bám trụ lại, nhưng những người vợ lính vẫn lo sợ, nếu trốn, chồng ḿnh sẽ không sớm được về. Gần một năm sau, khi t́nh h́nh có vẻ yên yên, mẹ của Thái Cẩm Hoàng mới lén gửi Hoàng về Hội An đi học. Nhưng ngay trong năm kế tiếp, khi về thăm lại Hội An lần đầu tiên, mẹ Hoàng đưa hai đứa em về và mang Hoàng lên để chính quyền trên khu kinh tế mới khỏi nghi ngờ. Ba tháng sau, bà mới dám gửi Hoàng về lại.

    Tháng 4-1979, ông Thái Tú B́nh được tha. Ông viết thư nhắn vợ bỏ khu kinh tế mới về, dự định sẽ đưa cả nhà vượt biên theo Phương án II. Bức thư ông B́nh gửi vợ ở khu kinh tế mới mà cứ như đang ở trong chiến khu: “Con ở trên đó ráng xây dựng kinh tế mới, để chồng con sớm được về. Trong xóm có ông Giới đă được về rồi con ạ”. Mẹ Hoàng nhận thơ, rơi nước mắt v́ nhận ra nét chữ chồng ḿnh. Giới cũng là tên ông Thái Tú B́nh mà chỉ người trong nhà mới biết. Bốn tháng sau mẹ Hoàng mới bế được cậu em út về gặp cha sau khi t́m cách gửi một đứa con, một đứa cháu về trước. Khi ấy, Phương án II đă bị cắt.

    Một lượng lớn người dân thuộc diện “hồi hương” hoặc đi kinh tế mới sau đó đă quay trở về Thành phố. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 1975-1980, vẫn c̣n hơn 700.000 người dân đă từng sống ở Sài G̣n trước ngày 30-4-1975 không có cơ hội quay lại Sài G̣n sau khi bị buộc “hồi hương” hoặc bị đưa đi kinh tế mới334. Từ 1976- 1995, có gần 4,5 triệu người từ các địa phương trên cả nước được đưa đi xây dựng vùng kinh tế mới335.



    Đốt sách



    Năm 1953, khi từ Việt Bắc trở về, ông Vơ Văn Kiệt được phân công trở lại Bạc Liêu làm phó bí thư Tỉnh ủy, bí thư là ông Ung Văn Khiêm. Cũng trong những ngày đó, ông Kiệt đă cùng với các đồng chí của ḿnh xây dựng một “xă hội lư tưởng” trong “vùng giải phóng”: Cách mạng cấp hàng trăm ngh́n héc-ta đất cho nông dân, xoá bỏ chế độ tô tức của địa chủ, phát triển các mặt chính trị, văn hóa, y tế, giáo dục. Ông Kiệt nhớ lại: “An ninh tuyệt vời, nhà không phải khóa, vườn không phải rào; vệ sinh từ nhà ở đến xóm ấp đều sạch sẽ; dân chúng hát những bài ca cách mạng, xem văn công cách mạng”.

    Ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận, vào năm 1975, ông cũng mong muốn xây dựng ở Sài G̣n “một xă hội lành mạnh” như ông đă từng làm ở Bạc Liêu. Như nhiều địa phương lúc bấy giờ, một trong những công việc đầu tiên mà chính quyền quân quản Sài G̣n ra tay là “chiến dịch quét sạch những tàn dư văn hoá phản động và đồi truỵ”. Thành đoàn Thanh niên Cộng sản đă đứng ra thực hiện chiến dịch này.

    Ngày 23-5-1975, trên nhiều đường phố Sài G̣n, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô to nhiều khẩu hiệu đả đảo văn hoá ngoại lai đồi truỵ mất gốc phản động. Đi đầu là xe phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung kích bài trừ văn hoá dâm ô phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ Thành phố, số 4 Duy Tân. Đoàn diễu hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay…”336.

    Người dân đă đổ xô ra hai bên đường xem rất đông. “Bản hiệu triệu” mà “đoàn diễu hành” đă dùng loa phóng thanh phát oang oang, có đoạn: “Mỹ đă cút, ngụy đă nhào, Miền Nam đă hoàn toàn giải phóng… Tuy vậy, c̣n rất nhiều khó khăn phải khắc phục. Dù đế quốc Mỹ đă nhục nhă rút lui, bọn Ngụy quyền và tay sai đă tan ră, nhưng sau hơn hai mươi năm cai trị, chúng đă để lại một xă hội băng hoại, sa đoạ, đầy rẫy người ăn xin, cao bồi, gái điếm, nghiện ngập; một nền kinh tế ăn bám, thiếu sản xuất; một nền văn hoá nô dịch, mất gốc, đồi truỵ, phản động. Cùng với sự xâm lăng bằng súng đạn, xâm lăng kinh tế, chúng nó đă cho xâm nhập hàng loạt sách báo, phim ảnh dâm ô, cổ động chủ nghĩa khoái lạc vật chất, xô đẩy thanh niên vào hố sâu tội lỗi. Bọn tay sai bán nước, trí thức vong bản đă đầu độc quần chúng, thanh niên, học sinh sinh viên bằng những tư tưởng phản động, ru ngủ, bưng bít lịch sử, chống lại Cách mạng. Đứng trước những tàn dư do Mỹ Thiệu để lại, đứng trước yêu cầu của Cách mạng nhằm tạo dựng một nền sống mới, một con người mới từ suy nghĩ tới hành động, nhiệm vụ của đồng bào và thanh niên ta hiện nay là tẩy xoá tận gốc rễ nền văn hoá nô dịch mất gốc, đồi trụy, phản động để thay thế vào đó một nền văn hoá dân tộc, cách mạng và lành mạnh… ”337.

    Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, “đồng bào và các tiệm sách đă đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lư cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng ngày này, 22-5-1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài G̣n 3 đă tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi truỵ phản động bốn ngàn cuốn sách các loại”338.

    Ông Vơ Văn Kiệt nh́n nhận, ngay từ ngày 28-5-1975, Quân quản đă cảnh báo thanh niên, sinh viên học sinh: “Chúng ta không bao giờ chủ trương đốt sách”, và nói rơ “Chiến dịch chỉ thu hồi các sách báo mang nội dung đồi trụy, đầu độc tinh thần thanh thiếu niên, bóp méo xuyên tạc cuộc chiến dành độc lập tự do của dân tộc”. Tuy nhiên, trong một không khí hết sức cách mạng được lănh đạo bởi người mới từ trong rừng ra, sự “nhầm lẫn”, sự “quá tay” là không tránh khỏi. Các đội “thanh niên xung kích” nhiều khi đă không cần phân biệt những sách y học có vẽ cơ thể người với những tranh ảnh khỏa thân khiêu dâm, không phân biệt sách triết học với sách chống cộng. Nhiều trí thức đă t́m gặp ông Kiệt để phản ánh t́nh h́nh, nhưng, như ông Kiệt nh́n nhận: “Cả tôi và chính quyền đă phải mất khá lâu mới nhận ra những sai lầm đó”339.

    Điều khó khăn theo ông Dương Đ́nh Thảo, giám đốc Sở Văn hóa Thông tin, là làm sao để xác định như thế nào là một văn hoá phẩm xấu. Một cơ quan tuyển chọn đánh giá văn hóa phẩm sau đó đă được ông Vơ Văn Kiệt cho thành lập. Tuy nhiên, trước khi có những đánh giá cẩn trọng, các nhà báo cách mạng đă thỏa sức đưa ra các tiêu chí của ḿnh.

    Tư Cua, một cây viết “cà rỡn” trên mục Sài G̣n Đó Đây của báo Sài G̣n Giải Phóng đă mượn chuyên mục của ḿnh để “tuyên ngôn” nhiều giá trị văn hóa đậm màu quân quản: “Một đồng bào và cũng là độc giả của báo Sài G̣n Giải Phóng đến toà soạn than thở: Trên một chuyến xe buưt Sài G̣n – Lăng Cha Cả, ngày 29-5, chiếc xe mang số EG 6198, đồng bào rất bực ḿnh v́ phải nghe chủ xe mở băng nhạc gồm những bản nhạc ră rời, rên rỉ, dă dượi như người mất hồn: “Khi biết em mang kiếp cầm ca / Đêm đêm pḥng trà / Mang tiếng hát cho mọi người”. Độc giả này than phiền rằng giữa lúc mọi người đang phấn khởi xây dựng một xă hội mới mà ông chủ xe buưt lại cho đồng bào nghe những thứ mà hồi Mỹ-Ngụy chúng nó dùng để ru ngủ tuổi trẻ, như thế có phải là trật đường rầy không?… Thời buổi này làm chi c̣n có cái “kiếp cầm ca”, c̣n đâu có “đêm đêm pḥng trà”, làm chi có chuyện “chỉ c̣n anh thôi, chỉ c̣n em thôi”… Bây giờ là lúc ta có tất cả, c̣n tất cả, chớ đâu có cái lạc lơng bơ vơ, sờ soạng “chỉ c̣n anh, chỉ c̣n em” như thế”340.

    Tư Cua c̣n định nghĩa về “sách xấu”: “Nghe nói, trong đám sách ngổn ngang đó, có những tác giả nay đă phủ nhận quê hương, xa ĺa dân tộc, chuồn ra ngoại quốc, làm nô lệ đi xin cơm, xin áo ở xứ người! Họ biết không nhỉ! Nghe nói, trong số đám sách ngổn ngang đó, có những cuốn sách đă ru ngủ họ trong suốt hai mươi mốt năm dài chiến tranh và mất nước, ngược lại đă đánh thức những “con heo” trong ḷng họ dậy và đă biến cả Sài G̣n thành một “ổ điếm khổng lồ”341.

    Ngà y 30-10-1975, trên báo Sài G̣n Giải Phóng, chính quyền công bố một danh sách năm mươi sáu tác giả có tác phẩm bị liệt vào hàng “phản động, dâm ô, đầu đôc̣ ”, bi ̣cấ m lưu hà nh, trong đó có Hoà ng Ngoc̣Liên, Hà Huyề n Chi, Phan Nghi,̣ Vơ Hữ u Haṇ h, Nguyên Vu,̃ Lê Xuyên, Nhă Ca, Văn Quang, Chu Tử , Doăn Quố c Sı,̃ Thanh Tâm Tuyề n, Mai Thả o, Dương Nghiễm Mậu.… Nhưng, ngay khi những cuốn sách đầu tiên bắt đầu được đốt ngoài đường bởi Thành đoàn, cũng như nhiều chủ nhà sách khác, chủ nhà xuất bản Cảo Thơm, ông bà Hồ Hải Trần Thế Nam342, đă họp với cộng sự của ông là gia đ́nh ông bà Nguyễn Đức Phong, bàn việc xử lư kho sách lưu trữ của Cảo Thơm.

    Trước năm 1954, ông Hồ Hải đă từng có một tiệm sách ở Bờ Hồ. Khi rời Hà Nội di cư vào Sài G̣n, ông cho xuất bản Vang Bóng Một Thời, tập sách được coi là đẹp nhất thời bấy giờ. Chính quyền Sài G̣n thời Ngô Đ́nh Diệm lúc đầu cấm v́ tác giả của nó, nhà văn Nguyễn Tuân, đang sống ở Hà Nội, nhưng bộ máy kiểm duyệt sau đó đă chấp nhận. Cuối thập niên 1960, ông Trần Thế Nam cùng với ông Nguyễn Đức Phong thành lập nhà xuất bản Cảo Thơm. Do ông Phong đang là công chức nên ông Trần Thế Nam đứng tên.

    Ngay sau khi quân Giải phóng vào Sài G̣n, cũng như các cơ sở in ấn khác, nhà in số 326/20 Vơ Di Nguy343 của Cảo Thơm bị chính quyền Quân quản quản lư. Số sách vở để bên nhà 326/18 bắt đầu được phân ra: Những tập sách khảo cứu của Nguyễn Hiến Lê, sách Lịch sử Triết học Đông phương của Giản Chi, thơ Nguyễn Nhược Pháp, Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân… th́ được chia nhỏ, giao cho người già, trẻ em mang đi giấu hoặc gửi ở nhà người quen344. Những sách “thị trường” khác th́ Cảo Thơm huy động toàn bộ nhân lực trong hai gia đ́nh, xé ra rồi âm thầm bán cho các bà đồng nát345.



    Cạo râu



    Từ “văn hóa phẩm”, Cách mạng muốn thay đổi đến tận gốc rễ cuộc sống của người dân. Tháng 10-1975, đợt phát động thanh niên “hớt tóc ngắn, sửa quần áo lai căng” bắt đầu được triển khai. Ở Quận 10, Đoàn Thanh niên Cộng sản liên tục mở nhiều cuộc thảo luận về “tư cách tác phong của người thanh niên” và Quận Đoàn đă đi đến quyết định: “Hớt tóc ngắn, sửa lại áo, eo quần loe, quần bó, không mang áo hở ngực, không ăn mặc lố lăng, sặc sỡ… Quận đoàn đă liên hệ với một số tiệm hớt tóc và nhà may để giới thiệu anh em đến hớt tóc và sửa lại áo quần với giá rẻ và mở ba địa điểm hớt tóc miễn phí tại phường Nhật Tảo và tại trụ sở quận đoàn”346.

    Khi tường thuật một “phiên ṭa quân sự”, trước khi nói rơ tội trạng của các bị cáo, báo chí đă dành nhiều ḍng để bày tỏ thái độ của Chính quyền Cách mạng về lối sống: “Lúc ấy là 13 giờ15 ngày 23-12-1975. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía vành móng ngựa khi Thượng tá Chánh thẩm truyền đưa hai can phạm vào. Cả hai đều để tóc dài phủ gáy, đều rất trẻ nhưng vẻ mặt hiện rơ nét ăn chơi, trác táng.

    Tên mặc áo sơ mi trắng bỏ ngoài quần, không cài nút cổ, là Đặng Vũ Trường, sinh viên năm thứ nhất. Tên mặc áo đen nâu phủ ngoài một chiếc áo sơ mi vàng sậm là Nguyễn Đắc Hy, quê quán ở An Cựu Đông, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Cả hai đều bị bắt quả tang vào lúc 17 giờ 30 ngày 21-12-1975, ngay sau khi chúng nổ sáu phát súng vào người anh Nghiêm Mạnh Chu để đoạt chiếc Honda-50 kiểu nữ”347.

    Chuyện “hớt tóc ngắn, sửa quần ống loe” không chỉ do những phong trào tự phát của “Cách mạng 30-4”. Ngay từ ngày 3-5-1975, Ban Bí thư đă có Điện số 610: “Gửi: Trung ương Cục, anh Sáu, anh Bảy – Bộ Chính trị trao đổi ư kiến thấy rằng trong điều kiện ta thắng to và nhanh, gọn, thế ta mạnh, cho nên càng sớm ổn định mọi mặt càng tốt. Đối với quần chúng cơ bản phải giải thích chính sách, ổn định tư tưởng, làm cho họ tích cực hồ hởi tham gia bảo đảm trận tự an ninh… Đối với báo chí, nên có chủ trương rộng răi, có cách lănh đạo thích hợp, như vậy có lợi cho ta trên mặt trận dư luận rộng răi. Đối với cách ăn mặc của dân, không nên dùng mệnh lệnh cấm đoán, làm phiền phức cho dân mà nên dùng giải thích thuyết phục, khuyên bảo để tránh những kiểu ăn mặc càn quấy, không để dân lầm lẫn rằng ta chống việc ăn mặc đẹp. (Lê Văn) Lương”.

    Có những người dân Sài G̣n, khi thấy “quân Giải phóng” tràn về đă nhuộn đen quần áo của các thành viên trong gia đ́nh. Trong những show diễn hiếm hoi sau ngày 30-4-1975, nhiều nghệ sỹ Sài G̣n lên sân khấu mà không dám trang điểm. Nhiều người nghĩ một cách chân thành, Cách mạng về là không c̣n son phấn và giày cao gót. Nhưng những thứ quần áo mà công điện của Ban Bí thư gọi là “lai căng” đó chỉ một thời gian ngắn sau lại trở thành sự thèm khát của những thanh niên “lớn lên dưới mái trường xă hội chủ nghĩa”.

    Khi chiến tranh chưa kết thúc, ít có thanh niên miền Bắc nào có hơn hai bộ áo quần, chủ yếu bằng vải sợi xanh; ít có cô gái nào có được cái quần lụa và chiếc áo “Hong Kong” bằng vải “phin”. Sau ngày 30-4-1975, khi những cán bộ miền Nam tập kết được lần lượt về thăm quê, một số bộ đội cũng bắt đầu được xuất ngũ hoặc về phép thăm nhà. Trong cuộc họp ngày 16-6-1975, Ban Bí thư đă cho “một số ư kiến” bổ sung Chỉ thị 181 của thủ tướng, theo đó: “Việc kiểm soát sự ra vào vùng mới giải phóng cần được tăng cường chặt chẽ nhằm thỏa măn yêu cầu của cán bộ và nhân dân đi lại thăm viếng gia đ́nh ở miền Nam, nhưng đồng thời để pḥng bọn xấu lợi dụng cơ hội để buôn lậu và phá rối trị an. Việc mang theo hàng hóa từ miền Nam ra miền Bắc phải được kiểm soát chặt chẽ, ngăn cấm bọn buôn lậu đầu cơ; nhưng mặt khác, đối với cán bộ và nhân dân cần có những quy định rơ ràng cho phép họ được mua sắm và mang theo một số đồ dùng riêng cho bản thân họ, tránh t́nh trạng bắt giữ lung tung, gây căng thẳng không cần thiết”. Tuy nhiên, miền Bắc lúc đó đă phải rất vất vả để chống lại những biểu hiện “văn hóa lai căng” không chỉ lây lan từ miền Nam348.

    Ngay tại Sài G̣n, những người vừa được “giải phóng” đă biết dùng những biểu tượng của chế độ làm thơ ta thán về sự bất b́nh thường của Chế độ: “Các-mác (Karl Marx) mà đến Việt Nam / Râu dài róc rậm công an bắt liền / Các-mác cầu cứu Ăng-ghen (Angel) / Ăng-ghen cũng phải đóng tiền tóc râu / Truyền cho bốn biển năm châu / (Đến Việt Nam th́ nhớ) Râu Mao Chủ tịch tóc đầu Lê nin (Lenin)349” . Lúc đầu ông Vơ Văn Kiệt cũng không hiểu tại sao người dân Sài G̣n lại không ủng hộ Cách mạng bảo vệ “thuần phong mỹ tục”. Tuy nhiên, vốn là một nhà lănh
    đạo kháng chiến khá nhạy cảm trước các phản ứng của dân, ông Kiệt yêu cầu tổng biên tập Tuổi Trẻ, khi ấy là ông Vơ Như Lanh, tổ chức làm sao để ông nghe được thanh niên nói thật.

    Báo Tuổi Trẻ liền cho mời thanh niên thuộc các thành phần khác nhau, những người đă bị cưỡng bức cắt tóc, cắt quần, đến pḥng họp của báo. Trước đó, ông Vơ Văn Kiệt và Thư kư Nguyễn Văn Huấn đă đến sớm, ngồi “buông rèm” phía sau lắng nghe.

    Những bức xúc, dồn nén đă được các thanh niên Sài G̣n nói ra. Họ không biết một ông “Việt Cộng gộc” cũng đang “tâm trạng” lắm khi nghe họ nói. Theo ông Vơ Như Lanh, khi những thanh niên này về hết, kéo rèm ra, thấy ông Vơ Văn Kiệt ngồi lặng, mặt rất đăm chiêu. Khi ấy, chưa phải là ông Kiệt đă đồng ư hoàn toàn với những “đ̣i hỏi” của thanh niên, nhưng ông nhận ra ngay là các giá trị văn hóa không thể được ứng xử bằng những đám đông nồng nhiệt.

    Không chỉ có trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, trên nhiều mặt của đời sống, người dân miền Nam chỉ mong có được những điều kiện sống mà họ đă có trước khi được những người anh em “giải phóng”. Ngay từ cuối thập niên 1960, trong khi ở miền Bắc xe đạp cũng rất hiếm người có mà đi, ở miền Nam người dân đă có thể sở hữu ô tô, c̣n xe máy hai bánh th́ tới đầu thập niên 1970 đă trở thành phương tiện giao thông cá nhân phổ biến350.

    Trước khi “được giải phóng”, xăng dầu phục vụ cho các loại xe có động cơ lúc nào cũng sẵn sàng. Nhưng, để thi hành Nghị định 18 của Chính phủ, ngày 12-9-1975, Ủy ban Quân quản Sài G̣n-Gia Định đă ra thông cáo về việc “cấm tồn trữ và bán xăng dầu trên thị trường tự do”. Cùng ngày, Tổng cục Vật tư ra thông báo yêu cầu đến hết ngày 18-9-1975, những ai đang tồn trữ xăng dầu đều phải khai báo và tự bảo quản cho đến ngày 19-9-1975, ngày nhà nước trưng mua toàn bộ xăng dầu. Sau ngày đó, “tư nhân mua bán, đổi chác hoặc tồn trữ xăng dầu bị coi là phạm pháp”351.
    Bắt đầu ngày 29-12-1975, xăng dầu bắt đầu được cung cấp theo chế độ tem phiếu. Người dân phải “mang theo tờ khai gia đ́nh, thẻ chủ quyền, thẻ căn cước, giấ y giớ i thiêụ của cơ quan hiêṇ đang công tá c, mang theo tiề n lệ phı́ mỗi phiế u 0,04 đồng” để đăng kư lấy phiếu cung cấp xăng”.

    Chính sách tập trung quản lư các nguồn nhiên liệu và độc quyền xuất nhập khẩu vào tay nhà nước đă làm cho t́nh trạng khan hiếm xăng dầu trở nên nghiêm trọng. Từ năm 1976, một phần xe cộ bắt đầu bị xếp xó v́ không có nhiên liệu hoặc không có phụ tùng thay thế. Ban liên lạc công thương đă phải “hướng dẫn một số nhà tư sả n công nghiêp̣ á p duṇ g nhiề u sá ng kiế n có giá tri ̣trong sả n xuấ t, phuc̣ vụ đờ i số ng nhân dân”. Sá ng kiến sá ng chú ư nhấ t là viêc̣ “chế taọ thà nh công” môṭ loaị chấ t lợp vớ i giá thà nh hạ được đăṭ tên là ca-rô-đa (viế t tắ t tên nhữ ng nguyên liêụ , vâṭ liêụ cấ u taọ ra nó là cao su, rơm, đấ t) của môṭ số nhà tư sả n thuôc̣ ngà nh chế biế n cao su và nhựa dẻ o. Hợp chấ t nà y có đăc̣ tıń h mề m, không tắ t lử a, không hút nó ng, rấ t tiêṇ duṇ g trong viêc̣ lợp nhà , là m măṭ bàn, măṭ giườ ng352.

    Đích thân Bí thư Thành ủy Vơ Văn Kiệt cũng phải lăn lộn ở những cơ sở chế biến than quả bàng353. Các xưở ng đúc gang th́ t́m ṭi chế tạo những ḷ nấ u than quả bà ng bằ ng đấ t có vỏ bằ ng gang. C̣n các nhà tư sả n thuôc̣ ngà nh nông lâm cơ th́ đă “cả i tiế n thà nh công” xe ô tô chaỵ bằ ng than là củi: “Bộ phâṇ ḷ hơi của xe ô tô chaỵ than củi có thể sử duṇ g cho cá c loaị má y bơm nướ c, má y tà u, má y điêṇ : Lâm trườ ng La Ngà , hăng kem Pé c-lông đang sử duṇ g loaị xe cả i tiế n này”354.

    Cùng với chính sách cải tạo trong lĩnh vực kinh doanh vận tải, sự khan hiếm nhiên liệu cũng làm thay đổi địa vị con người. H́nh ảnh hành khách được các lơ xe đón tận nơi, nâng từng túi hành lư, đỡ lên những chiếc xe máy lạnh của các hăng xe đ̣ tư nhân Liên Hiệp, Hiệp Thành, Đông Á, Đại Nam, Phi Long, Tiến Lực từng “chạy suốt” ra Bắc, chỉ mấy tháng sau ngày 30-4-1975 đă nhanh chóng biến mất. Mỗi khi có việc đi xa, người dân phải xếp hàng từ nửa đêm ở bến xe, nhưng sáng ra cũng không chắc có thể mua được vé. Lên xe rồi c̣n phải chịu sự hành hạ của những chuyến xe già nua, cũ nát không có phụ tùng thay thế; đường sá xuống cấp không có kinh phí bảo tŕ. Vô phúc đi trên những chiếc xe “cải tiến thành công” từ chạy xăng sang chạy than, nếu may mắn tới đích, th́ ngoại trừ hai con mắt, từ đầu đến chân của mọi hành khách đều bị bọc trong khói bụi.

    Thêm nữa, không phải cứ có tiền là có thể đi lại. Từ ngày 4-1-1977, việc “đi lại của nhân dân và cán bộ” đều phải có giấy tờ. Đi lại trong phạm vi thành phố và các tỉnh thành phố đều phải xin phép, phải đưa giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và giấy căn cước hoặc giấy chứng nhận cải tạo nếu có, đến công an phường, xă tŕnh bày lư do xin đi sẽ được xét cấp. Người đi đến các vùng bờ biển th́ phải mất nhiều ngày và không chắc được cấp giấy đi đường v́ chính quyền chống dân vượt biên355. Trong khi đó, trên các diễn đàn, chính quyền tiếp tục ngợi ca “những giá trị mới” mà người dân đang “được hưởng”.



    “Cách mạng là đảo lộn”



    Tại Sài G̣n, kể từ sau 30-4, ông Trần Bạch Đằng, với danh nghĩa là Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng, thường xuyên nói chuyện tại Câu lạc bộ Thanh niên Thành phố. Quan điểm của Trần Bạch Đằng lúc ấy đóng một vai tṛ quan trọng trong việc “định hướng thẩm mỹ Cách mạng” cho người dân miền Nam.

    Trong một bài phỏng vấn đăng trên Tuổi Trẻ, Trần Bạch Đằng cho rằng “không nên có chủ trương cho thiếu nhi ca vọng cổ”. Ông nói: “Tuy vọng cổ phổ biến ở nước ta, đặc biệt ở Nam Bộ, nhưng đối với lứa tuổi nào đó, tỷ như các em nhi đồng và thiếu niên, th́ vọng cổ chưa hẳn có lợi hoàn toàn trong mục đích giáo dục… Âm điệu vọng cổ thường khó gây phấn chấn và nhứt là hạn chế tập thể trong khi biểu diễn tập thể lại là h́nh thức biểu diễn cần khuyến khích hiên nay”356.

    Theo ông Trần Bạch Đằng: “Một trong những tội ác tày trời của đế quốc Mỹ và bọn tay sai” là “phủ nhận cái đẹp chân chính, cái đẹp về nội dung, cái đẹp tinh thần” và “cổ vũ cho cái đẹp h́nh thức, cái đẹp giả tạo, cái đẹp vật chất đơn thuần”. Sau khi chỉ trích các mỹ viện đua nhau ra đời theo sau sự “triển khai ồ ạt của chủ nghĩa thực dân mới” tại miền Nam, ông Trần Bạch Đằng kết luận: “Nói cho cùng, chủ nghĩa thực dân mới mang đến cho một bộ phận thanh niên ta cái đẹp của người nô lệ, một cái đẹp vay mượn. Muốn giữ cái đẹp kiểu đó th́ phải suốt đời mất nước, suốt đời ăn xin”. Rồi ông kêu gọi thanh niên “đi vào lao động, phát giương cái đẹp của lao động đối với thanh niên, định lại chân lư, định lại giá trị của con người”357. Ông Trần Bạch Đằng nhấn mạnh: “Đó là một cuộc cách mạng, một cuộc cách mạng rộng lớn, sâu sắc, một sự đảo lộn và là một sự đảo lộn cần thiết”358.

    Cùng thời gian đó, chính quyền cho phát hành tại Miền Nam một loạt sách báo cách mạng như: Học Tập Và Làm Theo Gương bác Hồ Vĩ Đại; Sống Như Anh (viết về liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi); Chuyện kể về Lư Tự Trọng, một người cộng sản chết trẻ với câu nói được cho là của anh và được Đoàn sử dụng như là một tuyên ngôn: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng chứ không c̣n con đường nào khác”. Đặc biệt, cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ cộng sản – Thép Đă Tôi Thế Đấy – bắt đầu được đưa đến miền Nam. Đây là cuốn tiểu thuyết từng được dịch ra bảy mươi thứ tiếng do nhà văn Nga Nikolai Alexeevich Ostrovsky viết trong thời kỳ Stalin. Nhân vật chính của cuốn sách là Pavel Korchagin, được coi là “hóa thân” của Ostrovsky.

    Phương châm sống của Pavel đă được chép lại trong hàng triệu cuốn sổ tay: “Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận v́ những năm tháng đă sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn v́ dĩ văng ti tiện và hèn đớn của ḿnh, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đă hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người”. Thời gian đó, không ít thanh niên ngoài đời và thanh niên là nhân vật của những tác phẩm văn học mới, mỗi khi thấy “dao động”, lại ghi vào Nhật Kư: “Đồng chí Pavel ơi! ”359.
    Các đoàn nghệ thuật Cách mạng, số từ trong rừng ra, số từ ngoài Bắc vào bắt đầu chiếm lĩnh các sân khấu Sài G̣n. Nhân dịp 2-9-1975, ngày Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, 1.300 diễn viên từ các đoàn nghệ thuật đă tập trung ở Sài G̣n chuẩn bị cho những chương tŕnh biểu diễn mới. Đặc biệt, Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, Đoàn Ca Múa Quân Giải phóng, Đoàn Ca Múa Pḥng Không Không quân, Đoàn Văn Công Hải quân, Đoàn Cải lương Giải phóng, Đoàn Kịch nói Nam Bộ, Đoàn Kịch nói Hà Nội… cũng bắt đầu đến Sài G̣n với các vở diễn như: Tiền Tuyến Gọi, Lam Sơn Tụ Nghĩa… Sài G̣n cũng không c̣n “Nỗi Buồn Hoa Phượng” với tiếng hát Thanh Tuyền; không c̣n “Chuyện Một Chiếc Cầu Găy” với Hoàng Oanh; không c̣n “Đêm Đông” với Bạch Yến; không c̣n “Tà Áo Xanh” với Lệ Thanh; không c̣n được “Ngậm Ngùi” với Lệ Thu và, cho dù đang bị kẹt lại, Thái Thanh cũng không c̣n được hát Phạm Duy, Phạm Đ́nh Chương… Chỉ những “nghệ sỹ Ngụy” được xếp vào hàng “không chống đối cách mạng” và được Hội Văn Nghệ cho làm tự kiểm điểm mới bắt đầu được bước lên sân khấu.

    “Vua vọng cổ” Út Trà Ôn tự kiểm điểm với Cách mạng: “Tôi chỉ có một khuyết điểm không sửa được là có 5 bà vợ; c̣n đối với Cách mạng th́ tôi trong sạch”360. Chỉ một thời gian ngắn sau, Út Trà Ôn liên tục “lên sóng” với bài vọng cổ có tên “Đài Hoa Dâng Bác”. Nhờ những mối quan hệ đặc biệt, nữ nghệ sỹ Bạch Tuyết, người từng tham gia kư tên lên trái bom mà các phi công Sài G̣n mang ném ra miền Bắc, cũng bắt đầu được diễn trở lại. Những người không thực sự được nâng đỡ th́ chỉ có thể bước lên các sân khấu nhỏ. “Nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân lập đoàn gồm Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Lan… bữa đói, bữa no, ngủ đ́nh, ngủ chợ, mong được hát nhiều hơn là kiếm miếng ăn dẫu rằng ai cũng đói”361.

    Ở các rạp chiếu bóng, những phim cũ cũng biến mất, nhường chỗ cho những phim của Liên Xô, Trung Quốc như: Bạch Mao Nữ, Cát Đỏ, Những Người Báo Thù Không Bao Giờ Bị Bắt… Lúc đầu, người dân Sài G̣n chưa quen những loại phim này, các rạp kêu rất dữ v́ có những suất chiếu chỉ có 14-15 người xem. Người dân cũng đă phản ứng trước một số chương tŕnh biểu diễn của các đoàn văn công miền Bắc. Theo Điện đề ngày 17-6-1975 của Ban Bí Thư, do “ông Lành” (Tố Hữu) kư gửi “anh Tư Ánh” (Trần Bạch Đằng): “Về việc các đoàn văn công biểu diễn gần đây bị quấy rối nhiều như điện anh đă báo, đề nghị các anh kiểm tra kỹ t́nh h́nh cùng cấp ủy địa phương có biện pháp tích cực ngăn chặn những hoạt động mất trật tự, phải giáo dục quần chúng”.

    Chính quyền cũng nhận thấy không thể buộc người dân miền Nam phải “cai” những nhu cầu tinh thần đă gắn bó với họ hàng thập kỷ. Tuy nhiên, theo giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Sài G̣n sau 1975, ông Dương Đ́nh Thảo: Khi cho các nghệ sỹ diễn lại các vở cải lương ăn khách ở miền Nam như Lá Sầu Riêng, Đời Cô Lựu, lập tức có phản ứng: “Thành phố đang vui vẻ đi lên thế này sao cho diễn những tuồng rên rỉ ấy”. Nhưng khi các nghệ sỹ Sài G̣n cố gắng diễn những vở “tráng ca”, không chỉ “dư luận” mà ở bên hành lang Quốc Hội nhiều vị khá quan trọng đă than phiền, “Thành ủy TP HCM để cho ‘nghệ sỹ Ngụy’ đóng cả Hai Bà Trưng”.

    Ông Vơ Văn Kiệt nhớ lại, đấy không chỉ là sự ganh tị trong giới mà c̣n là nhận thức ấu trĩ về chính trị của khá nhiều lănh đạo. Ông đặt câu hỏi: “Ở Sài G̣n nếu đ̣i hỏi người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng th́ chỉ có Bà Định; đóng Lenin th́ chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy đóng xem thử có ai đi coi không?”362.

    Dưới góc độ con người, những văn nghệ sỹ đến từ miền Bắc cũng có nhiều tâm trạng. Năm 1976, nhà thơ ba mươi sáu tuổi Vũ Quần Phương363 khi từ miền Bắc vào thấy “Cô ca sĩ Sài g̣n hát bài hát Trường Sơn”, đă viết:



    Cùng mắc vơng trên rừng Trường Sơn

    Bài hát viết từ rừng le, rừng khộp

    Năm ấy Sài G̣n lô nhô cao ốc

    Em chưa biết ǵ về rừng khộp, rừng le

    Anh lên xe trời đổ cơn mưa

    Mưa chưa ướt vai em khi ấy

    Rau hết rồi, măng rừng anh hái

    Hái măng rừng chưa có em đi

    Trường Sơn đông gánh gạo rừng khuya

    Cô gái ấy gánh đi, chứ em chưa biết gánh

    Thuở cô ấy ở rừng em ngồi pḥng máy lạnh

    Cô gái ấy không về và em hát hôm nay.

    Đêm Sài G̣n đỏ rực cờ bay

    Trước sân khấu, tôi ngồi nghe em hát

    Em tô đỏ môi son, em kẻ xanh mi mắt

    Cô gái ấy ở rừng không có gương soi

    Bài hát như bàn tay c̣n ấm mồ hôi

    Em đang vịn và đi từng hồi, từng nhịp

    Những vui buồn đă xa, hôm nay em mới biết

    Cô gái ấy rất hiền sẽ dắt tiếp em đi.

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương VII : “Giải Phóng”
    P3



    Ông Vũ Quần Phương thừa nhận, bài thơ này đă được h́nh thành ngay từ những ngày đầu ông tới Sài G̣n, tháng 5-1975. Hôm ấy, tại Sài G̣n, có một cuộc gặp mặt giới văn nghệ của cả hai miền. Ông Phương, phóng viên Đài tiếng nói Việt Nam, được cử đi đón nghệ sỹ Kim Cương. Nữ sỹ Kim Cương khi ấy cũng tỏ ra giản dị, thay v́ đi xe hơi riêng đă chấp nhận ngồi sau xe Honda do ông Phương chạy. Ông Phương nói với nữ sỹ: “Chị ngồi cẩn thận bởi tôi lái xe máy chưa quen”. Nghệ sỹ Kim Cương đùa: “Anh yên tâm, nếu tôi có bị ǵ mai anh xách chiếc xe ‘làm Kim Cương té’ này ra chợ trời bán là được giá lắm”. Ông Phương hiểu sức mạnh công chúng trong thông điệp như đùa đó của Kim Cương.

    Đêm ấy, cho dù các nghệ sỹ Sài G̣n đă cố gắng ăn mặc giản dị, họ vẫn “sáng rực” hơn so với những người từ miền Bắc vào hoặc từ trong rừng ra. Nhà thơ Vũ Quần Phương nói: “Khi nghe cô ca sỹ hát bài ‘Mắc vơng trên rừng Trường Sơn’, tôi nhớ tới Phạm Tiến Duật, tác giả lời thơ của bài hát đó. Khi ấy Duật đang bị kiểm điểm không biết số phận thế nào v́ bài thơ Ṿng Trắng. Nhưng bài thơ chỉ bật ra khi năm 1976, trong chuyến đầu tiên sau giải phóng, các văn nghệ sỹ Việt Nam được đi Liên Xô, người ta đă để ca sỹ Trường Sơn Tô Lan Phương ở lại lấy chỗ cho một ca sỹ miền Nam. Tôi hiểu cử chỉ chính trị của các nhà lănh đạo nhưng vẫn không khỏi chạnh ḷng cho những người đă hy sinh tuổi trẻ của ḿnh. Tuy nhiên, khi viết cái kết của bài thơ, tôi vẫn theo chuẩn mực giáo dục lúc bấy giờ, ai sớm muộn ǵ rồi cũng phải đi theo con đường cách mạng”. Khi ấy, không chỉ có ông Vũ Quần Phương nghĩ con đường “trở thành người tốt” cho các cô gái Sài G̣n là phải được dẫn dắt bởi các “cô gái Trường Sơn”.



    Ḷng người



    Nhanh chóng “xóa bỏ t́nh trạng lạc hậu và phản động” ở miền Nam là một nỗ lực mà những người Cách mạng tin là nhân đạo. Nhưng “đôi khi, con đường đi tới địa ngục lại được đắp bởi những ư định tốt”364. Đă mất hàng chục năm sống trong rừng hoặc sống trong một xă hội khép kín, bưng bít nhưng “Cách mạng” lại quá nồng nhiệt, nôn nóng giáo dục cho những người được học hành từ những xă hội cởi mở hơn, tiếp cận với thế giới đa dạng hơn. Niềm tin và sự nhiệt t́nh ấy lại được hỗ trợ một cách đắc lực bởi quyền lực tuyệt đối của cả một bộ máy. Cách mạng càng hăng say, càng để lại nhiều tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần cho những người dân “trong vùng giải phóng”.

    Cái khí thế quần chúng nh́n thấy trên đường phố và được tường thuật trên báo chí nhà nước trong những ngày ấy không phải là những ǵ đang diễn ra trong ḷng người dân Sài G̣n, người dân miền Nam. Bà Nguyễn Thị Hoàng Bắc, khi ấy, đang dạy học ở trường Hoàng Văn Thụ, Nha Trang. Năm học 1976-1977, trong lớp bà có một học sinh, khi ấy đang học lớp 10, đă khắc mấy câu thơ lên bàn học:



    Không muốn ngồi yên để đợi trông

    Thích làm Từ Hải giữa muôn ḷng.

    Cộng lại những ǵ trong quá khứ,

    Sản khoái trong ḷng thoả ước mong



    Theo bà th́ không phải là học sinh này đă viết sai lỗi chính tả chữ “sảng” thành chữ “sản” mà học sinh ấy có ư định ghép bốn từ đầu ở các câu lại thành cụm từ: không thích cộng sản. Thái độ ấy có lẽ đă qua mấy năm tích tụ, nhưng hành động viết ra th́ chỉ là một phút bốc đồng. Có người đă báo cáo và học sinh đó đă bị bắt, bị điều tra và bị đuổi học. Bà Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể: “Tôi và một cô giáo đồng nghiệp khác (về sau định cư ở Canada) đă cố hết sức giúp em. Hai chúng tôi đứng trước cửa lớp giờ tan học che cho một cô giáo khác lấy dao cố cạo cho hết những nét khắc sâu vào gỗ của bài thơ nhưng có người đă nhanh tay sao chép, gửi đi cho công an. Nét khắc c̣n lờ mờ nhưng vẫn là bằng cớ”365.

    Tôn Thất Thiện Nhân366 năm 1975 đang là một học sinh cấp III. Anh nhớ lại: “Thay v́ xách cặp tới trường, tôi đi lang thang. Tôi như một đứa trẻ không nh́n thấy một lối thoát nào trước mặt. Những khoảng sân trường thơ mộng trở thành chỗ cho những cô cậu con cái các gia đ́nh tập kết hoặc được điều từ ngoài Bắc vào ‘lên mặt’ với con cái của những kẻ ‘lầm đường’. Cũng những thầy cô giáo mà học tṛ ngưỡng mộ ngày nào giờ trở thành những con người khác, hoảng hốt, sợ sệt. Mặc dù mấy năm trước 1975, cuộc sống của Sài G̣n đă trở nên khó khăn, nhưng không phải như những ǵ mà người Sài G̣n đang đối diện. Hàng tuần từ trường trở về, tôi lại thấy một đồ đạc ǵ đó ở trong nhà biến mất. Tôi ngạc nhiên là tại sao trong suốt nhiều ngày mẹ tôi, một cô giáo, lại chỉ thay đổi một hai bộ đồ trong khi tủ quần áo của bà có hàng chục bộ đồ dài rất đẹp. Tôi chạy vào mở tủ ra th́ thấy nó trống hoác. Tôi có cảm giác sẽ không bao giờ có thể khép lại trong ḷng cái cánh tủ trống hoác đó”.

    Cha của Nhân trước 1975 cũng là giáo viên. Do đă từng đi lính, tuy chưa phải sỹ quan nên không phải đi cải tạo, nhưng sau 1975 ông không c̣n được đi dạy. Ông đă phải bươn chải vô số nghề trong đó có nghề nhảy tàu lên Long Khánh mua than củi mang về Sài G̣n bán. Mấy anh em Nhân thỉnh thoảng lại ra ga đợi ông như chờ đợi một điều ǵ đó khác hơn ngày thường. Một hôm, hai anh em nh́n thấy cha ḿnh, năm ấy chỉ mới gần bốn mươi tuổi, đu cạnh thành con tàu đang tiến dần vào ga, vứt bao than trước rồi nhảy xuống; không may, ông bị trượt chân. Nh́n gương mặt khắc khổ, tay chân đen đúa, bị những nhát cắt của những viên đá lót đường rày làm cho túa máu, Thiện Nhân nói: “Một cảm giác mất mát kinh khủng xâm chiếm con người tôi, h́nh như đó vừa là t́nh thương vừa là sự thất vọng về ông, về một thế hệ không c̣n có khả năng gượng lên được nữa”.

    Không chỉ có những đứa trẻ bồng bột phản ứng bằng những câu thơ, t́nh cảm học tṛ, sự trải nghiệm “Sài G̣n giải phóng” đă giúp Đỗ Trung Quân thai nghén những vần thơ cũng đau như những nhát cắt của dao, nhưng nó không được dại dột khắc xuống mặt bàn để bàn tay học tṛ phải nhận cây c̣ng số 8. Năm 1982, Đỗ Trung Quân viết bài Tạ Lỗi Trường Sơn367. Bài thơ cho thấy một góc nh́n của người dân Sài G̣n với những người đă “giải phóng ḿnh”:



    Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm

    Các anh từ Bắc vào Nam

    Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc

    Các anh đến

    Và nh́n Sài G̣n như thủ đô của rác Của x́ ke, gái điếm, cao bồi

    Của t́nh dục, ăn chơi

    “Hiện sinh-buồn nôn-phi lư!!!”

    Các anh bảo con trai Sài G̣n không lưu manh cũng lính ngụy

    Con gái Sài G̣n không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ

    Các anh bảo Sài G̣n là trang sách “hư vô”

    Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc

    Ng̣i bút các anh thay súng

    Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi

    Vào những đồ tiêu dùng mang nhăn Hoa Kỳ

    Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản

    Các anh bảo tuổi trẻ Sài G̣n là “thú hoang”

    Nổi loạn / Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn

    Các anh hùa nhau lập ṭa án bằng văn chương

    Mang tuổi trẻ Sài G̣n ra trước vành móng ngựa!!!




    Những người được sinh ra không đúng cửa



    Năm 1975, Đỗ Trung Quân hai mươi mốt tuổi, anh đang học năm thứ hai khoa Sử-Địa, Đại học Văn Khoa. Khi Sài G̣n “giải phóng” anh phải nghỉ học v́ Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp cần thời gian để “sửa đổi chương tŕnh, nội dung và phương pháp đào tạo, đặc biệt chú trọng các môn khoa học xă hội, sao cho phù hợp với phương hướng tiến lên thống nhất dần với hệ thống giáo dục xă hội chủ nghĩa ở miền Bắc”368.

    V́ “công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày giải phóng” được Ban Bí thư coi là “nhiệm vụ cấp thiết số một”, nên ngay trong ngày 17-6-1975, Tố Hữu đă kư hai chỉ thị, 221 và 222; một đưa ra các quy định cho bậc học phổ thông, một cho bậc đại học và trung học chuyên nghiệp. Chỉ thị do Tố Hữu kư cho thấy Ban Bí thư coi giáo dục là “cấp thiết số một” và muốn “nhanh chóng xóa bỏ t́nh trạng lạc hậu do chính sách ngu dân và nô dịch của chế độ phản động Mỹ-Ngụy để lại”.

    Chỉ thị 221 về ư nghĩa chính trị đă thúc đẩy việc xóa nạn mù chữ cho không ít người dân, nhất là ở giai đoạn “hồ hởi phấn khởi” ban đầu của Cách mạng. Ngay khi vừa “giải phóng”, Chính quyền Sài G̣n-Gia Định “hạ quyết tâm” trong năm 1975 sẽ xóa mù chữ cho 250.000/500.000 người mà Cách mạng ước tính là mù chữ. Công việc này “giữ được khí thế” cho tới tháng 9-1975 với 1.596 lớp b́nh dân và 53.498 học viên. Tuy nhiên, không chỉ là một chính sách với dân, chương tŕnh “bổ túc văn hóa” này đă góp phần tạo ra một đội ngũ cán bộ sẽ đi rất xa trong Đảng.

    Cũng kể từ ngày 17-6-1975, Ban Bí thư có chủ trương “đối với trường tư ở vùng giải phóng”, theo đó: “Hạn chế và cải biến từng bước, tiến tới xóa bỏ hẳn các trường tư cùng với đà cải tạo xă hội. Từ đầu năm học 1975-1976 không cho phép các tôn giáo, các đoàn thể chính trị phản động, các ngoại kiều mở trường tư, không cho phép các trường tư đào tạo giáo viên phổ thông. Các tư nhân muốn mở trường tư phải xin phép chính quyền cách mạng”. Ngay trong năm học 1975-1976, 1.087 trường tư ở Sài G̣n-Gia Định đă bị “công lập hóa”. Chỉ thị 221 cũng quy định: “Đối với đội ngũ giáo chức của Mỹ, ngụy đă đăng kư và xin làm việc với chính quyền cách mạng, nói chung đều được thu nhận, giáo dục và sử dụng, trừ những phần tử phản động mà cơ quan an ninh xác nhận không nên cho tiếp tục dạy, những phần từ có sinh hoạt đồi trụy bị học sinh và nhân dân phản đối”369.

    Những học tṛ miền Nam có lẽ đă khá phấn khởi khi Ban Bí thư chỉ thị: “Nay bỏ học phí trong tất cả các trường đại học và chuyên nghiệp của Nhà nước”. Thế nhưng, học phí rồi chỉ là một phần vô cùng bé nhỏ. Hàng trăm ngh́n sinh viên miền Nam đă phải “dở dang đèn sách” v́ Ban Bí thư “sửa đổi cơ cấu ngành học”. Theo đó: “Cần cải tạo về cơ bản các ngành khoa học xă hội (luật, văn, triết…) trước khi mở lại các khoa này. Đối với số học sinh đang học luật, văn, triết cần có kế hoạch chuyển sang học các ngành có yêu cầu lớn như sư phạm và kỹ thuật, kinh tế. Đối với các ngành khoa học xă hội, năm học 1975-1976 chưa tuyển sinh” (Chỉ thị 222). Ngay cả điều này cũng chỉ là những trắc trở tạm thời – nếu như sinh viên của các ngành khoa học xă hội có “lư lịch rơ ràng” th́ họ cũng có thể xoay xở học xong nếu muốn.

    Chỉ thị 222 của Ban Bí thư đặt ra yêu cầu: “Qua con đường bổ túc văn hóa và tuyển sinh mà cải biến nhanh chóng thành phần giai cấp trong học sinh đại học và chuyên nghiệp, tích cực tạo điều kiện cho các chiến sĩ quân giải phóng, cán bộ cách mạng, con em nhân dân lao động được vào học ngày một đông và chiếm đại đa số trong các trường đại học và chuyên nghiệp ở miền Nam. Cho các học sinh miền Nam đă tốt nghiệp lớp 10 ở miền Bắc và có gia đ́nh ở trong Nam về học tại các trường đại học ở miền Nam. Giáo dục, bồi dưỡng và sử dụng các thầy giáo do chế độ cũ để lại, đồng thời đưa một số thầy giáo, nhất là các thầy giáo quê ở miền Nam đang công tác ở miền Bắc, có tŕnh độ chuyên môn khá, có phẩm chất chính trị tốt, bổ sung vào đội ngũ các thầy giáo của các trường ở miền Nam để làm ṇng cốt”.

    Trên tinh thần chỉ đạo đó, thanh niên được chia làm “13 đối tượng” để xét tuyển sinh vào đại học. Các đối tượng được ưu tiên nhận vào đại học và trung học chuyên nghiệp gồm “anh hùng dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân, bộ đội, thương binh, thanh niên xung phong, cán bộ cách mạng, con của các liệt sĩ, con em các gia đ́nh có công với cách mạng, con em các dân tộc ít người, con em miền Nam đă tốt nghiệp lớp 10 ở miền Bắc về Nam học, công nhân và những người lao động chân tay khác…”. Ngoài ra: “Trừ những phần tử phản động, tất cả nam nữ công dân, có lư lịch rơ ràng, có các điều kiện quy định về tuổi, bằng cấp và sức khỏe đều được quyền nộp đơn xin thi tuyển vào các trường đại học và trung học chuyên nghiệp”. Một số “đối tượng” được quyền nộp đơn, nhưng có được đi học ngay cả khi đă thi đỗ đại học hay không lại c̣n tùy thuộc vào quan điểm của các ban tuyển sinh về mức độ rơ ràng của lư lịch. Tính “giai cấp” thể hiện qua lư lịch đă làm tan vỡ biết bao giấc mơ của những thanh niên lớn lên sau năm 1975.

    Nhiều gia đ́nh miền Nam, trên thực tế, bị đặt ở thứ hạng 14, 15370. Nếu như các gia đ́nh “Ngụy” coi sự phân biệt ấy là những ǵ phải chịu trong “cuộc bể dâu”, th́ đối với nhiều thanh niên, việc Cách mạng không cho vào đại học như là “một cái tát tai nghiệt ngă… Như một thân cây đang vươn lên khao khát đón ánh nắng cuộc đời th́ bị bẻ cụt ngọn”371.

    Chỉ thị của Ban Bí thư từng được nhiều cơ sở Đảng thi hành theo hướng tùy tiện siết chặt hơn. Phan Vĩnh Hiệp, quê ở xă Nhơn Thọ, huyện An Nhơn, Nghĩa B́nh, là học sinh giỏi vật lư cấp quốc gia nhưng vẫn bị chính quyền xă giữ lại không cho đi thi ở Tiệp Khắc. Năm sau, Hiệp thi đậu vào Đại học Bách Khoa với số điểm đủ đi học nước ngoài, địa phương vẫn không cho học chỉ v́ cha Hiệp, ông Phan Vĩnh Long, đă bỏ Đảng trong đợt “tố cộng” năm 1954 của Chính quyền Ngô Đ́nh Diệm.

    Nguyễn Mạnh Huy, phường Lê Hồng Phong, Thành phố Quy Nhơn, tốt nghiệp cấp III năm 1981. Cũng năm ấy, Huy thi đỗ vào Bách khoa Đà Nẵng với số điểm 26,5 (Á khoa) trong khi điểm chuẩn chỉ cần 17 điểm. Thay v́ có thể thực hiện ước mơ, Huy nhận được lời thông báo lạnh lùng ở Ban Tuyển sinh Tỉnh: “Không được đi học v́ cha chết trận”. Như hàng triệu thanh niên miền Nam khác, cha của Huy cũng đă bị “động viên” ngay sau khi “rớt tú tài”. Năm 1965, khi Huy lên hai, cha anh, một trung úy bộ binh, đă dẫm phải ḿn và chết. Mẹ Huy là thư kư đánh máy cho Sở Thông tin. Tuy là con “sỹ quan ngụy”, nhưng kể từ năm hai tuổi, Huy chủ yếu lớn lên trong nhà ông nội, vốn là một đảng viên thời kháng Pháp, ngoài ra Huy c̣n có một người cậu và một người d́ đi tập kết. “Cuộc đời tôi, việc học của tôi bị chặn ở đây sao?”, nhật kư ngày 25-11-1981 của Huy viết.

    Năm 1982, Nguyễn Mạnh Huy chọn một trường ít đ̣i hỏi về lư lịch hơn: Đại học Nông Nghiệp IV; kết quả: 22,5 điểm, vượt xa điểm chuẩn. Nhưng bức điện đánh từ Ban Tuyển sinh vẫn cứ lạnh lùng: “Không được đi học v́ cha chết trận”. Nhật kư ngày 6-1-1983 của Huy ghi: “Một người có quyền dự báo một tương lai đen tối, nhưng bất hạnh nhất khi tự khẳng định nó là một sự thật bất biến”.

    Chàng thanh niên nặng bốn mươi kư Nguyễn Mạnh Huy từ đó đi làm thợ mộc kiếm sống nhưng vẫn nhắc ḿnh: “Đừng buông súng khi c̣n sức chiến đấu”. Thế rồi cho đến sát ngày thi của năm 1983, v́ quá “nôn nao, bứt rứt”, Nguyễn Mạnh Huy lại nộp đơn thi vào Sư Phạm Quy Nhơn, được 18,5 điểm trong khi điểm chuẩn chỉ là 12. Lần này th́ Huy không buồn đi xem kết quả nữa.

    Ông Vơ Văn Kiệt nh́n nhận: “Khắc phục những hậu quả do chế độ cũ để lại đă khó, nhưng khắc phục những cái do chế độ mới sinh ra lại c̣n khó hơn”. Chuẩn bị Đại hội Đoàn Thành phố lần thứ Nhất, Ông Kiệt nói với nhà báo Thép Mới, lúc ấy đang cộng tác như một người viết diễn văn cho ông: “Tại sao hồi Đảng c̣n hoạt động bí mật ḿnh không phân biệt, tại sao hồi đó ḿnh vận động cả con em địa chủ, con em tư sản, con em các quan chức trong chế độ Sài G̣n… để giờ đây khi có chính quyền trong tay ḿnh lại phân biệt! Nếu cứ kéo dài t́nh trạng này th́ tới bao giờ thanh thiếu niên mới có thể ḥa hợp được với nhau?”. Theo ông Phạm Văn Hùng, thư kư của Vơ Văn Kiệt: “Trong khi trao đổi, ông Vơ Văn Kiệt gần như buột miệng nói, ‘Không ai chọn cửa sinh ra’, làm cho cả ông Thép Mới và chúng tôi đều rất thích thú”.

    Tuy nhiên, trong vấn đề “lư lịch”, tư duy theo kiểu ông Kiệt là rất “thiểu số”. Ông Kiệt nói: “Tôi suy nghĩ rất nhiều, nhưng biết thay đổi không phải là việc giản đơn v́ đó là nhận thức và tính nguyên tắc của cả hệ thống”. Ngày 3-7-1977, tại Đại hội Đoàn Thành phố lần thứ Nhất, Bí thư Thành ủy Vơ Văn Kiệt phát biểu: “Thế hệ trẻ đang lớn lên ở Thành phố ta, ra đời từ những hoàn cảnh xă hội khác nhau, chịu ảnh hưởng tinh thần và tín ngưỡng khác nhau. Không ai chọn cửa mà sinh ra. Đối với mỗi người trẻ tuổi đang bước vào đời, chúng ta nh́n họ như nhau, cùng là những người chủ tương lai của Thành phố. Xă hội muốn tuổi thanh xuân không mặc cảm và rất thanh thản trong tâm hồn…”. Ông kêu gọi: “Xă hội phải đối xử công bằng với tất cả lớp người trẻ đi lên với xă hội này, ai ai cũng có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau… Chúng ta lấy thực tâm, thực học, thực tài làm tiêu chuẩn, không để quá khứ ràng buộc tương lai mà hạn chế chí tiến thủ và hoài băo cống hiến của mỗi người trẻ tuổi”.

    Phát biểu này của ông Vơ Văn Kiệt đă không được ngay cả báo chí dưới quyền của ông đăng tải. Măi tới hai tháng sau, báo Tuổi Trẻ mới cho đăng lá thư của “bạn đọc” Nguyễn Kỳ Tâm, nói về những bế tắc của anh v́ lư lịch372 để sau đó, ngày 30- 9-1977, báo Tuổi Trẻ cho đăng tuyên bố “không ai chọn cửa sinh ra” mà ông Vơ Văn Kiệt đă nói tại Đại hội Đoàn vào ngày 3-7-1977. Tổng Biên tập Tuổi Trẻ từ năm 1977, ông Vơ Như Lanh, thừa nhận: “Ṭa soạn phải dành thời gian cân nhắc để chuẩn bị v́ khi ấy không khí phân biệt lư lịch rất căng thẳng, mặc dù ông Kiệt nói vậy, nhưng Thành đoàn vẫn rất gay gắt. Thành ủy th́ ngoài ông Kiệt, không có ai công khai nói ǵ”. Ông Vơ Văn Kiệt, với vai tṛ hạn chế của một nhà lănh đạo địa phương, cũng chỉ có thể xử lư vấn đề lư lịch ở tầm vụ việc373. Biết bao trường hợp v́ lư lịch mà không được tới trường khi cái đúng chỉ mới tùy thuộc vào ứng xử cá nhân chứ chưa trở thành chính sách.



    “Cánh cửa” Thanh niên Xung phong



    Từ tháng 8-1975, ông Vơ Văn Kiệt đă giao cho Thành đoàn tổ chức một lực lượng thanh niên xung phong đi “thí điểm” khai khẩn đất hoang. Cuối năm ấy, ông Vơ Văn Kiệt triệu tập Ban Thường vụ Thành đoàn đến nhà riêng ông Phan Minh Tánh, bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam. Vào họp, ông Kiệt giao nhiệm vụ: “Thành phố cần một lực lượng, lực lượng đó là thanh niên xung phong. Giao Thành đoàn đứng ra tổ chức, cần Thành ủy hỗ trợ ǵ, Thành ủy sẽ đáp ứng”. Ông giải thích: “Phải tạo ra một môi trường để mọi thanh niên đều có thể tham gia lao động để có suy nghĩ tích cực và để hănh diện về bản thân ḿnh”.

    Ông Vơ Ngọc An năm ấy ba mươi mốt tuổi, đang là ủy viên Thường vụ Thành đoàn phụ trách báo Tuổi Trẻ, nhớ lại: “Lúc đó, nghe ông Kiệt nói cảm thấy như đang nghe một điều ǵ đó thật thiêng liêng”. Sau cuộc họp ấy, ông Vơ Ngọc An lănh trách nhiệm huy động tiền bạc để may hàng ngàn bộ đồng phục xanh.

    Hàng chục năm sau, nhiều người dân Thành phố nhớ tới ngày 28-3-1976, không chỉ v́ tính hoành tráng của cuộc biểu dương lực lượng ở sân vận động Thống Nhất với một “rừng người” áo xanh, tay cầm cuốc xẻng, mà ở cách mở đầu bài nói chuyện của một bí thư cộng sản. Thay v́, “các đồng chí” như cách xưng hô thống trị thời bấy giờ ở trên mọi diễn đàn, ông Vơ Văn Kiệt đă làm nhiều thanh niên ứa nước mắt khi nói: “Các em đoàn viên, thanh niên yêu quư!”.

    Trong số hàng vạn thanh niên có mặt hôm ấy không chỉ có con em Cách mạng. Theo yêu cầu của ông Vơ Văn Kiệt, Thành đoàn đă vận động được cả những thanh niên nghiện x́ ke, ma túy, có người đă từng là “đĩ, điếm”, có người là “lính ngụy”. Theo ông Vơ Ngọc An, trong số ấy có một đại úy Sài G̣n, cha anh đă từng bị giết nhầm bởi “Việt Cộng”. Những thanh niên ấy, từ sau ngày 30-4, thông qua cách cư xử của các cán bộ phường, thông qua những ngôn từ cao ngạo trên báo đài, biết được thân phận của ḿnh, dám mong chi có ngày một ông bí thư gọi ḿnh là “các em yêu dấu”.

    Với tư cách là một nhà lănh đạo Đảng, ông Vơ Văn Kiệt cũng nói về truyền thống theo cách của ḿnh: “Tôi cũng xin phép được bày tỏ với lứa tuổi hai mươi của đất nước đă hết đau thương và từ đây thẳng đường đi tới chủ nghĩa xă hội với tất cả tấm ḷng tŕu mến và kỳ vọng thiết tha của những lớp thanh niên nối tiếp nhau đă từng tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ, cách mạng Tháng Tám…”. Ông nói tiếp: “Lư tưởng của họ, ước mơ của họ chính là hiện tại mà hôm nay các em đang sống. Nếu các em sau này có điều kiện ôn lại kỹ càng một giai đoạn cách mạng hùng vĩ đă qua của dân tộc, các em sẽ biết thương yêu vô hạn Tổ quốc Việt Nam ngh́n lần yêu dấu. Các em sẽ mạnh lên gấp bội v́ một niềm tin ở nhân dân và đất nước”.

    Bài diễn văn được chấp bút bởi nhà báo Thép Mới, một người viết tùy bút nổi tiếng, tác giả của bài “Tre Việt Nam” in trong sách giáo khoa được thuộc ḷng bởi nhiều thế hệ. Tinh thần của ông Vơ Văn Kiệt, có lúc, được ông Thép Mới thể hiện với giọng văn nồng nàn. Ông Vơ Văn Kiệt, lúc này, vẫn để cho Thép Mới sử dụng h́nh tượng Pavel, h́nh tượng về một thế hệ quên ḿnh để “tạo lập nên nước xă hội chủ nghĩa đầu tiên”. Tuy không hùng hồn như ông Trần Bạch Đằng, nhưng cái đẹp của thanh niên theo ông Kiệt vẫn là lao động374. Kết thúc bài diễn văn, ông Kiệt nói: “Chúng tôi xin nhiệt liệt chào mừng những lớp công dân xă hội chủ nghĩa của thành phố chúng ta từ đây nối tiếp nhau nẩy nở và trưởng thành trên những công trường lao động t́nh nguyện. Chúc các em thành công thắng lợi, trên trận tuyến mới, trận tuyến lao động vinh quang”.

    Không có mặt ở sân vận động Thống Nhất sáng 28-3-1976, nhưng giáo sư trung học Trần Ngọc Châu vẫn chịu ảnh hưởng bởi bài diễn văn. Năm ấy, ông Châu nằm trong toán vận động thanh niên đi thanh niên xung phong của Quận đoàn I. Ông Trần Ngọc Châu kể: “Bài diễn văn của ông Vơ Văn Kiệt được quay ronéo, chúng tôi cho họp dân ở phường, đọc những đoạn cảm động nhất”.

    Theo ông Trần Ngọc Châu th́ khi ấy, phường đoàn cũng có chuyện, họ lập danh sách và thường xuyên bắt tập trung những thanh niên chưa có công ăn việc làm, khiến nhiều người bất măn. “Cộng sản” và “đồng chí” là những khái niệm rất xa cách và có khi là ác cảm với thanh niên, cho nên theo ông Châu: “Nhiều người chỉ v́ thấy ông bí thư cộng sản gọi họ là em mà đi. Có người học thuộc nhiều đoạn trong bài diễn văn của ông Vơ Văn Kiệt”. Ông Châu trước đó là giáo viên Anh văn, đă có bằng cao học triết, thế nhưng sau một thời gian đi vận động người khác, chính ông Châu cũng nhận ra con đường để trụ lại trong chế độ tốt nhất là phải “chọn cánh cửa” này375.

    Nguyễn Nhật Ánh376 cũng đă chọn thanh niên xung phong như là một con đường để giải tỏa áp lực nặng nề của lư lịch. Sau ngày 30-4-1975, ông hàng xóm làm thợ mộc ở phường Nhật Tảo, Quận 10, bố của ba cô con gái khá xinh mà sinh viên Nguyễn Nhật Ánh dạy kèm, bỗng nhiên trở thành chủ tịch khóm, về sau là chủ tịch phường. Nguyễn Nhật Ánh, khi ấy vừa học xong chương tŕnh đệ nhất cấp ở Đại học Sư phạm, được ông thợ mộc đưa lên phường lo việc giấy tờ. Theo “tinh thần Chỉ thị 222”, năm 1976, anh được phép tốt nghiệp sau khi học thêm tám tháng “chính trị”. Tuy nhiên, Ánh không được phân công công tác chỉ v́ cha anh lúc đó đang phải đi “học tập” do từng là trưởng Ty Thông tin Chiêu hồi Tỉnh Quảng Tín377.

    Nguyễn Nhật Ánh trở về phường Nhật Tảo khi cô con gái ông chủ tịch đă trở thành bí thư Phường Đoàn. Cô bí thư chiếu cố thầy giáo cũ của ḿnh, mỗi khi có “phong trào” lại gọi Nguyễn Nhật Ánh vác loa đi đọc bản tin hoặc kẻ lên tường những câu khẩu hiệu “xây dựng chủ nghĩa xă hội”. Đổi lại, anh có thù lao mười kư gạo mỗi tháng. Nguyễn Nhật Ánh cũng tiếp cận bài diễn văn của ông Vơ Văn kiệt thông qua những lần đi vận động thanh niên xung phong. Anh kể: “Khi mọi người đi hết, tôi chợt nhận ra, không lẽ ḿnh cứ ăn bám bà d́ hoài, năm 1977, tôi cũng lên đường”.

    Chỉ huy Lực lượng Thanh niên xung phong khi ấy là ông Vơ Viết Thanh. Năm 1975, khi ông Vơ Văn Kiệt cần một sỹ quan trẻ biệt phái sang thanh niên xung phong, Đại úy, Tiểu đoàn trưởng Vơ Viết Thanh đă được chọn. Ông Thanh nhớ lại:

    “Khi xuống U Minh, tôi cũng hơi suy nghĩ, đang là một sỹ quan được quân đội trọng dụng, giờ ra nằm giữa rừng, gian khổ không kém chi thời chiến”.
    Thanh niên xung phong thuộc nhiều thành phần, có người là tướng cướp, có người xuất thân là trí thức, sỹ quan, nhưng chủ yếu là thanh niên học sinh. Theo ông Vơ Viết Thanh, họ chịu đựng gian khổ không thua ǵ những chiến binh. Giữa rừng U Minh, giữa Chiến khu Dương Minh Châu… mùa mưa th́ nước ngập mênh mang, mùa khô th́ phải chia từng giọt nước ngọt, ăn không đủ no, rồi th́ đỉa, vắt và đủ thứ bệnh tật, nhưng chỉ có một thứ thuốc lá duy nhất để chữa là “xuyên tâm liên”. Thế mà họ đă sống với nhau không câu nệ quá khứ. Đa phần đều trưởng thành. Ông Vơ Viết Thanh thừa nhận, chính ông cũng phải dần dần mới “bắt được nhịp sống với họ”. Ông Thanh nói: “Hơn sáu vạn con người không biết Cách mạng là ǵ, chỉ nghe lời ông Sáu Dân mà kiên gan, bền bỉ”.

    Một năm sau ngày phát động “phong trào thanh niên xung phong”, tại cuộc gặp mặt những “đại biểu thanh niên xung phong tiên tiến”, ngày 3-3-1977, ông Vơ Văn Kiệt đă gọi thanh niên xung phong là một “trường đại học”. Ông Kiệt cho rằng sở dĩ các chàng trai cô gái đă “trưởng thành trên nhiều mặt” là v́ họ đă “thấy được tiền đồ tương lai của ḿnh nằm trong tiền đồ, tương lai của đất nước, dân tộc… Nhiều đồng chí đă xác định với t́nh cảm và lư trí sâu sắc lao động là vinh quang”378.

    Môi trường thanh niên xung phong ở thời điểm ấy đúng là đă tạo ra không ít câu chuyện kỳ diệu379. Trước “giải phóng”, Vũ Hoàng Vi là một tướng cướp. Lúc đầu, Vi chỉ định “trà trộn” vào lực lượng thanh niên xung phong như là một nơi để trốn.

    Nhưng tung tích của Vũ Hoàng Vi bị tổ chức phát hiện. Anh không những không bị bắt mà c̣n được vận động thuyết phục. Lần đầu tiên, Vi nhận ra có một nơi tôn trọng ḿnh, anh lao động tốt, được tuyên dương, được cho đi học, được đưa lên làm đại đội trưởng và về sau c̣n được kết nạp Đảng.
    Trong những bài phát biểu với thanh niên xung phong về sau, ông Vơ Văn Kiệt vẫn tiếp tục gọi họ là “các em”. Nhưng khi phát biểu với những “thanh niên tiên tiến”, ông đă gọi họ là “đồng chí”. Trong một đại hội thanh niên tiên tiến khác, ông Vơ Văn Kiệt đă đưa một đội viên vốn là một tay anh chị nổi tiếng, “Bảy Đầu Ḅ”, ngồi chung trên ghế chủ tịch đoàn với ḿnh.

    Nếu như trong những ngày đầu, nhiều thanh niên miền Nam hết sức dị ứng với cách Cách mạng xưng hô với nhau, th́ ở thời điểm ấy “đồng chí” lại là một sự thừa nhận mà nhiều thanh niên t́m kiếm.

    Năm 1977, Nguyễn Nhật Ánh đang tham gia đào kênh Ba Gia ở Hố Ḅ, Phú Ḥa. Lúc này anh đă có nhiều tác phẩm đăng trên tờ Tuổi Trẻ, nhưng với lư lịch cha là trưởng ty “chiêu hồi”, anh vẫn không được kết nạp Đoàn. Khi ấy, thanh niên xung phong ở trong những lán tranh, vách nứa, một bên là nơi ngủ của nam, một bên là nữ; phần giữa lán kê những bộ bàn ghế tạm do chính họ làm. Một buổi tối, chi đoàn nhóm họp nơi khoảng giữa lán có kê bàn ghế đó. Đang họp, một người trong Ban Chính trị Liên đội phát hiện ra Nguyễn Nhật Ánh đang nằm chèo queo trên giường, lập tức “phần tử chậm tiến” Nguyễn Nhật Ánh bị đuổi ra ngoài. Hôm ấy mưa, trời tối như bưng, Nguyễn Nhật Ánh phải đi ra, lang thang giữa rẫy khoai ḿ, mặt ướt đẫm v́ nước mưa và nước mắt. Anh nhớ lại: “Tôi có cảm giác như bị đẩy ra khỏi đồng loại”. Nhưng cho dù cảm giác về thời đại mới ra sao th́ Nguyễn Nhật Ánh cũng không có lựa chọn nào khác là phải “quay vào”, phải chứng tỏ ḿnh là một thanh niên tiên tiến.

    Ngày 26-3-1978, mười hai giờ đêm, ông Vơ Văn Kiệt lên, Nguyễn Nhật Ánh, Trần Ngọc Châu và nhiều thanh niên khác được gọi dậy: bên ngoài, đuốc được đốt lên và nhiều thanh niên của chế độ cũ, trong đó có Trần Ngọc Châu, từ đêm ấy, “vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đoàn”. Theo ông Trần Ngọc Châu: “Ông Vơ Văn Kiệt đến, mặc bộ đồ thanh niên xung phong, đầu đội nón tai bèo, đứng lên đánh trống. H́nh ảnh một ông Kiệt sừng sững đă đọng lại trong kư ức của lực lượng thanh niên xung phong”. Ông Châu nói: “Khi ấy, vào Đoàn là thiêng liêng lắm”.

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương VII : “Giải Phóng”
    P4


    Đoàn thiêng liêng lắm, nhưng “ánh đuốc” trong đêm ấy không thể rọi sáng đến tất cả mọi người. Cũng như Trần Ngọc Châu, Nguyễn Nhật Ánh đă dùng cuốc chim, cuốc đá ong đào kênh cho đến khi hai tay tóe máu mà vẫn không được vào Đoàn chỉ v́ cha là “Ngụy”. “Cánh cửa thanh niên xung phong” mà ông Kiệt thiết lập vẫn không đủ rộng cho các thanh niên miền Nam bước vào chế độ mới.



    “Nổi loạn”



    Nhiều thanh niên xung phong về sau vẫn nhớ về những ngày chặt cây rừng và hát tráng ca. Trong những ngày có quá nhiều người mất phương hướng ấy, phải công nhận là ông Vơ Văn Kiệt đă t́m được một phương thức hiệu quả để thu hút thanh niên.

    Họ đă bước vào những chuẩn mực chính trị mới do Cách mạng thiết lập, ít nhiều bằng cảm hứng. Không phải tự nhiên mà những gót son Sài G̣n bị đưa đến chốn rừng thiêng, đạp gai rừng ấy đă không trách ǵ ông. Họ cũng đă đi bởi niềm tin. Nhưng bộ đồng phục thanh niên xung phong không thể che hết ḷng mặc cảm, bởi mặc cảm không xuất phát từ nơi mà những người thanh niên đó được sinh ra. Sự mặc cảm xuất hiện do chế độ thiết lập quá nhiều hàng rào lư lịch. Khi mà những hàng rào ấy chưa được gỡ bỏ th́ đồng phục cũng không tạo ra được cảm giác đồng đội, cho dù họ ngủ cùng lán, đứng cùng hàng, chưa kể những người khi ấy vẫn ở “ngoài xă hội”380.

    Sau “giải phóng”, Cư xá Bắc Hải, Quận 10 trở thành nơi ở của những gia đ́nh sỹ quan cao cấp của Cách mạng. Gia đ́nh một số tướng, tá của “chế độ cũ” vẫn sống “xôi đỗ” ở đây. Con em các gia đ́nh cách mạng đương nhiên là “ṇng cốt”. Nguyễn Thế Dũng là một thanh niên như vậy. Dũng là con trai của Đại tá Nguyễn Thế Truyện, người được coi là “con hùm xám” khi c̣n là tư lệnh Sư 9. Đại tá Truyện hy sinh trong chiến dịch Mậu Thân khi tấn công đợt II vào Sài G̣n. Khi ấy ông Truyện là tư lệnh Phân khu I. Sau ngày 30-4-1975, vợ con của Đại tá Truyện được đưa về Sài G̣n sống trong căn nhà T10, Cư xá Bắc Hải. Trong những năm cuối thập niên 1970, Nguyễn Thế Dũng là phó bí thư phường đoàn, được giao đi vận động, cảm hóa con em sỹ quan “chế độ cũ”.

    Cô “tiểu thư” Lê Bích Thúy ở nhà T4, con gái Trung tá Lê Văn Dương, trưởng Pḥng Quân sử, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa là một trong những “đối tượng” của Dũng. Nhưng cuối cùng người bị “cảm hóa” lại là Dũng. Hai người, một là con trai vị tư lệnh khét tiếng của cộng sản, một là con của một “ngụy quân” đang bị cải tạo trong tù, yêu nhau và kiên quyết lấy nhau. Mẹ Dũng khóc lên, khóc xuống. Phu nhân các đồng đội cũ của Đại tá Nguyễn Thế Truyện, lúc bấy giờ đa số đă là tướng, khuyên bà quả phụ phải phá bằng được cuộc hôn nhân. Nhưng Nguyễn Thế Dũng dứt khoát không chịu, anh sang nhà người yêu nói với bà mẹ: “Má chịu gả th́ con cưới chứ nhà con không ai chịu sang đâu”. Bà phu nhân Trung tá Lê Văn Dương chỉ biết gật đầu lặng lẽ.

    Chị ruột của Nguyễn Thế Dũng là nhà báo Nguyễn Thế Thanh, sau là tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành phố, chạy lên cầu cứu ông Vơ Văn Kiệt. Nghe xong, ông Kiệt nói: “Ḿnh dạy người khác không phân biệt, ḿnh cố gắng để vợ con người ta đừng thù hận mà ḿnh làm như thế sao người ta quên”. Rồi ông bảo: “Kêu hai đứa lên đây tao gặp”. Thế Thanh về kêu Dũng chở người yêu lên. Ông Vơ Văn Kiệt tiếp hai người hết sức thân t́nh rồi, khi Dũng đi ra vườn, ông Kiệt hỏi Lê Bích Thúy: “Cháu có lường hết những khó khăn khi lấy Dũng không?”. Bích Thúy: “Dạ thưa, cháu yêu Dũng, cháu biết nhưng cháu chọn anh ấy”. Ông Kiệt: “Nhỡ khi đi học tập về, ba cháu không chịu th́ sao?”. Bích Thúy: “Dạ không, ba cháu rất thương cháu, cháu tin là không có chuyện đó, nhưng nếu ba cháu không chịu th́ cháu sẽ đấu tranh”. Ông Kiệt cho gọi Dũng vào hỏi: “Cháu có băn khoăn ǵ không?”. “Không!”, Dũng dứt khoát. Ông Kiệt nói: “Cháu lấy con một sỹ quan chế độ cũ th́ không tránh khỏi bị nghi kỵ, bác không phải lúc nào cũng ở bên các con”. Rồi ông nói với hai đứa trẻ: “Giờ bác Sáu thay mặt ba, bác ủng hộ tụi bây”. Sau đó, ông Vơ Văn Kiệt gặp bà quả phụ Đại tá Nguyễn Thế Truyện và ông chỉ dặn: “Thôi chuyện mấy đứa nhỏ chị cứ để cho tụi nó tính”.

    Năm 1982, khi Trung tá Lê Văn Dương được tha về, con gái ông đă có con với con trai một người cộng sản. Ông chủ động qua nhà T10 gặp bà đại tá nói: “Tôi đi học không biết là hai nhà chúng ta đă thành thông gia, âu cũng là số phận lịch sử. Tôi đi, cũng học được nhiều điều, bác trai đă hy sinh, hai gia đ́nh gặp nhau trong t́nh thông gia thế này cũng là điều tốt”. Rồi khi thắp hương cho Đại tá Nguyễn Thế Truyện, Trung tá Lê Văn Dương khấn: “Thưa bác, tôi là Lê Văn Dương cha của con dâu bác, xin thắp nén nhang này báo với bác, chúng ta giờ là thông gia của nhau”.

    T́nh yêu tự thân nó không phân chia lư lịch. Nhiều cuộc t́nh thanh niên xung phong cũng chịu ngang trái, có người cũng may mắn như Nguyễn Thế Dũng và Lê Bích Thúy nhưng cũng có những cuộc t́nh trắc trở. Cuối năm 1978, Đại úy Quân y Sài G̣n, Bác sỹ Thiều Huỳnh Chí đi học tập trở về, ông lên tŕnh diện Sở Y tế và được đưa về Duyên Hải làm trạm trưởng y tế cho một đơn vị thanh niên xung phong, Nông trường Đỗ Ḥa.

    Vốn là một bác sỹ ngoại khoa nhưng ở đấy ông Thiều Huỳnh Chí đă tự thiết kế từ chiếc ghế nhổ răng, cái hố xí hai ngăn và nổi tiếng khắp vùng với tài đỡ đẻ. Bác sỹ Chí đă quyết định ở lại trong khi vợ ông đưa các con đi vượt biên. Giám đốc Nông trường lúc ấy là chị Vơ Thị Bạch Tuyết, nguyên là một chỉ huy của phong trào đốt xe Mỹ, bị tra tấn và bị đày ra Côn Đảo nhiều năm. Những ngày làm việc bên nhau đă xích bác sỹ Thiều Huỳnh Chí và Giám đốc Vơ Thị Bạch Tuyết lại gần nhau. Nhưng t́nh yêu của họ đă không được Thanh niên Xung phong ủng hộ.

    Đảng ủy Thanh niên Xung phong kiên quyết không cho hai người lấy nhau v́ Bác sỹ Chí không những là “ngụy” mà c̣n là một “người Việt gốc Hoa”. Ông Phan Minh Tánh nói: “Tôi hay xuống làm việc với cô Tuyết, tôi hiểu hoàn cảnh của cô ấy. Thành ủy chúng tôi ủng hộ nhưng Thanh niên Xung phong không chịu”. Sau đó, ông Mai Chí Thọ cho mời Thường vụ Đảng ủy Thanh niên Xung phong lên, hỏi họ theo cách rất Năm Xuân: “Nó (chị Bạch Tuyết) lớn tuổi lại bị tra tấn không sinh nở được, giờ không cho nó lấy chồng vậy trong tụi bây có ai lấy nó không?”.

    Nhà văn Nguyễn Đông Thức, thuộc lớp thanh niên xung phong đầu tiên của Nông trường Đỗ Ḥa, kể: “Trước hôm đám cưới, ông Vơ Văn Kiệt, khi ấy đă ra Hà Nội làm phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, đă về, xuống nông trường ngủ lại một đêm và chung vui với họ”381.

    Nhưng đám cưới của một nữ giám đốc nông trường và một “đại úy ngụy” đă không tạo ra tiền lệ. Năm 1982, Đảng ủy Thanh niên Xung phong lại ngăn cản cuộc hôn nhân của Nguyễn Nhật Ánh với Trần Thị Tiếng Thu. Tiếng Thu lúc ấy đang là phó Pḥng Chính trị Lực lượng Thanh niên xung phong. Bốn ngày sau khi hội nghị chi bộ Cơ quan Lực lượng “biểu quyết khai trừ ra khỏi Đảng”, “cô dâu” Trần Thị Tiếng Thu đă viết đơn gửi Ban Tổ chức Thành ủy. Đơn của Tiếng Thu khai: “Vào khoảng giữa năm 1981, tôi và đồng chí Nguyễn Nhật Ánh đặt vấn đề t́m hiểu nhau để đi đến hôn nhân. Sau đó đă chính thức báo cáo với Đảng ủy và chi bộ cơ quan (đồng chí Nhật Ánh là thanh niên xung phong hiện công tác tại Pḥng Chính trị)”. Đơn của Tiếng Thu cho biết: “Trong nửa năm qua, Đảng ủy và chi bộ đă nhiều lần thuyết phục tôi cắt đứt mối quan hệ này. Đồng chí bí thư Đảng ủy, hầu hết các đồng chí trong Đảng ủy đă lần lượt gặp tôi. Sau đó, trong phiên họp chi bộ thường kỳ vào tháng 2-1982, chi ủy đă mang vấn đề của tôi ra kiểm điểm, nội dung: đồng chí Nguyễn Nhật Ánh tuy là một đồng chí tốt, nhưng đồng chí có người cha trước đây làm việc cho chế độ cũ với mức độ như thế th́ đứng về mặt lập trường giai cấp, một đảng viên không thể chung sống với một gia đ́nh như vậy… Đồng thời, chi bộ cũng kiểm điểm tôi về việc trước khi t́m hiểu đồng chí Nguyễn Nhật Ánh, tôi đă không xin ư kiến trước, để bây giờ đặt tổ chức vào một việc đă rồi”.

    Lá đơn của Trần thị Tiếng Thu viết tiếp: “Trong phiên họp tháng 2 và phiên họp tháng 6 vừa qua, chi bộ đă đặt tôi vào hoàn cảnh phải chọn lựa: một là Đảng, hai là tôi sẽ tiếp tục xây dựng gia đ́nh với đồng chí Nguyễn Nhật Ánh. Tôi đă khẳng định là tôi sẽ tiếp tục xây dựng gia đ́nh với đồng chí Nguyễn Nhật Ánh, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi đă chọn lựa, tôi không bao giờ có ư định rời bỏ Đảng”.

    Quyết tâm của đôi lứa yêu nhau đă không dễ dàng để thành hiện thực. Cho dù là công dân, hai người có quyền đăng kư kết hôn, nhưng v́ Trần Thị Tiếng Thu đang là người của lực lượng Thanh niên Xung phong, chính quyền địa phương chỉ cho phép đăng kư khi có xác nhận của lực lượng nơi chị đang đăng kư hộ khẩu tập thể. Trong khi đó, Pḥng Tổ chức Lực lượng không chịu xác nhận thường trú một khi không có chấp thuận của Đảng ủy.

    Tháng 10-1983, Trần Thị Tiếng Thu đành phải thực hiện quyền công dân của ḿnh bằng cách: chị viết một lá đơn xin “xác nhận hộ khẩu” để “bổ túc hồ sơ xin đăng kư xe”. Pḥng Tổ Chức đă xác nhận cho chị. Nhưng, chữ “xe” đă được hai người yêu nhau âm mưu viết sao để sau khi kư về sửa thành chữ “kết” và “bổ túc” thêm chữ “hôn”, đăng kư xe thành “đăng kư kết hôn”. Sau đám cưới, ngày 30-5- 1984, Trần Thị Tiếng Thu đă nhận được quyết định kỷ luật “cảnh cáo”. Căn cứ để Phó Bí thư Thành ủy Phan Minh Tánh kư quyết định này là: “Xét thấy đồng chí Thu c̣n non kém về quan điểm lập trường và thiếu ư thức tổ chức kỷ luật trong việc xây dựng gia đ́nh”.

    Không chỉ vượt qua những định kiến của chế độ mới dũng cảm bảo vệ t́nh yêu lứa đôi, rất nhiều người trong số họ đă chiến đấu để bảo vệ giang sơn v́ t́nh yêu tổ quốc. Hàng ngàn thanh niên xung phong đă ra chiến trường khi Pol Pot giết thường dân ngoài biên giới. Theo nhà báo Trần Ngọc Châu, năm 1977-1978, khi chiến tranh Biên giới Tây Nam nổ ra, rất nhiều người xung phong ra tiền tuyến nhưng không phải ai cũng được chọn. Ngày 14-6-1978, 500 nam nữ thanh niên xung phong thuộc Liên đội 5 được điều ra biên giới, “phối thuộc” Sư đoàn 7, Quân đoàn IV, với nhiệm vụ cáng thương, tải đạn, làm đường, chống lầy, bốc xếp đạn dược, khâm liệm và chôn cất liệt sĩ. Đoạn đường mà Liên đội 5 đảm trách chỉ dài hơn 10km, nhưng lún, lầy rất nặng; thanh niên xung phong phải thường xuyên san lấp, chèn cây nhiều lớp, công việc vô cùng gian khổ.

    Chiều 21-7-1978, Trung đội 3 được giao bám sát bộ đội đang vận động tấn công Khmer Đỏ. Trung đội có một tiểu đội nữ do Đại đội Trưởng Ngô Đức Minh trực tiếp chỉ huy, di chuyển lên chốt chặn gần ngă ba Koky Som. Rạng hôm sau, ngày 22-7- 1978, một tiểu đoàn Khmer Đỏ, trên đường luồn sâu vào phía sau mặt trận, đă chạm trán Trung đội 3. Trận đánh – giữa một bên là những tên lính Khmer Đỏ hung hăn với một bên là những thanh niên chưa có một ngày được huấn luyện chiến đấu và vũ khí th́ chỉ có vài người được trang bị – đă biến thành một cuộc thảm sát. Khi lực lượng Sư đoàn 7 kịp đến bao vây và tấn công, tiêu diệt toàn bộ chín mươi sáu tên Pol Pot, th́ bọn chúng đă kịp giết chết hai mươi bốn người: Xác Đại đội trưởng
    Ngô Đức Minh bị đốt; bảy cô gái thanh niên xung phong bị hăm hiếp trước khi bị giết giă man. Chỉ có hai người – Nguyễn Thị Lư và Nguyễn Văn Tuấn – là sống sót, nhờ được xác của đồng đội đè che, sau khi cả hai đều bị thương rất nặng.

    Tin hai mươi bốn đồng đội bị thảm sát được truyền đi trong toàn lực lượng. Cái chết của họ không làm các nam nữ thanh niên xung phong run sợ cho dù thanh niên xung phong phục vụ chiến trường khi ấy chưa được trang bị súng đạn hay bất cứ vũ khí ǵ để tự vệ. Họ ở phía sau. Nếu bộ đội phía trước bị bật chốt hay bị tiêu diệt th́ số phận tiếp theo là chính họ. Khi nghe tin Trung đội 3 của Liên đội 3 bị thảm sát, nhà thơ Đỗ Trung Quân – khi ấy đă rời Ṭa soạn báo Tuyến Đầu, nhận nhiệm vụ ở một đơn vị Thanh niên xung phong phối thuộc Trung đoàn Gia Định – đă viết “Những bông hoa trên tuyến lửa”. Nhận được bài thơ, từ ṭa soạn báo Tuyến Đầu, Cao Vũ Huy Miên viết thư tay gửi theo xe quân sự gửi Quân: “Lực lượng triệu tập, có hội diễn văn nghệ thanh niên xung phong. Ông xin phép rồi t́m xe bộ đội về thẳng Sài G̣n. Mong gặp ở Nhà Văn Hóa Thanh Niên”.

    Từ Campuchia, lúc này được gọi là “Chiến trường K”, Đỗ Trung Quân theo xe bộ đội, về tới Thành phố sau ba ngày đường ḍ dẫm qua những Phum Sóc không c̣n bóng người và thỉnh thoảng lại gặp ḿn gài lại của tàn quân Pol Pot. Sau gần hai năm nh́n lại những ánh đèn Thành phố, mắt cay cay, Quân chen qua đám đông, bước vào Nhà Văn Hóa Thanh Niên. Anh nh́n thấy ở đó những “chiến sỹ văn công Tổng đội”: Ánh Hồng, Ánh Thu, Trương Tam Sa, Hoàng Tuấn, Kiều Nga, Kiều Giang… Cao Vũ Huy Miên đón Quân sau cánh gà: “Tôi tưởng ông không về kịp…”.

    Quân bước ra sân khấu, đặt chiếc ba lô xuống chân. Bộ đồng phục đă bị bụi đường nhuộn màu nâu đỏ. Đỗ Trung Quân năm ấy, một gă trẻ tuổi đeo kính cận, tóc tai bờm xờm, chỉ kịp giới thiệu ḿnh bằng bài thơ vừa viết:



    Ở giữa rừng đâu có gương soi

    Làm sao em thấy được vết bầm trên má

    huyến tải thương về mấy lần trượt ngă

    V́ mùa mưa nào đă chịu dứt ở đây

    Anh bộ đội thương binh vừa tỉnh lại sáng nay

    Đă hỏi thăm em, người cáng thương đêm trước

    Cô ấy ngă mấy lần tôi đếm được

    Mà sao không khóc mới lạ lùng

    Chắc anh hiểu rồi em ở tấm ḷng

    Nước mắt chỉ dành cho người ngă xuống

    Nên dù té đau gai rừng tê chân buốt

    Đâu để vết thương anh rỉ máu hai lần

    Em là người thanh niên xung phong không-có-súng-chỉ-có-đôi-vai-cáng- thương-tải-đạn…



    Theo ông Vơ Viết Thanh, nếu ông Vơ Văn Kiệt không kiên quyết th́ lực lượng thanh niên xung phong đă không được trang bị súng. Sau những cái chết đau đớn của các đội viên, nhiều vị lănh đạo vẫn sợ: “Giao vũ khí cho chúng à?”. Ông Vơ Viết Thanh kể, khi đưa Lực lượng lên rừng, nhiều người vẫn lo “cái đội quân xô bồ, ô hợp ấy mà tan ra th́ hậu quả không biết thế nào”. Tổng cộng đă có 5.000 lượt thanh niên xung phong tham gia phục vụ Chiến trường đánh Khmer Đỏ.

    Ngoài ông Bảy Thanh, không phải nhà “lănh đạo lực lượng” có “cầm cờ, đứng tên” nào cũng “có một ngày đi với anh em” để biết sự tàn bạo của quân Pol Pot. Khi được trang bị vũ khí, những thanh niên phục vụ chiến trường này đă chiến đấu như những đơn vị quân sự thật sự. Chính những đội viên thanh niên xung phong xuất thân từ những người lính chế độ cũ, từng được coi là “Ngụy”, giờ ấy đă tổ chức huấn luyện cấp tốc cho đồng đội về chiến thuật, về cách sử dụng vũ khí để đánh lại kẻ thù. Nhiều người trong số họ đă hy sinh anh dũng. Ông Trần Ngọc Châu cho biết: “Công việc làm đường, tải thương và tiếp đạn đôi khi c̣n nguy hiểm hơn những người chiến đấu. Trung đội tôi quân số 50 thanh niên xung phong, có 30 người chết”.

    Năm 1982, khi tờ Tuyến Đầu của Thanh niên Xung phong bị lực lượng giải tán, Nguyễn Nhật Ánh, Đỗ Trung Quân, Trần Ngọc Châu, Nguyễn Đông Thức… trở về. Bộ đồng phục xanh lá cây đă làm họ thay đổi rất nhiều sau khi thấm bằng mồ hôi và cả máu. Thanh niên xung phong là tấm giấy thông hành đem lại ít nhiều kiêu hănh cho những người có nó. Chế độ mới đă coi những tấm giấy ấy như một chứng chỉ hoàn thành cuộc sát hạch vinh quang. Hơn sáu vạn giáo sư, bác sỹ, sinh viên, thanh niên lẽ ra có thể dành những năm đẹp nhất của cuộc đời ḿnh để cống hiến cho xă hội những ǵ mà họ thành thạo nhất. Vậy mà, để được chế độ thừa nhận, họ đă phải xuống biển, lên rừng, bàn tay chai sần đi và kiến thức chuyên môn th́ mai một.

    “Sài G̣n lại bắt đầu ghẻ lở”



    Nhiều thanh niên “ngụy” đă bước qua cánh cửa Cách mạng thanh niên xung phong rồi được trọng dụng hơn trong chế độ. “Nước sông công lính” đă giúp khai hoang phục hóa hàng vạn hecta đất trong các vùng chiến tranh; đào được hàng trăm kilomet kênh mương. Nhưng, không phải con kênh nào cũng thực sự có ư nghĩa về thủy lợi; không phải cánh rừng nào bị tàn phá cũng để phục vụ quốc kế dân sinh.

    Ngày 3-3-1977, khi nói chuyện tại Đại hội Thanh niên Xung phong Tiên tiến, ông Vơ Văn Kiệt biểu dương: “Trong năm qua các đồng chí đă cất được hàng chục vạn nhà, đào hàng ngàn giếng, đốn và chặt hàng triệu cây, phát hoang hàng trăm mẫu, đă góp công góp sức vào việc hoàn thành trên ba mươi xă trong số tám mươi xă kinh tế mới”. Thế nhưng, đến cuối năm, ngày 12-12-1977, trong lễ ra quân trên “Đại Công trường Thủ công” xây dựng khu kinh tế mới Dương Minh Châu, ông đă cảnh báo họ: “Đất nước c̣n nghèo, sống hôm nay phải nghĩ tới ngày mai, các em cần bảo nhau hết sức quư trọng… từng tấc đất và mọi tài nguyên của tổ quốc! Phải rèn giữ cho nhau từ bỏ thói quen xả láng, phung phí rất xa lạ với con người mới… Tôi dặn các em chớ thấy cây rừng mà chặt bừa băi. Cành cây chặt xuống đừng để vương văi, các em chịu khó thu nhặt lại, dành dụm được ít củi cho thành phố”.

    Sau hai năm lên rừng để dọn sạch những “rác rưởi” của chiến tranh, mỗi lần trở về thành phố vẫn thấy “nhan nhản những đám thanh niên tiếp tục sống bám vỉa hè, nhởn nhơ bên lề xă hội, giết thời gian bằng cách lê la tiệm quán, hết đi lượn phố lại tụ năm tụ ba ở những nơi công cộng”, nhiều thanh niên xung phong đă không khỏi nh́n lại những năm tháng đi xa xây dựng chế độ mới của ḿnh. Tại “Lễ mừng 46 năm thành lập Đoàn”, 26-3-1978, ông Vơ Văn Kiệt nói: “Nhiều em cũng viết thư cho tôi tỏ ư bất b́nh… Nhiều bạn trí thức sống lâu năm ở thành phố này cũng nói với chúng tôi: Cảnh đó trước đây nh́n măi quen mắt, không ai để ư đến nữa, tưởng đời sống thanh niên thành phố vốn nó là như thế. Đến bây giờ không sao coi được. Tôi rất muốn gặp các anh em đó, hỏi các em nghĩ ǵ về cuộc đời này, nghĩ ǵ về cuộc đời bản thân của các em”.

    Ông Kiệt muốn những người “lê la tiệm quán” ấy phải tự đặt câu hỏi về tương lai của ḿnh. Nhưng các “em thanh niên xung phong” viết thư cho ông Kiệt không chỉ để chất vấn những người “chậm tiến” ấy. Điều khiến họ hy sinh những năm tháng xa người thân, xa đèn điện là để kiến tạo một thành phố mới chứ không phải để thấy rồi những “tàn dư Mỹ Ngụy” lại vẫn cứ quay về. Sáu vạn thanh niên rời Thành phố đi xa, và sửa ḿnh theo hướng mà Cách mạng cho là tích cực. Trong khi đó, bốn triệu thường dân khác vẫn có nhu cầu để sống một đời sống b́nh thường. Nếu như năm 1975, 1976, những văn nghệ sỹ miền Bắc khi đến Sài G̣n vẫn thích đeo bên hông khẩu K54, th́ những năm về sau, họ đă biết uống bia, biết áo phông, quần ḅ. Theo Đỗ Trung Quân, bài thơ Tạ Lỗi Trường Sơn, ngoài sự dồn nén sau bảy năm “giải phóng”, c̣n lập tức “bật” ra thành chữ khi có một nhà văn miền Bắc, đến trước mặt anh chỉ đôi dép sa-bô, cái quần ḅ đang mặc và hỏi: “Ê Quân, thấy bọn này Sài G̣n chưa?”.



    Khi ấy, năm 1982, Đỗ Trung Quân viết:

    Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót

    Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi

    Những con điếm xưa có kẻ đă trở lại làm người giă từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện

    Những gă du đăng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển

    T́m lại hồn nhiên cho cuộc sống của ḿnh

    Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy sinh…

    Và khi ấy

    Th́ chính “các anh”

    Những người nhân danh Hà Nội

    Các anh đang ngồi giữa Sài G̣n bắt đầu chửi bới

    Chửi đă đời

    Chửi hả hê

    Chửi vào tên những làng quê ghi trong lư lịch của chính ḿnh

    Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh

    Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!

    Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc

    Những bà mẹ mấy mươi năm c̣ng lưng trên đê chống lụt.

    Những bà mẹ làm ra hạt lúa

    Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin

    Những bà mẹ tự nhận phần ḿnh tối tăm để những đứa con lớn lên có cái nh́n và trái tim trong sạch

    Bây giờ

    Những đứa con đang tự nhận ḿnh “trong sạch”

    Đang nói về quê mẹ của ḿnh như kẻ ngoại nhân

    Các anh đang ngồi giữa Sài G̣n nhịp chân đă bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu

    Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô

    Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio…

    Rượu bia và gái

    Các anh ngông nghênh tuyên ngôn “khôn & dại”

    Các anh bắt đầu triết lư “sống ở đời”

    Các anh cũng chạy đứt hơi

    Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi

    Sài G̣n thời quá khứ Sài G̣n 1982 lẽ nào…

    Lại bắt đầu ghẻ lở?



    Tội nghiệp em

    Tội nghiệp anh

    Tội nghiệp chúng ta những người thành phố

    Những ai ngổn ngang quá khứ của ḿnh

    Những ai đang cố tẩy rửa “lư lịch đen”

    Để t́m chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật

    Xin ngả nón chào các ngài

    “Quan toà trong sạch”

    Xin các ngài cứ b́nh thản ăn chơi

    B́nh thản đổi thay lốt cũ

    Hăy để yên cho hàng me

    Sài G̣n

    Hồn nhiên xanh muôn thuở để yên cho xương rồng, gai góc

    Chân thật nở hoa

    Này đây!

    Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa

    Nơi một góc (chỉ một góc thôi)

    Sài G̣n bầy hầy, ghẻ lở Bây giờ…

    Tin chắc rằng trong các ngài đă vô số kẻ tin vào “thượng đế”

    Khi sống hả hê giữa một thiên đường Ai bây giờ

    Sẽ Tạ lỗi

    Với Trường Sơn?

  4. #24
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN II : THỜI LÊ DUẨN
    Chương VIII: Thống nhất


    17/12/2012 · bởi Bộ đội làm báo · in Bên thắng cuộc

    http://bodoilambao.wordpress.com/201...ii-thong-nhat/



    Những lo lắng từ hai phía đặc biệt là của ông Lê Duẩn dẫn đến quyết định thống nhất hai miền cả về chính trị và kinh tế, áp dụng mô h́nh miền Bắc vào miền Nam một cách vội vă, mặc dù, nhiều người lúc đó, kể cả ông Lê Duẩn, nhận thấy nền kinh tế tư nhân miền Nam hiệu quả hơn những ǵ áp dụng trên miền Bắc (Nước Việt Nam là một/ “Bắc hóa”/ Chủ nghĩa xă hội/ “Con đường của Bác”/ “Mỗi người làm việc bằng hai”/ Lê Duẩn và mối t́nh miền Nam/ Chấp chính và chuyên chính).

    *

    *

    Con gái ông Lê Duẩn, bà Lê Thị Muội, viết: “Gần trưa [30-4] tôi hay tin là ta đă chiếm Dinh Độc Lập… Tôi hấp tấp ra khỏi Viện Di truyền, phóng xe máy về nhà và lao thẳng vào pḥng ba tôi. Ở đấy, một ḿnh ba tôi đang ngồi lặng lẽ… Người ngước mắt cười với tôi, rồi nước mắt bỗng trào ra… Đột nhiên, tôi thấy thời gian như ngưng lại và ánh sáng trong căn pḥng cũng không c̣n là thứ ánh sáng thông thường của trời đất nữa”382. Nếu như ngày 19-1-1974, Quần đảo Hoàng Sa không bị Trung Quốc chiếm đi, th́ Việt Nam dưới thời ông Lê Duẩn đă bao gồm những ǵ mà Hoàng đế Gia Long mở mang và thâu tóm được. Thống nhất giang sơn đă khó
    nhưng c̣n khó hơn khi thống nhất ḷng người. Nếu “thời gian ngưng lại” ở thời điểm 30-4-1975, lịch sử chắc chắn sẽ có một cách nh́n khác về vai tṛ Lê Duẩn.

    Nước Việt Nam là một

    Việc ông Lê Duẩn phải chờ ở Đà Nẵng cho tới ngày 9-5-1975 mới vào được Sài G̣n để chờ “Trung ương Cục chuẩn bị”, theo ông Trần Quỳnh, khi ấy là trợ lư Lê Duẩn, “đă làm cho anh Ba thoáng có sự lo lắng”.

    Cho dù chiến thắng bắt đầu bằng những mệnh lệnh phát đi từ “Tổng Hành dinh”, nhưng đoàn quân tiến về Sài G̣n trong ngày 30-4-1975 c̣n mang theo cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam. Chấm dứt sự tồn tại của một thực thể chính trị được công nhận bởi hai mươi ba quốc gia sao cho trong ấm, ngoài êm, cũng có nhiều điều lo nghĩ.

    Theo Tướng Giáp, chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, ngày 20-12-1960, và Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam, ngày 8-6- 1969, là của “anh Ba và Bộ Chính trị”. Tuy nhiên, lá cờ sao vàng nửa đỏ nửa xanh của tổ chức này đă từng làm cho không ít người tin vào những tuyên bố trung lập của “Chính phủ Lâm thời”. Không ít thanh niên, trí thức miền Nam đă hướng về “Mặt trận”, nhất là khi họ bắt đầu bất b́nh với cung cách quan lại của chế độ Ngô Đ́nh Diệm, khó chịu với sự có mặt của người Mỹ trên đường phố, trong quán bar và sự can thiệp càng ngày càng sâu của Mỹ vào chính trị.

    Ảnh hưởng của Mặt trận có vẻ như tăng hơn khi lôi kéo được nhiều trí thức có uy tín bỏ Sài G̣n ra chiến khu, trong đó có cả những trí thức đă từng chống cộng như ông Lâm Văn Tết383. Đặc biệt, khi Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Ḥa b́nh do Luật sư Trịnh Đ́nh Thảo làm chủ tịch quyết định ra R th́ nhiều người dân miền Nam bắt đầu nghĩ về Mặt trận như một ngọn cờ chống ngoại xâm thay v́ quan tâm tới “bản chất Việt cộng” của tổ chức mà ai cũng biết là được lập ra từ Hà Nội.

    Uy tín của những trí thức trong liên minh này đă giúp Mặt trận gây ảnh hưởng đến các tổ chức của “lực lượng thứ ba” như: Phong trào Dân tộc Tự quyết do Luật sư Nguyễn Long làm chủ tịch; Phong trào Bảo vệ Nhân phẩm và Quyền lợi Phụ nữ do bà Ngô Bá Thành đứng đầu; Lực lượng Bảo vệ Văn hóa Dân tộc của Giáo sư Lê Văn Giáp; Ủy ban Vận động đ̣i cải thiện chế độ lao tù gồm nhiều nhân sĩ, trí thức, linh mục, như Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan; Lực lượng ḥa giải dân tộc; Tổ chức nhân dân đ̣i thi hành Hiệp định Paris của Luật sư Trần Ngọc Liễng.

    Tính đến năm 1975, “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam” do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch đă được hai mươi ba nước thuộc “phe xă hội chủ nghĩa” và “thế giới thứ ba” công nhận.

    Việc thành lập các cơ quan của Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam đều được quyết định bởi Ban Bí thư Đảng Lao động Việt Nam. Các văn bản của cơ quan này nói rơ rằng những tổ chức nhân danh chính phủ lâm thời ấy được lập ra là “do sự cần thiết phải triển khai công tác trên mặt trận đấu tranh ngoại giao và hoạt động tranh thủ quốc tế trong giai đoạn chống Mỹ”. Từ cuối năm 1972, chủ trương h́nh thành ở miền Nam một “chính phủ ba thành phần” đă gieo không ít hy vọng cho “lực lượng thứ ba”. Bản thân Tướng Dương Văn Minh, trong tuần lễ vận động để thay thế ông Trần Văn Hương, cũng đă tính đến khả năng thành lập một “hội đồng quốc gia ḥa giải và ḥa hợp dân tộc”.

    Nhưng ngay trong ngày 1-5-1975, thái độ của Hà Nội đă được thể hiện dứt khoát trong Điện 601384 do Tố Hữu thay mặt Ban Bí thư gửi cho ông Phạm Hùng, bí thư Trung ương Cục: “Xin báo để các anh biết: theo ư kiến anh Ba, về chính phủ, không c̣n vấn đề ba thành phần. Cấu tạo chính phủ không thể có bọn tay sai Mỹ, không để cho Mỹ có chỗ dựa và phải làm cho quần chúng thấy rơ sức mạnh, thế mạnh của Cách mạng”. Số phận của Dương Văn Minh, người được coi là lănh tụ của “lực lượng thứ ba”, cũng được Điện 601 nói rơ: “Những người đă đầu hàng ta như Dương Văn Minh chẳng hạn th́ không bắt, nhưng cần có cách quản lư, giám sát”.

    Trong chiến tranh, lán của Mặt trận và Chính phủ Lâm thời luôn nằm bên cạnh “bản doanh” của Trung ương Cục, đó là những căn nhà mái lá dựng trên thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông ở vùng Sa Mát, Thiện Ngôn. Theo “Thứ trưởng” Lữ Phương th́ “Bộ Văn hóa Thông tin” của ông chỉ gồm vài ba cán bộ đang làm việc trong Tiểu ban Văn nghệ của Ban Tuyên huấn Miền. “Bộ trưởng” Lưu Hữu Phước trước đó là người phụ trách tiểu ban này. Các quan chức của Chính phủ Lâm thời, kể cả “Chủ tịch” Huỳnh Tấn Phát, cũng chủ yếu giết thời gian bằng cách đánh cờ hoặc chơi bài tiến lên. Mọi phát ngôn của Mặt trận, dù lớn hay nhỏ, đều do Trung ương Cục chuyển sang để các quan chức Mặt trận đọc trước máy ghi âm của Đài Phát thanh Giải phóng385.

    Hầu hết những thành viên Mặt trận đều là đảng viên, kể cả những người như bà “Bộ trưởng” Dương Quỳnh Hoa, ông “Bộ trưởng” Trần Bửu Kiếm. Có người vào đảng từ trước rồi được “phân vai”, có người vào rừng rồi mới kết nạp, nhưng khi đă vào R, nhận ra “đại cục” mà ḿnh đang tham gia, hầu hết các thành viên đều để cho Cách mạng sử dụng tên tuổi của ḿnh, đồng thời trực tiếp diễn xuất với tinh thần của người trong cuộc.

    Trong thời điểm lôi kéo người dân trước lựa chọn sinh tử giữa Cách mạng và Quốc gia, những trí thức Mặt trận này ít nhiều đă tạo niềm tin vào ḥa b́nh và ḥa hợp dân tộc cho những người ở bên kia chiến tuyến. Khi chiến tranh hoàn toàn kết thúc, những trí thức có lương tâm cũng cắn rứt trước số phận của những người đă đi theo những lời tuyên bố đứng tên ḿnh. Nhưng khi vừa về đến Sài G̣n, vai tṛ của họ cũng bắt đầu chấm dứt. Không mấy ai trong số họ có cơ hội để thực hiện với dân chúng những lời đă hứa.

    Bản thân mỗi thành viên Mặt trận khi trở lại thành phố cũng đụng chạm không ít vấn đề cá nhân. Phần lớn biệt thự, điền trang, nhà máy của ngay cả các nhân vật lớn như Lâm Văn Tết, Trịnh Đ́nh Thảo đă bị Chính quyền 30-4 “tiếp quản”. Quan trọng hơn là khi cầm lấy ngọn cờ Mặt trận, động cơ của nhiều người là “chống Mỹ” thay v́ “ư thức hệ”. Họ không khỏi băn khoăn khi nhận thấy, ngay trong những ngày đầu tháng 5-1975, nhiều địa phương bắt đầu thống nhất cung cách điều hành theo miền Bắc. Có tỉnh, chính quyền mới buộc người dân phải xin cấp biển đăng kư cả xe đạp. Có những chi tiết tưởng là vụn vặt nhưng cũng khiến không ít người miền Nam chạnh ḷng: dân miền Nam đă quen cầm miếng sườn nung núc thịt nạc, nhưng sau “giải phóng”, mậu dịch viên quốc doanh bán cho họ miếng “sườn” chỉ c̣n xương xẩu.

    Không ai tiến hành một cuộc chiến tranh tiêu tốn hàng triệu sinh linh để kết quả cuối cùng Việt Nam vẫn tồn tại hai quốc gia, nhưng h́nh ảnh miền Bắc cũng làm cho không ít trí thức kháng chiến miền Nam băn khoăn. Nhiều người đă một vài lần được đưa ra miền Bắc, chứng kiến sự lạc hậu về văn hóa xă hội, sự tàn tạ về kinh tế sau gần hai thập niên xây dựng xă hội chủ nghĩa. Bên trong, các thành viên Mặt trận cũng có những ư kiến gay gắt. Trong phiên họp nội bộ của Hội nghị Hiệp thương Thống nhất, một số thành viên của Chính phủ Lâm thời đề nghị: đồng ư nguyên tắc là phải thống nhất, nhưng cần có thời gian để hai phần đất nước chia cắt có thời gian ḥa hợp với nhau. Nhưng, lúc bấy giờ, tiếng nói và vai tṛ của Mặt trận có ảnh hưởng vô cùng giới hạn386.

    “Bắc hóa”

    Không chỉ có các thành viên Mặt trận và Chính phủ Lâm thời, trong những ngày ấy, nhiều cán bộ Trung ương Cục trở về thành phố cũng có cảm giác bơ vơ v́ chưa được phân công, trong khi làn sóng cán bộ “chi viện” từ miền Bắc vào lặng lẽ chiếm lĩnh dần các trụ sở và vai tṛ then chốt. Nhà báo Pháp Jean Lacouture, quan sát tiến tŕnh này ở miền Nam, trong một bài báo đă chơi chữ tiếng Pháp “nordmalisation- Bắc hóa” để thay thế cho chữ “normalisation-b́nh thường hóa”387.

    Bản thân Hà Nội cũng bất ngờ trước các phản ứng ở miền Nam. Ngày 21-4- 1975, với tinh thần chi viện mọi mặt cho nửa nước vừa “giải phóng”, Ban Bí thư gửi Thông tri 316, ra lệnh cho “các ngành ở miền Bắc có trách nhiệm giúp đỡ xây dựng, kiện toàn ngành ḿnh ở miền Nam”. Điện 316 nhấn mạnh: “V́ t́nh h́nh khẩn trương nên việc điều động cán bộ cũng phải làm khẩn trương”388. Tuy nhiên, chỉ sau hơn một tháng, ngày 24-5-1975, chính Ban Bí thư đă phải điều chỉnh bằng Điện 733: “Nay căn cứ vào điện của các đồng chí cấp ủy miền Nam, căn cứ vào t́nh h́nh mới, chúng tôi định như sau: Kể từ nay việc điều động cán bộ vào miền Nam công tác, nhất thiết phải căn cứ vào yêu cầu của các cấp ủy miền Nam. Đối với những cán bộ, các ban, ngành Trung ương thấy cần thiết điều vào công tác ngắn hạn hay dài hạn ở miền Nam cũng phải hỏi ư kiến Trung ương Cục, hoặc Khu ủy V, hoặc hai tỉnh Trị-Thiên, nếu trong đó đồng ư mới được đưa vào”389.

    Ngay từ sau 30-4-1975, theo ông Trần Quốc Hương: không rơ từ đâu, chính sách sắp xếp, sử dụng cán bộ ở Sài G̣n và các tỉnh phía Nam được đúc kết bằng công thức “nhất trụ, nh́ khu, tam tù, tứ kết” – có nghĩa là: những cán bộ bám trụ tại chỗ được coi trọng, tin cậy, bố trí vào những chức vụ quan trọng được ưu tiên vào hàng thứ nhất; ưu tiên thứ hai là cán bộ đă chiến đấu ở “khu”, c̣n gọi là R390, mật danh chỉ Trung ương Cục, khu bộ, xứ bộ; ưu tiên thứ ba được dành cho những cán bộ đă từng bị đi tù được tha theo Hiệp định Paris, hoặc mới được cứu ra; ưu tiên cuối cùng mới dành cho những cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc từ năm 1954 nay trở lại.

    Không phải tự nhiên mà ông Lê Duẩn phải nhấn mạnh với các nhà lănh đạo miền Nam: “Đây là chiến công của cả nước”. Là một người Quảng Trị hoạt động ở Nam Bộ hàng chục năm, ông Lê Duẩn hiểu và rất nhạy cảm trước các vấn đề Nam-Bắc. Trước năm 1975, nhiều cán bộ miền Nam ra thăm miền Bắc đă hết sức ngỡ ngàng khi nh́n thấy cảnh nghèo nàn của “hậu phương lớn”. Một lần, Ban Thống nhất thấy tâm trạng của các đại biểu miền Nam không vui, lănh đạo ban nói với ông Đậu Ngọc Xuân, thư kư của “anh Ba” Lê Duẩn: “Các đồng chí ấy nói không tốt về miền Bắc, anh về nói anh Ba nên gặp họ”.

    Theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Tôi về nói: ‘Có đoàn ra thăm’. Anh Ba gật đầu: ‘Tốt’. Tôi thưa: ‘Kết quả ngược lại, các đồng chí bên Ban Thống nhất nhờ anh gặp làm công tác tư tưởng trước khi họ về’. Anh Ba cho mời họ tới, đoàn gồm hai phụ nữ và ba nam. Anh Ba hỏi: ‘Các đồng chí ra thăm miền Bắc thấy ǵ?’. Họ thật ḷng nói, đi thăm chợ Đồng Xuân mà không thấy hàng hóa ǵ cả, miền Bắc nghèo quá. Anh Ba nói: ‘Các đồng chí không hiểu. Cái giàu có, cái vĩ đại của Miền Bắc là ở chỗ gia đ́nh nào cũng có bàn thờ, con họ vào Nam là đi vào chỗ chết, thế mà họ vẫn đi, trong khi ở lại th́ được đi Liên Xô, Trung Quốc’. Rồi anh Ba hỏi: ‘Ở trong R, các đồng chí có được dạy, ta đánh được Mỹ là nhờ truyền thống 4000 năm của Việt Nam không?

    Các đồng chí người ở đâu? Việt Nam! Nếu nhận người Việt Nam, không năm đời, th́ mười đời cũng là gốc Bắc. Ra đây là t́m về ṇi giống, cội nguồn’. Khi đoàn ra khỏi pḥng, ông Lê Duẩn bảo tôi: ‘Chú xuống Viện Lịch sử, t́m một nhà sử học dẫn họ đi đến tận nơi thăm đền thờ Hai Bà Trưng, Bà Triệu’. Khi họ đi về, anh Ba hỏi: ‘Đă hiểu cội nguồn dân tộc chưa?’. Họ nói: ‘Hiểu’. Anh Ba gật đầu: ‘Bây giờ về được rồi’”.

    Tháng Giêng năm 1976, theo đề nghị của ông Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân và ông Trần Phương, theo đường bộ, đi xe vào thẳng Sài G̣n. Ông Xuân kể, trước khi đi, Lê Đức Thọ dặn: “Vào Nam muốn làm việc được, người ta kêu uống rượu, phải uống”. Tới Sài G̣n đă là cuối tháng Chạp, ông Lê Duẩn bảo: “Năm nay ta ăn Tết ở đây, chú nào muốn về th́ về trước”. Ông Đậu Ngọc Xuân đă ở lại.

    Sáng mùng Một Tết Bính Th́n, bà Nguyễn Thị Thập bên Hội Phụ nữ mời tiệc, ông Lê Duẩn tới, mâm cỗ đă “bày la liệt” nhưng ông không ngồi vào bàn. Khi các nữ lănh đạo hội mời, ông nói: “Ăn Tết làm ǵ, con cái miền Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới đă nói là dân miền Bắc vào đây vơ vét hàng hóa”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân th́ trước đó khi nghe bên công an báo cáo “miền Bắc vào đây vơ vét từ cái quạt máy, xe đạp”, ông Lê Duẩn tức lắm nhưng ngay khi đó ông không nói ǵ.

    Bà Bảy Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh, đỡ lời: “Thưa anh Ba, đấy chỉ là số ít. Chúng em không bao giờ nói thế”. Ông Lê Duẩn tiếp: “Các chị không nói nhưng nghe ai nói phải vả vào mặt họ chứ. Có những việc ở trong này tôi đă phải giấu đồng bào miền Bắc, ví dụ như chuyện các chị để cho bộ đội chết đói ở Trường Sơn. Xương máu con người ta, người ta không tiếc, giờ mua cái quạt th́ các chị kêu ca”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, nghe ông Lê Duẩn nói đến đó, “các chị Nam Bộ khóc như mưa”.

    Trước đó, theo ông Nguyễn Thành Thơ391: Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc do ông Lê Duẩn chủ tŕ, tổ chức sau Hội nghị Trung ương 24 tại trường Công An Thành phố ở Thủ Đức, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh nói: “Nên tiến hành ngay thống nhất lănh thổ, thống nhất đảng, đoàn thể, mặt trận, nhà nước, quân đội.

    Nhưng về kinh tế, đề nghị để nó phát triển như nó có, ta xem ưu khuyết, cái ǵ phát huy, cái ǵ bỏ”. Ít lâu sau, tại một hội nghị bàn về văn hóa diễn ra ở Hà Nội, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh nói: “Có một số cán bộ đảng viên không muốn thống nhất để hưởng thụ”. Sau hội nghị đó, ông Nguyễn Thành Thơ cùng ông Trần Bạch Đằng tới nhà ông Lê Đức Thọ, trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng. Theo ông Thơ, ông Đằng và ông Thọ căi nhau đến mức, phải “đứng lên, ngồi xuống, quơ tay nhiều lần”. Ông Lê Đức Thọ nói: “Kinh tế là nền tảng, không thống nhất kinh tế, tất cả vấn đề khác thống nhất không có ư nghĩa”.

    Cũng trong thời gian này, tại khu biệt thự của Trung ương ở Hồ Tây, ông Trường Chinh gặp ông Nguyễn Văn Linh và ông Phan Minh Tánh, lúc đó là phó bí thư Thành ủy Sài G̣n-Gia Định. Theo ông Tánh, ông Trường Chinh nói: “Linh ơi, người ta nói cậu không muốn thống nhất đấy”. Đề nghị “thống nhất chính trị trước, thống nhất kinh tế sau” không phải là sáng kiến của ông Nguyễn Văn Linh. Ngày 13-8-1975, tại Hội nghị Trung ương đầu tiên sau ngày “giải phóng miền Nam”, trong phát biểu của ḿnh, ông Lê Duẩn cho biết là cả ông và ông Trường Chinh đều cho rằng nếu đưa mô h́nh kinh tế có “một số sai lầm” của miền Bắc “vào miền Nam th́ sai lắm”392. Phát biểu của Lê Duẩn trước Trung ương vào ngày 13-8-1975 không phải là một diễn văn được chuẩn bị sẵn. Những ư kiến rời rạc, trùng lắp và mâu thuẫn liên tục trong bài nói chuyện “tay vo” này cho thấy Lê Duẩn có băn khoăn giữa ư thức hệ và thực tiễn miền Nam. Trực giác nhận thấy sự năng động của kinh tế tư nhân đă khiến Lê Duẩn có chút băn khoăn. Nhưng theo ông Trần Việt Phương: “Lê Duẩn chỉ băn khoăn đúng một tuần. Bản thân ông cũng không đủ sức thuyết phục chính ḿnh, nên khi bị những thế lực bảo thủ cản trở th́ ông nhượng bộ. Nhượng bộ không phải họ đúng hơn ông, mà do mô h́nh của ông chưa hoàn thiện để có thể thay thế cái đang tiến hành ở miền Bắc”. Không đợi đến khi Lê Đức Thọ nói, lẽ ra ông Nguyễn Văn Linh phải nhớ, ngay trong ngày 13-8-1975, Lê Duẩn đă khẳng định, thống nhất phải đi liền với chủ nghĩa xă hội, bao gồm cả “nội dung chính trị và nội dung kinh tế”393.

    Những cuộc đối thoại trên đây giữa Lê Đức Thọ, Trường Chinh, với các thuộc cấp từ miền Nam diễn ra trong khoảng thời gian từ sau Hội nghị Trung ương 24, tháng 8-1975, cho đến trước Hội nghị Hiệp thương Thống nhất. Hội nghị Hiệp thương Thống nhất họp từ 15 đến 21-11-1975 tại Dinh Độc Lập. Trưởng đoàn miền Bắc là Ủy viên Bộ Chính trị Trường Chinh; trưởng đoàn miền Nam cũng là một ủy viên Bộ Chính trị khác, Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng. Để giải quyết sự khác biệt về kinh tế của hai miền, Trường Chinh đă dùng “phép biện chứng” Marx-Lenin phân tích: “Ư thức có tính độc lập tương đối với thực tiễn, cho nên không nhất thiết phải chờ thực tiễn phù hợp mới thống nhất mà có thể dùng ư thức để quyết định rồi thực tiễn bắt đầu điều chỉnh”.

    Đúng 12 giờ 10 phút ngày 21-11-1975, hội nghị “Hiệp thương Thống nhất giữa hai miền Nam Bắc” kết thúc. Trong tiếng quân nhạc oai hùng, Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Nguyễn Hữu Thọ đă lặp lại lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một”. Hiệp thương giữa những người đồng chí với nhau chỉ là h́nh thức. Kể từ ngày 30-4-1975, đất đai, quyền lực đă ở trong tay Đảng Cộng sản Việt Nam. Thống nhất chỉ đồng nghĩa với việc “Bắc hóa” mô h́nh kinh tế. Cuộc lánh nạn của những người di cư, v́ thế, chỉ có giá trị hai mươi năm. Những ǵ mà họ lo sợ và bỏ chạy hồi năm 1954, sau ngày 30-4-1975 lại ở ngay trước mặt.

    Chủ nghĩa xă hội

    Nhiều người vẫn trích dẫn nghị quyết Hội nghị Trung ương 24, “trong một thời gian nhất định, ở miền Nam c̣n nhiều thành phần kinh tế”394, để phê phán các chiến dịch cải tạo tư sản. Trên thực tế, ngay sau khi các ủy viên Trung ương từ Hội nghị Trung ương 24 trở về, Chiến dịch X-2395 được triển khai gần như ngay lập tức. Khi đưa cả hai miền “tiến lên chủ nghĩa xă hội”, thay v́ phải phân tích thực tiễn, các nhà hoạch định chính sách đă tuân theo những nguyên lư của Marx-Lenin – đă thiết lập “quan hệ sản xuất xă hội chủ nghĩa” th́ việc “xóa bỏ giai cấp tư sản” là không tránh khỏi396.

    Ngày 1-9-1975, tại Dinh Độc Lập, khi Thường Vụ Trung ương Cục làm việc với Thành uỷ Sài G̣n-Gia Định để thông qua kế hoạch “Chiến dịch X2”, các thành viên chủ chốt như Nguyễn Văn Trân, Vơ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Linh đều thống nhất coi “giai cấp tư sản là đối tượng của cách mạng”. Chủ tŕ buổi làm việc, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh thậm chí c̣n đ̣i “thanh toán hết giai cấp tư sản” và tỏ ra chưa thỏa măn với con số “sáu mươi tên tư sản” bị đánh đợt đầu trong Chiến dịch X2. Ông Linh yêu cầu nghiên cứu thêm để “nói đánh sáu mươi tên nhưng thực tế sẽ lan ra cả ngàn tên”397.

    Sau khi phân tích “hoàn cảnh lịch sử” của Hội nghị Trung ương 24, người thư kư gắn bó nhiều năm nhất với Tổng Bí thư Lê Duẩn, ông Đống Ngạc, nói: “Ḿnh ngồi ở đây, bây giờ, sau khi Liên Xô sụp đổ, mà bàn chuyện cũ, khó lắm”398. Một trợ lư lâu năm khác của Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân399, cho rằng: “Lúc đó, lợi ích giai cấp là mục tiêu quan trọng nhất”400.

    Trước khi về làm trợ lư cho Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân là trưởng Khoa Kinh tế học Marx-Lenin của trường Nguyễn Ái Quốc. Ông Xuân nhớ lại: “Cho dù anh Ba đă rất trăn trở trước thực tế phát triển của miền Nam, nhưng khi ấy phải sáng tạo ghê gớm lắm mới có thể thoát ra khỏi sự giáo điều của cả phe cộng sản. Sáng tạo th́ phải trên cơ sở có sự trưởng thành về mặt lư luận, mà điều này th́ ta chưa đủ. Những nhà lư luận của ta đều học từ Trung Quốc và các nước xă hội chủ nghĩa khác, trường đảng của chúng ta cũng bắt đầu từ các thầy Trung Quốc”. Một trợ lư khác của ông Lê Duẩn, Giáo sư Trần Phương401, người mà ông Đống Ngạc gọi là “một nhà kinh tế tự do” cũng phải thừa nhận: “Cho đến trước khi Liên Xô sụp đổ, đầu óc của chúng tôi vẫn bị cầm tù trong sự giáo điều của chủ nghĩa Marx”402.

    Rất nhiều nhà lănh đạo Việt Nam vẫn cho rằng bộ Tư Bản của Marx là giáo khoa kinh tế học. Những người thực sự có được học về Marx một cách bài bản ở Đại học Phương Đông như Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong… th́ đều đă bị người Pháp tử h́nh trước ngày “cướp chính quyền” . Tác giả chính của các chính sách kinh tế áp dụng ở Việt Nam hơn hai thập niên, ông Lê Duẩn, chỉ học hết lớp bốn rồi đi làm nhân viên hỏa xa. Nhiều nhà lănh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ học Karl Marx qua các bạn tù. Nhiều người phải sau khi nắm quyền mới học với sự giúp đỡ của chính những người giúp việc403. Nhưng cho dù có học th́, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Bộ Tư Bản mênh mông, gần như không lănh đạo nào đọc hết, nên nếu lấy ‘Tư Bản’ ra mà dọa th́ một anh giúp việc có thể điều khiển được một ủy viên Bộ Chính trị”. Ông Đậu Ngọc Xuân kể: “Mấy anh giúp việc ông Trường Chinh (trong thập niên 1960) là rất hay trích dẫn Marx-Lenin. Cái câu “sản xuất nhỏ hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” làm cụ Trường Chinh rất sợ”404. Không chỉ bởi niềm tin giáo điều, tuân thủ Marx c̣n là vấn đề kỷ luật.

    Theo ông Đống Ngạc: “Những lần đi Liên Xô, anh Ba thấy cách quản lư kinh tế của Liên Xô rất dễ làm mất đi sự sáng tạo của quần chúng. Nhưng lúc đó Liên Xô thường nghe ngóng xem Việt Nam có đi chệch đường không”. Tháng 11-1957, Hội nghị các Đảng Cộng Sản và Công nhân Thế giới họp lần thứ nhất và tiếp theo đó, tháng 11-1960, đă họp lần thứ hai. Tại đây, “các đảng và các nước chủ nghĩa xă hội anh em” đă kư tuyên bố chung: “Kinh nghiệm của Đảng Cộng Sản Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa cộng sản có ư nghĩa nguyên tắc đối với toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế”. Tại Hội nghị tháng 11-1960, các đảng cộng sản đă “nhất trí lên án h́nh thức Nam Tư”, gọi mô h́nh Nam Tư là “chủ nghĩa cơ hội quốc tế”, là “lư luận của bọn theo chủ nghĩa xét lại hiện đại”.

    Ngày 29-5-1958, tức là chỉ sau hơn nửa năm ra Hà Nội, trong một cuộc nói chuyện trước 1.000 cán bộ cao cấp, ông Lê Duẩn đă cực lực đả kích chủ nghĩa xét lại Nam Tư405. Thật khó để đánh giá cuộc nói chuyện được đăng trên báo Nhân Dân này của ông Lê Duẩn là xuất phát từ nhận thức cá nhân hay chỉ để gửi một thông điệp chính trị đến Liên Xô. Lê Duẩn lúc ấy sắp trở thành tổng bí thư của một đảng vệ tinh, và Liên Xô th́ rất cứng rắn với những “anh em” không chịu tuân theo “kinh nghiệm” của họ.

    Cán bộ tuyên huấn trong các quốc gia cộng sản, đặc biệt là Việt Nam, có thể dựa trên niềm tin khi lặp đi, lặp lại rằng: “Một xă hội tổ chức trên cơ sở của học thuyết Marx-Lenin mở ra những khả năng vô tận để phát triển kinh tế và văn hoá, để đảm bảo cho mọi người một mức sống cao, một đời sống ḥa b́nh và hạnh phúc”. Nhưng những người nắm quyền th́ biết rơ sự kiện Liên Xô đưa xe tăng vào nghiến nát cuộc biểu t́nh ở thủ đô Budapest vào tháng 11-1956 sau khi có những cải cách ở Hungary; biết rơ sự kiện Liên Xô bắt nhà cải cách, Bí thư Thứ nhất Tiệp Khắc Alexander Dubcek vào tháng 8-1968. Đêm 20-8-1968, khi cho xe tăng tiến vào thủ đô Prague, Liên Xô đă giam hăm những mầm mống cải cách trong khối xă hội chủ nghĩa suốt hai thập niên sau đó.

    Cũng phải thừa nhận, cuối thập niên 1950, đầu 1960, Liên Xô đă tạo ra nhiều thành tựu: tháng 6-1954, khánh thành nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trên thế giới; tháng 10-57, phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên vào vũ trụ; cũng trong năm 1957, thử nghiệm thành công tên lửa vượt đại châu, dùng tên lửa phóng vệ tinh, chụp được ảnh phía sau mặt trăng. Những thành tựu này được mô tả là đă làm cho “các nước trong phe xă hội chủ nghĩa nức ḷng, các nước Phương Tây hốt hoảng”. Tháng 11-1960, Liên Xô đưa người bay vào vũ trụ. Sự tuyên truyền về hệ thống xă hội chủ nghĩa mạnh mẽ đến mức có lúc, ở Việt Nam, ông Việt Phương, trợ lư Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đă phải làm thơ than: “Trăng Trung Hoa tṛn hơn trăng nước Mỹ / Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sỹ”.

    “Con đường của Bác”

    Ông Đống Ngạc cho rằng, sẽ là không công bằng nếu nghĩ tác giả các chính sách cải tạo nóng vội đi lên chủ nghĩa xă hội là của Lê Duẩn. Theo ông Đống Ngạc: “Chính Bác Hồ là người kư luật hợp tác xă và chính sách cải tạo tư sản mà sau năm 1975 ta áp dụng”.

    Khi “cướp được chính quyền”, trong Bản Tuyên ngôn Độc Lập đọc tại Ba Đ́nh vào ngày 2-9-1945, thay v́ trích dẫn Marx hay Lenin, Hồ Chí Minh đă mở đầu bằng những “lời bất hủ” mà ông nói rơ là lấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Phần trích dẫn thứ hai của Hồ Chí Minh trong bản tuyên ngôn cũng từ cuộc cách mạng của giai cấp tư sản: Cách mạng Pháp năm 1791.

    Cho dù từng sống ở Liên Xô trong thập niên 1930, thời kỳ huy hoàng nhất của chế độ cộng sản, Hiến Pháp năm 1946 – bản hiến pháp được coi là của Hồ Chí Minh – đă không hề có bóng dáng của nhà nước Xô Viết. Thật khó để biết đâu là sách lược, đâu là quan điểm chính trị của ông. Sau những nỗ lực t́m kiếm sự công nhận của phương Tây bất thành, năm 1948, cho dù vẫn bị Stalin khước từ406, Hồ Chí Minh chính thức xác nhận ḿnh là một người cộng sản407. Nhưng chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc vào tháng 10-1949 mới là sự kiện ảnh hưởng mang tính bước ngoặt đối với những lựa chọn sau đó của Hồ Chí Minh.

    Cho dù bị các đảng viên của ḿnh gọi là một người “quốc tế giả danh”, chính Mao Trạch Đông đă đích thân bào chữa cho Hồ Chí Minh. Trong một bức điện gửi Lưu Thiếu Kỳ ngày 27-1-1950, Mao Trạch Đông cho rằng: “C̣n quá sớm để coi việc Hồ Chí Minh ngụy trang đảng của ông ấy và tuyên bố trung lập đối với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa là sai phạm mang tính nguyên tắc, bởi cuộc đấu tranh của người Việt Nam không hề chịu hậu quả trước hai quyết định đó”. Năm 1949, cũng chính Mao Trạch Đông giải thích với Stalin: “Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa quốc tế. Việc ông ta giải tán đảng là một quyết định t́nh thế để cứu cuộc đấu tranh chống Pháp”. Chính Mao đă thuyết phục Stalin công nhận và thiết lập quan hệ về đảng và nhà nước với Hồ Chí Minh, người trước đó đă bị ông ta ghẻ lạnh408. Quan hệ với Mao Trạch Đông và Stalin càng nồng ấm th́ chuyên chính vô sản càng nhanh chóng được áp dụng ở Việt Nam.
    Last edited by alamit; 28-01-2013 at 08:23 AM.

  5. #25
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN II : THỜI LÊ DUẨN
    Chương VIII: Thống nhất
    P2



    Ông Hoàng Tùng, chánh Văn pḥng Trung ương, kể: Năm 1950, khi tới Điện Kremlin, Hồ Chí Minh vẫn bị Stalin quy kết: “Không cải cách ruộng đất, không dựa vào nông dân, lại đoàn kết với địa chủ. Dân tộc chủ nghĩa thế này th́ c̣n ǵ là đảng cộng sản nữa”. Stalin đă chỉ hai chiếc ghế như là biểu tượng, một của quốc tế cộng sản; một là dân tộc chủ nghĩa, rồi hỏi Hồ Chí Minh: “Đồng chí chọn ghế nào?”. Theo ông Hoàng Tùng th́ khi ấy Hồ Chí Minh đă “đứng”.

    Cho dù Stalin và Mao tiếp tục thúc ép, tại Đại hội II, năm 1951, thay v́ chủ trương cải cách ruộng đất, Tổng Bí thư Trường Chinh đă đưa ra “thuyết ba giai đoạn” theo đó, trước hết phải giảm tô, giảm tức rồi mới đi đến cải cách ruộng đất. Theo ông Hoàng Tùng: “Thuyết ba giai đoạn của Trường Chinh đưa ra ở Đại hội II là có ư kiến của Bác, nhưng Trường Chinh phân tích rất hay. Năm 1946, họp Xứ ủy tôi đă được nghe ông nói rằng, những cải cách nhỏ đều có ư nghĩa cách mạng, nhiều cải cách nhỏ cộng lại thành cuộc cách mạng lớn”. Nhưng, sau đại hội, theo ông Hoàng Tùng: “Mao và Stalin đă gọi Bác sang, nhất định bắt phải làm. Mao Trạch Đông nói thẳng: nếu các đồng chí không cải cách ruộng đất, chúng tôi không viện trợ nữa”. Để có viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đă chấp nhận “cuộc đấu tranh giai cấp ở một nước Phương Đông”, điều mà ông đă từng cho là không thích hợp409.

    Thực ra, thuyết “ba giai đoạn” của Trường Chinh cũng đă thể hiện bước đi của một nhà nước công nông. Sau khi Chính phủ Đoàn kết Dân tộc tan vỡ, nhất là thời kỳ Chính phủ phải rời Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc, các chính sách mang màu sắc giai cấp đă bắt đầu được h́nh thành410. Từ sau năm 1951, một số cán bộ, trong đó có Ủy viên Trung ương Hồ Viết Thắng, được Đảng Lao Động Việt Nam đưa sang Trung Quốc học tập cách cải cách ruộng đất rồi về nước phát động giảm tô, giảm tức. Năm 1952, việc đấu tố địa chủ được bắt đầu với sáu xă thí điểm ở huyện Đại Từ, Thái Nguyên rồi sau đó chính thức thực hiện vào giữa năm 1953.

    Tại Hội nghị Trung ương 5, họp từ ngày 14 đến 23-11-1953, Hồ Chí Minh quán triệt: “Vấn đề mấu chốt là cải cách ruộng đất”. Mở đầu bài phát biểu trước Hội nghị này, Hồ Chí Minh cho rằng: “Phe ta ngày càng mạnh, phe địch ngày càng yếu. Liên Xô, thành tŕ cách mạng thế giới, đang tiến mạnh từ chủ nghĩa xă hội sang chủ nghĩa cộng sản… Với sự giúp đỡ tận tâm của Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu đang ra sức xây dựng chủ nghĩa xă hội. Trung Quốc đă thắng lợi to trong cuộc chống Mỹ, giúp Triều, trong việc xây dựng nǎm đầu của kế hoạch năm nǎm, và đang thắng lợi trong công cuộc củng cố và phát triển dân chủ mới”.

    Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tiếp: “Đó là tóm tắt t́nh h́nh của phe ta. T́nh h́nh phe đế quốc do Mỹ cầm đầu th́ thế nào? Mỹ và mười sáu nước phe Mỹ (trong đó gồm có Anh và Pháp) đă thất bại nhục nhă ở Triều Tiên. Từ cuối thế kỷ XIX đến ngày nay, Mỹ đă nhiều lần nhờ chiến tranh mà làm giàu và chiếm được địa vị anh chị. Lần này là lần đầu tiên (nhưng chưa phải là lần cuối cùng) mà Mỹ thất bại to, đă hao người (hơn 397.500 binh sĩ Mỹ chết và bị thương), tốn của (hơn hai mươi ngàn triệu đôla), lại mất mặt với các nước. Thế của Mỹ ngày càng yếu ở Hội Liên hiệp quốc, phe Mỹ càng thêm lủng củng chia rẽ, kinh tế Mỹ ngày khủng hoảng thêm… Nói tóm lại: phe Mỹ là ba phe bảy mảng, thế ngày càng suy”. Tuy nhắc nhở các ủy viên Trung ương, “chúng ta không được chủ quan khinh địch”, nhưng ngay sau đó, Hồ Chí Minh đă nói: “Những hoạt động của địch không phải v́ chúng mạnh, mà v́ chúng yếu thế… Để phá tan âm mưu của địch, chúng ta phải ra sức đẩy mạnh kháng chiến. Để đẩy mạnh kháng chiến, chúng ta phải thực hiện cải cách ruộng đất”.
    Chính Hồ Chí Minh đă tự phê phán: “Chúng ta đă nặng về đoàn kết địa chủ để kháng chiến mà không xem trọng đầy đủ vấn đề nông dân và vấn đề ruộng đất”. Theo Hồ Chí Minh: “Nông dân ta chiếm 95% dân số, mà chỉ được có 3/10 ruộng đất, quanh nǎm khó nhọc mà suốt đời nghèo nàn. Giai cấp địa chủ không đầy 5% nhân số mà chiếm hết 7/10 ruộng đất, ngồi mát ăn bát vàng. T́nh trạng ấy thật là không công bằng. Nước ta bị xâm lược, dân ta lạc hậu và bần cùng cũng v́ đó”411. Cũng trong trung tuần tháng 11-1953, một “hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng” được nhóm họp để “tán thành chính sách cải cách ruộng đất do Trung ương đề ra”. Từ ngày 1 đến 4-12-1953, Quốc hội họp kỳ thứ III thông qua Luật Cải cách Ruộng Đất. Theo ông Hoàng Tùng: “Ngay sau khi Bác quyết định cải cách ruộng đất, Trung Quốc đă cử các đoàn cố vấn sang. Đoàn Cố vấn Cải cách ruộng đất do Kiều Hiểu Quang, phó bí thư Tỉnh ủy Quảng Tây, phụ trách”.
    Về phía Việt Nam, Ủy ban Cải cách Ruộng đất cũng được thành lập ở hai cấp trung ương và địa phương. Ở cấp trung ương có chủ tịch Ủy Ban, Tổng Bí thư Trường Chinh, phụ tá – hai ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, và một ủy viên Trung ương, Hồ Viết Thắng, người vừa đi Trung Quốc học về cải cách ruộng đất. Tại địa phương, mỗi tỉnh lập ra mười đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100 cán bộ. Đoàn trưởng nhận lệnh trực tiếp từ Ủy Ban Cải cách, không qua hệ thống đảng và chính quyền địa phương. Mỗi đoàn lại chia ra thành nhiều đội. Đội trưởng được chọn trong số bần nông hay bần cố nông. Đội có quyền hành tuyệt đối, chỉ nhận lệnh từ Ban Cải cách.

    Trước khi những cuộc đấu tố địa chủ diễn ra, các cán bộ cải cách được đưa về làng, thực hiện chính sách “tam cùng”: cùng làm việc, cùng ăn, cùng ngủ. Vào làng, cán bộ thấy ai là thành phần nghèo khổ th́ “tam cùng” để làm thân, rồi tiếp đó “thăm nghèo hỏi khổ”. Ngoài việc thu thập thông tin để “xếp loại kẻ thù”, đội c̣n khơi gợi người nông dân thổ lộ nỗi khổ, khơi gợi ḷng căm thù và t́m kiếm những người có thể bồi dưỡng để tham gia đấu tố. Những phụ nữ đă từng có quan hệ với những người giàu trong làng sẽ được đội động viên, thúc ép, hoặc đe dọa để họ đứng ra tố là đă từng bị “cường hào cưỡng hiếp”. Vợ, con cái địa chủ cũng bị lôi kéo để đấu tố cha, chồng. Cải cách ruộng đất không chỉ mang lại những tổn thất về mặt con người mà c̣n phá vỡ những nền tảng đạo đức làng xă, gia đ́nh, những tôn ti, trật tự giữa cha mẹ, vợ chồng,… những giá trị mà người Việt phải mất hàng ngh́n năm kiến tạo.
    Kể từ cuối 1952 đến năm 1956, trên địa bàn của 3.314 xă miền Bắc Việt Nam diễn ra tám đợt “phát động quần chúng” giảm tô và năm đợt cải cách ruộng đất, tịch thu hơn bảy mươi vạn hecta, bằng 44,6% ruộng đất trong vùng. Số người bị quy oan lên tới 123.266 người, chủ yếu v́ các biện pháp truy bức để “đôn” tỷ lệ địa chủ lên trên 5% dân số như một định mức bắt buộc, dùng nhục h́nh như đánh, trói, giam cầm, khi chưa có ṭa án xét xử, kích động và hù dọa quần chúng để họ tố oan cho nạn nhân. Ở trên th́ “phóng tay phát động”; ở dưới, những “đoàn”, những “đội”
    cải cách th́ tha hồ lộng quyền, “nhất đội nh́ giời”. Một quốc gia nghèo đói như Việt Nam lúc ấy mà các đội đă đưa được “định mức địa chủ” lên tới 5,68% dân số các địa phương tham gia.
    Theo ông Hoàng Tùng, về sau chính Hồ Chí Minh đă phải than: “Ḿnh nói để cho ḿnh đánh Pháp xong đă rồi sẽ cải cách theo cách của Việt Nam nhưng mà cứ ép cho bằng được”. Biết bao trí thức, địa chủ đă theo Việt Minh, đă đóng góp tiền bạc từ những ngày khó khăn, giờ đây, bị “hai ông anh lớn” ép phải chấn chỉnh lại, không để địa chủ, người có gốc “Tây” đứng trong tổ chức. Giữa thập niên 1950, những “địa chủ không kháng chiến” th́ đă “dinh tê”. Cải cách, đấu tố, theo ông Hoàng Tùng: “Coi như là đánh vào lực lượng của ḿnh”.
    Ông Hoàng Tùng kể: “Khi ấy tôi thường dự họp Bộ Chính trị nên cũng biết một số việc, trong đó có việc thí điểm cải cách chọn bắn bà Nguyễn Thị Năm”. Bà Năm nổi tiếng ở Hà Nội với tên gọi là Cát Hanh Long. Bà có hai con là cán bộ Việt Minh, một người là cán bộ bậc trung đoàn trưởng làm việc ở Cục Chính trị của Văn Tiến Dũng. Từ năm 1945 đến 1953 bà Năm tham gia công tác ở Hội Phụ nữ. Trong “tuần lễ vàng”, gia đ́nh bà hiến 100 lượng vàng. Theo ông Hoàng Tùng: “Các anh Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ thường ăn cơm ở nhà bà và được bà Năm coi như con. Họp Bộ Chính trị, Bác nói: ‘Tôi đồng ư người có tội th́ phải xử, nhưng tôi cho là không phải đạo khi phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà mà người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng’. Sau, Cố vấn Trung Quốc La Quư Ba đề nghị măi, Bác nói: ‘Thôi, tôi theo đa số chứ tôi vẫn cho là không phải”.
    Ông Hoàng Tùng nói: “Hồ Chí Minh bị nó coi là hữu khuynh. Khi ấy mà kháng cự th́ nó cắt viện trợ”. Để có viện trợ, theo ông Hoàng Tùng: “Mỗi ngày, đội cải cách thường phải t́m cho ra một người để bắn thị uy, nói là để cho nông dân phấn khởi. Tôi đi xem bắn một vụ, tôi thương quá, anh ấy chỉ có 7,5 mẫu ruộng”. Chính Hồ Chí Minh và các ủy viên Bộ Chính trị đều biết các đội đă dùng nhục h́nh để quy sai địa chủ nhưng việc chấn chính chỉ dừng lại ở những lời răn dạy412.
    Ông Hoàng Tùng, ngay từ đầu cuộc nói chuyện đă gọi các “đồng chí Trung Quốc” là “nó”, tiếp: “Không chỉ có địa chủ bị bắn, nhà thờ, nhà chùa, đền đài đều bị nó phá sạch. Đền thờ An Dương Vương th́ nó dùng làm nơi để phân bón. Ông Trường Chinh th́ có mặc cảm, v́ nhà cũng có bảy mẫu ruộng, do ông chủ yếu làm nghề viết báo nên cho người ta cày rẽ lấy tô, rất dễ bị ‘quy’. Ông Hoàng Quốc Việt th́ không sâu sắc, ông Hồ Viết Thắng th́ hăng hái quá. Bố ông Trần Quốc Hương, một ông thầu khoán, dành dụm mua được hai mươi mẫu ruộng, cũng bị ‘đội’ đem ra đấu. Khi ông Hương nghe, chạy về tới nơi th́ bố ông đă chết. Ông Hương than: Thôi, ruộng đất th́ không tiếc ǵ, nhưng không thể chịu được cảnh con đấu cha, vợ đấu chồng. Cách mạng cũng phải có đạo đức chứ. Bố ông Nguyễn Khắc Viện là Nguyễn Khắc Niêm, từng đỗ đầu tiến sỹ làng Giáp, Tây đưa lên hàng thượng thư.

    Kháng chiến, Hồ Chí Minh cũng có thư vận động ông Niêm. Khi cải cách, bị ‘đội’ bắt, ông Nguyễn Khắc Niêm đă tự tử chết”.

    Cùng với cải cách ruộng đất, chiến dịch “chỉnh đốn tổ chức Đảng và chính quyền” mà Hồ Chủ tịch ca ngợi trong báo cáo trước Hội Nghị Trung ương 5 cũng đă gây tổn thương nặng nề cho Đảng413. Ông Hoàng Tùng nuối tiếc: “Ḿnh không hiểu thâm ư Trung Quốc là muốn sửa ta. Việc đầu tiên là họ sửa quân đội, lập ra chức chính ủy. Chính ủy là người bao trùm lên tư lệnh, ư họ muốn nhắm vào ông Giáp, một vị tướng xuất thân từ trí thức và mới chỉ tham gia đảng cộng sản từ năm 1940. Trung Quốc cho rằng ông Giáp xuất thân không phải là công nông mà nắm quân đội là không ổn. Có người, mà tôi ngờ là Lư Ban, phó của Văn Tiến Dũng, đưa cho cố vấn Trung Quốc một danh sách những cán bộ xuất thân không phải công nông định để gạt ra khỏi quân đội. Ông Giáp đưa danh sách đó cho Bác, Bác bảo đốt ngay, thay bằng ấy người th́ quân đội không c̣n cán bộ”.
    Có tới 71,66% phú nông bị quy sai là địa chủ. Theo ông Hoàng Tùng, Pháp và Mỹ chỉ phải chịu trách nhiệm một phần, chính cải cách ruộng đất, đánh thuế công thương nghiệp và cải tạo tư sản, là nguyên nhân chính khiến cho hơn một triệu người miền Bắc đă phải di cư vào Nam414.

    “Mỗi người làm việc bằng hai”



    Nếu mô h́nh Stalin và Mao Trạch Đông được giới hạn ở những ǵ áp dụng trước năm 1956 th́ miền Bắc vẫn c̣n cơ hội khôi phục. Chính sách cải cách ruộng đất của Hồ Chí Minh cũng đă đưa số ruộng đất “tước đoạt của giai cấp địa chủ” chia cho 72,8% số hộ nông dân Miền Bắc, chủ yếu là dân nghèo. Trước năm 1960, những người nông dân nhận đất này chưa phải vào hợp tác xă. Nhờ được tự do canh tác trên mảnh ruộng của ḿnh, họ đă khiến cho nền nông nghiệp miền Bắc có một giai đoạn phát triển khá tốt đẹp. Tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ cũng đạt mức tăng trưởng nhanh cả ở nông thôn và thành thị. Có lúc, lực lượng thợ thủ công miền Bắc đă lên tới hơn nửa triệu người. Đến cuối năm 1957, miền Bắc vẫn c̣n 78.456 cơ sở buôn bán. Cải cách ruộng đất đă không chỉ được nhớ đến như một sai lầm nếu những người nông dân được chia ruộng tiếp tục được làm chủ đất đai của họ.
    Hội nghị quốc tế “các đảng anh em” lần I mà Hồ Chí Minh tham gia, họp tại Moscow tháng 11-1957, đă khẳng định nguyên lư xây dựng chủ nghĩa xă hội: “Thiết lập nền chuyên chính vô sản dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác, thủ tiêu chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ sở hữu công cộng, cải tạo nông nghiệp theo chủ nghĩa xă hội, phát triển kinh tế có kế hoạch, thực hiện cách mạng tư tưởng văn hoá”.
    Ngay sau khi từ Moscow trở về, ngày 1-1-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố trước quốc dân: “Thời kỳ khôi phục kinh tế đă kết thúc và mở đầu thời kỳ phát triển kinh tế một cách có kế hoạch”. Trung tuần tháng 11-1958, Trung ương họp hội nghị lần thứ 14, quyết định: “Cải tạo xă hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh…”. Ngay trong mùa thu năm 1958, đợt thí điểm đầu tiên về hợp tác hóa nông nghiệp đă được tiến hành. Đến cuối năm 1960, 86% số hộ nông dân miền Bắc bị đưa vào 41.401 hợp tác xă. Cuối năm 1960, 97% hộ tư sản bị buộc phải “công tư hợp doanh”.
    Cho dù “giai cấp tư sản miền Bắc đă phản ứng, đôi khi khá gay gắt”, tháng 4- 1959, nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 16 tuyên bố: “Nếu trong hàng ngũ tư sản có người quyết chống lại sự cải tạo…, trong trường hợp ấy, đó là mâu thuẫn giữa ta và địch. Những phần tử tư sản kiên quyết chống lại cải tạo xă hội chủ nghĩa là những phần tử tư sản phản động”.
    Càng “tuân thủ mô h́nh Liên Xô”, t́nh h́nh kinh tế miền Bắc càng trở nên bi đát. Ngay từ những năm đầu 1960, từ công nghiệp, thương nghiệp, cho đến tài chính đều bị đ́nh đốn, đời sống cả nhân dân và cán bộ đều thiếu thốn khó khăn. Ở nông thôn, 80% thu nhập của các xă viên hợp tác xă có được nhờ vào đất “năm phần trăm”, c̣n 95% diện tích ruộng đất đưa vào hợp tác xă chỉ để “làm qua loa, tính công, chia điểm…”. Cuộc sống ở nông thôn trở nên u ám.
    Ông Vũ Quốc Tuấn415 kể: “Năm 1965, tôi đạp xe về làng, thấy tám giờ sáng nông dân mới ra đồng. Tôi nói: Làm thế này th́ đói. Bà con bảo: Th́ có cái ǵ ăn đâu mà không đói hở bác”. Điều đáng nói, theo ông Tuấn, những người nông dân này đều vốn rất chí cốt với nghề nông, khi c̣n ruộng cá thể, họ thức dậy từ ba bốn giờ sáng ra đồng. Vào hợp tác xă th́ măi tới khi mặt trời treo ngọn tre, nông dân mới bắt đầu uể oải cầm liềm, vác cuốc. Ngay từ khi đó, nông dân miền Bắc đă nói: “Mỗi người làm việc bằng hai / Để cho chủ nhiệm mua đài, mua xe”.
    Khi c̣n là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, chính sách ruộng đất mà Lê Duẩn áp dụng ở miền Nam khá mềm dẻo. Nhưng khi trở thành Bí thư Thứ nhất, nhất là sau khi đi dự Hội nghị quốc tế lần thứ II416, Lê Duẩn bắt đầu coi việc tuân thủ những “kinh nghiệm của Liên Xô” là “vũ khí sắc bén”. Sau Hồ Chí Minh, “Lê Duẩn là nhà thiết kế chính, nếu không nói là duy nhất, của mô h́nh kinh tế miền Bắc suốt từ năm 1960 đến 1975, và sau đó ông cũng là nhà thiết kế chính của mô h́nh kinh tế cả nước từ 1975 cho tới giữa năm 1986”417.

    Lê Duẩn và mối t́nh miền Nam



    Ông Lê Duẩn được những người giúp việc mô tả là “một người có cái đầu chỉ thích suy nghĩ”. Chưa bao giờ ông thoả măn với những mô h́nh kinh tế áp dụng ở miền Bắc lúc bấy giờ. Ông thường xuyên đối thoại với những nhà lư luận hàng đầu418 nhưng chưa có một ư tưởng nào tồn tại đủ lâu để có thể h́nh thành trong ông và trong nhóm chuyên gia một con đường rơ rệt.
    Ông Đống Ngạc kể: “Một lần đi Hungary, thấy nông dân được canh tác tới năm mươi hecta ruộng, anh Ba rất thích nhưng khi trao đổi với một số nhà kinh tế, họ nói: ‘Làm như thế lâu [lên chủ nghĩa xă hội] lắm anh ạ’, anh Ba lại thôi”. Theo ông Trần Phương th́ nhiều lần, ông Lê Duẩn bàn với ông nghiên cứu áp dụng mô h́nh Bắc Triều Tiên nhưng khi ông Trần Phương nói rằng miền Bắc Việt Nam chưa đủ điều kiện làm như vậy th́ “anh Ba im lặng”. Đầu thập niên 1970, khi nh́n thấy những bất hợp lư của nền kinh tế xă hội chủ nghĩa, theo ông Nguyễn Đức B́nh, ủy viên Bộ Chính trị khóa VII, ông Lê Duẩn đă tỏ ra thận trọng khi đưa ra khái niệm “bước đi ban đầu”. Ông B́nh nói: “Khái niệm này đă làm nức ḷng giới lư luận đầu những năm bảy mươi”. Tuy nhiên, cũng theo ông B́nh: “Rất tiếc, khái niệm đó đă bị ch́m đi tại Đại hội IV, 1976, trong không khí say sưa v́ thắng lợi”. Bài phát biểu trước Hội nghị Trung ương 24, ngày 13-8-1975, cho thấy mâu thuẫn khá rơ giữa một Lê Duẩn sắc sảo nh́n thấy vấn đề trong cuộc sống và một Lê Duẩn chưa có đủ lư luận để giải thích kinh tế thị trường. Tŕnh độ của một nhà lănh đạo có thể được khắc phục nếu như quy tŕnh h́nh thành chính sách của Đảng cho phép tranh luận thay v́ chỉ trông cậy vào sự anh minh lănh tụ.
    Ông Lê Duẩn sinh năm 1907 tại Triệu Phong, Quảng Trị, trong một gia đ́nh thợ nghèo. Bà Lê Thị Muội, con gái của ông với người vợ đầu ở quê tên là Lê Thị Sương, kể: “Là con trai một, ba tôi rất được cưng chiều, ông nội bắt tránh sông nước nên sống ở nông thôn mà không hề biết bơi”. Tuy nghèo, nhưng “cậu Nhuận”, tên ông hồi nhỏ, vẫn được gia đ́nh cố lo cho ăn học, nhưng ông học đến lớp bốn th́ “tự ư bỏ”. Theo ông Lê Kiên Thành, con trai của ông với bà Nguyễn Thụy Nga: “Ba tôi kể, trong một lần làm bài thi, thầy giáo ra đề ‘hăy kể những ǵ mà nước Pháp đă mang lại cho An Nam’. Ba tôi viết ‘nước Pháp chỉ mang lại sự áp bức’. Bài thi của ông bị đánh rớt, từ đó ông bỏ học”. Học hành dở dang, nhưng lớp bốn ở quê thời đó vẫn được coi là “hay chữ”, dân làng vẫn gọi ông là “cậu Thông Nhuận”. Ở nhà ít lâu, ông Lê Duẩn kiếm được một chân thư kư cho Công ty Hỏa xa Bắc Kỳ.
    Tham gia hoạt động từ thời Hội Thanh Niên Cách Mạng, ông Lê Duẩn trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931, ông bị bắt tại Hải Pḥng khi đang là ủy viên Ban Tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ, bị xử án hai mươi năm cầm cố, bị đưa qua các nhà tù Sơn La, Hỏa Ḷ, Côn Đảo. Năm 1936, nhờ thắng lợi của Mặt trận B́nh dân Pháp, chính quyền Đông Dương trả tự do cho nhiều tù chính trị trong đó có Lê Duẩn. Năm 1937, ông được cử giữ chức bí thư Xứ ủy Trung kỳ, và chỉ hai năm sau được bầu làm ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng.
    Cũng trong năm 1940, Lê Duẩn bị bắt, bị đày ra Côn Đảo. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được đón về cùng với các ông Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng và Nguyễn Văn Linh. Tại Đại hội II, Lê Duẩn không dự nhưng vẫn được bầu làm ủy viên Bộ Chính trị, tiếp tục làm bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Đây là thời gian mà Lê Duẩn kiến tạo được uy tín rất cao ở trong Xứ ủy. Theo ông Vơ Văn Kiệt, ngay cả những bậc trí thức kháng chiến như Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Thành Vĩnh, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát đều quư mến ông Duẩn và gọi ông là “ông deux cents bougies”, để diễn tả sức làm việc của ông như một “ngọn đèn 200 nến”.
    Cũng như cách mà Hồ Chí Minh thi hành trong các chính phủ ban đầu, ở Nam Bộ lúc ấy, các vị trí chủ chốt như chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, ông Lê Duẩn đều giao cho người ngoài Đảng. Ngay một sở quan trọng như Sở Công an, ông Duẩn cũng để Luật sư Diệp Ba – một người không phải đảng viên – làm giám đốc, c̣n xứ ủy viên như ông Phạm Hùng th́ làm phó. Vị trí Tổng chỉ huy Lực lượng Vũ trang Nam Bộ ông Duẩn cũng giao cho Trung tướng Nguyễn B́nh, nguyên là người của Quốc dân Đảng.
    H́nh ảnh ông Lê Duẩn trong những ngày lănh đạo kháng chiến ở miền Nam được bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ thứ hai của ông mô tả: “Anh mặc quần rách đít, áo rách cùi chơ, người anh lúc đó nặng bốn mươi bảy kư nhưng v́ cao nên trông anh khô quắt, khô queo, áo quần th́ nhuốn màu phèn Đồng Tháp Mười. Sinh hoạt của anh làm tôi xúc động. Những người như ông Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Lê Thành Vĩnh trong Uỷ Ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ, người nào cũng có nhà cửa, có người bảo vệ, người nấu bếp, tuy ở nhà lá nhưng cũng rất đàng hoàng. C̣n anh, chỉ có một chiếc thuyền tam bản, đến cơ quan nào, đến nhà bà mẹ nào, anh em thư kư, bảo vệ leo lên nhà ngủ, c̣n anh ngủ dưới ghe. Anh nhường nhịn điều kiện tốt cho mọi người”419.

    Bà Nguyễn Thị Nga sinh năm 1925, con của một tri huyện cáo quan về viết báo và mở ḷ gạch tại Biên Ḥa. Theo bà Nga th́ cha bà đă từng là chủ bút tờ báo tiếng Pháp La Tribune Indigène. Năm mười hai tuổi, cô tiểu thư Nguyễn Thụy Nga đă từng phải khai tăng tuổi để thi. Năm mười bốn tuổi, Thụy Nga theo “mấy chú” đi hoạt động và cũng từ đây, cô “trót yêu một đồng chí đă có gia đ́nh”. Người t́nh “đồng chí” của bà Nga chính là “hung thần chợ Đệm” Nguyễn Văn Trấn, một trong những người cộng sản lănh đạo “cướp chính quyền” ở Sài G̣n năm 1945. Đây là cuộc t́nh mà “cả hai người vừa duy tŕ, vừa ḱm nén trong suốt mười một năm”. Năm 1948, mối quan hệ của hai người bị lộ và bị Tỉnh ủy Cần Thơ họp kiểm điểm. Bà Nga bị buộc phải chuyển về Sài G̣n công tác.
    Đúng lúc ấy, ông Lê Duẩn từ Đồng Tháp Mười xuống Cần Thơ, dự cuộc họp Tỉnh ủy, ông cũng được nghe câu chuyện t́nh của bà Nga, bấy giờ đang là nữ đoàn trưởng Phụ nữ Cứu quốc. Bà Nguyễn Thị Nga được Tỉnh ủy giao nhiệm vụ kiểm tra bữa ăn sáng mà Tỉnh tổ chức cho Bí thư Xứ ủy. Khi được ông Lê Duẩn hỏi thăm về việc bị buộc chuyển công tác, bà Nga nói: “Lên Sài G̣n, đối với tôi là một công tác mới và khó, nguy hiểm nữa, nhưng tôi vui vẻ chấp nhận, không băn khoăn ǵ. Nhưng bảo tôi thôi yêu người tôi đă yêu th́ khó làm được. Xa nhau cũng được nhưng yêu là do trái tim tôi, đừng bắt buộc”. Theo bà Nga th́ khi ấy ông Duẩn không phát biểu ǵ nhưng khi trở về Xứ ủy, gặp Lê Đức Thọ, ông nói: “Nếu có cưới vợ th́ tôi thích người có t́nh, chung thủy như chị Nga”420. Ít lâu sau, Lê Đức Thọ xuống Cần Thơ công tác, gặp bà Nga: “Anh Ba muốn hỏi chị làm vợ, chị nên ưng anh ấy đi. Anh xa nhà hai mươi năm không có tin tức ǵ, gia đ́nh anh c̣n ở vùng địch. Nếu chị làm vợ anh ấy, chị chăm sóc anh để anh có sức khoẻ làm việc, đó cũng là một nhiệm vụ. Hiện nay trong lănh đạo, anh ấy rất thông minh và sáng
    suốt, anh em thường gọi là ông 200 bougies, khi có người kề cận chăm sóc th́ anh ấy sẽ trở thành 400 bougies. Sự sáng suốt của anh ấy rất có lợi cho cách mạng”421.
    Bà Nguyễn Thụy Nga nhớ lại: “Nghe anh Sáu Thọ nói, tôi chưng hửng, v́ trong ḷng tôi lúc nào anh cũng là một lănh tụ mà mọi người kính yêu. Tôi lúc nào cũng ghi chép, đồng chí Lê Duẩn nói thế này, đồng chí Lê Duẩn nói thế kia. Tôi suy nghĩ măi. Một lần tôi lấy hết can đảm hỏi anh: ‘Nếu bây giờ anh lấy vợ, sau này về gặp gia đ́nh, phải giải quyết sao đây?’. Anh nói: ‘Anh cưới vợ trước kia là do cha mẹ cưới cho. Anh đi cách mạng, vợ ở nhà, sau có đưa ra Hà Nội ở một thời gian nhưng anh thấy hai người không hợp nhau. Có hai lần anh về nhà, anh nói với chị ấy nên t́m người chồng khác, anh đi cách mạng không giúp được ǵ cho gia đ́nh và không biết sống chết ra sao. Nhưng người phụ nữ miền Trung c̣n phong kiến hơn phụ nữ trong Nam, đă có chồng rồi th́ ở nhà lo cho cha mẹ chồng, nuôi con. Chồng đi xa có lấy thêm vợ th́ người phụ nữ miền Trung cũng dễ chấp nhận. Nếu sau này giải phóng chị cũng sẽ ở trong quê với cha và mấy đứa con, lâu lâu anh về thăm. C̣n chúng ḿnh đi hoạt động cách mạng, có điều kiện gần gũi nhau, chắc không có ǵ khó khăn”422.
    Năm ấy, ông Lê Duẩn bốn mươi mốt c̣n tuổi thực của bà Nga là hai mươi ba, có lẽ khi lấy nhau, họ cũng không ngờ ông Lê Duẩn rồi sẽ trở thành một nhà lănh đạo quyền lực nhất, và cuộc hôn nhân rồi sẽ mang lại cho bà Nga nhiều rắc rối nhất. Bà Nguyễn Thụy Nga thừa nhận trong cuộc hôn nhân hơn ba thập niên của bà, chỉ có ba năm là thực sự hạnh phúc. Ông Lê Duẩn đă chọn vợ v́ “đức thủy chung mà ông chứng kiến bà Nga dành cho người khác” và bà th́ thừa nhận là đă chọn ông qua “đạo đức và t́nh cảm lớn lao mà ông đă dành cho đồng chí, đồng bào”. Đám cưới ông bà do Văn pḥng Xứ ủy đứng ra tổ chức: ông Lê Đức Thọ làm “ông mai”, ông Phạm Hùng làm chủ hôn. Ông Lê Duẩn đă đọc thơ ca ngợi vợ trong một bữa liên hoan đơn giản được những người kháng chiến đứng ra tổ chức.
    Bà Nga kể: “Trong t́nh yêu anh cũng như con nít, đi đâu anh cũng mang tôi theo. Họp hành xong, trở về nh́n thấy nhau là anh ôm chầm lấy tôi”. Họ vẫn thường di chuyển và ngủ trên một chiếc ghe tam bản có mui. Khi bà Nga mang thai người con đầu ḷng tới tháng thứ bảy th́ ông Lê Duẩn trở lại miền Đông. Bà Nga trở lại Sài G̣n sinh người con gái đặt tên là Lê Vũ Anh rồi gửi lại nhờ mẹ đẻ nuôi khi con mới ba tháng tuổi. Năm 1952, ông Lê Duẩn ra Bắc, kể từ đó, họ bắt đầu có rất ít thời gian ở bên nhau.
    Đầu 1954, ông Lê Duẩn từ Việt Bắc về miền Nam. Thư kư riêng của ông, ông Đống Ngạc, kể: Tới Quảng Ngăi, theo lệnh của Bộ Chính Trị, ông ở lại mở lớp cho cán bộ cao cấp miền Trung Nam Bộ, một số cán bộ từ Nam Bộ cũng kéo ra Khu V tham gia lớp học này. Khi Hiệp định Geneva có hiệu lực, Bộ Chính trị chỉ thị ông trở lại Nam Bộ, đôn đốc việc thi hành, chủ yếu là lo tổ chức tập kết rồi ra Bắc. Nhưng ông Lê Duẩn đă điện ra xin “ở lại Miền Nam”. Khi những người giúp việc của ông thắc mắc, theo ông Đống Ngạc: “Anh Ba nói, anh biết rằng sẽ không có hiệp thương và rồi t́nh h́nh miền Nam sẽ rất gay go, anh phải ở lại để tính làm sao chuyển sang đấu tranh chính trị và bảo toàn lực lượng. Anh Ba cho rằng phải làm lại cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam”.
    Từ Quảng Ngăi, ông Lê Duẩn theo đường bộ vào Quy Nhơn rồi từ đó đáp máy bay của quân đội Pháp xuống miền Tây để triển khai việc thi hành hiệp định. Ông Vơ Văn Kiệt nhớ lại: “Tuy là một người rất hùng biện trước các vấn đề gai góc, ông Duẩn đă phải ấp úng khi giải thích Hiệp định Geneva, bởi bản thân hiệp định đă không thuyết phục được ông”. Đó là những ngày mà theo bà Nguyễn Thụy Nga, ông Lê Duẩn rất băn khoăn, day dứt. Bà Nga kể: “Anh đi tới, đi lui, chắp hai tay phía sau, đốt thuốc hết điếu này đến điếu khác. Theo quyết định của Trung ương, sau khi sắp xếp t́nh h́nh xong, anh sẽ tập kết. Nhưng anh liên tục điện ra Trung ương, và tới lần thứ ba th́ Trung ương và Bác Hồ đồng ư cho anh ở lại”423.
    Khi ấy, bà Thụy Nga đang mang thai người con thứ hai. Bà Nga xin ở lại, nhưng theo bà th́ ông Lê Duẩn nói: “T́nh h́nh miền Nam rồi sẽ phức tạp lắm, em ở lại không những sẽ khổ em, khổ con mà c̣n dễ bị lộ cho hoạt động của anh”. Cuối tháng 3-1955, bà Nguyễn Thụy Nga cùng con gái được thu xếp tập kết trên chuyến tàu áp chót. Con tàu Ba Lan mang tên Kilinski, khi ấy đợi trên cửa Sông Đốc, Cà Mau, để chở hơn 2000 cán bộ miền Nam ra Bắc. Gia đ́nh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ được các “đồng chí Ba Lan” dành riêng cho hai cabin. Trước mặt báo chí và Ủy ban Giám sát, ông Lê Duẩn cùng vợ con đĩnh đạc bước lên tàu.
    Khoảng mười hai giờ đêm, Kilinski nhổ neo. Ít giờ sau, một chiếc ca-nô âm thầm cập sát thành tàu. Ông Lê Duẩn hôn chia tay vợ con. Bà Thụy Nga kể: Nước mắt anh chảy xuống mặt tôi, anh nói: “Anh thương vợ con anh thế nào th́ anh cũng thương vợ con đồng bào, đồng chí như thế, nên anh phải ở lại. Em ra Bắc ráng nuôi dạy hai con nên người”. Khi Lê Duẩn lên boong, một số rất ít các đồng chí thân cận của ông biết kế hoạch đứng chờ. Ông Duẩn cũng ôm hôn từ giă từng người, trong đó có Lê Đức Thọ. Rồi ông lặng lẽ leo theo mạn tàu xuống chiếc ca-nô do ông Cao
    Last edited by alamit; 28-01-2013 at 08:31 AM.

  6. #26
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN II : THỜI LÊ DUẨN
    Chương VIII: Thống nhất
    P3


    Đăng Chiếm và ông Văn Viên, người của Quốc Gia Tự vệ Cuộc, lái chạy ngược vào bờ, nơi ông Vơ Văn Kiệt đang chống xuồng đợi rồi đưa Lê Duẩn về một căn cứ ở Bạc Liêu.
    Ông Duẩn rất thích “căn cứ” mà ông Kiệt bố trí. Đó là một cái trại nằm giữa đồng, xung quanh mênh mông sông nước. Đêm ấy, bà chủ trại thấy ông Kiệt dẫn khách về đă ngờ ngợ. Sáng, khi ông Kiệt ra phụ nhổ lông vịt làm cơm, bà hỏi: “Có phải ông Lê Duẩn?”. Ông Kiệt giựt ḿnh nhưng phản ứng mau lẹ: “Đâu có, ổng đi hồi hôm rồi”. Bà dứt khoát: “Ông Duẩn! Cậu không tin, tôi lấy h́nh cho coi”. Nói rồi bà lên trang thờ lấy h́nh ông Duẩn xuống. Ông Kiệt thấy khó giấu, bèn dặn: “Th́ ông này giống ông Duẩn nhưng chị không được nói với bất cứ ai nhé”.
    Sáng hôm ấy ông Kiệt cứ phân vân, đến cuối buổi, ông rủ ông Duẩn ra vườn rồi nói thật: “Bà già phát hiện ra anh”. Ông Duẩn hỏi: “Ai nói?”. “Bà giữ h́nh anh trên trang thờ nên nhận ra”. Ông Duẩn lắc đầu: “Lại thằng Trần Bạch Đằng!”. Khi phụ trách thông tin Xứ ủy, ông Trần Bạch Đằng đă cho in h́nh ông Lê Duẩn treo khắp các cơ quan của Ủy ban Kháng chiến.
    Ông Kiệt trấn an: “Nhưng bà già có ư thức lắm”. Ông Duẩn suy nghĩ rất căng rồi nói: “Nhưng chỉ cần bả mừng, bả khoe với con bả là đủ lộ rồi”. Ông lệnh: “Chuẩn bị, tối chuyển”. Tối hôm đó, ông Kiệt đưa ông Lê Duẩn qua ở với ông Cao Đăng Chiếm và ông Mai Chí Thọ. Ở đây, ông Duẩn rất kỹ, cứ có khách là ông lại vô buồng. Trong khi Cao Đăng Chiếm và Mai Chí Thọ, đều là dân công an, lại cứ thản nhiên ngồi đánh bài ngay cả khi có người lạ tới. Chỉ một thời gian ngắn sau ông Lê Duẩn lo lắng quá lại phải quay về ở chung với ông Kiệt.
    Đó là những ngày cực kỳ căng thẳng. Ở trong đất liền một thời gian, thấy cần phải hạn chế xuất hiện, Lê Duẩn chuyển ra Ḥn Khoai, đóng giả ông thầy thuốc Nam chữa bệnh bằng lá cây. Xung quanh ông lúc đó có Vơ Văn Kiệt, Phạm Văn Xô, có thuyền, ghe, có mấy chiếc xe ngựa, đảm bảo giao thông từ phía U Minh Hạ. Ông Phạm Văn Xô, một ủy viên Trung ương, được người dân quen gọi là “ông Hai xe ngựa”.
    Cuối năm 1955, ông Lê Duẩn nhận được mật báo: “Địch đă biết Lê Duẩn ở lại miền Nam và đang lần theo mọi dấu vết để truy t́m”. Ông chuyển lên Bến Tre.
    Theo Năm Hoành, một người cận vệ của ông lúc đó: “Bốn tháng đầu, t́nh h́nh tương đối yên tĩnh. Sang đầu tháng 5-1956, địch bắt đầu đánh phá mạnh các cơ sở của ta, anh Ba cử tôi về Bạc Liêu liên hệ với Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, chuẩn bị địa điểm để khi cần th́ sẽ đưa anh Ba quay lại Khu IX”. Người tiếp Năm Hoành khi ấy là ông Vơ Văn Kiệt. Thu xếp xong, Năm Hoành trở lại Bến Tre, gặp khi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đang bố ráp ở huyện Giồng Trôm, ông bị bắt khi c̣n cách nơi ở của ông Lê Duẩn chỉ vài trăm mét.
    “Cách mạng miền Nam” có thể đă khác nếu như chính quyền Sài G̣n quật ngă được khí tiết của Năm Hoành. Nhưng, dù bị tra tấn, Năm Hoành đă không khai ǵ về Lê Duẩn424. Sau khi Năm Hoành bị bắt, thay v́ trở lại Khu IX, nơi ông Vơ Văn Kiệt đă chuẩn bị đón, Lê Duẩn quyết định trở lại Sài G̣n. Ngày 14-7-1956, ông được Sáu Hoa, một cơ sở của ông Nguyễn Văn Linh, đón lên Sài G̣n bằng xe hơi. Lê Duẩn về tá túc ở nhà ông Sáu Hoa một thời gian rồi chuyển lên nhà 29 Huỳnh Khương Ninh.
    Tại ngôi nhà 29 Huỳnh Khương Ninh, Xứ ủy viên Lê Toàn Thư trước đó đă đưa các cán bộ của ḿnh về, tạo ra một “gia đ́nh b́nh phong”. Bà Nguyễn Thị Loan, khi ấy là một phụ nữ trẻ, được Xứ ủy yêu cầu mang theo hai đứa con c̣n nhỏ về đóng vai vợ một sỹ quan có chồng chinh chiến xa. Anh Trịnh Long Nhi, một nhà giáo, đóng vai “anh Hai” của Loan. Chị Danh, một công chức thuế quan làm việc ở sân bay Tân Sơn Nhất, đóng vai vợ Nhi. Người lớn nhất trong nhà là “bà d́” Nguyễn Thị Một và ông Phan Phát Phước, vào vai “anh bếp”. Từ cuối tháng 7-1956, ngôi nhà này có thêm “chú Chín”.
    Theo bà Nguyễn Thị Loan, trong cái đêm “chú Chín” Lê Duẩn được ông Lê Toàn Thư dẫn đến nhà 29 Huỳnh Khương Ninh, ông nom như một ông già bảy mươi với dáng gầy g̣, râu dài chấm ngực, dù năm ấy ông chỉ mới chưa đầy năm mươi tuổi. Tại đây, sau khi được cắt tóc, cạo râu và thay quần áo cho giống một ông già Sài G̣n, ông Lê Duẩn bắt đầu viết Dự thảo Đề cương Cách mạng Miền Nam.
    Bản Đề cương nổi tiếng này, theo bà Loan: “Chú Chín” viết tới đâu lại đem xuống hầm cất giấu, tới đêm mới mang lên để bà Loan và ông Phước chép lại giữa hai ḍng của một cuốn tiểu thuyết, bằng một thứ mực hóa học do ông Phước tự chế từ những trái cây mà bà Loan gọi là trái “ngũ bội”. Ông Lê Duẩn ở lại miền Nam cho tới đầu năm 1957, cho dù, theo bà Hồ Anh – người được Trung ương Đảng cử t́m cách liên lạc với ông – từ năm 1956 “Bác Hồ” đă quyết định gọi ông Lê Duẩn ra Hà Nội.
    Ngày 3-9-1956, bà Hồ Anh đi Quảng Châu, Trung Quốc, định t́m đường từ Hong Kong tới Sài G̣n để đón ông Lê Duẩn, nhưng các “bạn Trung Quốc” cho là phương án này không thể thực hiện. Bà Hồ Anh liền liên lạc với một đảng viên cộng sản Trung Quốc, được gọi theo bí danh là Q.M., khi ấy đang ở Phnom Penh, và “đường Phnom Penh” đă được Trung ương đồng ư. Từ Hà Nội, Phạm Hùng viết cho Lê Duẩn một lá thư đă được mă hóa để bà Hồ Anh cầm theo làm tin. Ông Q.M. nhận được lá thư, chuyển về Sài G̣n trao tận tay ông Lê Duẩn. Bà Loan dẫn “chú Chín” ra tiệm ảnh, chụp h́nh làm giấy thông hành c̣n “anh Hai” Trịnh Long Nhi th́ dẫn ông đi cắt may một bộ đồ complet sang trọng.
    Theo lệnh của ông Phan Văn Đáng425, ông Lai Thanh, một cơ sở người Hoa của Xứ ủy, lo liệu giấy tờ và trực tiếp lái xe đưa ông Lê Duẩn thoát sang Phnom Penh.

    Chiếc xe Ford bốn chỗ, sơn màu đọt chuối của một cơ sở khác, tên là Nguyễn Văn Ninh, được trưng dụng cho “cuộc đào thoát lịch sử”. Ngoài ông Lai Thanh lái xe, ông Ninh chủ xe, tùy tùng thứ ba là một bảo vệ do ông Lê Duẩn trực tiếp lựa chọn: ông Bảy Dự Nguyễn Vơ Danh426, vốn là một cán bộ binh vận mà ông Lê Duẩn biết rơ khi c̣n ở Đồng Tháp.
    Khi ấy, lệnh truy đuổi Lê Duẩn đă được chính quyền Ngô Đ́nh Diệm ban xuống gắt gao. Ở trạm kiểm soát G̣ Dầu, Tây Ninh, Bảy Dự phán đoán có ít nhất năm loại t́nh báo đang ŕnh rập. Ông Ninh cầm xấp giấy tờ chạy xuống tŕnh, thấy trong bót gác có lệnh truy nă Lê Duẩn dán h́nh ông hồi kháng chiến. Nhưng mật vụ kiếng đen tḥ đầu nh́n vào trong xe không t́m ra được mối liên hệ nào giữa một ông “bận đồ lớn”, mặt mũi phương phi, đeo kính trắng với ông Duẩn gày g̣ trên tờ truy nă. Cùng với khoản lót tay hậu hĩ, Lê Duẩn thoát sang Svay Rieng không mấy khó khăn. Tại đây, ông dừng lại để làm giấy tờ giả dưới danh nghĩa Việt kiều.
    Tại Phnom Penh, ông Lê Duẩn triệu tập Xứ ủy Nam Bộ lên họp bàn về t́nh h́nh “cách mạng miền Nam” trước khi ông lên một tàu buôn Anh chạy tuyến Phnom Penh – Hong Kong, theo sông Tiền, trở lại miền Nam Việt Nam, lênh đênh bốn ngày, năm đêm trên biển. Trong những ngày ấy, Lê Duẩn phải đóng vai “ông già câm” để khỏi phải giao tiếp với những người trên tàu. Đi cùng ông là Q.M. Trong vai một “đứa cháu” người Hoa, Q.M. sẽ đưa ông Lê Duẩn về Quảng Châu, nơi đó họ gặp lại nữ đồng chí Hồ Anh cũng vừa bay từ Phnom Penh đến. Ngày 4-6-1957, máy bay chở Lê Duẩn từ Trung Quốc trở về đáp xuống sân bay Gia Lâm.
    Năm 1955 bà Nga tập kết ra Bắc cùng với con gái Vũ Anh, khi ấy, bà đang mang thai người con thứ hai về sau được đặt tên là Lê Kiên Thành. Thoạt đầu, bà Nguyễn Thụy Nga được phân công làm việc ở báo Phụ Nữ Việt Nam.
    Trong suốt mùa hè đầu tiên ở miền Bắc, bà được bố trí ở trong một gara ô tô mái lợp tôn nóng bức cùng với hai phụ nữ có con nhỏ khác. Về sau, bà Mai Khanh, vợ của ông Phạm Hùng, đưa bà về ở chung trong một biệt thự trên đường Phan Đ́nh Phùng. Tuy nhiên, ở đây mẹ con bà đă không khỏi chạnh ḷng khi những người khách đến thăm ông Phạm Hùng tặng quà con cái chủ nhà mà không ai để ư đến những đứa trẻ, con của một lănh đạo tối cao, khi ấy cũng đang khát khao quà cáp.
    Một trong những việc đầu tiên mà bà Nga làm khi ra Bắc là viết thư về thăm người bố chồng mà bà chưa bao giờ gặp mặt. Khi ấy, bố ông Lê Duẩn đang sống ở Nghệ An với con dâu là bà Lê Thị Sương, người vợ đầu ở quê của ông. Thoạt đầu, bố chồng bà đă nhờ Khu ủy Khu IV gửi trả lại món quà của bà Nga, c̣n bà Lê Thị Sương th́ chỉ khóc. Tuy nhiên, t́nh h́nh được cải thiện khi bà Sương chấp nhận trả lời thư của bà Nga427. Sau đó, trong một dịp Tết, bà Nga đưa con về Nghệ An thăm nhà chồng. Những đứa trẻ Vũ Anh, Kiên Thành đă chiếm được cảm t́nh của ông nội và bà “mẹ lớn”.

    Nếu không có sự “tham gia” của đoàn thể, có thể ông Lê Duẩn đă thu xếp được chuyện gia đ́nh với hai người vợ. Nhưng, trước khi ông Lê Duẩn được điều ra Hà Nội, bà Nguyễn Thụy Nga kể: “Anh Phạm Hùng, chị Nguyễn Thị Thập nói với tôi, trước kia v́ sự nghiệp của anh mà chị ưng anh ấy, bây giờ cũng v́ sự nghiệp của anh, chị nên chủ động ly dị để anh làm tṛn nhiệm vụ”. Khi ấy Quốc hội vừa có Luật Hôn nhân và Gia đ́nh quy định chế độ “một chồng, một vợ”.
    Ông Lê Duẩn ra, vui mừng gặp lại người vợ trẻ. Nhưng, theo bà Nga: “Một hôm anh nằm gần cửa sổ trên sàn nhà, đầu anh gối lên đùi tôi để tôi nhổ tóc bạc cho anh. Tôi nói: ‘Các anh chị đề nghị chúng ta ly dị nhau’. Anh khóc và nói: ‘Trong hoàn cảnh nào chúng ta lấy nhau, giờ trong hoàn cảnh nào chúng ta bỏ nhau? Có làm tổng bí thư đi nữa mà phải bỏ nhau trong ḷng anh sẽ không bao giờ yên ổn.
    Người cộng sản th́ phải có thủy, có chung, có t́nh có nghĩa’. Tôi khóc”. Mấy hôm sau, ông Lê Duẩn dẫn vợ sang Trung ương Hội Phụ nữ để tŕnh bày, nhưng theo bà Nga th́ “nhiều chị phản đối kịch liệt”. Từ đó, bà Nga nói: “Tôi trở thành đối tượng bị các chị ghét bỏ. Tôi là tỉnh ủy viên, khi ra Bắc c̣n chế độ nằm bệnh viện Việt Xô, nay Trung ương Hội cắt hết những quyền lợi đó, coi tôi như là một tội phạm chính trị”428.
    Những đồng chí của ông Lê Duẩn như Lê Đức Thọ, người đă mai mối bà Nga cho ông, giờ đây cũng im lặng. Bà Mai Khanh, vợ ông Hai Hùng, người chủ hôn, th́ cùng với vài cán bộ khác vào tận Nghệ An vận động gia đ́nh chống lại bà. Khi ông Lê Duẩn ra Bắc, bà Nga cũng chỉ “thỉnh thoảng mới về số 6 Hoàng Diệu để thăm chồng”. Bà kể: “Có đêm chúng tôi đang nằm bên nhau đùa giỡn với bé Thành th́ con gái của anh, bé Hồng, từ kư túc xá trường đại học về đập cửa rầm rầm và la khóc. Anh khuyên tôi: ‘Thôi em đi cho nó yên’. Đi đâu? Tối hôm đó bà Nga sang nhà bà Bảy Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh; đến nửa đêm, bà Bảy Huệ đưa bà về lại số 6 Hoàng Diệu. Bà Nga nhớ lại: ‘Khi ấy Hồng đă vào trường, thấy tôi mắt anh mừng, sáng rỡ’ ”429.
    Tháng 12-1957, chỉ năm tháng sau khi đoàn tụ, ông Lê Duẩn phải thu xếp để cho người vợ trẻ sang Bắc Kinh công tác. Khi ấy bà đang có mang ba tháng, vừa nuôi ba đứa con vừa công tác, vừa học trong ṿng năm năm. Thỉnh thoảng, trong những chuyến công du dừng chân ở Bắc Kinh, ông Lê Duẩn mới có dịp ghé thăm. Tháng 7-1962, bà Nga trở về Việt Nam nhưng không phải để đoàn tụ. Bà được phân công làm việc ở báo Hải Pḥng. Bà Nga kể: “Thỉnh thoảng anh xuống thăm mẹ con tôi nhưng không một lần nào vui vẻ, v́ thường anh phải đưa cô con gái của người vợ trước đi theo. Thấy anh và tôi thân mật với nhau là nó đập phá la khóc, anh lại phải buồn hiu ra về”430.
    Một lần lên Hà Nội họp, bà Nga về thăm chồng ở số 6 Hoàng Diệu. Bà kể: “Vào nhà thấy Hồng đang ăn cơm với ba, tôi vào trong thay áo ngoài. Vừa bước ra th́ Hồng cầm chén cơm có chan canh đổ từ trên đầu xuống”431. Bà Nga viết: “Nhiều lần tôi muốn treo cổ tự tử ở cổng nhỏ nhà số 6 Hoàng Diệu. Nhưng tôi chết th́ nhẹ cho tôi, c̣n anh, c̣n mấy đứa con tôi sẽ ra sao? Anh sẽ mất uy tín, sẽ đau khổ. Con tôi sẽ mất mẹ. V́ Đảng, v́ t́nh thương mà tôi đă vượt qua”432. T́nh riêng gác lại, từ đây Lê Duẩn được mô tả như là một người dành hết tâm, lực của ḿnh cho đất nước.

    Chấp chính và chuyên chính



    Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ III, Lê Duẩn trở thành Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Thời gian này, thường các ủy viên Bộ Chính trị rất ít khi gặp nhau. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, mỗi người ở một biệt thự riêng và sinh hoạt chi bộ ở nhà với thư kư, lái xe, bảo vệ. Ông Đậu Ngọc Xuân kể: “Nhiều cụ Bộ Chính trị vẫn giết thời gian bằng cách chơi tú-lơ-khơ với tổ phục vụ, nhưng anh Ba th́ chủ yếu dùng thời gian đọc sách. Vốn tiếng Pháp không nhiều lắm nhưng ông vẫn cố dành cả ngày để đọc bộ Bách khoa Toàn thư bằng tiếng Pháp. Mỗi khi chúng tôi rủ ông chơi tú-lơ-khơ, ông nói: tôi đọc sách cũng là giải trí”. Các ủy viên Trung ương lại càng ít việc. Theo ông Nguyễn Văn Trấn, Phó Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, vốn là một thợ cơ khí, nhiều hôm đă lật chiếc xe đạp của ông ra sửa để giết thời gian.
    Theo ông Hoàng Tùng: Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy lề lối sinh hoạt của các thành viên trong cơ quan lănh đạo tối cao là không ổn. Cụ Hồ nói: “Ta phải lập một chi bộ gồm tất cả ủy viên Bộ Chính trị, Bác làm bí thư để hàng tuần các đồng chí lănh đạo c̣n ngồi lại với nhau chứ họp ở nhà th́ coi như không làm ǵ cả”. Thế rồi cuối tuần, Cụ Hồ làm cơm mời các ủy viên Bộ Chính trị tới ăn, nhiều người nghe hỏi: “Hôm nay có chuyện ǵ hay sao thế?”. Tôi bảo: “Bác lập chi bộ”. Vào bữa, Cụ Hồ nói: “Hôm nay họp chi bộ, các chú chuẩn bị kiểm điểm, họp ở nhà toàn cần vụ, lái xe th́ ai kiểm điểm các chú”. Thế nhưng, theo ông Hoàng Tùng, ăn th́ họ vẫn tới ăn nhưng có khi vẫn không ai nh́n nhau cả. Có bữa ông Lê Duẩn nói “Tôi về nhà làm việc với lái xe, bảo vệ đây”.
    Khi Nguyễn Chí Thanh được cử vào Nam, cuộc gặp chiều thứ bảy bỏ. Theo ông Hoàng Tùng: “Nguyễn Chí Thanh nói với Cụ Hồ: ‘Tôi đi Nam tôi rất phấn khởi, chỉ sợ ở nhà không ai chống xét lại’. Cụ Hồ cũng rất buồn, có dịp 19-5, Cụ bỏ lên Ba V́,
    Bộ Chính trị kéo lên theo, Cụ bảo: ‘Các chú lên làm ǵ?’. Mọi người nói: ‘Lên chúc thọ Bác!’. Cụ Hồ mắng: ‘Thọ th́ có ǵ mà chúc, điều quan trọng là các chú phải từ bỏ chủ nghĩa cá nhân đi, các chú phải đoàn kết, có đoàn kết mới thống nhất Bắc- Nam được. Các chú mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa, chú Lê Duẩn cũng cá nhân chủ nghĩa’. Năm 1967, Cụ Hồ bảo tôi và Tố Hữu thảo bài nói chuyện ‘Nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân’, tôi viết chủ nghĩa cá nhân chung chung, Cụ bảo: ‘Vấn đề là ở cấp trung ương chứ không phải ở cơ sở’”.

    Ông Trần Việt Phương, người cùng với Vũ Kỳ, Lưu Văn Lợi, sống bên cạnh Hồ Chí Minh tại Phủ chủ tịch từ năm 1954 đến 1969, kể: “Hồ Chí Minh nói: ‘Chú Ba, chú Năm, chú Tô phải thống nhất ư kiến với nhau rồi mới đưa ra Bộ Chính trị’. Bộ Chính trị họp ngay nhà sàn, trước họp ở Phủ Toàn quyền cũ. Khi về Hà Nội, chính phủ lúc đầu ở 108 sau về Phủ Toàn quyền. Nhưng rồi Hồ Chí Minh xuống ở dăy nhà của những người phục vụ Toàn quyền Pháp. Hồ Chí Minh chọn nhà ở một tầng của một người thợ điện. Phạm Văn Đồng ở cách đấy mười mét, dăy nhà sau, tầng thứ hai.
    Chúng tôi ở trong một garage trước chứa mười chiếc ô tô nằm giữa nhà Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng nhiều lúc trở thành người trung gian giữa Trường Chinh và Lê Duẩn”.
    Vai tṛ của Bí thư Lê Duẩn càng trở nên nổi bật sau khi Hồ Chí Minh qua đời. Sau khi khiến dân chúng xúc động qua bài điếu văn đọc trong “Lễ tang của Bác”, ông được mô tả như là một học tṛ xuất sắc nhất của “Cha Già Dân tộc”.
    Theo ông Đậu Ngọc Xuân, khi bệnh t́nh của Hồ Chí Minh đă chuyển sang giai đoạn khó ḷng cứu chữa, Bộ Chính trị phân công ông Phạm Văn Đồng và ông Trần Quốc Hương chuẩn bị bài điếu văn để Bí thư Lê Duẩn đọc. Ngày 2-9-1969, Cụ Hồ đă qua đời, nhưng khi đọc bản dự thảo điếu văn vẫn không ai đồng ư. Ông Lê Duẩn nói với Đống Ngạc và Đậu Ngọc Xuân: “Tôi lo quá, hai chú nghĩ xem ta tự viết lấy được không”. Xem bản thảo do bên chính phủ viết xong, ông Đậu Ngọc Xuân nói: “Anh Ba ơi, bài điếu văn này chỉ viết để dành cho cán bộ b́nh thường thôi, không phải cho lănh tụ”.
    Ông Xuân kể tiếp: “Khi ấy, tôi sực nhớ có hai bài điếu văn mà khi học tiếng Nga ở Liên Xô tôi rất thích: bài điếu đọc trước mộ của Karl Marx và bài điếu do Stalin đọc trong lễ tang Lenin”433. Khi ấy đă chín giờ đêm, ông Đậu Ngọc Xuân lập tức yêu cầu Văn Pḥng Trung ương lục t́m trong các tuyển tập hai bài điếu văn ấy. Đến mười hai giờ th́ t́m ra, cả ông Xuân và ông Đống Ngạc viết luôn một mạch cho tới năm giờ sáng. Theo ông Xuân th́ điểm nhấn mà ông học được từ bài điếu văn đọc trong lễ tang Karl Marx và Lenin là câu “Vĩnh biệt Người, chúng ta thề!”.
    Sáng hôm sau, ông Lê Duẩn xuống, hỏi ngay: “Ra không?”. “Dạ có, không giống hai bài cũ”. “Đưa tôi xem”. Trong cuộc họp sau đó, các ủy viên Bộ Chính trị đă lần lượt nghe đọc qua năm dự thảo. Đến bài do nhóm giúp việc của ông Lê Duẩn tŕnh th́ ông Trường Chinh nói: “Đúng đây rồi!”. Bộ Chính trị liền giao cho Tố Hữu phối hợp với các ông Đống Ngạc, Đậu Ngọc Xuân, hoàn chỉnh. Khi bài điếu văn đă hoàn thành, có một lo ngại khác đó là giọng Quảng Trị của ông Lê Duẩn. Ông Duẩn vốn rất dở khi đọc diễn văn, nhưng đến bài điếu văn này, theo ông Xuân, ông Duẩn nói: “Các chú đưa đây và yên tâm, mai tôi sẽ đọc được”. Khi đứng cạnh linh cữu Hồ Chí Minh, như nằm ngủ trong cỗ quan tài bằng pha lê, trước sự chờ đợi của muôn dân, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Anh Ba khóc. Chưa bao giờ anh khóc, nhưng lần đó anh đă khóc”.
    Khi đă trở thành người “kế tục sự nghiệp của Bác”, Lê Duẩn càng thăng hoa. Có thời gian ông kéo nhóm giúp việc xuống Đồ Sơn và ở lại đó khá lâu để “tư duy”. Bộ Chính trị hầu như không biết ông đang làm ǵ ở đó. Một ủy viên quyền bính vào hàng bậc nhất như Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hoàn mà cũng mù tịt. Một lần, nhân khi Giáo sư Trần Phương từ Đồ Sơn trở về, ông Hoàn đă mời ông Trần Phương tới nhà dùng cơm. Ông Trần Phương nói: “Khi đó, tôi thấy lo lo, không biết có ǵ xảy ra mà bộ trưởng Nội vụ lại muốn gặp riêng. Nhưng trong bữa ăn, khi thấy ông Hoàn ḍ hỏi xem ông Lê Duẩn đă làm ǵ ở Hải Pḥng, th́ tôi thở phào nhẹ nhơm”. Ông Trần Phương nhớ lại: “Ở Đồ Sơn, ông ra tắm biển. Mọi người không thấy ông bơi, ông nh́n trời, nh́n nước, nh́n mây và suy nghĩ. Thực ra ông không tắm trong nước biển mà tắm trong những ḍng suy tưởng. Lắm khi đùng một cái, ông quay lại nói về một loạt những suy nghĩ mà ông mới nảy sinh qua sóng biển đó”434.
    Mỗi khi nói tới Đại hội Đảng lần thứ IV, ông Vơ Văn Kiệt vẫn tự trách ḿnh: “Chúng tôi ra Hà Nội mà ít ai ư thức được là ḿnh đang tham gia quyết định vận mệnh, đường đi của dân tộc. Chúng tôi đặt niềm tin tuyệt đối vào sự anh minh của lănh tụ c̣n ḿnh th́ đến đại hội như đến một đại lễ mừng chiến thắng”. Đây có thể là sự nuối tiếc của một con người trách nhiệm. Nhưng, ngày 14-12-1976, khi Đại hội IV chính thức khai mạc ở Hội trường Ba Đ́nh, mọi việc đă được Lê Duẩn và Trung ương quyết định435. Trước đó, trên chiếc chuyên cơ IL-19 chở đoàn đại biểu của Đảng bộ Thành phố bay từ Tân Sơn Nhất ra Hà Nội, ông Vơ Văn Kiệt đă nhận được lời chúc mừng của các vị đi chung về việc tại Đại hội IV, ông sẽ trở thành ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị.
    Tại Hội nghị Trung ương 24, tháng 8-1975, Bí Thư Lê Duẩn nói: “Việt Nam bây giờ, đi như thế nào để tạo ra được chủ nghĩa xă hội? Đây là một vấn đề khó, khó v́ sao? Chưa bao giờ người ta nói đến một nước đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xă hội chủ nghĩa, trong lịch sử chưa có quy luật đó. Mác chưa nói, Lenin cũng chưa nói. Sở dĩ có chuyện đó là do ta có các nước lớn giúp đỡ thôi”. Lê Duẩn đánh giá: “Các nước xă hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc đă lợi dụng sự sa lầy và suy yếu của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam mà lớn lên”, trong khi “đế quốc Mỹ và hệ thống thế giới của chủ nghĩa đế quốc đang ngày càng suy yếu và đang lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện”.
    Hơn một năm sau, tại Hội nghị Trung ương 25, quan điểm của ông Lê Duẩn về “chỗ dựa” đă hoàn toàn thay đổi, ông nói: “Trước đây, chúng ta nghĩ rằng đi từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xă hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa chủ yếu nhờ có sự giúp đỡ của phe ta. Nay ta thấy, nghĩ như vậy là không đúng… Việc tiến lên chủ nghĩa xă hội ở một nước trước hết là do quy luật bên trong của nền kinh tế nước ấy quyết định, do nước ấy tự làm, tự đi lên là chính”436. Theo ông Trần Phương: “Khi giải phóng miền Nam, chúng tôi đặt câu hỏi, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân rồi th́ làm ǵ? Gần như mọi người đều tán thành: c̣n có thể làm ǵ hơn là tiến thẳng lên chủ nghĩa xă hội”. Ông Trần Phương nói tiếp: “Tư tưởng đó là của của Lenin. Khi đó th́ đầu óc của ḿnh chỉ biết có Lenin, cái ǵ Lenin đă nói th́ không tranh căi”.
    Việc Đại hội Đảng lần thứ IV áp đặt mô h́nh kinh tế miền Bắc cho cả miền Nam là điều không thể tranh căi. Đó là vận nước. Những điều được viết trong đường lối Đại hội IV437 chưa phải là chính sách, chưa phải là những quy phạm, mà chỉ là những khái niệm mơ hồ thể hiện khát vọng của những người cộng sản. Những ngôn từ rất chung ấy có thể được suy diễn theo hướng tích cực bởi những người có đầu óc thực tế và có trách nhiệm với dân. Nhưng các nhà lănh đạo khi ấy không chỉ so ḿnh với “lịch sử 4.000 năm”. Bí thư Trung ương Xuân Thủy, khi làm thơ, c̣n tưởng “Ta đang tới đỉnh cao nhân loại”. Câu thơ ấy của Xuân Thủy minh họa phát biểu của Bí thư Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25 – người lănh đạo cao nhất, khi ấy, cũng tưởng thế giới đang nh́n Việt Nam “khâm phục lắm”438.
    Ngay từ ngày 09-08-75, tức là chỉ hơn ba tháng sau khi giành được chiến thắng ở miền Nam, Bộ Chính trị đă ra nghị quyết “triển khai thăm ḍ dầu khí trên cả nước”, với yêu cầu “nhanh chóng t́m ra và khai thác nhiều dầu, khí, vừa đủ dùng trong nước, vừa có thể xuất, tạo nguồn ngoại tệ quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá xă hội chủ nghĩa”. Chưa đầy một tháng sau Hội nghị Trung ương 24, ngày 20-9-1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 245, sáp nhập hơn sáu mươi tỉnh thành của cả nước thành hai mươi chín tỉnh và bốn thành phố. Việc sáp nhập các tỉnh theo Nghị quyết 245 là “nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chánh có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất”.
    Nếu như ở Hội nghị Trung ương 24, ông Lê Duẩn c̣n thấy phải thận trọng khi áp dụng mô h́nh miền Bắc vào miền Nam, th́ ở Hội Nghị Trung ương 25, tháng 9- 1976, ông nói: “Ta có thể đem những hiểu biết (hợp tác xă ở miền Bắc) ấy vào làm ở miền Nam, làm trên cả 500 huyện trong cả nước để trong ṿng năm năm tới, nông nghiệp cả nước sẽ lên chủ nghĩa xă hội như nhau”439. Ư tưởng của Tổng Bí thư Lê Duẩn về “pháo đài huyện” ngay lập tức trở thành đề tài nóng bỏng của cả bộ máy tuyên truyền, các địa phương đua nhau đi tiên phong. Nhiều nơi đ̣i “thay trời đổi đất, sắp đặt lại giang san”440. Ở huyện Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh441, chính quyền quyết định xóa bỏ làng xóm cổ truyền, đốn bỏ vườn cây ăn trái từ hàng trăm năm, dời các hộ nông dân lên đồi cao, để thổ cư cũ biến thành ruộng lúa442…

    Cùng với mô h́nh kinh tế, bộ óc “200 bougies” của ông Lê Duẩn c̣n sáng tạo ra mô h́nh chính trị “Đảng lănh đạo, nhà nước quản lư, nhân dân làm chủ”, và sáng tạo ra mô h́nh “làm chủ tập thể”. Cho dù các nhà lư luận hàng đầu trong Đảng lúc ấy cũng không hiểu Tổng Bí thư Lê Duẩn thực sự nói ǵ443, sau Đại hội Đảng lần thứ IV, làm chủ tập thể trở thành một môn học học bắt buộc trong các nhà trường.

    Ngày 13-3-1977, tại trường Nguyễn Ái Quốc, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói: “Loài người cho đến nay đă có ba phát minh vĩ đại có ư nghĩa bước ngoặt của lịch sử. Thứ nhất là t́m ra lửa. Thứ hai là t́m ra cách sử dụng kim khí. Thứ ba là làm chủ tập thể”444.
    Đúng như ông Đậu Ngọc Xuân nh́n nhận, “phải sáng tạo lắm mới thoát ra khỏi sự giáo điều”. Mà muốn sáng tạo th́ cũng phải dựa trên khả năng tư duy của những con người cụ thể. Lê Duẩn vào thời điểm ấy cho dù vẫn cháy bỏng những khát khao cũng không tránh khỏi những hạn chế về học vấn và sức khỏe.
    Từ đầu thập niên 1970, bệnh tiền liệt tuyến đă khiến cho Lê Duẩn không có một đêm nào ngủ yên445 và không c̣n khả năng lắng nghe446. Ông Nguyễn Văn Trân447 nhận xét: “Anh Lê Duẩn có thói quen hay cắt lời người khác. Trong các cuộc họp Bộ Chính trị, họp Ban Bí thư có khi anh nói gần suốt cả buổi, không mấy ai c̣n thời giờ nói ư của ḿnh”. Đại tướng Vơ Nguyên Giáp viết: “Anh Ba là một con người giàu t́nh cảm cách mạng, có khi sôi nổi. Do đó, một mặt th́ dễ gần gũi với cán bộ, quần chúng mặt khác lại có những phản ứng quá mức đối với những ư kiến khác ḿnh. Điều đó đă hạn chế không khí dân chủ trong nội bộ, nhất là về những năm cuối đời”448.
    Lê Duẩn từng nhắc nhở thuộc cấp tránh hiện tượng “đảng là của tôi, nhà nước là của tôi, của một người”449. Nhưng ông đă không nhận thấy chính mô h́nh chính trị mà ông đặt ra đă mắc phải những ǵ mà ông cảnh báo: từ chỗ c̣n “có cái phải thuyết phục, có cái phải bắt buộc”450 đến chỗ đối với những ư kiến khác, chỉ c̣n chuyên chính. Năm 1976, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn tuyên bố: “Chế độ ta là chuyên chính vô sản. Chuyên chính trước hết là đường lối của giai cấp vô sản… Đường lối đó là khoa học nhất, là đúng quy luật, là bắt buộc. Đường lối đó không hề nhân
    nhượng với ai, chia sẻ với ai và không hợp tác với ai… Đường lối đó là đường lối của giai cấp công nhân, không ai được chống lại. Ai chống lại những cái đó th́ bắt”451.
    Last edited by alamit; 28-01-2013 at 08:32 AM.

  7. #27
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN II : THỜI LÊ DUẨN
    Chương IX : Xé Rào


    18/12/2012 · bởi Bộ đội làm báo · in Bên thắng cuộc

    http://bodoilambao.wordpress.com/201...ong-ix-xe-rao/



    Chính sách kinh tế kế hoạch hóa và sản xuất lớn nhằm “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên XHCN” đă dẫn đất nước đến chỗ kiệt quệ. Người dân và chính quyền các địa phương, thay v́ tuân thủ các nguyên tắc của nền kinh tế “kế hoạch hóa tập trung” chấp nhận một số quy luật của kinh tế thị trường, tiến tŕnh này bị coi là “xé rào” nhưng chính những “lỗ thủng” đó đă trở thành lối thoát cho dân chúng (Bế tắc/ Mậu dịch quốc doanh/ Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng/ Tháo gỡ/ Nghị quyết Trung ương Sáu/ Bù giá vào lương/ Cắm cờ xé rào/ Khoán chui/ Ông Kiệt xé rào, ông Linh lănh đạn/ “Ai thắng ai”).



    *

    *



    Bí thư Thành ủy Vơ Văn Kiệt từng nói trước Hội đồng Nhân dân: “Khác với tất cả các xă hội có giai cấp trước đây, nhà nước xă hội chủ nghĩa chịu trách nhiệm đầy đủ đối với đời sống của nhân dân, v́ vậy nhà nước phải nắm toàn bộ khâu lưu thông phân phối, đặc biệt là những nhu cầu thiết yếu đối với đời sống, liên quan đến bữa ăn hàng ngày của nhân dân lao động”452. Chỉ mấy năm sau, những người như ông Kiệt nhận ra chính tham vọng tốt đẹp đó đă như những bức tường, những hàng rào, giam hăm sự năng động của toàn xă hội. Những nỗ lực “đục thủng” cơ chế “tập trung quan liêu bao cấp” đó về sau sẽ được gọi là “xé rào”.



    Bế tắc



    Bên ngoài th́ giặc dă, bên trong th́ bức bối, đói kém, không khí càng trở nên ngột ngạt, nhất là từ giữa năm 1978. Lượng người bỏ nước ra đi càng lúc càng tăng, cỗ xe như đang lao xuống dốc mà không ai nh́n thấy chân phanh ở đâu.

    Ông Vơ Văn Kiệt quyết định gặp gỡ giới trí thức Thành phố. Với hy vọng có được sự chia sẻ từ những người Sài G̣n vốn được coi là có cảm t́nh với “Cách mạng”, ông Kiệt đă nói khá chân thành: “Anh em cố gắng ở lại, trong ṿng ba năm nữa, nếu t́nh h́nh vẫn không thay đổi, tôi sẽ đưa anh em ra phi trường”. Cả hội trường im lặng. Rồi, giáo sư Nguyễn Trọng Văn đứng lên: “Chúng tôi sẵn sàng ở lại, nhưng nếu ba năm nữa mà t́nh h́nh không thay đổi th́ tôi cho rằng người nên ra đi phải là các anh”.

    Câu nói của giáo sư Nguyễn Trọng Văn gây rúng động. Tối hôm ấy, tại số 56 Trương Định có một cuộc họp của Thường vụ mở rộng, Tổng Thư kư Hội Trí thức Yêu Nước Huỳnh Kim Báu được mời dự. Hầu hết ư kiến phát biểu đều phê phán Giáo sư Văn gay gắt, ông Mai Chí Thọ đề nghị: “Bắt!”. Ông Báu kể, Vơ Văn Kiệt làm thinh, nhưng cặp mắt đăm chiêu. Cuối cùng, ông nói: “Sau khi nghe anh Văn nói, tôi cũng bị sốc, rất sốc. Nhưng rồi suy nghĩ, tôi thấy, anh Văn đă phát biểu rất nghiêm túc. Tôi cho rằng, nếu ba năm nữa mà t́nh h́nh không thay đổi th́ rơ ràng người ra đi không thể là các anh ấy”. Kết luận của ông Kiệt khiến cho mọi người im lặng, và nhờ nó, Giáo sư Nguyễn Trọng Văn đă không bị bắt. Ông Huỳnh Kim Báu nhớ lại: “Lúc đó, nếu ông Vơ Văn Kiệt thiếu b́nh tĩnh, cứng với anh Văn th́ t́nh h́nh sẽ diễn biến rất xấu”.

    Là người có kinh nghiệm với cả hai phía, ông Huỳnh Kim Báu nhận ra vấn đề không phải ai đúng ai sai mà sức chịu đựng của những nhà lănh đạo đang nắm quyền tuyệt đối trong tay là rất giới hạn. Ông khuyên giáo sư Nguyễn Trọng Văn: “Anh phải kiềm chế, nếu tiếp tục phát biểu như thế, Sáu Dân không đỡ nổi đâu. Tôi không muốn trở thành người phải c̣ng tay anh”.

    Trước “giải phóng”, ông Huỳnh Bửu Sơn là chuyên viên của Ngân hàng Quốc gia. Sau khi bàn giao mười sáu tấn vàng cho cách mạng xong, ông về làm tại ngân hàng Bến Chương Dương. Tại đây, theo quán tính của một công chức chỉnh chu, ông Huỳnh Bửu Sơn vẫn mặc áo sơ mi, quần tây, đôi khi cà-vạt và thường xuyên mang giày đến sở. Điều đó làm cho những vị lănh đạo ngân hàng từ Bắc vô nhận xét: “Thằng này chưa giác ngộ”. Một hôm, ông Huỳnh Bửu Sơn bị gọi lên nói: “Giờ chúng tôi quyết định đưa anh về ngân hàng Củ Chi”. Một cảm giác vừa chán chường vừa uất hận dâng nghẹn. Cho dù rất sợ v́ chưa biết điều ǵ sẽ xảy ra nhưng ông Huỳnh Bửu Sơn vẫn nói: “Nếu đưa đi Củ Chi th́ tôi nghỉ”453.

    Cuối thập niên 1960, khi vừa tốt nghiệp luật và văn khoa về làm tại Ngân hàng Quốc gia, ông Huỳnh Bửu Sơn được cấp một căn hộ trên đường Bà Huyện Thanh Quan. Năm 1970, khi ngân hàng xây một khu cư xá tại An Phú, Thủ Đức, ông được cấp bán một căn biệt thự xây dựng trên khuôn viên rộng 1.000m. Lương của ông Sơn khi ấy là 200.000 đồng, tương đương với sáu lượng vàng, ngoài ra cán bộ như ông c̣n được cấp một xe hơi hiệu Ladalat để đi lại. Là chuyên viên, ông không những có thể nuôi vợ con sung túc, mà đến tháng 4-1975, số dư trong tài khoản tiết kiệm của gia đ́nh ông vẫn có hơn hai triệu đồng. Số tiền này đă trở thành giấy lộn sau khi đổi tiền và sau khi chính quyền “đ́nh chỉ vĩnh viễn mười sáu ngân hàng tư nhân”.

    Để lo cho cuộc sống, cũng như nhiều gia đ́nh khác, vợ chồng ông Huỳnh Bửu Sơn bắt đầu phải bán từ dàn máy nghe băng hiệu Akai, cái tivi, rồi hai chiếc xe gắn máy. Chuyện “ăn tiệm” diễn ra gần như hàng tuần trước đây trở thành cổ tích. Mỗi ngày đi làm, ông Huỳnh Bửu Sơn phải mang theo một lon guigoz cơm độn ḿ, vợ ông lấy củ hành kho tương với mấy lát khổ qua xắt. Nước mắm khi ấy vô cùng khan hiếm, người dân Sài G̣n phải lấy muối pha với nước rau để làm nước chấm. Nếu như ông Phan Lạc Phúc đă mất “13 kư mỡ” sau khi chịu cải tạo qua các trại Suối Máu, Long Khánh, Sơn La, th́ ở Sài G̣n, ông Huỳnh Bửu Sơn nhớ: “Giải phóng hai năm tôi cũng sụt mất mười ba kư”.

    Không chỉ có cuộc sống của những người từng làm việc cho chế độ Sài G̣n như ông Huỳnh Bửu Sơn bị đảo lộn. Sự khốn đốn cũng không buông tha những người chiến thắng. Theo một ủy viên Trung ương Đảng, ông Nguyễn Thành Thơ454: “Một hôm, khoảng sáu giờ tối, vợ của một thiếu tướng, vốn là bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho tôi khi tôi làm bí thư Chính ủy khu miền Tây, đến đá cửa nhà tôi ầm ầm rồi kêu: ‘Mười Thơ, gạo đâu ăn?’. Tôi chạy ra mở cửa, trước thái độ đói giận của chị, tôi vô nhà vác bao gạo mới được cấp, đem ra để trên xe. Chị cho xe rồ máy chạy về, đến cũng như đi, không có một lời chào hỏi”. Đó là bao gạo duy nhất c̣n lại trong nhà.

    Ông Nguyễn Thành Thơ kể tiếp: “Hai anh em con tôi, sau những ngày ăn bo bo, khoai bắp, hôm có ít gạo nấu nồi cháo, em vào bếp múc tô cháo ăn. Anh vô bếp thấy em ăn, hỏi: ‘Mầy ăn ǵ?’. Người em lấy mặt che tô cháo. Anh nắm lỗ tai kéo lên: ‘Mầy ăn cháo gạo không chờ ai à?’. Nói xong, liền đẩy đầu em xuống tô cháo. Thằng em, mặt đầy cháo, ngước dậy lấy tô cháo vụt vào mặt anh, trúng mé mắt, máu ra lai láng. Vợ tôi vội chở đến bệnh viện Gia Định cầm máu, may lại. Dọc đường thằng anh nói với mẹ: ‘Đừng đánh em, tại con mấy ngày không được ăn cơm cháo gạo, thấy em ăn cháo gạo không kêu ai nên tức giận, có thái độ không phải với em”.



    Mậu dịch quốc doanh



    Ông Đỗ Mười đến Sài G̣n năm 1978 không chỉ tổ chức các lực lượng đánh thẳng vào “sào huyệt của giai cấp tư sản” mà c̣n triệu tập cán bộ dân chính Đảng tới nghe ông nói chuyện về lư luận. Ông Nguyễn Thành Thơ kể: “Anh Kiệt kêu tôi thay anh đi dự nghe”.

    Tại hội nghị, theo ông Thơ, “Đỗ Mười nói: ‘Ta cải tạo công thương thành quốc doanh, để nắm chặt, tránh cạnh tranh, tránh khủng hoảng thừa thiếu, đảm bảo yêu cầu nhân dân, tránh đầu cơ bóc lột. Về nông sản ta có trạm từ tỉnh, đảm bảo tự túc tự cung từ tỉnh, sản phẩm thừa nhà nước thu mua, có kho chứa và vận chuyển cho nơi thiếu, đảm bảo yêu cầu…’. Mỗi lần nói xong, anh Đỗ Mười nh́n lên mái nhà một lát rồi lại nói tiếp, cứ thế đến sáu giờ tối mới chấm dứt. Tôi nghe giải thích đó là xă hội chủ nghĩa, là đảm bảo yêu cầu nhân dân, là không bị đầu cơ bóc lột, những cơ chế tôi hoàn toàn không thông, v́ quá mới mẻ chưa từng qua cuộc sống”.

    Theo ông Vơ Văn Kiệt: “Sau cải tạo, hệ thống thương nghiệp quốc doanh bắt đầu thay thế các cửa hàng tư nhân. Ngay cả những cửa hàng tư nhân đang làm ăn trước chợ Ông Lănh, chợ Cầu Muối, cũng phải dẹp bỏ để nhường chỗ cho thương nghiệp quốc doanh đến trưng bảng hiệu”. Trước khi cải tạo công thương nghiệp tư doanh, báo chí nhà nước liên tục đổ lỗi cho “gian thương”455. Sau ngày cải tạo, các hộ kinh doanh bị chính quyền truy quét triệt để tới cả vỉa hè, nơi trao đổi từng chiếc quạt máy, vài cái đồng hồ mà dân Sài G̣n bắt đầu phải bán đi v́ túng quẫn.

    Báo chí “cách mạng” gọi những tụ điểm mua bán đồ cũ đó là “những hang ổ của bọn lưu manh trộm cướp, đầu cơ, bọn áp phe buôn lậu, bọn bán hàng giả, hàng ăn cắp của nhà nước, tiêu thụ của cướp giật, là những điểm hội tụ của tất cả những bọn làm ăn bất chính, phá rối trật tự trị an, làm hại đến đời sống nhân dân lao động”456. Công an thường xuyên phối hợp với các lực lượng thanh niên bảo vệ, “đồng loạt truy quét bọn lưu manh côn đồ tại mười ba tụ điểm chợ trời lớn trong thành phố, trong đó có xa cảng miền Tây, khu Huỳnh Thúc Kháng-Hàm Nghi- Nguyễn Huệ, khu chợ trời Trần Quốc Toản”.

    Ông Kiệt không phải chờ quá lâu để chứng kiến những ǵ mà chủ nghĩa xă hội mang lại cho Sài G̣n. “Toàn Đảng” và không ít người dân đă từng tin vào một tương lai tươi sáng sau khi thực hiện “kế hoạch 5 năm”, 1976-1980. Đại hội Đảng lần thứ IV đề ra mục tiêu: “Năm 1980 đạt ít nhất hai mươi mốt triệu tấn lương thực quy thóc, một triệu tấn thịt hơi các loại”. Vậy mà thực tế là, ngay trên vựa lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long, sau khi “cưỡng bức tập thể hóa”, sau khi máy cày, máy kéo của tư nhân bị đưa vào hợp tác xă, tập đoàn đă trở nên tàn phế, mặc kệ các chỉ tiêu Đại hội, sản lượng lương thực, thực phẩm giảm mạnh sau các “năm năm kế hoạch”457. Nếu như chỉ có thất bại của chính sách hợp tác hóa, người dân vẫn có thể xoay xở với một lượng lương thực chỉ giảm đi vài trăm ngh́n tấn. Nhưng gạo lại để ẩm mốc ở Long An trong khi dân Sài G̣n vẫn đói. Chế độ bao cấp lương thực theo định lượng và chính sách cấm chợ ngăn sông đă trói buộc cả chính quyền lẫn người dân.

    Ngay sau ngày 30-4-1975, chính quyền mới nhanh chóng thiết lập một chế độ công hữu các dịch vụ như y tế, giáo dục, biến hàng trăm ngàn thầy cô giáo, y tá, bác sỹ trở thành công chức ăn lương. Không dừng lại ở mức độ “ưu việt” đó, Bộ Lương thực đă điều hơn 3.000 mậu dịch viên vào Thành phố, thiết lập một hệ thống phân phối gạo bao cấp với hơn 1.000 cửa hàng ở khắp Sài G̣n-Chợ Lớn. Chính quyền dự định cấp sổ gạo cho hơn bốn triệu người dân ở Sài G̣n với mức b́nh quân chín kư mỗi người với giá lúc đầu là bốn mươi đồng một kư; sau đổi tiền, chỉ c̣n năm mươi xu một kư, trong khi giá gạo trên thị trường năm 1975 là hai đồng rưỡi. Nhưng niềm hân hoan của người dân Sài G̣n chỉ kéo dài vài tháng.

    Cửa hàng lương thực là một trong những điểm tiếp xúc đầu tiên của dân chúng với chế độ. Theo bà Ba Thi, người dân vừa than phiền thái độ hách dịch cửa quyền của mậu dịch viên vừa thất vọng về chất lượng gạo. Lượng người xếp hàng ở mậu dịch đông, trong khi các mậu dịch viên th́ thủng thẳng vô sổ, cân đong và ca cẩm. Để mua được đủ tiêu chuẩn gạo, nhiều người phải xếp hàng cả ngày.

    Gạo mậu dịch khi ấy được gọi là “gạo tổ”, thứ gạo mà trước khi nấu phải đăi sạn và gạo mục, trước khi đăi phải nhặt thóc và bông cỏ. Thế nhưng v́ giá bán rẻ hơn rất nhiều so với thị trường, nên những nhà không ăn tới vẫn cho người ra xếp hàng mua hết tiêu chuẩn về cho heo, cho gà ăn, hoặc bán lại. Bà Ba Thi Nguyễn Thị Ráo458 giải thích: “Nhà nước mua lúa của nông dân với giá rẻ mạt nên người nông dân bán cho tṛn bổn phận chứ không hề băn khoăn phải lựa chọn thứ lúa tốt phơi khô, rê sạch. Người ta không nói ra nhưng vẫn thấy nhà nước thật lạ, nông dân làm một nắng hai sương mới ra hột lúa, củ khoai mà thu mua như giựt”459.

    Năm 1978, khi đồng bằng sông Cửu Long mất mùa, Nhà nước phải dùng hàng vạn tấn khoai lang, sắn và hạt lúa mạch, dân t́nh quen gọi là bo bo để bán ra thay “tiêu chuẩn gạo”. Trong t́nh h́nh đó, Nghị quyết về “Công tác giá trong t́nh h́nh mới” của Bộ chính trị lại “đổ thêm dầu vào lửa” khi quy định giá thu mua lương thực, thực phẩm của nông dân thấp hơn rất nhiều so với giá thành460. T́nh h́nh lương thực càng căng thẳng v́ không thu mua được. Ngay trên địa bàn Thủ đô, cho dù Ban bí thư đă trực tiếp điện yêu cầu các địa phương đưa gạo về461, nhưng tháng 3-1978, người dân Hà Nội chỉ mua được 30% gạo trong khẩu phần lương thực; tháng 4-1978, tỷ lệ gạo mua được c̣n thấp hơn tháng 3. Trong khi đó, các thực phẩm thông thường như rau, đậu phụ, mỡ, cá cũng không đủ để bán theo tem phiếu462.

    Khan hiếm lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm bắt đầu tác động mạnh mẽ lên các thị dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công nhân sống dựa vào tem phiếu và những ǵ được cung cấp ở các cửa hàng mậu dịch. Kể từ đầu thập niên 1960, tại Hà Nội, cán bộ cao cấp có cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tôn Đản, cán bộ trung cấp có cửa hàng tại phố Nhà Thờ, Vân Hồ, Đặng Dung và Kim Liên, c̣n cán bộ, công nhân, viên chức b́nh thường và nhân dân mua ở các cửa hàng rải rác trong thành phố. Dân t́nh có thơ: Tôn Đản là chợ vua quan / Vân Hồ là chợ trung gian nịnh thần / Bắc Qua là chợ thương nhân / Vỉa hè là chợ… nhân dân anh hùng! Những người hưởng chế độ tem phiếu A1, thuộc thứ bậc thấp nhất trong hàng hưởng lương nhà nước, th́ mỗi tháng chỉ được ba lạng thịt. Cán bộ, công nhân thường mỗi năm được cấp phiếu mua năm mét vải, mỗi tháng được từ 0,3 đến 0,5 kư thịt, bốn lít dầu… Thường dân th́ được mua bốn mét vải một năm. Lao động gián tiếp, làm việc ở văn pḥng, mỗi tháng được bán mười lăm kư gạo; giáo viên được mười ba kư; sinh viên được mười bảy kư; c̣n những người “lao động trực tiếp” như công nhân th́ được hai mươi mốt kư gạo. Trong bài văn nộp cho cô giáo, con gái một công nhân làm việc ở Nhà máy Dệt 8-3 ước mơ: “Ngày Tết em mong sao có một nồi cơm trắng và một bát thịt kho”.

    Mỗi tháng, theo tiêu chuẩn, các gia đ́nh được phân phối thịt. Gọi là thịt nhưng toàn mỡ vụn, bạc nhạc và lại chia làm hai lần nên phải bốc thăm. Ai trúng th́ lĩnh trước, không trúng th́ chờ đợt sau. “Có bị cân hụt mất cả lạng th́ cũng phải cố mà cười. Thịt mang về, rán cho cùng kiệt mỡ, cẩn thận đổ vô liễn rồi mới cho muối, kho mặn chát để ăn dè. Các nhu yếu phẩm khác như xà pḥng, ḿ chính, chất đốt cũng vậy, có khi năm ba tháng liền chỉ được lĩnh vải mà không có xà pḥng, có người ở nhà toàn phụ nữ nhưng khi lĩnh đồ lót phân phối th́ toàn quần đùi, áo may ô và… dao cạo râu. Trong những ngày chia thịt, ở các khu phố, có không ít tiếng ch́ chiết của các ông chồng v́ vợ bốc không trúng thăm thịt trong khi mùi mỡ cứ bay từ nhà hàng xóm sang”463.

    Trong khi đó, ở Tôn Đản, theo ông Nguyễn Văn Huy, giám đốc Bảo tàng Dân tộc học: “Bố tôi là bộ trưởng Bộ Giáo dục. Ông mất ngay sau khi đất nước được thống nhất, nhưng mẹ tôi vẫn được hưởng chế độ cung cấp như khi bố tôi c̣n sống. Đại gia đ́nh chúng tôi, mẹ tôi và bốn gia đ́nh anh chị em chúng tôi, cùng chung sống dưới một mái nhà, góp tiền lương ăn chung một nồi… Tất cả chúng tôi đều là những cán bộ trung cấp, là tiến sỹ, giáo sư, phó viện trưởng hoặc tương đương nhưng tiền lương không đủ để mua hết tiêu chuẩn thực phẩm vốn đă ít ỏi cấp cho một bộ trưởng”464.

    Hơn hai thập niên, người Hà Nội đă phải sống chung với các mậu dịch quốc doanh, các cửa hàng gạo như là một biểu tượng của Hà Nội thời bao cấp: Người dân phải dậy từ nửa đêm để xếp hàng. Người bận quá th́ đặt cục gạch, cục đá hay cái nón, cái rổ rá ở đấy để giữ chỗ. Gạo mua về mà ngửi không có mùi mốc là lâng lâng sung sướng.

    Ước mơ của người Hà Nội trong thập niên 1970 là một chiếc xe đạp Thống Nhất, một cái quạt tai voi hay một đôi dép nhựa Tiền Phong. Tiêu chuẩn của các cô gái Hà Nội cũng thật là đơn giản: Một yêu anh có may ô / Hai yêu anh có cá khô ăn dần / Ba yêu rửa mặt bằng khăn / Bốn yêu anh có chiếc quần đùi hoa465. Một đôi dép nhựa Tiền Phong bán chợ đen thời ấy đủ mua một vé máy bay bao cấp từ miền Nam ra Bắc466. Chỉ những người đạt các danh hiệu thi đua mới có thể được phân phối xe đạp. Xe đạp muốn lưu hành cũng phải đăng kí xin cấp giấy chứng nhận sở hữu và biển số xe467. Cho đến cuối thập niên 1970, người dân miền Bắc muốn sở hữu radio cũng cần giấy phép468. Trong khi nhu cầu hàng hóa để phân phối càng ngày càng tăng, chính sách kinh tế kế hoạch hóa đă làm hoang phế máy móc và triệt tiêu khả năng sản xuất kinh doanh của cơ sở.

    Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng Hầu hết các hăng, nhà máy lớn ở Sài G̣n do có “xuất nhập cảng” nên gần như đă bị quy là “tư sản mại bản” và bị “đánh” vào tháng 9-1975. Những hăng xưởng nhỏ hơn th́ từ đó cho tới tháng 3-1978 bị “đánh” hoặc bị “vận động công tư hợp doanh”. Điều xót xa hơn, theo ông Vũ Đ́nh Liệu: “Máy móc thu được của các nhà tư sản không những không tiếp tục làm ra của cải mà bị vất vào kho để cho tới khi hư hỏng”.

    Theo ông Trần Hồng Quân469: “Khoảng cuối năm 1978, đầu năm 1979, trung ương nhờ trường Đại học Bách Khoa cho sinh viên vào kho “hiện vật cải tạo”, để xem những máy móc trong đó có cái ǵ c̣n dùng được. Nhưng sinh viên th́ chỉ biết mấy cái máy tiện, máy phay, những máy móc dùng trong công nghiệp nhẹ th́ chưa bao giờ được tiếp xúc, nên không thể làm ǵ. Cuối cùng, trung ương ra lệnh, tháo ră những chiếc máy đó ra, thu hồi những ṿng bi làm phụ tùng, c̣n phần lớn th́ dùng như phế liệu”. Đây là những máy móc mà “trước giải phóng” đă giải quyết việc làm cho hàng vạn công nhân và làm ra biết bao của cải cho xă hội.

    Không chỉ có “tư liệu sản xuất”, nhà cửa của “giai cấp tư sản” đưa vào “quỹ nhà cải tạo” đă được phân chia như chiến lợi phẩm. Theo ông Đỗ Hoàng Hải: “Những căn nhà mà tư sản dùng làm cơ sở thương nghiệp, rất tiện cho việc buôn bán, được chia cho những người lao động. Ngôi nhà đang một chủ, giờ chia ra mỗi hộ giữ một pḥng hoặc một tầng lầu, hộ có toa-let th́ không có bếp, hộ có bếp th́ không có nơi phơi phóng”. Không những trong nội bộ ‘giai cấp công nhân’ bắt đầu tranh chấp, gây gổ với nhau, mà cấu trúc của ngôi nhà cũng bắt đầu bị hủy hoại. Một phần lớn nhà cửa khác được giao lại cho các đơn vị thương nghiệp quốc doanh th́ phần lớn bỏ không hoặc sử dụng không hiệu quả.

    Các cán bộ miền Bắc cũng được các bộ, ngành điều vào để nắm giữ các nhà máy của tư sản miền Nam. Một trong số họ là ông Nguyễn Quang Lộc. Tháng 9-1975, khi được giao tiếp quản hăng Bột giặt Viso của nhà “tư sản mại bản” Trần Văn khôi, ông Lộc đă đề nghị chính quyền “áp dụng chính sách nhân đạo”, hoăn đưa ông Khôi đi cải tạo hai năm để ông Khôi “truyền kinh nghiệm quản lư nhà máy cho Cách mạng”. Đây không phải là một may mắn cho ông Trần Văn Khôi, v́ năm 1977 ông vẫn phải đi tù ba năm, mà là may mắn cho chính quyền, v́ trong hai năm ấy ông Khôi đă giúp những người như ông Lộc khôi phục được phần lớn khả năng hoạt động của nhà máy.

    Ông Nguyễn Quang Lộc kể: “Khi tôi vào, ông Khôi nói, mời anh làm giám đốc, tôi đề nghị để tôi làm ‘phụ tá’ thôi. Rồi tôi nói với công nhân, quư vị yên tâm, ông Khôi dùng được quư vị th́ tôi dùng được. Nhưng điều tôi lo nhất là những cán bộ từ miền Bắc vào”. Cán bộ miền Bắc, kể cả ông Lộc là kỹ sư, chưa bao giờ nh́n thấy một giây chuyền sản xuất như vậy. Chưa kể, từ miền Bắc thiếu thốn, vào thấy cái ǵ trong nhà máy cũng có giá, không tránh khỏi thèm thuồng. Thế nhưng, thay v́ học hỏi, không ít người lại tự cao, tự đại. Ông Lộc đă phải nói với họ: “Các anh vào đây, chuyên môn chưa làm được th́ phải lo mà giữ đạo đức, đừng có đi mót của, người ta khinh ḿnh”.

    Khác với ông Trần Văn Khôi, tháng 8-1976, khi bà Nguyễn Thị Đồng được Liên hiệp Dệt cử vào “tiếp thu” Tái Thành Kỹ Nghệ th́ chủ nhà máy, bà Đoàn Thị Mỹ, đă bị đi cải tạo rồi. Quan điểm của bà Đồng là “phải có chi bộ mới đề ra chủ trương lănh đạo nhà máy được”. Đảng ủy cấp trên đồng ư cho bà lập một chi bộ có mười ba người do bà làm bí thư.

    Bà Nguyễn Thị Đồng kể: “Tôi phân công từng đồng chí đảng viên chịu trách nhiệm từng khâu. Khẩu hiệu là không làm thịt máy chết” – tức là không tháo phụ tùng từ máy cũ sang thay vào máy mới. Tái Thành Kỹ Nghệ sau năm 1975 đă hoạt động cầm chừng. Nhà máy có 130 máy dệt, một máy hồ mới đem về và mười bốn máy nhuộm mà “Cách mạng vô không ráp được”. Theo bà Đồng th́ những người thợ giỏi đă bị chủ cũ đuổi đi. Từ danh sách những người bị đuổi, bà Đồng mời được năm mươi hai thợ giỏi vào nhà máy, lúc bấy giờ được gọi là Dệt Thành Công, làm việc.

    Cũng như ông Nguyễn Quang Lộc, bà Nguyễn Thị Đồng cũng phải dặn các đảng viên: “Nghèo th́ nghèo, tuyệt đối không được lạng quạng”. Thoạt đầu, bà Đồng phân công các đảng viên làm tổ trưởng. Nhưng v́ những người này, theo lời bà Đồng, đều là “bộ đội quăng qua, không có nghề nghiệp ǵ”, nên “tôi phải gọi họ lên làm công tác tư tưởng để họ xuống làm tổ phó cho thợ giỏi lên làm tổ trưởng”.

    Những năm tháng đầu sau khi tiếp quản, bà Đồng tích cực “phát triển Đảng trong giai cấp công nhân”. Bà nói: “Mục tiêu là mỗi tổ sản xuất phải có một đảng viên, tiến tới một ‘ca’ phải có một chi bộ”. Khát vọng khi đó của bà Đồng là xây dựng “mô h́nh xă hội chủ nghĩa hoàn chỉnh” trên quê hương ḿnh. Bà nói với những công nhân cũ bỏ việc: “Chị nói thật với các em, chị cũng là người miền Nam, ra Bắc ráng học để trở về xây dựng ở miền Nam một xă hội tốt đẹp, cớ ǵ các em lại bỏ đi”. Khi ấy bà Đồng chưa nhận ra rất nhiều khó khăn xuất hiện ở miền Nam là bởi xă hội đang phải đi theo những điều mà những người như bà tin là “tốt đẹp”. Những khó khăn mà bà Đồng và ông Lộc phải đối diện không chỉ là những ǵ xảy ra ở bên trong. Ông Nguyễn Quang Lộc nhớ lại: “Nhà máy đă bị cơ chế quản lư xé nhỏ, các bộ cắt dọc, địa phương cắt ngang: sáu mươi xe tải của Viso bị bắt bàn giao cho Bộ Giao thông Vận tải quản lư, hai máy phát điện giao Bộ Điện lực, khu liên hợp sản xuất nguyên liệu hóa chất giao cho Tổng cục Hóa chất, dây chuyền đóng gói bột giặt giao cho Bộ Công nghiệp nhẹ”. Trước 1975, nhà máy Viso có năm kỹ sư nước ngoài, nguyên liệu thiếu, phụ tùng hết chỉ cần gọi điện ra là người ta đưa sang. Theo ông Lộc: “Cách làm đó ta gọi là lệ thuộc vào ngoại bang nên khi tôi đề nghị học cách làm của tư sản, tiếp tục hợp tác với nước ngoài không được ai chấp nhận”.

    Để có thể duy tŕ hoạt động của nhà máy, ông Nguyễn Quang Lộc đưa những người cũ, giỏi nhất về cơ khí làm quản đốc phân xưởng. Những vị quản đốc cũ này được trả lương cao, hơn hai ngàn đồng một tháng, trong khi lương ông Nguyễn Quang Lộc chỉ có 117 đồng. Ông Lộc kể là khi ông trả lương bậc bảy cho một thợ cơ khí không biết chữ, Vụ Kỹ thuật của Bộ Công nghiệp nhẹ kịch liệt phản đối khiến cho ông đă rất nao núng. Nhưng khi ông muốn làm mấy cái bồn để dự trữ nhiên liệu, kêu thợ bậc bảy ngoài Bắc vào làm không được. Ông đành phải gọi một ông thợ người Hoa, ông thợ người Hoa trả lời: “Ngộ làm được”. Ông Lộc hỏi cần điều kiện ǵ, ông thợ người Hoa nói: “Cho ngộ năm thợ phụ, hai thợ hàn, hai thợ g̣, mỗi ngày cho thêm hai bữa phụ bằng xôi và cho mấy két nước ngọt”. Rồi chỉ mười lăm ngày sau là dựng được bốn bồn đứng.

    Cách mạng đă rất tự tin khi đổi tên Tái Thành Kỹ Nghệ thành nhà máy Dệt Thành Công. Nhưng chỉ chưa đầy hai năm sau, Thành Công đứng trước nguy cơ phải đóng cửa, máy móc để cho tơ nhện giăng. Công nhân một nhà máy có công nghệ dệt hiện đại nhất lúc ấy phải sống bằng cách tận dụng vải vụn, tơ rối để khâu găng tay, nhồi búp bê, đan mũ, đan tất và làm thú nhồi vải vụn. Những công việc bằng tay đó cũng chỉ giải quyết được một phần lao động. Một phần lớn khác, kể cả đội ngũ công nhân dệt lành nghề, kỹ sư, thợ điện đều phải đi gặt thuê ở Long An, mở trại nuôi ḅ ở Long Thành, xuống Cà Mau làm ruộng, lên Đồng Nai, Sông Bé khai hoang trồng sắn, lập trang trại nuôi ḅ. Bí thư Dệt Thành Công, bà Nguyễn Thị Đồng, cho biết thêm: “Chủ trương đi sản xuất lương thực là từ Bộ Công nghiệp nhẹ, Liên Hiệp Dệt triển khai. Các ông ấy bị ám ảnh bởi cái đói từ thời chống Pháp”. Không chỉ công nhân trong nhà máy, theo ông Tư Kết Nguyễn Văn Ly, thư kư riêng của ông Mai Chí Thọ: “Mấy ngày sau giải phóng, ông Mai Chí Thọ chuyển từ trường Petrus Kư về cư xá Lữ Gia, ở nhà của Đại tá Đỗ Kiến Nhiễu (đô trưởng Sài G̣n cũ), sau ông thấy bất tiện nên viết giấy kêu tôi sang tiếp quản nhà 21 Duy Tân470” . Nhà 21 đường Duy Tân vốn là tư dinh của tổng giám đốc hăng Esso, có hồ bơi riêng, có máy phát điện riêng. Khi t́nh h́nh khó khăn, ông Tư Kết kể: “Tôi và Mười Lù, bác sỹ riêng của ông Mai Chí Thọ, phải phá vườn bông trồng rau muống c̣n hồ bơi th́ nuôi cá rô phi”.

  8. #28
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN II : THỜI LÊ DUẨN
    Chương IX : Xé Rào
    P2


    Tư duy “tăng gia sản xuất để tự cung tự cấp” không phải xuất phát từ địa phương mà từ Chỉ thị 306-TTg mà thủ tướng ban hành ngày 18-11-1980. Theo đó, các cơ quan xí nghiệp trong cả nước phải tổ chức cho công nhân viên thay phiên nhau về nông thôn mượn đất của các hợp tác xă để trồng trọt. Kỹ sư, bác sĩ và những công nhân lành nghề bắt đầu được huy động đi vác cày, vác cuốc. Một thành phố như Đà Lạt cũng bị chỉ đạo, thay v́ trồng hoa, phải phát triển diện tích trồng khoai sắn.

    Cũng có đơn vị không “chấp hành chủ trương” này như nhà máy Bột giặt Viso.

    Ông Nguyễn Quang Lộc kể: Ông Mười Hương, phó bí thư thường trực hỏi: ‘Tại sao mày không đưa người đi trồng lúa để tự túc lương thực?’. Ông Lộc bảo: ‘Việc của chúng em không phải là trồng lúa’. Ông Mười Hương: ‘Chủ trương của Trung ương là sẽ cắt hai tháng lương thực, không trồng lấy ǵ ăn?’. Ông Lộc: ‘Người ta chỉ công nhân hóa nông dân, không ai nông dân hóa công nhân cả. Làm ruộng cũng là một nghề, không phải làm phong trào’. Ông Mười Hương: ‘Tại sao người ta làm được mà mày không làm được?’. Ông Lộc: ‘Thưa anh chúng nó lếu láo, lấy xăng dầu đổi sắn, đổi gạo hết chứ không trồng cấy ǵ ra thóc ra lúa đâu’. Ông Mười Hương: ‘Tao không căi với mày, tao vẫn bảo bên Lương thực cắt hai tháng của Viso đấy’.



    Tháo gỡ



    Tác giả của mô h́nh kinh tế này, Tổng Bí thư Lê Duẩn, cũng rơi vào bế tắc. Theo ông Đỗ Phượng, tổng giám đốc Thông tấn xă Việt Nam: “Không ít lần tôi báo cáo thông tin với đồng chí Tổng bí thư, nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên tôi thấy anh Ba ngồi yên, nghe mà như không nghe, không hỏi lại mà cũng không ngắt lời”471. Khi ông Đỗ Phượng nói “muốn được nghe ư kiến của anh”, ông Lê Duẩn đứng dậy, nói bằng một giọng nhẹ nhàng mà ông Đỗ Phượng nói là ông chưa từng nghe bao giờ: “Thế anh bảo Trung ương phải làm ǵ đây, tôi phải làm ǵ đây! Các đồng chí lănh đạo có trách nhiệm bên Đảng và bên chính phủ đều có mặt tại chỗ. Khó khăn th́ phải t́m cách tháo gỡ, ngồi mà kêu cực trông chờ ai cứu ḿnh”.

    Ở cấp địa phương, theo ông Vơ Văn Kiệt: “Hàng ngày lănh đạo Thành phố phải họp để nghe chi tiết thương nghiệp thu mua được mấy tấn thịt, mấy tấn rau mà vẫn không sao làm tốt bằng tư nhân được. Dân kêu: ngay cả khi chiến tranh ác liệt nhất, Sài G̣n vẫn có rau xanh, cá tươi, thịt ngon bán chứ không khan hiếm thế này”. Ông Kiệt thừa nhận bản thân ông lúc ấy cũng chưa nh́n thấy nguyên nhân chính nằm ở chế độ bao cấp vừa được nhanh chóng áp dụng ở miền Nam. Ông nói: “Ḿnh có biết ǵ về cách mạng xă hội chủ nghĩa đâu, Trung ương bảo làm th́ ráng làm. Làm rồi mới thấy không phù hợp”. Ông Kiệt cố gắng xoay xở để làm sao có cá, có rau và có thịt. Ông chỉ thị: “Không được để một người dân chết đói”.

    Thoạt đầu, ông Vơ Văn Kiệt dự định “tháo gỡ” từ trên. Theo ông Nguyễn Thành Thơ: “Một hôm anh Kiệt đi công tác Cần Thơ, nghe anh Bảy Máy472, bộ trưởng Bộ Lương thực, đang đi đôn đốc cất kho trữ lúa, anh Kiệt mời anh Bảy Máy gặp bàn về lưu thông nông sản, chủ yếu là lương thực. Anh Bảy Máy nói: ‘Tôi chỉ biết nghe ư kiến chính thống, chớ không nghe ư kiến ai cả’. Anh Kiệt xếp tập sổ lại: ‘Hết làmviệc rồi’”.

    Ông Kiệt trở lại Thành phố gặp Sở Lương thực, và khi bà Ba Thi đề xuất để bà chủ động về đồng bằng sông Cửu Long tổ chức thu mua lúa gạo đem về Sài G̣n, ông Kiệt đồng ư. Ngay sáng hôm sau, ông Vơ Văn Kiệt cho mời giám đốc Ngân hàng Thành phố, ông Lữ Minh Châu, giám đốc Sở Tài chánh, ông Nguyễn Ngọc Ẩn, chánh Văn pḥng Thành ủy, ông Nguyễn Văn Nam và bà Ba Thi đến nhà riêng “ăn sáng”.

    Sau bữa điểm tâm, ông Kiệt nói: “Hiện nay, dự trữ gạo Thành phố chỉ c̣n vài ngày. Theo nguyên tắc th́ Bộ Lương thực có trách nhiệm cung cấp mỗi tháng bốn mươi đến bốn mươi lăm ngh́n tấn gạo nhưng nhiều lắm th́ bộ chỉ cung cấp được khoảng ba mươi ngh́n tấn thôi. Bộ không có đủ gạo v́ dân không muốn bán lúa cho nhà nước theo giá quy định. Sở Lương thực th́ không được phép tự ư thu mua với giá thỏa thuận. Người dân Thành phố cũng không thể tự đi mua gạo với giá hợp lư cho nông dân v́ không thể vận chuyển gạo ra khỏi tỉnh. Tại sao ta không ráp hai mối này lại?”.

    Ở thời điểm đó, “ráp” khả năng cung ứng lúa gạo của nông dân với nhu cầu lương thực của thị dân là phạm luật. Theo ông Lữ Minh Châu, nếu bà Ba Thi lấy danh nghĩa Sở Lương thực đi mua thóc th́ bà không được quyền mua theo giá thỏa thuận; nếu bà lấy danh nghĩa cá nhân th́ bên tài chánh không thể cấp vốn, ngân hàng không thể cho vay; mua được thóc cũng khó mà vận chuyển thóc từ các tỉnh về cũng khó. Ông Châu cho rằng muốn làm được th́ phải “xé rào”, ông Vơ Văn Kiệt lập tức đồng ư.

    Một mô h́nh làm việc ngay buổi sáng hôm đó đă được h́nh thành: tài chánh cử kế toán đi cùng, ngân hàng cử người mang tiền mặt theo, bà Ba Thi quyết định mua ở đâu th́ kế toán làm giấy tờ, ngân hàng chi tiền. Mô h́nh có tên gọi là “tổ thu mua lúa gạo” do bà Ba Thi làm tổ trưởng.

    Mặc dầu đă được ông Kiệt với tư cách là ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, bí thư Thành ủy ra “chủ trương” nhưng bà Ba Thi vẫn lo lắng: “Chúng tôi làm được nhưng trung ương biết là đi tù đó”. Ông Vơ Văn Kiệt nói: “Đừng tham ô thôi, c̣n nếu chỉ làm thế này mà các anh chị phải đi tù th́ tôi đưa cơm!”. Rồi đích thân ông Kiệt cùng bà Ba Thi về làm việc với Tỉnh ủy Bạc Liêu và Huyện ủy Giá Rai, thuyết phục các địa phương bán gạo cho Thành phố. Khi ấy, nhiều tỉnh ban hành lệnh cấm mang lúa gạo ra khỏi địa phương. Các trạm kiểm soát được lập trên gần như tất cả mọi tuyến đường, ai đi qua cũng có thể bị khám xét, mua năm bảy kư gạo, đưa ra khỏi huyện, khỏi tỉnh là có thể bị tịch thu. V́ thế có nơi để gạo thóc ẩm mục, phải cho heo gà ăn hoặc làm phân bón, có nơi đói mà không thể lưu thông. Các sở lương thực chỉ có quyền ngồi chờ khoai sắn từ Bộ Lương thực cấp về rồi phân phối.

    Để có thể mua được lúa gạo và đưa trót lọt về Sài G̣n, bà Ba Thi vừa phải dựa vào uy của ông Vơ Văn Kiệt vừa phải khai thác các mối quan hệ của chính ḿnh. Thời gian đầu, bà phải dùng xe biển số đỏ của Bộ Tư lệnh Thành với bộ đội mang súng đi theo áp tải gạo qua địa bàn các tỉnh.

    Cái cách mà bà Ba Thi mua lúa ở miền Tây cũng “du kích” không khác ǵ phương thức mà bà đă hoạt động ở đồng bằng trước ngày giải phóng473. Ông Nguyễn Thành Thơ viết: “Một hôm chị Ba Thi ra Hà Nội tặng quà những ai giúp đỡ chị, quà là năm gói ḿ ăn liền do nhà máy chị sản xuất. Chị đưa tặng tôi, tôi nói: ‘Chị cho tôi biết tôi đă giúp đỡ ǵ tôi mới dám nhận quà’. Chị nói: ‘Bận tôi mua lúa gạo không có anh, nhưng tôi t́m anh, nhờ anh nói các tỉnh, giúp tôi mua lúa gạo dễ dàng, đồng thời một chuyến ghe tôi mua lúa gạo ở Rạch Giá, bị bắt, anh em chạy đến nhờ anh giúp đỡ, anh giúp có kết quả’. Tôi nói: Vậy tôi nhận quà”474.

    Một cán bộ thu mua lương thực của bà Ba Thi, bà Út Hiền, kể: “Ở nông thôn, nông dân cần dầu lửa thắp đèn, cần vải đen may quần áo đi làm ruộng, cần thuốc uống trị bệnh lúc ốm đau. Nhưng, nhiều người cầm xấp tiền mới mà không có ǵ để mua”. Khi đó, mới đổi tiền, 500 đồng tiền chế độ cũ đổi một đồng tiền mới. Mệnh giá đồng tiền quá lớn trong khi hàng hóa không c̣n. Bà Út Hiền nói tiếp: “Chúng tôi không c̣n mua gạo bằng đồng tiền nữa”475.

    Bà Ba Thi đề nghị Thành ủy mang hàng hóa về đổi lương thực, thuật ngữ kinh tế khi đó gọi là “hàng hai chiều”. Dầu lửa, thuốc tây, vải đen,… bắt đầu được chở xuống. Bà Ba Thi lập ra các điểm thu mua, nông dân mang lúa tới, đổi lấy những tờ phiếu lănh hàng rồi cầm phiếu này đi nhận dầu, nhận vải, nhận thuốc. Gạo của bà Ba Thi mua về được bán theo giá “đảm bảo kinh doanh”: tính đủ chi phí mua lúa, vận chuyển, xay xát, hao hụt. Từ năm 1979, khoảng một triệu rưỡi dân Thành phố đă được mua mỗi người sáu kư gạo mỗi tháng với giá bảy đồng; năm 1982, chín kư mỗi tháng với giá mười hai đồng, rẻ hơn so với gạo của tư nhân cùng loại.

    Cùng với những “tháo gỡ” trong việc “thu mua lương thực”, cuối năm 1978, đầu năm 1979, ông Vơ Văn Kiệt xuống làm việc ở nhà máy dệt Việt Thắng, một nhà máy có hàng ngàn công nhân được trang bị máy móc hiện đại. Thoạt đầu, ông Kiệt đến đây như một nhà lănh đạo Đảng đến với giai cấp công nhân. Ông muốn chuyến đi của ông đánh tan mối nghi ngờ của một số nhà lănh đạo lúc đó cho rằng lực lượng công nhân ở những nhà máy do giai cấp tư sản để lại như Việt Thắng đă bị chi phối bởi “công đoàn vàng”. Tuy nhiên, sau một tuần làm việc ở nhà máy, ông Vơ Văn Kiệt nhận ra điều mà “giai cấp công nhân” cần không phải là “phẩm chất chính trị” mà là công ăn việc làm. Vật tư, nguyên liệu do nhà nước cung cấp theo kế hoạch chỉ đủ cho nhà máy sản xuất được vài ba tháng. Trong khi đó, nhà máy lại không được quyền tự t́m kiếm vật tư nguyên liệu. Phần lớn công nhân phải nghỉ hưởng 70% lương.

    Ngoài Việt Thắng, ông Vơ Văn Kiệt đă cùng với các ủy viên Thường vụ khác đến làm việc tại mười lăm nhà máy. Từ thực tế đó, Ban Thường vụ Thành ủy đă chủ trương “mở rộng quyền chủ động cho các cơ sở sản xuất”, cho xí nghiệp thực hiện “ba phần kế hoạch”. Theo đó, ngoài kế hoạch nhà nước giao, xí nghiệp c̣n được thực hiện kế hoạch 2: khai thác nguồn nguyên liệu từ tận dụng phế liệu, phế thải; kế hoạch 3: liên kết với các xí nghiệp và các địa phương để sản xuất. Thành ủy c̣n cho phép các xí nghiệp áp dụng chế độ “ba lợi ích”, theo đó, ngoài “lợi ích của nhà nước”, “lợi ích tập thể”, xí nghiệp c̣n có phần để quan tâm đến “lợi ích của người lao động”.

    Đồng thời, ông Kiệt cho phép Ủy ban Nhân dân Thành phố mở các kho chứa tài sản thu được từ các chiến dịch cải tạo tư sản ra sử dụng. Thành ủy cũng kiến nghị với trung ương cho phép Thành phố được sử dụng nguồn phế liệu trong các kho do quân đội và các ngành trung ương quản lư. Đặc biệt, Thành phố kiến nghị để cho các xí nghiệp xuất nhập khẩu được trực tiếp giao dịch với khách hàng sau khi đă hoàn thành chỉ tiêu xuất đại ngạch cho trung ương theo kế hoạch.



    Nghị quyết Trung ương 6



    Việc dự trữ lương thực của một Thành phố như Sài G̣n có lúc chỉ c̣n đủ ăn vài ngày đă được ông Vơ Văn Kiệt đưa vào chương tŕnh nghị sự của Bộ Chính trị. Cuối năm 1978, không chỉ có Thành phố, hầu như địa phương nào cũng ở trong t́nh trạng cực kỳ khó khăn. Đầu năm 1979, Ban Bí thư đă tiến hành điều tra thực tế miền Nam. Báo cáo của đoàn kiểm tra là cơ sở để ngày 18-5-1979, Bộ Chính trị ra Thông báo số 10, điều chỉnh một số chỉ tiêu và biện pháp kinh tế hai năm c̣n lại của “Kế hoạch 5 năm”. Thông báo của Bộ Chính trị thừa nhận: “Một số biện pháp tưởng là đúng đắn trước đây tỏ ra không hiệu quả, ngược lại những ư kiến bị quy kết là sai lầm nay cần được lắng nghe và xem xét một cách nghiêm túc”. Thông báo số 10 không chỉ ra “những ư kiến bị quy kết sai lầm” bao gồm chuyện thu mua lương thực của Thành phố và chuyện mua đường và đậu phộng giá cao của Long An. Tuy nhiên, nhận xét của Bộ Chính trị đă gỡ bỏ được không ít “án treo”, đặc biệt là những cái “án” lơ lửng trên đầu lănh đạo Long An.
    Năm 1977, tỉnh Long An cũng đă mua đường và đậu phộng của nông dân theo giá thị trường rồi bán giá cao tại các cửa hàng thương nghiệp. Phần nghĩa vụ, Long An thay v́ nộp theo “giá chỉ đạo” lại đ̣i Trung ương phải trả theo giá đă thu mua. Trung ương không chịu. Tỉnh đem bán cho Công ty Xuất Nhập khẩu Thành phố Hồ Chí Minh rồi mua hàng công nghiệp về bán lại. Bằng cách đó, Long An không chỉ thu hồi được nguồn tiền bỏ ra thu mua mà c̣n tích lũy được khá nhiều cho ngân sách. Tuy nhiên, cách làm “trái nguyên tắc” này đă được Bộ Nội thương báo lên chính phủ. Phó Thủ tướng Phạm Hùng đă ra lệnh cho Long An dừng lại.

    Tháng 8-1979, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần 6. Không c̣n sự lạc quan, say sưa của ba năm trước đây, Trung ương thừa nhận: “Lẽ ra thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước cùng những thắng lợi mấy năm qua phải tạo nên một sự phấn khởi to lớn và một sức vươn lên mănh liệt của nhân dân lao động. Nhưng sự phấn khởi và sức vươn lên đó đă bị hạn chế và gần đây phát sinh tâm lư bi quan, xao xuyến, thiếu tin tưởng trong một bộ phận dân cư”.

    Theo chương tŕnh toàn khóa, Hội nghị Trung ương 6 dự định sẽ nghe Chủ nhiệm Ủy Ban Kế hoạch Nguyễn Lam báo cáo về chương tŕnh sản xuất hàng tiêu dùng. Nhưng “tháng 7-1979, khi Bộ Chính trị họp chuẩn bị cho hội nghị trung ương, ông Vơ Văn Kiệt đă đề nghị Bộ Chính trị dành thời gian để nghe t́nh h́nh kinh tế-xă hội đang khó khăn ở mức đáng báo động trong cả nước. Bộ Chính trị đồng ư, và chỉ trong một thời gian ngắn, Văn pḥng Trung ương cùng với Viện Kinh tế Trung ương đă khẩn trương chuẩn bị một văn kiện đưa ra các giải pháp nhằm ‘giải quyết những vấn đề cấp bách’ của đất nước”476.

    Hội nghị Trung ương 6, tuy vẫn cho rằng có nguyên nhân “kẻ địch lợi dụng t́nh h́nh để chống phá”, nhưng đă nhận ra nguyên nhân đất nước khó khăn là v́ ”những khuyết điểm chủ quan”477 và chủ trương xóa bỏ ngay những chính sách chế độ bất hợp lư, gây trở ngại cho sản xuất, khuyến khích việc phát triển sản xuất, mở rộng “quyền chủ động hợp lư” của các ngành, các địa phương và cơ sở nhằm làm cho sản xuất bung ra để có nhiều hàng hóa cho xă hội. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 6 cho phép “các địa phương được mua bán với nhau và được quyền quyết định giá”.
    Ông Vơ Văn Kiệt coi Nghị quyết Trung ương 6 là một thắng lợi. Sau hội nghị này, Thành ủy càng đẩy mạnh xé rào trên nhiều mặt. Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ II, tổ chức tháng 10-1980, được xác định là “Đại hội chấp hành sự chuyển hướng chính sách kinh tế của Ban Chấp hành Trung ương”.

    Ngày 14-10-1980, trên diễn đàn đại hội có ông Lê Duẩn tham dự, Vơ Văn Kiệt đă phê phán “những khuyết điểm của công tác cải tạo công thương nghiệp tại miền Nam” đồng thời chỉ ra “những sai lầm trong chính sách” mà theo ông “đang dẫn đến những nguy cơ triệt tiêu động lực của chế độ làm chủ tập thể”. Sau phát biểu này của ông Vơ Văn Kiệt, các ư kiến thảo luận trong đại hội đă phân tích thêm: do không nắm được đặc điểm t́nh h́nh miền Nam, nhất là Sài G̣n, cải tạo ở miền Nam đă được áp dụng như đă làm ở miền Bắc nên dẫn đến nhiều sai lầm và đă phải trả giá đắt478.



    Bù giá vào lương



    T́nh trạng kiệt quệ ngân sách và thiếu hụt lương thực nghiêm trọng cuối năm 1979 đă buộc trung ương phải tham chiếu thực tiễn “xé rào” thành công của Thành phố Hồ Chí Minh. Đầu năm 1980, Hội đồng Chính phủ, “dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương 6”, đă ra Quyết định 09-CP, áp dụng chế độ cung ứng lương thực giống như Thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, những người nằm trong biên chế Nhà nước tiếp tục được mua giá cung cấp. Những cư dân đô thị khác được mua theo giá tính đủ chi phí.

    Tại Long An, ngày 22-9-1980, Ủy ban Tỉnh ra quyết định: “Giá thu mua heo con loại một là 6,5-7,5 đồng/kg thay v́ 5 đồng như trước nay”. Kết quả, theo ông Bùi Văn Giao, khi ấy là trưởng Ty Thương nghiệp: “Trước đây mậu dịch quốc doanh xuống tận nhà dân truy mua, bắt trói sưng chân, heo bỏ ăn, xuống kư. Áp dụng giá mới, nông dân tự bắt heo bỏ xe chở lên giao cho nhà nước, con heo sống khỏe, thịt heo ngon, các công ty trung ương cũng hoan nghênh Long An”. Người đưa ra các sáng kiến cải cách ở Long An là ông Bùi Văn Giao.

    Năm 1954, ông Bùi Văn Giao tập kết ra Bắc. Sau khi tốt nghiệp Đại học Thương nghiệp Hà Nội, ông về làm ở Bộ Nội thương, nơi “đẻ” ra tem phiếu. Ông Giao từng làm trưởng Pḥng Kế hoạch, từng chứng kiến xe đạp Favorite, vải viện trợ của Thụy Điển bán giá rẻ như cho, chủ yếu là vợ con cán bộ mua rồi mang ra chợ trời bán.

    Khi về Long An làm trưởng Ty Thương nghiệp, ông Giao kể: “Hết ban ngành, đoàn thể trong tỉnh, đến các đoàn khách đến thăm đều xin mua đồ cung cấp v́ giá nhà nước bán rẻ gấp năm, gấp sáu lần thị trường; tôi phải kư duyệt hàng ngàn đơn do Tỉnh ủy, Ủy ban và các ngành chuyển sang”.
    Thay v́ chỉ mua đường, mua thịt theo giá cao, đầu năm 1980, ông Bùi Văn Giao nghiên cứu một bước đi táo bạo: bù giá vào lương. Giá cả năm 1979 đă tăng gấp ba lần so với năm 1976. Chênh lệch giá tem phiếu và giá thị trường cũng rất cao, ví dụ giá cung cấp thịt heo là ba đồng trong khi giá thị trường là 70 đồng/kg. Ông Giao đă lấy chín mặt hàng cung cấp, tính chênh lệch giá giữa tem phiếu và thị trường tự do rồi, thay v́ cấp tem phiếu và tổ chức cửa hàng quốc doanh, ông đề nghị trả bằng tiền khoản chênh lệch ấy để viên chức nhà nước tự ra chợ mà mua.

    Bí thư Tỉnh ủy Long An lúc bấy giờ là ông Nguyễn Văn Chính, thường được gọi là ông Chín Cần, ủng hộ ông Giao thực hiện đề án táo bạo này. Ngày 26-6-1980, Thường vụ Tỉnh ủy họp. Sau khi nghe Ty Thương Nghiệp tŕnh bày đề án, theo ông Bùi Văn Giao, một đại tá là ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy đập bàn cái rầm: “Ai đề xuất cái này, lập trường đâu?”. Một số ủy viên từ miền Bắc và từ các trường đại học ở Đông Âu về cũng phản đối. Hội nghị kéo dài sang ngày hôm sau th́ ra được Quyết định số 03-ĐB về “Biện pháp thực hiện chủ trương mua bán hàng theo giá thỏa thuận”.

    Sau khi có nghị quyết, ông Chín Cần lên Thành phố gặp ông Nguyễn Văn Linh, khi đó là ủy viên Bộ Chính trị được phân công theo dơi việc thực hiện nghị quyết ở các tỉnh phía Nam. Ông Linh nói: “Vấn đề liên quan đến tiền lương phải báo cáo anh Lê Đức Thọ”. Trưởng Ban Tổ chức Lê Đức Thọ nghe xong “cho làm thử”. Ông Linh, sau khi nghe báo cáo là đă có ư kiến “anh Sáu Thọ” và cho trợ lư xuống Long An kiểm tra, đă đồng ư cho Long An làm thử.

    Tuy nhiên, từ đó cho tới tháng 9-1980, Ủy ban Tỉnh không ra được văn bản nào để triển khai Quyết định 03-ĐB. Theo ông Bùi Văn Giao: “Ông Chín Cần bảo tôi, nếu anh không qua Ủy ban th́ không làm được đâu”. Tháng 9-1980, ông Giao được đưa qua Ủy ban, làm phó chủ tịch phụ trách phân phối lưu thông. Việc đầu tiên của ông là thảo ra Chỉ thị 31 để thi hành đề án.

    Mặt hàng đầu tiên được triển khai bán ra là vải. Trong ngày đầu tiên, theo quán tính, người dân đổ xô, tranh nhau mua. Ông Bùi Văn Giao kể: “Ở huyện Đức Huệ, bí thư Huyện ủy cấm xe của thương nghiệp chở hàng về bán giá cao. Khi thấy dân mua nhiều quá, những người lúc trước không tán thành chủ trương bù giá đề nghị cho ngưng lại. Tôi xin ba ngày. Hôm sau, tôi cho xe chở hàng tới nhiều nơi trong tỉnh bán lưu động. Người dân chợt nhận ra hàng bán với giá như chợ bán, xếp hàng mua làm ǵ”. Khi người dân không c̣n mua hàng tích trữ nữa, thị trường ổn định trở lại, tỉnh bắt đầu cho giảm giá từ từ. Theo ông Giao: “Chúng tôi không những tiết kiệm được rất nhiều tiền in tem phiếu mà Pḥng Tem phiếu có chín người từ đó bắt đầu hết việc làm”.

    Cũng trong năm 1980, tại An Giang, những hoạt động trao đổi lương thực của bà Ba Thi trong vùng đă như một gợi ư để An Giang thực hiện phương thức “mua cao bán cao” với nông dân. Từ đầu năm 1980, An Giang quy định giá mua phần lúa “vượt mức nghĩa vụ” của nông dân lên sát giá thị trường, đồng thời cũng cho bán phân bón, vật tư theo sát giá thị trường. Đặc biệt, từ năm 1980, An Giang bắt đầu xóa bỏ các trạm kiểm soát hàng hóa. Đến năm 1982 th́ tỉnh không những “cấm gây phiền hà cho việc đi lại của nhân dân, phân biệt người buôn bán với nhân dân đi lại có mang theo ít hàng hóa để dùng hoặc để làm quà” mà quyết định ngày 29- 6-1982 của Ủy ban Tỉnh c̣n “cho phép nhân dân đem lúa gạo ra khỏi tỉnh để bán. Mỗi người mỗi lần được chở không quá hai tấn gạo hoặc ba tấn lúa”.



    Cắm cờ xé rào



    Sau Hội nghị Trung ương 6, trở lại Sài G̣n, nơi bức tường rào cơ chế ghi dấu vết “xé” đầu tiên, ông Vơ Văn Kiệt tiếp tục sử dụng ảnh hưởng của một ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị thúc đẩy sự bung ra ở cả những xí nghiệp thuộc quyền quản lư của trung ương nhưng đóng trên địa bàn Thành phố.
    Ông Kiệt xuống nằm nhiều ngày trong các nhà máy như Bột giặt Viso, Dệt Việt Thắng, Dệt Thành Công, Thuốc lá Vĩnh Hội,… tận mắt nh́n thấy máy móc bị vất lăn lóc, trực tiếp lắng nghe từng kỹ sư, từng người thợ bậc cao nói về cách mà những người chủ cũ của họ đă điều hành những nhà máy này, lắng nghe những ràng buộc mà cơ chế đang trói tay, trói chân các doanh nghiệp. Theo ông Phạm Văn Hùng, thư kư riêng của ông Kiệt: “Những khi ông ở lại nhà máy, chúng tôi phải mang cơm cho ông v́ ông không cho nhà máy tiếp đón”.

    Xuống Viso, ông Vơ Văn Kiệt nói: “Không có cuộc chiến tranh nào kết thúc mà bên chiến thắng tiếp quản được một thành phố nguyên vẹn hoàn toàn như Sài G̣n.

    Những cái khó, ách tắc c̣n lại chỉ là tự ḿnh gây ra, tự ḿnh trói ḿnh. Chúng ta phải tháo gỡ, tháo không được th́ phải cḥi đạp”. Giám đốc Viso, ông Nguyễn Quang Lộc, nói với ông Kiệt: “Ta phải học cách làm của tư bản thôi. Nếu muốn học tư bản th́ không ở đâu tốt hơn Sài G̣n”. Ông Nguyễn Văn Kích, khi ấy là trưởng pḥng Tổng hợp, Ban Thi đua Thành phố, tháp tùng ông Kiệt xuống các “điển h́nh”, nói: “Đến Viso, ông Kiệt trở nên cởi mở hơn, v́ ở những nơi mà ông đi qua, không ai tŕnh bày vấn đề một cách có hệ thống và chỉ ra được những ách tắc và lối ra rơ ràng như ông Lộc”.
    Được ông Vơ Văn Kiệt khích lệ, thay v́ đưa công nhân đi cấy lúa, trồng khoai, ông Lộc đă dùng “sức mạnh công nghiệp” làm ra sản phẩm đem đổi “thực phẩm, lương thực” về cho nhà máy. Ông Nguyễn Quang Lộc được coi là người đầu tiên nghĩ ra “tam giác” xuất khẩu: dùng sản phẩm công nghiệp đổi nông sản, dùng nông sản đổi ngoại tệ, dùng ngoại tệ mua nguyên liệu cho công nghiệp. Ông Lộc kể: “Tổng Cục không c̣n hóa chất cấp cho Viso, tôi đành xuống Minh Hải mua dầu dừa về nấu thành xà bông. Dùng xà bông đó đổi gạo, đổi heo. Tỉnh Minh Hải rất phấn khởi, họ cấp giấy, rồi lấy cờ Văn Pḥng Tỉnh ủy cắm trên xe chở heo, chở gạo để chúng tôi có thể chạy phăng phăng về Thành phố”.

    Cũng như Viso, Dệt Thành Công không có quyền đi mua sợi về dệt vải, đồng thời không có quyền tự ư đem vải ḿnh dệt đem bán ra thị trường. Nhà nước, thông qua Liên Hiệp Dệt, đầu năm giao kế hoạch rồi giao sợi, nếu sợi ít th́ cuối năm rút bớt kế hoạch xuống. Số sợi theo kế hoạch đó dệt được bao nhiêu lại giao cho Liên Hiệp để Liên Hiệp giao lại cho Thương nghiệp. Thương nghiệp dùng vải đó phân phối theo chế độ, trong đó có phần dùng làm hàng trao đổi cho nông dân trên cơ sở nhà nước thu lại nông sản với giá “mua như cướp”.

    Để thoát ra khỏi cơ chế này, các nhà máy Viso, Dệt Thành Công và Thuốc lá Vĩnh Hội, nơi ông Lê Đ́nh Thụy làm giám đốc, đưa ra sáng kiến tự vay ngoại tệ mua nguyên liệu sản xuất. Sản phẩm làm ra, thay v́ giao cho Liên hiệp để bán cho Thương nghiệp, nhà máy tự bán trực tiếp cho các công ty xuất nhập khẩu để thu ngoại tệ. Vấn đề là khi đó chỉ có Vietcombank mới có ngoại tệ, và ngân hàng này chỉ xuất ngoại tệ theo lệnh của chính quyền chứ không có chuyện cho doanh nghiệp nào vay USD cả.

    Giám đốc Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Nhật Hồng, và Giám đốc Sở Ngoại Thương, ông Mười Phi, không phải là những cán bộ quan liêu. Hai ông đă từng quan hệ với giới ngân hàng ở Hong Kong trong thời gian làm kinh tài chuyển tiền mua vũ khí vào Nam. Hiểu cách làm của các giám đốc năng động, hai ông đă cùng với Bí thư Thành ủy Vơ Văn Kiệt xuống tận nhà máy để nghe giải tŕnh, và khi ông Vơ Văn Kiệt “bật đèn xanh”, Vietcombank đă cấp ngoại tệ cho các nhà máy mua nguyên liệu. Sau đó, đích thân ông Vơ Văn Kiệt xuống tận các nhà máy “phát động chiến dịch”. Báo Sài G̣n Giải Phóng cử người đi theo Bí thư Thành ủy và cho đăng các bài xă luận gọi những hành động “xé rào” này là những “trận đánh táo bạo”479. Cứ mỗi lần ông Vơ Văn Kiệt xuống các nhà máy “cắm cờ” là lại thêm một đoạn “tường rào cơ chế” được “xé”.

    Ông Vơ Văn Kiệt thừa nhận là lúc ấy ông chỉ nhận ra thực tiễn có điều ǵ đó thậm sai nhưng không đủ lư luận để t́m ra nguyên nhân. Ông Kiệt chỉ biết số phận chính trị của những giám đốc dám nghe ông “xé rào” c̣n có một “tṛng” nằm trong tay các ban ngành trung ương. Giống như hồi 1973, cứ sau khi đẩy lui được một “thành tŕ”, ông lại cho “cắm cờ’ thi đua, khen ngợi. Sự xác nhận của một ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị như ông ít nhiều sẽ làm cho những “đặc phái viên” quan liêu được cử từ Hà Nội vào lúng túng mà chùn tay. Họ không thể “xử trảm” một cách làm ăn mà cấp ủy địa phương đă đóng dấu “điển h́nh tiên tiến”.

    Sau một thời gian làm việc chung với “giai cấp tư sản” miền Nam, ông Nguyễn Quang Lộc cho rằng không phải những người được đưa từ miền Bắc vào dốt hơn, kém khả năng hơn chủ cũ của các nhà máy. Sở dĩ chỉ một thời gian ngắn sau khi tiếp quản, nhà máy đi đến chỗ suy sụp, công nhân đói là v́ họ tuân thủ các nguyên tắc mà họ mang từ miền Bắc vào. Ông Lộc nói: “Những người xé rào như chúng tôi không phải giỏi hơn, đơn giản chỉ v́ chúng tôi không phản lại thực tế”. Ở Viso, ông Nguyễn Quang Lộc giữ nguyên bộ máy cũ, chỉ sử dụng 2% cán bộ tăng cường từ miền Bắc. Một trong những lư do khiến sáu tháng sau khi ông Lộc nắm Viso, nhà máy khôi phục được mức sản lượng trước ngày “giải phóng” là nhờ ông giữ được 90% thợ kỹ thuật giỏi người Hoa (thời kỳ “nạn kiều” không có ai ở Viso bỏ đi). Nhưng rồi ông Vơ Văn Kiệt sẽ thấm thía ư kiến của Kỹ sư Dương Kích Nhưỡng: “Điều hành một đất nước phải bằng pháp luật chứ không thể bằng nghị quyết và những sáng kiến cá nhân”. Những câu chữ như “bung ra” hay “quyền chủ động hợp lư” không phải là một quy phạm để người thực thi xác định được ranh giới đúng sai; chúng chỉ là những khái niệm mơ hồ, áp dụng tới đâu là tùy thuộc vào ư chí và nhận thức. Hồ sơ tố cáo “xé rào” liên tục được gửi ra Hà Nội. Khi nghe Viso thay v́ chờ Bộ cung cấp phụ tùng lại xoay xở tự t́m lấy ngoài thị trường, ông Đỗ Mười, khi ấy là phó thủ tướng, quát: “Bọn này tiếp tay cho gian thương”. Ở nhà máy dệt Thành Công, từ chỗ không có một đồng dính két, từ khoản vay 120.000 USD đầu tiên trong năm 1980, Thành Công lăi được 82.000 USD; năm 1981, tích lũy ngoại tệ của Dệt Thành Công lên đến 1,3 triệu USD. Nhưng như thế là sai phạm. Ông Đỗ Mười ra lệnh thanh tra.

    Bí thư nhà máy, bà Nguyễn Thị Đồng, nhớ lại: “Chúng tôi buồn quá, khi ḿnh đang làm giàu được cho nhà nước th́ bị nhà nước đ̣i xử lư”. Theo bà Đồng: “Đầu tiên, một đoàn trên tám mươi cấp tá của công an cả nước vô, nghe tôi tŕnh bày. Ông Kiệt dặn trước: liệu ăn nói thế nào để họ nghe được th́ nói, không th́ thôi. Nghe lời ông Kiệt dặn, khi họ hỏi những câu chọc tức, khiêu khích, tôi nín thinh hoặc kiếm cách nói sang chuyện khác”.

  9. #29
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN II : THỜI LÊ DUẨN
    Chương IX : Xé Rào
    P3




    Với đoàn thanh tra, bà Đồng nói: “Tôi lấy lư luận của Đảng tôi căi lại. Tôi bảo,các anh không giao sợi, lẽ ra tôi để nhà máy dẹp. Tôi tự xoay xở, nhà nước thu tiền mệt nghỉ sao anh bắt tôi?”. Trưởng đoàn thanh tra hỏi: “Tại sao theo quy định, tiền ăn công nhân là 700 đồng, chị dám chi 1.000?”. Bà Đồng bảo: “Ngoài giờ, lẽ ra người ta ở nhà, tôi bồi dưỡng họ chút ít rồi vận động họ làm thay v́ vui chơi với gia đ́nh, họ ăn thêm 300 đồng để làm cho nhà nước chứ có làm cho nhà họ đâu”. Ông Đức nói: “Như vậy là phá rào”. Bà Đồng nói thẳng: “Không phá rào không làm được ǵ hết”.

    Sau khi thanh tra hết sổ sách không những không thấy thâm thủng mà c̣n thuvề nhiều, ông Đức trưởng đoàn thanh tra nói: “Dệt Thành Công ăn nên làm ra như vậy là rất đáng mừng. Nhưng trước khi tôi đi, anh Đỗ Mười dặn: ‘Chú vô Nam, thằng nào phá rào là phải bắt. Chú không bắt được thằng nào, tôi bắt chú’. Chắc chuyến này về tôi để ông Đỗ Mười bắt”. Khi trở ra Hà Nội, Thanh tra Đức đă không bị bắt. Tại thời điểm ấy, không chỉ có Thành phố Hồ Chí Minh xé rào. Ở Côn Đảo, Xí nghiệp Đánh cá Vũng Tàu – Côn Đảo cũng đă thành công khi áp dụng cơ chế ăn chia với từng thuyền, với từng ngư dân như cách mà tư nhân đă làm trước ngày “giải phóng”. Ở miền Bắc, nhà máy Dệt Lụa Nam Định, cũng đă sử dụng công thức “tam giác xuất khẩu” khá thành công để thoát ra khỏi t́nh h́nh bế tắc.

    Thành công của những “kẻ phá bĩnh” lúc ấy chưa làm cho các nhà hoạch định chính sách đánh giá lại niềm tin của ḿnh vào “tính ưu việt” của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định, trung ương bắt đầu công nhận một vài “lỗ thủng” được cơ sở “xé” trên bức tường cơ chế480.



    Khoán chui



    Cùng thời gian ấy, trên một “mặt trận” khác, nông dân đă tạo ra một cuộc “đồng khởi” lần hai, xé toạc bức tường rào hợp tác xă. “Đồng khởi” lần một diễn ra ở Vĩnh Phúc từ năm 1966, với chủ trương về sau được gọi là “Khoán Kim Ngọc”. Tuy nhiên, khoán hộ thời Kim Ngọc đă bị dập tắt sau đó hai năm và bức tường rào cơ chế trong nông nghiệp đă “nhốt” nông dân gần hai thập niên sau đó.

    Hợp tác xă được các nhà lư luận cộng sản coi là “giai đoạn đầu của chủ nghĩa xă hội”, nên ngay từ tháng 4-1959 tại Hội nghị Trung ương 16, vấn đề “hợp tác hóa” bắt đầu được “nghị quyết hóa”. Việc nông dân phải vào hợp tác xă là không bàn căi - chỉ có “những phần tử phản động” mới có thể đứng ngoài.

    Nói là “hợp tác”, nhưng sau khi đưa ruộng đất, trâu ḅ, cày bừa, mương máng vào, nông dân sẽ trở nên trắng tay, đi tát nước hay đi cày đều theo kế hoạch, có phân công, có chỉ đạo điều hành của ban chủ nhiệm. Lao động của họ được tính thành công và điểm; thu nhập của hợp tác xă sau khi nộp thuế, nộp các nghĩa vụ, trừ chi phí quản lư, sẽ tính theo công điểm để chia cho xă viên. Việc “ăn chia” phải dựa trên định mức do Bộ Nông nghiệp và Ban Nông nghiệp Trung ương hướng dẫn.

    Cách tổ chức này khiến cho mỗi người lao động không thấy lợi ích cụ thể của ḿnh, người làm tích cực cũng có số điểm như người chây lười, ỷ lại. Trong khi đó, chủ nhiệm hợp tác xă lên huyện “đánh chén” cũng được tính công, cán bộ hợp tác xă cầm dùi ra gơ kẻng cũng “ăn” hai điểm. T́nh trạng gian dối, “dong công, phóng điểm”, trở nên phổ biến. Từ thập niên 1960, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, ông Kim Ngọc, nhận ra ban quản trị các hợp tác xă “ăn rồi chỉ có ngồi họp và uống rượu, cả tháng không ra đồng ngày nào, thế mà công điểm lại nhiều hơn tất cả những người nai lưng ra làm ở ngoài đồng?”481. Trong khi đó, “nông dân cũng ngồi ở gốc đa để chờ nhau”482. Năm 1966, Bí thư Kim Ngọc chấp nhận thí điểm khoán ruộng tới hộ nông dân, kết quả đạt được rất cao, nhưng chính sách này bị ông Trường Chinh phê phán483. Ông Kim Ngọc “tự kiểm” và bỏ khoán. Ông tiếp tục làm bí thư Tỉnh ủy cho tới khi về hưu, năm 1978, nhưng chén cơm của người nông dân đă bị vơi đi v́ ruộng đất lại phải đưa vào hợp tác484.

    Khoán xuất hiện lần đầu ở Hải Pḥng vào năm 1962 trong vài hợp tác xă ở hai huyện Tiên Lăng, An Lăo. Thấy phương thức làm ăn này hiệu quả, Bí thư Thành ủy Hải Pḥng lúc bấy giờ là ông Huỳnh Hữu Nhân đă đề nghị trung ương cho mở rộng485. Tuy nhiên, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, khi đó là trưởng Ban Công tác Nông Thôn, đă không đồng ư v́ cho rằng “khoán hộ là con dao hai lưỡi”486. Hải Pḥng, năm 1974, cũng là nơi đầu tiên khôi phục khoán, nhưng chưa đầy hai năm sau th́ bị cấm487.

    Năm 1976, cho dù chịu đói kém, cả xă có tới sáu mươi hộ có người đi ăn xin, nông dân Đoàn Xá, Hải Pḥng, đă thà ṃ cua bắt ốc chứ nhất định không xuống làm ở ruộng hợp tác xă. Sau khi có biểu quyết của 90% cán bộ, xă viên, ngày 10-6- 1977, “Ban thường vụ Đảng ủy xă họp phiên bất thường và ra ‘nghị quyết miệng’, cho phép khoán sản phẩm”488. Cả xă nắm chặt tay nhau thề tuyệt đối giữ bí mật để “bảo vệ sự nghiệp và bảo vệ cán bộ”. Năm 1978, ở huyện Ứng Ḥa, Hà Sơn B́nh, để bảo vệ “khoán chui”, chủ nhiệm hợp tác xă Sơn Công đă phải cho gỡ bỏ một số ván trên cây cầu độc đạo dẫn vào xă, sao cho xe cải tiến chở phân, chở lúa của nông dân th́ qua được nhưng xe hơi lănh đạo về th́ không qua được.

    May mắn cho Đoàn Xá, từ Bí thư Huyện ủy Nguyễn Đ́nh Nhiên, Bí thư Thành ủy Bùi Quang Tạo, Chủ tịch Thành phố Đoàn Duy Thành đều đă cùng “đội nón, xắn quần lội xuống thăm đồng, nói chuyện chia sẻ với nông dân”, nên ngày 27-6-1980, Ban Thường vụ Thành ủy Hải Pḥng đă ra Nghị quyết 24, cho “áp dụng khoán trên 100% đất nông nghiệp”489. Toàn bộ nghị quyết này được ông Tạo cho đăng tải trên đài, báo Hải Pḥng. Nhiều địa phương miền Bắc đă khăn gói về đây học tập490.

    Nhưng trong Thành ủy Hải Pḥng, có bốn ủy viên không đồng ư khoán. Hai tỉnh láng giềng là Hải Hưng và Thái B́nh cấm cán bộ nghe theo Hải Pḥng. Một cơ quan lư luận của Trung ương đặt vấn đề: “Nếu cứ khoán như thế th́ đốt hết sách Marx- Lenin đi à”.

    Trước t́nh h́nh đó, Bí thư Thành ủy Bùi Quang Tạo đă trực tiếp báo cáo với Ban Bí thư Trung ương Đảng. Trong Ban Bí thư chỉ có một nửa tán thành. Ban Nông nghiệp Trung ương, đặc biệt là Trưởng Ban Vơ Thúc Đồng, quyết liệt phản đối, coi khoán là “chệch hướng, mất lập trường, mất chủ nghĩa xă hội”. Một số cán bộ của Ban ủng hộ khoán đă bị kỷ luật, Vụ trưởng Nguyễn Thái Nguyên bị khai trừ Đảng. Nhưng Hải Pḥng vẫn không nao núng. Ở nhiều huyện, nạn đói vẫn c̣n nghiêm trọng. Ông Bùi Quang Tạo yêu cầu bí thư các huyện tiếp tục triển khai, đồng thời Thành ủy Hải Pḥng “tổ chức lực lượng tiến công vào từng thành lũy quan điểm lập trường”, từ Tổng Bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch nước Trường Chinh, đến Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

    Một thuận lợi cho Hải Pḥng là có khu nghỉ mát Đồ Sơn, nơi các nhà lănh đạo thường xuyên về nghỉ ngơi hoặc tổ chức hội nghị. Đặc biệt, năm 1962, sau khi từ Trung Quốc trở về, bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ miền Nam của ông Lê Duẩn, đă về công tác tại báo Hải Pḥng cho đến ngày trở lại Khu IX. Mối quan hệ của ông Lê Duẩn với Hải Pḥng, v́ thế, c̣n có cả t́nh riêng. Tổng Bí thư Lê Duẩn đă nghe Chủ tịch Đoàn Duy Thành “báo cáo t́nh h́nh Hải Pḥng” trong suốt ba giờ liền: nông nghiệp được báo cáo là sa sút, “người trồng lúa mà không có gạo ăn, lúa chín ngoài đồng mà không ai muốn gặt, v́ gặt về mà chẳng được hột nào”. Ông Thành, một người cởi mở và ăn nói trôi chảy, lại rất được ông Lê Duẩn và bà Nguyễn Thụy Nga cảm t́nh, đă phân tích “nhiều yếu tố không hợp lư của hợp tác xă”. Ông Thành c̣n đọc cho ông Lê Duẩn nghe câu ca dao: “Mỗi người làm việc bằng hai, để cho cán bộ mua đài, mua xe. Mỗi người làm việc bằng ba, để cho chủ nhiệm xây nhà lát sân”. Theo ông Đoàn Duy Thành th́ ông Duẩn nghe tới đó liền đứng phắt dậy: “Tôi đồng ư! Làm ngay! Làm ngay! Không phải hỏi ai nữa. Cứ làm ngay đi!”.

    Ngày 2-10-1980, tổng bí thư xuống thăm Hải Pḥng, từ Đồ Sơn đến Kiến An, ông thấy quả là trên các thửa ruộng khoán lúa xanh tốt, nông dân phấn khởi, đời sống nhân dân đi lên khác hẳn những nơi c̣n duy tŕ lối làm ăn tập thể. Trợ lư tổng bí thư, ông Đậu Ngọc Xuân tháp tùng, gợi ư với Hải Pḥng: “Nếu anh Ba đă nói cho phép làm th́ phải làm thật nhanh, để đến khi ở trên có ai phản ứng th́ ở dưới đă có kết quả thực hiện rồi, lúc đó có ai muốn ‘bẻ ghi’ cũng không kịp nữa”491.

    Sau khi tổng bí thư ra về, Chủ tịch Đoàn Duy Thành lại đi Hà Nội xin gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông Thành đă không quên “thưa với thủ tướng” rằng Tổng Bí thư Lê Duẩn đă xuống thăm và “rất ủng hộ khoán”. Ngày 12-10-1980, thủ tướng xuống nghỉ mát ở Đồ Sơn, Hải Pḥng lại báo cáo, và giọng của Chủ tịch Đoàn Duy Thành lại lâm ly như khi báo cáo với tổng bí thư. Thủ tướng Phạm Văn Đồng xót xa: “Làm lấy cái để ăn mà cũng c̣n khó như thế đấy”. Trước khi rời Đồ Sơn, thủ tướng dặn: “Các đồng chí phải cố sức thuyết phục anh Năm (tức Chủ tịch nước Trường Chinh) để sớm đi tới thống nhất”492.

    Cuộc tiếp cận với “anh Năm” mất nhiều thời gian hơn, không chỉ v́ ông là người đă tuyên ngôn chống khoán thời Kim Ngọc. Trường Chinh là một con người làm việc có nguyên tắc, và nguyên tắc quan trọng nhất của ông là chủ nghĩa Marx-Lenin.

    Theo ông Phan Diễn, khi đó là trợ lư của Chủ tịch Trường Chinh: “Mùa hè năm 1980, bác Thận (tức Trường Chinh) đang nghỉ ở Đồ Sơn. Anh Bùi Quang Tạo ra thăm bác, nhưng chỉ nói qua loa về chuyện khoán hộ, coi như việc làm tự phát ở một vài nơi. Bác Thận biết ư cũng không hỏi sâu thêm”. Một cán bộ của Văn pḥng Trung ương, ông Hà Nghiệp, khéo léo hé tin với Trường Chinh: “Anh Ba và anh Tô (tức tổng bí thư và thủ tướng) cũng mới xuống xem các cơ sở và tỏ ư đồng t́nh với khoán”. Rồi ông Hà Nghiệp gợi ư với Hải Pḥng: “Thành phố nên mời chủ tịch nước xuống thăm bà con nông dân ở các hợp tác xă có khoán. Tất nhiên phải chọn địa điểm nào thật thuyết phục”493.

    Năm 1981, nhân dịp xuống nghỉ ở Đồ Sơn, Chủ tịch Trường Chinh đồng ư là sẽ “dành nửa tiếng để tiếp lănh đạo Hải Pḥng”. Các nhà lănh đạo Hải Pḥng rất lo nhưng quyết định tốt nhất là cứ nói ra sự thật. Bí Thư huyện ủy Đồ Sơn Nguyễn Đ́nh Nhiên, lại bắt đầu bằng câu chuyện “năm mươi, sáu mươi hộ xă viên của Đoàn Xá” đă từng phải đi ăn xin, do đói mà tệ nạn ăn cắp trong nông thôn phát triển.

    Ông Nhiên thưa với chủ tịch: “Cả gà, cả chó, cả lợn, rồi cả trâu của hợp tác xă người ta cũng giết trộm ngay ngoài đồng để ăn”.

    Thấy “cụ chau mày”, ông Nhiên khá lo nhưng rồi “cụ” bảo tiếp tục, ông nói tiếp: “Thưa Chủ tịch, lên quy mô lớn c̣n có cái tệ nữa là chè chén ghê lắm. Cái ǵ cũng liên hoan. Chỉ xây dựng một cái cống con chừng độ bốn, năm mét mà cũng phải có khai mạc, bế mạc. Chẳng qua là để đánh chén thôi. Ngày tổ chức đặt ṿng cũng đánh chén! Cán bộ đánh chén như thế th́ dân đói là phải”494. Người thư kư nhắc nhở giờ, nhưng Chủ Tịch Trường Chinh vẫn cho tiếp tục. Thay v́ nửa giờ, hôm đó nhà lănh đạo vào hàng kiên định nhất của Đảng này đă nghe nói về “xé rào” hết hơn một giờ rưỡi.
    Trước đó, tháng 8-1980, ông Lê Thanh Nghị, khi ấy làm thường trực Ban Bí thư, tổ chức một cuộc họp, mời ông Lê Duẩn cùng bốn bí thư tỉnh ủy: Trương Kiện, bí thư Nghệ Tĩnh, Hoàng Văn Hiều, bí thư Thanh Hoá, Bùi Quang Tạo, bí thư Hải Pḥng, Ngô Duy Đông, bí thư Hải Hưng, bàn về hợp tác xă.

    Theo ông Trần Đức Nguyên, thư kư của ông Lê Thanh Nghị: Buổi sáng hội nghị nghe Ban Nông nghiệp tŕnh bày một bản đề án mà trước đó ông Nghị đă cho là “không thoát khỏi tư duy cũ”. Đầu giờ chiều, Văn pḥng Trung ương gửi tới những người dự hội nghị bản kiến nghị khoảng ba trang do một chuyên viên, ông Nguyễn Minh Chương, tranh thủ viết trong buổi trưa, nêu hai vấn đề: 1-Tổ chức lại các hợp tác xă quá to theo quy mô hợp lư, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật và tŕnh độ cán bộ. 2- Cho hợp tác xă khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và đến người lao động.

    Hội nghị đă thảo luận sôi nổi, đa số tán thành kiến nghị này. Ông Lê Duẩn nói: “Thêm vấn đề huyện vào đây nữa”. C̣n ông Ngô Duy Đông th́ bác bỏ thẳng thừng: “Nếu có thể dùng dây thép gai rào lại để ngăn việc khoán sản phẩm ở Hải Pḥng không tràn được sang Hải Hưng th́ tốn mấy tôi cũng làm”. Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương Vơ Thúc Đồng không phát biểu ǵ. Nhưng một phó ban của ông Đồng là ông Nguyễn Công Huế nói sau cùng: “Nếu khoán theo kiểu này, th́ ba năm nữa, nước ta phải làm lại cuộc cải cách ruộng đất lần thứ hai!”.

    Ngay sau cuộc họp này, Thông báo 22, đă được ông Lê Thanh Nghị kư vào ngày 14-8-1980, cho phép: “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xă”. Do có khoảng cách với quan điểm của Ban Nông nghiệp Trung ương, theo ông Đinh Văn Niệm: “Thông báo này không được đăng báo, không được phát hành xuống cơ sở; tuy nhiên, nó cứ được truyền tay mà lan ra”.

    Từ ngày 27 đến 29-10-1980, tại Côn Sơn, ông Hoàng Tùng, bí thư Trung ương Đảng kiêm tổng biên tập báo Nhân Dân, đă lấy uy báo Đảng tổ chức một cuộc hội thảo với sự tham gia của gần 100 đại biểu, gồm lănh đạo các tỉnh, những người chủ chốt trong ngành nông nghiệp, các nhà nghiên cứu, đại diện của các viện khoa học và đại điện của nhiều tờ báo lớn. Theo ông Hoàng Tùng, tại hội thảo này, Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương Vơ Thúc Đồng tiếp tục chống lại chủ trương khoán. Phát biểu trước Hội nghị Côn Sơn, ông Đồng tuyên bố: “Học tập Đoàn Xá tức là học tập những kẻ ăn mày, lười biếng”. Nhưng ư kiến của ông Đồng đă khá lạc lơng, v́ ông Hoàng Tùng đă bố trí để cho tiếng nói ủng hộ khoán trở nên áp đảo trong Hội nghị.

    Tiếp theo đó, ông Vơ Chí Công chủ tŕ một hội nghị về khoán ngay tại Đồ Sơn. Theo ông Đinh Văn Niệm th́ ông Ngô Duy Đông đă không cho Hải Hưng sang, nhiều tỉnh đến Hội nghị Đồ Sơn phải đi chui. Ông Vơ Chí Công là người mà trước khi khoán được đưa ra công khai bàn đă từng phê phán phương thức khoán việc quan liêu. Ông nói: “Khoán việc có phải là cái bàn thờ đâu mà ta không dám đụng đến”. Ông cũng là người đă từng khuyến khích ông Hoàng Quy, người kế nhiệm ông Kim Ngọc làm bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú, tổ chức thí điểm mô h́nh khoán ở huyện Vĩnh Tường495. Theo ông Đinh Văn Niệm, “anh Năm” nói với anh Hoàng Quy: “Biểu cứ làm đi, thành công th́ cho phát triển ra toàn tỉnh. Các đồng chí đừng sợ chi hết. Nếu khoán có làm cho trời sập th́ tôi cũng xin chịu trách nhiệm”. Sau đó, ông Vơ Chí Công xuống Hải Pḥng thăm gặp Bí thư Đồ Sơn Nguyễn Đ́nh Nhiên và Bí thư Thành ủy Bùi Văn Tạo. Khi trở về, ông báo cáo t́nh h́nh lên Ban Bí thư.

    Tại Hội nghị Đồ Sơn, Vơ Chí Công đă nói “tay vo” trong ṿng ba mươi phút. Ông nhấn mạnh: “Ta áp đặt cách làm dẫn tới các hợp tác xă thiếu ăn, có nơi đói trầm trọng. Dân đói quá phải t́m cách có được cơm no áo ấm th́ ta lại cấm để dân phải “chui”, bắt dân trở lại với khoán việc, với cái đă làm dân đói. Chiến tranh cũng như ḥa b́nh, lănh đạo mà quan liêu, xa dân, không lắng nghe dân, quen từ trên áp đặt chủ trương th́ chỉ làm cho dân đau khổ”496. Bài phát biểu của ông Công được Đài Hải Pḥng ghi âm, phát thanh, sau đó được các địa phương xin sang băng đưa về địa phương ḿnh phát lại. Ở Hội nghị Đồ Sơn, ông Vơ Chí Công được mô tả như một vị tướng phát lệnh cho nông dân “đồng khởi”.

    Hơn một tháng sau, tại Hội nghị Trung ương 9, ngày 10-12-1980, Tổng Bí thư Lê Duẩn thay mặt Bộ Chính trị kết luận: “Việc làm thử cách khoán mới trong hợp tác xă nông nghiệp của miền Bắc… có tác dụng tốt…, phong trào lao động sản xuất bắt đầu có khí thế. T́nh trạng tŕ trệ trong sản xuất bắt đầu chuyển biến theo hướng tốt”497. Trong khi đó, theo ông Trần Đức Nguyên, Văn Pḥng Trung ương thấy rằng, v́ khoán chỉ mới được nêu trong Thông báo 22 – một văn bản không có tính bắt buộc – nên có nhiều địa phương vẫn không thi hành. Ông Vũ Quang498 đă thúc đẩy để khoán được xác định trong một văn bản có tính ràng buộc hơn.

    Sau Hội nghị Trung ương 9, Ban Bí thư đă ra “Chỉ thị 100” về khoán. Tuy nhiên, trong Đảng lúc ấy nhiều người c̣n băn khoăn. Chủ tịch Trường Chinh tuy trong ḷng đă ủng hộ nhưng vẫn c̣n lo “mất chủ nghĩa xă hội ở nông thôn”. Trưởng Ban Tổ chức Lê Đức Thọ th́ chấp nhận khoán v́ cho rằng đây chỉ là “một bước lùi để tiến”. Chỉ thị 100 v́ thế vẫn phải né tránh từ “khoán hộ” mà Kim Ngọc đă dùng bằng khái niệm “khoán đến nhóm lao động và lao động”.

    Theo ông Đinh Văn Niệm: “Khi được Ban Bí thư giao soạn thảo Chỉ thị 100, anh Năm đ̣i chỉ ‘khoán hộ’ hoặc ‘người lao động’ thôi. Nhưng ông Nghị không đồng ư, hai ông rất căng với nhau. Về sau, do không thể kéo dài thời gian ban hành Chỉ thị 100, anh Năm thỏa hiệp, để ngày 13-1-1981, ông Lê Thanh Nghị kư cho ‘mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động’. Tuy nhiên, anh Năm bảo lưu ư kiến là không có nhóm”.
    Mặc dù không phản đối Chỉ thị 100 nhưng Trường Chinh vẫn tỏ ra rất thận trọng. Đầu năm 1981, ông xuống Hải Hưng. Theo ông Nguyễn Thái Nguyên, người được Ban Nông nghiệp Trung ương cử tháp tùng ông Trường Chinh: Bí thư Hải Hưng Ngô Duy Đông là một người chống khoán, ông cố t́nh đưa Trường Chinh tới những mảnh ruộng bị chia nhỏ cho xă viên bằng những cành phi lau cắm làm ranh giới và nói: “Xă hội chủ nghĩa thế này th́ c̣n manh mún hơn xưa”. Ông Trường Chinh lo lắng lắm. Khi về, ông nói với thư kư Phan Diễn và ông Nguyễn Thái Nguyên: “Lần tới, bác cháu ta lên Vĩnh Phú xem Hoàng Quy khoán thế nào”.

    “Đi Vĩnh Phú th́ chết”, Thái Nguyên bàn với Phan Diễn là nên vận động phu nhân Trường Chinh để thay v́ đi Vĩnh Phú ông đến Hà Nam Ninh. Khi ấy đă giáp tết, ông Trường Chinh đồng ư về Hà Nam Ninh, nhân thể thăm quê. Đến huyện Xuân Thủy, tỉnh bố trí để ông ở nhà khách, nhưng Trường Chinh đă về ngủ đêm ở xă Xuân Hồng.

    Đêm ấy, theo ông Nguyễn Thái Nguyên, người dân kéo đến rất đông, ai cũng xưng là cháu Trường Chinh nên bảo vệ không thể nào ngăn cản. Mấy người bà con của Trường Chinh “vô tư” khoe: “Bác ạ, nhờ giải tán hợp tác xă, khoán ruộng mà chúng cháu không c̣n đói nữa”. Thái Nguyên nghe sợ quá nói với Phan Diễn: “Gay rồi”. Phan Diễn cũng sợ, nhưng không ngờ, nhờ những lời nói thật của những người cậy thế cháu chắt ấy mà sáng hôm sau, thay v́ trở lại Xuân Thủy, ông Trường Chinh triệu tập một cuộc nói chuyện ở xă Xuân Hồng. Tại đây, lần đầu tiên ông nhắc đến Chỉ thị 100 và công khai ủng hộ khoán.

    Năm 1982, khi trở thành phó chủ tịch trường trực Hội Đồng Bộ trưởng, ông Tố Hữu xuống thăm và tặng Hải Pḥng mấy câu thơ: “Bốn cống ba cầu, năm cửa ô / Đào sông lấn biển dựng cơ đồ”. Người dân Hải Pḥng lập tức họa lại: “Có cống có cầu lại có ô / Phi thương bất phú dựng cơ đồ”.

    Ông Kiệt xé rào, ông Linh lănh đạn



    Việc “xé rào” mà ông Vơ Văn Kiệt cho làm ở Thành phố Hồ Chí Minh quả là có gây tiếng vang, nhưng đồng thời cũng bị một số người quy kết là “đi chệch mục tiêu xă hội chủ nghĩa”. Theo ông Vơ Văn Kiệt, điều đó khiến ông Lê Đức Thọ lo lắng.

    Ở Đại hội lần thứ IV, năm 1976, ông Vơ Văn Kiệt được đưa vào Bộ Chính trị với vai tṛ ủy viên dự khuyết cùng với hai nhân vật khác là Tố Hữu và Đỗ Mười. Cả ba được chuẩn bị để trở thành lực lượng kế cận trong thập niên tiếp theo. Ông Vơ Văn Kiệt kể: “Anh Sáu Thọ muốn đưa ngay tôi ra Trung ương. Anh Ba Lê Duẩn nói cứ để Kiệt làm ở Thành phố, làm được ở Thành phố rồi th́ giữ cương vị ǵ cũng được. Nhưng anh Sáu Thọ nói cũng phải tập và cũng phải cho va chạm. Về sau, tôi biết thêm là anh Sáu Thọ sợ tôi sa lầy bởi vụ xé rào”499.

    Tháng 3-1982, sau Đại hội Đảng lần thứ V, cả ba ông Vơ Văn Kiệt, Tố Hữu, Đỗ Mười đều trở thành ủy viên chính thức Bộ Chính trị, cùng với hai ủy viên mới là Tướng Lê Đức Anh, tư lệnh Quân T́nh nguyện Việt Nam tại Campuchia, và Nguyễn Đức Tâm, trưởng Ban Tổ chức. Hai nhân vật bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị trong thời gian này là ông Nguyễn Văn Linh và Tướng Giáp. Sau đại hội, ông Kiệt ra Hà Nội giữ chức phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, ông Linh được điều trở lại Thành phố làm bí thư.

    Đúng như Lê Đức Thọ dự đoán, ngay trong Đại hội V, thực tiễn xé rào ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Nam chỉ nhận được rất ít hoan nghênh, trong khi lại bị rất nhiều nơi phê phán. Ông Phạm Văn Hùng, thư kư của đoàn đại biểu Thành phố tại Đại hội V, kể: “Tôi đi dự các phiên họp, nghe thư kư các đoàn phản ánh, thấy các đoàn tuy có đánh giá mặt tích cực của “bung ra”, nhưng những tín hiệu này không những không được nâng niu, mà mặt trái của nó đă bị phê phán vô cùng gay gắt”. Đại hội V v́ thế lúc đầu định bỏ chế độ hai giá trong “lưu thông phân phối”, cuối cùng vẫn phải duy tŕ. Nghị quyết đại hội tuy có ‘chống tập trung quan liêu bao cấp” nhưng cũng đă nhấn mạnh chống “tùy tiện, vô tổ chức vô kỷ luật” hơn. Theo ông Phạm văn Hùng: “Cuộc đấu tranh trong Đảng là vô cùng phức tạp”.

    Nửa năm sau, ngày 10-8-1982, Bộ Chính trị vào làm việc với ban lănh đạo mới của Thành phố Hồ Chí Minh. Ngay trên máy bay chuyên cơ, theo nhà báo Hữu Thọ, Tố Hữu nói: “Chưa tới Tân Sân Nhất đă ngửi thấy mùi Nam Tư”500. Tại phiên họp ở “Hội trường 10” cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh của Văn pḥng Trung ương (T78), kéo dài đến hết ngày 19-8-1982, chính các nhà lănh đạo từng ủng hộ “xé rào” trong nông nghiệp ở Đồ Sơn đă phê phán gay gắt t́nh trạng bung ra trong Thành phố. Nghị quyết của Bộ Chính trị tại đợt làm việc này, được gọi là “Nghị quyết 01”, đánh giá: “Những nhận định về cách mạng xă hội chủ nghĩa, về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xă hội chưa thật rơ và có phần buông lơi chuyên chính vô sản trên mặt trận phân phối lưu thông, mặt trận nóng bỏng nhất trong cuộc đấu tranh giữa ta với tư sản thương nghiệp và các thế lực chống đối khác”.

    Tổng Bí thư Lê Duẩn và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đă chủ tŕ cuộc “làm việc” này, và ông Nguyễn Văn Linh, vừa mới về làm bí thư, là người “chịu trận”. Nhà báo Hữu Thọ, người có mặt ở Hội trường 10 trong phiên họp này, nhớ lại: “Ông Lê Duẩn nói: bí thư nên từ chức, chủ tịch cũng không nên làm nữa!”. Theo ông Trần Đức Nguyên, chuyên viên có mặt trong phiên họp, bị phê b́nh quá căng, ông Nguyễn Văn Linh nói: “Tôi về th́ t́nh h́nh đă như thế này rồi”.

    Ông Nguyễn Thành Thơ, người vừa bị Lê Đức Thọ loại ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Khóa V, là một trong rất ít người khi ấy đến chia sẻ với ông Nguyễn Văn Linh. Thấy ông Mười Thơ và ông Năm Vận tới thăm, “anh Nguyễn Văn Linh rất mừng”. Hôm ấy, ông Nguyễn Văn Linh đă thuật lại cho ông Mười Thơ và ông Năm Vận nghe về cuộc làm việc tại Sài G̣n của Bộ Chính trị. Ông Linh nói: “Trước một số t́nh h́nh, anh Đồng không ngồi, đi giày lọc cọc quanh bàn họp nói: ‘Phá hoại, phá hoại, từ chức, từ chức’. Tôi giận quá muốn nói: ‘Làm cho nền kinh tế đất nước suy sụp thế này lẽ ra tổng bí thư và thủ tướng phải từ chức’. Nhưng vừa mới nhóng lên, thấy thành phần hội nghị có bộ trưởng, thứ trưởng rất phức tạp, đành ngồi dựa ghế lặng im, hút thuốc hết điếu này đến điếu khác. Chiều tôi cử đồng chí trưởng Ban kinh tế Thành ủy tŕnh bày, đồng chí này tŕnh bày được”501. Trưởng ban Kinh tế Thành ủy khi ấy là ông Nguyễn Ngọc Ẩn502. Ông Nguyễn Văn Linh kể: “Năm Ẩn nói xong, thấy các anh há hốc, chứng tỏ họ không hiểu ǵ thực tế”503.

    Nghị quyết 01, ban hành sau phiên họp này của Bộ Chính trị, được công bố vào ngày 14-9-1982, tuy cho rằng Thành phố “buông lỏng chuyên chính vô sản trên mặt trận lưu thông phân phối” nhưng đă không đ̣i phải xử lư cụ thể những ǵ. Tuy vẫn khẳng định rằng “trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ phải hoàn thành cơ bản về cải tạo xă hội chủ nghĩa”, nghị quyết vẫn nhấn mạnh “kết hợp chặt chẽ cải tạo và xây dựng, xây dựng quan hệ sản xuất xă hội chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới”.

    Như một động thái chính trị nhằm triển khai Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, ngày 30-9-1982, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh họp, dưới sự chủ tŕ của Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Linh, phân tích nguyên nhân của t́nh trạng tăng giá, buôn lậu, trốn thuế… không thể ngăn chặn là do “Thành phố c̣n tồn tại năm thành phần kinh tế”. Nghị quyết 17, ngày 30-9-1982, của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: “Chuyên chính vô sản trên mặt trận phân phối lưu thông là mặt trận nóng bỏng nhất trong cuộc đấu tranh giữa ta và tư sản thương nghiệp và các lực lượng chống đối khác”.

    Năm tháng sau, ngày 4-3-1983, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh ra tiếp Nghị quyết 19, đ̣i: “Tiếp tục cải tạo xă hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh… triệt để xóa bỏ tư sản thương nghiệp, từng bước cải tạo các tầng lớp tư thương… Truy mua toàn bộ phương tiện của tư sản kinh doanh ngành vận tải, nhất là phương tiện vận tải chuyên dùng”504.

    Nghị quyết 17 và 19 có thể dùng để bổ sung vào nhận xét ông Nguyễn Văn Linh “không phải là người chống cải tạo tư sản”505. Tuy nhiên, đây là một thời điểm mà không khí cải tạo đang được tái lập. Tháng 12-1982, Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết 03, yêu cầu: “Lập lại trật tự xă hội chủ nghĩa, trước hết trong nội bộ kinh tế quốc doanh và cơ quan nhà nước”. Sau khi Nghị quyết 01 phê phán “chuyên chính vô sản bị buông lỏng” ở Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21-1-1983, Bộ chính trị làm việc với Hà Nội, lại ra Nghị quyết 08, phê phán gay gắt hiện tượng xé rào và yêu cầu Hà Nội “mau chóng xiết chặt kỷ cương của nền kinh tế xă hội chủ nghĩa”. Đầu tháng 5-1983, nhiều địa phương miền Bắc nhận được một “điện mật” của Trung ương chỉ thị thi hành một chiến dịch mang mật danh “Z-30”. Theo đó, chính quyền được phép “tiến hành điều tra, khám xét” những gia đ́nh được gọi là có “tài sản bất minh”. Chỉ thị “Z-30” gần như chỉ được tiến hành ở Hà Nội506. Tại đây,

    những gia đ́nh có nhà mới xây từ hai tầng trở lên, hoặc những gia đ́nh mà xóm giềng tố cáo có vẻ giàu có, khá giả, đều bị đưa vào diện nghi vấn “làm ăn bất chính”. Hàng trăm ngôi nhà đă bị khám xét, một số nhà được gọi là bất minh đă bị tịch thu. Năm 1983, người Hà Nội nói thơ: “Ti vi, tủ lạnh, Honda / Có ba thứ ấy khám nhà như chơi”507.

    Ở Nam Định, khi công an lập một danh sách 200 hộ có “tài sản bất minh” cần kiểm tra, ông Nguyễn Văn An, khi ấy là bí thư Tỉnh ủy Hà Nam, đă cho ngăn lại. Theo ông Nguyễn Văn An, khi ấy ở Hà Nội ông thấy “có gia đ́nh cả nhà thắt khăn tang khi bị tống lên xe, kêu khóc ầm ĩ”. Bí thư Thành ủy Hải Pḥng lúc bấy giờ là ông Đoàn Duy Thành nhận ông là người đầu tiên và duy nhất lên Trung ương “phản đối chiến dịch Z-30”.



    “Ai thắng ai”



    Đường lối đi lên “sản xuất lớn xă hội chủ nghĩa” của Đại hội IV chủ yếu được h́nh thành trong thời gian ông Lê Duẩn cùng nhóm giúp việc “thả ḿnh tư duy” trên băi tắm Đồ Sơn, trước lâu đài Vạn Hoa. Nhà nghiên cứu Đặng Phong đă dùng khoảng cách một “kế hoạch 5 năm” để “đo” quăng đường từ Vạn Hoa xuống những cánh đồng Đoàn Xá. Chính v́ sự nôn nóng “sản xuất lớn”, dồn hợp tác xă ngày một to ra, mà người dân Đoàn Xá, Đồ Sơn, ở cách đó không bao xa, đă phải đi ăn xin. Chỉ khi tự “xé” bỏ con đường duy ư chí ấy, nông dân mới bắt đầu hết đói.

    Lẽ ra, Đoàn Xá phải được nghiên cứu như một điển h́nh về quy tŕnh ban hành chính sách. Cấp ủy xă đă chỉ ra “nghị quyết khoán” khi có 90% dân chúng yêu cầu. Khi không được cấp thẻ Đảng vào đúng ngày thành lập Đảng 3-2, Bí thư Phạm Hồng Thưởng đă nói với các đảng viên của ông: “Bây giờ cái cấp bách là cuộc sống của dân chứ chưa phải là thẻ đảng. Có thẻ đảng mà dân đói th́ mang thẻ đảng càng thêm xấu hổ. Cứ làm sao lo cho hợp tác xă lên, đấy mới là cái thẻ quư nhất”508.

    Không phải đợi đến năm 1980, khi nghe báo cáo của Hải Pḥng, Tổng Bí thư Lê Duẩn mới biết vai tṛ khoán hộ. Theo ông Trần Phương, người năm 1968 là trợ lư của ông Lê Duẩn: Buổi sáng mà tạp chí Học Tập cho đăng bài của ông Trường Chinh phê phán Kim Ngọc, ông Lê Duẩn đă bước vào pḥng của những người giúp việc ở Nhà khách Tây Hồ, “ném tờ Học Tập xuống bàn” với nét mặt không vui. Sau đó, theo ông Đậu Ngọc Xuân, ông Lê Duẩn đă xuống Vĩnh Phú để thăm và an ủi ông Kim Ngọc. Khi nói chuyện với Kim Ngọc, Lê Duẩn đă hết sức phân vân trước thực tế nông dân đă được nuôi sống chủ yếu bằng 5% đất được chia chứ không phải 95% đất bị đưa vào hợp tác xă.

    Khi kể lại câu chuyện này, những người thân cận của ông Lê Duẩn muốn đưa ra những ví dụ cho thấy “Anh Ba” của họ đă không phê phán Kim Ngọc như ông Trường Chinh. Nhưng điều này cũng cho thấy là từ năm 1968, ông Lê Duẩn đă biết hạn chế của cơ chế “cha chung” khi dồn ruộng của nông dân vào hợp tác. Vậy mà đến năm 1976, khi lựa chọn đường lối kinh tế, ông vẫn đẩy hợp tác xă lên một quy mô lớn hơn, và hậu quả gây ra đă nghiêm trọng hơn thời gian trước đó.

    May mà cho dù các nhà hoạch định chính sách cứ loay hoay “giữa hai con đường” và cứ đắm ḿnh trong những “cuộc đấu tranh”, người dân chỉ có một con đường là phải tự thoát ra mà kiếm sống. Sự thay đổi của Việt Nam không bắt đầu từ một cá nhân, cũng không phải bắt đầu từ một luồng tư duy. Khi nền kinh tế xuống tận đáy và cuộc sống của nhân dân bị dồn vào chân tường, người dân đă buộc chính quyền xoay xở. Công cuộc phá bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Việt Nam thành công cũng một phần nhờ viện trợ Liên Xô đă chưa bao giờ đủ nhiều để xóa sạch kinh tế tư nhân ở cả hai miền Nam – Bắc.

    Quan trọng hơn, cuộc chiến tranh được nói là “giải phóng miền Nam” đă nối nền kinh tế bị nhốt kín suốt hai mươi năm của miền Bắc với nền kinh tế thị trường ở miền Nam. Cuộc “Bắc tiến” ngoạn mục của những chiếc quạt bàn, tủ lạnh, xe máy Honda đă phần nào giải phóng tư duy cho chính những người đă lănh đạo chiến tranh. Phần lớn những người che chở cho người dân “xé rào” sau năm 1975 đều là những người ít được học lư luận Marx-Lenin509. Họ vừa mới đi qua chiến tranh, đụng chạm tới cơ chế như những chiếc “xe tăng” vẫn nồng nặc mùi khói đạn. Họ không c̣n đơn độc như thời Kim Ngọc và không sợ ai quy kết quan điểm lập trường.

  10. #30
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương X: Đổi mới


    18/12/2012 · bởi Bộ đội làm báo · in Bên thắng cuộc

    http://bodoilambao.wordpress.com/2012/12/18/426/



    Vai tṛ của Trường Chinh trong việc tiếp thu thực tiễn và chuẩn bị về mặt lư luận để những người cộng sản chấp nhận kinh tế nhiều thành phần, điều mà về sau gọi là đổi mới (Hội nghị Đà Lạt/ Nhóm giúp việc mới/ Người của những khúc quanh lịch sử/ Từ chính sách Kinh Tế Mới/ Đến chọc thủng bức tường bao cấp/ Giá-Lương-Tiền/ Nă pháo vào bộ tổng/ Khép lại trang sử Lê Duẩn/ Vai tṛ của Mikhail Gorbachev/ Tuyên ngôn đổi mới/ Bàn tay Lê Đức Thọ/ Phút 89).



    *

    *



    Từ chỗ tập trung vào tay nhà nước ruộng đất, nhà máy và tất cả các quyền sản xuất, kinh doanh, từ tháng 12-1986, Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu cho phép “các thành phần kinh tế” được làm ăn một cách có giới hạn. Đồng thời, nhà nước cũng từng bước cho tự do lưu thông hàng hóa trong nước, để thị trường điều tiết giá cả thay v́ lên kế hoạch và quyết định bằng các mệnh lệnh hành chánh. Việc chấp nhận nền kinh tế vận hành theo các quy luật gần giống như nó vốn có được Đảng gọi là “đổi mới”. Để đi tới quyết định đó, các nhà khởi xướng cũng đă phải mất rất nhiều thời gian để thuyết phục các đồng chí trong Đảng và thuyết phục chính ḿnh.



    Hội nghị Đà Lạt



    Giữa năm 1983, khi đến làm việc tại nhà máy Viso, một trong những những điển h́nh xé rào ở Sài G̣n, ông Trường Chinh nói với Giám đốc Nguyễn Quang Lộc: “Nay tôi đến đây để nghe. Chú như một chuyên gia cứ báo cáo hết chứ không phải lễ lạt ǵ”. Ông Lộc báo cáo xong th́ đă mười một giờ trưa. Bác sỹ riêng yêu cầu Trường Chinh nghỉ, nhưng ông nói: “Tôi phải xuống xem nhà máy đă”. Năm ấy Trường Chinh bảy mươi lăm tuổi.

    Sau khi trở lại sân chính, mọi người nh́n thấy ông, vây quanh. Theo ông Lộc th́ họ là những công nhân đă làm việc ở đây từ trước 1975, là những người mà “cơ quan chức năng” từng nghi ngờ là “địch”. Trường Chinh nói: “Phải chụp ảnh với giai cấp công nhân”. Chụp ảnh xong, ông ôm vai ông Lộc ngay giữa sân: “Hôm nay bác chỉ dặn cháu một điều, làm ǵ th́ làm cũng phải xây dựng thành công chủ nghĩa xă hội”. Ông Lộc nhớ lại: “Tôi có cảm giác đó là lời thầm th́ của một papa”.

    Sở dĩ những người như ông Trường Chinh và đa số trong Ban Bí thư lúc ấy đồng ư với “Khoán 100”, theo ông Trần Đức Nguyên, là v́ nó chưa đụng đến chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Khoán ruộng cũng như “xé rào”, để được chấp thuận th́ điều quan trọng nhất là phải làm cho các “Papa” tin rằng chúng không hề thách thức con đường đi lên chủ nghĩa xă hội.

    Ông Trường Chinh đến Viso từ một gợi ư của ông Vơ Văn Kiệt. Theo ông Đặng Xuân Kỳ, con trai ông Trường Chinh: “Anh Sáu Dân giúp ông cụ hiểu thêm nhiều về thực tế, đặc biệt là từ Hội nghị Trung ương 6, giữa năm 1979. Anh khuyên cụ đi cơ sở nhiều hơn để trực tiếp nắm bắt t́nh h́nh”. Tháng 9-1982, Bộ Chính trị vào làm việc tại Sài G̣n, phê phán xé rào hết sức nặng lời, có người c̣n quy thành phố là “phản động”. Tại hội nghị, theo ông Nguyễn Văn Huấn, thư kư của ông Kiệt: “Ông Tố Hữu bóng gió: Sáu Dân định làm vua Sài G̣n”.

    Cũng như ông Nguyễn Văn Linh, trong cuộc “làm việc” này, ông Kiệt chọn con đường im lặng. Ông Kiệt và Thành ủy Thành phố nhận ra phải t́m một con đường khác để từng bước thuyết phục trung ương thừa nhận nhận xé rào. Con đường đó, theo ông Nguyễn Văn Huấn, khi ấy là thư kư riêng của ông Kiệt, là: “Mời các anh Bộ Chính trị đi thực tế, xuống cơ sở, để các anh ấy tự nhận ra làm ăn theo cách cũ là không được nữa”.

    Trước đó, tháng 4-1983, ông Trường Chinh đă đến Tây Nguyên để t́m hiểu cách “đồng bào Tây nguyên đi lên chủ nghĩa xă hội”. Tại đây, ông giật ḿnh khi biết trên văn bản nói là có 93% hộ dân Tây Nguyên đă vào tập đoàn, hợp tác xă, nhưng hoạt động của mô h́nh “kinh tế xă hội chủ nghĩa” đó chỉ là h́nh thức. Đồng bào vẫn du canh, phá rừng, làm rẫy với cách canh tác lạc hậu như cũ; hợp tác xă vẫn phân phối theo lối b́nh quân v́ chưa biết tính toán định mức, cộng điểm. Theo ông Đặng Xuân Kỳ, người tháp tùng chuyến đi này: “Anh Y Ngông Niek Đam, bí thư Daklak, nhờ tôi giúp báo cáo sự thật này v́ anh ngại”. Nghe xong, ông Trường Chinh hỏi: “Chả nhẽ ở dưới người ta nói dối Bộ Chính trị và Trung ương?”. Y Ngông thật thà: “Dạ, nói dối”.

    Theo ông Trần Đức Nguyên, thư kư của Trường Chinh, ngay trong chuyến đi đó, ông Trường Chinh đồng ư cho Daklak tiếp tục chính sách giao đất, giao rừng cho các hộ đồng bào dân tộc. Đồng thời, khi trở lại Hà Nội, ông Trường Chinh đă “văn bản hóa” quan điểm này trong một chỉ thị của Ban Bí thư do ông kư. Tháng 5-1983, sau nhiều chuyến “vi hành” trở về, họp Bộ Chính trị, ông Trường Chinh phát biểu: “Chúng ta đang ở trong t́nh h́nh nói dối phổ biến mà mọi người làm như là không nói dối”.

    Sau chuyến đi đến nhà máy Viso, ông Trường Chinh muốn chia sẻ những vấn đề ông ghi nhận được từ hiện tượng xé rào mà ông Vơ Văn Kiệt nhen nhúm và cắm cờ điển h́nh từ năm 1979. Tháng 7-1983, nhân khi có một số vị trong chính phủ khác đang cùng ông nghỉ tại Đà Lạt, Trường Chinh đă liên hệ với Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu có báo cáo chính thức về “xé rào”.

    Bí thư Thành ủy lúc ấy là ông Nguyễn Văn Linh xuống Viso nói với ông Lộc: “Lộc ơi, ta phải đi Đà Lạt. Các anh lănh đạo đang nghỉ trên đó”. Ông Lộc hỏi: “Làm ǵ anh Mười?”. Mười Cúc: “Tôi cho rằng anh Trường Chinh muốn các anh ở ngoài kia h́nh dung được công việc của các cậu. Các cậu cũng phải gặp để các anh ấy biết một tầng lớp cán bộ mới”. Ngoài Nguyễn Quang Lộc, giám đốc Viso, “tùy tùng” ông Linh bao gồm những “điển h́nh xé rào” của ông Vơ Văn Kiệt: Lê Đ́nh Thụy, giám đốc Thuốc lá Vĩnh Hội; Nguyễn Thị Lư, giám đốc Dệt Việt Thắng; Trần Tựu, giám đốc Dược phẩm 2-9.
    Ông Lộc nhớ lại: Lê Đ́nh Thụy vào pḥng họp vừa nh́n thấy các “papa” liền khóc rống lên. Ông Phạm Văn Đồng mắng: “Làm sao anh khóc?”. Ông Thụy mếu máo: “Chúng tôi khổ quá, được giao kế hoạch mà trên không cân đối vật tư, phải tự chạy vạy để hoàn thành kế hoạch trên giao và nuôi sống công nhân. Vậy mà không được động viên lại c̣n nay đ̣i thanh tra, mai đ̣i bắt”. Ông Đồng lại mắng: “Khi người ta giao kế hoạch người ta phải cân đối chứ. Tại sao có thể thế được?”. Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Vơ Chí Công nói: “Nó giao đại thể thế chứ không có cân đối đâu anh ơi”. Ông Đồng nói: “Tại sao không báo Đỗ Mười?”. Ông Công: “Trên nó c̣n thứ trưởng, bộ trưởng làm sao nó lên tới phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng mà báo cáo được”.

    Cũng tại Hội nghị Đà Lạt, ông Trường Chinh đă nghe ông Phan Văn Khải, phó chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh, và ông Mười Phi, giám đốc ngoại thương, nói về “xé rào” trong hoạt động của khối phân phối lưu thông. Theo ông Nguyễn Quang Lộc: “Sau bốn ngày lắng nghe, ông Trường Chinh ra ôm vai chúng tôi, nói: Các chú gặp khó khăn nhưng đă rất dũng cảm. Phàm là một người cộng sản, chúng ta đừng sợ khó khăn, đừng sợ sai lầm, sai th́ sửa. Nhưng ǵ th́ ǵ, phải kết hợp tốt giữa lư luận với thực tiễn”.

    Từ cuối tháng 12-1981, ông Vơ Văn Kiệt ra Hà Nội làm chủ nhiệm Ủy Ban Kế hoạch Nhà nước. Sau hai năm ngồi ở trung ương, ông nhận ra nếu không “tháo gỡ được cách nh́n th́ sẽ không tháo gỡ được cơ chế”. Ông Kiệt gặp Bùi Văn Long, tổng giám đốc Liên hiệp Dệt, đề nghị tổ chức hội nghị ngành dệt để các giám đốc nói hết những ách tắc của ḿnh. Ông Kiệt dặn: “Mời được càng nhiều lănh đạo trung ương về nghe càng tốt”.

    Tháng 4-1984, tại khuôn viên công ty Dệt Phước Long, hơn hai mươi giám đốc trong và ngoài ngành dệt đă báo cáo trước 200 đại biểu gồm lănh đạo các tỉnh, thành phố, các bộ, ban ngành và gần như đầy đủ các vị trong Hội đồng Bộ trưởng. Tuy hội nghị khá dài, kéo tới ba ngày, nhưng không khí càng về sau càng cởi mở. Trả lời một chất vấn về chính sách “hạch toán hai sổ”, Tổng Giám đốc Bùi Văn Long nói thẳng: “Đúng là tôi có hai sổ: một sổ ghi thu chi các sản phẩm đầu vào theo giá nhà nước, hợp pháp nhưng không hợp lư; một sổ ghi thu chi theo giá thật trên thị trường, hợp lư nhưng không hợp pháp. Sổ hợp pháp để báo cáo cấp trên, sổ hợp lư để điều hành doanh nghiệp. Ví dụ: Tôi mua cây tre, người ta chỉ bán với giá 1,5 đồng một cây nhưng Ủy ban Vật giá chỉ cho phép mua với giá một đồng một cây. Tôi đành nói anh em mua một cây tre rồi chặt ra làm đôi, tính hai cây để ghi vào sổ cho hợp pháp”510.

    Những hội nghị như Đà Lạt hay Dệt Phước Long đă giúp các nhà lănh đạo nghe được trực tiếp những ǵ đang diễn ra thay v́ nghe qua các báo cáo mà, theo ông Trần Nhâm, thường không phản ánh đúng thực tế, cho dù được đóng dấu “mật” và chỉ lưu hành trong nội bộ. Nếu như những người như ông Vơ Văn Kiệt không tạo ra thực tiễn xé rào th́ những người như ông Trường Chinh sẽ không nh́n thấy sự bức bối của cơ chế. Nhưng nếu như ông Trường Chinh không đủ bản lĩnh chính trị và năng lực tư duy để giải thích thực tiễn và chuẩn bị cơ sở lư luận thích hợp với môi trường chính trị lúc bấy giờ th́ ông cũng khó mà thuyết phục được các đồng chí của ông trong Đảng.



    Nhóm giúp việc mới



    Sau chuyến đi Tây Nguyên, ông Trần Đức Nguyên bị điều đi khỏi văn pḥng Trường Chinh. Ông Trần Nhâm, một đồng nghiệp của ông Nguyên, cho biết: “Lư do công khai để Ban Tổ chức thay anh Nguyên là v́ anh Nguyên có một người chị định cư ở Pháp. Thời ấy lư lịch như thế là ghê lắm”. Nhưng, cũng theo ông Nhâm, nguyên nhân sâu xa là do trong các cuộc làm việc chung của nhóm, ông Trần Đức Nguyên hay “nhận xét về các nhà lănh đạo khác”. Một người trong nhóm giúp việc đă ghi lại đầy đủ các phát ngôn này và sau đó đi báo với Ban Tổ chức.

    May mắn là chỗ trống của ông Nguyên đă được “điền” bằng ông Hà Nghiệp, một nhà nghiên cứu xuất sắc của thập niên 1980. Ông Hà Nghiệp lúc ấy đang làm vụ trưởng Vụ Tổng hợp Văn pḥng Trung ương Đảng. Ông có bằng đại học và phó tiến sỹ về cơ khí ở Liên Xô, về nước giảng dạy ở trường Đại học Bách khoa. Năm 1975 ông được trưng tập vào Nam tiếp quản các cơ sở kinh tế, rồi về công tác ở Văn pḥng Trung ương Đảng. Khi ấy, ông Trần Đức Nguyên cũng được điều từ Ủy ban Kế hoạch Nhà nước về Văn pḥng Trung ương. Ông Nguyên kể: “Hai chúng tôi thường làm việc với nhau, rất thân nhau, hiểu nhau v́ Vụ của anh Nghiệp đảm nhiệm chính công tác nghiên cứu, biên tập phục vụ Ban Bí thư, Bộ Chính trị. Tôi đặc biệt quư anh Hà Nghiệp ở cách nghĩ không bị g̣ vào khuôn khổ thông thường mà luôn luôn t́m ṭi cái mới phù hợp với thực tế. Hồi đó, những người có tư tưởng đổi mới rất dễ bị phê phán. Anh Hà Nghiệp nói vui: những người này phạm sai lầm v́ đúng quá sớm”.

    Theo ông Đặng Xuân Kỳ, chính ông Trường Chinh đă yêu cầu Ban Tổ chức chọn đích danh ông Hà Nghiệp. Tháng 7-1983, khi đang ở miền Nam để chuẩn bị cho Hội nghị Đà Lạt, Trường Chinh đă cho gọi Hà Nghiệp vào dù khi ấy thủ tục Ban Tổ chức làm vẫn chưa hoàn chỉnh. Ở Văn pḥng Trung ương, Hà Nghiệp nổi tiếng luôn “nói ngược”. Theo ông Trần Nhâm: “Một vị lănh đạo trong Văn pḥng Trung ương cũng muốn đẩy đi, v́ nghĩ kiểu Hà Nghiệp chỉ có thể làm việc với cụ Trường Chinh không quá ba tháng. Không ngờ, ở càng lâu Hà Nghiệp càng trở thành một trợ lư mà ông Trường Chinh tâm đắc nhất”.

    Ông Đặng Xuân Kỳ cho rằng: “Sẽ không có Trường Chinh của năm 1986 nếu như đầu thập niên 1980 ông không tự ḿnh lựa chọn những người giúp việc”. Ông Đặng Xuân Kỳ kể: “Tôi học ở Nga tới năm 1965. Sau hai năm về nước, tôi nhận ra bộ máy của ḿnh có vấn đề. Tôi đề nghị cha tôi bắt đầu từ việc đổi mới bộ máy giúp việc cán bộ chủ chốt. Nhiều người trong số họ xa rời thực tế, chỉ dựa dẫm vào tiếng tăm các nhà lănh đạo để hưởng bổng lộc. Nhưng năm ấy cụ không nghe tôi. Phải tới năm 1972, cha tôi mới thừa nhận là cần phải thay người Trợ lư số Một. Nhưng khi thay xong, tôi nói với ông: ‘Người này cũng không khác những người trước’. Cha tôi bảo: ‘Đây là người Ban Tổ chức đưa về mà?’. Tôi nói: ‘Nhưng vẫn không phải là người ta cần’. Cha tôi ngạc nhiên: ‘Tổ chức th́ làm sao sai được?’”.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 11
    Last Post: 24-07-2011, 11:06 PM
  2. Replies: 13
    Last Post: 29-12-2010, 08:13 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 21-09-2010, 02:50 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •