Page 5 of 5 FirstFirst 12345
Results 41 to 45 of 45

Thread: Bên thắng cuộc - Huy Đức

  1. #41
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay (2)


    Nguyễn Hưng Quốc


    Về thể loại của Bên Thắng Cuộc, có hai khía cạnh cần chú ư: phương pháp nghiên cứu và cách tŕnh bày.

    Về phương pháp, Huy Đức thu thập tài liệu chủ yếu qua các cuộc phỏng vấn, “hàng ngàn cuộc phỏng vấn”, một phương pháp gắn liền với ngành khẩu sử (oral history), một lối viết thịnh hành ở Tây phương từ khoảng cuối thập niên 1960, và trở thành một ngành học ở các đại học Tây phương từ cuối thế kỷ 20. Khẩu sử khác lịch sử. Khác, trước hết, ở nguồn tài liệu: với lịch sử, chủ yếu là các văn bản viết; với khẩu sử, chủ yếu là các lời kể của những người trong cuộc hoặc chứng nhân được thu thập qua các cuộc phỏng vấn. Khác nữa, ở đối tượng: với lịch sử, đó là các tài liệu lịch sử, nói cách khác, lịch sử là lịch sử trên lịch sử; với khẩu sử, đó là kư ức, hoặc kư ức cá nhân hoặc kư ức tập thể. Khác, cuối cùng, c̣n ở tính chất, như là hệ quả của hai cái khác ở trên: trong khi văn bản viết là những ǵ đă được công bố, nghĩa là, thứ nhất, thuộc về công chúng; thứ hai, với những mức độ khác nhau, được xác minh, do đó, được xem là ít nhiều đáng tin cậy; các lời kể trong các cuộc phỏng vấn, ngược lại, gắn liền với từng cá nhân, xuất phát từ kinh nghiệm riêng, chúng có thể bị khúc xạ, bị biến dạng, thậm chí, được “viết lại” theo những thay đổi trong tâm lư của người kể. Nói cách khác, trong khi lịch sử là những ǵ đă được chọn lọc khá kỹ, khẩu sử thường là những vật liệu thô; trong khi những người viết sử như những người làm việc trong các tiệm kim hoàn, những người viết khẩu sử như những người làm việc với vỉa quặng trong các hầm mỏ.

    Tuy nhiên, về bản chất, lịch sử và khẩu sử giống nhau ở khá nhiều điểm. Thứ nhất, chúng đều là những h́nh thức diễn ngôn về quá khứ (discourse about the past) chứ không phải bản thân quá khứ. Quá khứ là những ǵ đă qua và đă biến mất. Diễn ngôn về quá khứ là những tự sự được xây dựng để tái tạo lại quá khứ ấy nhằm đáp ứng một nhu cầu trong hiện tại. Thứ hai, là diễn ngôn, cả lịch sử lẫn khẩu sử đều có tính chất chủ quan, hoặc của một người hoặc của một nhóm người. Thứ ba, do tính chất chủ quan ấy, cả lịch sử lẫn khẩu sử đều luôn luôn được viết lại. Mỗi thời đại hoặc mỗi thế hệ đều cảm thấy có nhu cầu tái cấu trúc kư ức và diễn dịch lại quá khứ, do đó, bao giờ cũng t́m cách viết lại những ǵ các thế hệ đi trước đă viết.

    Về cách tŕnh bày, Bên Thắng Cuộc có tính chất báo chí hơn là lịch sử. Có hai điểm khác nhau căn bản giữa báo chí và lịch sử: Thứ nhất, trong khi lịch sử nặng về phân tích, báo chỉ nặng về miêu tả; thứ hai, trong việc sử dụng tài liệu, kể cả tư liệu lấy được từ các cuộc phỏng vấn, yêu cầu cao nhất đối với lịch sử là mức độ khả tín, nghĩa là cần được đối chiếu và xác minh cẩn thận; với báo chí, là tính chất tươi ṛng của tài liệu; và v́ tính chất tươi ṛng ấy, nhiều lúc chưa chắc chúng đă chính xác, hoặc nếu chính xác, chưa chắc đă có ư nghĩa tiêu biểu đủ để phản ánh thực chất của vấn đề.

    Nh́n Bên Thắng Cuộc như một tác phẩm báo chí dựa trên phương pháp khẩu sử, chúng ta dễ dàng chấp nhận một số khuyết điểm vốn rất dễ thấy trong cuốn sách.

    Thứ nhất, về phương diện cấu trúc, đặc biệt ở tập 2, “Quyền bính”; ở đó, thứ nhất, quan hệ giữa các chương không theo một trật tự logic nào cả; thứ hai, giữa các chương cũng không có sự cân đối cần thiết: có một số chương được viết kỹ và nhiều chi tiết (ví dụ về Nguyễn Văn Linh và Vơ Văn Kiệt) hơn hẳn các chương khác (ví dụ về Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh). Lư do khá dễ hiểu: Huy Đức không hoàn toàn làm chủ nguồn tư liệu của ḿnh. Với những người anh tiếp cận được dễ, anh viết sâu; với những người ở xa, anh viết cạn. Vậy thôi.

    Thứ hai, về vấn đề tư liệu. Huy Đức phỏng vấn rất nhiều người, nhưng không phải TẤT CẢ mọi người ở mọi phía; hơn nữa, anh chưa tiếp cận được những nguồn tài liệu mật của Bộ Chính trị nên nhiều vấn đề vẫn khiến người đọc hoang mang. Trong số đó, có hai vấn đề lớn nhất: Một, việc cuối năm 1967, Hồ Chí Minh thường xuyên sang Trung Quốc dưỡng bệnh và Vơ Nguyên Giáp th́ được cử đi Hungary. Nhiều người cho đó là một cách nghi binh nhằm che giấu ư đồ tổng tấn công vào Tết Mậu Thân. Huy Đức, theo lời kể của một số người, cho hai người bị đưa đi “an trí” để Lê Đức Thọ ra tay thâu tóm quyền lực. Cách giải thích như vậy lại làm nảy sinh nhiều vấn đề khác: chẳng hạn, tại sao Lê Duẩn và Lê Đức Thọ lại tung ra cuộc đấu đá nội bộ ở vào một thời điểm quan trọng, lúc họ cần đoàn kết và tập trung nhất cho một trận chiến quyết liệt như vậy? Hai, Huy Đức cho giới lănh đạo Việt Nam, trong những năm 1976 và 1977, không đánh giá đúng mức sự thù nghịch của Pol Pot đối với Việt Nam và từ đó, tầm vóc của cuộc chiến tranh chống Việt Nam do Pol Pot phát động, và đầu năm 1979, hoàn toàn bất ngờ trước cuộc tấn công của Trung Quốc vào biên giới phía Bắc Việt Nam (GP, tr. 76); tuy nhiên, trước đó, anh lại kể, từ cuối năm 1977, trong chuyến thăm Cần Giờ, Lê Duẩn đă trả lời thắc mắc của một số đảng viên trong huyện ủy: “Các đồng chí hỏi đúng vào một t́nh h́nh cả nước đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu lắm, ngủ không được. Không phải là vấn đề Khmer Đỏ mà là vấn đề ai ở đằng sau Khmer Đỏ, đằng sau Pol Pot. Ta đă đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung Quốc đánh ta thôi.” (GP, tr. 72-3) Biết thế mà vẫn “bất ngờ” là sao?

    Thứ ba, quan trọng nhất, nhiều chương chỉ có tính chất tự sự nhưng lại thiếu hẳn tính chất phân tích, do đó, tuy hấp dẫn, chúng không giải thích được ǵ cả. Ví dụ, trong tập “Giải phóng”, Huy Đức viết về Lê Duẩn khá dài, nhưng phần lớn đều tập trung vào cuộc sống và tính cách của ông: Ông có hai vợ, một ở miền Bắc và một ở miền Nam; lúc ở miền Nam, ông nổi tiếng về nhiệt t́nh và năng lực làm việc không biết mệt mỏi, lúc ra miền Bắc, ông lại nổi tiếng là thích nói chuyện lư thuyết, và khi nói chuyện, có thói quen hay ngắt lời người khác. Nhưng có những điểm quan trọng nhất lại không được phân tích: Một, tại sao Hồ Chí Minh lại tin cậy Lê Duẩn đến độ giao ngay cho ông chức Tổng Bí thư ngay sau khi ông mới ra Hà Nội như vậy? Lúc ấy, chung quanh Hồ Chí Minh, ngoài Trường Chinh vốn đă bị mang tiếng sau vụ cải cách ruộng đất, có rất nhiều tay chân thân thiết, kể cả hai người được ông và nhiều người khác yêu mến: Vơ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng? Hai, tại sao, từ miền Nam mới ra Bắc, hầu như hoàn toàn đơn độc, chỉ trong ṿng mấy năm, Lê Duẩn đă có thể thao túng toàn bộ guồng máy đảng Cộng sản, lấn át quyền hành của tất cả mọi người, kể cả Hồ Chí Minh, như vậy? Ông sử dụng các biện pháp ǵ để xây dựng vây cánh và quyền lực một cách nhanh chóng và hiệu quả như vậy? Ba, tại sao một người nổi tiếng quyền biến và, đến lúc chết, vẫn có uy tín rất lớn, không những ở miền Bắc mà c̣n trên cả thế giới, như Hồ Chí Minh, lại đành nhẫn nhục chịu đựng cảnh bị Lê Duẩn tước đoạt quyền hành mà không hề t́m cách kháng cự như vậy? Đó là những vấn đề giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam hiện đại không thể không đặt ra.

    Những khuyết điểm trên có thể được chấp nhận hoặc bỏ qua nếu chúng ta đọc Bên Thắng Cuộc như một tác phẩm tường thuật về t́nh h́nh chính trị của một thời đại. Mang tính báo chí, Bên Thắng Cuộc gần với khẩu sử hơn lịch sử. Tự bản chất, khẩu sử là kư ức. Với kư ức, quan trọng nhất là câu chuyện chứ không phải phân tích. Mà các câu chuyện trong Bên Thắng Cuộc th́ không những hấp dẫn mà c̣n đa dạng vô cùng. Tính chất đa dạng ấy làm cho bức tranh Huy Đức mô tả trở thành đa diện. Nh́n từ góc độ ấy, chúng ta sẽ thấy có khi ngay cả những chi tiết nhí nhắt nhất cũng có thể hữu ích. Ví dụ, lời tâm sự của bà Nguyễn Thụy Nga (trong sách có lúc viết tên lót là Thụy, lúc lại viết là Thị), người “vợ miền Nam” của Lê Duẩn, về chồng bà: “Trong t́nh yêu anh cũng như con nít” (GP, tr. 117). Câu ấy, tự nó, không tiết lộ được điều ǵ cả. Th́ có người đàn ông nào, trong t́nh yêu, lại không giống con nít? Nhưng nó vẫn giúp người đọc, khi nh́n lại Lê Duẩn, thấy ở ông, ngoài h́nh ảnh một nhà lănh đạo cuồng tín, thủ đoạn và độc đoán, c̣n có một khía cạnh khác: một con người. Những cách nói năng kiểu “thằng này, thằng nọ” của Nguyễn Văn Linh, cũng vậy, đều tiết lộ một cá tính. Đối với người b́nh thường, cá tính thường bị loại trừ từ góc độ nghề nghiệp. Nhưng với các chính khách, đặc biệt khi chính khách ấy nắm giữ vai tṛ lănh đạo, cá tính lại được chú ư v́ nó ảnh hưởng đến chính sách, từ đó, đến đường lối chung, và cũng từ đó nữa, đến cả vận mệnh của đất nước.

    Bên Thắng Cuộc hay, rất hay, nhưng cũng giống như mọi cuốn tường thuật hay khẩu sử, nó là một cái ǵ dở dang. Nó là một khối quặng chưa được tinh chế. Nó cung cấp cho người đọc cả hàng ngàn câu chuyện từ cả mấy trăm người kể khác nhau để người đọc, hoặc các sử gia sau này, so sánh, diễn dịch, phân tích và/hoặc tổng hợp lại để thành một bức tranh hoàn chỉnh hơn.

    Ở trên (bài số 1), tôi có viết điều tôi thích nhất ở Bên Thắng Cuộc là tư liệu. Vậy điều kế tiếp? Đó là quan điểm. Một số người ở hải ngoại, chỉ nh́n vào mấy ḍng lư lịch trích ngang của Huy Đức, thấy anh đă từng là bộ đội, lại là sĩ quan, đă lên tiếng phê phán và tố cáo anh, dù có khi chưa hề đọc trang nào trong cuốn sách. Đó chỉ là một nhận định vội vă và đầy thành kiến. Trong lời nói đầu tập “Giải phóng”, Huy Đức cho biết cuốn sách của anh là “công tŕnh của một nhà báo mong mỏi đi t́m sự thật”. Dĩ nhiên, chúng ta biết, “sự thật” là một khái niệm rất mơ hồ. Và tương đối. Nhưng cách hiểu về cái gọi là “sự thật” ấy của Huy Đức, theo tôi, rất đơn giản nhưng chính xác: Chúng là những ǵ khác hẳn với “những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền” ở Việt Nam. Theo đuổi mục tiêu ấy, không thể nói lúc nào Huy Đức cũng thành công. Đó là điều dễ hiểu. Ai cũng vậy thôi. Có điều tôi cho là đáng khen ngợi nhất ở anh là anh có thiện chí và cố gắng.

    Thiện chí và cố gắng ấy thể hiện ngay ở nhan đề cuốn sách: Bên Thắng Cuộc. Tại sao không phải là “thắng trận” hay “chiến thắng” như hai cách nói khác thông dụng hơn? Tôi nghĩ đó là một lựa chọn. “Thắng trận” chỉ thuần về quân sự. Nhưng đề tài Huy Đức muốn tŕnh bày không phải chỉ là quân sự. C̣n “chiến thắng”? Trong chữ “chiến thắng”, ngoài ư nghĩa “thắng”, c̣n có hai nét nghĩa phụ khác, đi kèm, đến từ chữ “chiến”: chính nghĩa và vinh quang. Không ai dùng chữ “chiến thắng” để nói về kẻ đi đánh lén người khác, chẳng hạn. Chữ “thắng cuộc” hoàn toàn không có những hàm ư như thế. Đánh bài: thắng cuộc. Cá cược: thắng cuộc. Dùng chữ “bên thắng cuộc”, Huy Đức, một mặt, tước bỏ các huyền thoại chung quanh từ “chiến thắng” vốn thường được sử dụng, mặt khác, xem chiến tranh, tự bản chất, như một ván bài về quyền lực. Vậy thôi. Trong ván bài, việc thắng thua tuỳ thuộc may rủi chứ không dính dáng ǵ đến chuyện chính nghĩa hay không chính nghĩa.

    Trong tập “Quyền bính”, ở chương “XVII: Tam quyền không phân lập”, khi nói về những sự thay đổi Hiến pháp ở Việt Nam, Huy Đức viết: “Hiến pháp 1992, v́ thế, đă không tiếp cận được những mô h́nh nhà nước tiến bộ để trở thành nền tảng cho Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền.” (QB. 90) Xin lưu ư: chữ “tiến bộ” đằng sau chữ “nhà nước” và đằng trước cụm từ “nhà nước pháp quyền” ở câu trên hoàn toàn trái ngược với cách hiểu về chữ “tiến bộ” mà giới truyền thông Việt Nam thường sử dụng.

    Trong giới lănh đạo Việt Nam, rơ ràng Huy Đức tỏ ra ưu ái đặc biệt với hai người: Vơ Nguyên Giáp và Vơ Văn Kiệt. Nhưng ngay cả như vậy, ở cả hai, Huy Đức đều nhận thấy những khuyết điểm căn bản của họ: trung thành một cách dại dột. Phê b́nh như thế, Huy Đức thấy được một vấn đề thuộc về bản chất của chế độ. Bản chất được anh viết trong lời nói đầu tập “Quyền bính”: “Hệ thống chính trị, trải qua nhiều thế hệ, càng về sau lại càng có ít khả năng khắc phục sai lầm.” Nhưng nếu nó không có khả năng tự khắc phục sai lầm th́ sao? Ai sẽ đảm nhận trách nhiệm ấy? Câu trả lời nằm trong những điều Huy Đức chưa nói hết: Có thể là bất cứ ai, nhưng chắc chắn là không phải từ “hệ thống”.

    Đó chính là lư do chính khiến báo chí trong nước xúm vào đánh cuốn Bên Thắng Cuộc.

    Dĩ nhiên, Bên Thắng Cuộc không tránh khỏi khuyết điểm. Chả có cuốn sách nào không có khuyết điểm cả. Vấn đề chỉ là nhiều hay ít. Ở cuốn Bên Thắng Cuộc, theo tôi: Ít. Điều thú vị là, hầu hết các sai lầm của anh đều liên quan đến văn học. Trong chương “XI: Campuchia” của tập “Giải phóng”, anh nhận định: “Cảnh giác với người Trung Hoa là điều đă có từ trong máu người Việt Nam. Nhưng, trong lịch sử ngh́n năm kháng cự để tồn tại với ‘thiên triều’, chưa có triều đại nào lại công khai xác định Trung Quốc là ‘kẻ thù truyền kiếp và lâu dài’ trong các văn kiện chính thức như thời Tổng bí thư Lê Duẩn.” (GP, tr. 160). Sai. Huy Đức quên trong B́nh Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trăi có câu này: “Kẻ thế thù đâu thể đội trời chung” (Niệm thế thù khởi khả cộng đái / 念 世讎 豈 可 共 戴). Thế thù: Kẻ thù truyền kiếp. Trong “chương XII: Cởi trói” của cuốn “Quyền bính”, nhân nhắc đến các dấu mốc lớn trong lịch sử báo chí Việt Nam, anh viết : “Thơ Mới, cuối thập niên 1930” (QB, tr. 11). Sai. Thời điểm ra đời của Thơ Mới là đầu chứ không phải cuối thập niên 1930. Trong ṿng chưa tới 10 năm, Thơ Mới đă đi hết một chặng đường. Cũng trong chương ấy, anh trích bài “Ṿng trắng” của Phạm Tiến Duật như sau: “Khói bom lên trời thành những ṿng đen / Và dưới mặt đất sinh ra bao ṿng trắng / Tôi với bạn đi trong im lặng / Khăn tang trên đầu như một số không” (QB, tr. 18). Sai nhiều chỗ. Nguyên văn bài thơ ấy là:

    Khói bom lên trời thành một cái ṿng đen
    Trên mặt đất lại sinh bao ṿng trắng
    Tôi với bạn tôi đi trong im lặng
    Cái im lặng b́nh thường đêm sau chiến tranh.

    Có mất mát nào lớn bằng cái chết
    Khăn tang ṿng tṛn như một số không
    Nhưng bạn ơi, ở bên trong ṿng trắng
    Là cái đầu bốc lửa ở bên trong.

    Ngay cả mấy câu thơ của Nguyễn Duy được trích làm đề từ cho cuốn sách cũng sai:

    Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh
    Bên nào thắng th́ nhân dân đều bại.

    Nguyên văn của Nguyễn Duy như sau:

    Ta mặc niệm trước Angkor đổ nát
    đá cũng tàn hoang huống chi là kiếp người

    Đá ơi
    xin tạc lại đây lời cầu chúc hoà b́nh!

    Nghĩ cho cùng
    Mọi cuộc chiến tranh
    Phe nào thắng th́ nhân dân đều bại…
    (In trong tập Quà tặng, nxb Văn Học, 1990, tr. 78)

    “Nghĩ” khác với “suy”, “mọi” khác với “mỗi”, và “phe” khác với “bên”.

    Cũng như “bên thắng cuộc” khác với “bên chiến thắng”.

    Một điều cuối cùng: Không ít người cho chọn cách tiếp cận từ phía những người thắng cuộc như Huy Đức là một chọn lựa đầy thiên vị, từ đó, bức tranh anh muốn phác họa sẽ bị lệch lạc theo. Theo tôi, không đúng. Thứ nhất, trong mọi lịch sử, những người “thắng cuộc” - xưa là vua chúa, sau này, giới cầm quyền - bao giờ cũng nằm ở vị trí trung tâm, cần được nghiên cứu nhất, bởi chính họ, một cách tích cực hay tiêu cực, quyết định diện mạo của một thời đại và số phận của một dân tộc. Thứ hai, vấn đề không phải lệch lạc hay không. Vấn đề chỉ là ở mức độ. Không có một cuốn sách nào, kể cả lịch sử, chính xác hoàn toàn. Thậm chí, các nhà hậu hiện đại chủ nghĩa c̣n hoài nghi cái gọi là lịch sử nói chung: Họ xem lịch sử như một biểu hiện của đại tự sự (grand narrative), một tham vọng đạt đến cái nh́n bao quát toàn bộ sự thật và thực tại: Với họ, đó là điều bất khả. Hơn nữa, họ xem lịch sử bao giờ cũng gắn liền với một quan điểm và một góc nh́n nhất định: lịch sử (history) là chuyện của ông-ấy, của một gă nào đó (his-story). Chứ không có một lịch sử chung nhất cho mọi người.

    Bên Thắng Cuộc là một tác phẩm hay nhưng dĩ nhiên, như mọi cuốn sách khác, không hoàn hảo. Cái không hoàn hảo ấy cần được hoàn thiện dần dần. Bằng những tác phẩm khác. Điều đó không có ǵ đáng ngạc nhiên. Và càng không đáng phản đối.

  2. #42
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Bên thắng cuộc - Huy Đức

    Tại sao cộng sản miền Bắc thắng trong cuộc đối đầu Nam-Bắc Việt Nam?


  3. #43
    Member
    Join Date
    26-06-2016
    Posts
    551
    Quote Originally Posted by dtkcamau View Post
    Tại sao cộng sản miền Bắc thắng trong cuộc đối đầu Nam-Bắc Việt Nam?
    Hiệp định Geneve 1954 quy định rõ ràng: Vĩ tuyến 17 là ranh giới cuả hai quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Việt Nam Cộng Hoà cuả cùng một lãnh thổ Việt Nam. Cuộc chiến trước 1975 là cuộc chiến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà. Nguyên nhân là lý do ý thức hệ ; Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà muốn nhuộm đỏ Việt Nam Cộng Hòa. Nó không phải là một cuộc nội chiến Nam Bắc như Hoa Kỳ

    Last edited by Hiếu Thiện; 02-05-2020 at 12:56 PM.

  4. #44
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Bên thắng cuộc - Huy Đức

    Ngày 30/4: Đi t́m sự thật, gọi tên và viễn kiến sau 45 năm - BBC News Tiếng Việt


  5. #45
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Bên thắng cuộc - Huy Đức

    Có những “bên thua cuộc” khác
    TS. Đinh Hoàng Thắng
    2020-05-14


    Thế giới là cuộc cờ vĩ đại mà các cường quốc thường là những tay “chơi cờ độn nước”. Kẻ thức thời nên biết chọn loại cờ nào. “Ai cho kén chọn vàng thau tại ḿnh”. Cờ Tàu, tốt muôn đời vẫn là con tốt, kể cả khi nó chiếu được tướng. Cờ Tây, chơi đến tận hàng cuối, tốt có thể về hậu. Nhưng cờ Tây th́ phải đi với nhau đến tận cùng mới có kết quả. Phải biết gắn ḿnh vào thế trận chung với các quân cờ khác, dù đó là vua hay hậu, tượng, xe, để đi đến thắng lợi.

    ____________

    Hệ tư tưởng trong chiến tranh Việt Nam nhiều khi chỉ là lớp vỏ bên ngoài. Ta – Tây – Tàu, giữa đồng chí cùng “phe” vẫn thấu thị được bản chất các sáo ngữ. Sau chiến tranh, những tưởng ư thức hệ hết chỗ đứng. Nhưng không! Cứ mỗi thập kỷ qua đi, dưới lá bài “cùng chung vận mệnh”, một dạng hệ tư tưởng trá h́nh, Bắc Kinh lại đạt được những bước tiến mới trên con đường độc chiếm Biển Đông và bành trướng xuống Đông Nam Á. Cái “vỏ” bốn tốt và mười sáu chữ vàng liệu có cứu được Việt Nam thoát khỏi cuộc xung đột mới trên đất liền hoặc ở tận măi ngoài các đảo xa?


    “Ông Liên Xô bà Trung Quốc…”


    45 năm về trước, ngày 15/5/1975, tại một cuộc mit-tinh lớn ở Hà Nội, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn khẳng định, thắng lợi từ cuộc kháng chiến của Việt Nam “cũng là thắng lợi của các lực lượng xă hội chủ nghĩa”. Mặc dầu tuyên bố thế, nhưng vốn “đi guốc trong bụng” Trung Quốc và Liên Xô nên ông Lê Duẩn biết rất rơ, 30/4/1975 chính là ngày mà ư chí độc lập của người Việt đă cho “đo ván” những kẻ muốn lợi dụng ư thức hệ để chia cắt đất nước, đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc phân tranh dai dẳng.


    Chỉ cần “soi” các mục tiêu sâu xa của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc suốt thời kỳ chiến tranh, có thể thấy anh Cả lẫn anh Hai hẫng hụt như thế nào trước các hiệu ứng ngày 30/4/1975. Bắc Kinh từ 1954 bằng mọi cách đă thao túng Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, với mục tiêu kéo dài, nếu có thể th́ vĩnh viễn, chia cắt giải đất h́nh chữ S, biến nó thành khu đệm để Trung Quốc làm quân bài ngă giá với Mỹ hay cạnh tranh với Liên Xô. Mục tiêu xa hơn nữa là trong quá tŕnh “chống lưng” cho Việt Nam và các lực lượng cộng sản châu Á, Trung Quốc luôn luôn rắp tâm dọn đường để đưa hàng triệu nông dân từ đại lục tràn ngập lănh thổ Đông Nam Á.


    Liên Xô, khiêm tốn hơn, chẳng có tham vọng lănh thổ hay di dân. Tuy nhiên, khi đấu tranh vơ trang ở miền Nam có dấu hiệu mạnh lên, lo sợ ảnh hưởng đến đường lối “chung sống hoà b́nh”, Mátxcơva đă đe Hà Nội chớ giải phóng nửa nước bằng con đường bạo lực! “Đốm lửa” ấy có thể thiêu rụi cả “cánh đồng” cách mạng. Đấy cũng là căn nguyên của cuộc sát phạt “xét đi… xét lại” gây báo tang thương cho một bộ phận tinh hoa trong nội bộ cộng sản Việt Nam. Nhưng với diễn tiến các sự kiện, về sau Mátxcơva đă lần lượt cho hàng loạt đoàn tàu chở đầy ắp các thiết bị và khí tài quân sự sang Hà Nội để viện trợ cho chiến trường.



    H́nh minh hoạ. Tượng Lenin tại Hà Nội AFP
    Một mặt, Liên Xô dùng Việt Nam kềm chân Mỹ, để bản thân được rảnh tay ở trời Âu, đối phó với cả Tây lẫn Đông Âu. Mặt khác, muốn “làm le” với thế giới về sức mạnh của ba ḍng thác, dùng cuộc kháng chiến của Việt Nam để khuếch trương thanh thế với tư cách là “thành tŕ của cách mạng thế giới”. Bên tung bên hứng! Về phần ḿnh, Việt Nam cũng tự nhận đất nước là nơi tập trung các mâu thuẫn thời đại, cho nên “nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa/ vui ǵ hơn làm người lính đi đầu/ trong đêm tối, tim ta thành ngọn lửa!” (Tố Hữu).


    Tuy nhiên, “soi” từ cấp độ đại chiến lược, các đế chế như Trung Hoa hay Xô Viết ít khi chịu làm tù binh cho bất cứ một phương án duy nhất nào. Họ bao giờ cũng chuẩn bị nhiều con bài trong tay cùng một lúc. Nếu cho rằng cả Bắc Kinh lẫn Mátxcơva cũng đều lănh đủ như các “bên thua cuộc” khác với hệ quả không đảo ngược th́ quả là không đúng. Ngay cả trước năm 1975, khi chủ trương ép Việt Nam đánh Mỹ theo tiến độ riêng của mỗi nước thất bại, Trung Quốc và Liên Xô vẫn gây cho Việt Nam một số khó khăn.


    Lịch sử ghi lại hai sự kiện ngoại giao chấn động: chuyến thăm Bắc Kinh (tháng 2/1972) và Mátxcơva (tháng 5/1972) của tổng thống Richard Nixon. Nixon đến Trung Quốc, dù lúc bấy giờ giữa hai nước chưa có quan hệ ngoại giao, nhằm ép Hà Nội kư một hiệp ước ḥa b́nh có lợi cho Mỹ. Nixon hy vọng, sự xích lại gần nhau giữa Mỹ với hai đồng minh hàng đầu của Hà Nội sẽ khiến cho Bắc Việt Nam nhượng bộ trong các cuộc hoà đàm Paris. Nhất là về cuối, lănh đạo Liên Xô bắn thông điệp muốn Việt Nam kết thúc cuộc chiến tranh tỏ ra tốn kém đối với đất nước này.


    Tự nhận là “NATO phương Đông”


    Ngày 15/5/1975, trong khi Bí thư thứ nhất Lê Duẩn từ Hà Nội đang nhiệt liệt gửi đến nhân dân Camphuchia anh em – bạn chiến đấu cùng chiến hào – “ḷng biết ơn vô hạn và t́nh đoàn kết sắt son”, th́ một số đơn vị bộ đội Việt Nam, với súng AK và ba lô con cóc, chỉ sau có một bữa trưa duy nhất liên hoan mừng thắng lợi (đúng trưa 15/5), đă lại lên đường ra tiền tuyến, giáp chiến với Khmer Đỏ đang say máu “cáp Duồn” (chặt đầu người Việt) ngay tại các tỉnh trên biên giới Tây Nam.


    Nhưng cũng gần 4 năm sau thời điểm ấy, chiều 11/4/1979, đại sứ Trung Quốc bên cạnh “Khmer Dân chủ” quần áo nhếch nhác bẩn thỉu, nước mắt đầm đ́a, đă cùng với bảy đồng nghiệp, nuốt hận đào tẩu qua đất Thái Lan. Lần đầu tiên, đại diện của một vương triều trung tâm (Trung Quốc) buộc phải rút khỏi vùng đất chư hầu (Campuchia). Bỉnh bút Naya Chanda trong tác phẩm “Vietnam’s Invasion of Cambodia, Revisited” đă mô tả khoảnh khắc 41 năm về trước, khi các cố vấn Trung Quốc buộc phải lang thang trong rừng già Campuchia suốt 61 ngày, ngủ trong các lều lợp cỏ tranh, ăn đồ hộp trên đường tháo chạy.


    Tuy nhiên, mẻ lưới lớn trước đó Trung Quốc đă “cất” được vào tháng 10/1971 là thay thế Trung Hoa Dân quốc nắm giữ chiếc ghế hội viên thường trực tại HĐBA/LHQ. Trung Quốc trở thành một trong những trung tâm quyền lực có tiếng nói và ảnh hưởng trên vũ đài thế giới. Bắc Kinh c̣n tự xưng là “NATO phương Đông”, khi Đặng Tiểu B́nh sang tận Mỹ để t́m kiếm nguồn đầu tư cho nền kinh tế đang yếu kém của ḿnh. Sau thời điểm đó, Trung Quốc trắng trợn cưỡng chiếm biển đảo của Việt Nam, mở các gọng ḱm trên mặt trận Tây Nam, biên giới phía Bắc và làm chảy máu Việt Nam suốt hơn 10 năm ở Campuchia…


    Nếu giải ảo sâu hơn các động lực chiến lược, trước khi cuộc chiến kết thúc, Trung Quốc đă chuyển chính sách trên đại cục cũng như trong quan hệ với Việt Nam. Tiên liệu được kết quả của chiến tranh, Trung Quốc nhanh chóng triển khai ngay những quân bài mới. Trước lúc Dương Văn Minh gặp đại diện “bên thắng cuộc”, Trung Quốc đă cho người bắt liên lạc, động viên “Big Minh” cầm cự, hứa sẽ đổ quân tiếp viện, giúp Sài G̣n dựng chính quyền mới ở miền Tây Nam bộ.


    Sự thật hắc ám nói trên không chỉ được biết đến qua tiết lộ của Dương Văn Minh, mà c̣n qua nhiều phản ứng cấp thời, cả công khai lẫn bí mật, của ban lănh đạo Ba Đ́nh. Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch từng nhận xét, trong quá tŕnh điều chính sách, Trung Quốc đổi đồng minh như thay đồ lót. Một trong những thay đổi lớn hồi bấy giờ chính là “cái bẫy” mang tên Khmer Đỏ mà Trung Quốc đă dựng ra trước đấy để hiện thực hoá mưu đồ, không chia cắt được th́ tiếp tục làm cho Việt Nam “chảy máu”.


    Vậy là thời kỳ khoác áo ư thức hệ như những anh em đồng chí giữa Hà Nội và Phnom Penh dưới sự bảo trợ của Bắc Kinh chấm dứt. Chiến lược lợi dụng hệ tư tưởng lúc bấy giờ không c̣n tác dụng. Cùng khi ấy, chính sách dùng Việt Nam tiêu hao “đế quốc Mỹ”, để Liên Xô tạo thế cân bằng vũ khí chiến lược trên toàn cầu cũng “cuốn theo chiều gió”. Nghiêm trọng hơn, giai đoạn liền kề, Liên Xô ngày càng mắc phải mưu sâu kế hiểm, rơi vào ṿng xoáy của chiến tranh lạnh và bị kiệt sức trong cuộc chiến tranh giữa các v́ sao.


    Tuy nhiên, do bất an trước các mối hiểm hoạ thường trực của Trung Quốc, chỉ sau cột mốc 30/4/1975 ba năm, vào ngày 3/11/1978, Hà Nội đă kư với Mátxcơva “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác”. Hiệp ước là một văn kiện “có ư nghĩa chính trị xuất sắc” (lời Tổng Bí thư Brejnev). Nhưng chính văn kiện xuất sắc ấy đă cung cấp như một cái cớ để Trung Quốc “dạy cho Việt Nam bài học”. Điều này cho thấy “lá nho” ư thức hệ không chỉ bị xung đột Xô – Trung chôn vùi dưới ḷng sông Ussuri năm 1969, mà t́nh đoàn kết Việt Nam – Campuchia, Việt Nam – Trung Quốc cũng bị tan thành mây khói trong các trận đánh đẫm máu trên chiến trường biên giới Tây Nam (1979) và chiến tranh biên giới phía Bắc (từ 1979 đến 1989).


    Liên Xô – Bên thua cuộc kép


    Trên thực tế, Liên Xô đă phải gánh chịu một t́nh huống “thua cuộc kép”. Chiến tranh kết thúc đă tước mất “cái bẫy để ḱm chân Mỹ”, đồng thời Mátxcơva không đủ lực để bảo vệ Hà Nội khỏi sự trừng phạt của Bắc Kinh. Trong khi ấy, khủng hoảng về kinh tế – xă hội trên đất nước Xô viết ngày càng bộc lộ rơ. Việt Nam và Liên Xô không thể tiếp tục thực thi bản Hiệp ước như cũ. Trên một số lĩnh vực, hợp tác song phương bắt đầu có nhiều dấu hiệu suy giảm. Mátxcơva cắt dần viện trợ cho Hà Nội.


    Thậm chí, đế chế Xô Viết lại dấn bước trên “con đường đau khổ” mới. Liên Xô tiếp tục bị “toang” ở Đông Âu. Để tranh thủ Trung Quốc, Mátxcơva đành phải gây sức ép buộc Hà Nội sớm đưa ra một thời gian biểu rút quân triệt để và dứt khoát khỏi Campuchia. T́nh trạng “thua cuộc kép” này của CCCP và sự tụt giảm trong các mối quan hệ Việt – Xô kéo dài cho đến khi Liên Xô và cả hệ thống xă hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ hoàn toàn vào năm 1991. Và cái kết cục bi thảm của “tấn tṛ đời” ư thức hệ lần này cũng chính là sự tiếp nối các t́nh tiết “sông Ussuri 1969” và “Mekong 1979” mà thôi.


    Như vậy, ư thức hệ thực ra đă chết trong các cuộc đánh nhau giữa Liên Xô với Trung Quốc, Việt Nam với Campuchia, Trung Quốc với Việt Nam. Nhưng chủ nghĩa dân tộc – câu chuyện ngàn năm ấy – bao giờ cũng mới và có sức sống mănh liệt. Vấn đề được thua trong mọi cuộc xung đột chỉ mang ư nghĩa tương đối. “Trong mọi cuộc chiến tranh bất kể bên nào thắng th́ nhân dân đều bại”. Nguyễn Duy đă đúng! Chỉ có người Việt, từ cả hai chiến tuyến, chịu mất mát và khổ đau. C̣n các ông lớn – Mỹ, Liên Xô hay Trung Quốc – họ đều tính lỗ lăi theo hệ giá trị riêng của mỗi bên liên quan đến cuộc chiến. Các cuộc chiến tranh Đông Dương không phải là ngoại lệ.


    Điều lạ lẫm là ngay cả khi Trung Quốc và Liên Xô đă sớm gạt bỏ vai tṛ bung xung của hệ tư tưởng để đi vào “bốn hiện đại hoá” (1976) và “перестройка” (cải tổ, 1986), th́ lănh đạo Việt Nam, tuy đă giương ngọn cờ “đổi mới” (1986) nhưng vẫn kiên định chủ nghĩa quốc tế vô sản, vẫn gắn “độc lập dân tộc” với “chủ nghĩa xă hội”. Bắc Kinh hẳn nhiên đă lợi dụng và gây sức ép tối đa qua các chủ trương nửa vời này (appeasement), buộc Hà Nội đi vào hội nghị Thành Đô (9/1990), để lại những hệ luỵ về sự can dự của Trung Quốc đối với hậu trường chính trị Việt Nam cho măi tới tận hôm nay.


    Theo “Địa-chính trị trong chiến tranh Việt Nam” của James Burnham, chuyên gia phân tích từ Cơ quan T́nh báo Chiến lược (OSS), tiền thân của Cục T́nh báo Mỹ CIA, lịch sử dường như lặp lại một ṿng tṛn định mệnh. Trong một báo cáo đề ngày 20/11/1964, Burnham nhận xét: “Cuộc chiến tại Việt Nam không phải là vấn đề địa phương, vấn đề cục bộ. Đó là một chiến trường quan trọng trong cuộc tranh giành châu Á, Tây Thái B́nh Dương và Biển Đông”.


    Hơn nửa thế kỷ, Biển Đông giờ đây lại dậy sóng dữ. Nhưng lần này, “các vai diễn” thay đổi và lời tiên đoán năm xưa của Kissinger (Việt Nam sẽ phải nhờ Mỹ để xử lư mối bang giao với Trung Quốc) dường như được chứng nghiệm. Covid-19 đảo lộn nhiều thứ, nhưng có một thứ bất biến. Đó là mâu thuẫn Trung – Mỹ sau đại dịch sẽ không thuyên giảm, thậm chí nhiều chuyên gia đánh giá một cuộc chiến tranh thế giới mới, mang tính tổng lực đă/đang diễn ra trên thực tế. T́nh trạng Washington và Bắc Kinh nặng lời công kích và tiến hành trả đũa lẫn nhau trên mọi phương diện đang truyền đi những tín hiệu báo động đến hầu hết các chuyên gia về an ninh quốc tế.


    Nói bang giao Việt – Mỹ quan trọng, nhưng nó luôn quan trọng v́ nhân tố thứ ba là nh́n nhận từ cái lăng kính địa-chính trị nghiệt ngă nói trên. Hiện nay, cuộc cờ khu vực/thế giới ngả theo hướng: Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga và châu Âu đều đang trải qua những biến động dữ dội, khôn lường qua đại dịch Vũ Hán. Mỹ và Trung Quốc đều đang cố gắng khai thác tối đa thất bại của phía bên kia để phục vụ cho lợi ích đối nội, đối ngoại. Các nước đều đang khai triển những bước khác nhau nhưng cùng chuẩn bị cho một cuộc thư hùng mới trong tương lai.


    Mỹ Trung giành nhau “chiếu trên” để tái định h́nh trật tự thế giới, Liên bang Nga (tuy GDP chưa bằng Italy, chỉ ngang một tỉnh lớn của Trung Quốc) vẫn mơ “giấc mơ” của Liên Xô cũ về tầm ảnh hưởng ở Á – Âu. Nói lại câu chuyện “ông Liên Xô bà Trung Quốc/ ông đi guốc bà đi giầy…” trên bối cảnh này là để làm nổi bật cái minh triết của người dân Việt, cái hằng số bất di bất dịch trong bang giao quốc tế. Mọi quốc gia trên đời, lúc nào và bao giờ cũng hành động xuất phát từ lợi ích quốc gia – dân tộc. Mọi mỹ từ vàng son hay có cánh đều chỉ để che đậy cái thực tế nghiệt ngă bên trong.


    “Vỏ” ư thức hệ, “ruột” Đại Hán


    Thật ra từ năm 1968, nhà t́nh báo vĩ đại Phạm Xuân Ẩn, trong một báo cáo mật gửi về Trung tâm, đă thể hiện tầm nh́n sáng suốt của ḿnh khi ông phân tích: “Cuộc đấu tranh chống Mỹ là trước mắt và có thời gian, nhưng kẻ thù nguy hiểm và lâu dài nhất sau này của Việt Nam chính là Trung Quốc, chứ không phải là Mỹ”. Xin được nhắc lại là từ 1968, con người có tên như cuộc đời ấy đă khẳng định như thế. Không rơ, văn pḥng giúp việc các Tổng bí thư ĐCSVN sau này, có sao lưu bức điện với nội dung chiến lược quan trọng ấy cho các thế hệ lănh đạo sau 1990?


    Nhiều nhà nghiên cứu khác trong và ngoài nước cũng đều nhấn mạnh đến cái gọng ḱm địa-chính trị của Trung Quốc đối với Việt Nam là vấn nạn thiên thu, dù dưới màu sắc ư thức hệ như thời chiến tranh hay là tham vọng Đại Hán như ngày nay. Và vị thế địa chính-trị ấy cũng lại là con dao hai lưỡi, nó có thể giúp đất nước vươn lên, nhưng cũng có thể đẩy lùi một Việt Nam loay hoay giữa ngă ba đường vào thời kỳ Bắc thuộc mới và kéo dài như sinh thời ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đă cảnh báo.


    Trong công hàm gần đây nhất ngày 17/4/2020 gửi Tổng thư kư LHQ, Trung Quốc đă “cương quyết yêu cầu Việt Nam rút tất cả người và vật dụng trên các đảo và đá ở Trường Sa”. Rơ ràng, giải pháp đối với Việt Nam lúc này là phải sớm hội nhập vào không gian Ấn Thái Dương tự do và rộng mở (FOIP) để huy động bằng được sức mạnh toàn diện của dân tộc và của quốc tế. Khó có thể tin rằng sự giàn xếp sau hậu trường giữa hai đảng cộng sản về “kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xă hội” hay “vận mệnh tương thông, văn hoá tương đồng” có thể làm thay đổi chính sách “sát ván” của Bắc Kinh đối với Hà Nội.


    Càng để lâu t́nh h́nh bất định như hiện nay, Việt Nam càng tiếp tục bị Trung Quốc lợi dụng, thế giới hiểu nhầm. Trung Quốc đang gấp rút biến các đảo cưỡng chiếm thành chuỗi căn cứ giúp họ có đủ sức mạnh để cấm đoán tàu bè qua lại. Bắc Kinh hoàn toàn phớt lờ các phản kháng của Hà Nội, khiến cho sự chia rẽ trong nội bộ Việt Nam ngày càng sâu sắc.


    Thế giới là bàn cờ vĩ đại mà các cường quốc thường là những tay “chơi cờ độn nước”. Việt Nam muốn hay không cũng đang trong bàn cờ chung ấy. Vấn đề là phải thức thời, biết chọn chơi loại cờ nào? “C̣n như vào trước ra sau/ Ai cho kén chọn vàng thau tại ḿnh” (Nguyễn Du). Cờ Tàu, tốt muôn đời vẫn là con tốt, kể cả khi nó chiếu được tướng. Cờ Tây, chơi đến tận hàng cuối, tốt có thể về hậu. Việt Nam có cơ để trở thành một cường quốc tầm trung. Nhưng cờ Tây th́ phải đi với nhau đến tận cùng mới có kết quả. Phải biết gắn ḿnh vào thế trận chung với các quân cờ khác, dù đó là vua hay hậu, tượng, xe, để đi đến thắng lợi.


    Có thể chia sẻ với TS. Đỗ Kim Thêm từ “Diễn đàn Thương mại và Phát triển LHQ” (UNCTAD): Tỉnh thức về thân phận của dân tộc là vấn đề kiến thức, xác định ư muốn để thay đổi là vấn đề của quyết tâm chính trị, vấn đề của sự chọn lựa! Chúng ta cùng giúp nhau tỉnh thức trong t́nh tự dân tộc. Đất nước đang đứng trước nguy cơ! Hy vọng, hồn thiêng sông núi vẫn phù hộ cho con dân nước Việt. Đất nước mỗi khi lâm nguy chắc chắn sẽ xuất hiện một Trần Nhân Tông hay một Lê Thánh Tông, kể cả nếu gốc gác là nông dân th́ chí ít cũng phải có một khát vọng lớn như anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.


    *


    Sự hung hăng của Trung Quốc trong cuộc trường chinh “Nam tiến” ngày càng đặt Việt Nam trước t́nh thế không thể kéo dài măi chính sách “lửng lơ con cá vàng”. Việt Nam không thể chần chừ giữa ngă ba đường. Người dân sau đại dịch đang kỳ vọng lănh đạo sẽ chớp được thời cơ có một không hai hậu Covid-19 để hành động. Phải khắc phục ngay t́nh trạng không b́nh thường trong nội trị và ngoại giao. Bời những ai quan tâm đến thời cuộc đều lấy làm tiếc, v́ niềm tin của quần chúng vừa mới le lói sau đại dịch nay lại đang mất dần qua phiên giám đốc thẩm về tử tù Hồ Duy Hải, hay xử sơ thẩm vụ người mẹ đơn thân đánh BOT Huệ Như.


    Liệu cái khung khổ “cùng chung vận mệnh” có cứu Việt Nam thoát khỏi một cuộc xung đột mới do Trung Quốc gây ra trên đất liền hoặc ở tận măi ngoài các đảo xa? Liệu lời kêu gọi phải bám chặt lấy thị trường Trung Quốc để phát triển có khả thi, khi cả về tŕnh độ marketing lẫn tiền bạc doanh nhân Việt vẫn c̣n dưới cơ các nhà buôn Tàu. Nhưng xử lư các vấn đề làm ăn với Trung Quốc như thế nào khi như chính các chuyên gia phải thừa nhận, chúng ta chưa có chủ nghĩa dân tộc về kinh tế? Các chuyên gia cảnh báo rằng, bối cảnh cả chính trị lẫn kinh tế hiện nay khác xa với năm 2000, nhất là giờ đây Trung Quốc đă chế ngự được Lào và Campuchia, khóa chặt lối ra bán đảo Đông Dương của Việt Nam./.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 11
    Last Post: 24-07-2011, 11:06 PM
  2. Replies: 13
    Last Post: 29-12-2010, 08:13 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 21-09-2010, 02:50 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •