Page 2 of 3 FirstFirst 123 LastLast
Results 11 to 20 of 23

Thread: Tên phản bội cộng đồng Phạm Duy vừa mới qua đời

  1. #11
    Chín-đờn-c̣
    Khách

    Phạm Duy đă chết nhiều lần; hôm nay mới chết thật sự!

    Phạm Duy không chỉ bị mang tiếng ... thiên hạ chửi khi ông ta quay trở lại "bưng bợ" vẹm cộng để được cầm trên tay tờ giấy chứng minh nhân dân "sống trong chuồng" XHCN VN; mà ngay từ những năm của thập niên 70 (trước "dấu mốc" 30/4/1975) thiên hạ đă coi như Phạm Duy chết rồi!
    Do đó danh xưng "bố già âm nhạc VN" chỉ là do những "thằng" nhà báo có tính nịnh bợ thêu dệt lên, đọc riết thành ra quen, cứ tưởng Phạm Duy là gốc cổ thụ sống trăm năm ...

    Mời bạn đọc thưởng lăm bài viết sau đây, Chín tui "copy & paste", từ bên trang báo điện tử Đàn Chim Việt:

    Tài năng và nhân cách: Phải chăng Phạm Duy đă giết Phạm Duy?

    Phạm Duy. Ảnh Việt Báo

    Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy c̣n đó hay đă chết? Sở dĩ cần có sự sửa chữa là v́ tôi được đọc hai bài của giáo sư John C. Schafer, giáo sư đại học Hubold State University. Một bài viết về Phạm Duy, một bài về Trịnh Công Sơn. Trinh Cong Son Phenemenon và The curious memoirs of the Vietnamese composer Pham Duy.(1)
    (1) Xin vào Google kiếm t́m

    Phải nh́n nhận theo thói quen làm việc của người Mỹ, ông John C.Schafer tra cứu rất nhiều tài liệu, dẫn chứng đầy đủ đến nơi đến chốn. Có những tài liệu dẫn chứng khiến tôi giật ḿnh. Chẳng hạn ông dẫn chứng một tài liệu trong tờ Nghệ Thuật, số 38-39, tháng 3, 1995, một tờ báo ở ngay chính địa phương tôi ở mà tôi vô t́nh không để ư tới. Thứ hai, ông tránh được thiên khiến và ít đưa ra những phê phán tiêu cực.

    Nhưng cũng v́ thế, ông tránh đề cập đến những “liên hệ có thể” của Trịnh Công Sơn với phía cộng sản qua bạn bè của họ Trịnh như Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như việc TCS hát trên đài phát thanh Sai gon vào ngày 30 tháng 4. Những mối liên hệ này đă được ông Nguyễn Thanh Ty trong bài viết: ” Một quăng đời của TCS” trong đó có phần lật tẩy “Nguyễn Đắc Xuân” trong bài viết : “Trịnh Công Sơn Cao Nguyên bụi đỏ sương mù”. Trong tài liệu của ông Nguyễn Thanh Ty cho hay ngay trong giới đồng nghiệp của Trịnh Công Sơn ở Bảo Lộc đă chia rẽ ra hai phía rơ rệt. Kẻ lên án, kẻ không. Ông John.C Schafer cũng đọc tài liệu này, nhưng không nhắc nhở tới dư luận, tới những vấn đề tranh luận chung quanh TCS. Nhất là những tranh luận ngay sau khi TCS chết như với bài viết mở đầu cho những tranh luận: Bi kịch Trịnh Công Sơn của họa sĩ Trịnh Cung. Đó là những vấn đề nhậy cảm mà ông John. C. Schafer tránh đề cập tới.

    Nhưng trong hoàn cảnh VN- một hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt trước cái sống chết trong gang tấc- Không thể nào mà không có chọn lựa chính trị. Đó là một chọn lựa cho mỗi người VN. Cho nên những bài hát của họ Trịnh hay Phạm Duy- dù là mang đậm nét nghệ thuật- dù là tính nhân bản hay triết học cao- cũng xuất phát từ những hoàn cảnh chiến tranh VN. Chẳng hạn khi nói về những xác chết, về những bom đạn, về sự tàn phá man rợ của chiến tranh th́ vẫn là chiến tranh nào? Xác chết ấy do đâu mà đến?

    Mỗi xác chết, dù là đàn ông, đàn bà, trẻ con- dù chết ở đồng ruộng hay chết bờ chết bụi th́ cũng có một danh tính, một lư lịch. Và kẻ cầm súng nào th́ cũng có một sắc phục, một mầu cờ ..Không có cái chết chung chung, chết t́nh cờ, nhưng không !! Vấn đề là con ngươi đứng ở góc độ nào để nh́n những xác chết ấy.

    Bài viết về Phạm Duy của ông John. C. Schafer chủ yếu dựa trên Hồi kư của Phạm Duy mà ông dùng làm tựa đề: The curious memoirs of the Vietnamese composer Pham Duy (Tất cả những bài viết trên đây, mọi người có thể t́m thấy dễ dàng khi bấm vào Google.com sẽ t́m đọc được, nhưng nhiều bài chỉ có trích đoạn) . V́ thế phần không nhỏ của bài viết đưa ra thật đầy đủ chi tiết về những mối t́nh lớn nhỏ của ông Phạm Duy. Tuy nhiên, giá ông dựa thêm vào cuốn Ngàn lời ca th́ sẽ làm rơ hơn trong trường hợp nào, Phạm Duy đă sáng tác được bài nọ, bài kia.
    Tuy nhiên v́ tránh những mặt tiêu cực trong viêc sàng tác của Phạm Duy, ông J.C. Schafer không triển khai đủ sự vay mượn, sự thay đổi ca từ, sự bắt chước, sự theo thời của một thứ chủ nghĩa cơ hội của Phạm Duy.v.v.

    V́ thế, sự chọn lựa thái độ viết một cách bàng quan của giáo sư John. C. Schafer vẫn là sự chọn lựa của một người ngoại cuộc, đứng ngoài nh́n vào. Mặc dù ông đà nhiều năm sống ở Việt Nam, lấy vợ VN, rất am tường văn hóa VN, yêu mến VN nữa. Ông phân tích và hiểu sâu sắc việc xử dung ngôn từ một cách diệu ảo của TCS trong các bài nhạc. Nhưng có thể ông chỉ nh́n những nhạc sĩ này như những nghệ nhân thuần túy bất kể đến hoàn cảnh sáng tác của họ. Đó là họ đang sống, đang sáng tác từ một hoàn cảnh chiến tranh. Chính hoàn cảnh chiến tranh đă khơi nguồn cho những sáng tác của họ. Bài viết của ông J.C Schafer v́ thế thiếu một sự quân b́nh cần thiết về công việc sáng tác và hoàn cảnh sáng tác.

    Bài viết của tôi chủ yếu chỉ viết về Phạm Duy và tôi muốn nhấn mạnh tới tiến tŕnh sáng tác một bản nhạc của ông trong bối cảnh hai cuộc chiến tranh ấy.

    Nói về “cái chết” của Phạm Duy, tôi chỉ lặp lại điều mà Nguyễn Trọng Văn dùng trong bài nói truyện tại trường Đại Học Văn Khoa Sàig̣n vào ngày 6-6-1971, do phong trào Tự Trị Đại Học tổ chức. Đề tài với nhan đề: Phạm Duy đă chết như thế nào?

    Bài nói chuyện của Nguyễn Trọng Văn nói về cái chết của Phạm Duy nhấn mạnh tới góc cạnh tha hóa chính trị của Phạm Duy mà NTV coi là sự phản bội lư tưởng và một cách lôgich Phạm Duy bị coi như đă chết- một thứ tự sát- mặc dầu ông vẫn sống .. Phần bài viết này phản biện lại bài viết của Nguyễn Trọng Văn ..Phạm Duy không chết ở phạm vi chính trị, nhưng nếu PD có chết th́ cái chết ấy ở phạm vi đức lư giữa tài năng và nhân cách của nhạc sĩ PD. Tài năng lớn phải đi đôi với một nhân cách lớn tương xứng.

    Bài nói chuyện của NTV thời ấy hẳn gây được tiếng vang trong giới văn học miền Nam lúc bấy giờ. Bởi v́ ít nhạc sĩ nào có thể so b́ được với Phạm Duy.
    Cùng lắm trừ một người. Trong cuốn Về một quăng đời của TCS (tác giả Nguyễn Thanh Ty gửi cho tôi ở dạng bản thảo lúc chưa in thành sách, sau này tác giả tự xuất bản vào năm 2004) có kể rằng, khi cùng ở Blao, TCS có kể về Sài G̣n bán bản quyền bài hát ” Chiều một ḿnh qua phố” cho Duy Khánh với giá bán đứt bản quyền là 3000 đồng. TCS kỳ kèo th́ được Duy Khánh trả lời: “Phạm Duy là đắt nhất mà cũng chỉ tới 5000 đồng là cùng, ông là nhạc sĩ mới, gíá vậy là cao lắm rồi”(2)
    (2)Trích Về một quăng đời của Trịnh Công Sơn, Nguyễn Thanh Ty, bản thảo.

    Cho nên chọn Phạm Duy mà không chọn ai khác là một chọn lựa chính trị có chủ đích của Nguyễn Trọng Văn. Cứ bề ngoài th́ Phạm Duy là một người đă bỏ hàng ngũ kháng chiến nay là một người quốc gia “Chống Cộng”. Đánh đúng vào cái thành tŕ tiêu biểu là giới trí thức thành thị miền Nam, đánh vào người nghệ sĩ nổi tiếng nhất và được quần chúng ưa chuộng nhất lúc bấy giờ. Đồng thời tước đi cái ảo tưởng của một ư thức hệ Quốc Gia trong chiến tranh sắp đến hồi chung cuộc.

    1. Theo Nguyễn Trọng Văn, Phạm Duy đă chết v́ phản bội lại kháng chiến?

    * Phạm Duy chối bỏ kháng chiến
    Nguyễn Trọng Văn đă nghĩ như thế. Đă viết để chứng minh điều ấy. Nguyễn Trọng Văn cho rằng đă có rất nhiều thanh niên đă theo kháng chiến và sau đó đă dời bỏ kháng chiến. Nhưng việc dời bỏ kháng chiến của Phạm Duy là khác. NTV viết: “Trí thức theo Cách Mạng và bỏ cách mạng không phải là điều khó hiểu, trách Phạm Duy như vậy có lẽ quá khắt khe.
    Điều mà Nguyễn Trọng Văn lên án Phạm Duy không phải ở chỗ từ bỏ kháng chiến mà chối bỏ và hơn thế xóa bỏ kháng chiến. Xóa bỏ bằng cách thay đổi lời ca trong các bài nhạc làm trong thời kỳ kháng chiến.(3)
    (3) Trích: Nguyễn Trọng Văn, Phạm Duy đă chết như thế nào, nxb Văn Mới, trích tóm tắt các trang 33-34
    Phải chăng Phạm Duy đă sửa toàn bộ các lời ca có dính dáng đến kháng chiến? Không hẳn như thế. Nguyễn Trọng Văn đă tổng quát hóa đến mức vu vạ cho Phạm Duy. Ông chỉ thay đổi một số từ liên quan xa gần đến thời kháng chiến như tên Hồ Chí Minh, Vệ Quốc quân vv.. và để cho thuận nghe, ông bắt buộc phải đổi cả câu Và Nguyễn Trọng Văn kết luận:

    Phạm Duy kháng chiến ca của dân tộc đă chết. Điều bi đát không phải bông hoa Phạm Duy chỉ nở một lần, điều bi đát là bông hoa đó đă tự chọn cái chết như vậy.
    “Khi Phạm Duy trở về, da mặt ông sần sượng hơn và dày thêm hai ly, máu ông đen lại, tim ông trở thành đá, đàn đứt hết dây, tiếng nói ú ớ tắc nghẹn.. (..) Chính Phạm Duy đă dứt dây đàn khi từ Mỹ về, chính Phạm Duy đă tự cứa cổ và nhét một quả táo thật lớn đầy mồm..(..)n T́nh tự dân tộc, hùng khí kháng chiến rung động quê hương thân yêu không c̣n nữa, chúng ta đứng trước một người xa lạ. Có một khoảng cách thật lớn chia cắt Phạm Duy với mọi người “.(4)
    (4)Trich Nguyễn Trọng Văn, Ibid , trang 39-41

    Nguyễn Trọng Văn đă dùng cả một cuốn sách để mạt sát Phạm Duy. Nhưng về một số điểm, có thể Nguyễn Trọng Văn nói không sai, Phạm Duy không những sửa một lần mà sửa hai ba lần những bài ca của ông. Và tùy thời, tùy lúc mà ông đă sửa. Điều đó nhiều lúc làm tôi không thể không liên tưởng đến một thái độ xu thời hay một thứ chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa thực dụng với một nhạy bén chính trị. Sự nhạy bén chính trị đó đáp ứng bằng những sáng tác hợp thời cơ? Từ đó đặt ra vấn đề sáng tác là nguồn cảm hứng đích thực hay chỉ là một nhu cẫu đ̣i hỏi cấp thời của một t́nh thế?

    Tại sao ở thời điểm đó có kháng chiến ca, t́nh ca, đạo ca, tâm ca, tục ca? Đó cũng là những suy nghĩ và ngờ vực của tôi khi t́m hiểu về Phạm Duy? Tâm ca của ông có thực sự do những rung động chân thành khổng? Đặng Tiến cũng đặt những câu hỏi nghi ngờ như thế. Và người ta đă chẳng ngại ngùng ǵ nói đến một thứ trí thức for rent. Hơn ai hết Phạm Duy hiểu thâm ư của lời mỉa mai này. Chẳng hạn Nguyễn Trọng Văn đưa trường hợp bản nhạc Quê Nghèo trước đây ca ngợi t́nh quân dân đoàn kết chiến đấu nay trở thành câu chuyện t́nh bông lơn, tán tỉnh nhau.

    Lời cũ: Bao giờ anh lấy được đồn Tây hỡi anh
    Để em gánh nước cho người chiến binh

    Nay đổi ra:
    Bao giờ em trỏ lại vườn dâu hỡi em
    Để cho anh bắc gỗ xây nhịp cầu bước sang
    Đến Vườn dâu mà cũng phải bắc gỗ xây nhịp cầu th́ kể cũng lạ. Có ép ư, ép lời không?

    (c̣n tiếp)

  2. #12
    Chín-đờn-c̣
    Khách
    (Tiếp theo)

    Trong Bài hát Tiếng sông Lô, cũng cùng một cách thay đổi như trên:

    Lời cũ: Quân cướp tham ô ngày nao đă chết không ngờ

    Nay đổi ra: Trăng nước mông mênh, thuyền trôi trên sóng đa t́nh

    - Và nhất là bài Bà Mẹ Gio Linh đă được sửa đổi một cách không nuối tiếc với ba lần in và sửa khác nhau:

    Lời cũ: Nhà th́ Tây đốt c̣n đâu
    Ta vui câu chuyện Bác Hồ
    Mẹ mừng con giết nhiêu Tây
    Ra công xới vun cấy cầy (..)

    Lời mới: tuyển tập xuất bản tại Việt Nam
    Nhà th́ nó đốt c̣n đây
    Khuyên nhau báo thù phen nầy
    Mẹ mừng con đánh giặc hay
    Ra công xới vun cấy cầy
    Ta yêu con ta, môi trắng bết mầu cờ
    Lời mới, tuyển tập Dân ca, Mỹ in và phát hành tại Mỹ
    Nhà th́ nó đốt c̣n đây
    Khuyên nhau báo thù phen này
    Mẹ mừng con đánh giặc hay
    Ra công xới vun cấy cầy
    Ta yêu con ta, môi thắm bết máu nḥa

    Từ đánh giặc Tây trong quân đội Bác Hồ. Chữ nó được sửa lại th́ nó là ai đây? Nó đây bây giờ phải được hiểu là Việt công- quân đội cụ Hồ -.

    Nguyễn Trọng Văn cũng đă hết lời ca ngợi tiếng Sông Lô nói lên tất cả cái khí thế hào hùng, mưu trí và óc sáng tạo tuyệt vời của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp, nay trở thành lời tâm sự của nghệ sĩ đa t́nh t́m kiếm hạnh phúc trên ḍng sông sâu. Nguyễn Trọng Văn thất vọng là phải.

    Lời cũ: Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
    Thuyền tôi đợi bến Tuyên Quang
    Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ anh (….)

    Lời mới:
    Hỡi ai đi kiếm hạnh phúc trên đời
    Mà chưa t́m thấy an vui
    Lặng nghe tôi gửi đôi lời gió trăng …

    Nguyễn Trọng Văn kết luận:

    “Các sáng tác trong thời kháng chiến đều được Phạm Duy sửa lại lời, mất hết lịch sử tính và chiến đấu tinh, chỉ c̣n là những bản của những tên lại cái, đồng cô bóng cậu” .(5)
    (5) Trích NTV, Ibid, trang 34

    Nhưng nếu NTV biết rằng sau này ở hải ngoại, tôi lại t́m thấy trong Ngàn lời ca, Phạm Duy lại một lần nữa thay đổi bằng cách giữ lại nguyên văn lời cũ như sau:
    Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
    Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang
    Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ (6)
    (6) Trích Phạm Duy, Ngàn lời ca, trang 35.

    Sự thay đổi rơ ràng như thế đặt ra vấn đề nhân cách và nhân tài của người nhạc sĩ. Khi hồi cư về thành, Phạm Duy có thể cứ giữ nguyên ca từ hồi kháng chiến. Và sẽ không có ai có lời trách cứ ông. Nhưng khi có ư định về VN, ông cứ lẳng lặng về. Về mà đổi ca từ để đẹp ḷng Hà Nôi và tuyên bố vung vít “chửi” cộng đồng hải ngoại là không chấp nhận được. Xóa bỏ, thay lại lời khác, rồi lúc cần lại lại lấy lại lời cũ: Anh Vệ Quốc quân.

    Đă mấy ai có thể làm được như Phạm Duy? Nguyễn Trọng Văn không phải là không có lư khi mạt sát Phạm Duy khi ví ông như một thứ điếm sang.

    Nhắc lại trong phần đầu cuốn Hồi kư của ông viết vê ông bố: nhà văn Phạm Duy Tốn để thấy nhân cách bố và con khác nhau lắm. Ông nhăc lại những lời nhận xét và khen tặng của Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Văn Cổn, Vũ Bằng và Thanh Lăng đă viết những lời trân trọng về ông Phạm Duy Tốn. Ông cũng nhắc đến những người bạn tâm giao của ông Phạm Duy Tốn mà nhân cách của họ không thể chối căi được như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Vĩnh, Đỗ Mục th́ ông Phạm Duy quả là người con bất xứng.

    Cũng khó trách ông lắm, mồ côi cha từ sớm, ông là một đứa trẻ tinh nghịch, hoang tàn, phá phách, “quậy” rất sớm.
    Nhưng cũng nên hiểu rằng vào năm 1971, khi Nguyễn Trọng Văn viết cuốn Phạm Duy đă chết như thế nào th́ lúc đó Phạm Duy chưa viết hồi kư. Nếu Nguyễn Trọng Văn có dịp đọc hồi kư rồi th́ cũng có thể có cái nh́n khác về Phạm Duy.

    Và có thể v́ có cơ hội đọc lại Hồi kư Phạm Duy mà tôi thấy cần phải nh́n lại quan điểm phê phán của Nguyễn Trọng Văn.

    Trong hồi kư 1, ông Phạm Duy viết như thế này về hoàn cảnh sáng tác về chiến dịch sông Lô. “Nhưng trong đám nhạc sĩ chúng tôi, lập tức có ngay những tuyệt phẩm như bài Lô Giang của Lương Ngọc Trác, rồi Trường ca Sông Lô của Văn Cao, Du kích sông Lô của Đỗ Nhuận và Tiếng Hát sông Lô của Phạm Duy. Điều đó cho thấy việc sáng tác nằm sẵn trong chiến dịch tuyên truyền nên mới có trường hợp bốn nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài.

    Bốn nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài như một thứ đơn đặt hàng th́ có phí phạm không?

    Phạm Duy viết tiếp. “Nói về cả một chiến dịch th́ chẳng nhừng thắng lợi sông Lô chỉ là những chiến công cục bộ, bởi v́ vào lúc khởi đầu của chiến dịch Léa, gọng ḱm lớn ở miền Đông là Bắc Kạn và Lạng Sơn vẫn c̣n rất mạnh… Những người phục vụ cho Cục chính trị như chúng tôi được khuyến khích để làm cho chiến thắng Sông Lô trở thành một chiến công vô cùng rực rỡ. Bây giờ nếu có ai ṭ ṃ – như tôi – đi t́m đọc những tài liệu của Pháp viết về chiến tranh Đông Dương, sẽ chẳng thấy một ḍng chữ nào cho cái được gọi là Lô Giang của Lương Ngọc tức Lương Ngọc Trác. Bài này duyên dáng, mặn mà vô cùng”.(7)
    (7) Trích Phạm Duy, Hồi kư 1, thời Cách mạng kháng chiến

    Hóa ra đó chỉ là sản phẩm tuyên truyền, mà giá trị nghệ thuật chỉ là phụ, không đáng kể. Mặc dầu vậy đó là những bài hát quen thuộc và nổi tiếng của ông trong thời kỳ kháng chiến.
    Cho nên, không lạ ǵ khi cần, PD đă không nề hà thay đổi tùy tiện tùy theo nhu cầu thực tiễn. Điều đó không khác ǵ Tố Hữu làm thơ ca ngợi chiến trận Điện Biên. Trong một bài trả lời phỏng vấn của Trần Đăng Khoa, Tố Hữu đă nói huỵch tẹt ra là ông đă viết phịa, không hề ra mặt trận.
    Last edited by Chín-đờn-c̣; 28-01-2013 at 06:36 AM.

  3. #13
    Chín-đờn-c̣
    Khách
    (Tiếp theo)

    Phạm Duy có thể viết phịa, sáng tác phịa về trận đánh trên Sông Lô. Tố Hữu cũng đă làm thơ phịa. Đă gọi là sáng tác phịa th́ việc thay dổi lời ca c̣n có ǵ được gọi là phản bội? Phải chăng Nguyễn Trọng Văn đă quá lư tưởng hóa những ư hướng sáng tác thuần túy nghệ thuật của Phạm Duy và cũng v́ thế lời kết án có thêm trọng lượng.
    Thật ra theo tôi hiểu, Nguyễn Trọng Văn đă không biết được trong hoàn cảnh nào mà Phạm Duy đă sáng tác bản nhạc Tiếng hát Sông Lô, cho nên những suy đoán của Nguyễn Trọng Văn v́ thế thiếu cơ sở. PD mới 13 tuổi đầu đă bỏ học, đi lang thang. Đến 25 tuổi mới gặp kháng chiến một cách t́nh cờ lịch sử. Chẳng có chỗ nào cho thấy người nghệ sĩ ấy quyết định chọn lựa đi theo kháng chiến cả.

    Cho nên Phạm Duy không theo Kháng chiến theo nghĩa chọn lựa mà cũng không bỏ kháng chiến theo nghĩa phản bội. Không chọn lựa làm sao có phản bội?

    ** Phạm Duy không phản bội kháng chiến, chỉ có vấn đề ông nh́n lại

    Nguyễn Trọng Văn đă tự chọn cho ḿnh một góc đứng nào đó để phê phán Phạm Duy.
    Và đă có chỗ kết luận: “Hiện nay, Phạm Duy có thể là người nghệ sĩ có tài, nhưng không phải là đứa con yêu của dân tộc, ông là đứa con hoang”.(..) Nhạc sĩ Phạm Duy của những kháng chiến ca của dân tộc đă chế(..) Ông đă quay lưng trở lại với dân tộc, với chúng ta, ông đă ra đi, ông đă chết “..(08)
    (08) Trích NTV, Ibid, trang 45

    Nhưng nặng hơn nữa, NTV viết:
    “Thân phận Phạm Duy guống thân phận một gái điếm, một thứ điếm lành nghề, khéo chiều, dẹp, có tài thỏa măn bất cứ ai; ăn nằm với ai cũng rung động nhiệt thành, nhưng v́ là điếm nên thuộc về mọi người, người tốt, người xấu, người Việt, người nước ngoài, không thuộc hẳn về ai “ .(09)
    (09) Trích Nguyễn Trọng Văn, Ibid, trang 130

    Cho nên, dưới mắt NTV, dinh tê đă là một phản bội mà đáng nhẽ phải gọi đúng tên là bọn Việt gian. Nhưng hơn là một phản bội, v́ đă sửa lại lời ca trong các bài hát của chính ḿnh. Nhưng người ta vẫn có thể đặt ngược lại là: ai phản bội ai? Nếu hành vi bỏ không theo kháng chiến là một phản bội th́ thái độ ly khai với kháng chiến có thể được hiểu là thái độ tố cáo sự bội phản của kháng chiến không? Nghĩa là chính kháng chiến Việt Minh là một phản bộ. Và v́ thế đă có một số không ít những thanh niên đă đi theo kháng chiến, đă thất vọng và đă dinh tê.
    Dinh tê có thể gián tiếp tố cáo một sự bội phản đối với những người đă chót đi theo kháng chiến, v́ đă bị lừa.

    Trong giới văn nghệ sĩ ở Sàig̣n, đă có nhiều người cũng đă từng đi theo kháng chiến và đă bỏ kháng chiến. Vơ Phiến ở B́nh Định cũng bỏ kháng chiến về với phía Quốc Gia, B́nh Nguyên Lộc trong Nam cũng vậy. Rồi cũng trong Nam có Lê Thương đă sáng tác những bản nhạc như Bà Tư bán hàng có bốn người con. Ḥa B́nh 48, Đốt hay không Đốt, Trần Văn Trạch với Cái đồng hồ, Chuyến xe lửa mùng năm và Nguyễn Đức Quỳnh với Người Việt đáng yêu. Và tên Hoàng Trọng Miên với vở kịch Dưới Bóng Thánh Giá. Đoàn Văn Cừu th́ sau nắm đài phát thanh Sài G̣n.
    Và Có ai nghĩ rằng, theo Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ từng làm việc ở ṭa báo Cứu Quốc và điều khiển một ban Văn nghệ lưu dộng. Cũng không ai nhắc tới Mai Thảo, Tạ Tỵ. Có ai nghĩ rằng Minh Đức Hoài Trinh, thời con gái, mê theo tiếng gọi cụ Hồ vào Thanh Hóa, gặp tướng Nguyễn Sơn, rồi cũng ra Phát Diệm, bị cha mẹ bắt về để lấy Phan Văn Giáo.

    Chưa kể những gương mặt chính trị trổi bật thời Đệ nhất Cộng Ḥa đă từng đi theo kháng chiến như quư ông luật sư Trần Chánh Thành (bộ trưởng thông tin thời TT Ngô đ́nh Diệm), Lê Khải Trạch, Đinh Sinh Pài, người đă từng họat động với tướng Nguyễn Sơn và Đặng Thái Mai trong khu 4. Hoàng Văn Chí cũng từ khu bốn ra, tác giả cuốn sách nổi tiếng Trăm hoa đua nở trên đất Bắc. Cuốn sách cho thấy chính thể Hà nội đàn áp và trù dập giới văn nghệ sĩ như thế nào.

    Với sự chứng dần một số những nhân vật tên tuổi đă từng tham gia và họat động cho kháng chiến, trở về cộng tác với chính quyền Quốc Gia, tôi nghĩ rằng, việc gán cho Phạm Duy phản bội kháng chiến của Nguyễn Trọng Văn khó có cơ đứng vững được. Tại sao chỉ có ḿnh Phạm Duy là người phản bội c̣n những Trần Chánh Thành, Vơ Phiến, Hoàng Thi Thơ th́ không?
    V́ thế, họa sĩ Tạ Tỵ đă phản biện lại như sau:
    “Trong những năm kháng chiến, Duy đă đóng góp hơi thở và âm nhạc cho chính nghĩa lúc ấy. Nay sự dấn thân của Duy vào kích thước quân đội và sinh hoạt dân chính miền Nam cũng cũng mang một ư nghĩa tương tự “(10)
    (10) Trích: Phạm Duy c̣n đó nỗi buồn, Tạ Ty, trang 129

    Để biện hộ thêm cho Phạm Duy, Tạ Tỵ cũng đă trích dẫn thêm ư kiến của Thế Uyên như sau: “Nhiều khi tôi thấy có những người trẻ quá bất công với anh. Đ̣i hỏi thế này thế kia. Tôi thường không đồng ư với một thái độ như vậy. Nhạc Phạm Duy cất lên hơn 20 năm rồi, đă đóng góp vào các công tŕnh lớn của dân tộc và hiên diện,. trong các khổ đau của Việt Nam với tư cách là người chứng trong cuộc, người chứng tham dự. Anh phải mệt mỏi và có quyền mệt mỏi, không ai có thể làm anh hùng cả đời được”(11)
    (11) Trích: Phạm Duy c̣n đó nỗi buồn, Tạ Ty, Ibid..

    Khi cuốn sách của Nguyễn Trọng Văn ra đời th́ nhiều người đă nh́n thấy cái đuôi cộng sả ngoe nguẩy đằng sau cuốn sách ấy. Cách biện luận lộ liễu của NTV như một cán bộ cộng sản thứ thiệt. Cách nh́n một chiều, méo mó, thiên lệch không chối căi được. Dám NTV đă được chỉ định để viết như thế!! V́ thế sự kết án Phạm Duy của Nguyễn Trọng Văn mất đi nhiều tính khả tín.
    Bên cạnh Tạ Tỵ, c̣n có Cao Thanh Tùng mà ư kiến được coi là dung ḥa hơn. Mặc dầu Cao Thanh Tùng không đồng ư việc phân chia một Phạm Duy nghệ sĩ và một Phạm Duy chính trị như nhiều người quan niệm để biện hộ cho Phạm Duy. Ngoài việc Cao Thanh Tùng cũng đồng ư với Thế Uyên như trên. Cao Thanh Tùng trích dẫn một nhạc sĩ Gia Nă Đại Georges E. Gauthier với bài viết: Phạm Duy, một nghệ thuật khúc diện, Thu Thủy dịch, tạp chí Bách Khoa số 347.

    “Tôi cần phải nói rằng, nếu tôi không thể tưởng tượng nổi một Phạm Duy mà không có VN th́ tôi cũng không thể nào tưởng tượng ra một VN mà không có Phạm Duy”. Ông nhạc sĩ Gia Nă Đại viết tiếp;” Chúng ta cần phải tha thứ rất nhiều cho Phạm Duy bởi v́ con người đă cống hiến rất nhiều. Nghệ thuật của Phạm Duy là một cống hiến của con tim. Các hành động của nghệ sĩ trong cuộc đời trần thế thuộc về họ và chỉ là những hành động nhất thời. Chỉ có tác phẩm là vĩnh cửu”. (12)
    (12) Trích Cao Thanh Tùng trich lại trong bài, Phạm Duy… bất tử, các trang 8-12, tạp chí Tŕnh Bày, số 23, 3-7-1971

    Cuốn sách của NTV như thể một một vụ ném lựu đạn, nhưng đă bị trung ḥa và loăng đi nhiều khi có một số ư kiến phản biện như trên.

    Nhận xét thực tế

    Một số thực tế sau đây càng cho thấy, sau khi chiến tranh Việt- Pháp bùng nổ, có đến hằng triệu người phải sơ tán theo chính sách *tiêu khổ kháng chiến* với cảnh vườn không nhà trống. Nhất là kể từ Thanh Hóa trở vào phía Nam, nhiều vùng chỉ c̣n là đổ nát và hoang tàn. Và cũng hàng triệu những dân chúng các vùng ấy đă *hồi cư*.
    Chuyện đó được coi là b́nh thường trong chiến tranh. Chỗ nào có bom đạn chết chóc th́ tránh, chỗ nào an toàn th́ t́m về.

    V́ thế có rất nhiều dân chúng, trí thức, thành phần đảng phải, chính trị gia đă sơ tán về vùng trái đệm Phát Diệm, c̣n gọi là an toàn khu. Có rất nhiều người đă dời bỏ kháng chiến hoặc chạy trốn Pháp về đây. Có tất cả khỏang 60 ngàn người đủ thành phần đă tụ tập về Phát Diệm.

    60 ngàn người tụ hội về đây đều là để chờ thời, để nghe ngóng t́nh h́nh và nhất là chờ cơ hội * Dinh Tê*. Dinh tê, danh từ lần đầu tiên được xử dụng từ chữ rentrer. Chữ dinh tê là để chỉ việc bỏ khu vực kháng chiến để về Hànội. Phạm Duy cùng lắm cũng nằm trong số những người này. Họ từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ra, tức là bỏ khu tư, bỏ kháng chiến? Và cũng là trường hợp của Phạm Duy. Nhưng phần đông họ từ Hà nội, từ Chợ Đại, Cống Thần ở Hà Đông vào (có thể là đi buôn), hoặc từ Hải Pḥng đến bằng đường biển qua cửa Cồn Thoi, cửa ngơ vào Phát Diệm. Hoặc từ Nam Định Bùi Chu, qua ngă đường sông như Yên Mô- Nho Quan hoặc Cầu Lim- Gia Viễn. Đó là những người chạy trốn Pháp.

    Phát Diệm trở thành vùng an toàn phi chiến- ít ra người ta có cảm tưởng như thế- vùng trái đệm giữa vùng tề và kháng chiến, giáp ranh với liên khu 4 gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh trải dài xuống tận khu B́nh Trị Thiên Nam Ngăi. Để chứng tỏ Phát Diệm là nơi tạm trú cho những người trốn chạy cả hai phía Tổng bộ ( danh xưng gọi tổ chức của ĐC Lê Hữu Từ ) đà bắt được một mật lệnh, ngày 9-7-1947 của Việt Minh có câu:”dù có mất cả một đại đội cũng không được đụng đến Phát Diệm” . Đó là về phía Việt Minh đối với Phát Diệm.

    Việt Minh có hai cái lợi để không đụng độ trực tiếp với Phát Diệm.

    Thứ nhất, v́ Phát Diệm là hậu cần cung cấp tất cả thuốc tây, dụng cụ, máy móc, đá lửa, xăng dầu và đôi khi ngay cả súng ống từ bên Tầu. Đó là nguồn cung cấp sống c̣n cho khu 4 của kháng chiến. Đường buôn lậu đi từ Hải Pḥng, dùng thuyền buồm xuôi Phát Diệm, đến cửa Cồn Thoi, rồi từ đó xuôi Thanh Hóa, vào khu tư.

    Thứ hai, về mặt quân sự, Phát Diệm như cái hàng rào che chắn để bảo vệ an toàn khu tư trở vào. Chừng nào Phát Diệm c̣n có hai cái lợi thế ấy, Phát Diệm vẫn là một an toàn khu.
    Mặc dầu giải pháp double jeu đi đến thất bại, nhưng có một điều không thể phủ nhận được là Phát Diệm là nơi trú ẩn an toàn cho những người kháng chiến cũ, cho trí thức và nhất là cho người của đảng phái. Không có Phát Diệm, nhiều nhân vật đă có thể bị giam cầm, thủ tiêu và biến mất trên chốn dân gian này rồi? Làm ǵ c̣n những Ngô Đ́nh Nhu, Phạm Đ́nh Viêm, Phạm Đ́nh Chương, Bùi Diễm, Trần Văn Chương, Nguyễn Tường Tam, Hoàng Bá Vỉnh. Và giả dụ họ bị Việt Minh thủ tiêu. Chính trường miền Nam đă hẳn là khác?

    Lư do Phạm Duy “dinh tê”

    Phần Phạm Duy khi dinh tê cũng có nước mắt nhớ tiếc dĩ văng và cũng có giọt nước mắt vui mừng v́ nh́n thấy cái cái đồn bót phía Quốc Gia. Vui mừng v́ biết rằng nay ḿnh được giải thoát.
    Nếu những người này sau đó dinh tê về Hà Nội, ta sẽ gọi họ là ai? Họ có khác ǵ với Phạm Duy không? Thật không dễ để xếp loại họ.

    Không lẽ chỉ v́ đổi vài lời ca mà trở thành kẻ bội phản?

    Đọc hồi kư do chính Phạm Duy viết, không có chỗ nào là bằng cớ cho thấy ông gắn bó hay có ư gia nhập đảng Cộng sản. Và v́ thế, việc ông dinh tê là chuyện b́nh thường như hàng ngàn, hàng vạn người khác.

    .- Thứ nhất, có thể chỉ là lư do kinh tế. Đi theo cách mạng là đói. Đói cho ḿnh và đói cho cả nhà. Đó là trường hợp 3 anh em trai bên vợ Phạm Duy. Tác giả viết:” Chúng tôi có khoảng một tháng trời để nh́n thấy chung quanh ḿnh có khá nhiều gia đ́nh đă * dinh tê*. Găp được những gia đ́nh bạn như gia đ́nh Nguyễn Giao (bố vợ Hoàng Thi Thơ), gia đ́nh Đỗ Xuân Hợp, gia đ́nh Đ̣an Châu Mậu.. là có ngay những vụ bàn bạc về việc rentrer: vào thành hay rester,ở lại ? Ở lại, rester th́ không c̣n tiền để mua gạo mà ăn. Chưa dám nói thịt cá đâu. Nhất là không có tiền mua thuốc men để chống đỡ với các thần bệnh tật …. Trong ḷng day dứt v́ chuyện”ai làm cho ai phụ t́nh ai”?

    .- Thứ hai, theo Phạm Duy, Trung ương muốn khai tử bài Bên Cầu biên giới của tác giả qua trung gian nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát nên ông nổi giận và:” Tôi thấy cách mạng bắt đầu lẩm cẩm khi kết án bài Vọng cổ trong cái Đại Hội mà tôi vừa tham dự “. Và sau khi được gặp bác Hồ, Phạm Duy đă không có một ấn tượng tốt đẹp ǵ về con người ấy và sau đó đi gặp nhạc sĩ Khoát :” Tôi tới gặp anh Khoát ngay và trả lời dứt khoát là tôi xin trở về Thanh Hóa.. Tôi rất cảm ơn mọi người, xin được không nhận bất cứ một thứ ân huệ nào cả . .. Nhưng khi vợ chồng tôi tới chào người lănh đạo văn nghệ của cả nước th́ Tố Hữu tặng vợ chồng tôi một số tiền. Tôi nhận ngay v́ đó là tiền lương và văng phí.

    Cuộc chia tay dứt khoát với kháng chiến bắt đầu từ việc ông được kết nạp vào Đảng. Ông viết:
    “Trong một buổi trưa có nắng vàng nhảy múa trên lá cây, thả bước; trên một con dốc nhỏ nằm trong khu rùng Yên Giă, anh Nguyễn Xuân Khoát bá vai tôi, hai người lặng lẽ đi .. Một hồi lâu, anh Khoát nói giọng thầm th́:
    - Đoàn thể cử tao nói cho mày biết. Là mày đă được kết nạp. Mày sẽ được cử đi Moscou. Mày sẽ được ông Cụ gắn cho một huân chương chiến sĩ. Nhưng có điềun kiện. Mày phải bỏ cái tính “chơi” của mày đi. Mày phải khai tử bài hát: Bên cầu biên giới và nếu xuất ngoại th́ Thái Hằng phải ở lại . Một ḿnh mày đi thôi . Về suy nghĩ. Mấy, hôm nữa, trả lời tao”.(13)
    (13)Trich Hồi kư Phạm Duy, tập hai, thời Cách Mạng kháng chiến

    Theo Phạm Duy, chính đề nghị được kết nạp vào đảng làm ông sợ quá. Lên Việt Bắc, không bao giờ ông chờ đợi một đại ân huệ như thế này. Sau khi được gặp ông Hồ, tướng Nguyễn Sơn, ông quyết định t́m đường “dinh tê”. Và ngày 1 tháng năm 1951, đại gia đ́nh họ Phạm chia ra ba nhóm để dinh tê.
    Cuộc chia tay kháng chiến đơn giản chỉ có vậy.

    - Thứ ba, Phạm Duy đâu phải loại người ngu ngơ khờ khạo. Trong buổi tham dự Đại Hội Văn Hóa tổ chức tại trường Cao Đẳng, có chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn, ông viết:” tôi cũng rất sung sướng được nh́n thấy những thần tượng văn nghệ của tôi. Nhưng tôi lấy làm lạ, tự hỏi thầm tại sao nhóm Tự Lực Văn Đoàn lại vắng mặt? Câu hỏi lớn đấy nhé. Sau đó c̣n thấy sự chống đối của Nguyễn Đức Quỳnh Khi Xuân Diệu bắt đầu bằng câu nói: Thưa các đồng chí. Nguyễn Đức Quỳnh đứng dạy nói: Tôi không phải là đồng chí của các anh. Xuân Diệu có vẻ hơi lúng túng rồi trả lời: Chúng tôi không cần những đồng chí như anh.

    Tôi cũng thấy được sự tranh chấp bạo động như vụ bắt cóc rồi giết nhau ở phố Ôn Như Hầu hay là vụ Việt Minh tiêu diệt các đảng phái ở các tỉnh. Khi ở trong Nam, tôi đă thấy các đảng phái như Cao Đài, Ḥa Hảo, Đại Việt dự định bắt Trần Văn Giầu và nhóm Việt Minh. Nhưng Dương Văn Giáo ngăn cản để giữ t́nh đoàn kết. Sau này, chính Dương Văn Giáo bị Việt Minh giết.
    V́ thế, tôi không có ư muốn trở thành một cán bộ Việt Minh ở Hà nội (14).
    (14) Trích Hồi kư, tập hai, Ibid

    Kể như đă rơ ràng, đi theo kháng chiến, nhưng thấy Việt Minh phản bội lại những người yêu nước khác, như giết người của đảng phái. Phạm Duy đă có thể thất vọng về kháng chiến và v́ thế dinh tê là điều khó có thể chê trách được. Và giả dụ rằng, cái đám dinh tê sau này thắng trận th́ chữ phản bội c̣n có ư nghĩa ǵ? Cuối cùng, kẻ thắng là kẻ tự mang chính nghĩa về phía ḿnh, nói sao chả được.

    -. Thứ tư : Xét đến số lượng các bản nhạc Phạm Duy làm trong thời kỳ kháng chiến, xét đủ loại từ Nhạc hùng, nhạc t́nh, quân ca kháng chiến đến dân ca kháng chiến trên dưới gần 50 bài, tôi nhận ra ông chỉ đổi lời những bài nào có danh từ dính dáng trực tiếp đến Việt Minh như cụ Hồ, đồn Tây, Vệ Quốc Quân mà thôi.
    Có bao nhiêu bản như thế? Thực sự không có bao nhiêu. Chỉ có vài bài tất cả theo cách lư giải của tôi. Nguyễn Trọng Văn đă khám phá ra điều này cũng đă là hay lắm. Nhưng chưa đủ yếu tố thuyết phục độc giả nghĩ rằng Phạm Duy là kẻ phản bội.

    Hơn nữa, giá trị một bản nhạc hay là chính ở cái hồn của bản nhạc ấy th́ vẫn được giữ nguyên. Có cụ Hồ hay không có cụ Hồ, tự nó bản nhạc vẫn hay. Nhạc kháng chiến của Phạm Duy là hay, là thấm thía, là chia sẻ th́ vẫn được người nghe tán thưởng. Cũng đừng quên một điều, khi nghe một bản nhạc hay, người nghe để cái cảm quan nghệ thuật lấn lướt những tiểu tiết thay đổi từ mà Nguyễn Trọng Văn nêu ra. Theo tôi, trừ tên Hồ Chí Minh cần phải đổi. Những từ như giặc Pháp, đồn tây, anh vệ quốc quân, không đổi cũng không sao.

    Bằng chứng, ở miền Nam, chúng ta vẫn nghe nhạc Văn Cao, vẫn đọc văn Nguyễn Tuân thời tiền chiến có sao đâu? Sau 1975, tại Vũng Tầu, loa phóng thanh oang oang bài Anh Quốc ơi, Anh Quốc ơi của Phạm Duy đấy !! Thật là buồn cười, nhưng hiểu được. Bài đó có thể hay và người ta chẳng cần biết anh Quốc là anh nào nữa.

    Kết luận cho thấy phải chê ngược Phạm Duy đáng nhẽ không nên đổi từ như ông đă đổi. Nguyễn Trọng Văn ngầm phê phán thái độ trở cờ, bỏ kháng chiến của Phạm Duy, th́ những người khác lại thấy sự trở cờ đó là b́nh thường. Trừ trường hợp đổi lại ca từ một lần nữa để về sống ở VN là coi không được. Nếu Phạm Duy có chết là chết ở chỗ đó. Dư luận có thể kết án ông ở chỗ hèn, chỗ tráo trở, chỗ bán rẻ nhân cách.

    Khác nhau là giữa chúng ta và Nguyễn Trọng Văn đứng ở vị thế nào để nh́n vấn đề, để phê phán?

    2.- Phạm Duy chết ở một nơi nào khác?

    Tài vay mượn hay cảm hứng của người nghệ sĩ?

    Mỗi bản nhạc của ông là một tổng hợp hay một cộng lại những văn ảnh, những âm thanh, âm điệu, những ca từ rút ra từ các bài thơ, hoặc rút tỉa từ các câu ḥ, điệu hát của dân ca ba miền, ngay cả những điệu hát của người dân miền sơn cước, từ các vần điệu đă có sẵn, các văn ảnh quen thuộc như con trâu, cái cầy, đồng lúa xanh, người mẹ quê. Chính nhờ sự pha trộn, thu nhặt đó mà nhạc Phạm Duy rất gần gũi, ăn khách và được đón nhận một cách nồng nhiệt.

    Chẳng hạn, trong bài Tiếng Hát trên Sông Lô, theo như sự nh́n nhận của ông, ông đă cảm hứng và vay mượn từ hai câu thơ Đường quen thuộc:
    Thuyền ai đậu bến Cô Tô
    Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn(15)
    (15) Tất cả những trích dẫn trên và sau đây đều lấy lại trong tập: Ngàn lời ca của Phạm Duy, xuất bản ở hải ngoại.

    Hai câu thơ Đường trên váng vất trong bài tiếng sông Lô của Phạm Duy đă trở thành: Thuyền tôi buông lái như xưa, hoặc Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang và nhất là Thuyền tôi đậu bến Đoan Hùng. B́nh minh nghe tiếng chim mừng líu lo.

    Trong mấy câu trên, người ta thấy từ vần điệu, âm thanh bằng trắc bổng trầm sao giống nhau thế? Giữa: Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hán Sơn và B́nh minh nghe tiếng chim mừng líu lo sao mà sít sao thế. Giống mà không giống. Nửa đêm đổi ra thành b́nh minh. Tiếng chuông chùa đổi ra tiếng chim mừng..
    Cũng theo Phạm Duy, 10 bài tâm ca, 10 bài đạo ca ít ra bắt nguồn từ con số 10 của Mười điều tâm niệm của Ḥang Đạo. Sự liên hệ ư tưởng (associations des idées) đó đă trở thành nguồn cảm hứng âm nhạc bắt đầu từ con số 10. Tại sao không 13 hay 35 mà lại 10?

    Và từ dấu mốc này, tôi dám đặt câu hỏi nghi vấn, không phải về nhạc tính, mà về một số từ rất rất Trịnh Công Sơn, một số ư hướng rất TCS như các từ Gia tài, tuổi nọ tuổi kia v.v… Uớc mơ (thơ Nhất Hạnh), để lại và những ư hướng về cái chết, về chiến tranh, về trẻ thơ v.v… Trong các bài Tâm Ca, Đạo ca của Phạm Duy. Lẽ d́ nhiên, Phạm Duy không bao giờ nh́n nhận có một ảnh hưởng như thế trên sư nghiệp sáng tác của ông. Và chắc hẳn những bản nhạc đó đă bắt nguồn từ những cảm hứng tâm linh, từ những khát vọng sâu thẳm của cơi người hay thân phận người xuất phát từ những t́nh trạng bi kịch của đất nước. Chính từ những chỗ ấy đánh động tâm tư, khơi dạy những thao thức của tâm hồn nghệ sĩ và từ đó sản sinh ra những ḍng nhạc khá là tuyệt vời.

    Người nghe nhạc khi thưởng thức nhạc Phạm Duy, đôi khi bắt gặp những âm hưởng quen thuộc đă bắt gặp ở đâu đó rồi hoặc bắt gặp một con chữ nào đó vv. Có thể một cách vô t́nh và vô thức, Phạm Duy có cùng những cảm thức, cùng những rung động đă nhập vào ông. Nhất là trong những bản nhạc phản chiến, những bài tâm ca và đạo ca. Chữ nghĩa ấy vào tay Phạm Duy trở thành một con chữ sống động, hiện sinh, như thể có một linh hồn. Vốn nguyên liệu ṛng đă có, Phạm Duy chuyển tải tài t́nh cái vốn đó thành vốn của ḿnh một cách chẳng kém tài hoa.
    Thôi th́ cứ cho rằng tài hoa bắt gặp tài hoa. Nhưng trong nghệ thuật văn chương hay âm nhạc th́ trước sau thiên tài hay không vẫn là ở chỗ sáng tạo, chỗ khởi đầu. Ớ chỗ này, bất cứ ai cũng phải nh́n nhận rằng TCS sáng tạo ra ngôn ngữ, thổi vào chữ nghĩa một sự sống, một linh hồn.

    Hơn bất cứ ai hết, TCS cùng một lúc sáng tạo ra ngôn từ và ḍng nhạc quyện vào nhau, gắn bó tuyệt vời. Đó là một thứ phù thủy trong ngôn ngữ, thổi vào đó một sự sống.
    Trong khi đó, phần lớn âm nhạc của Phạm Duy là vay mượn thơ văn của các thi sĩ khác.

    Công của ông là phổ nhạc. Phần kia là của các nhà thơ. Về điểm này, tôi cũng đặt câu hỏi phần vinh danh mà ông được thụ hưởng th́ trong đó có bao nhiêu phần đóng góp âm thầm của các nhà thơ được chia sẻ cái vinh danh đó?

    Chỗ nào cho Nguyễn Bính, Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Linh Phương, Ngô Đ́nh Vận, Hữu Loan, Lê thị Ư, Phạm Lê Phan, Phạm Văn Bính, Hoa Đất Nắng, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử, Bích Khê, Đỗ Quư Toàn, Nguyễn Tất Nhiên, Thanh Hữu, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng, Hoài Trinh, Hồng Nam tức Hô Hán Sơn, Guillaume Apolinnaire. Và người chỉ c̣n có cái bị thằng ăn mày, đói rách tả tơi như Bùi Giáng cũng bị Phạm Duy mượn đỡ bài Gái lộI qua khe cho những bài Tục ca của Phạm Duy. Mà không có một đền bù, vật chất cũng như tinh thần, không có đề tên trên bản nhạc. Không dám bảo là đạo văn, ăn cắp, nhưng rơ ràng là “mượn đỡ”.

    Kết luận về phần này th́ chúng ta phải thừa nhận rằng vay mượn và cảm hứng đưa đến những bản nhạc để lại cho đời đến như Phạm Duy th́ kể là kỳ tài.
    Kể là có một không hai.


    Nhưng tôi nhận ra một điều thấy cần được nói ra và có thể nhiều người cũng biết như thế. Có nhiều bài do chính ông viết lời như bài Đêm xuân, tại Chợ Neo, Thanh Hóa ghi lại mối t́nh với Thái Hằng. Hay bài Cành Hoa trắng, Thanh Hóa, 1950 hay bài Gánh lúa, rất nổi tiếng, trước khi dinh tê. Điều đó không có ǵ để nói nữa.

    Có bài mượn lời từ thi sĩ ngọai quốc, như Mùa thu chết mượn thơ của thi sĩ Guillaume Apollinaire ông cũng cẩn thận ghi bên dưới như: theo thơ Guillaume Apollinaire, Sàig̣n 1970.
    Xem lại những bài ông trích đăng lại trong Ngàn lời ca của ông.Trừ một vài trường hợp khá đặc biệt như bài Nhân danh, ghi theo thơ Tâm Hằng, bài Bi Hài kịch, theo thơ Thái Luân, Đi vào Quê Hương, theo thơ Hoa Đất Nắng (Cả ba bài này đều ít ai biết tới), Kỷ vật cho em thơ Linh Phương. Khi tôi về, theo thơ Kim Tuấn, Tửởng như c̣n người yêu, thơ Lê thị Ư, Áo anh sứt chỉ đường tà, thơ Hữu Loan. Tôi ước mơ, thơ Nhất Hạnh, bài Để lại cho em, một câu thơ của Nguyễn Đắc Xuân…

    Đó chỉ là vài trường hợp họa hiếm. C̣n những trường hợp khác th́ không được ghi đầy đủ. Và đấy chỉ là ghi lại t Ngàn lời ca của Phạm Duy sau này như một loại sách sử âm nhạc. Nhưng tôi không đủ điều kiện để t́m hiểu xem, khi được ấn hành thành bản nhạc, được in ấn hồi trước 1975, được bán ở các vỉa hè Sàig̣n, tên các thi sĩ được Phạm Duy phổ nhạc có được ông trân trọng ghi đầy đủ trên các bản nhạc hay không? Ở Hải ngọai th́ tôi được biết có một số bản nhạc được in lại có ghi đầy đủ tên thi sĩ và tên nhạc sĩ. Nhưng điều đó có chắc rằng, toàn thể các bản nhạc của Phạm Duy in ấn trước 1975 đều có đề tên các thi sĩ?

    Việc phổ nhạc thơ là một hiện tượng phổ biến trong sinh hoạt văn hóa miền Nam trước 1975. Trong một bài phỏng vấn Du Tử Lê của Cỏ Ngư trên Talawas, ngày 5-5-06, Du Tử Lê cho biết có hơn 300 bài thơ của ông đă được phổ nhạc mà theo ông:” Đó là chưa kể có những nhạc sĩ lấy thơ của tôi, không chỉ là cái ư, mà cả câu thơ, nhiều câu thơ làm thành ca khúc mà không hề đề cập đến tên tôi, dù chỉ là hàng chữ “ ư thơ ” thôi cũng không có. Thậm chí, có báo chí nêu đích danh bài thơ ấy, bản nhạc ấy, nhạc sĩ ây. Nhưng người nhạc sĩ này vẫn lờ đi…”
    Riêng trường hợp Phạm Duy, Du Tử Lê có tiết lộ PD có phổ nhạc bài thơ “Kiếp sau, xin giữ lại đời cho nhau” vào năm 1967 ǵ đó. Rất tiếc, dù đă t́m kỹ, tôi cũng không t́m thấy bài hát này.
    Nhưng điều tôi có thể chắc chắn là trong Ngàn lời ca th́ hầu như Phạm Duy đă không nêu tên các thi sĩ, tác giả các lời ca của bản nhạc. Ông có cố t́nh quên tên họ không? Trong khi đó, ông ghi rất kỹ thời gian sáng tác một bản nhạc.

    Chính v́ thế sau này đă xảy ra trường hợp nhà thơ Hữu Loan bày tỏ công khai nỗi bực dọc ấy. Có một trường hợp mà tôi biết khá rơ về năm bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên, một thi sĩ trẻ ở Biên Ḥa. Đó là những bài Thà là giọt mưa, Hai năm t́nh lận đận, Cô Bắc Kỳ nho nhỏ, Hăy yêu chàng và Vái trời . 5 bài thơ này đă là nguyên do có sự kiện tụng giữa nhà thơ và Phạm Duy. Về phần Nguyễn Tất Nhiên, dĩ nhiên, cậu thanh niên chưa quá 20 tuổi phải hănh diện v́ thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Về phía Phạm Duy chắc cũng hiểu cái t́nh huống như thế nên ông nói: Thơ được Phạm Duy phổ nhạc là may phúc lắm rồi. Cho đến lúc bản nhạc được thương mại hóa th́ Nguyễn Tất Nhiên ..đ̣i tiền. Kể từ đó về sau, PD không lấy thơ Nguyễn Tất Nhiên phổ nhạc nữa.

    Tôi đă thử t́m trong Ngàn lời ca để xem ông có ghi lại năm bài nhạc, có thơ của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên không? Tôi đă không t́m thấy bài nào trong năm bài ấy.
    Và nó chỉ được nhắc tới trong phần mục lục thôi. Phải chăng, do cái giận một thằng”nhóc con” muốn đ̣i tiền và kiện ông mà Phạm Duy đă cố t́nh bỏ quên Nguyễn Tất Nhiên? Thật ra cái tính của Nhiên là thế. Sau này, khi gửi các bài thơ của thi sĩ trên tập san Hợp Lưu, anh cũng có thói quen đ̣i chủ bút Khánh Trường phải trả tiền nhuận bút. Ai viết cho Hợp Lưu nghe chuyện đó cũng phải bật cười. Chủ bút KT đă trả tiền nhuận bút v́ thương bạn. Bởi vi, tờ báo ai đă cộng tác viết bài đều biết tập san nghèo quá, ai dám nghĩ đến tiền nhuận bút. Nhận được một số báo mỗi kỳ đă là một niềm vui rồi v́ tờ báo quá đẹp, trang nhă, bài viết có chất lượng. Cầm số báo HL như cầm một cuốn sách. Và theo anh Khánh Trường, Nguyễn Tất Nhiên là người duy nhất trong số các tác giả viết bài cho Hợp Lưu được trả tiền nhuận bút.

    Nhưng được biết đến lúc nhà thơ này từ giă cơi đời th́ PD cũng nằm trong số những người đến tiễn đưa anh về thế giới bên kia.
    Phạm Duy đă kể lại trong Ngàn lời ca về người bạn t́nh của ông, Alice, con gái của một người t́nh cũ của ông ở Phan Thiết là Hélène, Alice đă làm đến 300 bài thơ tặng ông và đă là nguồn cảm hứng cho Phạm Duy viết phổ nhạc. Khởi đầu là Thương T́nh ca với những giai điệu:”

    D́u nhau đi trên phố vắng
    D́u nhau đi trong ánh sáng
    Dắt hồn về giấc mơ vàng
    D́u nhau đi chung một niềm Thương
    Và tiếp nối là Ngày đó chúng ḿnh, Đừng xa nhau, Kiếp nào có yêu nhau (Thơ của Hoài Trinh). Bài này của Hoài Trinh có in lại trong một băng nhạc ở Hải ngọai, thấy có điền tên tác giả là Hoài Trinh.

    Tôi không thấy ông đề tên Alice trong những bản nhạc t́nh có thể nói là tuyệt vời ấy trong Ngàn lời ca?. Thật là đáng tiếc. Thật là “thằng cha bội bạc”.
    (C̣n tiếp)

  4. #14
    Chín-đờn-c̣
    Khách
    (Tiếp theo)

    [QUOTE]Nhân tiện đây, phải nói rằng nhạc t́nh của Phạm Duy quả là tuyệt vời. Đầy cảm tính. (sentimental) Và chỉ có một người sau này có thể qua mặt ông là Trịnh Công Sơn với nhạc t́nh đầy năo tính( cérébral) Chữ của Phạm Duy). Và có những người trẻ tuổi đă chẳng ngại ngùng viết: “Với tôi, chiều sâu của Phạm Duy là chiều sâu của vực thẳm không đáy, đỉnh cao là đỉnh cao của ngọn trời và kích thước thứ ba là chiều ngang của không gian vô tận”

    Xin trích dẫn một đôi câu nữa để chúng ta cùng say sưa ngậm ngùi:

    Ngày đó có bơ vơ lạc về trời
    T́nh trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
    Ngày đó có kêu lên gọi hồn người
    Trùng dương ơi, Có sót sa cũng hoài mà thôi
    Và để nghe Thái Thanh nức nở một lần nữa thơ của Hoài Trinh, phổ nhạc là của Phạm Duy:
    Đừng nh́n em nữa anh ơi ..
    Kiếp nào có yêu nhau, th́ xin t́m đến mai sau ..

    Alice đă không có một chỗ đứng đáng nhẽ phải có, đáng nhẽ phải dành cho cô!! Không thể quên như thế được.

    Nhưng dưới mắt Phạm Duy: Phổ nhạc là chắp cánh cho thơ bay cao. V́ thế, các thi sĩ bị bỏ quên cũng thật là dễ hiểu, v́ ai là người đă chắp cánh cho họ?
    Những người đó ít hay nhiều cũng làm nên vóc dáng Phạm Duy. Có thể, nhờ nhạc sĩ mà bài thơ đi xa hơn nữa. Nhưng dù muốn, dù không vẫn là mượn thơ của thi sĩ. Họ đă chẳng có một vị trí xứng đáng trong gia tài âm nhạc của họ Phạm. So ra những người t́nh của Trịnh Công Sơn may mắn hơn nhiều, vinh dự hơn nhiều, đi vào những thiên t́nh sử của một nhạc sĩ tài hoa có một không hai. Những Diễm.. và cuối cùng đến Hồng Nhung.

    Hăy khoan nói đến chuyện tiền bạc. Hăy trả lại lẽ công bằng về cái thẩm quyền tinh thần, về những sản phẩm trí tuệ ấy. Tôi vẫn cảm thấy tức anh ách khi viết những ḍng này, nghĩ tới Alice, Huy Cận trong Ngậm ngùi và bao nhiêu thi sĩ khác. Phải chăng chính ở điểm này mà Nguyễn Trọng Văn nên dùng bút để giết chết Phạm Duy th́ đúng hơn!!

    3.- Phạm Duy của nhiều khuôn mặt

    Ngay từ hồi trước 1975, nhiều dư luận cho rằng Phạm Duy là người bất nhất, tham lam, chụp giựt, tính cơ hội trong những sáng tác nhạc của ông. Các chủ đề sáng tác của ông, mặc dầu trải dài suốt hành tŕnh nhân thế của ông, bám sát vào những biến cố của thời cuộc, của đất nước cho thấy nó quá đa dạng, trái khoáy, thiếu cân xứng, thiếu liên tục nhất quán. Nghe những bản nhạc ấy, nhiều khi không khỏi ngỡ ngàng, thấy lạ, thấy kỳ dị và cảm giác quan trọng là thấy có ǵ đó không ổn. Có thể gọi đó là một thứ sincérité instantannée, thành thật nhất thời cảm hứng nhất thời, xung động nhất thời (émotion primaire)

    Cảm hứng nhất thời đó cũng giống như một thanh niên lăng tử, ham vui, chóng chán. Khó có cái ǵ đọng lại, kết tinh, có chiều sâu, có âm hưởng.
    Đó là thứ nhà văn không có style, nhạc sĩ không có nét nhạc, thiếu cá tính, họa sĩ thiếu gam mầu.

    Đối với một người như TCS, ta chỉ cần nghe một điệu nhạc, bắt ngay được cái hồn tính của điệu nhạc ấy và biết ngay là Trịnh Công Sơn. Nó có một cái duy nhất, cái độc đáo, cái làm nên thế giới âm nhạc ấy. Cũng vậy, xem tranh phố cổ của Bùi xuân Phái quen thuộc, lướt qua cũng nhận ra gam mầu trong tranh rất xanh nhạt, xám nhẹ, gợi nét buồn với h́nh ảnh những căn nhà, trống vắng, trơ chọi .. Họa sĩ nổi danh với hai chữ phố phái, một đặc sủng trong tranh Bùi Xuân Phái cũng nhờ ở chỗ có cái đồng nhất thể, cái thể tính của tranh vẽ phố cổ của ông. Trông là biết, là nh́n nhận ra tác giả.

    Phạm Duy trái lại đưa người nghe nhạc ông từ thái cực này đến thái cực khác, hay dở lẫn lộn, pha chế, dửng mỡ, thô tục, thanh cao, ngậm ngùi, thiết tha, xót xa, rẻ tiền, vay mượn lung tung, chắp vá tùy tiện. Có vẻ trong sáng tác, lúc nào ông cũng tham lam, muốn thay đổi, muốn cái lạ, cái mới theo cái kiểu tiện đâu hay đấy, theo cái kiểu có tiền th́ làm. Đôi khi không khỏi làm người nghe khó chịu và bực dọc.

    Sáng tác nhiều nhất so với các nhạc sĩ khác. Phạm Duy 1000 bài. Trịnh Công Sơn 600. Nhưng cái dở của Phạm Duy cũng không ít.

    ** Giai đoạn kháng chiến ca

    Dành cho giai đoạn này, ông có trên dưới 50 bài. Nhưng chỉ độ 10 bài nay c̣n được nhắc nhở tới. Bài phổ nhạc đầu tiên Cô Hái mơ, phổ thơ Nguyễn Bính, 1942. Cũng là hay, nhưng khó có thể so b́ với Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong và Buồn tàn thu của Văn Cao. Mà Đặng Thế Phong sáng tác nhiều nhặn ǵ cho cam. Nhạc của Đặng Thế Phong dù ít, nhưng bài nào cũng hay. Ít mà tuyệt vời. Những bản nhạc hùng của Phạm Duy trong thời kỳ kháng chiến th́ may mắn c̣n được quân đội VNCH xử dụng như các bản quân hành như Xuất Quân, Nào bao hùng binh tiến lên..Chiến sĩ vô danh, Đường về quê, Khởi hành…

    Trong số đó, vài ba bài dân ca kháng chiến thật hay và ngậm ngùi như Nhớ người Thương binh, Ru con, và Nương chiều. Đó là những bài ca với những văn ảnh quen thuộc như mẹ già, con thơ, vợ hiền rất gần gũi với người VN và được nhiêu người ưa thích.

    Ít ra, trong giai đọan này, người ta c̣n nhận ra được tính thuần nhất trong chiều hướng sáng tác của người nghệ sĩ. Mặc dầy vậy, nhiều bài nay không một ai biết đến nữa v́ tính tham lam, viết dễ của tác giả như các bài Quân Y ca, Thiếu sinh quân, Ngọn trào quay súng, Một viên đạn là một quân thù. Đ̣an quân Văn hóa.

    Tham lam. Đó là cái dở nhất của Phạm Duy. Đó là cái giá phải trả dành cho những bản nhạc bị bỏ quên mà cũng dành cho chính tác giả. Có đến 3 phần tư những bản nhạc của Phạm Duy sau này đă không ai biết đến nữa.
    ** Giai đoạn 20 năm miền Nam.
    Đây là một thời gian dài đánh dấu sự thành công của Phạm Duy. Thành công của ông bắt đầu với ban Hợp ca Thăng Long trên đài Pháp Á, từ 1951. Tới 1955, thời ông Diệm đổi là Đài phát thanh Quốc Gia. Với những tên tuổI như Hoài Trung (Phạm Đ́nh Viêm) Hoài Bắc (Phạm Đ́nh Chương), Phạm Duy, Thái Hằng và Thái Thanh (Băng Thanh). Với những bài ca khá tuyệt vời như T́nh Hoài Hương, Tôi yêu tiếng nước tôi (1953).
    Ban Hợp ca Thăng Long
    Đây là giai đoạn phong phú và thành công rực rỡ nhất của cuộc đời làm nghệ sĩ của Phạm Duy.
    Thoạt tiên với Ban Hợp ca Thăng Long đă nổi như cồn. Có thể so sánh nó giống như Sáng Tạo trong văn học với Mai Thảo. Nhạc với Phạm Duy, với ban Hợp ca Thăng Long. Văn với Mai Thảo với tạp chí Sáng Tạo. Cả hai là những đặc sản miền Bắc mang vào như trái cây đầu mùa ở miền Nam lúc ấy.
    Những bản t́nh ca tuyệt vời cũng hầu hết được sáng tác trong giai đoạn này đă đư tên tuổi PD lên cao, cao thật cao.
    Trường ca Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam và dân ca ba miền.
    Cạnh đó là Hai bản Trường ca: Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam. Hai trường ca này làm nên vóc dáng Phạm Duy. Bản trường ca nói đến người lữ khách lên đường, đi từ Bắc vô Nam.
    Về nội dung, nó nói lên được t́nh tự dân tộc, tấm ḷng yêu quê hương đất nước mỗi lần tác giả dừng chân tại mỗi miền. Những câu ḥ, câu ví của dân ca ba miền được nhắc nhở đến với những địa danh như Thăng Long, Tháp rùa, ải Chi Lăng, Phố Kỳ lừa. Tạ Tỵ đă nhận xét: “Suốt chuyến đi, xuyên nửa quê hương, Duy đă xúc động và nhận diện được chân dung quê hương qua tri giác tinh tế của một nghệ sĩ đă gần 40 tuổi đời” (…) Nếu Con đường cái quan là một hành ca ghi lại bước tiến của dân tộc ta trên một sinh lộ nhất quyết không chịu chia cắt, th́ mẹ Việt Nam vẫn là một Âu ca, ca tụng Mẹ tổ quốc và những mẹ điển h́nh trong truyền kỳ lịch sử nước nhà, đề tài và cảm hứng dựa vào t́nh thương yêu và tính hiếu ḥa, tính t́nh này đă sinh tồn mạnh mẽ trên đất nước và phải được truyền đi trong thế giới tàn nhẫn của hiện nay (16)
    (16)Tạ Tỵ, Phạm Duy c̣n đó nỗi buồn, trang 200
    Nhiều người đồng thời với Phạm Duy bày tỏ một sự trân trọng coi PD là Kẻ du ca Phạm Duy với dân ca ..
    Nhưng về h́nh thức, theo dơi toàn bộ bài hát th́ thấy mệt, chán, dài lê thê, cóp nhặt âm hưởng của từng vùng. Nó là một thứ lắp ráp chưa khéo. Tách ra từng đoạn, từng phần th́ có phần hay. Những phần đoạn hay thường được giới thanh niên hát trong các sinh hoạt giới trẻ và nhất là trong những đoàn du ca của giới sinh viên học sinh. Chẳng hạn dân ca Như Lư Ngựa ô, Trèo lên quan Dốc, se chỉ luồn kim, Lư con sáo, hát bội trăng rằm, qua cầu gió bay dễ gây rung cảm v́ nó rất Việt Nam, gần gũi, quen thuộc, thân thương, gợi nhớ vv được PD lấy cả ư đến lời đến điệu nhạc, điệu ḥ như thể là của ḿnh.
    Nhiều người đă bày tỏ sự không thích của ḿnh. Ông đă xử dụng các câu ḥ, câu ví như thể là chính ông sáng tác. Không lạ ǵ, nhiều người đă đồng hóa Phạm Duy vào dân ca đó như thể là của chính ông sáng tác.
    Riêng nhạc sĩ Lê Thương đưa ra nhận xét: Những bài như Con đường cái quan hơi dài quá, điệp ư nhiều, có nhiều đoạn lại tham lời, tham ư quá, chẳng khác người mới làm văn không chịu lựa chọn những ư đặc biệt, những tư tưởng độc đáo để diễn tả, trái lại ư nào cũng thích, tư tưởng nào cũng ham, nhất nhất thu cả vào bài văn của ḿnh, làm cho độc giả coi mà mệt, do đó sinh ra ngán ngẩm”(17)
    (17)Llê Thương trả lời phỏng vấn của Vũ Bằng, Văn Học, số 102, trang 76 . Trích lại Nuyễn Trọng Văn, Ibid trang, 65
    Và một tiếng nói nữa của Trần Văn Khê nhận xét về hai bài hát về miền Nam Cửu Long Giang và Nhờ gió đưa về như sau: “Tôi nghĩ có lẽ Phạm Duy cho rằng miền Nam chịu ảnh hưởng Âu Châu rất nặng nề là khi đến miền Nam người lữ khách đi thời xưa đàn ngày nay, đàn mà nhạc Việt ảnh hưởng Âu Châu rất nhiều, nên hai bài hành khúc, không c̣n dân tộc tính của nhạc Việt nữa… Riêng đối với tôi, những câu nhạc nửa Âu, nửa Á, nửa Mỹ, nửa Việt Nam làm tôi tiếc người nhạc sĩ sáng tác hai phần đầu, người nhạc sĩ đă đem dân ca lên một mức khá cao để rồi phụ bạc dân ca trong phần chót nhạc phẩm.“ (18)
    (18) Trần Văn Khê, Nhận xét Trường Ca Con đường cái quan của Phạm Duy, Văn Học, 102, trang 69. Trích lại trong Nguyễn Trọng Văn, Ibid, trang 67
    Dân ca có nghĩa là gia tài chung của mọi người, không ai là tác giả, hay chỉ là vô danh. Vậy mà Phạm Duy đă mượn ư, mượn lời, rồi coi như của ḿnh. Nhiều người như các quư ông Nguyễn Hữu Ba, Trần Văn Khê đă có nhận xét rơ ràng về vấn đề này và yêu cầu ông sửa lại.
    Riêng Nguyễn Trọng Văn, thẳng thừng và khó tính hơn coi như một thứ ăn cắp không hơn, không kém. Nguyễn Trọng Văn đà nhận xét khá nặng nề như sau:” Ngoài thái độ lấy gia tài chung của dân tộc làm gia tài riêng của ḿnh, lấy vinh dự của dân tộc làm bậc thang cho riêng ḿnh, việc sử dụng trường ca cũng bị chỉ trích(19)
    (19) Nguyen Trong Van, ibid, 72
    Khó có thể chấp nhận được tính nhập nhằng của ông. Ông đă nhập nhằng không để tên các bài phổ nhạc của các thi sĩ. Bậy lắm. Không thể làm thế được. Đề thêm tên tác giả, bản nhạc có thể v́ thế mà mất gá trị đâu!!!
    Nay lại nhập nhằng trong dân ca!!
    Trong việc sáng tác của ông đa dạng về thể loại c̣n đa dạng về đề tài. Phong phú, nhưng trùng lập. Mâu thuẫn và không hợp lư. Các đề tài trong nhạc của Phạm Duy được ông thay đổi như chong chóng, nhảy từ lănh vực này sang lănh vực khác. Mỗi lần thay đổi th́ ông lại giải thích thế này, thế nọ. Nhưng nghe không lọt tai tư nào.
    Nó có vẻ tùy tiện, tùy cơ hội đưa đến. Nó không phải là những điều ông ấp ủ, xuất phát từ tim óc. Ít lắm, ông cũng phải trung thành với chính ḿnh, trung thành với những điều ông ấp ủ. V́ không thể ấp ủ nhiều thứ cùng một lúc được. Vừa mong chấm dứt chiên tranh, vừa phản chiến, vừa hiếu chiến?
    Tâm ca, Đạo ca, tục ca…
    Vào năm 1965, ông bắt đầu viết tâm ca. Ở thời điểm đó, viết tâm ca là có thể hiểu được, v́ đúng thời điểm. Có vẻ thời thượng nữa. Mức độ gia tăng chiến tranh đến chóng mặt với sự tham dự trực tiếp của người Mỹ vào miền Nam. Tâm trạng chán ghét chiến tranh, mỏi mệt, đă mỗi ngày một rơ mặt. Những người Thanh niên trẻ như Trịnh Công Sơn đă góp mặt và đă để lại những dấu ấn rơ nét qua những văn ảnh về bom đạn, xác người, quê hương rách nát.
    Phạm Duy kể trong Hồi kư, tập 3, ông có ba người con trai phải nhập ngũ. Ông viết :
    “Giới trẻ bị động viên. Ba đứa con trai tôi tuần tự nhập ngũ. Tôi đi thăm chúng tại trại Quang Trung, ḷng đầy ái ngạ. Gia đ́nh nào cũng có con phải đi lính. Ai cũng nếm mùi chia ly, hoặc mùi chết chóc, mặc dù chưa bị khó, khăn về kinh tế như sau này”. (19)
    (19) Trích Hồi Kư Phạm Duy, tập ba, chươg14
    Phạm Duy đóng góp bằng 10 bài Tâm ca, phổ thơ Nhất Hạnh. Trong 10 bài Tâm ca, có hai bài thật tiêu biểu như Tôi ước mơ, Giọt mưa trên lá.
    Những bài khác như Kẻ thù ta, Tiếng hát to, Một cành củi khô, Ru người hấp hối, Tôi bảo tôi măi mà tôi không nghe, Hát với tôi có tính dung tục, ” ḥ hét” , “tuyên truyền”. Chẳng có ǵ là Tâm ca cả .
    Thơ đó thể hiện được t́nh tự nhân loại, con người với những khát vọng, những ao ước ra khỏi cuộc chiến tranh này. T́nh con người, t́nh tự nhân loại thấm nhuần tư tưởng triết học, tôn giáo như ḥa trộn vào nhau.
    Nhưng tôi có cảm tưởng, ông đà không chuyên chở nổi thơ Nhất Hạnh. Âm nhạc Phạm Duy chưa tới. Thơ ở tầm cao mà nhạc không với tới. Người hát là giọng ca Thái Thanh, tuyệt vời trong Ngh́n Trùng xa cách lại tỏ ra khiên cưỡng đối với những bài tâm ca này. Giọng hát đanh quá, chát chúa, sắc quá khi lên cao giết chết cái hồn tính trong Giọt mưa trên lá.
    Nhạc không tới, giọng ca không thích hợp đă tự hủy tâm ca của ông và dĩ nhiên thơ của Nhất Hạnh nữa. 10 bài tâm ca này, nay mấy bài c̣n được nghe ai hát nữa?
    Cũng có một số phản ứng của vài trí thức khuynh tả thời đó, Lư Chánh Trung, trên Bách Khoa gọi Tâm ca là ảo tưởng, v́ tiếng hát to (trong tâm ca số 2. không thể nào to hơn súng nổ bên bờ ruộng già. Nguyễn Văn Trung th́ cho Tâm ca là mê hoặc v́ không thay thế được tư tưởng chính trị để dẫn tới một tranh đấu chính trị.
    Không nói tới vấn đề Phạm Duy thú nhận có bài ông chỉ sáng tác trong 15 phút. Đó là việc của ông. Nhưng chính bản thân người nghệ sĩ chưa trang bị đủ cái Spiritualité để đi vào cái hồn, cái linh thiêng ḥa nhập giữa tâm t́nh tôn giáo và chất nghệ sĩ.
    Ông thiếu một cái ǵ đó- dung tục mà chưa thoát tục-. Ông mong muốn tâm ca là tiếng nói của lương tâm, của con người đối đầu với sự thật và nhận diện lại mọi thứ, mọi giá trị trên đời này. Nếu thế th́ ông đă thất bại.
    Trên Văn Học số 21, tháng 10. 1987 sau này, Bùi Vĩnh Phúc có biện hộ phân tích mấy đi nữa về 10 Bài Tâm ca cũng không cứu gỡ nổi PD.
    Nói một cách thẳng thừng, 10 bài Tâm ca cũng rất có thể bị xếp chung vào thứ loạn phát (ex-croissance)nói chung của thời kỳ ấy! Nào dân ca, nào tâm ca, đạo ca, du ca, vỉa hè ca, tục ca.v.v..
    V́ vậy có một khoảng cách chưa quyện vào nhau giữa nhạc và thơ. Nó khác trường hợp TCS. Mặc dầu Phạm Duy tự tin rằng: Tôi đă nói hộ thi sĩ. Và tôi xin ghi lại đây lời giới thiệu của nhà Lá Bối khi cho in tập nhạc:” Tuy nhiên Lá Bối ghi nhận rằng những bài Tâm ca được tŕnh bày trong đây, tuy cũng xuất phát từ trái tim, tuy cũng là ngôn ngữ khóc cười theo mệnh nước, vẫn c̣n mang một sắc thái đặc biệt: Đó là tính cách tâm linh nội hướng và ư hướng điều hợp”(20)
    (20)Trich Hồi ky Phạm Duy, tập ba, Ibid
    Khi Thích Nhất Hạnh nói tới khát vọng ḥa b́nh, nói tới ước mơ th́ người tu sĩ thi sĩ ấy gửi gắm trong đó một sức mạnh tâm linh, một khát vọng tôn giáo, một nguyện cầu cho việc giải quyết cuộc chiến tranh ấy. Đem cái sức mạnh tâm linh ấy đến như một giải pháp vĩnh viễn cho con người chẳng những xóa bỏ hận thù mà c̣n có thể xích lại gần nhau, như anh em?
    Ảo tưởng hay ước mơ? Đă gọi là ước mơ th́ ai có thể cấm ông Nhất Hạnh được? Quyền ước mơ là quyền tối thượng trong những t́nh huống thật sự bi kịch đối với một nghệ sĩ. Thường sự phê phán là dựa trên thực tế cuộc đời mà ước mơ th́ lại thuộc một thế giới đi ra khỏi cuộc đời hay ở trên cuộc đời. Vậy th́ sự phê phán có tỏ ra thích hợp không.
    Thiếu cái chiều kích tâm linh trong việc phổ nhạc thơ Nhất Hạnh th́ PD khó có hy vọng thành công.
    Loạn Phát (ex-croissance) trong trường hợp Phạm Duy
    Làm xong 10 bài Tâm ca, PD cho người ta có cảm tưởng như thế là xong. Tâm ca đă hoàn tất, không con có ǵ để nói tới nữa. Bỏ Tâm ca một cách không thương tiếc, ông nhảy sang lănh vực sáng tác nhạc khác..
    Ngay cùng năm đó, 1965, người ta thấy Phạm Duy sản xuất hàng loạt những bản nhạc nghịch chiều, trái cựa như chửi cha nhau. Thoạt đầu với Huyền sử ca một người mang tên Quốc. Một cách gián tiếp tôn vinh những người hùng trong chiến tranh, thần tượng hóa cái chết của phi công Phạm Phú Quốc. Ông tự hào mở đầu cho ḍng nhạc hùng. Và tiếp theo đó một lô hàng sản xuất như ḿ ăn liền mang nhăn hiệu: Cung khúc Vơ Đại Tôn, Mùa Xuân máu đỏ, Bài ca tử sĩ cho người quê tôi. C̣n tệ hơn nữa, cũng chính năm đó, một lô sản phẩm có tên: Một hai ba, chúng ta là lính cả làng, Thi đua biện luận, Nông thôn quật khởi.
    Ông ra Vũng Tàu trong công tác xây dựng nông thôn. Ông lại cho ra đời một loạt bài hát như: Tay súng tay cầy, Hát hay không bằng hay hát, Cùng nhau xây ấp Mới, Khoác áo mầu đen …
    Tôi không có ư nói rằng không nên đề cao phi công Phạm Phú Quốc cũng như những bài thuộc xây dựng nông thôn của ông. Nhưng không thể cùng một lúc khát vọng ḥa b́nh, ngồi lại với nhau, sau đó lại cổ vũ chiến tranh. Và cuối cùng kết thúc với chiến ca mùa hè vào năm 1972.
    Phạm Duy trong t́nh huống và cung cách sáng tác như thế đưa đến sự nghi ngờ về tính trung thực của ông. Những sáng tác lẫn lộn ấy thể hiện tính bèo bọt, tính phù phiếm và bán “hàng giả” của ông..
    Tháng 3-1966
    Chống chiến tranh, phản chiến, khát vọng ḥa b́nh. Đó là những ǵ có thể t́m thấy trong tâm ca. Vậy mà cũng chính con người ấy, nghệ sĩ ấy, vào tháng 3-1966, ông được bộ Ngọai giao Mỹ mời viếng thăm Hoa Kỳ. Sau đó vào năm 1970, một lần nữa, ông được gửi sang Mỹ để “giải độc” dư luận Mỹ thường chống chiến tranh. Thật là trái khoáy và trớ chêu quá.
    Trong chuyến đi này, tại New York, ông đă có dịp gặp một nhóm chủ ḥa đồng thời gặp Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, ngồi trên sân khấu hội trường cùng với nhà văn thiên tả Arthur Miller ..
    Người Mỹ phản chiến trả tiền lưu trú, đi lại cho nhà sư mặc áo vàng ngồi” tĩnh tọa” trên bục sân khấu kêu gọi chấm dứt chiến tranh. Cũng người Mỹ trả tiền du lịch cho một nhạc sĩ ngồi ở dưới trong “chiến dịch giải độc” những kẻ chủ ḥa ngồi ở trên ..
    Ở trên, ở dưới, khoảng cách thật gần. Có hai kẻ thuộc loại chủ nghĩa thời cơ làm hai vai tṛ khác nhau và được chi trả theo công việc mà họ được chỉ định để làm.
    Chuyến đi Mỹ này thật khó nghĩ quá. Đă vậy, bài hát tủ mà ông thường hát cho Mỳ nó nghe lại là bài Giọt mưa trên lá, v́ có lời bằng anh văn. Nhận tiền Mỹ, làm công tác tuyên truyền, giải độc cho Mỹ.
    Nhưng hát Giọt mưa trên lá cho Mỹ nghe là một công việc vừa chửi Mỹ- kẻ chi tiền-, vừa chửi chính ḿnh-kẻ nhận tiền-.
    1970 một lần nữa, ông lại được mời sang Hoa Kỳ đi với đoàn bộ thông tin Hoa Kỳ nhằm “GIẢI ĐỘC”dư luận Mỹ trong vai tṛ cố vấn.
    Người Mỹ có thể nào thông minh và sáng tạo ra một Phạm Duy thủ nhiều vai tṛ như thế!!~ Và vai nào Phạm Duy cũng thủ diễn trọn vẹn.
    Có đến ba bốn Phạm Duy trong những câu chuyện như thế này.
    Vỉa hè ca:
    Sang đến năm 1968, ông sáng tác những nhạc phẩm có tên là vỉa hè ca, gợi hứng từ Chanson du pavé của Pháp. Vỉa hè ca gồm có các bài như Sức Mấy mà buồn, Nghèo mà không ham, Ô kê salem, Ô kê nước mắm.
    Vỉa hè ca biểu tỏ sự nghèo nàn, sự kiệt quệ, sự bế tắc trong sáng tác của Phạm Duy. Lời văn tếu, dửng mỡ, đùa giỡn, bất cần, nó chửi tất cả gia tài sáng tác của họ Phạm. Vỉa hè ca phải chăng là một mặt khác của cuộc đời sáng tác của Phạm Duy! Sức mấy trở thành chữ dùng thông tục .. Cái ǵ cũng sức mấy ..cả . Sức mấy như một thái độ bất cần, thách đố và coi thường tất cả ..
    Tục ca:
    Thấy như chưa đủ dose, ông dấn thêm bước nữa, sản xuất tục ca để văng tục vào cái xă hội ông đang sống. Đă có 10 bài Tâm Ca th́ tại sao không có 10 bài tục ca. Đó là cái lối lư luận của Phạm Duy.
    Thế là 10 bài tục ca ra đời với những tên rất là tục như: Khỉ đột, T́nh hôi, Nh́n Lồn.. em Đ.. Cầm cu… Ông viết, trong bấy nhiều bài, bài Nh́n Lồn, tôi viết cho đủ chữ là “tục tĩu quá”. Đă viết tục đuợc như thế mà c̣n ngại ngùng chi mà không viết đầy đủ chữ. Trẻ con nh́n lồn phụ nữ ngồi đi cầu, nh́n đủ thứ: lồn non, lồn lớn con, mập mạp, lồn mềm… Lồn tṛn hoặc lồn móm mém… rồi cuối cùng có đứa nh́n phải đúng lồn mẹ nó. Tôi gọi là tục tĩu quá cũng không quá đáng.
    Lại một lần nữa, ông thú nhận viết tục ca là do ảnh hưởng Phạm Duy Tốn,(20) nhất là nhạc sĩ Georges Brassens. Ông hay bắt chước quá. Và cầm nhầm nữa. Mấy bài tục ca này phần âm nhạc thế nào th́ tôi không biết, nhưng phần lời ca th́ thoải mái và gratuit quá, chẳng để làm ǵ. Thật sự không biết để làm ǵ? Từ nh́n lồn sang đạo ca th́ không biết phải nói thế nào.
    (20) Phạm Duy Tốn có viết một cuốn truyện gọi là Tiếu Lâm Annam rất là tục. Trong đó có kể một câu truyện, người vợ tḥm thèm th́ nhét một củ từ vào chỗ kín, người chồng không làm được đành ngủ với chó cái và không rút ra được. Nhưng Phạm Duy Tốn chỉ làm công việc ” sưu tập” Tiếu Lâm Annam . C̣n Phạm Duy là “sáng tác”
    Đây là một bài tục ca tiêu biểu do Phạm Duy sáng tác:
    Tôi có người yêu cái đít, to như Thẩm Thúy Hằng
    Cái đít nh́n qua khiến cho ta phải ngỡ ngàng nữa
    Vừa to vừa lớn ! Như Những mặt vua
    Mặt ông tổng thống cũng phải thua(21)
    (21) . Trích Hồi kư Phạm Duy, Ibid, tập 3..
    Tại sao ông lại viết tục ca để làm ǵ?
    Theo ông, viết tục là để châm biếm xă hội hoặc công phẫn về chính trị thời 1968-1972. Nhất là để “nổi giận” phải văng tục vào nền văn minh cơ khí, nền văn minh chiến tranh, nền văn minh tiêu thụ.
    Nổi giận với chiến tranh, với nền văn minh tiêu thụ th́ có liên quan ǵ đến cái đít to tội nghiệp của Thẩm Thúy Hằng bị biến thành con tin !! Đến việc mang những đứa trẻ nít vô tội đi nh́n L. đàn bà !!
    Phải chăng Phạm Duy là một con người muôn mặt !
    Đạo ca:
    Đến năm 1971, sáng tác của Phạm Duy rẽ sang một khúc quặt mới với sự gặp gỡ Phạm Thiên Thư, tức Thiền sư Tuệ Không. Phải nói rằng không gặp Phạm Thiên Thư th́ không bao giờ Phạm Duy có ư tưởng viết đạo ca. Sau khi đă đi qua một hành tŕnh sáng tác từ Tâm ca, Tâm Phẫn ca, Vỉa hè ca, Tục ca, Chiến ca và nay th́ bay lên chín từng không của Đạo ca .
    Ở đây, đó là một bước nhảy vào điều mà ông gọi là Đạo ca. Điều ǵ đă khiến ông thay đổi như thế? Khó hiểu mà cũng dễ hiểu. Chỉ là cái duyên gặp gỡ với Phạm Thiên Thư mà sinh ra cớ sự.
    Thoạt đầu tiên, Phạm Thiên Thư đưa ông bài thơ: Ngày xưa Hoàng Thị. Thế là có bài: Anh tan trường về. Bài hát thật dề thương. Ai cũng thích và ai cũng hát. Nhất là trong những buổi họp mặt đông người.
    Sau đó, Phạm Duy khoác áo Thiền sư.
    Khi đạo ca ra đời, ông cũng nhận được một số lời khen của bạn bè như họa sĩ Nguyễn Gia Trí, G.E Gauthier và như thường lệ có họa sĩ Tạ Tỵ. Những khái niệm hóa thân, đại vũ trụ, đồng nhất thể, mười phương thế giới là một, ḥa vào đạo, vào vũ trụ v.v… Tự nhiên, bỗng chốc ông được thừa hưởng hết những tinh hoa, cốt lơi cao diệu ấy, đạt tới chỗ siêu thoát mà chẳng tốn đồng xu cắc bạc nào.
    Những lời khen trên có chỗ sai là người ta chỉ biết có ông, tưởng ông là người có những tư tưởng cao diệu mà không lư ǵ đến Phạm Thiên Thư cả.
    Nhưng không sao, kẻ đă bỏ đời mà đi, thong dong đạo cốt theo tiếng chuông *Cam Lộ* như Phạm Thiên Thư th́ c̣n xá ǵ ba tiếng thị phi. Ông Phạm Duy cứ an tâm mà vơ hết về ḿnh đi.
    Nhưng Nguyễn Trọng Văn, một lần nữa đứng ở quan điểm con người dấn thân, nhập cuộc chỉ thấy ở đó một thái độ thoát ly, chạy trốn: “Những tư tưởng thoát ly của Đạo ca quả thực là một thái độ chạy trốn… Những tư tưởng thoát ly của Đạo ca quả thực là một cái ǵ mỉa mai, lạc lơng nếu không phải là một cái ǵ ru ngủ… Đạo ca không phải một thăng hóa, trái lại là một thái hóa so với tâm ca .. Đạo ca là một nối dài của t́nh ca, tục ca… khi nhữing thứ này không đủ sức giúp người thành thị thóat ly khỏi ḥan cảnh đau khổ trước mắt.“(22)
    (22) Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid, trang 123- 124
    Tôi không nghĩ như Nguyễn Trọng Văn, Đạo ca vẫn có chỗ của nó trong thời chiến. Chính ở những t́nh huống bi kịch đối đầu từng giây phút với cái chết, với khổ đau, Đạo ca là con đường tối ưu dần đưa con người ra khỏi trốn lưu đầy.
    Và lúc nào, con người dù hạnh phúc hay khổ đau th́ khát vọng về một thế giới bên trên vẫn là một khát vọng khôn nguôi.
    Khát vọng tôn gíáo là một khát vọng bản thể, khát vọng vĩnh hằng.
    Nhưng cái vấn đề Phạm Duy là một thứ phù thủy ngôn ngữ lắt léo, từ Tâm ca, tục ca, L..c, có đủ tư cách đóng vai một thiền sư dẫn dắt chúng sinh vào con đường của Đạo, của Tuyệt đối thể với những phạm trù ngôn ngữ như tiểu ngă, đại ngă, đồng nhất thể, mười phương thế giới là một không!
    Sau 1975 tại Hải ngoại
    Trước khi chấm dứt hành tŕnh sáng tác của Phạm Duy, chúng ta không quên : Bày chim bỏ xứ mà đến nay tôi chỉ được một lần nghe hát. H́nh như số phận của nó cũng giống như số phận một số nhà văn sáng tác sau 1975 ở Hải Ngoại.
    Tiếng hát, lời ca của Phạm Duy đă tắt.
    Trong thời kỳ này, từ 1978 về sau, ông sáng tác và phổ nhạc tất cả gần 100 bài hát. Nhưng hầu như không mấy ai biết đến những bài này. Trong đó, tôi đặc biệt để ư đến thơ Cao Tần và thơ Nguyễn Chí Thiện, loại thơ được coi là Chống Cộng mạnh mẽ nhất đă được ông phổ nhạc. Cạnh đó là những bản nhạc do ông phóng tác như Học Tập cải tạo, Phụ nữ Sàig̣n, Độc Lập Tự Do.( Độc lập là mất Cam Ranh, Tự do là bán dân ḿnh cho Nga, No là cơm độn bo bo, ấm là quần rách để tḥ Bác ra)…
    Chống Cộng quá đi ấy chứ.
    Chỉ có thể nói thêm một lần nữa, đó là thứ Phạm Duy muôn mặt.
    Chẳng ai c̣n biết tới những bài này nữa. Nó bỏ xứ mà bơ vơ lạc lơng nơi quê người, như chính thân phận bày chim bỏ xứ. Về già, về lại Việt Nam, một lần nữa, tôi lại được hân hạnh nghe ông tŕnh bày sáng tác mới nhất của ông liên quan đến tác phẩm truyện Kiều tại nhà một đại gia ở Sài G̣n. Tôi nghe mà không thấy thích thú ǵ.
    Bữa đó ra về, tôi tự nhủ ḷng là Phạm Duy đă hết rồi.
    Cuối cùng th́ cũng phải nh́n nhận với nhau rằng, có rất nhiều bất cập trong cuộc đời sáng tác của ông. Nhiều bản nhạc của ông cũng như cuộc đời của chính ông, số phận của nó sẽ không c̣n được ai biết tới.
    Nhưng ông cũng đă để lại một số bài t́nh ca được coi là bất hủ, cũng như một số bài được gọi là dân ca thời kháng chiến khó có thể quên, cộng thêm những bản nhạc hùng, vui tươi dành cho giới trẻ hay du ca: Mẹ Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam, Tôi yêu tiếng nước tôi, Em tan trường về. Kể chi hết được.
    Một nhận xét nhỏ đây là lần thư hai, tôi đọc hồi kư của ông. Ông không có một lời phỉ báng bất cứ ai, nhất là giới nhạc sĩ. Dĩ nhiên không kể những lời giải thích rất tùy tiện, khá huyênh hoang, rất chủ quan về lư do tại sao sáng tác cái này cái kia.
    Cũng trong bài này, tôi không nói tới những mối t́nh lớn nhỏ của ông. Một phần v́ là đời tư của ông, một phần c̣n có cái ǵ để nói nữa, v́ tự ông đă kể hết ra rồi trong hồi kư. Ai nói thêm nữa là thừa.
    Thứ hai, chuyện ông chọn về VN ở tuổi trên 80 là một chọn lựa cá nhân chẳng nên nói tới làm ǵ. T́m về VN ở tuổi đời như thế nên được rộng lượng hiểu là chuẩn bị cho một cuộc hành tŕnh về bên kia thế giới như một giấc mơ hoài hương và chẳng nên dem những dấu ấn chính trị để phê phán ông làm ǵ. Và nếu hiểu con người Phạm Duy th́ thấy rơ rằng, ông là người theo chủ nghĩa thực dụng, bất chấp những tiêu chuẩn giá trị người đời thường mang ra dùng để phê phán ông.
    Cũng ở đây, tôi nhận ra rằng Nguyễn Trọng Văn cũng như bất cứ ai phê phán ông th́ đă vấp phải sai lầm là đă đánh giá quá cao về ông, về vai tṛ người nghệ sĩ, đ̣i hỏi ở ông những điều ông không có được. Trước sau, ông chỉ là một người theo chủ nghĩa duy lợi, duy thực tiễn, chủ nghĩa cơ hội trong bất cứ t́nh huống nào.
    Sau bài nói chuyện của Nguyễn Trọng Văn tại Đại Học Văn Khoa th́ bạn bè có đưa ra nhận xét như sau:” Cậu làm như vậy là cho ông ấy đội mồ đứng dậy, chính cậu tác tượng cho ông ta, chứ đâu phải khai tử ông ấy. Hoặc: “Tư cách của Phạm Duy mà cậu lôi ông vào giảng đường Văn Khoa để nói tức là cậu biến ông ấy thành bất tử rồi, vinh hạnh cho Phạm Duy quá c̣n ǵ. Đáng lư phải nói bên cạnh đống rác hay cầu tiêu mới phải.”(23)
    (23Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid , trang 128
    Những phát biểu bên lề như thế và một số nhận xét coi ông như một gái điếm đều là những nhận xét xúc phạm đến ông một cách bất công. Thật không nên.
    Bài viết này có khen, có chê và cũng nhằm trả lại công đạo cho ông một phần.
    Và v́ thế câu hỏi ở đầu bài viết sẽ được trả lời là Phạm Duy c̣n đó và không thể chết, dù muốn dù không, dù thế nào đi nữa, ông cùng với Trịnh Công Sơn là những nhạc sĩ tài ba nhất của miền Nam Việt Nam Công Ḥa trước 1975.
    Giết ông th́ Ta ở với ai. Phần ông, trong những trang cuối cùng của tập Hồi kư, ông đă viết như sau:
    “Ngó lại những ngày đi theo Việt Minh th́ chua sót, nh́n vào người quốc gia th́ thiếu hứng khởi.(…) Ngồi trước dàn máy điện toán để viết nốt những ḍng chữ cuối cùng của đời ḿnh. Suốt trong 16 năm sống ở ngoại quốc, lúc nào tôi cũng bị cái dĩ văng 20 năm sống ở miền Nam đè nặng trái tim. Hăy cho tôi được xụp lạy thành phố thân yêu ở đây với vài câu trong bài: Thương nhớ Sài G̣n soạn năm 1981 tại Mỹ:
    Saigon ơi, yêu tôi xin chờ tôi nhớ
    Tôi sẽ trở về để hôn những vỉa hè
    Của Thành Đô, cao sang và say đắm
    Chia sớt tủi hờn và xây đắp tinh nồng
    Sài G̣n ơi dù có thay tên
    Mà người yêu c̣n nhớ không quên …
    Chỉ sợ ông không hôn vỉa hè Sài G̣n mà hôn gót kẻ mà ông đă trốn chạy và chửi bới trrong nhiều năm!!
    © Nguyễn Văn Lục
    © Đàn Chim Việt
    [/QUOTE]

    Hết

  5. #15
    Member
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    509

    Tên phản bội cộng đồng tỵ nạn cs Phạm Duy vừa "chống gậy theo hồ chí minh"

    Lê Diễn Đức: Chưa cần nói về thái độ tráo trở, đáng trách của Phạm Duy trươc nhà cầm quyền CSVN khi về nước, người nghệ sĩ tử tế không thể cho ra công chúng những sản phẩm "con heo" bẩn thỉu. Bản thân Lồn, Cặc không xấu, thậm chí c̣n đáng quư, nhưng ở đây là nguyên tắc thẩm mỹ và đạo đức của văn hoá nghệ thuật trong đời sống công cộng. Đây là một trong các tác phẩm trong ḍng âm nhạc mà Mít Tờ Đỗ gọi là "Lồn ca" của con người Phạm Duy.
    https://www.youtube.com/watch?featur...v=ncc1l1Cksiw#!

    Phạm Duy - Tục ca số 7
    www.youtube.com
    Bài số 7 trong 10 bài tục ca của Phạm Duy do chính tác giả tŕnh bày.

  6. #16
    Member
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    509

    Tên phản bội cộng đồng tỵ nạn cs Phạm Duy vừa "chống gậy theo hồ chí minh"

    Lê Diễn Đức: Chưa cần nói về thái độ tráo trở, đáng trách của Phạm Duy trươc nhà cầm quyền CSVN khi về nước, người nghệ sĩ tử tế không thể cho ra công chúng những sản phẩm "con heo" bẩn thỉu. Bản thân Lồn, Cặc không xấu, thậm chí c̣n đáng quư, nhưng ở đây là nguyên tắc thẩm mỹ và đạo đức của văn hoá nghệ thuật trong đời sống công cộng. Đây là một trong các tác phẩm trong ḍng âm nhạc mà Mít Tờ Đỗ gọi là "Lồn ca" của con người Phạm Duy.
    https://www.youtube.com/watch?featur...v=ncc1l1Cksiw#!

    Phạm Duy - Tục ca số 7
    www.youtube.com
    Bài số 7 trong 10 bài tục ca của Phạm Duy do chính tác giả tŕnh bày.

  7. #17
    Member
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    509
    Thực tế Nhạc sĩ VIỆT KHANG chỉ 2 bản nhạc mà giá trị trong ḷng Dân Tộc Việt đời đời qua từng thời đại. Gía trị hơn hẳn (Phạm duy hơn 1000, Trịnh công sơn hơn 200).
    TND

  8. #18
    Chín-đờn-c̣
    Khách

    Nhục sĩ Phạm Duy với nụ cười hớn hở, cầm trên tay là tờ chứng nhận "nhăn dzăng"
    Kể từ đó kiếp làm người Duy quăng bỏ, cúi khom lưng làm thân chó lông quăn
    Chủ cho sủa; chó Duy vẫy đuôi mừng rỡ, rít từng hồi mà nghèn nghẹn đến cuối đời:
    1000 tác phẩm cả gia tài vĩ đại, chịu thoát thai làm thân chó, chao ơi!
    Sự đánh đổi để hơn 100 bài nhạc, được "tự do" và vinh dự đến không ngờ!

  9. #19
    Member
    Join Date
    31-03-2011
    Location
    http://letungchau.blogspot.com/
    Posts
    140

    Những Vầng Thơ Nên Đọc Lại 1 Lần khi Phạm D died


    Nhạc Vô Sĩ Phạm D


    HÀNG THẦN TRÂNG TRÁO
    -Caubay-

    Bên trên là giấy chứng minh
    Bên dưới là sổ gia đ́nh vẹm cho

    Miệng cười trơ cái mặt mo
    Hai tay cung kính khoe tṛ luồn trôn
    Tuổi già bán rẻ linh hồn
    Mua ǵ? Bác, Đảng, hay (h)ồn c̣n tơ

    Loài người sao có kẻ dơ
    Hủy ḿnh, chối bạn đi thờ kẻ gian
    Cuối đời làm kẻ qui hàng
    Thốt lời xu nịnh bẽ bàng cháu con.

    Caubay
    12-02-2007

  10. #20
    Member
    Join Date
    19-09-2010
    Posts
    94
    Phạm Duy chết , mặc dù là một " thiên tài " âm nhạc như nhiều người ca tụng, nhưng tin ông chết vẫn không ầm ỷ như khi Nguyễn Cao Kỳ chết . Mặc dù cả hai có nhiều điểm khá tương đồng trong cuộc sống cuối đời .
    Đối với tôi , Phạm Duy đă chết từ hơn 10 năm trước . Từ khi xem được show " Ngày trở về " của ông thực hiện ở VN . Trong phần giới thiệu , ông xảo ngôn rằng những người Việt hải ngọai rời bỏ VN là v́ vấn đề kinh tế ( nghèo quá phải đi tha phương cầu thực , chứ không phải tị nạn CS ) . Ơn ông ! Ông có phát biểu th́ phát biểu cho chính cá nhân ông thôi . Xin ông đừng " đại diện " cho ai hết . Hơn nửa triệu người VN đă bỏ mạng trên biển trên đường t́m Tự Do , " nhờ " ông mà những cái chết của họ trở thành vô nghĩa . Trước 1975 , miền Nam trong thời chiến tranh , vẫn có người nghèo , nhưng có ai bỏ xứ ra đi tị nạn kinh tế đâu hả ông PD ?. Nhưng có mấy ai tin lời ông nói ?
    Bên cạnh những phát ngôn gây xốc của ông trong những ngày cuối đời ở VN và cuộc sống t́nh cảm lăng nhăn đầy tai tiếng của ông , âm nhạc của ông cũng đă một thời làm tôi yêu mến : Hoa Xuân , Đưa em t́m động hoa vàng , Gọi em là đóa hoa sầu .
    Ngủ yên nhé , ông Phạm Duy ! Trong cuộc sống c̣n nhiều điều đáng quư khác , ng̣ai danh và lợi .

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •