Page 4 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 31 to 40 of 45

Thread: Bên thắng cuộc - Huy Đức

  1. #31
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương X: Đổi mới
    P2


    Quyền lực của Ban Tổ Chức Trung ương dưới thời Trưởng Ban Lê Đức Thọ có mặt gần như ở khắp nơi. Nhưng theo ông Kỳ: “Từ năm 1980, cha tôi không để cho ông Lê Đức Thọ can thiệp nữa. Cụ tự chọn lấy những người giúp việc, và nếu Ban Tổ chức không đồng ư ai, cụ yêu cầu phải giải thích”.
    Cuối năm 1983, ông Trường Chinh nói với ông Hà Nghiệp và Trần Nhâm: “T́nh h́nh cấp bách, nếu cứ tiếp tục như thế này, đất nước sẽ bế tắc”. Ông yêu cầu lập một nhóm nghiên cứu tư vấn. Ông dặn: “Phải chọn những người có đầu óc mới mẻ, hiểu chính sách kinh tế mới”. Nhóm nghiên cứu ngay sau đó được h́nh thành.

    Ngoài Hà Nghiệp và Trần Nhâm, nhóm c̣n gồm Đào Xuân Sâm, chủ nhiệm Khoa Quản lư Kinh tế của Học viện Nguyễn Ái Quốc; Lê Xuân Tùng, phó chủ nhiệm khoa của học viện này kiêm thư kư của ông Lê Đức Thọ; Vơ Đại Lược, viện trưởng Viện Kinh tế Thế giới; Dương Phú Hiệp, phó viện trưởng Viện Triết học; Lê Văn Viện, giảng viên Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, đang làm chuyên gia giúp tổng bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; một phó Ban Cơ yếu Trung ương và ba chuyên viên cao cấp Ban Kinh tế Trung ương, Nguyễn Thiệu, Trần Đức Nguyên và Nguyễn Văn Đào nguyên thứ trưởng Bộ Ngoại thương.

    Giáo sư Dương Phú Hiệp nói: “Trước đó đă có tiền lệ Tổng Bí thư Lê Duẩn lập ra nhóm nghiên cứu về Làm Chủ Tập Thể, nên ông Trường Chinh cũng có cơ sở để báo cáo với Bộ Chính trị về việc h́nh thành nhóm nghiên cứu của ông”. Theo Giáo sư Hiệp, trong buổi gặp đầu tiên, ông Trường Chinh nói: “Tôi biết các đồng chí là những nhà khoa học, những người yêu nước, muốn đóng góp. Tuy nhiên, nếu phát biểu ra ngoài những ư kiến mạnh mẽ bây giờ rất dễ bị quy chụp. Nhưng ở đây, chúng ta cứ nói thẳng, nói hết, để tôi t́m cách nói lại trong Bộ Chính trị, để Bộ Chính trị t́m biện pháp khắc phục những thiếu sót của đất nước”.

    Trong các cuộc họp của nhóm nghiên cứu, ông Trường Chinh chỉ nghe và hỏi thêm chứ không phát biểu ư kiến hay kết luận. Theo ông Trần Đức Nguyên: “Ông muốn chúng tôi thật sự phát huy tự do tư tưởng, không bị trói buộc bởi những quan điểm giáo điều, bảo thủ”. Trường Chinh nói với nhóm nghiên cứu: “Tôi lắng nghe các đồng chí, nhưng v́ tuổi cao, ghi chậm nên việc ghi chép xin nhờ mấy đồng chí thư kư của tôi giúp”. Nhưng khi các chuyên gia phát biểu, ông không chỉ lắng nghe mà c̣n mở sổ, cặm cụi ghi chép với một thái độ trân trọng và khiêm tốn. Phương pháp của ông Trường Chinh đă tạo ra một không khí làm việc hết sức cởi mở trong nhóm.

    Một lần, khi ông Trường Chinh hỏi Giáo sư Dương Phú Hiệp: “Khi nào th́ ta có thể kết thúc chặng đường đầu? Khi nào th́ ta có thể kết thúc thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xă hội?”. Giáo sư Hiệp trả lời: “Thưa bác cháu chưa biết”. Ông Trần Nhâm và ông Hà Nghiệp nói: “Anh là chuyên gia về phân kỳ đi lên chủ nghĩa xă hội mà?”. Ông Dương Phú Hiệp chậm răi: “Để trả lời câu hỏi này, cho phép cháu kể một câu chuyện ngụ ngôn Nga”. Mặc dầu ông Trường Chinh nói: “Đang làm kế hoạch mà nói chuyện dân gian Nga à?”. Nhưng ông có vẻ thích thú, bước tới đứng sát nơi ông Hiệp ngồi, lắng nghe.
    Giáo sư Hiệp kể: Một người đi đường, khi ra tới b́a rừng th́ gặp một bác tiều phu, ông dừng lại hỏi: “Bác ơi, khi nào tới bến sông?” Người tiều phu trả lời: “Không biết”. Người đi đường thất vọng bước tiếp và sau khi đi được chừng mươi bước, bác tiều phu gọi giật lại bảo: “C̣n bốn giờ nữa”. Người đi đường ngạc nhiên: “Sao năy bác không nói?” Bác tiều phu: “Khi năy anh đứng tôi không biết, giờ anh đi tôi mới biết”. Rồi ông Dương Phú Hiệp quay về phía ông Trường Chinh: “Thưa bác, hiện nay ta chỉ dẫm chân tại chỗ chứ không đi nên thật khó trả lời là đến khi nào th́ đi hết thời kỳ quá độ”.

    Ông Trường Chinh nghe xong, cười và nói: “Đồng chí văn nghệ th́ để tôi cũng góp chút văn nghệ”. Ông đọc bài Tiết Lập Xuân của Cao Bá Quát: “Khứ nhật xuân lai phá cựu hàn / Kim chiêu hồng tử đấu thiên ban / Hà đương thế sự như hoa sự? / Phong vũ giang sơn tận cải quan”, rồi đọc phần dịch thơ của ông: “Hôm trước xuân về tan giá lạnh / Sáng nay muôn tía đấu ngàn hồng / Việc đời ví được như hoa nhỉ /Mưa gió qua rồi đẹp núi sông”. Ông nói với anh em giúp việc: “Giờ ta đang khó khăn nhưng đừng bi quan quá. Mây tan, gió tạnh sẽ về thôi”.

    Không bi quan không có nghĩa là mũ ni che tai, ông Trường Chinh t́m cách để hiểu những ǵ đang diễn ra trong cuộc sống. Một hôm, Giáo sư Dương Phú Hiệp tới trễ. Ông Trường Chinh hỏi thăm, ông Hiệp nói: “Đêm qua cháu phải thức đêm xách nước bác ạ”. Ông chép miệng: “Vất vả nhỉ”. Ông Hiệp nói: “Không phải ḿnh cháu. Các khu tập thể ở Hà Nội đều thiếu nước, người dân phải xếp hàng tới khuya mới hứng được vài xô nước mang về dùng. Bác ạ, bên ngoài người ta đang hát: Đêm đến cả nhà lo việc nước / Sáng ra cả nước lo việc nhà”. Theo ông Trần Nhâm, từ đó, Trường Chinh yêu cầu thu thập những câu nói trong dân gian, đặc biệt là những chuyện tiếu lâm chính trị như là một phần giúp ông hiểu tâm tư nguyện vọng của dân chúng.

    Thập niên 1980 có lẽ là giai đoạn để lại nhiều chấn thương cả về thể chất lẫn tinh thần cho người Việt nhất. Những người lính tham gia hai cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc và Campuchia không c̣n có cái hào hùng của những người lính trên đỉnh Trường Sơn năm xưa. Không c̣n những bộ quân phục vải Tô Châu xanh bền, phải lăn lộn trên các chiến trường giá rét ở phía Bắc, gay gắt ở Tây Nam, bộ ka ki Vĩnh Phú của người lính nhanh chóng rách gối, thủng đít. Bộ đội có sáng kiến cắt ống, quay phần lành lặn từ phía sau lên thay cho đầu gối và gọi đấy là “ưu tiên phía trước”.

    Cuộc sống của những người dân ở hậu phương cũng trăm bề khó khăn: Cây đinh phải đăng kư / Trái bí cũng sắp hàng / Khoai lang cần tem phiếu / Thuốc điếu phải mua bông / Lấy chồng phải cai đẻ / Bán lẻ chạy công an / Lang thang đi cải tạo / Hết gạo ăn bo bo / Học tṛ không có tập… Đầu thập niên 1980, ở Sài G̣n có khoảng năm vạn sỹ quan, công chức được tha về từ các trại cải tạo. Họ đương nhiên là không thể xin việc làm, chỉ có thể kiếm sống qua ngày bằng cách ra đường. Các sỹ quan cách mạng, những người hùng ngày nào giờ đây cũng: Đầu đường đại tá bơm xe / Giữa đường trung tá bán chè đỗ đen / Cuối đường thiếu tá buôn kem… Cho dù bộ máy tuyên truyền hoạt động hết công suất nhưng tinh thần của dân chúng dường như không c̣n có khả năng gượng dậy511.

    Măi cho tới gần cuối thập niên 1980, ngay tại những thành phố lớn như Hà Nội, Sài G̣n, người dân vẫn phải xoay xở bằng cách nuôi heo, nuôi cá trê phi để sống. Nhiều người “sống chung với heo” trong những căn hộ chật chội trên tầng năm, tầng tám. Ở Hà Nội, cán bộ viên chức cũng phải xoay xở. Có một giai thoại nổi tiếng về Giáo sư Văn Như Cương: Ông bị người dân trong một khu tập thể ở Hà Nội kiện v́ nuôi lợn trong căn hộ của ông ở tầng hai làm mất vệ sinh. Chính quyền khu phố tới nhà phê b́nh và ghi vào biên bản: “Giáo sư Văn Như Cương nuôi lợn ở tầng hai”. Ông không phản đối nhưng trước khi kư nhận chỉ xin sửa lại: “Lợn nuôi Giáo sư Văn Như Cương ở tầng hai”.

    Bằng nhiều kênh khác nhau, có khi qua nhóm nghiên cứu, qua những người giúp việc, có khi qua những người trong gia đ́nh hoặc những cán bộ cương trực nói lại, ông Trường Chinh nghe được khá đầy đủ sự ta thán của dân t́nh. Người dân gọi những năm đầu thập niên 1980 là thời kỳ “Ba-Đồng-Chinh”512. Có những câu đồng dao được mọi người đọc cho nhau: “Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh / Ba anh có biết dân t́nh sao không / Rau muống nửa bó một đồng / Con ăn bố nhịn, đau ḷng thằng dân”.

    Theo ông Đặng Xuân Kỳ th́ cha ông c̣n dũng cảm để nghe cả những tiếu lâm chính trị nói trực diện tới ḿnh. Một trong những tiếu lâm đó được kể: Một hôm, ba nhà lănh đạo cao nhất của đảng đi chung một chuyến chuyên cơ, ngó xuống hạ giới thấy dân t́nh nheo nhóc, đói khát, mặt mũi thểu năo. Bỗng một người hỏi: “Bây giờ ḿnh ném cái ǵ xuống th́ đám dân ấy mới tươi tỉnh lên được nhỉ?”. Bác Đồng nói trước: “Chắc họ đang đói. Hăy ném cho họ mấy bữa cơm không độn”. Bác Chinh cho rằng: “Điều họ thiếu là lư tưởng. Hăy ném cho họ lư luận về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xă hội”. Bác Duẩn lắc đầu: “Không phải! Không phải! Họ cần làm chủ tập thể”. Trong khi ba bác c̣n chưa thống nhất được nên ném ǵ cho dân th́ anh phi công lái chuyến chuyên cơ rụt rè đề nghị: “Dạ thưa, cháu có ư kiến được không ạ?”. Ông Lê Duẩn nói ngay: “Tại sao không? Cứ phát huy dân chủ”. Bấy giờ anh phi công mới nói: “Dạ, muốn cho đám dân t́nh dưới đó reo vang hạnh phúc th́ chỉ có cách là ném cả ba bác ra khỏi máy bay thôi ạ”.



    Người của những khúc quanh lịch sử



    rong những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Trường Chinh đều đă có mặt: có khi là để lănh đạo Việt Minh cướp chính quyền như hồi năm 1945, có khi đứng ra chịu trách nhiệm cá nhân về sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất năm 1956, và trong thập niên 1980 là tự thức tỉnh và dẫn dắt Đảng thoát ra khỏi sự bế tắc bởi chính những đường lối của ḿnh513.

    Tháng 1-1941, Nguyễn Ái Quốc về Pác Bó, Cao Bằng, sau ba mươi năm “bôn ba”. Tại đây, tháng 5-1941, ông chủ tŕ Hội nghị Trung ương 8: Trường Chinh chính thức được bầu làm tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, kiêm trưởng Ban Tuyên huấn. Từ đầu năm 1942, Nguyễn Ái Quốc đă trở lại Trung Quốc và tháng tám năm ấy bị Quốc dân Đảng Trung Hoa bắt giam. Mọi công việc tuyên truyền chuẩn bị đều do Trường Chinh tổ chức thực hiện. Đại tướng Vơ Nguyên Giáp cho rằng: “Bác Hồ là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhưng đề ra đường lối cụ thể, chỉ đạo
    cụ thể về lư luận với cuốn “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, là do anh Trường Chinh”. Đặc biệt, trong giai đoạn “tiền khởi nghĩa”, vai tṛ quyết định là của Trường Chinh. Công cụ cách mạng sắc bén nhất của Trường Chinh giai đoạn này là ng̣i bút514.

    Ngày 8-3-1945, sau khi phân tích các nguồn tin, Trường Chinh nhận định: “Nhật sắp lật Pháp”, rồi lập tức triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng tại chùa Đồng Kỵ. Chập choạng tối 9-3-1945, trong cuộc họp có mặt Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Văn Trân…, khi Tổng Bí thư vừa tuyên bố lư do họp th́ tiếng chó rộ lên, đồng thời có người đập cửa dồn dập. Sư cụ cho chú tiểu ra mở cửa, thấy hai bóng người tay cầm đèn pin bước vào. Sư cụ liền: “chào thầy phó, thầy trương” thật to để báo động.

    Cuộc họp Ban Thường vụ Trung ương phải chuyển sang “phương án hai”. Các nhà lănh đạo Đảng nhanh chóng thu xếp giày dép, khăn áo, chui qua bụi tre sau chùa, theo hướng nam, đi sang làng Đ́nh Bảng. Vừa vượt qua đường xe lửa, tới địa phận Đ́nh Bảng th́ nghe tiếng súng nổ dữ dội phía Hà Nội. Ông Trường Chinh reo lên: “Nhật, Pháp bắn nhau rồi anh em ơi!”. Lúc đó là đúng 8 giờ 25 phút tối ngày 9- 3-1945. Sau Hội nghị, Trường Chinh lánh sang chùa Dận, viết Chỉ thị: “Nhật Pháp đánh nhau và hành động của chúng ta”, bản chỉ thị ngay sau đó, được bí mật in ấn để phát đi toàn quốc515.
    Trước khi Hồ Chí Minh từ Trung Hoa trở về Pac Bó, Trường Chinh đă triệu tập và chủ tŕ Hội nghị Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ, chủ trương lập “bảy chiến khu cách mạng” và “thống nhất các lực lượng vũ trang”. Theo ông Trần Quốc Hương, trước khi lên Tân Trào, biết Hồ Chí Minh đang bệnh, Trường Chinh quay lại ATK ngoại thành, gọi Mười Hương ra nói: “Tôi phải lên chiến khu ngay. Trung ương cần một bác sĩ và một số thuốc để đưa lên ấy phục vụ cách mạng”. Bác sỹ Lê Văn Chánh được Mười Hương tiến cử đă theo ông Trường Chinh mang theo dụng cụ y tế và thuốc men lên Việt Bắc.
    Theo dặn ḍ của ông Trường Chinh, tối 15-8-1945, sau khi biết chắc Nhật xin đầu hàng Đồng Minh, ông Nguyễn Khang triệu tập Hội nghị Xứ ủy gồm: Lê Liêm, Trần Tử B́nh, Nguyễn Văn Lộc… Tại làng Vạn Phúc, chỉ thị ngày 12-3-1945, “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Trường Chinh lại được đưa ra thảo luận. Sau khi phân tích những điều kiện “tất yếu cho cuộc tổng khởi nghĩa” mà Trường Chinh chỉ ra, các ủy viên dự họp đă reo lên: “Thế này là đúng rồi. Ta phải lănh đạo quần chúng nổi dậy, tổng khởi nghĩa ngay lập tức!”. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban Quân sự Cách mạng Bắc Bộ để lănh đạo quần chúng nổi dậy khởi nghĩa trong phạm vi mười tỉnh ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ.

    Trong khi các đại biểu đang ở Tân Trào để dự đại hội do Hồ Chí Minh chủ tŕ, các địa phương đă theo chỉ thị của xứ ủy, lần lượt nổi dậy chiếm phủ, huyện rồi tiến vào chiếm tỉnh lị. Ở Hà Nội, Ủy ban Quân sự Cách mạng được thành lập do Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nguyễn Khang trực tiếp làm chủ tịch để lănh đạo cuộc khởi nghĩa.

    Lấy danh nghĩa Kỳ bộ Việt Minh, Xứ ủy ra một bản thông báo cho các địa phương tiến hành khởi nghĩa dành chính quyền. Ngày 19-8-1945, lực lượng của Nguyễn Khang chiếm Phủ Khâm sai516.

    Khi Hà Nội đă rực trong cờ đỏ sao vàng, các đại biểu đi dự Đại hội Quốc dân ở Tân Trào vẫn chưa rời căn cứ. Xứ ủy Bắc Bộ và Thành ủy Hà Nội lập tức cử đại diện lên chiến khu “mời Bác và trung ương” về, các đại diện này đi đến Thái Nguyên th́ gặp ông Trường Chinh, cũng đă nghe tin, đang trên đường từ Tân Trào xuôi về. Chiều ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh và tùy tùng theo đường sông Hồng về đến Chèm. Các cán bộ thuộc “Công tác Đội” đón và bố trí ông ở nhà bà Chánh Hai ở Phú Thượng, một cơ sở của xứ ủy nằm trong ATK517. Sẩm tối ngày 26-8-1945, Hồ Chí Minh được ông Trường Chinh đón bằng một chiếc xe hơi hiệu Citroen. Chiếc Citroen mang biển số T.A.20 này, hôm 19-8-1945, đă được ông lái xe tên là Nền lái đưa ông Nguyễn Khang đi khắp Hà Nội chỉ huy khởi nghĩa. Sau khi đón ông Trường Chinh từ Phù Đổng về, ông Nguyễn Khang đă giao chiếc xe lại cho tổng bí thư.

    Trường Chinh đưa Hồ Chí Minh về 35 Hàng Cân, mặt sau nhà 48 Hàng Ngang của ông bà Trịnh Văn Bô, một nhà tư sản có tiếng ở Hà Nội. Hàng ngày, sau khi ăn sáng tại nhà Trịnh Văn Bô, Hồ Chí Minh làm việc tại nhà hoặc ra Bắc Bộ phủ. C̣n ông Trường Chinh th́ từ hôm 26-8 đă tạm dời sang số 6 phố Hàng Đào.

    Khi Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ Liên hiệp, ông Trường Chinh không nắm giữ chức vụ nào. Trong thời gian Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật, ông làm hội trưởng “Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”. Tại Đại hội Đảng lần II, ông chính thức trở lại làm tổng bí thư, lúc này, Đảng đă đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam.

    Năm 1953, khi Cụ Hồ đồng ư với Stalin và Mao Trạch Đông thi hành cải cách ruộng đất, Trường Chinh là “trưởng Ban Cải cách Trung ương”. Ba năm sau, tháng 9-1956, khi Trung ương “sửa sai”, ông phải đứng ra nhận lănh trách nhiệm bằng cách từ chức. Chức vụ nhà nước đầu tiên mà ông được giao là phó thủ tướng chính phủ kiêm chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước (năm 1958). Tháng 7-1960, ông được cử làm chủ tịch Quốc hội, và nắm giữ chức vụ này hơn hai mươi năm. Tháng 7-1981, ông chuyển sang làm chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Thời kỳ này, theo ông Trần Nhâm: “Văn pḥng đồng chí Trường Chinh nhận được hàng trăm, hàng ngàn báo cáo, kiến nghị của các cơ quan, các cấp, các ngành và địa phương cùng với thư từ của cán bộ, đảng viên và nhân dân khắp nơi tới tấp gửi về”518.



    Từ chính sách Kinh Tế Mới



    Ông Trường Chinh cùng nhóm nghiên cứu của ông đă chọn điểm bắt đầu bằng cách “nhận thức lại những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Marx-Lenin”. Mô h́nh “xă hội chủ nghĩa” mà Liên Xô buộc các nước phải tuân thủ519 đă được chính thức giảng dạy trong hệ thống các trường đảng của Việt Nam520. Kinh qua những khóa học ở trường đảng là tiêu chuẩn bắt buộc để một người có thể đảm đương các cương vị lănh đạo chủ chốt521. Tính đến đầu thập niên 1980, có hơn một triệu người Việt Nam đă được giáo dục về mô h́nh Stalin ở trong các trường của Đảng. Chỉ có nhân danh chủ nghĩa Marx-Lenin mới có thể làm thay đổi nhận thức của đội ngũ cán bộ đó.

    Lúc này, các nhà nghiên cứu như Hà Nghiệp, Đào Xuân Sâm, Trần Đức Nguyên đă có một thời gian tiếp xúc với “chính sách kinh tế mới của Lenin”, thông qua những khóa học do các chuyên gia Liên Xô giảng dạy. Năm 1978, khi nhận ra những hạn chế về lư luận của đội ngũ cán bộ các cấp, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đă thay mặt Bộ Chính trị làm việc với Học viện Chính trị Quốc gia và Viện Quản lư Trung ương, đặt vấn đề phải dạy quản lư kinh tế cho cán bộ cao cấp.

    Thời gian này ở Trung Quốc, Đặng Tiểu B́nh đang “ḍ đá qua sông”, chấp nhận cả “mèo trắng lẫn mèo đen miễn là bắt được chuột”. Vận nước thật trớ trêu – Việt Nam đă không ít lần lệ thuộc Trung Hoa, nhưng đă không “lệ thuộc” những khi Trung Quốc có những bước đi tích cực. Khi ấy Việt Nam đang coi người láng giềng phương Bắc này của ḿnh là “kẻ thù truyền kiếp”. Những thay đổi ở Trung Quốc vào thời điểm đó nếu có xuất hiện trên các diễn đàn của Việt Nam th́ cũng chủ yếu để đả kích và phê phán. Trong hoàn cảnh ấy, Hiệp định Hợp Tác Toàn Diện giữa Việt Nam và Liên Xô được kư kết. Theo đó, Liên Xô không chỉ mang đến cho Việt Nam một tỷ rúp mỗi năm mà c̣n đem theo một đội ngũ chuyên gia hùng hậu.

    Đội ngũ chuyên gia Liên Xô đến Việt Nam trong giai đoạn này bao gồm các cố vấn quản lư và các chuyên gia nghiên cứu. “Tổng Cố vấn” là ông Paskar, nguyên chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng của Nước Cộng ḥa Xô viết Moldavia. Theo Giáo sư Đào Xuân Sâm, nếu như các cố vấn quản lư như Paskar mang theo năo trạng cũ, càng “cố vấn” càng làm cho bộ máy nhà nước Việt Nam vận hành “quan liêu bao cấp” hơn, th́ các chuyên gia lư luận lại có công giúp đội ngũ cán bộ Việt Nam t́m được lối thoát về tư duy một cách tích cực. Ngoài hàng ngàn cán bộ đă được đưa đi đào tạo từ dài hạn, trung hạn đến ngắn hạn ở Liên Xô, từ tháng 3-1979, đoàn giảng viên đầu tiên đă đến Việt Nam, mang theo “chính sách kinh tế mới của Lenin”,
    chính sách được biết đến với tên viết tắt là NEP522.

    Chính sách kinh tế mới được Lenin đưa ra chỉ một thời gian ngắn ngay sau khi chính sách “cộng sản thời chiến” xóa hết tư hữu mà ông áp dụng ở nước Nga thất bại. Theo ông Đào Xuân Sâm: Khi áp dụng NEP, Lenin không nói rơ đây là một sách lược tạm thời hay lâu dài. Sau khi Staline lên nắm quyền, NEP không chỉ bị kết liễu mà nó gần như không được nhắc tới ngay cả trong nhà trường. Ở Liên Xô, chỉ những chuyên gia lư luận cao cấp mới có quyền được nghiên cứu NEP.

    Cuối thập niên 1980, sau những bế tắc của mô h́nh cũ, các nhà lư luận Liên Xô bắt đầu đề cập đến Lenin thông qua chính sách kinh tế mới. Tới Việt Nam, Viện trưởng Kinh tế học Liên Xô Abalkin, người về sau trở thành phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đă cho rằng sai lầm của mô h́nh cũ là “phủ nhận thị trường, xây dựng kế hoạch một cách duy ư chí”. Viện sỹ Viện Hàn lâm Nông nghiệp Liên Xô Igor Tikhonov th́ coi căn bệnh hợp tác xă cao cấp ở Việt Nam cũng giống như bệnh ở các nông trang tập thể Liên Xô. Một chuyên gia trẻ khác là Kulikov th́ viện dẫn Lenin ủng hộ việc sử dụng kinh tế cá thể, tư bản tư doanh và tư bản nước ngoài: “hăy bắt giai cấp tư sản làm nốt sứ mệnh của nó”.

    Bài giảng của các chuyên gia Liên Xô táo bạo và mới mẻ tới mức chính Tổng Cố vấn Paskar cũng đă nhiều lần tỏ thái độ không đồng t́nh. Tuy nhiên, Paskar không thể làm ǵ v́ bản thân các vị viện sỹ hàn lâm này cũng đều là những người thế lực. Igor Tikhonov là em ruột của Nicolas Tikhonov, người lúc đó là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Theo Giáo sư Đào Xuân Sâm th́ Tikhonov đă nói với ông về các cố vấn quản lư như Paskar: “Bọn này ở bên kia cũng làm khổ tụi tao nhiều lắm”.

    Về phía Việt Nam, một số học viên “kiên định lập trường” đă báo cáo lên trung ương. Giới lư luận trong nước cho rằng “Liên Xô sang giảng bài chống lại lư luận của đảng ta”. Ông Lê Duẩn, ông Trường Chinh, ông Phạm Văn Đồng cho người đi nghe về báo lại nhưng cả ba ông đều không có ư kiến ǵ. Theo Giáo sư Đào Xuân Sâm: “Lúc đó niềm tin với Liên Xô vừa được khôi phục trở lại. Những lư luận đó lại được dẫn từ NEP của Lenin. Nên cho dù trái với Marx, các nhà lư luận cấp tiến ở trung ương đă tự an ủi rằng, đây là sách lược tạm thời, bước lùi tạm thời, khi khá lên lại tập trung hóa, lại xóa tư hữu như Marx nói”.

    Hơn 1000 cán bộ Việt Nam đă tham gia các lớp nghiên cứu về NEP trước khi Trung ương bắt đầu có những sửa đổi ở Hội nghị Trung ương 6 vào giữa năm 1979. Đặc biệt, các chuyên gia Liên Xô đă tổ chức năm lớp học cho các cán bộ cấp bộ trưởng, thứ trưởng, bí thư, chủ tịch tỉnh. Hội nghị Trung ương 6 có cơ sở lư luận hơn để phân tích “những vấn đề kinh tế cấp bách” để “cởi trói” dần cho sản xuất. Theo Giáo sư Trần Đ́nh Bút, phân hiệu trưởng của trường Quản lư Kinh tế Trung ương tại Thành phố Hồ Chí Minh, các viện sỹ Liên Xô tham gia giảng dạy NEP ở Việt Nam đă tới t́m hiểu giải pháp “bù giá vào lương” ở Long An và “khoán” ở xí nghiệp đánh cá Côn Đảo – Vũng Tàu. Các vị viện sỹ đă rất đồng t́nh ủng hộ.

    Khác với hai ông Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, chỉ tiếp cận với các lớp giảng dạy về chính sách kinh tế mới của Lenin thông qua báo cáo, ông Trường Chinh thường xuyên thảo luận với các chuyên gia của ḿnh về những nội dung của NEP. Đặc biệt, từ đầu năm 1983, Trường Chinh liên tục đi tới các địa phương: ngày 10 đến 14-4- 1983, ông đi Đak Lak; ngày 15 đến 19-4-1983 ông tới Gia Lai- Kon Tum; ngày 18 đến 22-7-1983, ông làm việc ở Lâm Đồng; ngày 21 đến 22-8-1983, ông đến khu công nghiệp Biên Ḥa; ngày 23 đến 25-8-1983, ông xuống Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo; ngày 11 đến 15-8-1984, sau khi dự Quốc khánh Campuchia, ông về Thành phố Hồ Chí Minh rồi đi khảo sát chính sách “bù giá vào lương” ở Long An523. Chuyến đi Long An có ấn tượng tốt. Theo ông Trần Nhâm: “Chưa bao giờ tôi thấy vẻ mặt ông rạng rỡ và tinh thần ông phấn chấn đến như thế”. Trong năm 1985, Trường Chinh tiếp tục nghiên cứu thực tế để củng cố tư duy đổi mới của ḿnh: ngày 16 đến 19-1-1985, ông trở lại Thành phố Hồ Chí Minh cùng Nguyễn Văn Linh thăm một số nhà máy, xí nghiệp có cách làm ăn mới mẻ; ngày 20 đến 23-1- 1985, ông trở lại Long An rồi từ đó đi An Giang, Đồng Tháp; chuyến đi kéo dài ba tuần lễ này kết thúc ở Cần Thơ vào ngày 5-2-1985. Cho dù, tháng 8-1985, Trường Chinh c̣n đi Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh và tới tháng 11-1985, ông xuống Hải Pḥng, theo ông Trần Nhâm, thực tế sinh động ở miền Nam đă “khắc họa tư duy đổi mới của Trường Chinh”.



    Đến chọc thủng thành tŕ bao cấp



    Kết quả nghiên cứu từ thực tiễn tới lư luận của Trường Chinh bắt đầu được ông tung ra tại Hội nghị Trung ương 6, họp từ ngày 3 đến 10-7-1984. Bài phát biểu của ông đă để lại một khoảng cách khá lớn giữa Trường Chinh và các đồng chí của ḿnh. Khoảng cách đó càng bộc lộ rơ khi ư kiến của ông được đặt bên cạnh bài phát biểu của Tổng Bí thư Lê Duẩn.

    Ông Lê Duẩn mở đầu Hội nghị Trung ương 6 bằng một bài phát biểu được chuẩn bị công phu. T́nh h́nh kinh tế lúc ấy đă lâm vào t́nh cảnh “tiến thoái lưỡng nan”, nhưng bản báo cáo của tổng bí thư vẫn “kiên định”: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; đưa ngay nông nghiệp lên sản xuất lớn xă hội chủ nghĩa; lấy kế hoạch làm trung tâm của hệ thống quản lư kinh tế; làm chủ tập thể trong phân phối lưu thông,… Ông cho rằng, kế hoạch “đặt lên hàng đầu giá trị sử dụng bằng cách cân đối hiện vật”524.

    Ngay sau báo cáo chính trị của tổng bí thư, ông Trường Chinh tŕnh bày một bài phát biểu dài khoảng ba mươi trang, yêu cầu trung ương “nh́n thẳng vào những sự thật trong đời sống kinh tế”. Trường Chinh nói: “Chế độ bao cấp trong những năm qua làm cho bức tranh kinh tế của chúng ta trở thành giả tạo”. Ông cho rằng: “Trên quan liêu nên dưới phá rào… t́nh trạng báo cáo sai sự thật đang lan tràn ở mọi ngành mọi cấp”. Trước hai hiện tượng tiêu cực, “quan liêu, bao cấp, bảo thủ, tŕ trệ” và “tự do chủ nghĩa, vô tổ chức, vô kỷ luật”, theo ông Trường Chinh, t́nh trạng “quan liêu, bao cấp, bảo thủ, tŕ trệ” nguy hiểm hơn.

    Ngay tại Hội nghị Trung ương này, ông Trường Chinh đă yêu cầu Đảng, dù muốn hay không “cũng phải thừa nhận sự tồn tại khách quan của giá thị trường, đó là giá thực tế mà cả xă hội dang phải sống hàng ngày với nó”. Trường Chinh kêu gọi “khôi phục tính chân thật của các hoạt động kinh tế”. Theo ông, bao cấp không những làm cho nhà nước “sa vào công việc sự vụ hàng ngày, làm thay công việc của các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế, can thiệp sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xă hội, bận bịu, tất bật đến nỗi không c̣n thời gian để suy nghĩ đến việc ḿnh phải cầm lái như thế nào”, mà c̣n dẫn tới “một hệ thống giá cứng nhắc và quá thấp, gây thiệt hại lớn đến lợi ích quốc gia và người lao động”525.

    Có không ít ủy viên trung ương ngạc nhiên khi “papa” Trường Chinh đưa ví dụ có nơi “lương giáo viên được trả bằng phân bón”. Ông nói trước hội nghị: “Giáo viên mang phân được trả với giá 7 đồng/kg bán ra thị trường với giá 50 đồng/kg để lấy tiền chi cho sinh hoạt”. Theo ông: “Tiền lương của người lao động hiện nay chỉ đủ sống trong mười ngày và đang có xu hướng giảm hơn nữa, kể cả khi được cung cấp các mặt hàng định lượng. Vậy c̣n hai mươi ngày nữa phải sống sao đây!”.

    Khi nghe Trường Chinh nhấn mạnh: “Giải quyết tiền lương lúc này, chính là giải quyết sản xuất, đồng thời cứu lấy giai cấp công nhân”, những người có mặt ở Hội nghị Trung ương 6 đă đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt. Trước đó, khi ông Trường Chinh nhắc đến cụm từ “tự động xé rào”, cả hội trường cười ầm lên. Bài phát biểu tại Hội nghị Trung ương 6 của Trường Chinh làm cho nhiều ủy viên trung ương “sửng sốt”. Ông Phạm Văn Đồng thừa nhận: “Anh Thận nói làm tôi rợn người”. Ngay sau hội nghị, các ngành, các địa phương đă phổ biến, truyền tụng những quan điểm chính yếu trong bài phát biểu này.
    Theo ông Hà Nghiệp, quan điểm của ông Trường Chinh tại Hội nghị Trung ương 6 rất khác với bản báo cáo của ông Lê Duẩn, nhưng đấy không phải là một cuộc đụng độ. Cho dù uy tín của Trường Chinh là rất lớn trong dân, trong Đảng, nhưng trước khi đưa ra Trung ương, ông vẫn thường trực tiếp cầm bài phát biểu của ḿnh sang trao đổi với ông Lê Duẩn526. Vào thời điểm ấy, sức khỏe của ông Lê Duẩn đă bắt đầu giảm sút. Có lẽ điều ông quan tâm lớn nhất là hệ thống hóa tư duy lư luận của ḿnh, nên thay v́ nắm bắt những ǵ đang diễn ra, bản báo cáo dài hơn bảy mươi trang của ông chủ yếu xoay quanh “mười quy luật kinh tế rường cột” đậm chất kế hoạch hóa xă hội chủ nghĩa mà mà ông đă nghiên cứu từ thời viết Dưới Ngọn Cờ Vẻ Vang Của Đảng527.



    Giá-Lương-Tiền



    Sau Hội nghị Trung ương 6, nhiều địa phương bắt đầu áp dụng thử chính sách “bù giá vào lương và tính đủ giá thành vào sản phẩm”. Kết quả trên thực tế diễn ra tích cực không ngờ. Năm tháng sau đó, tại Hội nghị Trung ương 7, họp từ ngày 10 đến 17-12-1984, Trường Chinh kêu gọi: “Dứt khoát băi bỏ cơ chế quan liêu bao cấp. Phải mổ xẻ và loại bỏ cái ung nhọt này càng sớm càng hay. Không một chút ǵ đáng để chúng ta luyến tiếc”. Hội nghị Trung ương 7 đă nhất trí với đề nghị của ông Trường Chinh, cho thành lập Tiểu Ban Nghiên cứu Giá-Lương-Tiền, chuẩn bị đề án tŕnh Hội nghị Trung ương 8.

    Hội nghị Trung ương 8, tháng 6-1985, đă coi việc giải quyết giá-lương-tiền là “khâu đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xă hội chủ nghĩa”. Hai tháng sau khi có nghị quyết, số lượng các địa phương làm thử bù giá vào lương lên đến hai mươi tám tỉnh, thành; mười hai tỉnh, thành khác cũng tích cực chuẩn bị. Người đứng đầu “Bộ Tham mưu” cải cách Giá-Lương- Tiền là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Phương, một chuyên gia hàng đầu của bộ máy kế hoạch hóa tập trung; giúp việc ông là sáu bộ trưởng và tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước. Ông Hà Nghiệp gọi ông Trần Phương là người “cấp tiến nhất trong phe bảo thủ”. C̣n ông Trần Phương th́ thừa nhận: “Khi đó bọn ḿnh
    nghĩ về giá c̣n ngây thơ lắm”.

    Sở dĩ các địa phương như Long An, Hải Pḥng,… thí điểm bù giá vào lương thành công là nhờ mức bù giá căn cứ trên giá bán được “những hiện vật tính thành lương” như xà bông, vải, gạo, thịt,… Trong khi, để thực hiện Nghị quyết 8, ngày 10-8-1985, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 28: phê chuẩn mức giá mua thóc từ 15-18 đồng/kg, ở vùng thuận lợi từ 26-28 đồng/kg ở vùng khó khăn; phê chuẩn mức lương tối thiểu cho cán bộ công nhân viên 2.200 đồng/tháng… Mức giá mua thóc lên đến từ 26-28 đồng/kg là dựa trên ư kiến của chính ông Trương Chinh trong khi mức giá được đề nghị là 10 đồng/kg. Ông Trường Chinh đă đúng khi cho rằng nếu mua thóc với giá mười đồng th́ vẫn theo tư duy bao cấp. Tuy nhiên, theo ông Trần Phương, từ chuẩn giá thóc như vậy, các loại vật tư hàng hóa khác cũng phải điều chỉnh tăng lên khoảng mười lần.

  2. #32
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương X: Đổi mới
    P3



    Theo ông Trần Phương: “Đầu thập niên 1980, Việt Nam có một triệu rưỡi quân, hai triệu cán bộ công nhân viên chức và mười triệu dân thành phố. Để cung cấp lương thực, thực phẩm cho lực lượng này, Bộ Nội thương đă phải ép nông dân để mua thóc và lợn với giá chỉ bằng một nửa giá mà người dân trao đổi với nhau ngoài chợ. Với tư cách một nhà nghiên cứu, tôi chống lại điều phi lư đó. Ngay từ năm 1981, khi làm bộ trưởng Bộ Nội thương, tôi đă yêu cầu phải sửa giá chuyển sang giá thỏa thuận, sửa giá toàn bộ và sửa lương. Đề án của tôi tŕnh ra như một quả bom, các bộ ai cũng run. Lê Duẩn kết luận: phải theo kế hoạch nhưng giá phải theo thị trường”.

    Đề án “Giá-Lương-Tiền” năm 1985 của Trần Phương “dè dặt hơn” Đề án 1981 v́ theo ông: “Quỹ hàng hóa năm 1985 eo hẹp hơn”. Thời gian này, ông Lê Duẩn ốm, vài tháng phải sang Liên Xô điều trị một lần. Theo thường lệ, “nhân vật số hai” Trường Chinh thay thế chủ tŕ các hội nghị Bộ Chính trị. Trường Chinh kết luận: Làm ngay một bước, không làm từng bước, theo đề án của ḿnh. Nhưng, khi ra Hội đồng Chính phủ, bộ trưởng Bộ Cơ khí tuyên bố nếu giá bán vật tư như vậy th́ các xí nghiệp cơ khí sẽ phải đóng cửa, các bộ trưởng khác cũng nói, nếu làm ngay một giá hàng công nghiệp không bán được. Ông Phạm Văn Đồng kết luận: “Vật tư công nghiệp lấy bằng 70% giá thị trường”. Thực tế cho thấy nhà nước nắm hai khối hàng và trong khi hàng công nghiệp bán ra chỉ bằng 70% giá thị trường, phải mua lại nông sản với giá bằng 100% thị trường. Chưa làm đă thấy quỹ hàng hóa công nghiệp bán sẽ không đủ bù mua quỹ hàng nông nghiệp.

    Mất cân đối về lư thuyết lại xuất hiện thêm khi ông Vơ Chí Công chủ tŕ một hội nghị của Ban Bí thư với các địa phương. Đề án bỏ lương hiện vật bằng tiền lương, nhưng theo tính toán th́ chỉ có thể tăng lương lên 20%. Các tỉnh nói mức lương đó chỉ đủ ăn một tuần, các tỉnh miền Nam đề nghị tăng lương lên bằng 100%. Trần Phương phản đối th́ Vơ Chí Công nói: “Tôi thật không hiểu anh Phương. Mức lương này sao sống được?”. Trần Phương: “Thưa anh, tôi hiểu mức lương này sống rất khốn nạn, nhưng nhà nước đang không có tiền”. Cho dù ngân sách không có, Vơ Chí Công vẫn kết luận: “Chấp nhận đề án do các tỉnh miền Nam đề nghị, tăng lương tối thiểu lên 100%”. Chính hai quyết định trên đây đă dẫn tới lạm phát.

    Theo mức giá mới, Hội đồng Bộ trưởng tính toán nền kinh tế cần phải có một lượng tiền mặt lên tới 120 tỷ đồng để lưu thông. Nhưng lượng tiền phát hành trên thực tế chỉ mới có khoảng sáu mươi tỷ đồng, lấy đâu ra thêm sáu mươi tỷ đồng tiền giấy? Theo ông Trần Phương, tháng 8-1985, nhân có mười hai tỷ đồng tiền mới được in từ Đông Đức đưa về, Hội đồng Bộ trưởng tính toán nếu in thêm cho đủ lượng tiền cần thiết th́ không thể kịp và tốn kém nên quyết định nâng mệnh giá đồng tiền mới này lên mười lần rồi đổi tiền để biến mười hai tỷ đồng thành 120 tỷ đồng, thỏa măn nhu cầu lưu thông theo “Giá-Lương-Tiền” mới.

    Ông Trường Chinh không đồng t́nh với cách làm này. Ngày 29-8-1985, ông gửi thư tới Tổng Bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và các phó của ông Đồng, Vơ Chí Công, Đỗ Mười, Tố Hữu. Thư Trường Chinh viết: “Riêng về tiền, sắp tới có mười hai tỷ đồng tiền mới, tương đương với 120 tỷ đồng hiện nay. So với lương mới và giá mới sắp tới th́ số tiền đó là chưa đủ, tiền sẽ tiếp tục căng thẳng. Nên chăng đề nghị các anh tính lại, không đổi tiền mà cho lưu hành song song hai đồng tiền với tỷ lệ một đồng mới ăn mười đồng cũ. Như vậy, có thêm hơn sáu mươi tỷ đồng hiện nay cứ cho tiếp tục lưu hành, lặng lẽ thu hồi và hủy dần khi có tiền mới về tiếp, tránh được căng thẳng về tiền mặt, bảo đảm yêu cầu của sản xuất, thu mua, kinh doanh đang chuyển theo cơ chế mới, không gây xáo trộn về tâm lư”528. Thư gửi đi chưa được trả lời, ngày 1-9-1985, khi họp Bộ Chính trị, Trường Chinh lại nhắc lại đề nghị trên. Phạm Văn Đồng giải thích: “Ư kiến Anh Năm cũng hợp lư, nhưng mọi việc đă chuẩn bị hết cả rồi. Chúng ta đang cưỡi lên lưng hổ, không thể xuống được nữa”. Theo Trần Nhâm: “Ông chấp hành quyết định của Bộ Chính trị và sáng ngày 3-9-1985, nhân danh là chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Trường Chinh đặt bút kư sắc lệnh đổi tiền mà trong ḷng rất áy náy”.

    Tuần lễ sau đó, tiền mặt được vận chuyển vào Nam qua sân bay Tân Sơn Nhất; các cửa hàng thương nghiệp quốc doanh không bán các mặt hàng cao cấp; các ngân hàng không nhận tiền nộp vào. Ngày 11-9-1985, phần lớn nhân viên ngân hàng bị giữ lại trụ sở. Tin tức đổi tiền bắt đầu lọt ra. Trong khi đó, ngày 12-9-1985, báo Tuổi Trẻ vẫn chạy tít lớn trên trang nhất: “Bẻ găy thủ đoạn tung tin đổi tiền của gian thương”. Bài báo đanh thép tuyên bố: “Với sự tăng cường hiệu lực của bộ máy chuyên chính vô sản mọi hậu quả tin đồn phải được thanh toán triệt để”.

    Để rồi, sáng 14-9-1985, hệ thống loa truyền thanh giăng mắc khắp các góc phố bắt đầu thông báo lệnh đổi tiền. Chính báo Tuổi Trẻ, trong số kế tiếp, ra ngày 14-9- 1985, cũng đăng quyết định của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm văn Đồng về việc “phát hành tiền ngân hàng mới, thu đổi tiền cũ”. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Phan Văn Khải lên báo giải thích: “Đổi tiền là v́ lợi ích của nhân dân lao động”.

    “Quyết định đổi tiền không phải là hoàn toàn bất ngờ đối với mọi người dân. Ấy thế mà lúc sáu giờ sáng thứ bảy, ngày 14-9, khi nghe loa truyền thanh trên đường phố tiếp âm Đài Tiếng nói Việt Nam bắt đầu thông báo chương tŕnh phát thanh đặc biệt kéo dài đến 7 giờ 15 th́ những người ra đường sớm đều dừng lại, đứng chụm nhum thành từng nhóm để nghe cho hết từng quyết định, thông báo. Và từ đó, tin đổi tiền thành đề tài số một ở tất cả mọi nơi, của tất cả mọi người”529.

    Không sững sờ sao được khi cả thành phố gần bốn triệu dân, chính quyền chỉ thiết lập 900 bàn đổi tiền và chỉ cho “nhân dân lao động” có một khoảng thời gian rất ngắn, trong ṿng từ sáu đến mười hai giờ trưa ngày 14-9, để kê khai; người dân chỉ được kê khai một lần và chỉ được đổi ngay một phần. Theo quyết định do Phạm Văn Đồng kư ngày 13-9-1985: mỗi hộ gia đ́nh được đổi ngay tối đa 2.000 đồng tiền mới; mỗi hộ độc thân và mỗi người trong hộ tập thể (bộ đội, công an, cơ quan nhà nươc) được đổi ngay tối đa 1.500 đồng; mỗi hộ kinh doanh có môn bài bậc cao được đổi ngay tối đa 5.000 đồng tiền mới. Đối với số vượt mức đổi ngay th́ nộp cho bàn đổi tiền, lấy biên nhận, Ban Chỉ đạo Thu Đổi Tiền cấp tỉnh, thành phố, quận
    huyện sẽ xem xét và giải quyết sau. Đặc biệt: “Số tiền mặt do đầu cơ, buôn lậu, nhận tiền phân tán và do nguồn thu nhập bất chính khác đều bị tịch thu, nhập vào tài khoản của ngân sách”.

    Hàng ngh́n câu chuyện dở khóc dở cười đă xảy ra do cách mà nhà nước đối xử với tiền bạc của người dân theo kiểu đánh úp này. Do có hộ chỉ có bốn mươi đồng tiền cũ để đổi nên “dịch vụ” đổi tiền giúp đă phát sinh giữa những người không có lượng tiền mặt vượt quá mức 2.000 đồng tiền mới với các gia đ́nh giàu có. Bằng kinh nghiệm lần đổi tiền thứ nhất trong “Chiến dịch X3”, biết trước tương lai mất giá của những đồng tiền “vượt mức đổi ngay” nộp cho ngân hàng rồi chờ “xem xét giải quyết sau”, nhiều người đă tung tiền ra mua hàng.

    Theo Sài G̣n Giải Phóng, ngay trong sáng 14-9-1985, ở chợ An Lạc, giá một con vịt lên tới 3.000 đồng tiền cũ; một kư thịt heo lên tới 2.000 đồng, trong khi một kư thịt heo nạc bán trước ngày đổi tiền chỉ là 325 đồng tiền cũ. Trước chín giờ sáng ngày 14-9-1985, các đội kiểm soát đă bắt “một gian thương” mua gom chín tấn gạo. Cũng trong buổi sáng, Quản lư Thị trường đă “phát hiện” tại Quận 10 “một hộ đầu cơ phụ tùng xe đạp; một hộ chứa vải bất hợp pháp; một hộ buôn vàng và đá quư, tịch thu một khối lượng tiền mặt lên tới 380.000 đồng tiền cũ”.

    Bi kịch cũng không tha các cơ quan nhà nước. Ngân hàng biết trước chuyện đổi tiền từ trước đó, không những đă không chịu thu tiền về mà c̣n t́m cách dí tiền mặt xuống cho các cơ quan, đơn vị. Ông Trần văn Thêm, giám đốc Dệt B́nh Minh kể: “Sáng 13-9-1985, ngân hàng ấn cho chúng tôi gần một triệu đồng, bây giờ chúng tôi phải vất vả giải tŕnh”530. Ngay trong ngày 15-9, nhiều xí nghiệp đă phải ngưng hoạt động v́ tiền cũ nộp, đi tiền mới chưa được cầm, không có tiền lo bữa ăn giữa ca cho công nhân. Dệt B́nh Minh có 900 công nhân, chỉ nhận được 5.000 đồng. May Ḥa B́nh nhận được 2.500 đồng. T́nh cảnh của nhiều cá nhân, đặc biệt là với những người đang bị xếp vào diện “khách văng lai”, th́ lại c̣n bi kịch hơn gấp bội.

    Vài ngày sau đổi tiền, ông Vơ Văn Kiệt gửi thư báo cáo Phạm Văn Đồng và ông Trường Chinh: “Kết quả của việc đổi tiền cho thấy tiền nằm trong nhân dân tương đối ít, số hộ có số tiền đổi thấp là khá đông, cho chúng ta một kết luận đáng suy nghĩ và day dứt về mức sống của nhân dân lao động hiện nay. Một kết quả khác cho thấy tiền nằm trong tay tư sản không đáng kể, chúng ta đă ‘đánh hụt’ v́ để cho bọn chúng quá nhiều th́ giờ để chuẩn bị đối phó, thẳng tay thu gom, vơ vét hàng của nhà nước và chuyển tài sản từ tiền ra những giá trị khác”531.

    Cũng theo ông Vơ Văn Kiệt: “Chúng ta có nhiều sơ hở trong vụ đổi tiền, gây nên những hậu quả bất lợi đáng quan tâm. Sự thiếu bảo mật đă làm cho hàng của nhà nước tuồn hết về người có tiền, tiền của các hộ buôn bán lớn chuyển hết cho các xí nghiệp, công ty nhà nước, và thương nghiệp bị rút hết hàng nhanh chóng, suy yếu khả năng chống đỡ trên thị trường. Chúng ta không thực sự chuẩn bị cho một vụ đổi tiền, một đồng mới ăn mười đồng tiền cũ, không chuẩn bị một cơ cấu giấy bạc của tiền mới thích nghi với nhu cầu thanh toán nhỏ. Giả dụ rằng chúng ta chỉ phát hành đến mức năm mươi đồng tiền mới và nhiều đơn vị tiền lẻ, t́nh h́nh có lẽ đỡ xấu hơn”.

    Sau khi tiền mới được tung ra, giá cả tăng c̣n nhanh hơn ngựa chạy. Ngay trong ngày 15-9-1985, Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh đă phải tổ chức hội thảo và sau đó cho lập các “đội thanh niên kiểm tra giá”. Ủy ban Nhân dân Thành phố tuyên bố “Rút giấy phép kinh doanh những ai bán phá giá”. Nhưng giá cả đă tỏ ra không hề sợ hăi chính quyền. Nhiều người dân khi nhận được đồng tiền mới, sức mua đă giảm hàng chục lần khi họ giao tiền cũ cho nhà nước. T́nh h́nh xấu đi trông thấy: ngân hàng thiếu tiền, thương nghiệp thiếu hàng, công nghiệp thiếu vật tư, công nhân đói v́ cầm đồng tiền mất giá, nông dân khóc v́ phải bán nông sản với giá thấp hơn chi phí bỏ ra. Sản xuất giảm. Đầu tư nhà nước giảm. Chỉ số giá bán lẻ trên thị trường tự do năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985.

    Lạm phát chưa phải là thảm họa duy nhất của nền kinh tế. Như ông Kiệt phân tích, mệnh giá thấp nhất của đồng tiền mới tự dưng bị nâng lên gấp mười, một đồng tiền mới có sức mua theo lư thuyết bằng mười đồng tiền cũ. Cho dù loại giấy bạc từ mười đồng tiền cũ trở xuống vẫn c̣n được lưu thông, nhưng nếu dùng một đồng tiền mới để mua một que kem th́ phải nhận thối về một ôm tiền lẻ. Sự bất măn tăng nhanh trong xă hội.

    Tháng 12-1985, Quốc hội khóa VII triệu tập kỳ họp thứ 10. Trước khi ra Hà Nội, đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Cửu Long quyết định phải “nă pháo” vào Giá-Lương- Tiền. Người nhận lănh trách nhiệm này, bà Đào Thị Biểu, với biệt danh là bà Sáu Trầu, kể lại: “Trước khi đi họp, anh Trịnh Văn Lâu, trưởng đoàn hỏi: ai dám phát biểu? Nhiều người xung phong. Nhưng anh nói, vấn đề gay gắt lắm, phải có giọng nữ nhẹ nhàng, nói năng từ tốn, thành tích kháng chiến tốt, phải dũng cảm, có thể ‘hy sinh’. Tôi nghĩ ḿnh phát biểu là đem ư dân gửi cho Đảng, để dân mất ḷng tin vào Đảng là ḿnh có tội. Thế là tôi nhận”.

    Bài phát biểu đă được chuẩn bị sẵn từ ở nhà và đă nộp cho chủ tịch đoàn Quốc hội đăng kư tham luận theo nguyên tắc của thời kỳ đó. Nhưng, theo bà Sáu Trầu, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, khi đọc “Báo cáo T́nh h́nh Kinh tế Xă hội” trước Quốc hội, đă “đổ thêm dầu vào lửa” bằng cách phê b́nh các địa phương “không biết phát huy thế mạnh đổi tiền”. Lúc đó, theo bà Sáu Trầu: “Giá tăng cao gấp mười lần. Lương người sản xuất thấp lẹt đẹt, c̣n lương kinh doanh cao ngút trời. Tiền th́ không có tiền lẻ; mua thuốc, ăn hủ tiếu… phải thế lại giấy chứng minh. Giá vé xe đ̣ tăng cao gấp năm đến bảy lần, nhiều người về xa không đủ tiền phải nằm lại bến. Cuộc sống xă hội đầy khó khăn như phơi bày ra đó, cử tri cực kỳ bức xúc. Phải chăng đó là ưu thế!”.

    Bà Sáu và đoàn đại biểu Quốc hội Cửu Long quyết định viết lại bài phát biểu, nói thẳng vào vấn đề hơn. Trước khi lên diễn đàn, bà Sáu Trầu dặn các đồng chí của ḿnh: “Gia đ́nh tôi năm người tham gia cách mạng, hy sinh hết bốn rồi, giờ dẫu có ‘hy sinh’ thêm nữa th́ cũng chẳng sao. Nếu tôi có bị sao th́ nhớ chăm sóc con tôi và giáo dục nó sống tốt, xứng đáng như mẹ nó”.

    Ngày cuối cùng của kỳ họp, trước giờ bế mạc, bà Sáu – với h́nh ảnh được gần 500 đại biểu ghi nhớ: “một phụ nữ miền Nam phúc hậu, ăn trầu bỏm bẻm” – bước lên diễn đàn, chất vấn thẳng vào vấn đề: “Chúng tôi cho rằng mười năm qua chưa lần nào dân xôn xao, bất b́nh, thậm chí phẫn nộ bằng đợt phá giá-lương-tiền vừa qua. Chúng tôi đă chứng kiến biết bao cảnh các cửa hàng ách tắc, bao nhiêu cuộc căi vă xô xát, bao nhiêu tiêu cực: vo tṛn giá hay nâng giá v́ thiếu tiền lẻ và mua bán tiền lẻ… Trung ương nói địa phương không biết phát huy ưu thế sau đổi tiền, nhưng ưu thế ǵ mà phát huy? Giá cả tăng năm, bảy lần so với trước, có thứ gấp mười, mười lăm lần, đội rất xa giá thị trường. Chúng tôi chứng kiến cảnh bắt và tịch thu hàng của người tự sản, tự tiêu v́ bán giá thấp hơn giá nhà nước quy định, đạo lư ǵ phải làm như vậy? Đồng chí Đỗ Mười nói rằng tỷ giá công nông hiện nay đă rất hợp lư, thậm chí nông dân c̣n có lợi nhiều hơn trước. Chúng tôi chưa nhất trí với nhận định đó”. Bà Sáu Trầu nói tới đâu “cả hội trường vỗ tay rần rần” đến đó. Hôm ấy, khi bà Sáu về pḥng, nhiều đoàn đại biểu Quốc hội gơ cửa và tặng bà rất nhiều… trầu cau. Bà Sáu Đào Thị Biểu nói: “Họ đồng cảm v́ khó khăn ở đâu cũng vậy nhưng chưa dám nói”.

    Sau kỳ họp này, ông Trần Phương nhớ lại: Tôi quyết định phải từ chức nhưng khi chia sẻ điều này với Đồng Sỹ Nguyên, Bộ trưởng Bộ Giao thông Đồng Sỹ Nguyên nói: “Nếu từ chức, phải từ chức cả Hội đồng Bộ trưởng”. Tôi bảo: “Đằng nào cũng phải có người chịu trách nhiệm. Nếu ḿnh tôi chịu trách nhiệm được với dân th́ không nhất thiết phải kéo thêm nhiều người”. Trần Phương bị kỷ luật, nhưng ngay từ lúc đó, dân gian đă nói: “Đổi tiền là chuyện Triều đ́nh / Cớ sao chịu tội một ḿnh Trần Phương”.

    Sự nghiệp chính trị của ông Trường Chinh có những t́nh huống thật éo le. Phản đối đổi tiền, nhưng khi không thuyết phục được Bộ Chính trị, sáng 3-9-1985, ông vẫn nhân danh chủ tịch Hội đồng Nhà nước kư sắc lệnh đổi tiền. Là một trong những nhà lănh đạo cao nhất của Đảng, Trường Chinh đồng thời cũng phải phục tùng cái tập thể mà ông lănh đạo đó. Là người đưa ra “thuyết ba giai đoạn” trong Đại hội II, năm 1951, theo đó trước hết phải giảm tô, giảm tức rồi mới đi đến cải cách ruộng đất, nhưng khi Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận sức ép của Mao Trạch Đông và Stalin, vội vàng cải cách ruộng đất, Trường Chinh vẫn nhận trách nhiệm chủ tịch Ủy ban Cải cách Ruộng đất. Để rồi khi Hồ Chí Minh “sửa sai”, ông lại một ḿnh mất chức.
    Ông Trần Nhâm viết: “Sau khi Trường Chinh kư Sắc lệnh Đổi tiền, khắp nơi gửi thư đến phàn nàn, nhiều cán bộ cách mạng lăo thành gặp ông trách cứ: sao quan điểm của anh đổi mới thế mà việc làm của anh lại khác như vậy? Ông cười x̣a nói: đó là quyết định của Bộ Chính trị, chứ không phải của một cá nhân nào. Ông thà chịu đựng trước búa ŕu của sự phê phán đối với cá nhân ông, chứ không bao giờ vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồi Cải cách ruộng đất cũng vậy, ông tự phê b́nh nghiêm khắc, tự nguyện rút khỏi cương vị tổng bí thư. Ông thường tâm sự với chúng tôi: làm cách mạng không phải lúc nào cũng suôn sẻ, có việc muốn làm th́ không làm được, có việc không nên th́ lại cứ làm, người ta ai nói ǵ th́ tùy họ, miễn là không thẹn với ḷng. Việc đổi tiền ông đă làm hết sức ḿnh để ngăn không cho nó xảy ra, nhưng cuối cùng nó vẫn xảy ra”532.

    Sau “Giá-Lương-Tiền”, có ư kiến cho rằng thất bại của tổng điều chỉnh Giá-Lương-Tiền có nguyên nhân từ Nghị quyết Trung ương 8. Tại Hội nghị Trung ương 9, họp từ ngày 9 đến 16-12-1985, Trường Chinh cho rằng Nghị quyết Trung ương 8 là “nghị quyết đi vào cuộc sống nhanh nhất và có hiệu quả cao nhất. Song, điều đáng tiếc là trong chỉ đạo thực hiện, chúng ta đă phạm một loạt sai lầm, khuyết điểm… Chúng ta đă nặng về điều chỉnh mặt bằng giá và lương mà coi nhẹ đổi mới cơ chế quản lư… Nghị quyết Trung ương Tám chưa được triển khai thực hiện tốt, cơ chế quản lư mới chưa kịp h́nh thành th́ đùng một cái chúng ta đă tiến hành đổi tiền trong thế bị động. Lẽ ra có thể giải quyết việc thiếu tiền theo cách khác”533.

    Quan điểm của Trường Chinh tiếp tục có thêm thành viên trong Bộ Chính trị đồng t́nh ủng hộ. Ngày 19-2-1986, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch phát biểu trong một phiên họp của Bộ Chính trị534: “Sức mạnh của chủ nghĩa xă hội và sức mạnh của nền chuyên chính vô sản cũng không thể đi ngược lại với những quy luật kinh tế…”. Ông Thạch cho rằng: “Một chính sách của nhà nước vừa ban hành là người dân cần phải tính toán ngay để quyết định sản xuất cái ǵ, mua cái ǵ. Nhưng bộ máy tính giá của Ủy ban Vật giá phải mất một năm mới tính toán xong. Hệ thống giá cả đó gửi đi mỗi tỉnh tốn mỗi năm bốn mươi tấn giấy”. Ông Thạch nêu ví dụ điển h́nh về tính phi lư của giá: “Giá báo Nhân Dân rẻ quá đưa đến t́nh trạng con buôn mua gom báo để làm giấy gói hàng c̣n người cần đọc báo th́ không c̣n báo”.

    Trước thềm Hội nghị Trung ương 10, Trần Phương gửi tới các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương một bản giải tŕnh dài chín mươi hai trang, tiếp tục bảo vệ quan điểm “quy tội” cho Nghị quyết 8. Nhóm chuyên gia của Trường Chinh, trực tiếp là Trần Đức Nguyên, lập tức làm việc suốt ngày đêm chuẩn bị cho Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Lam một bài phát biểu ba mươi trang, lần lượt phản bác lại “giải tŕnh chín mươi hai trang” của Trần Phương. Tháng 6-1986, Hội nghị Trung ương 10 kết luận chính thức: “Nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương và các Nghị quyết 28, 31 của Bộ Chính trị về Giá-Lương-Tiền là đúng đắn”.



    Nă pháo vào bộ tổng



    Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 cho thấy khuynh hướng đổi mới mà Trường Chinh khởi xướng đang thắng thế, cho dù từ đầu năm 1986, Trường Chinh bắt đầu gặp phản công. Có lẽ do uy tín của Trường Chinh trong Đảng quá lớn, và do ông đă rất chặt chẽ khi bắt đầu tiến tŕnh đưa ra các quan điểm của ḿnh, nên không ai dám có phản ứng đích danh.

    Nhưng đầu năm 1986, khi Giáo sư Đào Xuân Sâm, một chuyên gia trong nhóm Trường Chinh, công khai đưa ra khái niệm “thị trường có tổ chức”, nó đă bị coi như là một “quả bom” v́ động đến nơi linh thiêng nhất của nền kinh tế kế hoạch hóa.

    Sau khi cho rằng không thể “lẩn trốn thị trường” nếu muốn thoát ra khỏi “quan liêu bao cấp”, Đào Xuân Sâm đă dẫn câu nói của Lenin: “Đi với chó sói th́ phải gào lên”.

    Tháng 3-1986, Ban bí thư tổ chức hội thảo, giáo sư Đào Xuân Sâm được mời và ông có bài phát biểu: “Kinh doanh xă hội chủ nghĩa và quyền tự chủ của người kinh doanh”. Một số nhân vật trong Ban Bí thư khen phát biểu ấy nên báo Nhân Dân lấy đăng ở mục Diễn đàn liên tiếp ba số báo từ ngày 17 đến 19-3-1986. Nhưng theo giáo sư Đào Xuân Sâm: “Đúng lúc ấy Bộ Chính trị họp, Đỗ Mười, Tố Hữu phê phán rất căng. Đỗ Mười nói: thằng này nă trọng pháo vào bộ Tổng”.

    Ngày 20-3-1986, Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước Phan Văn Tiệm nhận xét trong một cuộc giao ban của ủy ban: “Những biện luận của vị giáo sư trên báo Nhân Dân mấy ngày qua chỉ là một suy nghĩ ngông cuồng”. Báo Nhân Dân sau đó cũng liên tiếp viết bài phê phán quan điểm của Đào Xuân Sâm, cùng lúc, các tạp chí như Nghiên cứu Kinh tế, Thông tin Lư luận đăng nhiều bài lên án. Các “nhà lư luận kiên định” coi Đào Xuân Sâm như là một “Otar Sik535 của Việt Nam”. Cho dù ông không có được một hệ thống lư thuyết hoàn chỉnh về “tự do hóa nền kinh tế xă hội chủ nghĩa theo cơ chế thị trường” như Otar Sik, giới nghiên cứu chính thống và Học viện Nguyễn Ái Quốc vẫn muốn xếp ông vào diện “xét lại”.

    Bài viết của Đào Xuân Sâm c̣n bị các chuyên gia Liên Xô phê phán, nhất là sau khi Trưởng đoàn Paskar có buổi làm việc trực tiếp với Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười. Ngày 8-5-1986, sau hơn một tháng trở lại Việt Nam, đoàn Chuyên gia Kinh tế Cao cấp Liên Xô đă gặp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng, các Phó Chủ tịch: Vơ Chí Công, Tố Hữu, Đỗ Mười, Vơ Văn Kiệt. Phía Liên Xô, ngoài Đại sứ Sepplin, Cố vấn trưởng Paskar, c̣n có ba tiến sỹ, trong đó có viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế toàn Liên Bang, ba phó tiến sỹ khoa học kinh tế và những chuyên gia có kinh nghiệm khác.

    Sau khi ghi nhận những “chuyển biến quan trọng”, Paskarđă chỉ ra nhiều “thiếu sót nghiêm trọng” trong phát triển kinh tế536. Về công nghiệp, Paskar cho rằng: “một số ngành sản xuất đang đi chệch những chỉ tiêu kế hoạch; nhiều nhà máy được xây dựng chỉ sử dụng 50% công suất”. Về t́nh trạng cung cấp vật tư, Paskar phê phán những thành quả “xé rào”. Paskar cho rằng “khó khăn của xí nghiệp, nhà máy là ở chỗ, các xí nghiệp có quyền mua bán vật tư theo giá thỏa thuận”. Sau khi cảnh báo hiện tượng “chưa tập trung đúng mức quyền lực vào trung ương”, ông nói: “Chúng tôi theo dơi cuộc tranh luận trên báo chí ở Việt Nam; h́nh như có những người phê phán trung ương tập trung quan liêu làm cho địa phương không hoạt động được”.

    Sau khi nhấn mạnh “quyền lực của nhà nước trung ương”, cố vấn Paskar nói: “Chúng tôi cảm thấy Việt Nam hiện đang có hai trào lưu: trào lưu phi tập trung hóa, giao thêm quyền lực cho địa phương và giao lưu thông phân phối cho thị trường tự do; trào lưu thứ hai là tập trung quyền lực và kế hoạch”. Dừng lại một chút, Paskar tuyên bố: “Chúng tôi gia nhập trào lưu thứ hai này!”. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng phụ họa: “Không thể khác được đồng chí Paskar ạ!”. Vơ Chí Công bổ sung: “Trào lưu thứ nhất chỉ có một ít thôi. Bài báo của Đào Xuân Sâm là sai. Chúng tôi đă cấm và kiểm điểm ṭa soạn”. Paskar phấn khởi: “Chúng tôi muốn nói tới bài báo đó. Không thể có chủ nghĩa xă hội nếu giao lưu thông phân phối cho tư thương. Không thể có chủ nghĩa xă hội nếu sản xuất không có kế hoạch. Từ bỏ kế hoạch th́ chủ nghĩa xă hội chỉ c̣n khẩu hiệu, không ai thừa nhận đó là chủ nghĩa xă hội”. Paskar kết thúc cuộc họp: “Bây giờ phải tăng cường kỷ luật lập lại trật tự”. Khi ấy, Liên Xô đang cấp cho Việt Nam mỗi năm một tỷ rúp.



    Khép lại trang sử Lê Duẩn



    Cho dù ở trường Nguyễn Ái Quốc, quy tŕnh phong hàm giáo sư cho ông Sâm bị tŕ hoăn sau nhận xét của Đỗ Mười và Cố vấn Paskar, Đào Xuân Sâm tiếp tục được mời tới các cuộc thảo luận trong nhóm nghiên cứu của Trường Chinh. T́nh h́nh đất nước vào thời điểm ấy đă vô cùng nguy ngập. Trường Chinh biết rơ Đảng đang ở trong t́nh thế “đổi mới hay là chết”. Trong cuộc đời của làm cách mạng của ḿnh, đây chính là cơ hội để Trường Chinh khắc phục những sai lầm không chỉ là của Đảng mà cả của chính cá nhân ông nữa.

    Theo ông Trần Nhâm: “Sáng 29-9-1988, một ngày trước khi ông Trường Chinh mất, khi làm việc với ông, tôi có hỏi, tại sao khi đó bác lại làm lớn chuyện ‘khoán Vĩnh Phú’ lên vậy? Ông điềm tĩnh trả lời tôi rằng có lẽ lúc bấy giờ nhận thức của ḿnh không bắt kịp thực tế, trong khi những thông tin được báo cáo lên lại không chính xác”537.

    Ông Trần Phương cho rằng: “Trường Chinh đổi mới như thế là quá chậm, sau hai mươi lăm năm thôi chức tổng bí thư, có thời gian nghiên cứu hơn, nhưng cũng phải tới gần cuối đời, ông mới giác ngộ được. Nếu khi giải phóng miền Nam mà Trường Chinh cũng nh́n được như Lê Duẩn th́ t́nh h́nh đă khác. Khi đó, Lê Duẩn nhận ra không thể áp dụng chính sách kinh tế ở miền Nam giống như những ǵ đă làm ở miền Bắc. Nhưng nh́n qua nh́n lại không có ai đồng t́nh, Trường Chinh th́ im lặng”. Ông Trường Chinh không chỉ bỏ qua cơ hội sau năm 1975. Cuộc cải cách lần thứ nhất ở Hội nghị Trung ương 6, khóa IV năm 1979, cũng không có ông.

    Nghị quyết Trung ương 6 năm 1979, cho dù đă kích thích sự “bung ra” ở nhiều nơi nhưng cũng chỉ là một “tháo gỡ” nửa vời thay v́ thay đổi trên nền tảng tư duy, nên từ sau Đại hội V, khi t́nh h́nh tiếp tục khó khăn, xu hướng quay lại đă xuất hiện. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, tháng 12-1983 và Hội nghị Trung ương 6, tháng 7-1984, vẫn c̣n đánh giá nguyên nhân của t́nh h́nh khó khăn là do “chậm cải tạo xă hội chủ nghĩa và cải tạo thị trường tự do”. Tháng 1-1983, Trường Chinh vẫn kư Nghị quyết 8 của Bộ Chính trị chuyên đề về Hà Nội. Nghị quyết được nói là có thêm những “t́nh tiết tăng nặng” để “Chiến dịch Z-30” tiến hành “cải tạo lần hai”.

    Tới năm 1986, Trường Chinh đă đi được một quăng đường khá dài, đă ra khỏi “tháp ngà”, đă đến tận cơ sở để lắng nghe thay v́ tin vào các báo cáo mà ông nhận ra là dối trá. Từ năm 1982 cho đến năm 1986, trên diễn đàn các hội nghị trung ương, Trường Chinh thẳng thắn và đầy sức thuyết phục, đấu tranh không khoan nhượng, từng bước xác lập nền tảng lư luận để giải thích thực tế và bắt đầu đổi mới. Thủ tướng Phan Văn Khải, khóa V là ủy viên dự khuyết Trung ương, nhớ lại: “Khi đó, những bài phát biểu của Trường Chinh liên tục nhận được nhiều tràng pháo tay. Ư kiến của ông rất mới mẻ và thực sự làm thay đổi tư duy của Đảng”.

    Sức khỏe của Tổng Bí thư Lê Duẩn cũng đă đóng một vai tṛ quan trọng trong những diễn biến chính trị trước Đại hội VI. Theo bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ thứ hai của ông Lê Duẩn: “Đầu năm 1986, những vết sẹo phổi có từ hồi nằm Côn Đảo bị đánh bầm dập nay phát sinh nước trong phổi. Anh đi Liên Xô điều trị… Khi từ Liên Xô trở về, anh nằm dưỡng bệnh ở Biệt thự số 7 Hồ Tây. Tôi ra thăm, anh bắt tay tôi, bàn tay nóng hôi hổi, môi anh đỏ mọng. Chú Hiền, bác sỹ riêng của anh nói, anh thường xuyên sốt 38˚, 39˚ nhưng vẫn dự họp Trung ương hoặc gặp đồng chí này, đồng chí kia để lo nội dung và nhân sự đại hội”538.

    Theo ông Việt Phương và bà Lê Thị Muội, con gái Lê Duẩn, những ngày bệnh Lê Duẩn nằm ở Biệt thự số 7 Hồ Tây, mỗi lần nghe có ông Trường Chinh sang là ông lại bắt d́u từ gác hai xuống pḥng khách, cho dù ông Trường Chinh đề nghị ông sẽ ngồi bên giường bệnh để nói chuyện với ông Lê Duẩn. Trong khi đó, cứ thấy Lê Đức Thọ đến là Lê Duẩn lại “phẩy tay đuổi đi”.

    Ông Hoàng Tùng nói: “Càng về sau, ông Lê Duẩn càng nhận ra sự thao túng của Lê Đức Thọ, đặc biệt là sự thao túng nhân sự trong Đại hội V năm 1982”. Trần Nhâm, thư kư riêng của Trường Chinh, kể: Trong một phiên họp Bộ Chính trị, cụ Duẩn đă ốm lắm nhưng vẫn dự. Ông chỉ mặt Lê Đức Thọ: “Có phải có những trung ương ủy viên anh rút từ trong tay áo ra?” Lê Đức Thọ tái mặt. Cụ Trường Chinh cầm tay áo cụ Duẩn kéo ông ngồi xuống: “Anh đừng làm anh em người ta sợ”. Trong một phiên họp Bộ Chính trị, ông Lê Duẩn nói với Lê Đức Thọ: “Anh đừng họp Bộ Chính trị nữa”. Một thời gian sau, Lê Đức Thọ đi họp lại, Lê Duẩn lại nói: “Tôi đă bảo anh không họp nữa mà. Lê Đức Thọ phải ra về”539.

    Tại Hội nghị Tổ chức chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ VI, diễn ra vào tháng 4- 1986, ông Lê Đức Thọ gián tiếp chỉ trích Lê Duẩn: “Lâu nay nói đường lối đại thể đúng, cụ thể sai. Nói như vậy không đúng. Kế hoạch năm năm 1976-1980 là duy ư chí, phiêu lưu. Đáng lẽ làm hai, ba năm khôi phục rồi mới đi vào xây dựng kinh tế th́ tốt hơn”. Về nhân sự, ông Lê Đức Thọ nói: “Lănh đạo của ta già quá, từ năm 1980 tới nay không có phê b́nh và tự phê b́nh. Lúc Hồ Chủ tịch già không làm việc thường xuyên nhưng phải báo cáo công việc hàng ngày với Bác. Mấy năm nay, tổng bí thư không làm việc, anh Trường Chinh, tôi, không có phê b́nh. Năm năm Bộ Chính trị không có tự phê b́nh và phê b́nh. Ủy viên Bộ Chính trị của ta thấp nhất là sáu mươi lăm tuổi, cao nhất là tám mươi nên rất hẫng. Dư luận nhiều nhưng cho đến nay chưa thống nhất về nhân sự. T́nh h́nh kinh tế phức tạp. Đồn đại anh Ba chết, tiền, giá, kẻ địch lợi dụng nhiều”. Rồi ông Lê Đức Thọ chỉ đích danh: “Anh Trường Chinh làm tổng bí thư mười tám năm; anh Ba làm tổng bí thư hai mươi lăm năm. Cả hai đều già trên tám mươi tuổi. Theo tôi, điều lệ nên ghi, một người không giữ chức tổng bí thư quá hai nhiệm kỳ”540. Ông Lê Đức Thọ được nói c̣n có một nỗ lực tái lập chức chủ tịch đảng để tăng thêm cơ hội541.

  3. #33
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương X: Đổi mới
    P4




    Năm 1985, ông Trường Chinh giới thiệu Nguyễn Văn Linh vào Bộ Chính trị lần hai. Tháng 6-1986, ông Linh được đưa ra Hà Nội giữ chỗ thường trực Ban Bí thư, một vị trí mà khi đó ông Tố Hữu đang chờ đợi. Tại Hội nghị Trung ương 10, chính ông Trường Chinh đă điều khiển phiên họp theo hướng để Nguyễn Văn Linh nắm giữ cương vị này. Ông Linh bàn giao ở Thành phố Hồ Chí Minh xong, ra tới Hà Nội ngày 1-7-1986. Ngày 10-7-1986, ông Lê Duẩn qua đời. Ngày 14-7-1986, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp phiên bất thường, chính thức bầu Trường Chinh giữ chức tổng bí thư, sau đúng ba mươi năm gián đoạn.



    Vai tṛ của Mikhail Gorbachev



    Từ tháng 6-1986, Trường Chinh đă được giao làm trưởng Tiểu Ban Chuẩn bị Văn kiện, nhưng công việc soạn thảo cho đến khi ấy vẫn do Tố Hữu phụ trách542. Khi ông Lê Duẩn mất, điều ông Trường Chinh lo lắng nhất là “cương lĩnh”. Theo ông Đặng Xuân Kỳ: “Tôi kiến nghị, có hai việc phải chấn chỉnh ngay: một là báo cáo chính trị, hai là vấn đề nhân sự”. Ông Trường Chinh băn khoăn: “Thời gian c̣n ngắn quá”. Ông Kỳ bảo: “Nếu biết cách tổ chức, ba tháng xong, nhưng cái khó là nhân sự”.

    Ngày 13 và 14-5-1986, phát biểu tại hội nghị Bộ Chính trị, Trường Chinh nói: “Cách nghĩ cách làm cũ đă cản trở chúng ta phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, làm cho nhân tài bị mai một”. Nguyên nhân của t́nh h́nh đó được ông phân tích do quan niệm phong kiến, hẹp ḥi theo kiểu gia trưởng “sống lâu lên lăo làng” đă “ràng buộc, hạn chế tầm nh́n của chúng ta, khiến ta không thấy đầy đủ vốn quư báu đó”.

    Trong bài phát biểu này, Trường Chinh cảnh báo t́nh trạng “chọn người rồi mới t́m việc để ấn vào” thay v́ từ nhu cầu của công việc mà chọn người thực hiện. Lê Đức Thọ không những không đồng ư với bài phát biểu mà c̣n truy hỏi gay gắt: “Ai viết cho Trường Chinh?”. Chỉ khi vấn đề được phát biểu trước Hội nghị Trung ương 11 và được Ban Chấp hành Trung ương bày tỏ sự đồng t́nh, Lê Đức Thọ mới thôi phản ứng. Theo ông Hà Nghiệp: “Đại hội VI tuy thành công về mặt đường lối, đă thất bại về nhân sự”.

    Trước khi ông Lê Duẩn mất không lâu, ngày 2-6-1986, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh kư quyết định miễn nhiệm những cán bộ liên đới trách nhiệm trong vụ Giá-Lương-Tiền. Hai trong số đó là các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Quỳnh và Trần Phương543. Hạ tuần tháng 7-1986, Trường Chinh quyết định thay thế nhóm biên soạn báo cáo chính trị làm việc dưới thời Lê Duẩn, đứng đầu là Tố Hữu, Trần Quỳnh. Theo ông Việt Phương, một thành viên trong nhóm soạn thảo văn kiện thời kỳ Tố Hữu, th́ cho tới lúc ấy, nhóm chỉ mới soạn thảo đề cương và đề cương này chưa bao giờ được tŕnh lên tổng bí thư v́ lúc ấy t́nh h́nh sức khỏe của Lê Duẩn đă rất xấu.

    Tổ Biên tập Báo cáo Chính trị Đại hội VI được thành lập mới, gồm mười người, tổ trưởng là Hoàng Tùng, tổ phó là Đào Duy Tùng; nhóm chuyên gia tư vấn của ông Trường Chinh có ba người tham gia, Hà Nghiệp, Lê Văn Viện và Trần Đức Nguyên. Lê Văn Viện khi ấy đang ở Lào, làm chuyên gia tư vấn giúp Kay-Sỏn Phôm-Vi-Hẳn, tổng bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Người cuối cùng được đưa vào nhóm này là Lê Xuân Tùng. Theo Việt Phương: “Trong nhóm dự thảo Văn kiện Đại hội VI, Lê Xuân Tùng là người đóng góp ít nhất vào việc viết ra đường lối đổi mới, nhưng về sau là người đạt được cương vị cao nhất trong thời kỳ đổi mới: ủy viên Bộ Chính trị”.

    Chấn chỉnh việc chuẩn bị văn kiện đại hội xong, đầu tháng 8-1986, Trường Chinh đi Liên Xô. Đây là một chuyến đi bất thường, nhưng là lệ thường. Các nước “xă hội chủ nghĩa anh em” mỗi khi thay đổi đường lối hay người lănh đạo đều phải đến “ông anh cả” Moscow tŕnh diện. Ông Trường Chinh ở lại Moscow một tuần, và ngày 12-8-1986, ông gặp Tổng Bí thư Gorbachev lần đầu tiên.

    Chuyến đi thứ hai của ông Trường Chinh diễn ra vào tháng 11-1986, khi công việc chuẩn bị đại hội đă tới giai đoạn hoàn tất. Trường Chinh tới Moscow lần này là để dự cuộc gặp các Tổng bí thư, các Bí thư Thứ nhất các Đảng Cộng sản và các nước thuộc Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Thực tế là ông đi với một sứ mệnh quan trọng là t́m kiếm sự ủng hộ của Liên Xô cho công cuộc cải cách của ḿnh. Theo Chánh Văn pḥng Trung ương Đảng khóa V Nguyễn Khánh: “Theo lệ xưa nay, mỗi khi Đảng Cộng sản Việt Nam đại hội th́ đường lối phải được Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đồng t́nh. Nếu họ không đồng t́nh th́ đường lối sẽ không thực hiện được. Lúc bấy giờ, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc c̣n gay gắt nên chỉ phải đi Liên Xô”.

    Trường Chinh đến Moscow ngày 9-11-1986, cuộc gặp Gorbachev được sắp xếp vào ngày 12-11-1986. Theo ông Hà Nghiệp: “Chúng tôi đă rất lo lắng”. Trước ngày lên đường đi Moscow không lâu, tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Hà Nội, ngày 19-10- 1986, Trường Chinh tuyên bố: “Chúng ta đang ở thời kỳ quá độ, có thể bỏ qua tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xă hội, nhưng dứt khoát không thể bỏ qua sản xuất hàng hóa”. Ở thời điểm ấy, nếu Gorbachev “bác” đường lối đổi mới của Việt Nam th́ ở trong nước, Trường Chinh chắc chắn sẽ gặp khó khăn với những người bảo thủ.

    Sau khi Trường Chinh nhấn mạnh vai tṛ của kinh tế thị trường tại phiên họp ngày 18-5-1986 của Bộ chính trị, ông Phạm Văn Đồng nói: “Anh th́ khi nào cũng hàng hóa”. Trường Chinh nhẹ nhàng nhấc chén trà trước mặt: “Tôi hỏi anh, cái chén này bán ở ngoài cửa hàng không phải hàng hóa th́ là cái ǵ?”. Phạm Văn Đồng: “Đất nước đang nước sôi lửa bỏng mà anh lúc nào cũng lư luận”. Trường Chinh: “Đúng là tôi đang tư duy lư luận. Nhưng, khi nhà cháy mà chúng ta không trước hết nghĩ cách, cứ lao hết vào lửa th́ cháy hết cả nhà lẫn người”544. Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười th́ không ít lần công khai dẫn lời Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Liên Xô Baibakov: “Chủ nghĩa xă hội là Sông Đà chứ không phải là chợ Đồng Xuân”.

    Tháp tùng chính thức Trường Chinh tới Moscow có Hà Nghiệp, Trần Nhâm và Chánh Văn pḥng Nguyễn Khánh. Giáo sư Dương Phú Hiệp cũng có mặt. Ông Dương Phú Hiệp kể: Theo lịch, cuộc gặp Gorbatchev sẽ diễn ra lúc ba giờ chiều. Một giờ, ông Trường Chinh cho gọi chúng tôi sang trao đổi. Trường Chinh tỏ ra lo lắng.

    Mọi lo lắng hóa ra lại không cần thiết. Theo Hà Nghiệp th́ cuộc gặp Gorbachev diễn ra suôn sẻ. Gorbachev đánh giá những dự định cải cách của Việt Nam là sáng tạo, ông đồng ư với những đề nghị của Trường Chinh và nhận xét: “Có những điều các đồng chí c̣n đi xa hơn cả chúng tôi”. Gorbachev nói điều đó không chỉ để làm vui ḷng Trường Chinh. Trong khi Việt Nam bắt đầu công nhận “kinh tế hàng hóa nhiều thành phần”, th́ một tuần sau, vào ngày 21-11-1986, Xô Viết Tối Cao Liên Xô, trong một nỗ lực cải cách, chỉ đưa ra được luật cho phép lập các “xưởng cá nhân và gia đ́nh”, theo đó người dân chỉ được sản xuất “dựa vào chính sức ḿnh và của những người trong gia đ́nh”.

    Ngày 28-7-1986, khi tới thăm vùng Viễn Đông Liên Xô, Gorbachev tỏ ra quan tâm tới Việt Nam khi tuyên bố: “Mong muốn biên giới Việt – Trung trở thành một biên giới ḥa b́nh, láng giềng và thân thiện”. Cũng trong chuyến đi đó, Gorbachev bắt đầu đề cập tới cải tổ. Ngày 31-7-1986, ông tuyên bố ở Vladivostock: “Đảng Cộng sản Liên Xô và toàn thể đất nước Xô Viết hoàn toàn hiểu rằng cần phải t́m kiếm câu trả lời cho những vấn đề mà cuộc sống đặt ra ngay trong khuôn khổ của hệ thống xă hội chủ nghĩa”. Ông nhấn mạnh: “Dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng không được sống theo lối cũ”. Báo chí Việt Nam thời gian đó bắt đầu dành nhiều tin bài để nói về Liên Xô. Từng bước đi của Gorbachev đều được báo chí Việt Nam, đặc biệt là tờ Tuổi Trẻ, tường thuật545.

    Cho dù đổi mới ở Việt Nam là một tiến tŕnh diễn ra với sự hối thúc từ bên trong, nhưng sự thay đổi của Liên Xô đă đóng một vai tṛ quan trọng. Cái chết của Brezhnev vào ngày 10-11-1982 đă chấm dứt kỷ nguyên tŕ trệ kéo dài suốt mười tám năm kể từ khi Brezhnev ngồi lên ghế tổng bí thư Liên Xô. Người kế vị ông, Andropov, th́ nằm trên giường bệnh nhiều tháng trước khi qua đời trong thời gian ở ngôi tổng bí thư mười lăm tháng. Người kế nhiệm Andropov chưa phải là Mikhail Gorbachev như ông ta muốn mà là một ủy viên Bộ Chính trị ốm yếu khác: Chernenko. Cái chết của Chernenko sau đó mười ba tháng đă đưa Gorbachev lên vị trí tổng bí thư. Ngày 11-3-1985, ngày Gorbachev nhậm chức, đă đánh dấu một kỷ nguyên mới của lịch sử thế giới546.

    Trường Chinh từ Moscow trở về, tưởng mọi chuyện đều trôi chảy. Nhưng khi bắt đầu đại hội, các đại biểu đă rất hoang mang. Trần Quỳnh, sau khi cùng Vơ Chí Công đến Hungary dự cuộc họp của Hội đồng Tương trợ Kinh tế về, nói rằng: “Thủ tướng Liên Xô nói Liên Xô không tán thành Việt Nam đi theo khuynh hướng chủ nghĩa xă hội thị trường”. Nhiều người nghe Trần Quỳnh tỏ ra rất sợ; hầu hết đại biểu đều đă học qua Nguyễn Ái Quốc, đều biết số phận của Tiệp Khắc khi dám qua mặt Liên Xô làm “chủ nghĩa xă hội thị trường”.

    Nhưng, theo Giáo sư Dương Phú Hiệp, Trường Chinh là một người làm việc hết sức chặt chẽ. Ông hỏi văn pḥng: “Anh Trần Quỳnh nói có kèm theo văn bản không?”. Văn pḥng trả lời “không”. Ông nói: “Thế th́ không được. Tôi có văn bản. Tôi và Gorbachev có kư chung một văn bản nhất trí với nhau đây”. Biên bản được phát ra, những người ủng hộ Trường Chinh mới thở phào nhẹ nhơm khi thấy “Liên Xô không ngăn cản ta đổi mới”. Khi ấy, Trường Chinh mới nhắc lại bài viết của viện trưởng Viện Chính trị Kinh tế Thế giới mà Gorbachev đă rất thích: “Ở Liên Xô cũng có những kẻ hay dọa thế”547.



    Tuyên ngôn đổi mới



    Đó là những ngày sôi động. Sau khi Trường Chinh nhận chức tổng bí thư, ông cùng Hoàng Tùng, tổ trưởng Tổ Biên tập Báo cáo Chính trị Đại hội VI, và các thành viên của Tổ Biên tập, xuống nhà nghỉ Vạn Hoa, ṭa lâu đài ở Đồ Sơn, nơi mà Tổng Bí thư Lê Duẩn đă từng thai nghén Nghị quyết Đại hội IV. Tại đây, theo ông Hoàng Tùng: “Chúng tôi lần lượt trả lời hai mươi câu hỏi mà t́nh h́nh đặt ra và quán triệt tinh thần của báo cáo chính trị chỉ trong hai chữ: đổi mới”.

    Tổ Biên tập sau đó làm việc chính ở Hồ Tây. Mỗi phần của báo cáo được phân cho một nhóm biên soạn, Trường Chinh trực tiếp đọc và sửa. Khi đánh giá những sai lầm sau 1975, theo ông Đặng Xuân Kỳ: tôi đề nghị ghi rơ sai lầm của ta là sai lầm về đường lối chứ không chỉ chủ trương chính sách lớn. Ông Lê Phước Thọ cũng đề nghị: “Đảng ta trước sau phải thừa nhận thời kỳ đó là sai lầm về đường lối”. Nhưng cha tôi nói: “Anh Ba vừa mới mất, nói sai lầm đường lối là đánh giá tổng bí thư. Cũng phải coi hoàn cảnh lịch sử lúc đó để đánh giá như thế nào là vừa mức”. Tuy nhiên, trước áp lực “nh́n thẳng vào sự thật”, Trường Chinh cũng đă phải tự tay ghi vào văn kiện: “Trong nhiều năm qua, Đảng đă phạm những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương chính sách lớn”. Ngày 19-10-1986, phát biểu tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Hà Nội, Trường Chinh phân tích thêm: “Đó là sai lầm tả khuynh, ấu trĩ, duy ư chí, làm trái quy luật khách quan… khi đă mắc sai lầm lại bảo thủ, tŕ trệ, không dũng cảm sửa chữa”.

    Tổ biên tập phân công Phan Diễn viết “Đổi mới tư duy về cơ cấu kinh tế”, Hà Đăng viết phần “Chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần”, Trần Đức Nguyên viết “Đổi mới cơ chế quản lư kinh tế”. Với sự thận trọng truyền thống, từng vấn đề một, Trường Chinh đều cho chuẩn bị kỹ, đưa ra Bộ Chính trị thảo luận rồi thông qua từng phần trước khi đưa vào “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tŕnh Đại hội”548.

    Thế nhưng, theo ông Trần Đức Nguyên: “Một buổi sáng sát ngày đại hội, tôi vừa tới nơi làm việc của Tổ biên tập ở Hồ Tây th́ được anh Đào Duy Tùng chuyển cho hơn mười điểm mà các anh ủy viên Bộ Chính trị trong Chính phủ (gồm Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Vơ Chí Công) thấy cần sửa. Tôi xem ngay và sau đó gọi điện thoại cho anh Năng, thư kư của anh Tô (Phạm Văn Đồng), nhờ báo cáo với anh Tô cho tôi được tŕnh bày lại, v́ nếu sửa văn kiện theo ư bên chính phủ th́ khác với kết luận của Bộ Chính trị về ba quan điểm đă bàn. Chỉ ít phút sau, tôi được anh Năng gọi điện lại truyền đạt ư kiến anh Tô là viết như kết luận của Bộ Chính trị”.

    Sau khi tạo được sự thống nhất trong nội bộ, Tổng Bí thư Trường Chinh đă chọn Đại hội Đại biểu Đảng bộ Hà Nội để công bố với nhân dân. Ngày 19-10-1986, tại Hà Nội, ông phát biểu: “Đối với cộng đồng các nước xă hội chủ nghĩa, đổi mới là con đường vươn lên đáp ứng đ̣i hỏi của thời đại, đáp ứng những nhu cầu chính đáng và ngày càng cao của nhân dân. Đối với nước ta, đổi mới cũng là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống c̣n. Yêu cầu đó vừa là đ̣i hỏi bên trong của nước ta, vừa phù hợp với xu thế đổi mới của thời đại”. Bài phát biểu được các phương tiện truyền thông chính thức trích dẫn ngay trong ngày, ngay sau đó nó được đón nhận như một Tuyên Ngôn Đổi Mới.



    Bàn tay Lê Đức Thọ



    Trước Đại hội VI, theo ông Hoàng Tùng: “Lê Đức Thọ không thèm quan tâm đến báo cáo chính trị mà tập trung những nỗ lực cuối cùng để cấy nhân sự vào nhiệm kỳ kế tiếp”. Có thể nói, chưa bao giờ bản lĩnh Lê Đức Thọ thể hiện kiên nhẫn và sắt đá như giai đoạn này – giai đoạn mà uy tín của ông xuống đến mức những người thân tín nhất của ông lần lượt bị “phế truất” thông qua lá phiếu bầu từ các đại hội địa phương và ngành, đặc biệt là từ quân đội.

    Đúng như Lê Đức Thọ nhận xét trong Hội nghị Công tác Tổ chức, tháng 4-1986: “Đời sống khó khăn gây nhiều chuyện tiêu cực, kể cả quân đội cũng tiêu cực ghê gớm”. Ông Thọ thừa nhận: “Năm mươi sáu năm nay lúc này phẩm chất trong Đảng ta là sa sút nhất. Trong Đảng h́nh thành một tầng lớp đặc quyền, đặc lợi, nên không muốn rời chỗ đứng của ḿnh v́ nếu rời đi th́ mất nhiều quyền lợi. Có người thắc mắc, nghỉ hưu chết có được quốc tang không? Được mấy ṿng hoa khi chết, đem nhiều ṿng hoa để biết người chết cách mạng to hay nhỏ, rồi chôn ở nghĩa trang nào?”. Lê Đức Thọ đă nói đến những tiêu cực này như một người ngoài cuộc. Thế nhưng, từng vị chỉ huy quân đội biết rơ nguyên nhân đến từ đâu.

    Sự kiện Vơ Nguyên Giáp bị xếp sau Lê Đức Thọ theo thứ bậc trong Bộ Chính trị sau Đại hội IV đă khiến các tướng lĩnh cảm thấy bị xúc phạm. Liền sau đó là sự ra đi của Tướng Trần Văn Trà. Người thay thế Đại tướng Vơ Nguyên Giáp là Văn Tiến Dũng, một vị tướng có nhiều đóng góp. Tuy nhiên, Tướng Dũng đă đánh mất khá nhiều uy tín của ḿnh khi cho xuất bản cuốn hồi kư Đại Thắng Mùa Xuân, gần như bỏ qua vai tṛ của Tướng Giáp trong Chiến dịch Hồ Chí Minh.

    Ngày 13-10-1986, Đại hội Đại biểu Đảng bộ Toàn Quân IV, diễn ra tại Hà Nội. Ngay trong lễ khai mạc, các đại biểu đă bày tỏ thái độ. Đại hội, trong khi chỉ dành vài tràng vỗ tay lẹt đẹt cho Đại tướng Văn Tiến Dũng, đă nhất loạt đứng lên vỗ tay như sấm khi Đại tướng Vơ Nguyên Giáp bước vào hội trường. Tướng Giáp chỉ là một đại biểu được mời dự, nhưng đă được quân đội đón chào bằng cả những tiếng hoan hô và nước mắt. Những tiêu cực trong quân đội, t́nh trạng thiếu thốn, khổ sở của người lính trên các chiến trường được các tướng lĩnh phê phán gay gắt. Tham luận của Thiếu tướng Lê Phi Long, người vừa trực tiếp đốc chiến trên chiến trường Vị Xuyên trở về, mô tả đời sống khó khăn, chết chóc hàng ngày của người lính trên
    biên giới Việt-Trung; đối lập với t́nh trạng lợi dụng phương tiện quân sự buôn lậu, thu vén cá nhân của gia đ́nh một vài tướng lĩnh.

    Ngày 18-10-1986, đại hội đă “cách chức” hai đại tướng Chu Huy Mân và Văn Tiến Dũng bằng cách gạch tên hai nhân vật cao nhất của quân đội ra khỏi danh sách bảy mươi mốt đại biểu toàn quân đi dự Đại hội Đảng Toàn Quốc. Duy nhất chỉ có hai ư kiến bảo vệ Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân. Một trong hai người đó là Tướng Lê Ngọc Hiền, phó tổng tham mưu trưởng. Tướng Hiền đă bị phản đối quyết liệt khi đề nghị đại hội bầu cử lại.
    Do Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân đang là ủy viên Bộ Chính trị khóa V nên theo Điều lệ Đảng, đương nhiên có mặt tại Đại hội VI. Tuy nhiên, cả hai vị đă không c̣n uy tín và không đủ điều kiện để được giới thiệu tiếp vào Ban Chấp hành Trung ương. Đại tướng Hoàng Văn Thái th́ cũng vừa chết khá đột ngột ngày 2-7-1986.

    Trong quân đội, người được coi sẽ ở vào vị trị kế tiếp là Đại tướng Lê Trọng Tấn549. Tuy nhiên, một tháng là thời gian đủ dài để Trưởng Ban Tổ chức Lê Đức Thọ chuẩn bị. Ngày 5-12-1986, khi Đại tướng Lê Đức Anh từ Campuchia về Nhà khách T66 của Bộ quốc pḥng, khi đại biểu từ khắp các tỉnh thành trong cả nước đă tập trung về Hà Nội để dự đại hội, Tướng Lê Trọng Tấn từ một cuộc họp ở Trung ương đi thẳng đến số 6 Nguyễn Cảnh Chân gặp Lê Đức Thọ. Không ai biết rơ những ǵ đă xảy ra trong cuộc gặp chóng vánh này. Từ Nguyễn Cảnh Chân, Tướng Tấn lên xe về nhà riêng, 36C Lư Nam Đế. Ở nhà, Tướng Lê Ngọc Hiền đang chờ ông về cùng ăn cơm.

    Tướng Lê Ngọc Hiền là em vợ của Tướng Tấn, nhưng anh em có những bất đồng v́ ông Hiền, trước đó, “phù thịnh”, đứng hẳn về phía Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân. Giữa Lê Trọng Tấn và Lê Ngọc Hiền có nói với nhau vài câu ngắn. Bỗng nhiên, Tướng Tấn gục xuống bàn. Bà Lê Thị Minh Sơn, phu nhân Đại tướng Lê Trọng Tấn từ nhà dưới chạy lên. Tướng Giáp từ 30 Hoàng Diệu, chạy đến đầu tiên. Người thứ hai là Tướng Đinh Đức Thiện. Trong khi Tướng Giáp cắn chặt răng, đau đớn, Tướng Đinh Đức Thiện, em ruột Lê Đức Thọ kêu lên: “Tấn ơi, đứa nào hại mày?”. Khi được d́u lên giường, Tướng Tấn chỉ kịp tháo chiếc đồng hồ Titoni mà ông đă đeo cả đời, đưa cho cháu nội trai là Lê Đông Giang, dặn: “Con cố trưởng thành”.

    Ngay lập tức, ông được đưa ra khỏi nhà. Đến đêm, gia đ́nh được thông báo là ông đă mất. Măi tới sau ngày 7-12-1986, ngày tang lễ của ông, các báo mới đăng thông cáo của Ban Chấp hành Trung ương: “Đại tướng Lê Trọng Tấn từ trần hồi 18 giờ 50 phút ngày 5-12-1986, thọ bảy mươi hai tuổi, sau một cơn đau cấp tính v́ đồng chí đă mắc bệnh tim mạch nặng từ lâu”. Hiếm có một cáo phó nào lại phải “ṿng vo” như vậy về nguyên nhân của một cái chết và điều này càng làm tăng thêm hoài nghi.

    Khi Tướng Lê Trọng Tấn mất, Lê Đức Thọ vừa là người phụ trách công tác tổ chức, vừa phụ trách Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương, cơ quan quyết định tới từng viên thuốc của các nhà lănh đạo. Cái chết của Đại tướng Lê Trọng Tấn ngay bên thềm Đại hội Đảng, cũng như cái chết trước đó của Đại tướng Hoàng Văn Thái, rất có thể chỉ là do tuổi tác và bệnh tật như “thông cáo của Ban Chấp hành Trung ương”, nhưng lịch sử phi chính thống đă xếp những cái chết này vào hàng “nghi án”.

    Hơn một tháng sau cái chết của Tướng Lê Trọng Tấn, ngày 20-1-1987, trong một chuyến đi săn, khi ông Đinh Đức Thiện lấy khẩu súng từ trong xe ra th́ đạn nổ, viên đạn xuyên từ cằm lên đỉnh đầu, đục thủng trần xe. Vị tướng đă xông pha biết bao chiến trường ấy cuối cùng đă chết v́ “súng bị cướp c̣”.

    Ở hành lang Đại hội Đảng, các đại biểu x́ xầm, nhưng cái chết đột ngột của Tướng Lê Trọng Tấn, người lẽ ra sẽ giữ chức bộ trưởng quốc pḥng sau đại hội này, đă không được công khai nói đến. Cho đến lúc đó, công tác nhân sự vẫn được ông Lê Đức Thọ kiểm soát gần như tuyệt đối. Quy tŕnh công tác cán bộ của Quốc tế III vốn đă có vấn đề lại càng trở nên “quái gở”, như nhận xét của ông Việt Phương, sau khi mang thêm dấu ấn cá nhân của những con người như Stalin, Mao Trạch Đông, Beria, Khang Sinh, và được Lê Đức Thọ mang về Việt Nam, và theo Việt Phương, trở thành “một cách làm sai hỏng đă được quy tắc hóa”.

    Theo quy tŕnh này, nhân sự của nhiệm kỳ mới, về lư là do đại hội bầu, nhưng danh sách đưa ra để đại hội bầu với một số lượng sít sao lại do Ban Chấp hành Trung ương khóa cũ, tức là những người sắp rời nhiệm sở, đề nghị. Nếu có ai đó được đại hội đề nghị mà Ban Chấp hành Trung ương không tán thành th́ chính họ sẽ được Tiểu Ban Nhân sự yêu cầu “tự nguyện rút”. Cũng có nhiều trường hợp, người được đề cử không rút, và mỗi đại hội, Tiểu Ban Nhân sự đều nhân nhượng đưa vào danh sách bầu cử một số ứng cử viên. Nhưng lịch sử các đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ khi cầm quyền, hầu như không có ứng cử viên nào đắc cử trung ương nếu như không nằm trong danh sách chính thức được đề cử bởi Ban Chấp hành cũ. Nói là Ban Chấp hành nhưng, người đóng vai tṛ quyết định vẫn là Lê Đức Thọ.

    Ông Việt Phương cho rằng cả Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng đều phó thác toàn bộ công tác nhân sự cho Lê Đức Thọ. Trường Chinh tuy có quan tâm nhưng ông lại chỉ thường chú trọng các vấn đề nguyên tắc. Ông Việt Phương xác nhận: “Những năm cuối đời, anh Lê Duẩn ác cảm ra mặt bởi sự lộng quyền của Lê Đức Thọ trong công tác cán bộ. Ông nhiều lần nói với nhóm giúp việc chúng tôi: Ban Chấp hành Trung ương có 150 người, may ra tôi chỉ biết hai mươi người, c̣n lại do anh Thọ sắp xếp.

    Tuy rằng anh ấy có báo cáo, nhưng rồi Bộ Chính trị, Trung ương cũng chủ yếu quyết định theo tŕnh bày của anh ấy”. Cũng theo Việt Phương, chính Hồ Chí Minh cũng từng phải than rằng: “Công tác cán bộ của ta đều do chú Thọ cả. Chú thích ai th́ chú báo cáo tốt, ghét ai báo cáo xấu, chứ Bộ Chính trị có biết hết đâu”.

    Trong suốt ba mươi hai năm làm thủ tướng, cứ mỗi nhiệm kỳ, ông Phạm Văn Đồng lại “tŕnh quốc hội” một danh sách chính phủ mới. Bản danh sách ấy không phải của ông Phạm Văn Đồng mà là của ông Lê Đức Thọ, cả về thành phần lẫn văn vẻ. Theo ông Việt Phương: “Trước mỗi lần đọc, Thủ tướng Phạm Văn Đồng lại rị mọ ngồi sửa lại chữ nghĩa trong bản danh sách nội các tŕnh Quốc hội phê chuẩn. Ông Phạm Văn Đồng sửa v́ ông là một người trí thức thận trọng chữ nghĩa, ông không thể đọc trước Quốc hội một văn bản mà ông than: họ viết câu bất thành cú. Tuy nhiên, ông chỉ có thể chữa lại ngữ pháp, chính tả, chứ nội dung của nó th́ thủ tướng cũng không có quyền thay đổi”. Nhiều nhân vật, cho đến khi được ông Lê Đức Thọ đưa lên làm “thành viên chính phủ”, Thủ tướng Phạm Văn Đồng chưa hề gặp mặt lần nào550.

    Nhân sự cho Đại hội VI vẫn do Lê Đức Thọ điều khiển cả về quy tŕnh và con người cụ thể. Theo người kế nhiệm của ông Thọ, ông Nguyễn Đức Tâm: “Trong quá tŕnh chuẩn bị, anh Thọ luôn nhắc nhở chúng tôi phải chú ư phương châm: thận trọng, dân chủ. Trong từng trường hợp một, với cương vị là trưởng Ban Nhân sự Đại hội, anh Thọ đều bố trí thời gian nghe một cách chăm chú và hỏi lại cặn kẽ những chi tiết c̣n chưa thật rơ”551. Tuy nhiên, giữa những lời dặn ḍ và cách mà ông Lê Đức Thọ làm nhân sự, theo trải nghiệm của nhiều ủy viên trung ương là rất khác nhau và có khi vô cùng “h́nh sự”552.

    Đối với các trường hợp được giới thiệu vào Bộ Chính trị, theo ông Nguyễn Đức Tâm: “Anh Thọ càng thận trọng xét đi xét lại kỹ lưỡng, báo cáo Bộ Chính trị rồi trao đổi lại với từng người một, cứ như vậy cho đến khi có sự nhất trí trong Bộ Chính trị rồi mới giới thiệu ra trung ương. Đến Đại hội VI về cơ bản cũng làm theo phương pháp trên, nhưng đặc biệt ở đại hội này, việc lựa chọn tổng bí thư gặp khó khăn nhất. Qua nhiều lần trao đổi riêng với từng đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư vẫn chưa nhất trí”553.



    Phút 89



    Chính v́ nhân sự chủ chốt chưa nhất trí được trong Bộ Chính trị mà ở hai kỳ hội nghị trung ương – Hội nghị 11, họp từ 17-25 tháng 11-1986; Hội nghị 12, họp trước và trong khi bắt đầu “Đại hội Nội bộ”, từ 5-12-1986 – nói là để “bàn nhân sự”, nhưng theo ông Lê Văn Triết, khi ấy là ủy viên trung ương dự khuyết, các cuộc thảo luận ở trung ương chỉ bàn về nguyên tắc chứ không được bàn về nhân sự cụ thể.

    Việc không để các ủy viên trung ương và các đại biểu thảo luận nhân sự cụ thể đă tạo ra một khoảng trống ở đại hội. Trước khi về Hà Nội, các đoàn đại biểu, đặc biệt là các đại biểu miền Nam, những người hiểu rơ Nguyễn Văn Linh và đang kỳ vọng to lớn vào Trường Chinh đă có một cuộc vận động để Trường Chinh tiếp tục làm tổng bí thư khóa VI. Theo ông Trần Nhâm, thoạt đầu, ông Trường Chinh nói trong Bộ Chính trị: “Tuổi tôi lớn rồi. Tôi xin thôi”. Nhưng về sau, có lẽ ư thức trước sứ mệnh mà các đảng viên muốn giao phó cho ông và khó chịu trước cách làm của Lê Đức Thọ, ông Trường Chinh giữ im lặng.

    Lê Đức Thọ đủ kinh nghiệm để thấy vào thời điểm ấy, ông không c̣n uy tín để t́m kiếm cơ hội cuối cùng cho ḿnh554, nhưng vẫn rất “thao lược’ để cài cắm trong bộ máy mới nhân sự của ḿnh. Ông Trần Nhâm cho rằng việc không đưa nhân sự cụ thể ra thảo luận công khai là “động cơ cá nhân” của ông Lê Đức Thọ. Trong Đại hội Nội bộ, có hơn 900 đại biểu trong số 1.129 đại biểu về dự Đại hội VI ghi vào phiếu thăm ḍ đề nghị ông Trường Chinh tiếp tục làm tổng bí thư. Các đoàn đại biểu, đặc biệt là các đoàn từ miền Nam ra liên tục xin gặp Trường Chinh để thuyết phục.

    Theo lịch Đại hội Nội bộ, sáng ngày 13-12-1986, các đại biểu tập trung ở Hội trường Ba Đ́nh. Nhưng, chờ măi tới chín giờ, Ban Tổ chức mới thông báo: “Mời đại biểu về nghỉ. Chiều nay ba giờ lên hội trường để thống nhất nhân sự kết thúc đại hội trù bị”. Vài giờ trước đó, theo ông Trần Nhâm: Tôi đến số 3 Nguyễn Cảnh Chân, nhà riêng Tổng Bí thư Trường Chinh, lúc sáu giờ. Sáu giờ ba mươi, Chánh Văn pḥng Trung ương Nguyễn Khánh tới hỏi: “Cụ dậy chưa?”. Tôi bảo: “Đêm qua họp Bộ Chính trị khuya, giờ cụ chưa dậy”. Nguyễn Khánh về, tới 7 giờ 30 th́ “một lô một lốc kéo tới”, gồm Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Đức Tâm, Vơ Chí Công. Lê Đức Thọ ép ông kư vào lá đơn “xin không ứng cử”. Khi ông Trường Chinh chưa kịp trả lời, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Nội vụ Phạm Hùng nói: “Anh không rút th́ rất căng”555. Ông Trường Chinh đă phải gật đầu, nhưng ông đă không kư vào lá đơn “xin rút” do Chánh Văn pḥng Trung ương Nguyễn Khánh chuẩn bị.

    Ba giờ chiều ngày 13-12-1986, các đại biểu lại lục tục lên hội trường, Phạm Hùng, người có thâm niên trong Bộ Chính trị chỉ sau ba vị trưởng lăo sắp rời chính trường, thông báo với đại hội các vị Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ đă ‘xin rút tên” rồi Phạm Hùng đọc bản “tuyên dương công trạng to lớn” của “ba cụ”556. Xếp theo thứ bậc trong Đảng th́ Phạm Hùng sẽ là nhân vật số một c̣n tham gia Ban Chấp hành Trung ương. Ông trở thành ủy viên Bộ Chính trị năm 1956, khi ông Nguyễn Văn Linh chưa là trung ương ủy viên. Từ năm 1967-1975, ông là bí thư Trung ương Cục miền Nam trong khi ông Linh là phó. Nhưng lúc ấy, những nhân vật mạnh nhất trong Đảng đều vận động cho Nguyễn Văn Linh. Ông Nguyễn Đức Tâm kể: “Anh Thọ vẫn kiên tŕ giữ ư kiến để anh Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư”557. Ông Hoàng Tùng nhận xét: “Phạm Hùng là người nghiên cứu kinh tế không sâu nên ít đưa ra sáng kiến. Trong thời gian làm ‘phó’, Phạm Hùng cũng không phải là một người mềm mỏng với cả ông Phạm Văn Đồng”.

    Ông Đồng vốn có cảm t́nh hơn với Nguyễn Văn Linh v́ trong thập niên 1930 khi cùng ở tù Côn Đảo với nhau, Nguyễn Văn Linh – khi ấy mới chỉ là một cậu thiếu niên mười sáu tuổi – say mê đọc những tài liệu về chủ nghĩa Marx-Lenin do Phạm Văn Đồng dạy và dịch từ tiếng Pháp. Ngày 13-11-1986 khi ở Viên Chăn dự Đại hội Đại biểu Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, trước các nhà lănh đạo các “đảng anh em”, Phạm Văn Đồng đă cố gắng giới thiệu Nguyễn Văn Linh như một thế hệ lănh đạo kế tục ông thay v́ chỉ tháp tùng trong chuyến đi đó.

    Vào giờ chót, như một lá phiếu bỏ trước cho Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng đă chuyển bài phát biểu khai mạc Đại hội VI mà Hội nghị Trung ương 11 đă giao cho ông và đă được người giúp việc của ông là Việt Phương viết cho Nguyễn Văn Linh. Theo ông Việt Phương, Nguyễn Văn Linh đă chỉ sửa một vài từ có tính “nhân xưng” rồi đọc trong phiên khai mạc Đại hội Nội bộ ngày 5-12. Ông Linh c̣n diễn đọc lại bài này trong phiên khai mạc Đại hội Công khai vào ngày 15-12-1986. Bài phát biểu về sau đă góp phần giúp báo chí gọi Nguyễn Văn Linh là tổng bí thư đổi mới.



    Huy Đức

  4. #34
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc -
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương XI: Campuchia



    Dù muốn hay không, Campuchia đă “nằm trong một trang sử” của Việt Nam. Không gian chiến tranh trong thập niên 1980s và cách mà Việt Nam đă làm để thoát ra khỏi hai cuộc chiến: Biên giới phía Bắc và Campuchia (“Pot ở đầu phum ta cuối phum”/ “Xuất khẩu cách mạng”/ Tư tưởng nước lớn/ Bị cô lập/ Phương Bắc/ Hội nghị Thành Đô/ Campuchia thời hậu Việt Nam).

    *

    *

    Giữa trưa 7-1-1979, khi nghe con rể là Giáo sư Hồ Ngọc Đại đánh thức báo tin, “Quân ta đă vào Phnom Penh”, ông Lê Duẩn chỉ “ừ” rồi ngủ tiếp. Ông Hồ Ngọc Đại nói: “Tôi rất ngạc nhiên. Khi nhận được điện thoại từ Cục Tác chiến tôi cũng không ngờ chuyện long trời lở đất như thế mà ông vẫn ngủ”. Đưa đại quân đến thủ đô một quốc gia khác tưởng nhẹ tựa giấc ngủ trưa của một đấng quân vương nhưng phải mười năm sau Quân đội Việt Nam mới rút được chân ra khỏi đó. Cho dù câu chuyện xảy ra bên ngoài lănh thổ, mười năm ấy sẽ trở thành một phần lịch sử Việt Nam, lịch sử can thiệp vào một quốc gia khác.



    “Pot ở đầu phum ta cuối phum”

    Theo Tướng Lê Đức Anh: “Khi đánh Campuchia, trong lănh đạo Đảng ta có hai ư kiến: một là đánh xong giao lại cho bạn rồi rút về ngay, hai là đánh xong phải giúp bạn xây dựng cho vững rồi mới bàn giao và rút về nước… Anh Lê Duẩn bảo đánh xong giao cho bạn rồi rút cho bộ đội về Nam Bộ làm ruộng”558. Ông Ngô Điền xác nhận, khi mới lên Phnom Penh, ông Lê Đức Thọ có nói đại ư, “ta cố làm tốt một thời gian, ba tháng, sáu tháng rồi giao cho bạn”. Nhưng làm sao trong ba hoặc sáu tháng những người lính Việt Nam có thể “trở về Nam Bộ làm ruộng” khi Khmer Đỏ chỉ mới bị đánh đuổi chứ chưa bị đánh tan.

    Chưa đầy một tháng sau khi khởi binh, ngày 17-1-1979, bộ đội Việt Nam đă đánh đổ chính quyền cuối cùng của Pol Pot ở thị xă Ko Kong. Nhưng, như Cục trưởng Cục Tác chiến Lê Hữu Đức thừa nhận, “chúng ta chiếm được Phnom Penh và các thành phố, thị xă, nhưng chúng ra không diệt được sư đoàn nào của Pol Pot. Sinh lực địch bị tiêu hao không đáng kể”. Trung tướng Lê Hữu Đức cho rằng: “Chúng ta đă dùng búa tạ diệt ruồi, sử dụng binh chủng hợp thành như đánh Pháp, đánh Mỹ, để đánh với một đội quân du kích”.

    Khmer Đỏ bỏ chạy nhưng chúng không phải là một tàn quân. Tướng Đức nói: “Chúng được các cố vấn Trung Quốc dạy rất kỹ, cứ thấy xe tăng là chạy rồi gài ḿn lại. Ḿn Trung Quốc không giết chết mà chỉ sát thương. Cứ một người trúng ḿn, quân ta lại phải mất bốn người để cáng”. Khi tiến quân vào Phnom Penh, thế Việt Nam như “chẻ tre”, nhưng khi tới những vùng biên giới xa, các đơn vị Việt Nam lập tức bị Khmer Đỏ đặt trong tầm phục kích. Đây là giai đoạn quân đội Việt Nam bắt đầu chịu hy sinh lớn nhất.

    Mùa khô năm 1980-1981, Khmer Đỏ mở cuộc phản kích lần thứ nhất. Khi ấy, lực lượng Quân T́nh nguyện Việt Nam tại Campuchia vẫn ở mức cao. Không giành lại được đất, nhưng Pol Pot cũng đă kéo Quân T́nh nguyện và Quân đội của Heng Samrin vào một cuộc chiến khốc liệt không chỉ bởi mức độ thương vong.

    Mùa mưa năm 1983, ông Phạm Văn Trà, lúc bấy giờ là phó tư lệnh Tham mưu trưởng Mặt trận 979, trực tiếp lên vùng biên giới Ko Kong chỉ đạo Sư đoàn 4. Ông Trà kể: “Suốt mùa mưa, từ tháng 5 đến tháng 10, hầu như tuyến trước bị cắt đứt hoàn toàn liên lạc với tuyến sau; đặc biệt là việc tiếp tế, vận chuyển tê liệt hoàn toàn. Trong khi đó, địch sử dụng pháo đất từ Thái Lan bắn dai dẳng, ngày này qua ngày khác vào khu vực có bộ đội ta, các trận địa, băi ḿn của địch bủa giăng khắp nơi; anh em ḿnh cứ đi ra khỏi địa bàn quen thuộc là vướng ḿn, thương vong rất nhiều. Xuống các bệnh xá, trạm phẫu của sư đoàn, bắt gặp nhiều chiến sĩ trẻ trung, khôi ngô bị ḿn nổ tiện mất chân, có đồng chí cụt cả hai chân, tôi không cầm được nước mắt, thấy ḿnh chưa làm tṛn trách nhiệm với anh em. Và cũng thật đớn đau, sau một mùa khô, một mùa mưa, giật ḿnh thấy hàng ngũ của anh em ḿnh thưa thớt, trống vắng mất một phần”559.

    Ở nơi ḥn tên mũi đạn, bữa cơm người lính, theo ông Trà, chỉ gạo mục, cá khô mục, thịt ôi. Động viên anh em cũng chỉ tăng gia được một ít rau xanh để cải thiện bữa ăn, có thêm tí chất rau. Khí hậu th́ khắc nghiệt, sốt rét, sốt rét ác tính cứ như “thần chết cầm lưỡi hái” đứng chờ mỗi ngày. Người lính cần vụ của Tướng Trà đă bị sốt rét, chết khi mới mười tám tuổi.

    Ông Phạm Văn Trà kể: “Riêng tôi, mặc dù không bị sốt rét quật ngă, nhưng cũng đă nếm trải những cơn sốt kinh khủng. Sợ nhất là đang xuống đơn vị, cắt rừng kiểm tra trận địa pḥng ngự của bộ đội, bất thần cơn sốt ập đến, người run lên bần bật, mắt hoa lên, bước đi lẩy bẩy, anh em không kịp d́u th́ khuỵu xuống giữa đường, giữa rừng. Bộ đội ốm đau, bị thương do pháo, ḿn, nhiều trường hợp b́nh thường, nếu cấp cứu kịp, chữa trị chu đáo sẽ qua khỏi, nhưng v́ không chuyển được về tuyến sau nên đành nằm lại chịu chết”. Đặc biệt trong mùa khô, theo Tướng Phạm Văn Trà, nước uống thiếu “là nỗi đe dọa kinh hoàng”. Ông Trà kể: “Tôi đă nghe cán bộ, chiến sĩ đơn vị kể lại những chuyện rất thương tâm: bộ đội khát nước ḅ lê trên đất, gặp cây ǵ xanh, mềm đều dùng răng gặm, may chăng kiếm được giọt nước. Khi đó, mọi phản xạ của con người gần như là bản năng. Cũng có trường hợp bộ đội chết khát, rất đau ḷng” 560.

    Mùa khô cũng là mùa tác chiến quan trọng nhất. Trận đánh ngày 25-5-1984 của Sư đoàn 330 mở màn đợt tấn công mùa khô 1984 được coi là thắng lợi, nhưng theo ông Phạm Văn Trà, để có chiến thắng đó, Sư đoàn đă phải trả giá rất đắt: 103 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, 485 bộ đội bị thương. Bốn căn cứ của Khmer Đỏ bị chiếm, thu giữ hơn 300 khẩu súng. Nói là “loại khỏi ṿng chiến đấu 700 tên Khmer Đỏ” nhưng trong những trận đánh như thế, Khmer Đỏ đều chủ động bỏ chạy để bảo tồn lực lượng, số sinh lực địch bị tiêu hao là rất ít.

    Mùa khô 1983-1984, Khmer Đỏ tổ chức “cuộc phản kích thứ hai” nhưng thất bại.

    Mùa khô 1984-1985, quân đội Việt Nam mở một chiến dịch lớn đánh thẳng vào căn cứ địa của “ba phái Khmer phản động” nằm trên đường biên giới, trong đó có những phần nằm sâu vào đất Thái Lan, phá hủy mười sáu căn cứ của “ba phái Khmer”.

    Sau đó, Tướng Lê Đức Anh chủ trương đưa “quân đội và nhân dân bạn” ra làm chủ biên giới bằng cách cho xây dựng Công tŕnh K5: phát quang hơn 800km đường biên làm tuyến tuần tra, sau đó cho trồng tre, đào hào, gài ḿn, dựng lên một hàng rào ngăn Pol Pot thâm nhập từ các căn cứ trên phần đất Thái Lan sang.

    Theo tướng Mai Xuân Tần, trưởng Đoàn Chuyên gia 478: “Làm K5 có ư nghĩa rất rơ và thiết thực. Một là, có công tŕnh pḥng thủ biên giới th́ các đơn vị vũ trang của bạn mới cảm thấy vững tâm hơn, từ đó mới dám tự lực bảo vệ tuyến đường biên, và như vậy quân t́nh nguyện của ta mới rảnh ra thực hiện nhiệm vụ của đơn vị chủ lực cơ động chiến lược. Hai là, nếu lúc đó bảo bạn đứng ra tổ chức những trận đánh lớn hoặc một chiến dịch lớn, một cuộc vận động cách mạng lớn th́ bạn chưa làm được. Nhưng bảo bạn đứng ra tổ chức cho dân c̣ cây, đào hào, trồng tre làm thành đường tuần tra biên giới th́ bạn làm được và dần dần làm tốt”561.

    Rào biên giới để ngăn giặc là một kế hoạch táo bạo. Nhưng Thái Lan và Campuchia có một đường biên dài hàng ngh́n cây số, núi cao, rừng thiêng; Khmer Đỏ cũng không phải là con nai hay con trâu mà là những chiến binh áo đen. Từ những Preah Vihear, Dangrek, Pailin, Poi Pet, Phnom Malai, Anlong Veng,… những bóng đen ấy vẫn thoắt ẩn, thoắt hiện, qua lại biên giới như con thoi; Pol Pot tiếp tục lập căn cứ sâu bên trong lănh thổ Campuchia sau khi có K5.

    Tướng Mai Xuân Tần giải thích: “Việc tổ chức Công tŕnh K5 là nơi thực tế để tập dượt cho bạn biết làm công tác vận động và tổ chức quần chúng”. Nhưng không phải tự nhiên mà “hồi đó và cả bây giờ vẫn có một số đồng chí thắc mắc và cho rằng K5 là tốn kém và không cần thiết”562. Trên thực tế, “K5” đă từng là nỗi sợ hăi của người Campuchia. Để làm K5, theo ông Ngô Điền: “Ta đă thúc đẩy bạn huy động khoảng bảy triệu ngày công của quần chúng từ các tỉnh hậu phương đi xây dựng pḥng tuyến biên giới”.

    Hàng chục vạn dân công, phối hợp với bộ đội của Heng Samrin trên Công trường K5 không chỉ là những mục tiêu sống của Khmer Đỏ mà c̣n là của sốt rét, bệnh tật. Phần th́ bị phục kích, đánh úp, phần bị sơn lam, chướng khí, không thể tính hết con số thường dân Campuchia bị thương bởi ḿn, bị chết bởi súng đạn và đau ốm, trong cuộc “tập dượt làm công tác vận động quần chúng” này.

    Sau K5, chiến sự càng ác liệt, nhất là khi hơn năm vạn quân t́nh nguyện Việt Nam được rút đi. “Từ năm 1983, bạn đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ ấp, xă, thị xă, thị trấn, trừ hai thành phố Phnom Penh và Kongpong Som; năm 1984, bạn tự đảm đương hoàn toàn bốn tỉnh, Svey Rieng, Prey Veng, Kongpong Cham, Kandal; năm 1985, bạn tự đảm đương được một phần biên giới Campuchia-Thái Lan”563. Tuy nhiên, lực lượng Việt Nam đă phải dàn mỏng trên những vùng chiến trường rộng lớn. Những người lính trực tiếp ở đơn vị chiến đấu cảm nhận rất rơ điều đó và đây là trường hợp của Thượng úy Long.

    Tháng 5-1986, Thượng úy Trần Hữu Long, đang là giáo viên quân sự ở trường Quân chính Quân khu VII, được điều sang chiến trường Campuchia làm đại đội trưởng Đại đội 11, Trung đoàn 4, Sư 5, Mặt trận 479. Long kể: “Đơn vị đóng ở nơi ác liệt nhất, nhưng vũ khí vẫn rất thiếu thốn. Đại đội tôi có 110 người mà chỉ c̣n chín mươi khẩu súng; theo lư thuyết th́ hỏa lực phải được trang bị tới tận phân đội nhưng tiểu đội th́ có B40, trung liên, tiểu đội không”.

    Đóng quân ở b́a rừng, nơi lực lượng Khmer Đỏ thường từ Thái Lan vượt biên giới vào bên trong đất Campuchia. Long kể: “Chiến tranh như tṛ đùa, chúng tôi th́ cứ phơi mặt ra, trong khi Khmer Đỏ lại lẩn khuất trong bóng đêm, trong dân. Từ biên giới luồn qua, tụi lính Pol Pot lại dừng lại đánh nhau với tụi tôi một chặp, sau đó đi về lại bắn nhau thêm một chặp nữa. Chúng tôi phải đắp tường và đào hào vây quanh doanh trại theo kiểu pháo đài. Loại pháo đài tường đất với những ngôi nhà tranh tre chỉ cần một phát B40 là cháy rụi”.

    Sự ác liệt mà những người lính ở Campuchia đă phải trải qua là không thể định lượng. Đánh chiếm một căn cứ của Khmer Đỏ th́ có vẻ như rất dễ, nhưng tiêu diệt lực lượng Pol Pot th́ rất khó. Có những đơn vị Quân T́nh nguyện Việt Nam đă từng bị “xóa sổ”. Thượng úy Long kể: Đầu mùa khô năm 1986, trung đoàn tổ chức truy lùng địch, đại đội tôi được giao ở nhà giữ cứ. Tối, tôi qua Đại đội 13, anh em kêu ngồi vào uống ly rượu tiễn. Đang ăn, Đại đội trưởng Thụ hỏi: “C̣n đạn K54 không?”. Tôi rút nguyên băng đạn từ khẩu K54 bên hông đưa cho Thụ. Trưa hôm sau ra phum, thấy mấy người già Khmer ngồi khóc, nói: “Bộ đội ông Thụ chết hết rồi”.

    Toàn bộ lực lượng Đại đội 13 tham gia trận đánh bị hy sinh, chỉ c̣n một người lính vác chân đại liên sống sót. Đêm ấy, gần 300 lính Khmer Đỏ bị Trung đoàn 4 bao vây, dồn đánh. Chúng buộc phải mở đột phá khẩu. Nơi chúng chọn nằm trong phạm vi chốt chặn của Đại đội 13. Những tên lính Khmer Đỏ hung hăn nă B40 như văi xuống những người lính đang phơi lưng giữa đồng trống. Người lính sống sót về kể rằng, trước khi chúng đến, anh kịp nằm sấp xuống, kéo xác đồng đội đè lên.

    Lính Khmer Đỏ lần lượt bắn bồi vào những cái xác bộ đội Việt Nam, nhưng không hiểu sao anh sống sót. Sáng hôm sau, người dân đưa xe ḅ vào rừng chở về bốn mươi xác bộ đội trong đó có cả “Đại đội trưởng Thụ”.

    Sau trận ấy, Thượng úy Long triệu tập đơn vị nói, lực lượng mỏng, chúng ta có thể bị đánh bất cứ lúc nào. Rồi ra lệnh mở kho đạn, nâng cấp báo động, đặt đơn vị trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Đầu năm 1987, một tiểu đoàn Pol Pot xuất hiện trong khu vực đại đội Long đóng quân. Lúc này, Long đă chuyển sang chỉ huy Đại đội 12. Người dân trong phum nói: “Ông Long ơi, nó chuẩn bị đánh bộ đội 12 đó”.

    Nguôn, tiểu đoàn trưởng Khmer Đỏ, nhắn qua dân: “Nói ông Long chỉ cần ra khỏi doanh trại, bước qua b́a phum là tôi bắn”. Thượng úy Long nhắn lại: “Nói ông Nguôn có giỏi th́ cứ đưa quân về đây”. Khmer Đỏ không đánh ngay mà cứ dấm dứ hàng tháng trời ḥng đặt bộ đội của Thượng úy Long trong trạng thái căng thẳng kéo dài cho đến khi mệt mỏi. Bộ đội của Long vẫn thường nghêu ngao hát: “Pot ở đầu phum / Ta cuối Phum / Uống chung ḍng nước thối um um / Lên đây đă trải bao mùa lúa / Pot vẫn đầu phum ta cuối phum”564.

    Thượng úy Long kể: “Đêm Campuchia tối tới mức ngửa ḷng bàn tay ra đưa lên trước mặt cũng không nh́n thấy. Khi hành quân đêm, chúng tôi phải bắt con sâu đất có ánh lân tinh quệt lên ba lô của người lính trước mặt để bám theo nhau. Đêm đi qua trảng trống, nếu lỡ tụt lại phía sau phải nằm sát mặt đất may ra mới nh́n thấy bóng những người lính hành quân in trên nền trời”. Những khoảnh khắc hay bị phục kích nhất là ở thời điểm trăng vừa lên, Khmer Đỏ phục sẵn chỉ chờ có ánh sáng nhận rơ mục tiêu là bắn. Khi tiểu đoàn Khmer Đỏ của Nguôn vẫn thập tḥ ngoài rừng, Long kể: “Cứ hai tiếng một lần, tôi lại phải dậy đi một ṿng đốc gác. Tiền đồn tối như mực mà không có lấy một trái hỏa châu. Khmer Đỏ áp sát hàng rào cũng khó ḷng nh́n thấy”.

    Sau bốn ngày bị bao vây, “bộ đội 12” căng như dây đàn nhưng đám lính Khmer Đỏ vẫn chưa khởi chiến. Trung đoàn 4 lúc đó cũng không c̣n khả năng chi viện v́ lực lượng đă bị dàn mỏng. Tiểu đoàn nhắn xuống: “Tập trung pḥng thủ cho tốt”.

    Khoảng 4:30 sáng, Thượng úy Long đi đốc gác lần cuối, thấy anh em chấp hành nghiêm, anh trở về lán. Long kể: Vừa đặt lưng, tôi nghe tiếng AK nổ phát một bụp, bụp. Chưa kịp nhảy ra th́ quả B40 thứ nhất nổ sát nóc nhà sở chỉ huy. Tôi phóng xuống hầm.

    Nghe đạn của tụi Pol Pot bắn hết cỡ mà không thấy tiếng súng bắn trả của anh em ḿnh. Tôi nói với cậu liên lạc: không ra đánh là chết hết. Vừa dợm chân ra th́ một trái B40 nổ ngay cửa hầm hất ḿnh trở lại. Nh́n thấy miệng cậu liên lạc mấp máy, tôi hét lên: “Tao c̣n sống, đánh!”. Ra khỏi hầm, thấy hàng chục nóc nhà đang bốc lửa. Một nhóm bộ đội đang vác khẩu cối 82 chạy ra phía sau. Long hét: “Dựng ṇng, bắn cấp tập”. Hô xong vẫn không nghe tiếng cối, Long quát: “Không bắn, tao bắn tụi bây bây giờ”. Quát xong nh́n lại, thấy miệng khẩu cối chớp liên tục, anh em không kịp gá chân, cứ thế dựng ṇng, thả đạn. Khi ấy, Long mới biết tai ḿnh đă điếc.

    Chạy xuống Trung đội 1, thấy một chiến sỹ bị thương ḷi ruột, anh em đang lấy bát úp bụng băng lại. Ở Trung đội 2, Trung đội trưởng Nê bị một viên đạn xuyên qua ngực, chết trong khi tay ôm chặt một chiếc gối hồng. Đại đội trưởng Long giật ḿnh. Chỉ hai ngày trước, khi nh́n thấy chiếc gối, Long đùa: “Ai tặng đây?”. Nê tự hào: “Người yêu em tặng. Có chết em cũng sẽ ôm theo chiếc gối”. Người yêu của Nê là một cô gái người Khmer mới quen. Người lính có mặt trong giờ phút trung đội trưởng Nê hy sinh kể: “Anh ấy đang chỉ huy th́ khựng lại, máu rỉ ra từ một vết nhỏ trên ngực. Ngay lập tức anh ấy bảo em vào hầm lấy chiếc gối, rồi ra lệnh: Bắn! Anh ấy ôm chặt chiếc gối cho đến khi mặt tái lại và lịm dần”.

    Trời sáng, lực lượng Khmer Đỏ rút lui. Ở Trung đội 3, hai người lính đang cố gắng để nâng xác một đồng đội bị B40 xé nát một mảng lưng. Lửa vẫn cháy ở gần như tất cả những ngôi nhà của đại đội. Ba người lính hy sinh, ba người khác bị thương. Xác anh em được đưa về Sở Chỉ huy. Long lấy khăn lau mặt cho từng tử sỹ rồi đợi xe ḅ của người Khmer vào đưa xác những bộ đội xấu số lên trung đoàn. “Đêm khô như tiếng mơ trâu / Rừng khô như tờ bánh tráng / Trời không một tia gió thoảng”565. Mùa khô ở Campuchia, đất sắt lại, phải hai ba người đào một ngày mới được một cái huyệt để chôn đồng đội.

    Ngay cổng chính, xác một lính Khmer Đỏ bị bắn chết khi đang vác khẩu B40 với viên đạn đă sẵn sàng nhưng chưa kịp bắn. Trên lưng hắn ta c̣n sáu quả đạn. Tiếng AK “bụp” phát một mà Long nghe khi vừa trở về chỗ nằm là của người lính mà anh vừa gặp khi đi đốc gác. Nếu anh bộ đội để cho tên lính Khmer Đỏ mang bảy quả B40 ấy lọt qua hàng rào th́ thế trận có nguy cơ vỡ. Đêm ấy, lực lượng Pol Pot chỉ tấn công ba mặt, chừa một mặt để, nếu “bộ đội 12” bỏ chạy, sẽ rơi trọn vào bẫy phục kích của chúng. Đấy là trận tập kích khốc liệt nhất của Khmer Đỏ vào nơi đóng quân của “bộ đội 12” nhưng không phải là trận đánh duy nhất. Thượng úy Long đến Mặt trận 479 tháng 5-1986, từ đó cho tới giữa năm 1987 anh chỉ huy đơn vị phản công, phục kích và truy kích Khmer Đỏ tổng cộng sáu mươi tám trận.

    Cùng thời gian ấy, có tin đồn ở Sài G̣n rằng Long hy sinh. Mẹ Long, bà Đỗ Thị Bích Hà, đến Pḥng Cán bộ Quân khu nhiều lần để hỏi thăm. Nhưng thông tin liên lạc tới chiến trường, nhất là tới những đơn vị đóng sát biên giới Thái Lan như đơn vị Long là hết sức khó khăn. Sau ba tháng hỏi han, mẹ Long chỉ được cho biết: Vào thời gian ấy tại Mặt trận 479 có ba thượng úy tên Long chết.

    Tháng 8-1987, Trần Hữu Long có lệnh rời chiến trường. Nghe tin Long về nước, Tuân, người nhận bàn giao chức đại đội trưởng Đại đội 11 từ Long, cho liên lạc cắt rừng, gửi anh một lá thư ngắn: “Ḿnh được tin Long về nước mà không gặp được.

    Chỉ mong Long về nhà, hạnh phúc”. Tuân và Long đă từng mắc vơng nằm tṛ chuyện với nhau suốt đêm ngoài rừng. Đấy là lá thư cuối cùng giữa hai người. Khi Long về tới Bộ Chỉ huy Sư đoàn 5, xác của Tuân và một người phó của anh cũng vừa được đưa về Sư đoàn bộ. Ở chiến trường có những cái chết không thể nào lường trước. Tuân không chết bởi Khmer Đỏ mà chết bởi đạn của một chiến sỹ, trong cơn kích động do chịu đựng căng thẳng kéo dài, đă mất trí bắn vào đồng đội. Cho đến nay, người dân vẫn không được biết chính xác có bao nhiêu “quân t́nh nguyện” đă hy sinh ở Campuchia. Con số bộ đội Việt Nam bị chết, bị tàn phế bởi ḿn zip và ḿn K58 trong mười năm ở đây lên đến hàng trăm ngh́n566. Các văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam lúc đó mô tả: “Đất nước vừa có ḥa b́nh vừa có nguy cơ xảy ra chiến tranh”.

    Nhưng không chỉ là nguy cơ. Đưa quân sang Campuchia là để giữ cho không gian chiến tranh ở xa biên giới Tây Nam, vậy mà ở những quân y viện Sài G̣n, Cần Thơ vẫn tấp nập thương binh. Những người lính ở “Chiến trường K” lâu ngày bặt tin đă đưa không gian chiến tranh tràn về những làng quê, góc phố.

    “Xuất khẩu cách mạng”

    Năm 1978, Ouk Bun Xươn, bí thư một vùng ở Quân khu Đông, cầm đầu một nhóm Khmer Đỏ chạy sang Việt Nam. Ouk Bun Xươn đề nghị Việt Nam giúp xây dựng một “khu giải phóng” dọc biên giới, giúp xây dựng lực lượng vũ trang, từ đó, những người Khmer sẽ tự chiến đấu để “giải phóng Campuchia” khỏi chế độ Khmer Đỏ. Theo ông Ngô Điền, phó Ban B68, “đề nghị hợp lư này đă không được chấp nhận”.

    Bắt đầu từ tháng 6-1978, ông Lê Đức Thọ vào Sài G̣n lập ra Ban B68, ban chỉ đạo “giải quyết chiến tranh biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn”.

    Theo Tướng Lê Đức Anh: “Ông Lê Đức Thọ là người thiết kế từ đầu, là người quyết định những vấn đề lớn như xây dựng lực lượng, phương thức tiến hành, phương án chiến đấu, điều binh khiển tướng”.

    Khi chính quyền Khmer Đỏ tháo chạy, người dân Campuchia đang ở trong các công trường giống như những trại tập trung thời Đức Quốc xă, run rẩy, đói khát, hôi hám. Công việc của bộ đội Việt Nam trong mấy ngày đầu chủ yếu là cứu đói và cứu sống hàng vạn người Khmer đang thoi thóp. Những hố chôn người tập thể, những giếng nước đầy xương người có thể t́m thấy tại hàng ngàn phum, sóc của đất nước nhỏ bé này.

    Sau hơn ba năm chín tháng sống dưới bàn tay Pol Pot, Campuchia thực sự trở thành những “cánh đồng chết”. Hàng triệu người bị hành quyết hoặc bị hành hạ cho đến chết trong các công xă và trên những đại công trường567. Bộ đội Việt Nam đă giúp từng người dân t́m lại nhà, t́m lại những người sống sót trong gia đ́nh, mang từng hạt bắp, hạt đậu từ Việt Nam sang để người dân Campuchia khôi phục công việc đồng áng. Những “hạt giống cách mạng” cũng đồng thời được mang tới, h́nh thành ở Campuchia một chế độ theo đúng mô h́nh Việt Nam.

    Các đơn vị quân t́nh nguyện Việt Nam đứng chân ở đâu có nhiệm vụ giúp lập nên chính quyền ở đấy. Tiểu đoàn, đại đội, “giải phóng huyện” th́ giúp lập ra chính quyền cấp huyện, tiểu đội “giải phóng xă” th́ giúp từng xă lập nên chính quyền tạm thời gọi là “ủy ban tự quản”. Những người “thù Pol Pot, không có nợ máu với dân, đoàn kết với Việt Nam” có thể được cơ cấu vào các ủy ban này.

    Những người lính Việt Nam trong độ tuổi hai mươi chưa từng lập gia đ́nh, chưa từng một ngày “làm quan” bỗng nhiên trở thành “chuyên gia” ở xă và có khi ở huyện. Ông Lê Đức Thọ muốn dựng lên ở Campuchia một bộ máy hoàn chỉnh, theo mô h́nh Việt Nam, mặc dù ông chỉ tập hợp được vẻn vẹn sáu mươi mốt cán bộ người Khmer trước khi “Phnom Penh giải phóng”.

    Cuối năm 1978, báo chí Việt Nam dồn dập đưa tin về các lực lượng nổi dậy, về “Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia”, liên tục phát thanh những “lời kêu gọi” của Heng Somrin, Chea Sim. Nhưng cho tới lúc đó, trên lănh thổ Campuchia không hề có nổi dậy, chỉ có những cuộc đào thoát của người Campuchia đến Việt Nam. Tháng 9-1978, những người đào thoát này mới được tập hợp lại thành “đoàn đại biểu lực lượng nổi dậy đến thành phố Hồ Chí Minh” yêu cầu Việt Nam giúp đỡ.

    Theo ông Ngô Điền568: “Lănh đạo Việt Nam lúc đó rất khó mà đánh giá các nhóm từ Campuchia sang nên điều dễ hiểu là phải dành sự tin cậy của ḿnh cho những nhóm cán bộ năm 1954 tập kết ra Bắc. Oái oăm là những cán bộ tập kết có tầm cỡ đă lần lượt được đưa về lại Campuchia từ 1970 và đă lần lượt bị bọn Pol Pot thủ tiêu. Những người c̣n sót lại tới năm 1978 là những cán bộ rất khó sử dụng. Anh Lê Đức Thọ đă dùng cụm từ ‘vơ bèo, vạt tép’ nhưng cũng chỉ kiếm được khoảng bốn mươi người”569. Ông Ngô Điền thừa nhận: “Thực tế là ta dựng lên nhóm lănh đạo bảy người; ta dựng lên Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước mười bốn người; ta viết cương lĩnh Mặt trận 11 điểm; ta tổ chức lễ ra mắt của Mặt trận ở vùng Mimot ngày 2-12-1978”.

    Chỉ có khoảng hai mươi cán bộ trong “lực lượng nổi dậy” được quân đội Việt Nam mang theo khi tiến vào Phnom Penh. Theo ông Ngô Điền: “Ta tuyên truyền như là một cuộc tổng tiến công và nổi dậy của bạn, có sự giúp đỡ quân sự của Việt Nam. Sự thực, sau khi Phnom Penh giải phóng rồi, đội quay phim quân đội của ta đă bố trí quay cảnh một cánh quân Cách mạng Campuchia, thực ra là chiến sĩ Việt Nam mặc quân phục Campuchia, ngày 7-1-1979, tiến nhanh dưới lá cờ đỏ năm tháp vàng xông vào chiếm hoàng cung giống như cảnh đánh chiếm Cung điện Mùa đông trong Cách mạng tháng Mười”570.

    Tối ngày 8-1-1979, thế giới nghe được tuyên bố thành lập “Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia” của những người nổi dậy. Nhưng sự thực th́ vài giờ trước đó, theo ông Ngô Điền: “Tại Bộ Tư lệnh Quân khu VII, ông Lê Đức Thọ mới chủ tŕ một cuộc họp gồm lănh đạo B68 và Tiền phương Bộ Quốc pḥng để xem xét lần cuối danh sách chính phủ mới của Campuchia trước khi công bố. Cuộc họp không có bạn Campuchia tham dự. Ta đă quyết định không gọi là ‘chính phủ’ mà gọi là ‘Hội đồng Nhân dân cách mạng’. Việc lớn mà ta quyết định nhanh như vậy và mọi người xem như b́nh thường”571.

    Măi tới ngày 20-1-1979, tại Nhà khách 14 Vơ Văn Tần, ông Lê Đức Thọ mới làm tiệc tiễn hơn bốn mươi cán bộ người Campuchia c̣n lại về Phnom Penh chấp chính. Trong số đó có bảy nhân vật chủ chốt: Pen Sovan, Chea Xim, Heng Samrin, Van Xôn, Bou Thong, Nan Xarin tức Chan Kiri và Hun Sen.

    Tư tưởng nước lớn

    Từ cuối tháng 1-1979, ông Đỗ Mười cùng một số chuyên viên đă được đưa sang Phnom Penh. Ngày 11-2-1979, toàn bộ “Trung ương bạn” có mặt ở Hoàng cung dự họp với Lê Đức Thọ, Đỗ Mười và các thành viên B 68. Ông Đỗ Mười tŕnh bày một dự thảo hiệp định theo đó, Việt Nam sẽ viện trợ cho Campuchia 400 triệu đồng, tương đương với 60-70 triệu USD theo thời giá. Một tuần sau, Thủ tướng Phạm Văn Đồng bay sang, kư với Chủ tịch Heng Samrin một hiệp ước có giá trị trong ṿng hai mươi lăm năm gọi là “Hiệp ước Ḥa b́nh Hữu nghị và Hợp tác”, theo đó, “Campuchia yêu cầu Việt Nam để quân t́nh nguyện ở lại”.

    Một năm sau khi đánh sang Campuchia, ông Lê Đức Anh được thăng quân hàm từ trung tướng lên thượng tướng. Ngày 20-5-1981, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Quân T́nh nguyện Việt Nam tại Campuchia, lấy phiên hiệu là “Bộ Tư lệnh 719”. Ông Lê Đức Anh, khi ấy đang là tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu VII, được bổ nhiệm làm tư lệnh Quân T́nh nguyện.

    Vừa làm tư lệnh 719, ông Lê Đức Anh vừa trực tiếp làm trưởng Đoàn Chuyên gia quân sự 478, cơ quan giúp h́nh thành Bộ Quốc pḥng và xây dựng lực lượng vũ trang Campuchia. Bên cạnh lực lượng “Quân T́nh nguyện” c̣n có một “Đoàn Chuyên gia” giúp xây dựng hệ thống chính quyền dân sự, có mật danh là B68, do ông Trần Xuân Bách, ủy viên Trung ương Đảng phụ trách. Tháng 3-1982, tại Đại hội Đảng lần thứ V của Việt Nam, ông Trần Xuân Bách vào Ban Bí thư trở về Hà Nội làm chánh Văn pḥng Trung ương; ông Lê Đức Anh được bầu vào Bộ Chính trị, trở lại Campuchia, thống lĩnh cả Đoàn Chuyên gia B68 và Quân T́nh nguyện.

    Những năm ấy ở Việt Nam, kinh tế th́ kiệt quệ, kinh nghiệm th́ chỉ có cơ chế quan liêu, bao cấp. Vậy mà mô h́nh chính trị, kinh tế, văn hóa mà chính Việt Nam cũng đang cần phải đổi mới ấy lại được đưa sang áp đặt ở Campuchia, một quốc gia vốn rất khác biệt về văn hóa và đă quá hoảng sợ chính quyền vô sản từ thời Khmer Đỏ.

    Những người Việt Nam làm “nhiệm vụ quốc tế” ở Campuchia, theo tướng Lê Đức Anh, c̣n mắc phải “tư tưởng nước lớn”. Từng cán bộ Việt Nam, đặc biệt là đội ngũ “chuyên gia giúp bạn”, biết rơ nguồn gốc lư lịch của từng cán bộ người Campuchia.

    Thật khó để bỗng chốc họ có được thái độ đúng mực với những người vừa được đưa lên lănh đạo ở tầm quốc gia ấy.

    Những người thực sự có năng lực và đă từng nắm giữ những chức vụ cao trong hàng ngũ Khmer Đỏ chạy sang Việt Nam th́ chưa được tin cậy. Trong giai đoạn 1979-1981, nhóm “tập kết” được ông Lê Đức Thọ giao nắm giữ các chức vụ tổng bí thư, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, bộ trưởng Bộ Quốc pḥng; 3/8 ủy viên Bộ chính trị; 8/17 bộ trưởng; 7/29 chủ tịch, bí thư tỉnh, thành.

    Những người tập kết từ miền Bắc Việt Nam đưa về tŕnh độ rất giới hạn. Người được chọn “cầm cờ” là Pen Sovan cũng chỉ vốn là trưởng Pḥng tiếng Khmer ở Đài Tiếng nói Việt Nam. Người sau đó thay Pen Sovan giữ chức chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Chan Si, khi ở Việt Nam chỉ là trưởng một phân xưởng của nhà máy nhiệt điện Việt Tŕ, Vĩnh Phú. “Tư lệnh Binh đoàn I” và sau đó là chủ tịch thành phố Phnom Penh, Khang Sarin, nguyên là một thượng úy ở Thị đội Sơn Tây. Khi được Lê Đức Thọ kêu, Khang Sarin đă về hưu, đang đi cọ rửa thùng phuy với tiền công hai đồng một cái. Men Som Ol, từ một nữ y tá hai mươi sáu tuổi ở Quân khu VII, được ông Lê Đức Anh đưa về làm cục phó Cục Cán bộ Bộ Quốc pḥng. Som Sosor, người gác cổng một nhà máy, được ông Lê Đức Thọ bố trí làm bí thư tỉnh Kongpong Speu. Mọi quyết định về nhân sự cao cấp của Campuchia đều do một tay ông Lê Đức Thọ. Sau ngày 20-1-1979, “Ban Xây dựng đảng”, chỉ mới h́nh thành trước đó mấy ngày, được ông Thọ gọi là “Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia” và theo ông Ngô Điền, Pen Sovan được ông Lê Đức Thọ gọi là tổng bí thư, cùng với Chia Xim, Van Xon hợp thành Ban Thường vụ. Nói là trung ương, là ban thường vụ, nhưng theo ông Ngô Điền: “Trên thực tế chẳng mấy khi họp, mọi quyết định lớn đều do phía ta làm rồi truyền đạt cho Pen Sovan, Pen Sovan nêu ra với Trung ương như là ư kiến của Ban Thường vụ. Cái đầu thực sự là Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ thể là Lê Đức Thọ. Làm giúp chỉ là cách nói thôi, trên thực tế là làm thay”572. Từ thực tế này, ông Ngô Điền thừa nhận tâm lư coi thường của cán bộ Việt Nam là không tránh khỏi.

    Ông Ngô Điền là đại sứ kiêm cố vấn cho Bộ Ngoại giao Campuchia. Bộ trưởng là Hun Sen, năm ấy mới hai mươi bảy. Ngô Điền là người hướng dẫn cho Hun Sen từ cách cầm từng cái ly, cái nĩa. Khi đă được đưa lên làm chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, năm 1985, giữa công khai, Hun Sen vẫn giới thiệu ông Ngô Điền với mọi người: “Đây là người thầy vĩ đại của tôi”. Bộ Ngoại giao Campuchia trong những ngày đầu chỉ có một bộ trưởng, một chuyện gia, mọi văn kiện, từ thư của Chủ tịch Heng Samrin gửi các nguyên thủ quốc gia, đến các tuyên bố quốc tế quan trọng đều do một tay ông Ngô Điền thảo. Ông Điền thừa nhận: “Có lúc phải viết bằng tiếng Pháp cho kịp thời gian”. Ngay cả khi Đại sứ Ngô Điền “tŕnh quốc thư” lên “Quốc trưởng” Heng Samrin, mọi hoạt động, kể cả việc “Quốc trưởng tiếp thân mật đại sứ” đều do chính ông Ngô Điền sắp đặt573.

  5. #35
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc -
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương XI: Campuchia
    P2



    Hun Sen thuộc trong số những người khi về Phnom Penh là ư thức được vai tṛ “chủ thể của nước Cộng ḥa Nhân dân Campuchia”. Từ một người không biết ǵ về ngoại giao, nhờ thông minh, năng động và chịu khó học, Hun Sen đă trở thành một nhà ngoại giao thực sự. Ông Ngô Điền kể: “Mỗi lần tôi gặp đều tranh thủ giải thích thêm những vấn đề có liên quan. Hun Sen chăm chú lắng nghe, chỗ nào không rơ th́ hỏi lại, không giấu dốt”.

    Ngược lại, cũng có những người, theo ông Ngô Điền: “Thoắt cái nhảy lên địa vị mới, nắm trong tay nhiều quyền lực, họ sống như trong giấc mộng… Quên mất ḿnh vốn chỉ là những b́nh vôi vô danh, được đưa đặt dưới gốc cây đa, do có hương đèn cúng vái mà thành thần… Rất nhanh chóng, họ trở thành những người lạm dụng chức quyền, sống buông thả theo tiền, theo gái”574. Điển h́nh trong số đó là Pen Sovan. Theo ông Ngô Điền: “Pen Sovan thường lên mặt lănh tụ thông thạo, đôi lần c̣n giảng giải lại cho tôi… Và, chẳng mấy chốc, đă bộc lộ tham vọng làm một lănh tụ độc tài”575. Cho dù nói là “giúp bạn chân thành và vô điều kiện”, nhưng những người thực sự nắm quyền lúc đó ở Campuchia cũng không thể chấp nhận cung cách của Pen Sovan. Ngày 2-12-1981, Pen Sovan bị bắt576.

    Không ai phủ nhận Khmer Đỏ là một chế độ diệt chủng, và cho dù lên án Việt Nam “xâm lược”, chính Sihanouk cũng phải thừa nhận Việt Nam đă cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi bàn tay Pol Pot. Trong hơn mười năm ở lại Campuchia, những người lính Việt Nam đă làm nhiều việc để ngăn cản Pol Pot quay trở lại. Họ hy sinh rất nhiều xương máu. Nhưng đồng thời họ cũng can thiệp vào không ít quyết định của Chính quyền Campuchia. Chính “tinh thần quốc tế vô sản” này đă dẫn đến khá nhiều sai lầm, trong đó có “sai lầm Seam Riep”.

    Mùa khô năm 1982-1983, Khmer Đỏ dùng thủ đoạn “phản t́nh báo”, cho một trung đoàn phó ra trá hàng. Kẻ trá hàng này khai có hàng loạt cán bộ trong chính quyền Campuchia vừa làm việc cho Phnom Penh vừa làm cho Pol Pot. Ở Campuchia lúc ấy, không chỉ có một số cá nhân, một số chính quyền địa phương cũng ngày th́ làm việc cho Heng Samrin, tối th́ làm cho Pol Pot. Kiểu như vậy gọi là “chính quyền hai mặt”. Không phải ai tham gia “chính quyền hai mặt” cũng là để chống Việt Nam. Trong một t́nh thế mà đêm đêm Khmer Đỏ vẫn từ trong rừng lẻn ra, sẵn sàng dùng dao quắm chặt đầu những người Khmer trung thành với Việt Nam, th́ “hợp tác” chỉ là lựa chọn để tồn tại. Theo ông Lê Đức Anh: “Căn cứ vào lời khai của thằng trung đoàn phó trá hàng, anh em đă bắt và xét nhà một số cán bộ của bạn”.

    Khoảng bốn mươi cán bộ người Campuchia đă bị bắt v́ âm mưu của một kẻ trá hàng, hầu hết đều là cán bộ chủ chốt của chính quyền Seam Riep. Bí thư Tỉnh ủy Seam Reap đă tự sát khi “các đồng chí Việt Nam” của ông đến bắt. Theo ông Ngô Điền: “Việc bắt bớ, truy bức, tra tấn đă làm cho nhiều người dân và cán bộ chết oan, bị vùi dập. Chua xót biết bao khi nghe dư luận cán bộ bạn đặt câu hỏi: cán bộ Việt Nam sao lại ác như vậy”. Một không khí hoang mang, lo sợ và oán giận Việt Nam bao trùm Seam Reap rồi nhanh chóng lan ra khắp đất nước Campuchia. Trước khi tiến hành “vụ Xiêm Riệp”, Bộ tư lệnh 719 đă “xin ư kiến cấp trên” ở Hà Nội577. Nguồn gốc của những sai lầm kiểu như vụ Seam Riep, theo ông Ngô Điền, đều có căn nguyên từ “tư tưởng dân tộc nước lớn”. Ông Điền nói: “Biểu hiện rơ nhất của tư tưởng nước lớn là việc ta mặc nhiên tự cho ḿnh cái vai tṛ làm lại cuộc cách mạng Campuchia, sắp xếp từ đầu đến chân bộ máy Campuchia”. Ông Lê Đức Thọ có thể vẫn ung dung trong buồng tắm trong khi một vị “nguyên thủ” Campuchia ngồi đợi bên ngoài. C̣n Tổng Bí thư Lê Duẩn th́ đối xử với tổng bí thư của “bạn” không hề theo nghi lễ578.

    Bị cô lập

    Khi đến Liên Hiệp Quốc, trong khi tố cáo “Việt Nam xâm lược”, Sihanouk đồng thời cũng tố cáo “tội ác diệt chủng” của Khmer Đỏ. Tuy nhiên, thế giới dường như chỉ chú ư đến sự hiện diện của gần hai trăm ngh́n quân Việt Nam tại Campuchia, khía cạnh cứu “nhân dân Khmer” của cuộc chiến tranh th́ không ai thừa nhận. Người Mỹ khôi phục lại lệnh cấm vận thương mại, nhiều nước ASEAN quay qua hậu thuẫn cho các lực lượng Khmer chống Việt Nam. Sau năm 1975, khi ông Nguyễn Cơ Thạch sang Bangkok, các bộ trưởng ASEAN được nói là sắp hàng đứng chờ bắt tay ông. Sau ngày Việt Nam có mặt ở Campuchia, khi ông Thạch tới Bangkok, những người biểu t́nh gọi ông là “dog eater-kẻ ăn thịt chó”.

    Tháng 4-1984, khi quân đội Việt Nam mở chiến dịch đánh vào căn cứ địa của “ba phái Khmer phản động” nằm trên đường biên giới, trong đó có những phần nằm sâu trong đất Thái Lan, một máy bay trinh sát L19 của Thái đă bị trúng đạn pḥng không Việt Nam, một trực thăng khác bị bắn hỏng. Tháng 5-1984, pháo của quân t́nh nguyện Việt Nam bắn sâu vào lănh thổ Thái Lan, phần thuộc tỉnh Surin làm chết và bị thương một số dân làng. Quan hệ với Thái Lan càng thêm căng thẳng. Theo ông Trần Quang Cơ, đại sứ Việt Nam tại Thái Lan đầu thập niên 1980, chính quyền Thái Lan lúc đó gắn bó rất chặt với Trung Quốc trong việc nuôi dưỡng Pol Pot chống Việt Nam nên, hầu như không có tháng nào là không có những đám đông biểu t́nh trước sứ quán ḥ hét phản đối Việt Nam “xâm lược Campuchia”, xâm phạm lănh thổ Thái.

    Sự căng thẳng giữa hai quốc gia đă dồn thêm nhiều áp lực lên cộng đồng Việt Kiều. Các tỉnh Đông Bắc Thái Lan là nơi có nhiều người Việt từ hai tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An tới làm ăn. Họ đă từng được Thái Lan chào đón. Cuối thập niên 1920, Nguyễn Ái Quốc thường dừng chân tại đây để gây dựng cơ sở, truyền bá chủ nghĩa cộng sản trong cộng đồng và liên lạc với các phong trào trong nước. Đây cũng là vùng có hàng ngàn người Thái cảm t́nh với chủ nghĩa cộng sản, nuôi ư đồ làm cách mạng.

    Năm 1947, chính phủ có thiện cảm với Hồ Chí Minh của Thủ tướng Bridi Banomyong bị thay thế bởi một chính phủ thân Mỹ. Lo sợ chủ nghĩa cộng sản nảy nở, chính quyền mới ban hành luật cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lập hội và không cho tự do ngôn luận. Vùng biên giới Đông Bắc Thái Lan bị thiết quân luật.

    Người Việt ở đây, tuy vẫn được lưu dung, nhưng bị coi là “tị nạn bất hợp pháp”.

    Theo ông Trần Quang Cơ: “Họ không được cấp ‘tàng-đạo’ – giấy chứng nhận ngoại kiều – cũng không được nhập quốc tịch Thái. Mặc dù đă làm ăn sinh sống trên đất Thái hàng chục năm, hàng chục vạn người Việt vẫn bị quản thúc, muốn ra khỏi nơi cư trú, muốn đến sứ quán ở Bangkok những dịp Tết Nguyên đán hay ngày Quốc khánh, đều phải xin giấy phép. Đại sứ Việt Nam cũng không thể tới những tỉnh Đông Bắc để thăm người Việt”579.

    Năm 1979, khi đến Liên Hiệp Quốc, ông Hoàng Sihanouk đă dừng lại ở New York khá lâu để chờ chấp thuận tị nạn. Nhưng sự im lặng của người Mỹ đă đẩy ông trở lại tay Trung Quốc. Tất cả các dinh thự mà người Trung Quốc và Bắc Triều Tiên tặng ông ở Bắc Kinh và B́nh Nhưỡng vẫn chờ đợi ông. Thoạt đầu, Sihanouk tuyên bố “không bao giờ hợp tác với Pol Pot”. Sihanouk đă từng nói với Đặng Tiểu B́nh: “Ngài có thể mở tiệc chiêu đăi tôi, nhưng chúng ta đừng thảo luận về Pol Pot và Khmer Đỏ, nếu không, cuối cùng chúng ta sẽ ném cốc chén và bát đĩa vào mặt nhau”. Nhưng, khi Trung Nam Hải để Đặng Dĩnh Siêu, bà quả phụ Chu Ân Lai, người mà ông rất quư trọng, tiếp, ông Hoàng đă không c̣n khăng khăng nữa. Đặng Dĩnh Siêu đă nói với ông: “Hăy quên những nỗi đau riêng của ngài đi”.

    Liên Hợp Quốc vẫn giữ chiếc ghế của Campuchia cho Pol Pot. Ngày 22-6-1982, tại Kualalumpur, Đảng Funcinpec của Hoàng thân Norodom Sihanouk đă ngồi lại với Khmer Đỏ – những kẻ đă giết mười tám người thân của ông – cùng với Mặt trận Giải phóng Dân tộc Nhân dân Khmer (KPNLF) của Son Sann, lập “Chính phủ Liên hiệp Ba phái Campuchia Dân chủ” do Sihanouk làm chủ tịch. Lại một lần nữa Sihanouk đánh cờ cho “Trung Hoa”, củng cố vị thế chính trị cho lực lượng chủ yếu là Khmer Đỏ.

    Phương Bắc

    Sau khi kư Hiệp định Paris, Kissinger đă đến Việt Nam. Có nhiều giai thoại nói rằng khi đó, Kissinger cảnh báo: từ nay, mối đe dọa của Việt Nam sẽ đến từ phương Bắc. Tuy nhiên, khi trả lời phỏng vấn tác giả cuốn sách này, Cựu Ngoại trưởng Henry Kissinger đă cười và giải thích: “Khi tới Hà Nội, Lê Đức Thọ dẫn tôi đến bảo tàng lịch sử, ở đó chưa nói ǵ về chiến tranh với người Mỹ trong khi mô tả khá chi tiết những lần xung đột với Trung Hoa. Anh nghĩ, Hà Nội c̣n cần tôi nói với họ điều mà họ đă thuộc làu qua lịch sử!”.

    Cảnh giác với người Trung Hoa là điều có từ trong máu người Việt Nam. Nhưng, trong lịch sử ngh́n năm kháng cự để tồn tại với “Thiên Triều”, chưa có triều đại nào lại công khai xác định Trung Quốc là “kẻ thù truyền kiếp và lâu dài” trong các văn kiện chính thức như thời Tổng Bí thư Lê Duẩn. Trong suốt thập niên Trung Quốc đánh Việt Nam, Hà Nội vẫn giữ đại sứ tại Bắc Kinh và Bắc Kinh vẫn giữ đại sứ của ḿnh tại Hà Nội. Nhưng đó là một mối quan hệ không b́nh thường.

    Theo Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc giai đoạn 1974- 1987, ngay từ khi mới xảy ra vấn đề người Hoa, ông đă rất “vất vả với các tṛ trẻ con của Trung Quốc”. Tướng Vĩnh kể: “Trung Quốc bố trí hai chiếc xe ô tô con luôn luôn chầu chực ở hai cửa của sứ quán ta, cán bộ ḿnh đi đâu nó theo đấy, ngay đại sứ đi nó cũng đi theo. Có lần tôi ngồi xe có cắm cờ Việt Nam đi từ sứ quán ta ra, đi được một đoạn, mặc dù đồng chí Quảng đang lái rất nghiêm chỉnh, đúng luật, thế mà cảnh sát Trung Quốc lại thổi c̣i bắt dừng xe, rồi bắt lái xe xuất tŕnh giấy tờ. Giấy tờ đủ cả! Rồi họ cũng phải cho đi tiếp v́ không biết làm cách nào, không t́m ra cái ǵ để bắt bẻ nữa. Chủ yếu là họ làm chậm hành tŕnh để tôi sai hẹn với đối tác hoặc với đại sứ nước nào đó”. Nhân viên sân bay Bắc Kinh cũng từng bắt Tướng Vĩnh đi vào cửa kiểm tra hành lư, cho dù ông được quyền “miễn trừ ngoại giao”.

    Tướng Vĩnh dọa “họp báo tố cáo Bắc Kinh vi phạm công ước quốc tế” và dọa sẽ áp dụng biện pháp tương tự với đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội theo “nguyên tắc đối đẳng” họ mới để ông đi theo cửa không kiểm tra hành lư.

    Sau khi Trung Quốc rút hết quân vào ngày 18-3-1979, hai bên đă có hai ṿng đàm phán – ṿng 1, từ 18-4 đến 18-5-79 tại Hà Nội và ṿng 2, từ 28-6-79 đến 6-3- 80, tại Bắc Kinh – chủ yếu là giải quyết vấn đề tù binh. Theo ông Trần Quang Cơ: “Từ năm 1980 đến cuối năm 1988, ngót hai chục lần Việt Nam gửi thư hoặc công hàm cho Trung Quốc đề nghị nối lại đàm phán nhưng đều bị Trung Quốc bác. Trung Quốc nâng cao dần điều kiện lên: về quân sự đ̣i Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, về chính trị đ̣i Việt Nam chấp nhận sẽ lập chính phủ liên hiệp ở Campuchia, bao gồm cả Khmer Đỏ”.

    Chỉ hơn một năm sau khi tuyên bố rút quân, Trung Quốc bắt đầu gây chiến tranh trở lại580. Duy tŕ chiến sự trên biên giới phía Bắc không chỉ làm suy kiệt Việt Nam mà c̣n là nơi để Trung Quốc phối hợp tấn công khi các phái Khmer chống Việt Nam bị đánh đuổi trên vùng biên giới Thái581. So với thời điểm tháng 2-1979, cuộc tiến công năm 1984 của Trung Quốc có tŕnh độ tác chiến cao hơn hẳn. Ngày 16-5- 1984, chỉ sau mười tám ngày điều quân, Trung Quốc đă chiếm và chốt giữ hai mươi chín điểm dọc biên giới Việt Nam.

    Cuộc phản công đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu từ ngày 11-6-1984, đánh vào các cao điểm 233, 685 nhưng không thành công. Cuộc phản công quy mô hơn vào ngày 12-7-1984 cũng bị coi là thất bại. Chiến sự ở thế dằng co kéo dài cho tới tháng Giêng năm 1985. Có những nơi, chốt của quân đội Việt Nam cách chốt của quân Trung Quốc chỉ từ sáu đến tám mét; có những điểm cao, đôi bên liên tục giành giật, chiếm đi, chiếm lại ba bốn chục lần. Do địa h́nh phía Việt Nam hiểm trở, tháng 3-1985, Trung Quốc chiếm lại được bốn điểm cao quan trọng thuộc khu vực Quân khu II, đặc biệt là các khu vực thuộc vùng biên giới Hà Giang. Đây là giai đoạn chiến tranh có tỉ lệ thương vong cao nhất ở vùng biên giới582.

    Tháng 2-1979, khi Đặng Tiểu B́nh đánh Việt Nam, Liên Xô đang có năm mươi sáu sư đoàn ở vùng biên giới với Trung Quốc nhưng đă không có bất cứ một động thái quân sự nào. Trước “thông điệp” này, Đặng Tiểu B́nh quyết định “đi đêm” ngay với Moscow, và mặc dù nhận ra sự yếu kém của quân đội, Đặng quyết định không cần vội vă chi tiền hiện đại hóa quân sự583. Tuy nhiên, Đặng vẫn duy tŕ chiến tranh quy mô nhỏ trên vùng biên giới, một mặt giữ chân thường xuyên hơn 800 ngh́n quân Việt Nam584, mặt khác, biên giới trở thành chiến trường thật để quân đội Trung Quốc có nơi huấn luyện. Trong thập niên 1980, gần hết lực lượng bộ binh Trung Quốc ở trên cả nước đă được luân chuyển đến tác chiến ở vùng biên giới Việt Nam585.

    Chiến cuộc đă giữ chân đội quân bảo vệ biên giới phía Bắc Việt Nam lên tới ba quân đoàn, mười một sư đoàn, mười ba trung đoàn trung đoàn và bảy mươi tiểu đoàn độc lập, góp phần đưa lượng quân thường trực ở cả hai đầu đất nước lên tới 1,6 triệu người. Sau khi Gorbachev nhận chức tổng bí thư, viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam bắt đầu bị cắt giảm. Người lính trên biên giới phía Bắc vừa rất khổ về vật chất, vừa rất căng thẳng về tinh thần. Hà Nội nhận ra không thể tiếp tục duy tŕ t́nh trạng đó.

    “Giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia” liên quan đến “b́nh thường hóa quan hệ Việt – Trung” được Bộ Chính trị đặt ra trong Nghị quyết 32/BCT21, ngày 9- 7-1986, một ngày trước cái chết của Tổng Bí thư Lê Duẩn. Hội nghị do Trường Chinh chủ tŕ. Nghị quyết 32 ra đời, theo Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, “không phải là ngẫu nhiên”. Gần hai mươi ngày sau đó (28-7-1986), tại Vladivodstock, Gorbachev công bố chính sách đối ngoại mới, theo đó, Liên Xô sẽ: “Xích gần lại với Trung Quốc, giải quyết ‘ba trở ngại’ mà Trung Quốc nêu ra: rút quân khỏi Afghanistan, chấm dứt xung đột biên giới Trung-Xô, giải quyết vấn đề Campuchia”. Gorbachev tuyên bố: “Vấn đề Campuchia không thể giải quyết ở các thủ đô xa xôi, kể cả ở Liệp Hiệp quốc mà phải giải quyết giữa Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xă hội chủ nghĩa láng giềng”.

    Vấn đề “Việt Nam rút quân khỏi Campuchia” đă từng được Trung Quốc đề cập tại ṿng một, đàm phán Xô-Trung, tháng 10-1982. Sau chiến dịch pháo kích và tập kích quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới miền Bắc – kéo dài từ tháng 4 đến tháng 6-1984 – Trung Quốc tuyên bố: chỉ cần Việt Nam hứa rút quân khỏi Campuchia th́ hai bên sẽ bắt đầu đàm phán. Ngày 21-1-85, trong thư gửi Bộ Ngoại giao Việt Nam, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Ngô Học Khiêm viết: “Quan hệ Trung-Việt xấu đi, vấn đề cốt lơi là quân đội Việt Nam xâm chiếm Campuchia… Sau khi Việt Nam công khai cam kết và thực hiện rút quân th́ đàm phán mới có ư nghĩa thực tế”586.

    Ngày 7-3-1987, chưa đầy ba tuần sau khi ông Lê Đức Anh nhận chức bộ trưởng Quốc pḥng, Bộ Chính trị tổ chức một hội nghị hẹp, Tướng Lê Đức Anh cho rằng: “Trung Quốc gây xung đột vũ trang ở biên giới không phải có ư định xâm lược mà v́ một mục đích khác”587. Sau Hội nghị đó, Tướng Lê Đức Anh đă cho: “Điều chỉnh tạm thời lại thế bố trí chiến đấu ở biên giới phía Bắc: Các đơn vị chủ lực cơ động lui xuống phía sau, tuyến thứ hai; đưa dân lên sống và sản xuất, đưa dân quân, bộ đội địa phương và bộ đội biên pḥng lên tuyến một”. Theo ông th́ sự điều chỉnh này “là bước thăm ḍ đầu tiên với phía bên kia” 588.

    Đầu năm 1987, Việt Nam bắt đầu “giảm tuyên truyền chống đối Trung Quốc”. Theo Thứ trưởng Trần Quang Cơ: “Ngày 20-5-87, Bộ Ngoại giao làm tờ tŕnh lên Bộ Chính trị kiến nghị sửa Lời nói đầu của Hiến pháp, bỏ chỗ nói Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất” như đă sửa Điều lệ Đảng. Măi tới 26-8-88 Quốc hội mới có nghị quyết thông qua việc sửa này”589.

    Ngày 20-5-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 13, xác định: “B́nh thường hoá quan hệ với Trung Quốc là một quá tŕnh gay go, phức tạp, đ̣i hỏi có thời gian. Sau khi b́nh thường hóa, quan hệ hai nước khó trở lại ngay như những năm 1950, 1960… Cần pḥng ngừa, khắc phục những tư tưởng lệch lạc, chỉ thấy giới hạn Trung Quốc là bá quyền, không thấy Trung Quốc là xă hội chủ nghĩa; hoặc chỉ thấy Trung Quốc là xă hội chủ nghĩa mà không thấy bá quyền, bành trướng”590.

    Lúc này, cả Hà Nội và Phnom Penh đều nhận thấy không thể tŕ hoăn việc rút quân đội Việt Nam ra khỏi Campuchia. Càng ngày, Phnom Penh càng chịu nhiều sức ép quốc tế và các nhà lănh đạo Phnom Penh biết rơ: Không có quân đội Việt Nam th́ Pol Pot có thể cướp lại chính quyền, nhưng nếu vẫn c̣n quân đội Việt Nam th́ vai tṛ chính trị của Phnom Penh vẫn bị coi là lệ thuộc. Họ nhận thấy cơ hội của ḿnh và chấp nhận tác chiến độc lập với một đối thủ đă từng tàn bạo.

    Ngày 5-1-1989, khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến Phnom Penh dự lễ kỷ niệm “ngày 7 tháng Giêng”, trong cuộc hội đàm lúc mười sáu giờ chiều cùng ngày, theo đề nghị của Chủ tịch Heng Samrin, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đă sửa bài diễn văn chuẩn bị từ Việt Nam. Để chiều 6-1-1989, hai nhà lănh đạo cùng tuyên bố: “Việt Nam rút hết quân chậm nhất là tháng 9-1989 nếu có giải pháp chính trị”591. Trước ngày rút hết quân, Việt Nam cho lập năm tổng lănh sự quán ở những vùng nguy cơ Khmer Đỏ cao. Những người giữ chức tổng lănh sự này đều là sỹ quan cấp tá dày dạn chiến trường chứ không phải là các nhà ngoại giao.

    Ngày 30-9-1989, bốn ngày sau khi Việt Nam rút quân đợt cuối, lực lượng Son Sann đánh chiếm Thmar Ponk. Ngày 22-10-1989, Khmer Đỏ đánh chiếm Pailin và uy hiếp thị xă Battambang. Bộ đội Campuchia ở Pailin bỏ chạy. Phnom Penh cầu cứu và Việt Nam đă đưa một lực lượng đặc biệt lên giúp bộ đội Phnom Penh tái chiếm. Quân đội Campuchia thấy Việt Nam chưa bỏ rơi ḿnh, Khmer Đỏ cũng ư thức rơ hơn điều đó nên về sau, đă không c̣n có chiến dịch nào uy hiếp mạnh hơn592.

    Tuyên bố rút hết quân khỏi Campuchia vào năm 1989 của Việt Nam đă phá vỡ nhiều bế tắc, các diễn đàn mới về Campuchia được khai thông. Trung Quốc không c̣n có thể gây sức ép với Việt Nam và ASEAN như trước, cho dù vẫn t́m cách chống phá Việt Nam, và gây xung đột vũ trang ở Trường Sa vào tháng 3-1988593.

    Hội nghị Thành Đô

    Ngày 7-10-1989, khi tiếp Tổng Bí thư Lào, ông Kayson Phomvihan, Đặng Tiểu B́nh đă dùng sáu mươi phút trong toàn bộ bảy mươi phút nói chuyện để nói về Việt Nam. Trong khi phê phán nặng nề Lê Duẩn, Đặng đă ca ngợi Nguyễn Văn Linh là “người sáng suốt”. Một thông điệp b́nh thường hóa giữa Đặng Tiểu B́nh và Nguyễn Văn Linh đă được truyền đi. Tuy nhiên, theo ông Trần Quang Cơ, Bắc Kinh vẫn tiếp tục lạnh lùng sau khi Nguyễn Văn Linh phản hồi tích cực.

    Con đường đến với Bắc Kinh c̣n qua một kênh khác mà cả Tướng Lê Đức Anh lẫn Bộ Ngoại giao đều hoàn toàn không biết. Tháng 9-1989, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Phan Văn Khải sang Nhật gặp chủ tịch Đảng Tự do Dân chủ, ông Michio Watanabe594. Cuộc gặp tại trụ sở đảng của ông Watanabe diễn ra thân mật, đôi bên bàn một số vấn đề chiến lược về hợp tác kinh tế, bàn những công việc có thể bắt đầu ngay sau khi Mỹ bỏ cấm vận. Theo ông Phan Văn Khải, cuối cuộc gặp, ông Watanabe gợi ư: “Tôi có nhiều bạn bè quốc tế, liệu tôi có thể giúp được ǵ không?”. Được lời, ông Khải nói: “Việt Nam muốn b́nh thường hóa với các nước, đặc biệt là với Trung Quốc và Mỹ”.

    Giữa năm 1990, ông Michio Watanabe đi Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân. Sau chuyến đi đó, ngày 7-5-1990, Watanabe lặng lẽ bay tới Sài G̣n. Ông được đưa tới biệt thự 261 Điện Biên Phủ, nơi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Phan Văn Khải, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Mai Chí Thọ và người trung gian, ông Charles Đức595 đang đợi. Ông Phan Văn Khải thừa nhận, ông Watanabe chuyển tới Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh những tín hiệu tích cực. Sau khi ông Watanabe rời Sài G̣n, Bắc Kinh gửi Thứ trưởng Ngoại giao Từ Đôn Tín đến Hà Nội.

    Trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, ngày 5-6-1990, ông Nguyễn Văn Linh mời Đại sứ Trương Đức Duy đến Nhà khách Trung ương Đảng “nói chuyện thân mật”. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói với Trương Đức Duy là ông sẵn sàng đến Bắc Kinh. Ông Nguyễn Văn Linh thừa nhận: “Trong quan hệ hai nước, mười năm qua có nhiều cái sai. Có cái đă sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến Pháp, có cái sai đang sửa”596. Sáng hôm sau, ngày 6-6-1990, Bộ trưởng Quốc pḥng Lê Đức Anh cũng mời cơm Đại sứ Trương Đức Duy. Trương Đức Duy vốn là thông dịch, rất thạo tiếng Việt nên cuộc gặp chỉ có hai người. Bộ Ngoại giao chỉ biết thông tin về cuộc gặp này vào chiều 10-6-1990 từ Bí thư Thứ nhất sứ quán Trung Quốc Hồ Càn Văn597.

    Ngày 29-8-1990, Đại sứ Trương Đức Duy xin gặp gấp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, chuyển thông điệp của Bắc Kinh mời Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô – thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc – vào ngày 3-9-1990 để “hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề b́nh thường hoá quan hệ hai nước”. Chuyến đi Thành Đô vào ngày 2-9-1990 gồm Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng, được tháp tùng bởi Hồng Hà, chánh Văn pḥng Trung ương, Hoàng Bích Sơn, trưởng Ban Đối ngoại và Thứ trưởng Ngoại Giao Đinh Nho Liêm. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch không có trong thành phần cuộc gặp.

    Hội nghị Thành Đô đóng vai tṛ quyết định trong tiến tŕnh b́nh thường hóa quan hệ Việt Nam-Trung Quốc. Nó là cơ sở để thiết lập ḥa b́nh trên biên giới Việt- Trung, một biên giới chiến trường bắt đầu có cơ hội chuyển sang biên giới thị trường. Tuy nhiên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh không chỉ muốn cuộc gặp gói gọn trong vấn đề hai nước.

    Ngày 5-6-1990, trong cuộc gặp Đại sứ Trương Đức Duy, tổng bí thư Việt Nam đă sốt sắng ngỏ ư muốn sang gặp lănh đạo Trung Quốc để “bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xă hội”. Ông Nguyễn Văn Linh nói với Trương Đức Duy: “Chúng tôi muốn cùng những người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xă hội… Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lănh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay… Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xă hội, kiên tŕ chủ nghĩa Mác-Lênin”598. Thay v́ bắt đầu một kỷ nguyên Việt Nam thiết lập quan hệ với Trung Quốc bằng tư thế độc lập của một quốc gia và chỉ v́ quyền lợi quốc gia, Trung Quốc vẫn được coi là đàn anh trong mối tương quan của hai quốc gia cộng sản. Điều này c̣n ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Hà Nội và Phnom Penh.

    Trong cuộc gặp Trương Đức Duy ngày 5-6-1990, tổng bí thư tiếp tục đề cập đến “giải pháp Đỏ”, giải pháp chấp nhận Khmer Đỏ trong thành phần chính phủ mới ở Phnom Penh. Ông Nguyễn Văn Linh giải thích: “Không lư ǵ những người cộng sản lại không thể bàn với những người cộng sản; họ gặp Sihanouk c̣n được huống chi là gặp lại nhau”599. Ngày 6-6-1990 Tướng Lê Đức Anh nói với Trương Đức Duy: “Sihanouk sẽ chỉ đóng vai tṛ tượng trưng, danh dự, c̣n lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là lực lượng Heng Somrin và lực lượng Pol Pot, Trung Quốc và Việt Nam mỗi bên sẽ bàn với bạn Campuchia của ḿnh, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn đề. Đây là gặp nhau bên trong, c̣n bên ngoài hoạt động ngoại giao vẫn như thường… Ngày xưa Pol Pot là bạn chiến đấu của tôi”600.

    Tại Hội nghị Thành Đô, sáng kiến “giải pháp đỏ” mà lănh đạo Việt Nam đưa ra đă bị Lư Bằng và cả Giang Trạch Dân bác bỏ. Giang Trạch Dân đă giảng giải cho phía Việt Nam: “T́nh h́nh quốc tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản bắt tay nhau là sách lược không lợi cho chúng ta”. Theo ông Trần Quang Cơ, trong bảy điểm về Campuchia thống nhất ở Hội nghị Thành Đô, có hai điểm có tính chất chung, năm điểm c̣n lại hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc, không có điểm nào theo yêu cầu của Việt Nam601.

    Campuchia thời hậu Việt Nam

    Đất nước Campuchia may mắn đă không rơi trở lại vào tay của Khmer Đỏ sau khi Việt Nam rút quân như trường hợp Afganistan rơi vào tay Taliban thời kỳ hậu Liên xô. Và cũng thực sự may mắn cho người dân Campuchia khi những người được Hà Nội đưa lên nắm quyền ở Phnom Penh, đặc biệt là Hun Sen, đă không nghe theo Hà Nội một cách mù quáng. Khi đứng trước thời cuộc mới, họ đă biết quyết định dựa trên quyền lợi của dân tộc ḿnh.

    Ngay sau Hội nghị Thành Đô, ngày 5-9-1990, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Nguyễn Cơ Thạch và Lê Đức Anh, bay sang Phnom Penh thuyết phục Phnom Penh chấp nhận thỏa thuận Thành Đô, coi Trung Quốc là một đồng minh. Nhưng điều này chỉ làm cho Phnom Penh càng xa hơn với Hà Nội. Theo Đại sứ Ngô Điền: “Về công khai, bạn cố tránh tỏ ra bị lệ thuộc vào Việt nam. Trên cơ sở tính toán về lợi ích của ḿnh, bạn tự quyết định lấy đối sách, không trao đổi trước với ta, hoặc quyết định trái với sự gợi ư của ta trên nhiều việc”.

    Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, muốn Phnom Penh chọn “giải pháp Đỏ” nhằm để “hai phái Khmer cộng sản” hợp tác với nhau. Nhưng, hơn ba năm sống dưới triều đại Pol Pot, các nhà lănh đạo Campuchia đă mất đủ máu xương để biết sợ cái gọi là “cộng sản”. Năm tháng trước khi Việt Nam rút hết quân, ngày 30-4-1989, Phnom Penh quyết định đổi tên nước “Cộng ḥa Nhân dân Campuchia” thành “Nhà nước Campuchia”.
    Ngày 18-10-1991, khi Việt Nam không c̣n can thiệp được vào các quyết định của Phnom Penh, Campuchia đă sửa đổi hiến pháp theo hướng từ bỏ chủ nghĩa xă hội: chấp nhận kinh tế thị trường tự do và hệ thống chính trị đa đảng. Tên nước, quốc kỳ, quốc ca, ngày quốc khánh thời Sihanouk được đưa ra dùng trở lại. Hai chữ “cách mạng” trong tên gọi Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, đảng mà Việt Nam giúp dựng lên, đă được bỏ đi.

    Năm 1985, khi tổng kết một lớp tập huấn chuyên gia, Tướng Lê Đức Anh cho rằng lực lượng Quân T́nh nguyện sẽ rút trước sau khi giúp Phnom Penh tự đảm đương được về quân sự, nhưng đội ngũ chuyên gia th́ phải ở lại Campuchia cho tới năm 2000. Trên thực tế, khi Việt Nam ngỏ lời rút chuyên gia, “bạn” sốt sắng đồng ư và thúc đẩy tiến tŕnh này diễn ra nhanh hơn. Đoàn Chuyên gia đă được giải thể từ ngày 30-12-1988.

    Trừ một số không nhiều cán bộ Việt Nam thực sự có năng lực, phần lớn chuyên gia chỉ là những người năng nổ, nhiệt t́nh, sốt sắng áp đặt những kinh nghiệm, lề lối làm việc máy móc từ chế độ quan liêu bao cấp Việt Nam. Sau Hội nghị Cán bộ Đảng toàn quốc lần thứ II, tháng 4-1989, Hun Sen đă khen ngợi Bí thư tỉnh Takeo, Pol Saroeun, khi ông này đă biết “báo cáo láo” để qua mặt chuyên gia về thành tích xây dựng “hợp tác hóa” trong nông nghiệp. Nhờ không h́nh thành mô h́nh tổ đoàn kết sản xuất theo yêu cầu của chuyên gia Việt Nam, trong khi vẫn báo cáo “có” lên chuyên gia, sản xuất nông nghiệp của Takeo đă khá hơn các tỉnh khác.

    Cũng tại Hội nghị Cán bộ Đảng toàn quốc lần II, Campuchia đă thay căn bản thành phần nhân sự mà chuyên gia Việt Nam trước đây áp đặt. Giai đoạn 1979- 1981, nhóm “tập kết” được ông Lê Đức Thọ đưa về gần như thống lĩnh Phnom Penh. Từ tháng 4-1989, nhóm từ lực lượng Quân Khu Đông (khu 203) chạy sang Việt Nam, cầm đầu bởi Chea Sim, Hun Sen, Ouk Bun Sươn, Heng Samrin, bắt đầu thâu tóm dần quyền bính602.

    Đây không hẳn là sự kỳ thị. Theo ông Ngô Điền, ngay từ đầu chuyên gia Việt Nam đă không tin những người thuộc phái Khu 203. Ở Bộ Nội vụ, những người thực sự có năng lực như Sin Song được cả Heng Samrin lẫn Chea Sim đề cử nhưng vẫn không được chuyên gia chấp nhận; trong khi đó, Khang Sarin, một người “năng lực có hạn, đạo đức kém, sinh hoạt bừa băi”, lại được đưa lên làm bộ trưởng (1981). Khi thấy Khang Sarin không hoàn thành nhiệm vụ, “chuyên gia” lại đưa Nay Pena, một người năng lực không khá ǵ hơn lên thay. Phải đến khi chuyên gia rút, “bạn” mới đưa được Sin Song lên làm Bộ trưởng.

    Yim Chhay Li, vốn là y tá, chỉ bổ túc nghề ở Việt Nam một thời gian ngắn, cũng được “chuyên gia” đưa lên làm bộ trưởng Y tế. So Niet, theo ông Ngô Điền, “dốt nát và thường say rượu”, cũng được cử làm thứ trưởng Bộ Nội vụ. Đặc biệt, nữ y tá Quân khu VII Mel Sam Ol đă được Tướng Lê Đức Anh và các chuyên gia Trần Xuân Bách, Đỗ Chính, Phạm Bái đưa lên giữ chức trưởng Ban tổ chức Trung ương Đảng thay cho Xại Phuthong, một kháng chiến quân kỳ cựu603. Ngay từ khi chuyên gia chưa rút, các quyết định lớn về nhân sự, Heng Samrin, Chea Sim và Hun Sen đă phải làm thay. Sau tháng 4-1989, tuy chưa tiện đưa Mel Sam Ol ra khỏi Bộ Chính trị nhưng nữ ư tá này chỉ c̣n giữ chức chủ tịch Công đoàn. Hun Sen càng ngày càng tỏ ra bản lĩnh, tách khỏi các ảnh hưởng của Việt Nam và đưa ra những quyết định thích hợp hơn với thời cuộc.

    Tối 23-10-1991, Hội nghị ḥa b́nh về Campuchia kết thúc. Một hiệp định đă được kư kết tại Paris, theo đó, Liên Hiệp Quốc sẽ gửi tới Campuchia một lực lượng ǵn giữ ḥa b́nh gọi là UNTAC. UNTAC sẽ cùng với Hội đồng Dân tộc Tối cao SNC điều hành chính quyền Campuchia và tổ chức bầu cử. Mặc dù, theo ông Trần Quang Cơ, ngày 24-2-1991, khi gặp Heng Samrin ở Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh vẫn cố ép “thực hiện tốt chính sách ḥa hợp dân tộc, không nên nhấn mạnh vấn đề diệt chủng, SNC nên gồm mười ba thành viên do Sihanouk làm chủ tịch”. Nhưng Phnom Penh đă không nghe theo lời khuyên ấy.

    Trong khi đó, Hà Nội đă không bắt kịp t́nh h́nh, vẫn giữ “ông thầy” Ngô Điền của Hun Sen ở lại Phnom Penh sau khi Hiệp định Paris về Campuchia đă có hiệu lực, “nguyên thủ” mới là Sihanouk chứ không c̣n là Heng Sarin. Chính phủ Hun Sen có nhu cầu thiết lập một trật tự mới trong chính sách đối ngoại, áp dụng sách lược tách khỏi Việt Nam để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế và tránh bị các phái Khmer khai thác. Một chỉ lệnh đă được bí mật truyền đi trong nội bộ Đảng Nhân dân Campuchia lúc đó, yêu cầu các cấp tiêu hủy các tài liệu liên quan đến Việt Nam, tránh công khai nhắc đến Việt Nam.

  6. #36
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc -
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương XI: Campuchia
    P3




    Mặc dù giữa năm 1991, cả Hun Sen và Sihanouk đều không tỏ thái độ ǵ về phương án ông Ngô Điền tiếp tục ở Phnom Penh làm đại sứ, nhưng ngày 3-9-1991, khi tới thăm Ngô Điền tại Phnom Penh, phóng viên tờ báo Pháp Le Monde, J.C. Pomonti đă hỏi: “Liệu Sihanouk có vừa ḷng khi một người đă được ông ta gọi là thái thú (proconsul) lại là đại sứ bên cạnh SNC?”. Tháng 10-1991, tại Hội nghị Paris, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm hỏi Sihanouk về việc Ngô Điền kiêm nhiệm đại sứ bên cạnh SNC, Sihanouk đă viện cớ Son Sann không đồng thuận để ngầm từ chối. Khi ông Cầm hỏi Hun Sen, Hun Sen đă trả lời: “Có lẽ là phải làm như vậy”.

    Từ giữa tháng 9-1991, Hun Sen bốn lần từ chối tiếp “người thầy vĩ đại của ḿnh” nhưng chính sách của Hà Nội đối với Phnom Penh phải nhiều tháng sau mới thay đổi604. Ngày 5-11-1991, khi Ngô Điền liên hệ, Hun Sen đă cáo bận. Ngày 6-11- 1991, một ủy viên Bộ Chính trị Campuchia là Sok An, gặp đại sứ Ấn Độ, Cu Ba và một số nước đă từng là “cộng sản”, thông báo, các nước nên rút đại sứ trước ngày 14-11-1991, ngày Sihanoul về Phnom Penh, một cách “lặng lẽ, lịch sự và không tuyên bố”; v́, Hun Sen sẽ nói với Sihanouk, tất cả các đại sứ bên cạnh chính phủ của ông đă rút.

    Khi ấy, các lănh đạo Việt Nam như Đỗ Mười, Vơ Văn Kiệt, Nguyễn Mạnh Cầm lại đang ở thăm Trung Quốc. Măi tới ngày 10-11-1991, ông Ngô Điền mới được lệnh rời khỏi Campuchia. Ông chỉ có hai ngày để chia tay bạn bè và thu xếp hành trang.

    Sau mười ba năm làm “thái thú” ở Campuchia, ông Ngô Điền phải rời Phnom Penh mà không được một quan chức Campuchia nào đưa tiễn.
    Sáng 13-11-1991, trong khuôn viên đại sứ quán Việt Nam, hai người nấu bếp của sứ quán vốn là người Khmer Krom đă phải quấn xà-rông, ôm hoa tặng ông Ngô Điền để chụp h́nh. Ít phút sau, ông cùng vợ lên xe, theo đường bộ, rời khỏi Phnom Penh măi măi. Hun Sen khi đó đă lên đường đến Bắc Kinh đón Hoàng thân Sihnouk. Từ 1987, Hun Sen đă gặp Sihanouk nhiều lần, Đảng Nhân dân Campuchia biết vai tṛ của ông Hoàng trong cộng đồng quốc tế và biết rơ ḷng sùng kính của nhân dân dành cho ông. Trưa 14-11-1991, chiếc Boeing 737 của Hàng không Trung Quốc hạ cánh xuống sân bay Pochentong. Ông Hoàng xuất hiện trước cửa máy bay giữa tiếng ḥ reo nồng nhiệt của đám đông. Kế bước theo ông là Hun Sen. Các thiếu nữ choàng lên cổ Sihanouk và Hun Sen những ṿng hoa nhài.

    Trước đó, chính quyền Phnom Penh đă lùng mua được một chiếc Chevrolet mui trần, loại xe ông Hoàng ưa dùng khi đang ở trên đỉnh cao quyền lực. Một người lái xe cũ của Hoàng gia cũng đă được tuyển chọn để lái chiếc xe đón Hoàng thân Sihanouk. Trên con đường dài gần 8km, chạy từ sân bay về Hoàng Cung, người dân Campuchia đứng chen nhau trong cờ hoa để đón chào ông Hoàng của họ. Trên chiếc Chevrolet mui trần ấy, Hun Sen đứng bên cạnh ông Hoàng, chia sẻ những vinh quang mà người dân Campuchia dành cho ông. Trước đó, Đảng Nhân dân Campuchia cũng đă chi một khoản tiền lớn để tu bổ Hoàng cung, mua sắm phương tiện cho ông hoàng Sihanouk605.

    Trước bầu cử, UNTAC cho phép lập ở Campuchia hai mươi đảng chính trị, bốn tổ chức nhân quyền và cấp phép cho ra đời nhiều tờ báo đối lập. Theo đại sứ Việt Nam tại Phnom Penh, ông Trần Huy Chương: “Việc giết hại người Việt xảy ra ở nhiều nơi do một số báo tuyên truyền, kích động. Trong các cuộc họp của P5, Trung Quốc luôn có thái độ có hại cho lợi ích của Việt Nam”.

    Các tổ chức chính trị c̣n cáo buộc quân đội Việt Nam chưa rút hết khỏi Campuchia. Ngày 25-01-1992, Sihanouk phải xác nhận không c̣n quân đội Việt Nam. Nhưng con trai ông, Hoàng thân Ranaridh, ngày 12-05-1992 lại nói là đang có 40.000 quân Việt Nam và một triệu Việt kiều ở Campuchia. Hơn hai tuần sau, ngày 28-05-1992, ông Akashi đại diện đặc biệt của tổng thư kư Liên Hợp quốc đă phải làm dịu t́nh h́nh bằng cách tuyên bố “không có bằng chứng về sự hiện diện của quân đội Việt Nam ở Campuchia” nữa.

    Trước khi UNTAC tới Phnom Penh, chính quyền Hun Sen cũng đă đưa ra khỏi các cơ quan nhà nước một số người có thể “bị nghi ngờ là Việt Nam”. Chính UNTAC, khi giám sát và kiểm soát năm bộ của Chính phủ Hun Sen cũng đă loại bỏ thêm một số người bị cho là lai Việt.


    Theo Đại sứ Trần Huy Chương: “Ngày 1-3-1993, sau nhiều lần điều chỉnh định nghĩa, khái niệm ‘lực lượng nước ngoài’, UNTAC phát hiện ba người đă từng ở trong quân đội Việt Nam nhưng sau khi giải ngũ lấy vợ sanh con và ở lại. UNTAC đ̣i đưa ba người này ra khỏi Campuchia. Ta giải thích rằng, việc trục xuất họ, chẳng những sai trái về mặt pháp luật, mà c̣n là tội ác vô nhân đạo, vi phạm nhân quyền. Cuối cùng UNTAC không nêu lại vấn đề này và cũng không dẫn độ ba người nói trên ra khỏi Campuchia”606.

    Các lực lượng đối lập với Hun Sen phối hợp với Khmer Đỏ tiến hành nhiều cuộc khủng bố để xua đuổi Việt kiều. Cuối năm 1992, một lực lượng mà Chính phủ Hun Sen nói là Khmer Đỏ đă sát hại chín mươi hai người Việt Nam ở Đầm Be. Đây là số lao động do Công ty Miền Đông, một công ty được Quân Khu VII lập ra thời kỳ hậu Campuchia, đưa sang khai thác gỗ theo một thỏa thuận kư giữa quân đội Việt Nam và Chính phủ Phnom Penh.

    Ngày 15-3-1993, Hoàng thân Shihanouk “khuyên người Việt nam về nước v́ ở Campuchia không có an ninh”. Theo Đại sứ Trần Huy Chương: UNTAC đă làm ngơ trước hành động khủng bố, làm cho hàng vạn người Việt đă phải rời khỏi Campuchia về nước, mặc dù họ đă sống qua nhiều thế hệ ở Campuchia. Tính đến khi cuộc vận động bầu cử chấm dứt vào ngày 18-5-1993, có 131 người bị Khmer Đỏ giết, 250 người bị thương, năm mươi ba người bị bắt cóc; đặc biệt 25.000 người Việt đă phải rời Campuchia chạy qua biên giới lánh nạn, phần lớn về định cư tại một số tỉnh miền Nam Việt Nam. Hơn 4000 người đă bị kẹt lại ở Korthum, biên giới Việt Nam-Campuchia”.

    Trong cuộc bầu cử diễn ra vào ngày 23-5-1993, Đảng Funcinpec của Ranaridh dẫn trước với số phiếu chiếm 45%, Đảng Nhân dân Campuchia của Hun Sen chỉ được 38%, Mặt trận KNLF của Son Sann được 4%. Nhưng trước áp lực của Hun Sen, Sihanouk phải thuyết phục con trai nhượng bộ607. Ngày 15-6-1993 Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc công nhận kết quả bầu cử và đề cao vai tṛ lănh đạo của Shihanouk. Hôm sau, ngày 16-6, Sihanouk đề cử Ranaridh và Hun Sen làm đồng thủ tướng của chính phủ liên hiệp lâm thời, cho phép các đảng có chân trong quốc hội được tham gia chính phủ.

    Ngày 8-8-1993 chính phủ tấn công vào các khu vực Khmer Đỏ đă lấn chiếm trong thời kỳ UNTAC như Kongpong Thom, Preah Vihear, Siem Riep, Ban Tây Miên Chây nhằm xóa bỏ thế da báo. Cuộc tấn công có sự phối hợp của ba phái cầm quyền thu được kết quả lớn. Khmer Đỏ phải rút về khu vực mà chúng kiểm soát trước khi có Hiệp định Paris.

    Ngày 24-9-1993 Hiến pháp Campuchia được công bố chính thức. Nhà vua với tư cách là quốc trưởng chỉ định Ranaridh làm thủ tướng thứ nhất, Hun Sen làm thủ tướng thứ hai; Sihanouk tuyên thệ làm vua, Monique trở thành hoàng hậu. Ngày 25-10-1993, Quốc hội Campuchia họp phiên đầu tiên và hôm sau, lễ trao quyền cho Chính phủ được thực hiện.

    Các lực lượng UNTAC rút khỏi Campuchia vào ngày 15-11-1993. Quyền lực trên thực tế vẫn nằm trong tay Hun Sen. Tuy phải chia sẻ một số ghế ở chính quyền trung ương, nhưng chính quyền địa phương về cơ bản vẫn nằm trong tay Đảng Nhân dân Campuchia. Hun Sen c̣n bị thách thức ba lần trước khi ông thâu tóm gần như hoàn toàn quyền lực608.

    Cho dù Hun Sen rồi sẽ bị chỉ trích như một nhà độc tài, quyền lực của ông càng được củng cố ở Campuchia càng làm cho các nhà lănh đạo Việt Nam cùng thời yên tâm. Phía Tây Nam từ đây là một quốc gia láng giềng. Phần tiếp giáp với Trung Quốc cũng bắt đầu trở thành một đường biên mậu dịch. Chiến tranh chính thức kết thúc đối với Việt Nam. Hà Nội trở về với những vấn đề lợi quyền muôn thuở.

    Huy Đức

    (HẾT CUỐN I)


    Chú Thích Chương XI





    558 Đại Tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân Đội Nhân Dân, 2005.

    559 Phạm Văn Trà, 2009, trang 326-327.

    560 Phạm Văn Trà, 2009, trang 327-328.

    561 Mai Xuân Tần, 2005, trang 176.

    562 Mai Xuân Tần, 2005, trang 176.

    563 Sđd, trang 177.

    564 Theo điệu bài hát Anh Ở Đầu Sông Em Cuối Sông, Phan Huỳnh Điểu.

    565 Văn Lê, thơ.

    566 Ḿn zip và K58 thường không làm chết người. Ḿn zip th́ cắt đứt gót chân của những người đạp phải nó. Ḿn K58 th́ bật lên và nổ ở độ cao khoảng 80cm, sức sát thương đủ cắt đứt hai chân của người lính dẫm lên nó và c̣n có khả năng sát thương cả người đi phía sau, phía trước.

    567 Điều tra của Ben Kiernan trong cuốn The Pol Pot Regime cho rằng: 1,67 triệu người, tương đương với 21% dân số Campuchia lúc ấy (7,89 triệu người) đă bị chết dưới bàn tay Khmer Đỏ; 100% người Việt, với mười ngh́n sống trong các đô thị và mười ngh́n người khác sống ở các vùng nông thôn, đều bị Khmer Đỏ giết sạch. Tuy, được hậu thuẫn bởi Bắc Kinh, nhưng chế độ Khmer Đỏ cũng không tha mạng cho người Hoa. Khoảng 50% người Hoa sống ở Campuchia, tương đương với 215 ngh́n người đă phải chết dưới bàn tay Pol Pot.

    568 Đại sứ Việt Nam tại Campuchia giai đoạn 1979-1991.

    569 Ngô Điền, 1992, trang 63.

    570 Ngô Điền, 1992, trang 63.

    571 Sđd, trang 60.

    572 Ngô Điền, 1992, tr 60.

    573 Hun Sen sinh năm 1952 (Năm sinh trong lư lịch là 1951) quê ở huyện Stưng Troong, Kongpong Cham. Khi c̣n học phổ thông, Hun Sen có tham gia phong trào học sinh, bị khủng bố, lánh về Kratie buôn hàng tiếp tế cho Quân Giải phóng miền Nam. Khi Lonnol đảo chính, Hun Sen chạy theo bộ đội Việt Nam và sau đó tham gia một đơn vị vũ trang Campuchia do bộ đội Việt Nam huấn luyện. Năm 1972, Hun Sen đă lên đến tiểu đoàn trưởng. Năm 1975, khi tham gia “giải phóng Kompong Cham”, Hun Sen bị thương nặng và hỏng mắt trái. Thời Pol Pot, Hun Sen là trung đoàn phó, tham mưu trưởng Trung đoàn Vùng 21. Tháng 6-1977, trung đoàn của Hun Sen được lệnh chuẩn bị tác chiến, trinh sát về báo, mục tiêu được giao là đồn biên pḥng Hoa Lư của Việt Nam. Sau khi một số cán bộ trung đoàn được gọi về quân khu học tập không thấy quay trở lại, Hun Sen cùng với một số cán bộ tâm phúc khác chạy thoát sang Việt Nam. Hun Sen đă được hai cán bộ Việt Nam tiếp đón và giúp đỡ trong thời kỳ đầu, ông Tám Quang và Ba Cung, đánh giá rất cao. Sau một số lớp huấn luyện đầu tiên, Hun Sen đă viết những kiến nghị có tầm chiến lược, được nói là, đă làm cho các cán bộ Việt Nam kinh ngạc. Khi trở thành bộ trưởng, biết ḿnh bắt đầu từ số không, Hun Sen, với tư chất thông minh, đă nỗ lực hết ḿnh để học tập. Theo ông Ngô Điền: “Bộ Ngoại giao Việt Nam nhanh chóng soạn một giáo tŕnh sơ đẳng về ngoại giao, cử cán bộ sang giúp tôi mở lớp đào tạo cấp tốc. Hun Sen học trước, học riêng và học rất chăm, sau đó tự ḿnh lên bục giảng lại bài cho các cán bộ Campuchia khác”. Cách làm này vừa giúp Hun Sen nắm bài chắc hơn vừa giúp ông kiến tạo uy tín trong hàng ngũ cán bộ Campuchia.

    Theo ông Ngô Điền, khác với Pen Sovan, muốn tỏ ra tự ḿnh làm được, không chịu tranh thủ sự giúp đỡ của chuyên gia, anh Hun Sen lúc đầu luôn khai thác chuyên gia, học rồi hỏi. Nhưng, những việc như chọn cán bộ, giải quyết các mối quan hệ nội bộ th́ Hun Sen lại thường tự làm.

    574 Ngô Điền, 1992, trang 65.

    575 Sđd, trang 76.

    576 Pen Sovan bị đưa trở lại Hà Nội giam giữ cho tới ngày 25-1-1992.

    577 Theo Tướng Lê Đức Anh: “Trở về Hà Nội, Bộ Chính trị họp bàn xét vụ này. Lúc đó, tôi nhớ anh Tô (Phạm Văn Đồng) đă phê phán rất gay gắt và đề nghị một mức kỷ luật rất nặng đối với toàn bộ cán bộ chủ chốt của Bộ Tư lệnh 479 và 719 có liên quan đến vụ việc. Tôi nghĩ, lúc đó bất cứ ai đứng vào cương vị và nhiệm vụ của tôi cũng cảm thấy rơi vào trạng thái khó xử, v́ nếu t́nh h́nh chỉ thuần túy là anh em tự động làm, sai đến đâu kiểm điểm kỷ luật đến đó th́ không khó. Nhưng đằng này lại có chuyện đồng chí Hồ Quang Hóa có ra Hà Nội báo cáo cấp trên. Vậy th́ mấy ông ‘cấp trên’ này trách nhiệm đến đâu phải do Bộ Chính trị định đoạt. Bởi vậy, tôi đề nghị với Bộ Chính trị là giao cho tôi xử lư th́ tôi chỉ xin xử lư những việc cụ thể và những con người cụ thể của Bộ tư lệnh 719 và 479 có liên quan thôi. Bộ Chính trị chấp nhận. Tôi cũng đề xuất Bộ Chính trị nên cử một đồng chí có cương vị cao, thay mặt Đảng ta sang xin lỗi Đảng bạn, Bộ Chính trị nhất trí cử anh Chu Huy Mân” (Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân Đội Nhân Dân, 2005, tr 186-187). Theo ông Lê Đức Anh: “Việc đầu tiên, tôi điện sang ngừng tất cả các cuộc bắt bớ và thả tất cả những người đă bắt. Tôi vào Thành phố Hồ Chí Minh, sang Camphuchia, yêu cầu các đồng chí có trách nhiệm, không chỉ của Mặt trận 479 mà cả các mặt trận khác lên báo cáo t́nh h́nh. Tôi nghe rất kỹ, hỏi rất kỹ và đi kiểm tra thực tế th́ thấy rằng các đồng chí không hề có ác ư hay thủ đoạn ǵ ở đây, chẳng qua chỉ là do ấu trĩ và nôn nóng nên dẫn đến sai lầm… Không kỷ luật th́ không được nhưng kỷ luật nặng quá cũng không nên. Cuối cùng chỉ kỷ luật hai người, mỗi người hạ một sao cho về nước” (Đại Tướng Lê Đức Anh, trang 188).

    Hai nhân vật mà ông Lê Đức Anh đề cập là Thiếu tướng Hồ Quang Hóa và Thiếu tướng Tư Thanh, tư lệnh Mặt trận 479, cả hai bị giáng cấp xuống đại tá. Ông Hồ Quang Hóa c̣n bị đưa ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương, nơi ông chỉ vừa mới được bầu vào hồi tháng 3-1982.

    578 Tháng 10-1985, Tổng Bí thư Lê Duẩn tới Phnom Penh dự Đại hội lần thứ V Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia.

    Theo ông Ngô Điền: “Anh Lê Duẩn lúc đó đă bảy mươi tám tuổi, ăn uống phải theo chế độ cẩn thận. Anh Heng Samrin định đến ăn tối với đoàn nhưng do buổi tối anh Duẩn chỉ ăn nhẹ trong pḥng riêng nên anh thu xếp ăn trưa cùng đoàn ở nhà khách Chamcar Mon. Suốt bữa ăn, anh Ba Duẩn nói say sưa về một số đề tài mà anh thường nhắc đi nhắc lại: làm chủ tập thể, xây dựng 400 pháo đài cấp huyện… Anh Heng Samrin không nói chen vào được bao nhiêu, chủ yếu ngồi nghe. Anh Ba Duẩn ăn ít, xong phần ḿnh, anh nói: ‘Thôi nhé, ta đi nghỉ’, rồi kéo ghế đứng dậy đi về buồng ḿnh ở ngay sau chỗ anh ngồi. Anh Heng Samrin đành thôi ăn, đứng dậy… Chắc anh Lê Duẩn không nghĩ ngợi ǵ, cho là cách xử sự của ḿnh là b́nh thường. Mới hay tư tưởng nước lớn của ta đối với bạn đă ăn sâu và trở thành tự nhiên đến vậy” (Ngô Điền, 1992, trang 86).

    579 Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).

    580 Tháng 8-1980, chiến sự xảy ra ác liệt ở điểm cao 1992, thuộc Sín Mần. Tháng 5-1981 Trung Quốc lại tiến đánh các cao điểm 1800A-1800B, thuộc Lao Chải, Hà Tuyên. Cũng tháng 5-1981, trên tuyến Đông Bắc, Trung Quốc tiến đánh b́nh độ 400, thuộc Cao Lộc, cao điểm 820, 630, thuộc Thất Khê, Lạng Sơn. Tháng 2-1982 Trung Quốc đánh vào Đồng Văn, Mèo Vạc, tháng 4-1983, đánh Mường Khương…

    581 Ngày 26-3-1984, khi Quân T́nh nguyện Việt Nam mở đợt tấn công lớn, phá vỡ các căn cứ của Khmer Đỏ tại biên giới Thái Lan, Trung Quốc liền điều quân và trong suốt hơn ba tuần lễ – từ ngày 2-4 đến 27-4-1984 – pháo kích cấp tập vào 205 mục tiêu ở hai mươi khu vực thuộc sáu tỉnh biên giới Hà Tuyên, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu. Có ngày, Trung Quốc bắn tới hơn 6.000 viên đạn pháo, có nơi phải chịu từ 1.000-3.000 viên đạn mỗi ngày. Nơi xa nhất bị bắn phá là thị xă Hà Giang, cách biên giới 18km. Trong các ngày từ 28-4 đến 30-4-1984, Trung Quốc bắn 12.000 quả đạn pháo vào sáu điểm tựa của Việt Nam để chi viện cho bộ binh tấn công đánh chiếm hàng loạt điểm cao như 226, 233, 772, 1509, b́nh độ 300-400. Ngày 15-5-1984, Trung Quốc dùng một trung đoàn tăng cường đánh xuống phía Đông sông Lô, ngay trong ngày chiếm được các điểm cao 1030, Si Cà Lá, 1250.

    582 Trên biên giới Vị Xuyên-Yên Minh, chiến sự kéo dài từ tháng 4-1984 cho đến tháng 4-1989. Những điểm cao như 1545, 1509, 1030 ở Vị Xuyên hay 1250, Núi Bạc ở Yên Minh, Hà Giang đă trở thành những địa danh máu lửa. Trên những cao điểm chủ yếu được đánh số ấy, hàng ngàn người lính Việt Nam đă ngă xuống để giành giật từng tấc đất với quân Trung Quốc.

    583 Theo Ezra F. Vogel (2011): Hai tuần sau khi rút quân khỏi Việt Nam, Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Hoa đă gặp Đại sứ Liên Xô tại Bắc Kinh, đưa ra danh sách những vấn đề hai bên cần thảo luận để đi đến b́nh thường hóa quan hệ. Từ tháng 4 đến tháng 10-1979, đă có 5 cuộc gặp ở cấp thứ trưởng giữa Liên Xô và Trung Quốc. Cho dù mục tiêu ép Trung Quốc rút quân khỏi vùng Ngoại Mông và thôi trợ viện trợ cho quân đội Việt Nam ở Campuchia không thành công nhưng Đặng Tiểu B́nh đă dẹp được mối đe dọa quân sự từ Liên Xô(trang 536). Ba ngày sau khi rút quân, 19-3-1979, khi họp với Ủy ban quân sự đặc trách khoa học và công nghệ, Đặng nhận định rằng: “Ít nhất trong 10 năm tới sẽ không có chiến tranh quy mô trên thế giới. Chúng ta không cần phải vội như vậy. Quân số quá đông. Chúng ta phải giảm xuống”. Chi phí quốc pḥng của Trung Quốc giảm từ 4,6% GDP năm 1979 xuống c̣n 1,4% năm 1991. Trong thập niên 1980s, lượng vũ khí nhập ngoại của Trung Quốc chỉ bằng 1/6 của Việt Nam (trang 540-541). Quân số Trung Quốc giảm từ 6,1 triệu năm 1975 xuống c̣n: 5,2 triệu năm 1979; 4,2 triệu năm 1982; 3,2 triệu năm 1988 (trang 526).

    584 Chiến cuộc đă giữ chân đội quân bảo vệ biên giới phía Bắc Việt Nam lên tới 3 quân đoàn, 11 sư đoàn, 13 trung đoàn và 70 tiểu đoàn độc lập.

    585 Ezra F. Vogel, 2011, trang 534.

    586 Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).

    587 Khuất Biên Hoà, 2005, trang 216.

    588 Khuất Biên Hoà, 2005, trang 216.

    589 Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).

    590 Sđd, trang (?).

    591 Trần Quang Cơ, trả lời phỏng vấn tác giả năm 2004.

    592 Theo ông Trần Quang Cơ, ngày 2-12-1989, ông Nguyễn Cơ Thạch đă đến Phnom Penh nói với Bộ Chính trị Campuchia: Chiến tranh ở Campuchia là một cuộc nội chiến, Việt Nam không thể đưa quân trở lại. Chỉ khi đạt được một giải pháp chính trị th́ Trung Quốc mới thôi đứng sau lưng Khmer Đỏ, điều kiện cần thiết để lực lượng đe dọa Phnom Penh nhiều nhất này yếu đi.

    593 Ngày 14-2-1988, Trung Quốc đưa 3 tàu chiến tới vùng biển Trường Sa. Vào lúc 1:30 ngày 15-2-1988, tàu HQ 701 nhận được lệnh của Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam lao cắm vào đảo ch́m Đá Lớn, lấy cả con tàu làm bia chủ quyền. Ngày 6-2- 1988, tàu HQ 701 khi trên đường đưa hàng Tết ra đảo Nam Yết, đă được lệnh neo lại đảo Đá Lớn, chờ. Đầu tháng 3-1988, Trung Quốc huy động hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa. Để bảo vệ các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam đă điều đến đây các tàu của Lữ đoàn vận tải 125 mang theo một số phân đội của Trung đoàn Công binh 83 và Lữ đoàn 146. Ngày 12-3-1988, tàu HQ-605 được lệnh từ đảo Đá Đông đến đóng giữ đảo Len Đao trước 6 giờ sáng ngày 14-3. Sau 29 tiếng hành quân, tàu HQ-605 đến Len Đao lúc 5 giờ ngày 14-3, cắm cờ Việt Nam trên đảo. Chín giờ sáng ngày 13-3, tàu HQ-604 và tàu HQ-505 được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc Ma, Cô Lin. Trong t́nh thế tàu Trung Quốc áp sát uy hiếp, đêm 13-3, Hải quân Việt Nam đă bí mật đổ bộ, cắm cờ Việt Nam trên đảo Gạc Ma. Sáng 14-3- 1988, bốn tàu lớn của Trung Quốc tiến gần đảo Gạc Ma, dùng loa nói ra mật danh của tàu HQ 604 và yêu cầu tàu rời đảo.

    Một tổ 3 người trên tàu HQ 604 được Trung tá Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 146, Vùng 4 Hải quân Việt Nam, cử lên đảo Gạc Ma bảo vệ Quốc kỳ. Hải quân Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên đảo, bắn chết Thiếu úy Trần Văn Phương và chiến sĩ Nguyễn Văn Tư, đâm trọng thương Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh. Từ hai chiến hạm của ḿnh, Trung Quốc bắn pháo 100 mm làm ch́m tàu HQ-604. Lữ đoàn phó Trần Đức Thông, Đại úy thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và nhiều sĩ quan, chiến sĩ đă hy sinh cùng tàu HQ-604. Sau khi thấy tàu HQ-604 bị bắn ch́m, thuyền trưởng tàu HQ-505 Vũ Huy Lễ ra lệnh nhổ neo, tăng tốc cho tàu ủi băi. Tàu HQ-505 đă kịp trườn được hai phần ba thân lên đảo Co Lin trước khi bị bắn cháy. Cùng ngày, tàu HQ-605 của Hải Quân Việt Nam cũng bị tàu Trung Quốc bắn tại đảo Len Đao, thủy thủ đoàn bơi thoát về đảo Sinh Tồn. Trước đó, không ai nghĩ là Trung Quốc sẽ bắn. Các chiến sỹ Hải quân Việt Nam chỉ được trang bị súng AK nhưng khi xuống đảo ch́m, họ để hết vũ khí ở khoang hàng. Trung Quốc đă bắn như văi đạn vào những người lính đang đứng giữa biển trong tay không tấc sắt. Trong trận chiến không cân sức ấy, Hải quân Việt Nam chịu tổn thất: 3 tàu bị cháy; 64 sĩ quan, chiến sĩ hy sinh; 11 người bị thương. Nhưng, chủ quyền tại các đảo Cô Lin và Len Đao đă được bảo vệ.

    Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma.

    594 Bộ trưởng Ngoại giao Nhật 1991-1993; Bộ trưởng Tài chánh 1980-1982.

    595 Tổng Giám đốc Công ty kinh doanh ngoài nước (OFTC).

    596 Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).

    597 Theo ông Trần Quang Cơ: Măi tới ngày 19-6-1990, Tướng Lê Đức Anh mới nói trong cuộc họp Bộ Chính trị để đánh giá cuộc đàm phán giữa Trần Quang Cơ với Từ Đôn Tín, ông gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ư mà anh Linh nói với đại sứ Trung Quốc hôm 5-6-1990: gặp cấp cao hai nước; hai nước đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xă hội; hai nhóm cộng sản Khmer nên nói chuyện với nhau. Cuộc gặp c̣n được viết trong cuốn tự truyện của ông Lê Đức Anh: “Ông (Lê Đức Anh) nói Cục trưởng Cục Đối ngoại quân sự Vũ Xuân Vinh đến mời Đại sứ Trương Đức Duy tới Nhà khách Bộ Quốc pḥng ở số 28 Cửa Đông để ông mời cơm. Bữa cơm và cuộc gặp bí mật đó chỉ có hai người, vừa ăn vừa nói chuyện. Ông điểm lại quá tŕnh Trung Quốc giúp Việt Nam… Đề nghị đồng chí Đại sứ báo cáo với lănh đạo Trung Quốc. Ông mới nhậm chức nhưng cũng sẽ báo cáo với lănh đạo của Việt Nam. Để lănh đạo hai nước gặp nhau giải quyết việc này… Hôm đó Đại sứ Trương Đức Duy vừa ngạc nhiên vừa vui mừng ra mặt khi nghe ông nói những lời như vậy. Trương nói: Vậy th́ tôi phải về báo cáo với lănh đạo bên tôi” (Khuất Biên Hoà, 2005, trang 220).

    598 Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).

    599 Sđd, trang (?).

    600 Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).

    601 Sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết, ngày 5-11-1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Vơ Văn Kiệt đă đi thăm chính thức Bắc Kinh. Quan hệ Việt – Trung trở lại b́nh thường như hai quốc gia có quan hệ ngoại giao với nhau. Nhưng, Trung Quốc không c̣n là một “đồng minh” như đă từng trong thập niên 1950s, 1960s nữa. Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, tháng 6-1991: ông Nguyễn Văn Linh thôi chức Tổng Bí thư, ông Đỗ Mười thay thế; ông Lê Đức Anh, được xếp vào hàng thứ 2, từ năm 1992 sẽ làm Chủ tịch Nước kiêm Bí thư phụ trách quốc pḥng-an ninh – ngoại giao; ông Vơ Văn Kiệt làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; nhà lư luận Đào Duy Tùng giữ chức Thường trực Ban bí thư. Ông Nguyễn Cơ Thạch, người mà Trung Quốc đă đặt ra ŕa trong các cuộc tiếp xúc song phương, bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị. Theo ông Trần Quang Cơ: “Sau Đại hội VII, mọi vấn đề quan trọng về đối ngoại của Nhà nước đều do Hồng Hà, Bí thư Trung ương, phụ trách đối ngoại – dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê Đức Anh và tất nhiên được sự tán thưởng của Tổng Bí thư Đỗ Mười – quyết định. Những phần công việc xưa nay vốn do Bộ Ngoại giao đảm nhiệm nay đều do Hồng Hà và Ban Đối ngoại chủ tŕ”. Theo ông Cơ: Ngày 5-8-1991, tại cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, Hồng Hà tuyên bố: “Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại sứ Trung Quốc), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh”. Phó ban Đối ngoại Trung Quốc Chu Lương từng đề nghị: v́ lư do kỹ thuật, quan hệ giữa hai Đảng xin làm qua Trương Đức Duy. Đây không chỉ là bỏ qua nguyên tắc ngoại giao, theo ông Trần Quang Cơ, mà c̣n là vấn đề “danh dự và quốc thể”.

    602 Đến năm 1991, lực lượng Khu 203 có 19/62 ủy viên Trung ương, 8/16 ủy viên Bộ Chính trị, trong khi lực lượng tập kết chỉ có 5/62 ủy viên, 1/16 ủy viên Bộ Chính trị. Các chức vụ như tổng bí thư, thủ tướng, chủ tịch quốc hội, bí thư Thành ủy Phnom Penh, bộ trưởng Nội vụ, trưởng Ban Tổ chức Trung ương… đều là người của Khu 203. Phần c̣n lại trong chính trường Campuchia là lực lượng bắt đầu “tham gia cách mạng” sau ngày 7-1-1979: 24/62 ủy viên Trung ương; 2/16 ủy viên Bộ Chính trị, 40% ghế bộ trưởng, 28,5% số bí thư tỉnh, thành, 57,1% số chủ tịch tỉnh.

    603 Mel Sam Ol là người Khmer nhưng gia nhập quân đội Việt Nam từ năm 17 tuổi. Năm 1979, từ một nữ y tá, chị được đưa về Phnom Penh giữ chức cục phó Cục Cán bộ, Bộ Quốc pḥng, rồi sau đó được đưa vào Ban Bí thư, giữ chức trưởng Ban Tuyên huấn.

    604 Ngày 10-12-1991, Bộ Chính trị ra Chỉ thị 05/CT-TW, xác định: “Quan hệ giữa Đảng ta với Đảng Nhân dân Campuchia theo những nguyên tắc tôn trọng độc lập tự chủ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, b́nh đẳng, tôn trọng lẫn nhau và theo phương thức mới, chủ yếu là quan hệ nội bộ, tránh mọi sơ hở gây hậu quả xấu, không lợi cho quan hệ về mặt Nhà nước và việc thi hành Hiệp định Paris về Campuchia… Trước mắt, Đảng ta chỉ quan hệ với Đảng Nhân dân Campuchia; sẽ xem xét t́nh h́nh các đảng và lực lượng khác để quyết định vấn đề quan hệ tùy từng trường hợp. Hai bên duy tŕ quan hệ giữa các đoàn thể quần chúng, các hội hữu nghị, tổ chức xă hội, tăng cường t́nh hữu nghị giữa nhân dân hai nước, phù hợp với Hiệp định Paris về Campuchia và tập quán quốc tế. Hai bên ngừng các quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh thành phố của hai nước, quan hệ giữa các tỉnh, thành phố sẽ được giải quyết trong khuôn khổ quan hệ giữa hai Nhà nước”.

    605 Ngày 16-11-1991, trong cuộc họp báo đầu tiên tại Hoàng Cung kể từ khi trở về, khi trả lời câu hỏi của phóng viên Tuổi Trẻ về việc Việt Nam đưa quân tới Campuchia, Sihanouk nói: “Vấn đề có hai mặt (deux aspects). Tôi biết ơn Việt Nam đă cứu tôi, gia đ́nh tôi và nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng. Mặt khác, tôi lên án việc thực dân hóa Campuchia của Việt Nam. Thà chết v́ tay Pol Pot c̣n hơn là nước không có độc lập”.

    606 Trả lời phỏng vấn của tác giả năm 2004.

    607 Ngày 11-6-1993, Khmer Đỏ tuyên bố không thừa nhận kết quả bầu cử và kêu gọi ám sát sáu nhân vật thuộc Đảng Nhân dân Campuchia. Trong khi, ông Hun Sen tố cáo cuộc bầu cử do UNTAC tổ chức là gian lận. Đảng Nhân dân Campuchia trong thế bị loại ra khỏi chính quyền đă dựng lên “phong trào ly khai đ̣i tự trị” trong nhiều vùng. Hai đại biểu của Đảng là Sinsong và Chakkrapong từ chối nhận chức đại biểu và đứng ra lănh đạo phong trào này. Lo sợ đất nước bị chia cắt và nội chiến tái phát, Shihanouk đề nghị công thức chia quyền 45% + 45% + 10%. Funcinpec phải chấp nhận v́ thắng lợi của họ là nhờ ảnh hưởng của ông hoàng Sihanouk.

    608 Một lần suưt bị các đồng chí của ông ép từ chức. Một lần bị đảo chính hụt bởi Bộ trưởng Nội vụ Sin Song có sự hậu thuẫn của Chea Sim (2-7-1994). Một lần bị đảo chính bởi Funcinpec va lực lượng Khmer Đỏ: cuộc đảo chính được thực hiện ngày 5-7-1997 khi Hun Sen đang ở Vũng Tàu và Ranaridth th́ lánh ra nước ngoài; ngày 6-7-1997, một ngày sau khi Hun Sen trở về, ông đập tan cuộc đảo chính; bảy tướng của Funcinpec bị giết.





    Nguồn: bodoilambao
    Được bạn: mọt sách đưa lên
    vào ngày: 4 tháng 1 năm 2013

    http://vnthuquan.net/truyen/truyen.a...a3q3m3237nvn2n





    (HẾT CUỐN I)




    Tác giả


    Huy Đức – Trương Huy San
    sinh năm 1962 tại Hà Tĩnh
    nhập ngũ tháng 3-1979
    học viên trường Sỹ quan Hoá Học (1980-1983)
    chuyên gia quân sự ở Campuchia (1984-1987)
    phóng viên báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Thời báo Kinh Tế Sài G̣n, và Sài G̣n Tiếp Thị (1988-2009)
    blogger của trang Osinblog (2006-2010)
    Humphrey Fellow về phân tích chính sách tại Đại học Maryland (2005-2006)
    Nieman Fellow về phân tích chính trị tại Đại học Harvard (2012-2013)

    Liên hệ tác giả qua thư điện tử osinbook@gmail.com
    Facebook: https://www.facebook.com/BenThangCuocBook

  7. #37
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc -
    Huy Đức
    Cuốn I : Giải Phóng
    PHẦN I : MIỀN NAM
    Chương XI: Campuchia
    P4



    Danh mục sách tham khảo


    1. Archimedes L. A. Patti, Why Vietnam, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007
    2. Ba mươi năm Công giáo Việt Nam dưới chế độ Cộng sản 1975 – 2005, Nguyệt san diễn đàn giáo dân và phong trào giáo dân Việt Nam hải ngoại cơ sở Đức quốc, 2005
    3. Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2001, Nền Kinh tế trước ngă ba đường, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011
    4. Ban Tuyên giáo Thành ủy – Cục Chính trị quân khu 7 Viện nghiên cứu xă hội thành phố Hồ Chí Minh, Sài G̣n Mậu Thân 1968, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2008
    5. Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Kỷ yếu Thủ tướng Phan Văn Khải làm việc với Ban nghiên cứu và tổ kinh tế đối ngoại của Thủ tướng Chính phủ, Bản thảo ngày 13 tháng 2 năm 2004
    6. Bản thảo Hồi kư Ngô Công Đức 1936 – 2007
    7. Bộ Ngoại giao, Phạm Văn Đồng và Ngoại giao Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2006
    8. Bùi Diễm, Gọng ḱm lịch sử, cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, 2000
    9. Carl Bernstein, Hillary Rodham Clinton người đàn bà quyền lực, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2008
    10. Chính Đạo Việt Nam niên biểu 1939 – 1975, Văn hóa xuất bản và phát hành, 2000
    11. Chương tŕnh Khoa học Công nghệ cấp nhà nước KX.01, “Quá tŕnh phát triển nhận thức của Đảng về con đường XHCN qua cuộc đổi mới”, Bản thảo năm 1994
    12. Chuyện kể về chị Ba Thi nữ anh hùng lao động, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long, 1992
    13. Chuyện thời bao cấp tập 1, Nhà xuất bản Thông tấn, 2011
    14. Christopher E. Goscha, Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Intergration of Vietnam into the Internationalist Communist Movement (1945-1950), “Vietnam Studies” Conference April 6, 2006, UC Berkeley.
    15. Duyên Anh, Nhà tù hồi kư, Nhà xuất bản Xuân Thu, 1987
    16. Dương Đức Dũng, Nhà doanh nghiệp cần biết Những gương mặt tỷ phú Sài G̣n trước năm 1975, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1992
    17. Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời chiến sĩ hồi kư, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 2009
    18. Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa xuân, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1976
    19. Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, Tổng Hành Dinh trong Mùa Xuân Toàn Thắng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000
    20. Đại Việt Sử kư toàn thư, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, 2003
    21. Đào Xuân Sâm, Viết theo ḍng đổi mới tư duy kinh tế, Nhà xuất bản Thanh niên, 2000
    22. David G. Marr, Vietnam 1945, The Regents of the University of California, 1995
    23. Đặng Phong, “Phá rào” trong kinh tế vào đêm trước đổi mới, Nhà xuất bản Tri thức, 2009
    24. Đây là Đài Phát thanh Giải phóng, Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1997
    25. Egon Krenz, Mùa thu Đức 1989, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010
    26. Ezra F. Vogel, Deng Xiaoping and the Transformation of China, the Belknap Press of Harvard University Press, 2011.
    27. Giáo giới trong đấu tranh đô thị qua hai thời kỳ Nam Bộ kháng chiến (1945 – 1975), Bản thảo tháng 6 năm 2004
    28. GS. Trần Nhâm, Trường Chinh – Một tư suy sáng tạo, một tài năng kiệt xuất, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2009
    29. Hà Văn Thư – Trần Hồng Đức, Tóm tắt Niên biểu Lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, 1996
    30. Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003
    31. Henry Kissinger, Những năm băo táp (Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng), Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2003
    32. Hoàng Dũng, Chiến tranh Đông Dương III, Văn Nghệ xuất bản, 2000
    33. Hoàng thân Norodom Shihanouk cùng Bernard Kriser, Hồi kư Shihanouk, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 1999
    34. Hoàng Minh Thắng, Nơi ấy tôi đă sống, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2003
    35. Hoàng Ngọc Thành và Trần Thị Nhân Đức, Tài liệu Sử: Những ngày cuối cùng của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm
    36. Hoàng Tùng, Những kỷ niệm về Bác Hồ
    37. Học viện Chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Đồng chí Trường Chinh – Nhà lănh đạo kiệt xuất của Cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Lư luận Chính trị, 2007
    38. Hồ Ngọc Nhuận, Bản thảo Đời hay Chuyện về những người tù của tôi
    39. Hồ Ngọc Nhuận, Bản thảo T́nh bạn hay Những là thư tâm t́nh về t́nh h́nh chính trị tại miền Nam Việt Nam trước 1975
    40. Hồi kư của Nguyễn Kỳ Nam 1945 – 1954, Xuân Giáp Th́n 1964
    41. Hồi kư Trần Văn Giàu 1940 – 1945
    42. Hồi ức Mai Chí Thọ, tập 2 Theo bước chân lịch sử, Nhà xuất bản Trẻ, 2001
    43. Hội nghị Genève năm 1954 về Đông Dương
    44. Hội thảo Khoa học Lịch sử phát triển Kinh vĩnh tế, Sở Khoa học Công nghệ môi trường An Giang, 1999
    45. Huỳnh Bá Thành, Vụ án Hồ Con Rùa, Phụ bản báo Tuổi trẻ, 1983
    46. Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nhà xuất bản Sự Thật, 1985
    47. Lê Hoài Nguyên, Vụ Nhân văn – giai phẩm từ góc nh́n Một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc Cách mạng văn học không thành
    48. Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945 – 1995, Tiên Rồng xuất bản, 2004
    49. Lịch sử Phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên Sài G̣n – Gia Định và các thành thị Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1928 – 1975), Bản thảo tháng 9 năm 2004
    50. Liên đoàn Lao động thành phố Hồ Chí Minh, Phong trào đấu tranh của công nhân Nam Bộ 1945 – 1975, Bản thảo tháng 6 năm 2004
    51. Lưu Văn Lợi – Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2002
    52. Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, Thông tấn xă Việt Nam, 2008
    53. My life Bill Clinton, William Jefferson Clinton, 2004
    54. Ngă ba Đồng Lộc – Ngă ba anh hùng, Bản thảo năm 1971
    55. Nghiêm Xuân Hồng, Cách mạng và hành động (1789 – 1917 – 1933 – 1949), Quan điểm xuất bản
    56. Ngô Điền, Campuchia nh́n lại và suy nghĩ, Bản thảo ngày 30 tháng 7 năm 1992
    57. Ngô Thảo, Dĩ văng phía trước, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2011
    58. Nhớ về anh Lê Đức Thọ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000
    59. Nhà Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2003
    60. Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận Văn hóa – Tư tưởng, Nhà xuất bản Văn hóa, 1980
    61. Những sự kiện lịch sử Đảng Bộ thành phố Hồ Chí Minh (1975 – 1995) tập 1
    62. Những sự kiện lịch sử Đảng Bộ thành phố Hồ Chí Minh (1975 – 1995) tập 2
    63. Những sự kiện lịch sử Đảng Bộ thành phố Hồ Chí Minh (1975 – 1995) tập 2
    64. Nguyễn Đ́nh Đầu, T́m hiểu Thềm lục địa – biển Đông hải đảo Việt Nam, Ủy ban đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh, 2009
    65. Nguyễn Duy Oanh, Chân dung Phan Thanh Giản, Tủ sách Sử học Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, 1974
    66. Nguyễn Khánh, Phong cách Vơ Văn Kiệt, Bản thảo ngày 20 tháng 10 năm 2009
    67. Nguyễn Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Lửa thiêng xuất bản, 1970
    68. Nguyễn Thị Ngọc Hải, Chuyện đời Đại sứ, Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ, 2012
    69. Nguyễn Thị Ngọc Hải, Trở lại xứ Ka Đô, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2011
    70. Nguyễn Nhật Lâm, Trở lại, Nhà xuất bản Văn học, 2012
    71. Nguyễn Văn Trung, Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, Nhà xuất bản Nam Sơn, 1963
    72. Nguyễn Văn Linh, Đổi mới để tiến lên, Nhà xuất bản Sự Thật, 1991
    73. Nguyễn Văn Linh, Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm, Nhà xuất bản Sự thật, 1985
    74. Nguyễn Văn Linh, Hành tŕnh cùng lịch sử, Nhà xuất bản Trẻ, 1999
    75. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ và Quốc hội
    76. Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư Tổng thống Thiêu, Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, 2010
    77. Nguyễn Xuân Oánh, Đổi mới vài nét lớn của một chính sách kinh tế Việt Nam, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 2001
    78. Nguyễn Văn Xương, Lược dịch và chú giải Sắc lệnh điền thổ 21 tháng 7 năm 1925, in lần thứ nh́, 1971
    79. Peter Braestrup, Big Story, Presidio, 1977
    80. PGS Đào Công Tiến, Nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Giáo dục và đào tạo – mấy cảm nhận và đề xuất, Bản thảo tháng 6 năm 2009
    81. PGS Đào Công Tiến, Với các Dự thảo văn kiện tŕnh Đại hội Đảng XI – Mấy trao đổi, đóng góp, Bản thảo năm 2005
    82. Phạm Khắc Ḥe, Từ triều đ́nh Huế đến chiến khu Việt Bắc, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2007
    83. Phạm Sơn Khai, Hồi kư
    84. Phan Lạc Phúc, Bè bạn gần xa, Nhà xuất bản Văn nghệ, 2000
    85. Philip Short, Polpot, John Murray, 2004
    86. Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài g̣n – Gia Định trong Nam Bộ kháng chiến (1945 -1975), Bản thảo tháng 5 năm 2004
    87. Quốc triều H́nh luật, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1995
    88. Stanley Karnow, Vietnam A History the first complete account of Vietnam at War, WGBH Educational Foundation and Stanley Karnow, 1983
    89. Sophie Quinn-Judge, Ho Chi Minh: The Missing Years 1919-1941, University of California Press, 2002.
    90. Tạ Chí Đại Trường, Sử Việt đọc vài quyển, Nhà xuất bản Văn Mới, 2004
    91. Tạ Chí Đại Trường, Người lính thuộc địa Nam Kỳ (1861 – 1945), Nhà xuất bản Tri thức, 2011
    92. Tạ Chí Đại Trường, Một khoảnh Việt Nam Cộng ḥa nối dài
    93. TGM F. X Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, Công đoàn Đức Mẹ La Vang ấn hành, 2000
    94. Thành ủy – Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Viện lịch sử Quân sự Việt Nam, Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1998
    95. Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh Ban Tư tưởng – Văn hóa Thành ủy, Biên Niên sự kiện (1986 – 1995), Bản thảo năm 2000
    96. Thụy Khuê, Nói chuyện với Hoàng Xuân Hăn và Tạ Trọng Hiệp, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 2002
    97. Thượng tướng Trần Văn Trà, Những chặng đường của “B2 – Thành đồng” tập V Kết thúc chiến tranh 30 năm, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1982
    98. Trần Công Tấn, Nguyễn Chí Thanh sáng trong như ngọc một con người, Nhà xuất bản Văn học, 2009
    99. Trần Quang Cơ, Hồi ức và suy nghĩ, Bản thảo năm 2003
    100.Trần Quốc Hương, Những năm tháng làm việc bên anh Trường Chinh, Bản thảo tháng 5 năm 2002
    101.Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn (trích)
    102.Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử lược, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2002
    103.Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nhà xuất bản Vĩnh Sơn, 1969
    104.Tuyển tập Đào Duy Tùng tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2008
    105.Tuyển tập Đào Duy Tùng tập 2, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2008
    106.Tướng Nguyễn Văn Vịnh – Như anh c̣n sống, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
    107.Trần Huy Chương, Campuchia Hậu UNTAC, Hồi kư – bản thảo 2002.
    108.Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Đề án Quy hoạch, phát triển hạ tầng giao thông đô thị, khắc phục t́nh trang ùn tắc giao thông, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xă hội thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Bản thảo tháng 11 năm 2007
    109.Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Viện kinh tế, Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học “Kinh tế vỉa hè” tại thành phố Hồ Chí Minh: Hiện trạng và các giải pháp, Bản thảo tháng 1 năm 2005
    110.Văn pḥng Quốc hội, Quốc hội Việt Nam 60 năm h́nh thành và phát triển, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2006
    111.Văn kiện Đảng toàn tập 1 (1924 – 1930), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1998
    112.Văn kiện Đảng toàn tập tập 36 (1975), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004
    113.Văn pḥng Chính phủ, Hội thảo Khoa học Tuyển tập các báo cáo toàn văn, Hà Nội tháng 9 năm 2000
    114.Viện lịch sử quân sự Việt Nam, Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân 1975, Bản thảo tháng 4 năm 2005
    115.Viện nghiên cứu Xă hội thành phố Hồ Chí Minh, Đô thị hóa ở Sài G̣n – thành phố Hồ Chí Minh từ góc nh́n Lịch sử – Văn hóa, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2008
    116.Viện nghiên cứu Xă hội thành phố Hồ Chí Minh, Khoa học Xă hội thành phố Hồ Chí Minh Những vấn đề nghiên cứu, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2009
    117.Việt Nam cộng đồng người Việt tị nạn trên thế giới 1975 – 2004, Nhóm nghiên cứu lịch sử Việt Nam cận và hiện đại, 2004
    118.Vĩnh Sính, Nhật Bản cận đại, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh Khoa Sử trường Đại học Sư Phạm, 1991
    119.Vơ Nhơn Trí, Việt Nam cần đổi mới thật sự, Đông Á xuất bản, 2003
    120.Vơ Văn Kiệt, Quyết thắng trên mặt trận Văn hóa và Tư tưởng, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1981
    121.Vũ Đ́nh Ḥe, Hồi kư Thanh Nghị tập 1, Nhà xuất bản Văn học, 1997
    122.Vũ Đ́nh Ḥe, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Trẻ, 2008
    123.Vũ Măo, Ngọn cờ tiên phong, Bản thảo năm 2005
    124.Vũ Quốc Thông, Pháp Chế Sử Việt Nam, Tủ sách Đại học Sài G̣n, 1971
    125.Zhao Ziyang, Prisoner of the State, Simon & Schuster, 2009
    126.Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 – 1885, Nhà xuất bản Tri thức, 2011

  8. #38
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Đọc “Bên Thắng Cuộc” hay Quá Tŕnh Phá Hoại Kinh Tế Miền Nam


    Tiến sĩ Đinh Xuân Quân
    Theo Diễn Đàn Thế Kỷ


    Quyển sách 'Bên Thắng Cuộc' của Huy Đức đă, đang và sẽ tạo nhiều tranh luận cho người đọc trong và ngoài nước. Hiện nay quyển sách này mới chỉ có thể mua trên Amazon (phiên bản tin học). Cuốn 1, có tên là Giải Phóng, gồm 2 phần và 11 chương:

    Phần I:

    Chương 1: Ba Mươi Tháng Tư - Miền Nam - Đi từ bưng biền - Xuân Lộc - Tướng Big Minh - Trại Davis - Nguyễn Hữu Hạnh - Sài G̣n trong ṿng vây - Xe tăng 390 - Đầu hàng - Tuẫn tiết; Chương 2: Cải tạo Những ngày đầu “Ngụy Quyền” - “Ngụy Quân” - “Đoàn tụ” - “Phản động” - Tù và cải tạo - “Thăm Nuôi” - “Học Tập”; Chương 3: Đánh tư sản “Chiến dịch X-2” - Đổi tiền - “Gian thương” - “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh” Hai gia đ́nh tư sản - Kinh tế mới; Chương 4: Nạn Kiều Đội quân thứ năm Hiệp định Geneva “Chổi ngắn không quét xa” - Hoàng Sa - Sợ “con ngựa thành Troy” - “Nạn Kiều” “Phương án II” - “Ban 69” - Vụ Cát Lái; Chương 5: Chiến tranh - Biên giới Tây Nam - Pol Pot - Đi dây - Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ - “Kẻ Thù Lịch Sử” - Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War) “Nhất Biên Đảo” - “Áo lính lại khoác vào ngay”; Chương 6: Vượt biên - “Vượt biên” - Từ “trí thức yêu nước” - Đến “thường dân” - Trước khi tới biển - Đường tới các trại tị nạn - Chương 7: “Giải Phóng” - Sài G̣n thay đổi - Kinh tế mới Đốt sách - Cạo râu - “Cách mạng là đảo lộn” - Ḷng người - Những người được sinh ra không đúng cửa - “Cánh cửa” Thanh niên Xung phong - “Nổi loạn” - “Sài G̣n lại bắt đầu ghẻ lở” -

    Phần II: Thời Lê Duẩn

    Chương 8: Thống nhất Nước Việt Nam là một - “Bắc hóa” - Chủ nghĩa xă hội - “Con đường của Bác” - “Mỗi người làm việc bằng hai” - Lê Duẩn và mối t́nh miền Nam - Chấp chính và chuyên chính - Chương 9: Xé Rào - Bế tắc - Mậu dịch quốc doanh - Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng - Tháo gỡ - Nghị quyết Trung ương 6 - Bù giá vào lương - Cắm cờ xé rào - Khoán chui - Ông Kiệt xé rào, ông Linh lănh đạn - “Ai thắng ai” - Chương 10: Đổi mới - Hội nghị Đà Lạt - Nhóm giúp việc mới - Người của những khúc quanh lịch sử - Từ chính sách Kinh Tế Mới - Đến chọc thủng thành tŕ bao cấp Giá-Lương-Tiền - Nă pháo vào bộ tổng - Khép lại trang sử Lê Duẩn - Vai tṛ của Mikhail Gorbachev Tuyên ngôn đổi mới - Bàn tay Lê Đức Thọ - Phút 89 - Chương 11: Campuchia - “Pot ở đầu phum ta cuối phum” “Xuất khẩu cách mạng” - Tư tưởng nước lớn - Bị cô lập - Phương Bắc - Hội nghị Thành Đô - Campuchia thời hậu Việt Nam.

    * * *

    Đă có nhiều nhận xét về cuốn “Bên Thắng Cuộc” về phần chính trị, về những sai lầm trong nội dung, và chúng ta đă nghe một số chỉ trích, chê bai. Riêng đối với người viết này th́ ta cần biết lịch sử cận đại VN qua nhiều phía kể cả về phần kinh tế. Muốn tranh đấu ta phải hiểu đối thủ và do đó phải t́m hiểu và phân tích những thành công và thất bại của họ ở chỗ nào?

    Người ta nói lịch sử thường được viết theo những người thắng cuộc nhưng từ 1975 đến nay đă bao nhiêu tài liệu được giải mật và nay cuộc chiến tại VN được đánh giá qua nhiều khía cạnh mới. Người ta nói có sách, mách có chứng nhưng với điều kiện là sách viết đúng, không tuyên truyền. “Bên Thắng Cuộc” đă mang một ánh sáng mới cho những trang sử cận đại Việt Nam khi tác giả đă cố gắng có cái nh́n cân bằng – trung thực mặc dù thiếu phân tích.

    Dưới khía cạnh kinh tế ta có thể xem cuốn sách như một nguồn tài liệu và có ghi lại nhiều điều hữu ích cho sự nghiên cứu lịch sử hay tài liệu tra cứu. Nó cho thấy là chính các chính sách kinh tế ngây thơ “của một nền kinh tế tập trung bao cấp” đă phá kinh tế miền Nam. Và sự yếu kém về kinh tế vẫn tiếp tục đến ngày nay v́ “tư duy” trên nền tảng kinh tế chỉ huy với năo trạng rất hẹp ḥi của giới lănh đạo.

    Cuốn sách được viết bằng giọng rất b́nh thản, khách quan, khác hẳn kư ức của nhiều người đă trải qua những t́nh huống cay đắng của bên thua trận, trong đó có người đang viết những ḍng này. Những chính sách sau ngày 30/4/75 của những “đỉnh cao trí tuệ của Bộ Chính Trị” đă thực thi tại miền Nam, đă lộ rơ trong quyển sách này. Nó cho thấy những suy nghĩ thô sơ, hiểu biết quá lạc hậu về các vấn đề quản trị một đất nước, nhất là về quản lư kinh tế.

    Thật vậy quyển sách có trên 3 chương (chương 3, 9 và 10) nói về kinh tế mà ta có thể gọi là “quy tŕnh phá hoại kinh tế miền Nam” qua việc áp đặt một cách máy móc guồng máy “tập trung bao cấp” vào kinh tế. Chương 3 kể lại quy tŕnh phá hoại kinh tế VN bởi tập thể Bộ Chính Trị qua việc cải tạo kinh tế. “Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xă hội được áp dụng ở miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đă phải trải qua hai lần bị “đánh”.

    Các “Chiến dịch X-2” ngày 10-9-1975, việc “Đổi tiền” ngày 22 và 23-9-75, khi đồng tiền cũ của chế độ Sài G̣n đă được thay thế bởi đồng tiền mới được coi là “chiến dịch” c̣n gọi là “X-3” trong đó mỗi hộ gia đ́nh được đổi tối đa 100.000 đồng tiền với 500 đồng tiền VNCH ăn một đồng tiền mới Ngân hàng [nói theo kinh tế th́ đây là một cuộc đổi tiền bóc lột]. Ngày 3-9-1975, Ngân hàng tuyên bố “Công khố phiếu (miền Nam) không c̣n giá trị”, [Chính quyền giải thích: “Các loại công khố phiếu dù của các ngân hàng hay của tư nhân là những giấy nợ của Nguyễn Văn Thiệu vay để thêm ngân sách cho guồng máy chiến tranh, nay Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ đă mang tiền của tháo chạy, Chánh quyền Cách mạng hiện đang quản lư tài sản của toàn dân]

    Các chiến dịch “Đánh tư sản” - “Chiến dịch X-2”, việc đổi tiền (X-3), việc đánh “Gian thương” hay việc “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh.” Tác giả kể lại một cách b́nh thản một số sự kiện đă đưa đến sự phá hoại kinh tế miền Nam qua việc áp đặt các chính sách “XHCN” được áp dụng một cách ngây thơ – nếu không nói là mù quáng trong vấn đề cải tạo công thương nghiệp tại miền Nam.

    Chương 9 kể lại quy tŕnh t́m ṃ các giải pháp kinh tế do những bế tắc của kinh tế tập trung bao cấp của VN qua việc “Xé Rào.” Chỉ mấy năm sau 1975, những người như ông Vơ Văn Kiệt nhận ra là các chính sách cơ chế “tập trung quan liêu bao cấp” cho kinh tế thất bại và họ đă phải t́m cách “xé rào” để giải quyết các bế tắc của kinh tế VN. “Bên ngoài th́ giặc dă, bên trong th́ bức bối, đói kém, không khí càng trở nên ngột ngạt, nhất là từ giữa năm 1978. Lượng người bỏ nước ra đi càng lúc càng tăng, cỗ xe như đang lao xuống dốc mà không ai nh́n thấy chân phanh ở đâu…” Các bế tắc kinh tế do mậu dịch quốc doanh - Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng và cách nào VN đă cố tháo gỡ các khó khăn kinh tế do việc áp dụng hệ thống “bao cấp” tại VN. [Ông Kiệt không phải chờ quá lâu để chứng kiến những ǵ mà chủ nghĩa xă hội mang lại cho Sài G̣n. Đại hội Đảng lần thứ IV đề ra mục tiêu: “Năm 1980 đạt ít nhất hai mươi mốt triệu tấn lương thực quy thóc, một triệu tấn thịt hơi các loại”.] Trên thực tế là, tại vựa lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long, sau khi “cưỡng bức tập thể hóa”, sau khi máy cày, máy kéo của tư nhân bị đưa vào hợp tác xă, tập đoàn đă trở nên tàn phế, mặc kệ các chỉ tiêu Đại hội, sản lượng lương thực, thực phẩm giảm mạnh. [Nhưng gạo lại để ẩm mốc ở Long An trong khi dân Sài G̣n vẫn đói.] Quyển sách nói đến “Nghị quyết Trung ương 6” hay việc nhận ra nguyên nhân đất nước khó khăn là v́ "những khuyết điểm chủ quan” và chủ trương xóa bỏ ngay những chính sách chế độ bất hợp lư, gây trở ngại cho sản xuất, khuyến khích việc phát triển sản xuất, … Chương này cũng nói về vấn đề xé rào và khoán chui và hai lần đổi tiền năm 1985. Quyển sách cũng nhắc lời của KS Dương Kính Nhưỡng (cựu Bộ trưởng của VNCH) một cách rất chí lư: cần phải có luật lệ mới quản lư được một đất nước.

    Hậu quả các chính sách kinh tế “tập trung bao cấp” là “Cuộc sống của những người dân ở hậu phương cũng trăm bề khó khăn: Cây đinh phải đăng kư / Trái bí cũng sắp hàng / Khoai lang cần tem phiếu / Thuốc điếu phải mua bông / Lấy chồng phải cai đẻ / Bán lẻ chạy công an / Lang thang đi cải tạo / Hết gạo ăn bo bo / Học tṛ không có tập...” Nhờ t́nh trạng này cho nên chương 10 nói về Đổi mới - Hội nghị Đà Lạt - Nhóm giúp việc mới - Người của những khúc quanh lịch sử Từ chính sách Kinh Tế Mới - Đến chọc thủng thành tŕ bao cấp Giá-Lương-Tiền - Nă pháo vào bộ tổng - Khép lại trang sử Lê Duẩn - Vai tṛ của Mikhail Gorbachev - Tuyên ngôn đổi mới - Bàn tay Lê Đức Thọ - Phút 89. Đây là quy tŕnh t́m cách giải quyết các khó khăn của kinh tế VN.

    Tác giả này trong bài (1) được viện ISEAS của đại học Singapore xuất bản đă chứng minh là đến 1972, không ai của “nhóm đỉnh cao trí tuệ” của BCT tại VN có một mảnh bằng bằng Đại Học. Hậu quả của việc quản lư yếu kém của lănh đạo có “Mác xít nhưng tŕnh độ quá thấp” [đỏ hơn chuyên] là những tai hại mang đến cho đất nước VN.

    Một điểm đáng lưu ư là tác giả Huy Đức đă dùng chữ Tuẫn Tiết để chỉ cái chết của các tướng lănh miền Nam như Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ hay Đại tá Đặng Sĩ Vinh, những người đă tự kết liễu đời ḿnh vào thời điểm miền Nam sụp đổ. Theo tác giả th́ nhiều quân nhân VNCH vô danh đă t́m đến cái chết trong danh dự những ngày sau đó.

    Tác giả cũng đă trích dẫn huyền thọai về Hồ Chí Minh và bà Nguyễn Thị Năm do Hoàng Tùng dàn dựng. Chương Nạn kiều trong sách làm sáng tỏ việc tổ chức cho người Hoa vượt biên để gom vàng của nhà nước. Phương án II cũng giúp chúng ta thấy bao nhiêu thảm cảnh đă xảy ra, trong sách ghi lại: “Người di tản được đóng vàng để công an mua thuyền hoặc đóng thuyền cho đi mà không sợ bị bắt hay gây khó khăn. Việc thực hiện Phương án II chỉ do ba người là bí thư, chủ tịch và giám đốc công an tỉnh quyết định. Công an được giao làm nhiệm vụ đứng ra thu vàng và tổ chức cho người di tản”.

    Quyển sách cho thấy Đảng Cộng Sản là một tổ chức vô cùng tàn bạo mà lại rất yếu kém về chuyên môn. Người cộng sản VN mang bộ mặt đạo đức giả, mị dân, nhưng cũng có nhiều người cố gắng t́m giải pháp khi bế tắc.

    Quyển sách này giúp hai phe (thắng và thua, nói tóm là dân VN) tái khẳng định sự thật qua những việc ǵ đă xẩy ra từ 1975 đến nay. V́ mù quáng hay ngây thơ theo một chủ nghĩa mà VN đă phải trải qua bao vấn nạn – bao khó khăn, hoàn toàn phá kinh tế miền Nam chỉ v́ … “quá ngu xuẩn v́ duy ư chí.”

    Cái tên sách "Bên Thắng Cuộc" có lẽ cũng nói lên cái thâm ư của tác giả Huy Đức, là không coi sự thắng trận của miền Bắc là một cái ǵ quá vĩ đại và tuyệt đối. Hai chữ "thắng cuộc" cho người đọc cái cảm giác đó chỉ là một cái ǵ ở tầm cỡ nhỏ, tạm thời, trong khi ḍng chảy phong phú và đa dạng của lịch sử ngày càng cho thấy cái chính nghĩa lại thuộc bên thua cuộc là miền Nam. Nhân quyền, tự do về tư tưởng, tín ngưỡng, ngôn luận, cư trú và về kinh tế v.v... là những đặc điểm vốn đă là nền tảng cho chế độ miền Nam, ngày càng là các đ̣i hỏi bức thiết của mọi tầng lớp dân chúng Việt Nam hiện tại, sau gần 40 năm chế độ cộng sản được áp đặt cho cả nước, nhất là hiện tượng phụ thuộc vào Trung Cộng ngày càng rơ rệt, và việc "đảng đàn anh" đương nhiên coi Hoàng Sa và Trường Sa là của họ.

    Vào thời điểm này ai thắng ai thua không c̣n là điều quan trọng, mà việc tái khẳng định sự thật lịch sử, để từ đó sửa chữa các sai lầm và đưa đất nước đến độc lập, thịnh vượng và dân chủ mới là điều đáng quan tâm nhất cho tất cả người dân Việt Nam. Quyển sách này chính là bước đầu giúp việc đánh giá lại “giấc mơ XHCN” mà tác giả cho thấy đă mang bao tai họa cho dân VN. Người viết bài này cũng đă sống tại Việt Nam giai đoạn sau 1975, từ tù cải tạo đến việc bị phân biệt đối xử bị coi là loại công dân hạng hai, cho đến khi vượt biển t́m được tự do; và sau đó c̣n có dịp về làm việc tại Việt Nam trong chương tŕnh phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) nhằm giúp cải tổ hành chánh và kinh tế. Với các kinh nghiệm đă trải qua, người viết đánh giá là ngoài vài sai lầm nhỏ, quyển sách này đă cố nói lên được nhiều sự thật. Nó cần phải được đọc nhiều lần một cách cẩn thận, để hiểu được những gửi gắm của tác giả, trong khi chờ đọc nốt cuốn thứ hai của Huy Đức.

    Ts. Đinh Xuân Quân

    1. The Political Economy of the Vietnamese Transformation Process, Contemporary South East Asia, Volume 22, Number 2, Institute of South East Asia Studies, August 2000.

  9. #39
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Huy Đức - Trích cuốn Bên Thắng Cuộc II, Quyền Bính: “Bỏ Điều 4 Hiến pháp là tự sát”


    Theo cuốn Bên Thắng Cuộc II: Quyền Bính

    Ban Biên Tập Dân Luận xin mạo muội trích dẫn một số chương trong cuốn Bên Thắng Cuộc II: Quyền Bính mà chưa hỏi ư kiến tác giả, nhân dịp chủ đề sửa đổi Hiến Pháp và bỏ điều 4 đang được tranh luận sôi nổi trên Dân Luận. Tác giả có chú thích rơ các nguồn tin sử dụng trong cuốn sách, nhưng do khuôn khổ hạn chế của bài báo này, chúng tôi không đăng các chú thích này, mời độc giả tham khảo trong sách.


    Nửa thế kỷ, bốn hiến pháp

    Không phải tự nhiên mà Tổng Bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh “quyền lực nhà nước là thống nhất”. Trên các diễn đàn góp ư dự thảo hiến pháp lúc bấy giờ bắt đầu xuất hiện khái niệm “tam quyền phân lập”, đồng thời có nhiều ư kiến đề nghị khôi phục tinh thần Hiến pháp 1946.

    Cho dù Hiến pháp 1946 được mô tả như là “hiến pháp của Hồ Chí Minh”, việc khôi phục nó chưa bao giờ được công khai đưa ra. Tuy không thiết kế một nhà nước hoàn toàn theo mô h́nh “tam quyền phân lập”, Hiến pháp 1946 đă không hề có bóng dáng của nhà nước Xô viết. Quyết tâm chính trị lớn nhất lúc đó của Đảng Cộng sản Việt Nam là kiên định lập trường xă hội chủ nghĩa.

    Trên thực tế, chiến tranh nổ ra chỉ một tháng mười ngày sau khi Hiến pháp 1946 được Quốc hội thông qua. Bản Hiến pháp v́ thế chưa được công bố và cuộc tổng tuyển cử bầu Nghị viện Nhân dân chưa được tiến hành. Quốc hội lập hiến đứng ra đóng vai tṛ của Nghị viện, xưng là Quốc hội khóa I. Chính phủ Liên hiệp Lâm thời tiếp tục vai tṛ, nhưng tất nhiên không c̣n các thành viên của Việt Cách và Việt Quốc.

    Sau Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương, năm 1951, Chính phủ Hồ Chí Minh bắt đầu thể hiện bản chất chính quyền của một nhà nước giai cấp thay v́ chính quyền của các thành phần nhân dân như giai đoạn tập hợp lực lượng ban đầu. Tinh thần của Hiến pháp 1946 đă hoàn toàn biến mất khi ngày 4-12-1953 Quốc hội “khóa I” ban hành Luật Cải cách ruộng đất, tước đoạt ruộng đất của những người bị quy là địa chủ, trái với Điều thứ 12: “Quyền tư hữu của công dân Việt Nam được bảo đảm”.

    Quyền tự do ngôn luận mà Hiến pháp 1946 minh định, và trên thực tế khi ấy đang được thi hành dựa trên chế độ báo chí của chính quyền thực dân Pháp, cũng bắt đầu bị hạn chế sau ngày 14-12-1956, ngày Hồ Chí Minh kư Sắc lệnh về Chế độ báo chí. Những người c̣n lại trong Quốc hội được bầu tháng 1-1946 cũng đă đưa tay “khai tử” đứa con đáng tự hào nhất của ḿnh. Năm 1959, Hiến pháp 1946 bị thay thế, bất chấp nguyên tắc sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức: “Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu; Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi; Những điều thay đổi khi đă được Nghị viện ưng chuẩn th́ phải đưa ra toàn dân phúc quyết”.

    Mặc dù Hồ Chí Minh đặt vấn đề xây dựng hiến pháp rất sớm, Hiến pháp 1959 mới thực sự là hiến pháp của ông. Việc thay thế Hiến pháp 1946 chỉ thực sự được triển khai sau khi Hồ Chí Minh đi dự Hội nghị các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế tổ chức vào tháng 11-1957 tại Moscow, cùng kư “Tuyên bố chung” thừa nhận: “Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa cộng sản có ư nghĩa nguyên tắc đối với toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế”.

    Nhà nước “dân chủ cộng ḥa, tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt ṇi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” theo Hiến pháp 1946 đă được thay thế bằng một nhà nước “dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lănh đạo” theo Hiến pháp 1959.

    Trong Lời nói đầu, Hiến pháp 1959 viết: “Nhân dân ta quyết tăng cường hơn nữa sự đoàn kết nhất trí với các nước anh em trong phe xă hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô vĩ đại… Dưới sự lănh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Nếu như Hiến pháp 1946 nhấn mạnh đến b́nh đẳng và tự do của người dân th́ Hiến pháp 1959 nhấn mạnh “trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất Tổ quốc”. Công dân Việt Nam bắt đầu được khuyến cáo: “Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước”.

    Hiến pháp 1959 tồn tại hai mươi năm trong giai đoạn miền Bắc dồn sức cho chiến tranh, ít ai có điều kiện để quan tâm tới việc thực thi pháp luật. Sau chiến thắng năm 1975, sau khi “hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên làm cách mạng xă hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xă hội”, tháng 7-1976, Quốc hội đổi tên nước từ “Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa” thành “Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam” và xác định: “Nước Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam cần có một bản hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó là hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội trong phạm vi cả nước”.

    Ngôn từ trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam đă được đưa thẳng vào Lời nói đầu của Hiến pháp 1980. Trong khi súng đạn đang nổ hàng ngày ở hai đầu biên cương, ở hậu phương, dân chúng lại bị hô hào “tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng”.

    Hiến pháp 1980 thực chất là một bản Hiến pháp 1959 nâng cao theo hướng “nhà nước chuyên chính vô sản”. Cách tiếp thu kinh nghiệm của các nước xă hội chủ nghĩa cũng khá vội vàng. Ông Nguyễn Đ́nh Lộc kể: “Khi Chủ tịch Trường Chinh đi nghiên cứu tại các nước Đông Âu, họ tŕnh bày mô h́nh hội đồng nhà nước mà họ đang áp dụng như là một mô h́nh đầy tính ưu việt. Ḿnh về, bê gần như nguyên xi vào hiến pháp mới. Không ngờ, họ nói với ḿnh vậy nhưng chỉ sau đó không lâu họ sửa v́ mô h́nh ấy nhập nhằng vai tṛ giữa quốc hội và nhà nước”.

    Hiến pháp 1980 trở thành một bản hiến pháp “đoản mệnh”. Từ tháng 3-1989, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa VI, bắt đầu đặt vấn đề: “Cần rà soát lại các văn bản pháp quy hiện hành (kể cả Hiến pháp), bổ sung và sửa đổi những điểm cần thiết theo tinh thần đổi mới”. Ngày 30-6-1989, Nghị quyết Trung ương 6 đă được Quốc hội Khóa VIII triển khai với tinh thần cải cách cao hơn: Sửa đổi Hiến pháp 1980 “một cách toàn diện”. Cũng trong kỳ họp ấy, Quốc hội quyết định thành lập Ủy ban Sửa đổi Hiến pháp, cử ông Vơ Chí Công làm chủ tịch.
    “Công nông hoá” tư pháp

    Chiều ngày 5-10-1992, Quốc hội đă quyết định để Bộ Tư pháp phối hợp với Ṭa tối cao quản lư ṭa địa phương về mặt tổ chức với 292 phiếu thuận, 71 phiếu chống, sau hai ngày tranh luận gay gắt về hai phương án: Bộ Tư pháp phối hợp với Ṭa án Nhân dân Tối cao quản lư ṭa địa phương hay để cho Ṭa án Tối cao quản lư ṭa theo ngành dọc.

    Chánh án Ṭa án Nhân dân Tối cao Phạm Hưng ủng hộ phương án hai và có ư chỉ trích ngành tư pháp, nơi soạn thảo Dự luật Tổ chức Ṭa án, tự trao cho ḿnh quyền quản lư các ṭa cấp dưới. Nhưng, Bộ trưởng Nguyễn Đ́nh Lộc cho rằng, ṭa án không phải là một cơ quan hành chính để cấp trên quản lư cấp dưới mà là một cơ quan xét xử. Theo ông, việc ṭa án cấp dưới phụ thuộc ṭa án cấp trên về mặt tổ chức là nguyên nhân nảy sinh hiện tượng thỉnh thị án, hiện tượng các thẩm phán khi xét xử đă có sẵn bản án bỏ túi.

    Một “sách trắng” mà Bộ Tư pháp gửi đến các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp đó cho biết: Nhiều ṭa án cấp tỉnh đă xếp lịch cụ thể để lên thỉnh thị án. Năm 1988, do ṭa h́nh sự Ṭa án Nhân dân Tối cao có văn bản chỉ thị ṭa án Hà Nam Ninh xử một bị cáo năm năm tù mà bị cáo này đă bị ức chế, dùng súng bắn hai cán bộ ṭa án rồi tự sát.

    Những nỗ lực của Bộ trưởng Nguyễn Đ́nh Lộc có tác động đáng kể đến cải cách tư pháp thời thập niên 1990. Tuy nhiên, một mặt do tư pháp Việt Nam không chỉ lệ thuộc vào mô h́nh mà nó được thiết kế, mặt khác, ngay từ lúc ban sơ, “tam quyền phân lập” đă không được những người khai sinh chính thể “dân chủ cộng ḥa” tán thành, nên cũng như những quyền tự do khác, quyền được thụ hưởng công lư của người Việt Nam đă không được mở ra đúng mức.

    Trong quá tŕnh h́nh thành Hiến pháp 1946, trong nội bộ Ban Dự thảo và trên báo chí đă từng có nhiều cuộc tranh luận. Theo Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đ́nh Ḥe, Hồ Chí Minh không đánh giá cao mô h́nh nhà nước theo kiểu tam quyền phân lập. Ông muốn dùng kinh nghiệm xây dựng chính quyền nhân dân trong các căn cứ địa, muốn tập trung cả ba quyền cho cơ quan đại diện của toàn dân. Hồ Chí Minh cho rằng các nhánh quyền không cần giám sát lẫn nhau v́ mặt trận vừa là một cơ quan giám sát vừa là chỗ dựa cho nhà nước.

    Ṭa án bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam với tư cách là một nhánh quyền lực độc lập kể từ khi người Pháp thiết lập quyền cai trị trên các vùng nhượng địa: Nam Kỳ, Đà Nẵng, Hà Nội và Hải Pḥng. Việc xử án, thoạt đầu hoàn toàn do các nhà hành chính người Pháp đảm trách. Kể từ năm 1921, ở Nam Kỳ, nhiều vị thẩm phán người Việt đă được bổ nhiệm để xét xử các vụ h́nh sự đối với các nguyên và bị cáo nói tiếng Việt. Ở các xứ ngoài Nam Kỳ, bên cạnh các “ṭa Nam án” do các quan tỉnh điều khiển theo tổ chức tư pháp của Triều Nguyễn, có những ṭa án Pháp đặt dưới sự điều khiển của các viên công sứ.

    Trong thời kỳ tiền hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đă kư Sắc lệnh số 13, ngày 24-1-1946, quy định: “Ṭa án sẽ độc lập với các cơ quan hành chính. Các vị thẩm phán sẽ chỉ xử trong ṿng pháp luật và công lư. Các cơ quan khác không được can thiệp vào việc tư pháp”. Tư pháp theo thiết kế của Hiến pháp 1946 cũng “độc lập, chỉ tuân theo pháp luật”. Tuy “các viên thẩm phán đều do chính phủ bổ nhiệm”389 cơ quan tư pháp không thiết lập theo các cấp hành chính như về sau mà thiết lập theo cấp xét xử: toà án tối cao, các toà án phúc thẩm, các ṭa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Tiến tŕnh xét xử phải theo nguyên tắc: “các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. Nhưng, chỉ mấy năm sau đó, chính Hồ Chí Minh sẽ từ bỏ dần những nguyên tắc này.

    Tại “An toàn khu”, theo Bộ trưởng Lê Văn Hiến: “Vấn đề tư pháp - hành chính lâu nay cứ lủng củng măi, mỗi bên đều có sự than phiền. Tư pháp trách hành chính lạm quyền và lộng quyền, bất chấp luật lệ, nhân t́nh thế chiến tranh mà thi hành nhiều thủ đoạn tổn thương đến quyền tự do cá nhân. Hành chính tố cáo tư pháp lợi dụng nguyên tắc độc lập mà đi dần đến chỗ độc lập với chính quyền, có khi lấy luật pháp để bảo vệ những hành vi phản động”.

    Tháng Giêng 1948, trong một cuộc họp mở rộng, Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh đă yêu cầu các ngành: “Ra sức trừ bỏ những tệ như: Việt Minh lấn quyền hành chính… Mặt trận và bộ đội xung đột và tị nạnh nhau… Kháng chiến kiêm hành chính và chuyên môn (nhất là tư pháp) xung đột nhau”. Nhưng, khi xung đột tư pháp - hành chính không dừng lại ở cấp huyện, tỉnh th́ chính Hồ Chí Minh cũng phản ứng393.

    Ngoài xung đột giữa giới tư pháp với giới hành chính, theo ông Vũ Đ́nh Ḥe, khía cạnh sâu sắc hơn c̣n là xung đột giữa Đảng và các trí thức, giữa Đảng Cộng sản và những người thuộc hai đảng Xă hội và Dân chủ. Từ năm 1950, tuy đảng viên Đảng Dân chủ Vũ Đ́nh Ḥe vẫn c̣n là Bộ trưởng Tư pháp, nhưng quyền lực trên thực tế nằm trong tay Thứ trưởng Trần Công Tường, một cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản. Không cần trao đổi với bộ trưởng, ông Tường đă “cùng với chi bộ” của ông chuẩn bị ba dự án sắc lệnh đề cập đến ba vấn đề thay đổi căn bản nền tư pháp.

    Hơn một tháng sau khi “cướp chính quyền”, ngày 10-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kư Sắc lệnh 90, tạm thời áp dụng các nguyên tắc dân sự ghi trong Dân pháp điển Bắc Kỳ và Trung Kỳ, Pháp quy giảm yếu 1883 thi hành ở Nam Kỳ. Theo ông Vũ Đ́nh Ḥe, trong quá tŕnh soạn thảo Hiến pháp 1946, Hồ Chí Minh cũng đă ra lệnh giữ lại các luật lệ của chế độ cũ không trái với chế độ mới. Nhưng, đến năm 1950, Hồ Chí Minh đă trực tiếp nghe và đồng ư với đề xuất của ông Trần Công Tường, thiết lập ba nguyên tắc cơ bản của dân luật dựa trên ba nguyên tắc tương ứng của bộ Dân luật Nga Xô năm 1922, được soạn thảo dưới sự chủ tŕ của Lenin.

    Thay v́ tuân thủ nguyên tắc “quyền tư hữu được nhà nước bảo hộ” theo Hiến pháp 1946, Sắc lệnh 97 của Hồ Chí Minh quy định rằng: “Các quyền dân sự của công dân chỉ được thực hiện và bảo vệ khi công dân sử dụng các quyền ấy của ḿnh một cách phù hợp với quyền lợi của nhân dân… Công dân chỉ hành xử quyền tư hữu trong phạm vi phù hợp… Ṭa án nhân dân có thể hủy bỏ bất kỳ hợp đồng nào kư kết giữa hai công dân, nếu sự chênh lệch quá đáng về tài sản giữa họ đối với nhau”.

    Ông Trần Công Tường c̣n đề nghị xóa bỏ chế độ luật sư của Pháp để lại, thay bằng chế độ bào chữa viên nhân dân, để cải tiến triệt để việc xử án. Trong cuộc họp Chính phủ để tŕnh ba dự án sắc lệnh này, Bộ trưởng Vũ Đ́nh Ḥe đă “bật lên phản đối” nhưng theo ông Ḥe, “sự dàn ḥa, điều giải của Hồ Chủ tịch thật tài t́nh”. Hồ Chí Minh vẫn kư Sắc lệnh 85-SL, ngày 22-5-1950, quy định “Chế độ hội thẩm nhân dân” do Thứ trưởng Tư pháp Trần Công Tường đệ tŕnh nhưng vẫn “tán thành ư kiến bổ sung của Bộ trưởng Vũ Đ́nh Ḥe”, không đụng đến Đoàn Luật sư.

    Trong thời kỳ tiền Hiến pháp 1959, Quốc hội đă ra nghị quyết, ngày 29-4-1958, tách hệ thống công tố ra khỏi ṭa án để trở thành bốn cơ quan ngang bộ trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Trong giai đoạn 1945-1958, cơ quan công tố chưa được tổ chức thành một hệ thống riêng mà hợp cùng với cơ quan xét xử thành ṭa án các cấp. Nhiệm vụ của Viện Công tố là điều tra, truy tố những vụ phạm pháp về h́nh sự, giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của cơ quan điều tra, trong việc xét xử của ṭa án, trong việc tạm giữ và cải tạo ở các trại giam.

    Sau Hiến pháp 1959, hệ thống ṭa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân ra đời, thay v́ nằm trong hội đồng chính phủ, trở thành những cơ quan trực thuộc Quốc hội, ở cấp tỉnh, thành th́ trực thuộc hội đồng nhân dân cùng cấp. Sau Hiến pháp 1959, Bộ Tư pháp bị giải thể. Theo ông Nguyễn Đ́nh Lộc, ngoài lư do sao chép từ mô h́nh nhà nước liên bang của Liên Xô, sự sửa đổi này c̣n mục tiêu nhắm tới ông Bộ trưởng Vũ Đ́nh Ḥe.

    Đặc biệt, ngày 17-11-1950, Hồ Chí Minh kư Sắc lệnh số 158-SL, quyết định việc bổ sung cán bộ công nông vào ngạch thẩm phán và thăng bổ các thẩm phán ṭa án nhân dân huyện lên ṭa án nhân dân tỉnh. Từ đây, trường luật Tam Đảo lập ra theo chủ trương của ông Vũ Đ́nh Ḥe nhằm đào tạo các thẩm phán đệ nhị cấp đă bị đóng cửa v́ theo ông Ḥe: “Chủ trương đào tạo thẩm phán chuyên môn đương nhiên là bị Đảng đoàn Tư pháp gạt bỏ v́ người cộng sản coi chính trị là thống soái, nên chỉ cần đề bạt cán bộ công nông là đủ giải quyết vấn đề cán bộ tư pháp”.

    Từ đây, theo ông Vũ Đ́nh Ḥe: “các thẩm phán huyện, đa số là đảng viên cộng sản, chỉ qua lớp chính trị và nghiệp vụ”. Quan điểm lựa chọn thẩm phán chủ yếu “đứng trên lập trường nhân dân” của Hồ Chí Minh đă ảnh hưởng lâu dài đến nền tư pháp Việt Nam. Trong giai đoạn 1960-1970, khi vai tṛ của Nhà nước bị lu mờ trước vai tṛ của Đảng, sự sa sút về chất lượng của đội ngũ thẩm phán và tính thiếu độc lập của ṭa án ít được chú ư. Nhưng, từ cuối thập niên 1980, điều này bắt đầu trở thành một vấn đề lớn.

    Theo một báo cáo của Bộ Tư pháp tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX: Năm 1981, chỉ có 3% cán bộ ṭa án cấp tỉnh, huyện có tŕnh độ đại học. Năm 1991 số thẩm phán có tŕnh độ đại học được nâng lên ở mức 50% nhưng thẩm phán cấp quận huyện cũng chỉ 41% có tŕnh độ đại học, trong đó nhiều người tốt nghiệp hệ tại chức. Cũng trong kỳ họp đó, Đại biểu Quốc hội Hoàng Ngọc Nhất, giám đốc Công an Thanh Hóa, nêu t́nh trạng thẩm phán, người nhân danh Nhà nước, nhân danh pháp luật, lại không có hiểu biết về luật bằng người bảo vệ các bị cáo: luật sư. Ông Nhất nói: “Có phiên ṭa, bị cáo c̣n thuộc luật hơn cả thẩm phán”. Tŕnh độ thẩm phán càng thấp ṭa án càng lệ thuộc lớn vào cấp ủy. Chính báo Nhân Dân cũng phải thừa nhận ở ṭa, các thẩm phán thường chỉ đưa ra các bản án đă được cấp ủy xử trước; những người muốn độc lập với cấp ủy thường phải gánh chịu hậu quả, có khi là mất việc.

    Đầu thập niên 1990, Đảng bắt đầu chấn chỉnh t́nh trạng cấp ủy can thiệp thô bạo vào các bản án. Nhưng, đối với những bản án có ảnh hưởng lớn, Đảng vẫn cho rằng, “cấp ủy cần tham gia ư kiến về quan điểm xét xử làm cơ sở cho việc quyết định của cơ quan kiểm sát và ṭa án”. Chất lượng ṭa án cho đến lúc bấy giờ vẫn lệ thuộc vào “tính chất công nông” nằm ở trong số đông của đội ngũ. Ngày 5-12-1997, Đại biểu Hoàng Ngọc Thành, Lào Cai, nói trước Quốc hội: “Tỉnh tôi có bảy thẩm phán th́ năm thẩm phán có tŕnh độ từ lớp 2-3”. Đại biểu Đặng Thanh Hương cho biết thêm: “Có chánh án chỉ tốt nghiệp cấp I”.

    Chất lượng xét xử, buộc tội thấp đến nỗi, thời gian ấy, ṭa án tỉnh phải hủy khoảng 10% án do ṭa huyện xử; Ṭa tối cao hủy 6,9% án của ṭa tỉnh. Cũng trong phiên họp ngày 5-12-1997, ông Vũ Đức Khiển, chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cho Quốc hội biết: Chỉ có 1/3 tổng số người bị bắt trong mười tháng đầu năm 1997 là bắt theo lệnh có phê chuẩn của Viện Kiểm sát, số c̣n lại chủ yếu bắt khẩn cấp, bắt quả tang; có tới 18.197 người bị bắt nhưng rồi phải xử lư hành chính, chiếm 30,26%. T́nh trạng này vẫn chưa được cải thiện nhiều trong thập niên kế tiếp.

    “Bỏ Điều 4 là tự sát”

    Trong chế độ cộng sản, cho dù bộ máy nhà nước tổ chức theo lư thuyết nào th́ quyền lực cũng chỉ tập trung vào một nơi: Đảng.

    Ngày 10-9-1980, khi phát biểu trước phiên họp “xem xét bản dự thảo hiến pháp” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói: “Đảng cầm quyền phải biết sử dụng Nhà nước, coi đó là một công cụ hùng mạnh và sắc bén để thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân và sự lănh đạo của Đảng trên quy mô toàn xă hội”401. Trong hai mệnh đề mà ông Lê Duẩn đề cập, nếu như quyền làm chủ thực sự của nhân dân là rất mông lung th́ sự lănh đạo của Đảng quả thực là đă ngự trị trên “quy mô toàn xă hội”.

    “Công lao” của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu được ghi trong hiến pháp từ năm 1959. Lời nói đầu của Hiến pháp 1980 nói thêm: “Nước Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam cần có một bản hiến pháp thể chế hoá đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó là hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội trong phạm vi cả nước”. Điều 4, Hiến pháp 1980, ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lênin, là lực lượng duy nhất lănh đạo nhà nước, lănh đạo xă hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Tuy không dịch nguyên văn, nhưng theo ông Nguyễn Đ́nh Lộc, Điều 4 Hiến pháp 1980 được mô phỏng từ Điều 6 Hiến pháp 1977 của Liên Xô.

    Ngày 12-12-1980, khi báo cáo trước Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Dự thảo hiến pháp Trường Chinh giải thích về vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo ông: “Nhà nước Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản… Nhà nước chuyên chính vô sản chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của ḿnh dưới sự lănh đạo của Đảng của giai cấp công nhân”. Báo cáo của ông Trường Chinh nói tiếp: “Vai tṛ lănh đạo của Đảng được ghi nhận với tinh thần và lời văn trang trọng như vậy là rất có ư nghĩa. Với Điều 4, Dự thảo Hiến pháp khẳng định công lao to lớn của Đảng ta…; thể hiện t́nh cảm sâu đậm của nhân dân cả nước đối với Đảng và đáp ứng yêu cầu tăng cường sự lănh đạo toàn diện của Đảng trong t́nh h́nh mới”.

    Trước đó, ngày 10-9-1980, Tổng Bí thư Lê Duẩn định nghĩa: “Nhà nước chuyên chính vô sản là nơi biểu hiện tập trung sự lănh đạo của Đảng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Trên thực tế, đây là một giai đoạn mà các hoạt động của Đảng là bao trùm. Suốt cả nhiệm kỳ, Quốc hội khóa VII không ban hành bất cứ đạo luật nào trừ Hiến pháp 1980. Đất nước chủ yếu vận hành theo các chỉ thị, nghị quyết của các cấp ủy Đảng.

    Tại Hội nghị Trung ương 25, khóa III, ông Lê Duẩn đưa ra mô h́nh chính trị: “Đảng và Nhà nước dính nhau làm một. Ở trung ương, thủ tướng là của Nhà nước, đồng thời là của Đảng, là Ủy viên Bộ Chính trị, bộ trưởng cũng thế… Nhà nước làm là Đảng làm. Ví dụ, Đảng làm thủy lợi qua bộ trưởng Thủy lợi, qua Bộ Thủy lợi chứ không qua một tổ chức khác”.

    Trong thời gian “Đảng và Nhà nước dính nhau làm một”(1976-1986) này, một khối lượng lớn chỉ thị, nghị quyết đă được Đảng ban hành. Các văn kiện Đảng đă trở thành những văn bản có tính quy phạm, trực tiếp điều chỉnh mọi hành vi chính trị, văn hóa, giáo dục và xă hội. Thậm chí, giấy đăng kư kết hôn giữa ông Vơ Văn Kiệt và bà Phan Lương Cầm lập năm 1984 cũng do Ban Tài chính Quản trị Trung ương cấp. Các nhà lănh đạo cao cấp của Đảng trong giai đoạn này gần như đều có một sự nghiệp chính trị trọn đời: Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn đều từ trần khi đang tại chức. Vai tṛ của Đảng cũng như của các nhà lănh đạo trong hệ thống chính trị bắt đầu được điều chỉnh dần kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986).

    Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo tại Hội nghị toàn quốc về hội đồng nhân dân vào tháng 2-1992 từng phát biểu: “Nhiều nơi, tổ chức Đảng đă tự biến ḿnh thành nhà nước, thậm chí siêu nhà nước”. Luật pháp mà các công cụ nhà nước thông qua thường chỉ là “thể chế hóa đường lối, nghị quyết của Đảng”.

    Đặc biệt, Đảng nắm gần như tuyệt đối công tác cán bộ ở cả ba ngành quyền lực. Lá phiếu của người dân trong các kỳ bầu cử chỉ là xác nhận những người được Đảng ghi tên trong danh sách phiếu bầu. Đảng không chỉ kiểm soát Quốc hội thông qua con số hơn 90% đại biểu là đảng viên. Ngay cả những đại biểu Quốc hội không phải đảng viên cũng phải là người của Đảng. Quy tŕnh giới thiệu, hiệp thương, cho đến lấy ư kiến cử tri nơi ở và nơi công tác đều do các cấp ủy Đảng chi phối, kể cả những ứng cử viên gọi là “tự ứng cử”.

    Ở cấp quốc gia, việc bỏ phiếu ở Quốc hội bầu các chức danh nhà nước chỉ là vấn đề thủ tục. Theo quy tŕnh cán bộ của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương quyết định các chức danh chủ tịch quốc hội, chủ tịch nước, thủ tướng, chánh án Ṭa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Tối cao; Bộ Chính trị quyết định các chức danh phó thủ tướng, phó chủ tịch nước, phó chủ tịch quốc hội, các bộ trưởng; Ban Bí thư quyết định các chức vụ tương đương thứ trưởng. Bộ Chính trị cũng đồng thời quyết định nhân sự cấp bí thư, chủ tịch ủy ban, chủ tịch hội đồng nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương. Cấp ủy Đảng ở địa phương cũng quyết định nhân sự theo quy tŕnh tương tự.

    Dự thảo Hiến pháp 1992 chỉ thực sự được đưa ra thảo luận sau Đại hội Đảng lần thứ VII, tháng 6-1991. Đó là một thời điểm cả thế giới lẫn trong nước đều có nhiều biến động. “Kinh tế nhiều thành phần” mà Đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận hồi năm 1986 buộc Đảng phải “đổi mới hệ thống chính sách, pháp luật” thay v́ tiếp tục chi phối mọi mặt đời sống bằng các chỉ thị, nghị quyết như thời “quan liêu, bao cấp”. Nhưng kinh tế nhiều thành phần và sự sụp đổ của các đảng cộng sản trên thế giới cũng đặt Đảng Cộng sản Việt Nam trước mối lo về tính chính đáng trong vai tṛ tiếp tục nắm quyền lănh đạo.

    Tháng 5-1990, Yeltsin - người bị Gorbachev đưa ra khỏi Bộ Chính trị trước đó không lâu - được bầu giữ chức chủ tịch Xô viết Tối cao nước Cộng ḥa Liên bang Nga. Tháng 7-1990, ông tuyên bố ra khỏi Đảng Cộng sản. Tháng 6-1991, trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của nước Cộng ḥa Liên bang Nga, Yeltsin trở thành tổng thống. Quyền lực của nhà nước liên bang có nguy cơ tan ră khi vào tháng 8-1991, một hiệp ước liên bang mới trao chủ quyền cho các nước cộng ḥa bắt đầu được h́nh thành. T́nh h́nh tưởng có thể đảo ngược khi, ngày 19-8-1991, Phó Tổng thống Liên Xô Yanaev làm đảo chính, bắt giữ Gorbachev và lập ra “Ủy ban Nhà nước về t́nh trạng khẩn cấp”.

    Trong khi thế giới, nhất là phương Tây, đang tỏ ra lo lắng th́ ở Việt Nam, có thể đọc thấy một sắc thái t́nh cảm khác thông qua lượng thông tin về cuộc đảo chính tràn ngập mặt báo ra ngày 20-9-1991. Tất cả các văn kiện của “Ủy ban Nhà nước về t́nh trạng khẩn cấp” đều được báo chí nhà nước cho đăng nguyên văn, báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân c̣n gọi Yanaev là “đồng chí” thay v́ dùng chức danh “quyền tổng thống” như ngôn từ được phát đi từ chính những người đảo chính.

    Nhưng niềm hân hoan này đă không đủ để kéo dài tới ngày hôm sau. Từ vị trí lănh đạo Xô viết Tối cao Nga, Yeltsin trở thành người hùng Liên Xô khi đứng trên tháp pháo xe tăng đọc diễn văn kêu gọi dân chúng tuần hành chống lại những người đảo chính. Ngày 21-8-1991, những người đảo chính bỏ chạy khỏi Moscow; một thành viên của “Ủy ban Khẩn cấp”, Bộ trưởng Nội vụ Liên Xô Boris Karlovic tự sát. Gorbachev được đưa ra khỏi nơi “tạm giam” nhưng quyền lực của ông th́ đă hết.

    Tháng 11-1991, cựu Ủy viên Bộ Chính trị Yeltsin kư lệnh cấm Đảng Cộng sản hoạt động trên lănh thổ nước Nga. Ngày 8-12-1991, một tuần sau khi Ukraina trưng cầu dân ư tuyên bố độc lập với Liên Xô, Yeltsin gặp Tổng thống Ukraina và Tổng thống Belarus, cả ba đưa ra tuyên bố giải tán Liên bang Xô viết, lập ra “Cộng đồng các quốc gia độc lập”. Ngày 24-12-1991, Nga nắm lấy chiếc ghế của Liên Xô tại Liên Hiệp Quốc. Hôm sau Gorbachev, vị tổng thống không c̣n nhà nước, đành phải ra đi.

    Trong khi đó, tại Việt Nam, trong bản dự thảo Hiến pháp mà Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Vơ Chí Công tŕnh ra trước Quốc hội vào ngày 27-7-1991, Liên Xô và một số nước xă hội chủ nghĩa vẫn được nhắc tên trong lời nói đầu. Ngày hôm sau, trong thảo luận tổ410, nhiều đại biểu đề nghị nên cân nhắc. Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp Trần Hồng Quân nói: “Một khi chính những nước đó không c̣n muốn nhận họ là chủ nghĩa xă hội nữa th́ ta không nên nhắc lại”.

    Phát biểu ngay sau đó của các tướng lĩnh có mặt trong Quốc hội cho thấy, ở Việt Nam, chạm tới thành tŕ xă hội chủ nghĩa không phải là một việc dễ dàng. Thượng tướng Nguyễn Minh Châu yêu cầu giữ nguyên phần nói về Liên Xô, ông tuyên bố: “Chủ nghĩa xă hội vẫn c̣n và vẫn c̣n phát triển”. Một đại biểu quân đội khác, Thiếu tướng Nguyễn Răng, cũng phản bác các ư kiến đề nghị hiến pháp chỉ nên đề cập đến “tư tưởng Hồ Chí Minh” thay v́ bao gồm cả “Marx - Lenin”. Tướng Nguyễn Răng nói: “Đừng v́ thế giới có lộn xộn mà chúng ta thay đổi”.

    Khi thảo luận ở tổ hay thảo luận trong phiên họp toàn thể trên Hội trường Ba Đ́nh, gần như không có ai phát biểu mà không đề cập đến “Điều 4 Hiến pháp” nhưng tất cả đều chỉ góp ư về cách diễn đạt chứ không ai dám đề nghị xem xét lại vai tṛ của lănh đạo.

    Đảng Cộng sản Việt Nam không phải đang “lănh đạo nhân dân cầm quyền”, như Chủ tịch Lê Quang Đạo nói, mà đang trực tiếp cầm quyền. Đó là lư do mà nhiều nhà lănh đạo cao cấp trong Đảng cho rằng “bỏ Điều 4 Hiến pháp là tự sát”. Nguyên lư tam quyền phân lập, cho dù được coi là lựa chọn tốt nhất để tránh bộ máy nhà nước tha hóa, lạm quyền, cũng không thể vận hành trong một quốc gia độc đảng.

  10. #40
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay (1)


    Nguyễn Hưng Quốc

    11.02.2013
    Tôi có cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Đức đă khá lâu nhưng mấy ngày vừa rồi mới có th́ giờ để đọc. Ấn tượng chung: Thích.

    Thích nhất là về tư liệu. Đă có nhiều người, Việt Nam cũng như ngoại quốc, viết về Việt Nam sau năm 1975 nhưng có lẽ chưa có cuốn sách nào bao quát nhiều khía cạnh và dồi dào tư liệu đến như vậy. Các cuốn sách khác, cho đến nay, dưới h́nh thức hồi kư hay biên khảo, thường chỉ tập trung vào một lănh vực và từ một góc độ cụ thể nào đó. Bên Thắng Cuộc, ngược lại, hầu như đề cập đến mọi góc cạnh lớn, từ quân sự đến chính trị, kinh tế, văn hóa và xă hội, từ tổ chức chính quyền tại Sài G̣n sau năm 1975 đến các chiến dịch đánh tư sản, các trại cải tạo, phong trào vượt biên, các nỗ lực “xé rào” về kinh tế, chính sách đổi mới, chiến tranh với Campuchia cũng như với Trung Quốc và các cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ đảng Cộng sản. Ở từng vấn đề, Huy Đức đều nêu lên thật nhiều chi tiết. Các chi tiết ấy thuộc hai loại chính: Một, lời kể của các chứng nhân được thu lượm qua các cuộc phỏng vấn hoặc qua các hồi kư - đă hoặc chưa xuất bản - của họ; và hai, các tài liệu đă được công bố đây đó, bằng tiếng Việt cũng như bằng tiếng Anh. Nguồn tài liệu thứ nhất được Huy Đức thực hiện với tư cách một nhà báo; nguồn thứ hai, với tư cách một nhà nghiên cứu. Tôi cho sự kết hợp giữa hai tư cách này là mặt mạnh nhất của Huy Đức đồng thời cũng là ưu điểm chính của cuốn Bên Thắng Cuộc: Thường, các nhà báo Việt Nam chỉ “tác nghiệp” theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa, dựa trên những ǵ ḿnh nghe kể hoặc quan sát được; c̣n các nhà nghiên cứu th́ lại thiếu thực tế, do đó, hoặc chỉ xào nấu từ các cuốn sách khác hoặc phải sa vào tư biện, tệ hại hơn nữa là tư biện kiểu Việt Nam: cứ lải nhải những luận điệu rặt mùi tuyên truyền, tức những luận điệu ai cũng biết, hơn nữa, biết là sai.

    Trong Bên Thắng Cuộc, nguồn tài liệu từ sách vở chỉ có tính chất bổ sung, chủ yếu để cung cấp số liệu và mở rộng kích thước lịch sử, từ đó, tăng tính thuyết phục cho những vấn đề được đề cập. Ví dụ, nói về cuộc họp mặt với khoảng 100 văn nghệ sĩ tại Hà Nội của Nguyễn Văn Linh vào ngày 6 và 7 tháng 10 năm 1987, Huy Đức quay trở lại với thời Nhân Văn Giai Phẩm, hoặc xa hơn nữa, thời Trường Chinh viết “Đề cương văn hóa” năm 1943, thậm chí, một chút, về lịch sử báo chí Việt Nam trước đó. Nói về kinh tế thị trường (lần đầu tiên được đưa vào các văn kiện Đảng là năm 1991), anh quay trở lại vấn đề “lược sử kinh tế tư nhân” ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19, đặc biệt, đầu thế kỷ 20, dưới thời Pháp thuộc. Nói về các chính sách đối với người Hoa vào những năm 1978-79, anh quay lại quan hệ giữa Việt Nam (chủ yếu là miền Bắc) với Trung Quốc trong Hiệp định Geneve năm 1954 cũng như trong suốt cuộc chiến tranh Nam Bắc thời 1954-75, bao gồm cả chuyện Hoàng Sa năm 1974, v.v.. Những tài liệu này, thật ra, không mới, nhưng chúng được tŕnh bày một cách gọn ghẽ, sáng sủa và mạch lạc, làm cho vấn đề có thêm bề dày của lịch sử.

    Nhưng mặt mạnh nhất của Huy Đức là ở tư cách nhà báo. Không những chỉ là người làm báo lâu năm, anh c̣n có ba đặc điểm mà không phải nhà báo kỳ cựu nào cũng có: Một, quan hệ rộng; hai, có tầm nh́n dài; và, ba, có cách làm việc khoa học.

    Tôi gặp Huy Đức một lần ở Hà Nội, h́nh như là vào cuối năm 2002 hay đầu năm 2005 ǵ đó. Buổi sáng, tôi đang ngồi uống cà phê với nhà thơ Phan Huyền Thư và nhà phê b́nh Phạm Xuân Nguyên th́ anh và nhà phê b́nh Nguyễn Thanh Sơn đến nhập bọn. Phạm Xuân Nguyên giới thiệu Huy Đức với tôi: “nhà báo, đang làm ở tờ Thời báo Kinh tế Sài G̣n”. Lúc ấy, Huy Đức chưa có Osin blog, chưa có các bài b́nh luận chính trị được phổ biến rộng răi trên internet, cho nên, thú thật, tôi không hề biết anh, kể cả cái tên. Mà Huy Đức cũng rất ít nói. Hôm ấy, anh chỉ ngồi nghe bọn tôi nói hươu nói vượn về chuyện văn chương và cười. Đến lúc Phạm Xuân Nguyên đọc một số bài ca dao mới chế giễu giới lănh đạo Việt Nam, trong đó, có cả Hồ Chí Minh, cả bọn cười ngất, riêng Huy Đức th́ lôi trong túi ra một cuốn sổ tay nhỏ và đề nghị Nguyên đọc lại, chầm chậm, cho anh chép. Sau đó, trong suốt buổi nói chuyện, cứ hễ bắt gặp một câu ǵ hay hay, một chi tiết ǵ thú vị, anh lại lôi sổ tay ra chép. Cung cách làm việc của anh khiến tôi để ư. Và nhớ măi.

    Nhiều người trong giới nhà báo có ưu điểm là biết rộng nhưng phần lớn lại mắc phải khuyết điểm là sa đà trong các sự kiện có tính chất giai thoại vụn vặt, cuối cùng, chỉ viết được những bài báo ngăn ngắn, đầy tính thời sự, để được đọc ngày hôm trước và bị quên lăng ngay vào ngày hôm sau. Huy Đức, khi theo dơi và ghi chép các tin tức hằng ngày, đă có tham vọng sử dụng cho một bức tranh toàn cảnh về sinh hoạt chính trị Việt Nam thời anh đang sống. Cuốn Bên Thắng Cuộc, gồm hai tập, “Giải phóng” và “Quyền bính”, như anh tiết lộ trong lời nói đầu, được h́nh thành trong 20 năm, chính là kết quả của tham vọng ấy.

    Không phải nhà báo nào cũng có quen biết nhiều, đặc biệt trong giới lănh đạo, như Huy Đức. Ở Việt Nam, để có được những quan hệ rộng răi như thế, không những cần có tính cách thích hợp (quảng giao) mà c̣n có cả yếu tố “nhân thân” nữa: Sinh trưởng ở miền Bắc, vốn là sĩ quan, từng làm việc ở Campuchia với tư cách chuyên gia quân sự trong hơn ba năm trước khi về làm báo, anh có đủ điều kiện để được tin cậy. Chính v́ thế, anh được báo Tuổi Trẻ giao trách nhiệm tường thuật các kỳ họp Quốc Hội, ở đó, anh có thể, ở “những thời điểm nóng bỏng nhất”, “vào tận pḥng làm việc hỏi chuyện Thủ tướng Vơ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải” hoặc “đến nhà riêng, văn pḥng làm việc của Tổng bí thư Đỗ Mười, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu… phỏng vấn”. Trong “Mấy lời của tác giả”, anh cho biết anh đă tiến hành “hàng ngàn cuộc phỏng vấn”; và theo “Lời cám ơn”, chúng ta được biết, trong số những người được anh phỏng vấn, ngoài các tên tuổi nêu trên, c̣n có Chủ tịch Nước Lê Đức Anh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương, Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị B́nh, v.v.. Cả trăm người. Toàn những người lănh đạo ở bậc cao nhất trong nước. Ngoài ra, anh c̣n phỏng vấn vợ họ, con họ và các thư kư riêng của họ nữa.

    Chắc chắn không có một nhà báo hay nhà biên khảo nào ở hải ngoại, kể cả người ngoại quốc - vốn vừa ít bị nghi ngờ vừa được các trung tâm nghiên cứu lớn tài trợ để có thể bỏ ra năm bảy năm thu thập tài liệu cho một cuốn sách - có thể tiếp cận được đến chừng ấy người trong giới lănh đạo Việt Nam. Ở trong nước, làm được điều ấy, cũng không phải dễ. Nh́n từ góc độ xuất bản, có lẽ Huy Đức là người đầu tiên. Điều này trở thành một thế mạnh đầu tiên của cuốn sách: Đó là chuyện kể từ những người trong cuộc của “bên thắng cuộc”. Tính chất “trong cuộc” ấy đă tạo nên những đặc trưng về thể loại và thẩm mỹ của cuốn sách.

    Trong cái gọi là đặc trưng thẩm mỹ ấy, tôi chỉ xin tập trung vào một điểm: sự hấp dẫn.

    Phải nói ngay: hiếm có cuốn sách về chính trị nào hấp dẫn như cuốn Bên Thắng Cuộc. Điều đó có thể thấy qua những tiếng ồn nó gây ra trong mấy tháng vừa qua. Lâu lắm rồi, giới cầm bút Việt Nam hầu như hoàn toàn bất lực trong việc gây ồn. Hầu hết sách báo được xuất bản ở trong nước cũng như ở hải ngoại, đặc biệt ở hải ngoại, đều rơi vào im lặng. Không phải chỉ là chuyện hay hay dở. Mà chủ yếu ở tâm lư quần chúng: dửng dưng. Cuốn Bên Thắng Cuộc, ngược lại, ngay từ lúc mới ra mắt ở hải ngoại, là đă gây ồn ào ngay. Kẻ bênh người chống, bên nào cũng xôn xao và lên tiếng ỏm tỏi trên mọi diễn đàn, từ trên giấy đến trên mạng. Những tiếng ồn ấy khiến cả những người chưa đọc cuốn sách, hoặc có khi, không có ư định đọc cuốn sách, cũng quan tâm, thậm chí, như ở California, xuống đường biểu t́nh đ̣i… đốt sách!

    Mà Bên Thắng Cuộc hấp dẫn thật. Đọc, chúng ta biết được rất nhiều chuyện, từ những chuyện lớn liên quan đến chính sách đến những chuyện nhỏ, có khi nhí nhách nữa, liên quan đến đời sống hàng ngày của một số người. Lớn, ví dụ, những toan tính đằng sau các chính sách hay chiến dịch có ảnh hưởng đến sinh mệnh cả hàng chục triệu người; những thay đổi trong tính cách của Lê Duẩn: từ một cán bộ hay hy sinh cho người khác đến một lănh tụ chuyên quyền và độc đoán; trong thái độ của Trường Chinh: từ một người giáo điều và bảo thủ đến một người đi đầu trong phong trào đổi mới; trong chủ trương của Nguyễn Văn Linh: từ một người đổi mới đến một người phản-đối-mới. Cũng có thể xem là lớn mối quan hệ giữa các lănh tụ với nhau, như giữa Lê Duẩn với Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Vơ Nguyên Giáp và Lê Đức Thọ; giữa Nguyễn Văn Linh với Vơ Văn Kiệt, những chi tiết liên quan đến cái chết của Đại tướng Lê Trọng Tấn vào tháng 12 năm 1986 vốn, theo lời Huy Đức, bị “lịch sử phi chính thống […] xếp vào hàng nghi án” (“Giải phóng”- GP, tr. 151)… C̣n nhỏ th́ nhiều hơn, có khi lôi cuốn người đọc hơn, chẳng hạn, chuyện vào ngày 30/4/1975, trong Dinh Độc Lập không hề có chiếc máy ghi âm nào để thu lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh (GP, tr. 23); chuyện các sĩ quan Bắc Việt đầu tiên vào chiếm Dinh không dám bước vào thang máy v́ thấy nó giống cái… ḥm và họ sợ bị nhốt luôn trong đó (GP, tr. 22); chuyện khuya ngày 5/7/1967, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bị mệt, được đưa vào bệnh viện Quân y 108 để cấp cứu, nhưng vừa đến nơi th́ ông “phát ra một tiếng kêu ‘ặc’ rồi mặt và toàn thân tím ngắt”; mấy tiếng đồng hô sau, ông mất… (“Quyền bính” - QB, tr. 64) Có một số chuyện không biết là lớn hay nhỏ, như chuyện khi Hiệp định Geneva được kư kết, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trưởng đoàn Bắc Việt, không hề biết sông Bến Hải nằm ở đâu (v́ tất cả đều đă được Trung Quốc quyết định giùm!) (GP, tr. 52); chuyện Tôn Đức Thắng, Chủ tịch nước, vốn là thợ cơ khí, nhiều lúc rảnh và buồn quá, lật “chiếc xe đạp của ông ra sửa để giết thời gian” (GP, tr. 120); chuyện Vơ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc pḥng, biết trước vụ tổng tấn công hồi Tết Mậu thân chỉ có một ngày (QB, tr. 67); chuyện khi đón tiếp Tổng thổng Bill Clinton trong chuyến thăm Việt Nam năm 2000, “Bộ Chính trị đă thống nhất là không được cười” (QB, tr. 137), v.v..

    Nhiều chuyện có thể đă được người này người nọ kể đâu đó rồi. Nhưng theo chỗ tôi biết, chưa có nơi nào các chuyện thuộc loại ấy được tập trung với mật độ dày đặc như trong cuốn Bên Thắng Cuộc. Trang nào cũng đầy ắp chi tiết. Có những chi tiết không dễ ǵ t́m được ở những nơi khác, ví dụ: Ở Sài G̣n, trước tháng 4/1975, có bao nhiêu đảng viên Cộng sản nằm vùng? – 735 người! (GP, tr. 27) Cũng ở Sài G̣n, sau tháng 4/1975, có bao nhiêu người ra tŕnh diện để “được đi học tập cải tạo”? – Có 443.360 người, trong đó, có 28 tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sĩ quan cấp uư, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên t́nh báo các loại, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, và 9.306 người trong các đảng phái bị xem là “phản động’ (GP, tr. 29), v.v..(C̣n tiếp)

    ***
    Chú thích: Số trang trong phần chú thích ghi theo bản “Smashworlds Edition” của Bên Thắng Cuộc.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 3 users browsing this thread. (0 members and 3 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 11
    Last Post: 24-07-2011, 11:06 PM
  2. Replies: 13
    Last Post: 29-12-2010, 08:13 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 21-09-2010, 02:50 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •