Page 3 of 7 FirstFirst 1234567 LastLast
Results 21 to 30 of 68

Thread: QLVNCH/SƯ ĐOÀN BỘ BINH 4 VÙNG CHIẾN THUẬT & CÁC TRẬN ĐÁNH LỊCH SỬ

  1. #21
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến dịch Trị Thiên - CHIẾN LƯỢC CS BẮC VIỆT
    Wikipedia

    Chuỗi các trận đánh ở Quảng Trị năm 1972
    Thời gian: 30 tháng 3 năm 1972 - 31 tháng 1 năm 1973
    Địa điểm: Quảng Trị
    Kết quả: QLVNCH giành chiến thắng hạn chế.[1]
    Tham chiến
    Quân đội Nhân dân Việt Nam
    Quân lực Việt Nam Cộng hoà
    Không lực Hoa Kỳ và Hạm đội 7


    Lực lượng CS Bắc Việt:
    Chỉ huy
    Lê Trọng Tấn - Hoàng Đan
    3 sư đoàn bộ binh, 2 trung đoàn thiết giáp (khoảng 100 xe), khoảng 45.000 quân (lúc đầu)
    156 đại bác, khoảng 100 xe tăng

    Lực lượng VNCH/Mỹ:
    Chỉ huy
    Ngô Quang Trưởng - Vũ Văn Giai
    2 sư đoàn bộ binh, 2 lữ đoàn lính thủy đánh bộ, 3 thiết đoàn xe tăng-xe bọc thép, 17 tiểu đoàn pháo binh.
    Tổng cộng khoảng 50.000 quân chủ lực (lúc đầu), 100.000 quân địa phương quân và Bảo an.
    258 đại bác, hơn 500 xe tăng-xe thiết giáp (lúc đầu)

    Không quân và Hải quân Hoa Kỳ (có 6 tàu sân bay, 5 tàu tuần dương, hơn 1.000 máy bay chiến thuật và 100 máy bay ném bom chiến lược B-52, ném gần 328.000 tấn bom)[2]

    Tổn thất CS
    Theo QĐNDVN: 14.000+ chết [1]
    Bị thương không rơ.
    Hơn 100 bị bắt

    Tổn thất VNCH
    Theo QĐNDVN: Giai đoạn 1 (từ 31/1 đến 27/6): 27.458 chết hoặc bị thương, 3.388 bị bắt.[3]

    Theo QĐNDVN: Giai đoạn 2 và 3 (từ 28/6/1972 đến 31/1/1973): 29.822 chết hoặc bị thương[4]
    .

    Chiến dịch Trị Thiên là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam do Quân đội Nhân dân Việt Nam thực hiện vào năm 1972. Đây là một phần trong Chiến dịch Xuân hè 1972 mà Việt Nam Cộng ḥa gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa.

    Kế hoạch của 2 bên

    Quân đội Việt Nam Cộng ḥa


    Chiến trường Trị - Thiên có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống pḥng ngự chiến lược ở miền Trung và Tây Nguyên của Mỹ và chính quyền Sài G̣n. Từ đầu năm 1970 đến giữa năm 1971, mặc dù liên tục bị tập kích, binh lực hao hụt nặng, nhất là ở vùng đường 9 - bắc Quảng Trị, QLVNCH vẫn không rút bỏ bất cứ một cứ điểm nào trong hệ thống pḥng thủ chiến lược trọng yếu Trị - Thiên. Cuối năm 1971, mặc dù phán đoán hướng tiến công chiến lược chính năm 1972 của Quân Giải phóng không phải là Trị - Thiên, nhưng do tầm quan trọng của địa bàn chiến lược này nên Bộ Chỉ huy Vùng chiến thuật I vẫn ráo riết tăng cường lực lượng đẩy mạnh các cuộc “hành quân tảo thanh Việt cộng” trong địa phận đảm nhiệm, tung biệt kích, thám báo nhằm thăm ḍ, phát hiện lực lượng và sự chuẩn bị của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

    Cho đến giữa tháng 3-1972, lực lượng VNCH ở Trị - Thiên gồm có 2 sư đoàn bộ binh (1, 3), 2 lữ đoàn lính thủy đánh bộ (147, 258), 3 thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép (11,20, 17), 17 tiểu đoàn pháo binh từ 105 mm đến 175 mm (258 khẩu), 4 tiểu đoàn, 94 đại đội bảo an, 302 trung đội dân vệ, 5.000 cảmh sát. Với lực lượng trên đây, VNCH tập trung bố pḥng trên hai hướng Quảng Trị và Thừa Thiên. Đặc biệt ở Quảng Trị, VNCH liên tục duy tŕ Sư đoàn bộ binh 3, hai lữ đoàn 147 và 258, hai thiết đoàn 11 và 20 (chưa kể lực lượng bảo an dân vệ địa phương). Tổng cộng khoảng 50.000 quân chủ lực, 100.000 quân địa phương quân và Bảo an. Xét về mật độ th́ đây là nơi tập trung quân mạnh và dày đặc nhất trên toàn chiến trường.

    Lực lượng VNCH ở Quảng Trị được phân chia thành ba tuyến:

    Tuyến ngoài cùng (tuyến giáp ranh), bố trí tương đối liên hoàn, chặt chẽ, có không gian rất rộng, kéo dài từ biển Đông đến gần biên giới Việt - Lào, có nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn, phá hoại sự chuẩn bị của QĐNDVN từ xa. Lực lượng bảo vệ tuyến này chủ yếu là không quân, pháo binh, biệt kích; trong trường hợp khẩn cấp, một bộ phận quân chủ lực sẽ được điều động làm nhiệm vụ nống lấn càn quét.
    Tuyến giữa, tuyến pḥng thủ quan trọng nhất gồm hệ thống các điểm cao, các căn cứ mà từ lâu Mỹ - Thiệu đă từng tuyên bố và vững tin là “bất khả xâm phạm”. Hệ thống đó gồm: động Ông Do, điểm cao 3654, 548, 597, 241, 544… kéo đến Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quáng Ngang, đồi 31. Nhiệm vụ của tuyến này là ngăn chặn các cuộc tiến công của QĐNDVN, bảo vệ các thị xă, thị trấn, các căn cứ, đường giao thông quan trọng và các vùng đă được b́nh định. Để thực hiện nhiệm vụ đó, VNCH thường xuyên tổ chức thành từng khu vực pḥng thủ cấp trung đoàn, tiểu đoàn hoặc tương đương vừa có thể liên kết pḥng giữ vừa có thể độc lập tác chiến.
    Tuyến trong cùng, c̣n gọi là tuyến pḥng ngự dự pḥng - kéo dài từ đường số 1 ra biển Đông, gồm các thị trấn, thị xă đông dân Đông Hà, Cửa Việt, Ái Tử, Quảng Trị. Các đơn vị chủ lực ở tuyến này có nhiệm vụ vừa sẵn sàng đánh trả các cuộc tiến công lớn của QĐNDVN, vừa phối hợp chặt chẽ với bảo an, dân vệ,, đánh phá các phong trào đấu tranh, hoặc nổi dậy của quần chúng.

    Trên cơ sở phân chia tuyến, vùng hoạt động, Sư đoàn 3 và các lữ đoàn, thiết đoàn phối thuộc tổ chức pḥng thủ ở Quảng Trị thành năm khu vực cấp trung đoàn: Trung đoàn 57 bố trí ở Quán Ngang, Dốc miếu xuống đồi 31; Trung đoàn 2 từ Bái Sơn đến Cồn Tiên; Trung đoàn 56 từ điểm cao 241 đến Tân Lâm; Lữ đoàn 147 từ Mai Lộc đến Động Toàn; Lữ đoàn 258 từ Tân Điền đến điểm cao 367; Thiết đoàn 17 có ba chi đoàn đóng ở Gia Lệ Thượng, Đông Lâm, Nhị Thượng. Sở chỉ huy Sư đoàn 3 do viên chuẩn tướng Vơ Văn Giai chỉ huy, đóng tại Ái Tử…

    Nh́n chung, chỗ mạnh của VNCH ở khu vực đường 9 - bắc Quảng Trị là hệ thống pḥng ngự kiên cố, vững chắc, được xây dựng và hoàn chỉnh từng bước trong hai năm 1970-1971. Đây là những cứ điểm lợi hại, có hệ thống hỏa lực mạnh, được tính toán phần tử bắn theo tọa độ lưới rất kỹ cho pháo binh, pháo hạm và không quân (kể cả máy bay chiến lược B-52). Do đó, hệ thống hỏa lực tại đây có thể khống chế được một vùng rộng lớn hai bên nam - bắc sông Bến Hải. Nhưng chỗ yếu cơ bản của hệ thống pḥng ngự là bên ngoài mạnh, bên trong sơ hở, nhất là khu vực rừng núi phía tây từ Ba Ḷng đến núi Cái Mương (Huế). Hơn nữa, từ khi bộ binh Mỹ rút, tinh thần binh sĩ Sài G̣n hoang mang, quân dự bị (kể cả dự bị chiến lược) thiếu, mỏng, dàn trải ở khắp nơi.

    Quân đội Nhân dân Việt Nam

    Trên cơ sở nắm bắt sát diễn biến thực tế, lường định xu thế phát triển của t́nh h́nh và quyết định thay đổi hướng tiến công chiến lược chủ yếu năm 1972 (từ chiến trường Đông Nam Bộ sang chiến trường Trị - Thiên) của Thường vụ Quân ủy Trung ương, ngày 23-3-1972, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp thảo luận, nhất trí phê duyệt kế hoạch tiến công cho 1972.

    Căn cứ nhiệm vụ của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương giao, ngày 16-3-1972, tại Băi Hà (phía tây huyện Vĩnh Linh), Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên họp bàn triển khai kế hoạch tác chiến. Sau khi nghiên cứu phân tích thêm về nhiệm vụ chiến lược năm 1972 của Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương trên chiến trường miền Nam và trên chiến trường Quảng Trị, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định phân chia chiến trường Quảng Trị thành bốn cánh tác chiến và sử dụng lực lượng chiến đấu trên từng cánh như sau:

    Cánh Bắc, cánh chủ yếu của chiến dịch, sử dụng Sư đoàn 308 (thiếu một trung đoàn), hai trung đoàn bộ binh (48, 27), hai trung đoàn pháo mặt đất (164, 84), trung đoàn pháo cao xạ, hai tiểu đoàn xe tăng, xe bọc thép, hai tiểu đoàn công binh, Tiểu đoàn đặc công 33, ba trung đội hóa học, trinh sát, súng phun lửa… do Phạm Hồng Sơn, Phó Tư lệnh chiến dịch và đồng chí Hoàng Minh Thi, Phó Chính ủy chiến dịch trực tiếp chỉ huy, được các lực lượng vũ trang địa phương phối hợp, có nhiệm vụ tiêu diệt Trung đoàn 57 và Trung đoàn 2 bộ binh (thuộc Sư đoàn bộ binh 3 Sài G̣n) ở điểm cao 544, Đồi Tṛn, Động Mă, Cồn Tiên; thừa thắng bao vây tiêu diệt miếu Bái Sơn, Quán Ngang; sẵn sàng diệt địch ở Hồ Khê, Đá Bạc, Thiện Xuân, Lăng Cô, Gia B́nh… Sau khi đă tiêu diệt được toàn bộ các mục tiêu nói trên, các đơn vị nhanh chóng chuyển sang bao vây tài chính cụm cứ điểm Đông Hà, kiên quyết không cho địch co cụm đối phó.

    Cánh Tây, sử dụng Sư đoàn 304, bốn trung đoàn pháo cao xạ (230, 232, 241, 280), Trung đoàn 38 pháo binh, hai tiểu đoàn tên lửa, một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn công binh do Đại tá Hoàng Đan - Sư đoàn trưởng sư đoàn 304 chỉ huy, đảm nhận tiến công tuyến pḥng ngự phía tây ở Động Toàn, Ba Tum, Ba Hồ, nếu địch phản ứng có thể tổ chức tiêu diệt trước thời hạn quy định, nhằm thu hút địch tạo điều kiện cho các cánh khác chuẩn bị. Sau đó, toàn cánh phối hợp với cánh Bắc đánh chiếm Núi Kiếm, bao vây tiêu diệt các căn cứ 241, Mai Lộc, Đầu Mầu, sẵn sàng tiến công tiêu diệt Ái Tử.

    Cánh Nam, do Sư đoàn 324 cùng các đơn vị phối thuộc (tiểu đoàn thông tin, tiểu đoàn công binh) được sự hỗ trợ của hai tiểu đoàn địa phương tỉnh Quảng Trị, do Giáp Văn Cương, Phó Tư lệnh và Lê Tự Đồng, Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ huy, có nhiệm vụ tấn công ở phía đông dăy Thượng Nguyên, chủ yếu từ khu vực động Ông Do xuống đoạn đường số 1 (nam thị xă Quảng Trị đến bắc sông Mỹ Chánh, thực hiện chia cắt chiến dịch, hỗ trợ cho nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng nổi dậy giành quyền làm chủ.

    Cánh Đông, cánh thứ yếu của chiến dịch, kéo dài từ Hoàng Hà, Mai Xá, Cửa Việt lên ngă ba Gia Độ (bắc sông Hiếu). Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định sử dụng Đoàn 126 đặc công hải quân, hai tiểu đoàn đặc công trên bộ (31, 25), Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh, một tiểu đoàn pháo mang vác, hai đại đội địa phương Quảng Trị, do Bùi Thúc Dưỡng, Tham mưu phó chiến dịch chỉ huy, làm nhiệm vụ bao vây Dốc Miếu, Quán Ngang từ phía đông, tiến công quân cảng Cửa Việt, sau đó phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt và làm tan ră lực lượng bảo an, hỗ trợ nhân dân các xă ven biển Gio Linh, Triệu Phong nổi dậy giành quyền làm chủ.

    Về phương châm chỉ đạo tác chiến, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương: "tranh thủ đánh địch ngoài công sự để tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh, tạo thời cơ đánh những trận quyết định tiêu diệt từng trung đoàn, lữ đoàn địch, phá vỡ tuyến pḥng thủ, nhanh chóng đột phá tung thâm, không cho chúng đối phó, phát huy cao độ uy lực của mọi loại binh khí kỹ thuật hiện có, đánh tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, coi trọng đánh vừa và nhỏ, đánh sâu và hiểm bằng những lực lượng tinh nhuệ, hỗ trợ cho nhân dân Quảng Trị, Thừa Thiên nổi dậy giành quyền làm chủ."

    Khi các binh đoàn chủ lực của QĐNDVN đă ở tư thế sẵn sàng tiến công th́ phía đối phương vẫn không hề đoán định được hướng chính của cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Ngày 18-3-1972, viên trung tướng Hoàng Xuân Lăm - Tư lệnh Vùng I chiến thuật cùng viên chuẩn tướng Vơ Văn Giai - Tư lệnh Sư đoàn 3 và viên đại tá Phan Bá Ḥa - Tỉnh trưởng Quảng Trị, sau khi dùng máy bay trực thăng kiểm tra khu vực đường 9 - bắc Quảng Trị, đă thống nhất nhận định: Quân Giải phóng chưa thể mở chiến dịch lớn ở Quảng Trị. V́ vậy, theo kế hoạch quân sự h́nh thành từ trước, ngày 25-3, Bộ Chỉ huy Sư đoàn 3 quân lực Việt Nam Cộng ḥa vẫn cho các đơn vị đóng chốt ở phía trước thay quân. Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 2) Từ Đong Hà ra Cồn Tiên; Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 56) từ Cồn Tiên vào Tân Lâm; Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 2) thay tiểu đoàn 1 ở điểm cao 541; Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 57) ở Mai Xá Thị, Tân Hà thay Tiểu đoàn 2 ở Dốc Sỏi, Xuân Hải; Tiểu đoàn 1 (Lữ đoàn 147) thay Tiểu đoàn 4 ở Động Toàn.

    Lực lượng tham chiến

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa và Mỹ:

    2 sư đoàn bộ binh 1 và 3
    Liên đoàn dù biệt kích 81
    2 lữ đoàn thủy quân lục chiến 147 và 258
    4 trung đoàn và 2 chi đoàn thiết giáp: thiết đoàn 7, 18 kị binh, trung đoàn 51 bộ binh
    17 tiểu đoàn pháo binh và một số tiểu đoàn công binh, gồm 258 khẩu đại bác cỡ 105mm trở lên (chưa kể các loại pháo bắn thẳng và súng cối hạng nặng)
    4 tiểu đoàn và 94 đại đội bảo an; 302 trung đội dân vệ; 5.100 cảnh sát.
    Pháo hạm từ hạm đội 7 và không quân Mỹ với 1.000 máy bay và 100 ném bom chiến lược B-52 yểm trợ.

    Quân đội Nhân dân Việt Nam:

    Các sư đoàn bộ binh: 304, 308, 320, 324 và 325, sau được tăng cường thêm 312 tại Lào.
    2 trung đoàn tăng, thiết giáp: 202 và 203 với hơn 100 xe tăng T-34, T-54, PT-76
    Một số tiểu đoàn đặc công
    Bốn trung đoàn pháo binh cơ giới với 408 khẩu gồm: 63 khẩu pháo chiến dịch 130mm, 93 khẩu pháo cấp sư đoàn (122 ly và 105 ly) và 247 khẩu pháo mang vác bộ binh (sơn pháo 76mm hoặc 85mm, pháo không giật, súng cối 120mm...).[5]
    Hai sư đoàn pḥng không: sư đoàn 367 và 376 với 3 trung đoàn pháo pḥng không 282, 284, 224 và hai trung đoàn tên lửa 238, 237 với tên lửa đất đối không SA-2
    Các lực lượng tại chỗ của B5, B4 và Đoàn 559

    Diễn biến

    Năm 1972, nhằm tạo áp lực lên bàn hội nghị ḥa b́nh ở Paris, Quân đội nhân dân Việt Nam (QDNDVN) đă mở một chiến dịch lớn đánh vào Quảng Trị (Chiến dịch Trị Thiên), QDNDVN đă chọc thủng pḥng tuyến của Việt Nam Cộng ḥa (VNCH), chiếm được thị xă Quảng Trị và thành cổ, tiến đến bờ bắc sông Mỹ Chánh, uy hiếp Thừa Thiên-Huế. Nhận thấy nguy cơ vùng 1 chiến thuật bị mất vào tay QĐNDVN, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă huy động toàn bộ lực lượng chiếm lại Quảng Trị với sự yểm trợ của hỏa lực Mỹ. Trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt và đẫm máu, quân VNCH dưới sự yểm trợ của Mỹ (kết hợp pháo hạm và pháo trên bộ, dùng B-52 ném bom trải thảm, cứ 30 phút 1 đợt B-52, độ tàn phá bằng 8 quả bom nguyên tử đă thả ở Hiroshima)[6], huy động bộ binh, lính dù, thủy quân lục chiến tấn công dữ dội ḥng chiếm lại thành cổ Quảng Trị và cuộc chiến này đă diễn ra suốt 81 ngày đêm từ ngày 28 tháng 6 năm 1972 đến 16 tháng 9 năm 1972.

    Giai đoạn 1: Quân đội Nhân dân Việt Nam tấn công
    Băo táp 1


    Chiến dịch Xuân - Hè 1972 có 3 chiến trường chính, Quảng Trị, Kontum-Pleiku, và Đông Nam Bộ (B́nh Long, B́nh Phước). Trong đó hướng chủ yếu là Quảng Trị.
    Dân chúng Quảng Trị di tản tránh chiến sự

    Sáng ngày 30-3-1972, nhận được tin do lực lượng quân báo mặt trận báo cáo về việc Trung đoàn 56 quân Sài G̣n trên hướng chủ yếu của chiến dịch đang cho các tiểu đoàn vào thay quân ở điểm cao 541 và Đồi Tṛn, Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên thống nhất đề nghị Bộ Tổng Tư lệnh cho bộ đội nổ súng vào 11 giờ 30 phút (thay v́ 16 giờ của kế hoạch cũ). Đề nghị được chấp nhận. Ngày 31-3-1972, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi: “Trước nhiệm vụ lịch sử trọng đại đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, Trung ương Đảng kêu gọi các cấp ủy đảng, các cấp chỉ huy, toàn thể đảng viên, đoan viên, cán bộ, chiến sĩ hăy ra sức thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch kính yêu, có quyết tâm cao nhất, đem hết sức ḿnh, kiên quyết chiến đấu, cống hiến lớn nhất cho Tổ quốc."[7]

    Mở màn chiến dịch, năm cụm pháo binh gồm hàng trăm khẩu bố trí trận địa từ Trung Hải, Lăng Cô (đông bắc) tới Sa Pa, Ba Hi (hướng nam), với phần tử xạ kích đă được tính toán kỹ, tới tấp nă đạn vào các mục tiêu Dốc Miếu, Dốc Sỏi, Cồn Tiên, miếu Bái Sơn, Đồi Tṛn, Đầu Mầu, Tân Lâm, Động Toàn, Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử… Hỏa lực chế áp của pháo binh tạo điều kiện cho bộ binh và xe tăng QĐNDVN nhanh chóng xông lên, ấp sát mục tiêu.

    Cánh Bắc do trung đoàn 27 và trung đoàn 48 bộ binh (Sư đoàn 320) đảm nhiệm. Ở hướng tiến công của Trung đoàn 27, pháo vừa chuyển làn, tiểu đoàn 2 đă ào lên đánh chiếm điểm cao 544 chỉ 20 phút. Tiếp đó, Tiểu đoàn 2 tràn xuống bao vây công kích ở Đồi Tṛn. Trong lúc hỏa lực súng cối, ĐKZ, 12.7 mm bắn phá mănh liệt, một bộ phận lực lượng các trung đoàn được lệnh sử dụng hai bộ vũ khí FR đánh phá nhiều lớp rào kẽm gai mở cửa vào căn cứ, bộ đội đánh tràn lên. Đến 10 giờ 30 phút ngày 31-3, Trung đoàn 27 đă chiếm Đồi Tṛn, diệt gọn 2 tiểu đoàn và một đại đội thuộc sư đoàn 3 VNCH, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn và một đại đội khác, bắt sống 130 lính, trong đó có tiểu đoàn trưởng, phá hủy 5 xe tăng, thu một xe tăng M41 và một xe GMC. Hai căn cứ tiền tiêu cực kỳ quan trọng ở bắc đường số 9 đă bị hạ một cách nhanh chóng.

    Cùng thời gian này, ở khu vực Cồn Tiên, Đoàn bộ binh 31 nhanh chóng bao vây, chia cắt, tiêu diệt quân cơ động ở ṿng ngoài; sau đó, cùng lực lượng vũ trang địa phương vây hăm căn cứ. Lo sợ những đ̣n tiến công sắp tới, ngay chiều ngày 31-3, quân VNCH ở Cồn Tiên bỏ căn cứ chạy về miếu Bái Sơn, mở đầu cuộc rút chạy trên tuyến pḥng thủ ṿng ngoài.

    Cánh Tây - cánh trọng yếu của chiến dịch do Sư đoàn 304 đảm nhiệm, sáng 30-3, 11 giờ 45 phút, pháo binh tới tấp dội đạn xuống hàng loạt các căn cứ rải dọc hai bên đường 9, dọc hàng rào điện tử McNamara. Tại khu vực điểm cao 252, chớp thời cơ quân VNCH hoảng loạn do bị hỏa lực pháo binh chế áp, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 304 lệnh cho Trung đoàn 66 sử dụng Tiểu đoàn 2 dâng cao đội h́nh công kích điểm cao này. Sau một ngày chiến đấu quyết liệt, Tiểu đoàn 2 và bộ phận tăng cường đă làm chủ điểm cao 252, diệt và bắt sống 150 lính. Trưa ngày 31-3, Tiểu đoàn 2 và lực lượng phối thuộc tiếp tục tiến công cứ điểm Đầu Mầu, sau hai giờ chiến đấu đă làm chủ căn cứ, diệt gọn Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 56 quân lực Việt Nam Cộng ḥa.

    Cánh Đông, Đoàn đặc công hải quân 126 táo bạo tiến công Duyên đoàn 11 quân lực Việt Nam Cộng ḥa ở Cảng Cửa Việt, sau đó triển khai đội h́nh khóa chặt quân cảng này. Căn cứ Dốc Miếu nằm bên trục đường 1 bị pháo ta bắn phá thiệt hại nặng nề và bị vây hăm từ ba phía. Sáng ngày 1-4, Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh phối hợp chặt chẽ với bộ đội đặc công và dân quân, du kích địa phương tiến công tiêu diệt các lực lượng bảo an, dân vệ ở các thôn ấp, tiểu khu, giải phóng quận lỵ Gio Linh, khu tập trung Bến Ngự, Mai Xá Thị, Hà Thượng, Xuân Khánh…

    Cánh Nam do Sư đoàn 324 đảm nhiệm. Gần 11 giờ trưa ngày 30-3-1972, có 2 máy bay trực thăng tiếp tế cho lực lượng đang chốt giữ điểm cao 365. Khi máy may trực thăng vừa đáp xuống hai băi đỗ th́ lệnh tiến công trên toàn tuyến phát ra. Ngay từ loạt đạn đầu, hai chiếc trực thăng và một số mục tiêu lộ đă bị trúng đạn, bốc cháy. Đến 1 giờ, hầu hết hỏa điểm lộ trong căn cứ 365 bị phá. Trung đoàn 1 lần lượt xung phong tiêu diệt những ổ kháng cự. 19 giờ th́ làm chủ trận địa. Mất điểm cao 365, quân VNCH ở điểm cao 367 rút chạy về căn cứ Phượng Hoàng.

    Cùng thời gian, Trung đoàn 24 Sư đoàn 304 ở cánh Tây Bắc cũng xiết chặt ṿng vây, công kích mănh liệt ở Tân Lâm và căn cứ ở điểm cao 241. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, toàn bộ trung đoàn VNCH trong căn cứ và các trận địa hỏa lực trực thuộc do viên trung tá Phạm Văn Đính chỉ huy chấp nhận đầu hàng. 12 giờ 45 phút ngày 2-4, toàn bộ khu vực pḥng thủ cánh Tây Bắc của VNCH bị phá vỡ. Đến ngày 4-4-1972, tuyến pḥng thủ vững chắc ṿng ngoài được gọi là "lá chắn thép" đă bị phá vỡ, buộc VNCH phải bỏ toàn bộ tuyến pḥng thủ đường 9 - bắc Quảng Trị và bốn căn cứ trung đoàn, bảy căn cứ tiểu đoàn. Ba huyện Hướng Hóa, Cam Lộ, Gio Linh với hơn mười vạn dân đă thuộc về Quân Giải phóng.

    Băo táp 2

    Bị mất tuyến pḥng thủ ṿng ngoài, VNCH vội vă tăng cường lực lượng đối phó. Ngày 2 tháng 4 năm 1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ Sài G̣n bay ra Huế thị sát và vội mở cuộc họp với các tư lệnh quân khu, sư đoàn, lữ đoàn để bàn cách cố thủ. Ngày 4 tháng 4, Mỹ cho không vận lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ từ Sài G̣n ra Mỹ Chánh. Ngày 5 tháng 4, điều tiếp ba liên đoàn biệt động quân số 4, 5, 6 từ quân khu 2, quân khu 4 ra tăng cường cho Đông Hà, Quảng Trị. Như vậy chỉ trong hai ngày, bằng sự nỗ lực cao nhất, VNCH đă điều thêm 9 tiểu đoàn tới chiến trường nóng bỏng Quảng Trị.

    15 giờ ngày 8-4, pháo binh QĐNDVN thực hiện kế hoạch “Băo táp 2”, giáng xuống các sở chỉ huy, trận địa pháo, kho tàng, vị trí tập kết ở Đông Hà, Ái Tử... tổng cộng 2.713 viên đạn pháo cỡ lớn.

    5 giờ sáng ngày 9 tháng 4 năm 1972, trên hướng Đông Hà do Sư đoàn 308 đảm nhiệm, Trung đoàn 36, Trung đoàn 102 được xe tăng yểm trợ đă đột phá mănh liệt trên một cánh cung dài khoảng 8 km từ chùa Tám Mái tây bắc Đông Hà đến điểm cao 32, qua dăy Động Quai Vạc. Sau 2 giờ chiến đấu đă chiếm được một số mỏm đồi phía bắc và phía tây, tiêu diệt một loạt tổ chốt hỗn hợp bộ binh và xe tăng. Nhưng sau đó, VNCH phản kích quyết liệt. Trung đoàn 36 phải điều phân đội xe tăng dự bị từ phía sau lên tổ chức đột phá nhưng bị xe tăng đối phương bí mật mai phục trong công sự bắn cháy mất 3 xe tăng.

    Ở phía tây Ái Tử, 5 giờ sáng ngày 9 tháng 4, Trung đoàn 24, Sư đoàn 304 được xe tăng yểm trợ đánh chiếm căn cứ Phượng Hoàng. Chiều hôm đó, VNCH phản kích chiếm lại căn cứ.

    Như vậy qua hai ngày chiến đấu, tiến công quân địch trên tuyến pḥng thủ Đông Hà, Ái Tử, Quảng Trị, các đơn vị của QĐNDVN không những không làm chủ được các mục tiêu được giao, ngược lại c̣n bị tổn thất về sinh lực và phương tiện chiến đấu. Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ đạo các đơn vị rút kinh nghiệm, đặc biệt là khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội, không nắm chắc địch. Tướng Lê Trọng Tấn chỉ đạo: Đối với các cụm Đông Hà, Ái Tử không dùng lối đánh ồ ạt chớp nhoáng, mà phải đánh nhiều đ̣n liên tục, làm rạn vỡ từng đoạn, tiến tới đập tan bằng một đ̣n quyết định.

    Thực hiện chủ trương của Tư lệnh chiến dịch, từ ngày 10 đến ngày 25 tháng 4, QĐNDVN một mặt vừa chuẩn bị cơ sở vật chất cho một đợt chiến đấu lớn, mặt khác, tổ chức những trận đánh nhỏ và vừa nhằm tiêu hao sinh lực địch, giữ vững vị trí đứng chân.

    Từ ngày 12 đến ngày 25-4-1972, trên hướng Đông Hà, Sư đoàn 308 chỉ thị cho Trung đoàn 36 chốt giữ khu vực Tây Tŕ tổ chức các trận đánh tập kích tiêu hao lực lượng bộ binh và xe tăng, sau đó tiến công tiêu diệt Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 57 quân Sài G̣n ở điểm cao 30, 28. Trung đoàn 102 khẩn trương xây dựng lực lượng mạnh để đột phá các mục tiêu chủ yếu, trước mắt tổ chức đánh nhỏ lẻ bóc vỏ các điểm cao 25, 30, 36; tạo lập bàn đạp chuẩn bị đột phá phía nam Đông Hà và bắc cầu Lai Phước. Trung đoàn 48 (đơn vị tăng cường) tích cực hoạt động ở tây và nam Tân Vĩnh. Trung đoàn 58 pháo binh đưa Tiểu đoàn 10 lựu pháo 122 ly vào động Quai Vạc để vươn tầm bắn tới thị xă Quảng Trị.

    Trên hướng Ái Tử, Trung đoàn 9 Sư đoàn 304 đánh một số trận vào An Đông, Nhan Biều, áp sát cầu Quảng Trị. Ngày 10-4-1972, tại cầu Quảng Trị đă diễn ra trận chiến đấu ác liệt của Trung đoàn 2 (thuộc Đại đội 11 tiểu đoàn 3 Trung đoàn 9 Sư đoàn 304), do Trung đội trưởng - thượng sĩ Mai Quốc Ca chỉ huy. Sau khi cùng đại đội đánh sập cầu Quảng Trị, Trung đội 2 đă bám trụ tại đây, đương đầu với 3 tiểu đoàn (có xe tăng, máy bay, pháo binh yểm trợ). Với 20 tay súng, trong suốt một ngày cán bộ, chiến sĩ Trung đội 2 đă đẩy lùi nhiều đợt tiến công. 20 chiến sĩ đều hy sinh sau khi đă diệt hơn 100 lính và 1 xe quân sự. Trung đội 2 được trao tặng danh hiệu "Trung đội 1 thắng 100" - Trung đội Mai Quốc Ca.[8]

    Đặc biệt, trong đợt hoạt động này, lần đầu tiên QĐNDVN đưa vào sử dụng tên lửa chống tăng AT-3 Sagger (VN gọi là B-72), gồm 23 bảng bắn, 50 bệ, 500 viên đạn cùng với hỏa lực B-40, B-41, ĐKZ, sơn pháo 85 ly để diệt xe tăng. Trong trận đánh ngày 23-4, các khẩu đội B-72 Lục Vĩnh Tưởng và Lê Văn Trung, với 32 viên đạn và được sự hỗ trợ đắc lực của các phân đội bộ binh, bắn cháy 14 xe tăng, xe thiết giáp, trong đó có 5 chiếc tăng hạng nặng M48 Patton và 3 chiếc M-113.

    Băo táp 3

    Sáng ngày 28-4-1972, cuộc tiến công quy mô lớn tiếp tục diễn ra. Mở màn, pháo binh chiến dịch trút đạn xuống trận địa. Bốn cụm mục tiêu Đông Hà, Ái Tử, La Vang, thị xă Quảng Trị ch́m trong khói lửa. Nửa giờ sau, các sư đoàn bộ binh, các trung đoàn độc lập có xe tăng yểm trợ đồng loạt tiến công. Hướng Sư đoàn 304, Trung đoàn 24 đang triển khai đội h́nh phát triển vào Ái Tử th́ cụm hỗn hợp bộ binh và xe tăng chốt ṿng ngoài ngăn chặn. Chỉ huy Trung đoàn cho một phân đội dựa vào b́nh đội khuất, ṿng trái nổ súng thu hút địch. Quân VNCH cho 10 xe tăng, xe thiết giáp và nhiều bộ binh dàn hàng ngang xông thẳng vào phân đội nghi binh. Theo kế hoạch hiệp đồng, hai tiểu đội tên lửa chống tăng B-72 được lệnh phát hỏa. Sáu chiếc xe tăng M48 Patton bốc cháy. Những chiếc xe c̣n lại vội vă quay đầu rút lui. Cùng lúc, Trung đoàn 48 (sau khi tiêu diệt căn cứ Tân Vĩnh ngày 27-4) đă chia làm hai mũi, một mũi phát triển xuống phía nam Tân Vĩnh hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương giải phóng xă Triệu Giang, Triệu Ái (Triệu Phong); một mũi tiến xuống nam cầu Lai Phước tiêu diệt các ổ kháng cự trên đưởng rồi thọc thẳng ra sân bay.

    10 giờ, pháo binh chiến dịch bắn phá mănh liệt khu vực cầu Lai Phước. Pháo vừa dứt, bộ binh và thiết giáp của Trung đoàn 102 ồ ạt phát triển qua đường sắt, chiếm khu vực ven sông, khống chế hai đầu cầu, bắn cháy một lúc ba xe tăng. Tổ bộc phá công binh cảm tử bao gồm Bùi Minh Quyết, Hoàng Xuân Lạng, Phạm Công Dũng thay nhau lao lên mặt cầu liên kết và cho nổ khối bộc phá 120 kg, phá sập cầu Lai Phước. Cầu Lai Phước bị cắt đứt báo hiệu giờ cáo chung của căn cứ Đông Hà. Đến 30-4, QĐNDVN chiếm thị xă Đông Hà, ngày 30/4 chiếm Thị xă Quảng Trị, thu được khá nhiều xe tăng, pháo, đạn dược và sử dụng ngay vào cuộc chiến. Sư đoàn 3 VNCH phải rút lui về bên kia sông Mỹ Chánh, trung đoàn xe tăng số 20 gồm 57 xe M48 Patton (loại hiện đại nhất của Mỹ thời bấy giờ) bị mất toàn bộ số xe. Trung đoàn 56 với gần 2.000 quân phải hạ vũ khí đầu hàng.

    Ngày 1-5, các cụm cứ điểm ở bắc sông Thạch Hăn bị thất thủ, quân VNCH ở thị xă Quảng Trị hoang mang cực độ, bắt đầu “rút lui theo kế hoạch”, nhưng bị Sư đoàn 324 chặn đánh quyết liệt ở cầu Nhùng, cầu Bến Đà, cầu Đài. Không thực hiện được ư định “rút lui có tổ chức”, gần 20.000 quân VNCH phải bỏ lại toàn bộ xe pháo, tan ră không c̣n hàng ngũ. Đến ngày 2-5-1972, tỉnh Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng.

    Các cố vấn Mỹ chạy về Sài G̣n. Viên chuẩn tướng Vũ Văn Giai, Tư lệnh Mặt trận Quảng Trị cũng dùng trực thăng chạy về Đà Nẵng. Trước thất bại nặng ở Trị - Thiên (đặc biệt là Quảng Trị), Vũ Văn Giai tư lệnh sư đoàn 3 Bộ binh bị cách chức. Nguyễn Văn Thiệu cũng cách chức Hoàng Xuân Lăm - Tư lệnh Quân khu 1, đưa viên tướng Ngô Quang Trưởng - Tư lệnh Quân khu 4 ra thay, đồng thời điều thêm 5 lữ đoàn, trung đoàn từ Sài G̣n và Đà Nẵng ra Huế lập tuyến pḥng thủ mới kéo dài từ nam sông Mỹ Chánh đến tây đường 12, ḥng ngăn chặn cuộc tiến công vào Huế, tạo lập bàn đạp phản kích, lấn chiếm lại vùng vừa rơi vào tay Quân giải phóng.
    Tổng kết đợt 1

    Nh́n chung cuộc tấn công của QĐNDVN đă đạt thành công lớn.[9] Chỉ trong hơn 2 tháng tiến công, QĐNDVN tuyên bố đă diệt và làm bị thương 27.458 lính, bắt 3.388 lính, trong đó có một số đơn vị tinh nhuệ quân lực Việt Nam Cộng ḥa như Sư đoàn bộ binh 3, Lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ, 2 liên đoàn biệt động quân, 4 thiết đoàn và nhiều đơn vị khác bị thiệt hại nặng. Phá hủy và thu 636 xe tăng, xe thiết giáp (thu 36 xe), 1.870 xe quân sự, 419 khẩu pháo các loại, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay, thu gần 3000 súng bộ binh, 310 máy vô tuyến điện.[3] Bộ chỉ huy nhận định: “Chiến dịch tiến công Trị - Thiên (Hè 1972) đạt hiệu quả lớn. Trên chiến trường miền Nam lần đầu tiên ta đă tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh, tiêu diệt nhiều trung đoàn, đánh quỵ một sư đoàn quân Ngụy, lần đầu tiên ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh Quảng Trị”[10]

    Tuy nhiên phía Quân đội Nhân dân Việt Nam sau các cuộc chiến cũng bị thiệt hại nhiều, bổ sung không kịp v́ không quân Mỹ oanh tạc các tuyến vận chuyển kể cả ở miền Bắc, đánh vào các căn cứ tập kết quân, kho hàng, đường giao thông nên Quân đội Nhân dân Việt Nam thiếu hậu cần bổ sung, đặc biệt là đạn pháo và nhiên liệu cho xe tăng. Đặc biệt các đơn vị tập kết ở phía tây Huế để chuẩn bị tấn công c̣n thiếu cả đường đưa xe pháo vào vị trí tập kết, Cầu Quảng Trị qua sông Mỹ Chánh bị quân VNCH cho đặt thuốc nổ phá hủy khiến xe tăng không di chuyển được.

    Nhân lúc Quân đội Nhân dân Việt Nam không đủ sức tấn công tiếp, quân VNCH với phương tiện vận chuyển và tiếp tế hậu cần dồi dào do Hoa Kỳ cung cấp đă đưa được 2 sư đoàn Dù và Thuỷ quân lục chiến (mỗi sư đoàn có trên 15.000 quân) ra Vùng 1 cùng với sư đoàn 3 vừa tái tổ chức, đưa lực lượng ở Thừa Thiên từ 2 sư đoàn tăng lên 4 sư đoàn. Các đơn vị tăng thiết giáp cúng được tái bổ sung số xe đă mất, với sự hỗ trợ của không quân, hải pháo Mỹ tổ chức phản kích lại. Sư đoàn trừ bị chiến lược Thuỷ Quân Lục Chiến được điều ra lập thành pḥng tuyến, bộ binh và xe tăng Quân đội Nhân dân Việt Nam không vượt qua được. Tướng Thomas Bowen, cố vấn quân sự Mỹ tại Quân khu 1 cho biết, Mỹ đă thay thế các xe tăng và pháo binh mà Việt Nam cộng ḥa bị mất và hư hại tại Quảng Trị. Đại bác từ Mỹ được chở thẳng sang và xe tăng chở từ Nhật tới để chuẩn bị cho một chiến dịch tiếp theo.[2]
    Last edited by alamit; 15-02-2013 at 09:42 AM.

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến dịch Trị Thiên - CHIẾN LƯỢC CS BẮC VIỆT
    Wikipedia
    P2

    Giai đoạn 2: Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng ḥa phản kích

    Trước những tổn thất to lớn về lực lượng và phương tiện chiến tranh, đặc biệt là việc để mất tỉnh Quảng Trị, quân VNCH tỏ ra hoang mang, dao động mạnh. Tổng Tham mưu trưởng quân đội Việt Nam Cộng ḥa, tướng Cao Văn Viên viết: “Cuộc tiến công 1972 của địch đă làm nổi bật lên một cách bi thảm nhất sự yếu kém cơ bản của quá tŕnh Việt Nam hóa”[11]

    Để cứu nguy cho chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng ḥa, ngày 2-4-1972, Tổng thống Nixon quyết định sử dụng một lực lượng lớn không quân và hải quân Mỹ trở lại đánh phá dữ dội miền Bắc. Trên chiến trường miền Nam, không quân và hải quân Mỹ cũng được huy động tối đa đánh vào đội h́nh chiến lược nhằm tiêu hao sinh lực và ngăn chặn các cuộc tiến công của QĐNDVN, chi viện cho quân lực Việt Nam Cộng ḥa phản kích chiếm lại các vị trí đă mất.

    Kế hoạch tái chiếm Quảng Trị theo kế hoạch gồm 3 giai đoạn.

    Từ 1 tới 10 tháng 6: Tướng Trưởng cho thay đổi các lực lượng trên những vị trí tiền phương, cho không vận các đơn vị dự bị chiến lược từ Sài G̣n ra tăng cường.
    Từ 11 tới 18-6 Sư đoàn 1 tấn công vào căn cứ Veghel trong khi TQLC và Nhẩy Dù tấn công ḍ hướng bắc Mỹ Chánh dễ thăm ḍ lực lượng địch.
    Từ 19 đến 27-6 quân VNCH nghi binh dễ đánh lừa các lực lượng đối phương về thời điểm và hướng tiến quân. Mục tiêu là đẩy lùi Quân đội Nhân dân Việt Nam ra phía bắc sông Thạch Hăn, sau đó sẽ tấn công Cam Lộ và đổ bộ lên Cửa Việt và khoảng tháng 7.

    Ngày 28/6 quân VNCH mở cuộc hành quân Lam Sơn 72 với sư đoàn dù (3 lữ đoàn, sư đoàn TQLC (4 lữ đoàn), 3 Liên Đoàn Biệt Động Quân, Lữ đoàn 1 Kỵ Binh vượt sông Mỹ Chánh tiến về Quảng Trị dưới sự yểm trợ mănh liệt của pháo binh, B52, không quân Mỹ và VNCH, hải pháo của Hạm đội 7 Hoa Kỳ.

    Hai ngày trước cuộc tấn công, pháo đài bay B-52, Hải pháo, Không quân chiến thuật và pháo binh oanh kích dữ dội các vùng tập trung quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Lam Sơn 72 gồm 2 gọng ḱm và một nỗ lực phụ Tây Nam Huế, Sư đoàn Dù tấn công từ Tây Nam Quốc lộ 1 về La Vang, TQLC tiến quân bên phải hướng Bắc Quốc lộ 1 trong khi đó Sư đoàn 1 có nhiệm vụ ḱm chặt Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Tây Nam Huế, Sư đoàn 3 bảo đảm an ninh Đà Nẵng, Sư đoàn 2 lùng diệt đối phương tại Quảng Ngăi.

    Khi Chiến dịch Lam Sơn 72 bắt đầu th́ các đơn vị Dù và TQLC đều tiến hành chậm hơn dự định. Tại Thạch Hăn, Quân đội Nhân dân Việt Nam phản ứng dữ dội, quyết tâm cố thủ. Được pháo binh yểm trợ mạnh, một tiểu đoàn TQLC được trực thăng vận về Đông Bắc thành phố để cắt đường tiếp vận của đối phương. Quân đội Nhân dân Việt Nam quyết tâm tử thủ khu thành cổ Quảng Trị, khiến các mũi tấn công của VNCH bị khựng lại.

    Tướng Ngô Quang Trưởng quyết tâm tái chiếm Quảng Trị và giao cho TQLC v́ sư đoàn Dù đă bị thiệt hại nặng. Sư đoàn TQLC được giao trách nhiệm tiêu diệt Quân đội Nhân dân Việt Nam trong thành cổ, nhưng v́ họ tử thủ nên mục tiêu chiếm thành cổ trong 2 tuần đă bị kéo dài thành 12 tuần. Theo kế hoạch VNCH phải chiếm xong thành cổ vào cuối tháng 6 nhưng thực tế phải kéo dài tới giữa tháng 9.

    Quân đội Nhân dân Việt Nam đă tăng cường liên tiếp cho quân đóng trong Thành cổ để chống lại hai Sư đoàn tổng trừ bị của VNCH được hỏa lực Mỹ chi viện tối đa. Hai bên đụng độ dữ dội, pháo kích dữ dội hàng ngh́n quả mỗi ngày lên một khu vực có diện tích chỉ vài km vuông. Hải pháo và phi cơ Mỹ ném xuống lượng bom đạn tương đương 7 quả bom nguyên tử, trong khi ấy Quân đoàn 1 VNCH tấn công liên tục, các đơn vị tiền phương được hoán chuyển để có cơ hội nghỉ ngơi. Tướng Trưởng dự dịnh xin tăng viện một sư đoàn từ Vùng 4 nhưng hoàn cảnh không cho phép, trong khi ấy sự tập trung nhiều Sư đoàn QĐNDVN tại Quảng Trị đă trở thành mục tiêu cho máy bay B-52 trải thảm, không quân chiến thuật và pháo binh VNCH oanh kích bắn phá. Theo Hoa Kỳ, đó là sai lầm chiến thuật lớn của Quân đội Nhân dân Việt Nam[12], nhưng phía Quân đội Nhân dân Việt Nam th́ cho rằng nỗ lực đó là cần thiết để duy tŕ thế mạnh của họ tại bàn đàm phán ở Paris.

    Đến 27/7 TQLC VNCH đổ 2 tiểu đoàn xuống huyện Triệu phong phía sau để cắt đường tiếp tế, đồng thời hoả lực không quân/pháo binh dựng thành hàng rào lửa phía sau để ngăn chặn việc tiếp tế của đối phương, tại thành cổ có lúc mỗi ngày quân Giải phóng bổ sung 100 tay súng mỗi ngày nhưng cũng không đủ thay thế tổn thất, thành cổ mỗi bề khoảng 500 mét đă hứng chịu hoả lực khủng khiếp của cả đôi bên.

    Chiến dịch phản công đến tuần thứ 10 vào tháng 9 không được kết quả cụ thể nào. Ngày 8-9, QĐ-1 đưa ra 3 cuộc hành quân riêng rẽ hỗ trợ cho mục đích chính, sư đoàn Dù chiếm 3 căn cứ La Vang phía Nam cổ thành. Ngày 9-9 Sư đoàn TQLC khởi sự tấn công vào Cổ thành. VNCH và Hoa Kỳ tấn công nghi binh vào băi Bắc sông Cửa Việt. Lữ đoàn 147-TQLC từ Đông Bắc đánh xuống, Lữ đoàn 258 từ Đông Nam đánh lên. Khuya 14-9 Tiểu đoàn 6 TQLC đột nhập một vách tường Đông Nam Cổ thành rồi tràn vào bên trong, ngày 15-9 hai Tiểu đoàn TQLC dàn quân càn quét về hướng Tây thanh toán các ổ kháng cự. Sáng 16-9 Tiểu đoàn 6 TQLC đă dựng cờ trên Cổ thành và nới rộng quyền kiểm soát thành phố nay chỉ c̣n là đống gạch vụn. Trong 10 ngày cuối cùng, theo VNCH tuyên bố có hơn 2.700 bộ đội tử thương, trong khi TQLC thiệt mạng khoảng 150 người mỗi ngày.

    Sau 81 ngày đêm pḥng ngự, khi thấy các chốt pḥng ngự tiền tiêu đă mất, ngày 15 tháng 9 QĐNDVN rút khỏi thành cổ về bên kia sông Thạch Hăn. Đến đây QLVNCH cũng không đủ sức tấn công tiếp và QĐNDVN cũng cố giữ, đồng thời vào mùa mưa nên việc tấn công rất khó khăn.

    Để chiếm lại thành cổ, chỉ riêng Thủy quân Lục chiến VNCH có 3.658 binh sĩ tử trận, chiếm 25% quân số toàn binh chủng[13], tổng số thiệt mạng của tất cả các đơn vị VNCH là 7.756, cùng với nhiều ngàn lính khác bị thương [cần dẫn nguồn]. Phía QĐNDVN tử trận khoảng 4.000 đến một vạn người[14]

    Giai đoạn 3: chiến trận ở bờ bắc sông Thạch Hăn

    Sau khi rút khỏi khu vực thị xă và Thành cổ, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa yêu cầu bộ Chỉ huy chiến dịch nhanh chóng h́nh thành cách đánh mới, nhằm bảo đảm giữ vững thế trận; đồng thời, phái có phương án bố trí hệ thống trận địa pḥng giữ hậu phương trực tiếp chiến dịch, đặc biệt là khu vực Ái Tử - Đông Hà - Cửa Việt; bên cạnh đó, cần có phương án luân phiên tác chiến để đưa các đơn vị ra phía sau để củng cố[15]

    Từ cuối tháng 9 cho đến giữa tháng 10-1972, QĐNDVN đă h́nh thành ba khu vực pḥng ngự cơ bản: khu vực phía đông do Sư đoàn 320 phụ trách gồm Triệu Phong, Gio Linh; khu vực phía tây, do Sư đoàn 308 và 304 đảm nhiệm bao gồm phía tây đường số 1 từ bắc Mỹ Chánh đến phía nam Thạch Hăn; Khu Giữa - khu pḥng ngự chủ yếu, gồm phía tả ngạn sông Thạch Hăn, từ Nhan Biều, Ái Tử, Phượng Hoàng đến Đông Hà, Cam Lộ do Sư đoàn 325 đảm nhiệm. Các khu vực, các hướng hợp thành hệ thống pḥng ngự hoàn chỉnh, vững chắc.[16]

    Sau khi tái chiếm được Thành cổ Quảng Trị, lực lượng quân lực Việt Nam Cộng ḥa bị hao tổn lớn, phải mất 3 tháng bổ sung lực lượng và phương tiện chiến đấu. Nhưng do bị thúc ép về chính trị (cuộc đàm phán Paris về Việt Nam), Việt Nam Cộng ḥa vẫn tiếp tục tập trung lực lượng, gấp rút hoàn chỉnh phương án ḥng vượt sông Thạch Hăn đánh chiếm tiếp Ái Tử, Đông Hà nhằm đánh chiếm toàn bộ tỉnh Quảng Trị, khôi phục lại tuyến pḥng thủ Đường 9 như trước ngày 30-3-1972.

    Bằng cuộc hành quân mang tên Lam Sơn 72A với lực lượng chủ yếu là 2 sư đoàn lính thủy đánh bộ và Sư đoàn dù, từ nửa cuối tháng 9-1972, VNCH đẩy mạnh nỗ lực quân sự trên hai hướng là đông và tây, ḥng mở rộng bàn đạp để tiến lên chiếm khu vực Ái Tử, Đông Hà. Ở hướng đông, Sư đoàn thủy quân lục chiến tiến công các mục tiêu như An Lộng, An Ḥa, Bích La, Cửa Việt; trên hướng tây, Sư đoàn dù tiến chiếm điểm cao 367, động Ông Do và tuyến nam sông Thạch Hăn, khu vực Tích Tường, Như Lệ, Đá Đứng.

    Ngày 1-11-1972, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 thông báo cho Sư đoàn 325: quân VNCH có ư định vượt sông Thạch Hăn tấn công Nhan Biều, Ái Tử. 4 giờ sáng ngày 2-11-1972, đă có hai đại đội và cơ quan chỉ huy Tiểu đoàn 6 thủy quân lục chiến VNCH vượt sang bờ tây sông đang triển khai đội h́nh trước chính diện pḥng ngự của tiểu đoàn 8, Trung đoàn 18 QĐNDVN. 5 giờ sáng, các trận địa pháo của Mỹ-VNCH ở La Vang, thị xă Quảng Trị và pháo hạm từ biển bắn hàng ngh́n quả đạn vào khu vực pḥng ngự của trung đoàn 18, tập trung chủ yếu vào trận địa pḥng ngự của Tiểu đoàn 8 ở Nhan Biều. Không quân Hoa Kỳ dùng máy bay phản lực ném bom xuống khu vực Ái Tử và phía sau làng Nhan Biều 1, máy bay B-52 rải 2 đợt vào dọc bờ sông Lai Phước.

    8 giờ sáng ngày 2-11-1972, VNCH tổ chức tiến công gồm 3 mũi. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Sau gần 20 phút chiến đấu, bị thiệt hại nặng, quân VNCH phải lui về củng cố và yêu cầu pháo binh và không quân tiếp tục đánh phá. Sau đó tiếp tục tổ chức hai đợt xung phong nữa nhưng đều bị bẻ găy. Đến khoảng 10 giờ trưa, số quân c̣n lại phải co thành hai cụm ven sông, mỗi cụm khoảng 30-40 lính chống cự và chờ quân phía sau vượt sông tăng viện. Khoảng 10 giờ 30 phút, Trung đoàn 18 QĐNDVN giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 8 tổ chức phản kích. Sau gần 20 phút đă tiêu diệt gần hết số quân đang co cụm. Quân VNCH c̣n lại khoảng 30-40 lính cố chống cự, nhưng đến sáng 3-11-1972 cũng bị tiêu diệt nốt. Như vậy sau hai ngày chiến đấu, lực lượng vượt sông gồm hai đại đội và Ban chỉ huy Tiểu đoàn 6 thuộc Lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến, trong đó có tiểu đoàn trưởng đều bị diệt; Tiểu đoàn 6 thủy quân lục chiến bị xóa sổ. 5 tàu thuyền, 5 xe tăng-xe bọc thép, 8 ôtô bên bờ hữu ngạn sông bị bắn cháy. Cuộc hành quân Sóng thần 9 đă thất bại[17]

    Giữa tháng 11-1972, quân lực Việt Nam Cộng ḥa tiếp tục nỗ lực tiến công quân sự. Lúc này, VNCH dồn sức tiến công sang hướng thứ yếu. Trong cuộc hành quân mang tên Sóng thần 36, Hoa Kỳ và VNCH tập trung phi pháo với mật độ cao (50 lần chiếc cường kích, 18 phi vụ B52, 3.000-4.000 đạn pháo một ngày), đánh phá khu vực Long Quang, Thanh Hội. VNCH sử dụng các tiểu đoàn 6, 2 và 8 thuộc Lữ đoàn 367 lính thủy đánh bộ có thiết giáp và xe tăng M48 Patton yểm trợ, liên tiếp mở các đợt tiến công vào các vị trí pḥng ngự của QĐNDVN ở khu vực Long Quang - Thanh Hội.

    Trước t́nh h́nh đó, Bộ Chỉ huy chiến dịch lệnh cho Trung đoàn 48 vượt sông sang bờ nam sông Thạch Hăn, cùng với lực lượng ở đây chặn đứng cuộc hành quân. Chiến sự ở khu vực bờ nam sông Thạch Hăn diễn ra ác liệt. Các lữ đoàn TQLC không vượt qua được các chốt Long Quang, Thanh Hội, các tiểu đoàn 1, 2, 8 TQLC mất sức chiến đấu phải rút ra củng cố. Ngày 4/12, Bộ tư lệnh B5 điều trung đoàn 48 (thiếu tiểu đoàn 2) và tiểu đoàn 3 (Quảng Trị) vượt sông phối hợp với quân giữ chốt phản kích, đẩy sư đoàn TQLC lùi về B́nh An, Gia Đẳng, Ba Lang. Trong các trận này sư đoàn TQLC QLVNCH bị tổn thất nặng, thương vong 3.200 binh sĩ và sĩ quan, mất 49 xe tăng và xe bọc thép, 16 trực thăng.

    Mặc dù bị thiệt hại lớn, nhưng VNCH vẫn quyết tâm t́m kiếm một thắng lợi quân sự. Từ ngày 15-12, VNCH mở tiếp cuộc hành quân "Sóng thần 45" đánh ra khu vực Cửa Việt. Lần này huy động một lực lượng quân sự và xe pháo lớn tham chiến, bao gồm: Tiểu đoàn 4 và 579 thủy quân lục chiến, 3 chi đoàn xe tăng - thiết giáp, 15 đại đội bảo an theo hướng Linh An, Thạch Hội tiến ra Cửa Việt. Đương đầu với lực lượng tiến công này, Sư đoàn 320, trong ṿng 11 ngày (từ 15 đến 25-12), đă chiến đấu quyết liệt chặn đánh tiêu hao, tiêu diệt hơn 1 ngh́n lính, phá hỏng, phá hủy 23 xe quân sự, bắn rơi 11 máy bay các loại, thu 39 súng. VNCH buộc phải chấm dứt cuộc hành quân và đưa lực lượng c̣n lại về phía sau củng cố. Cho đến trước ngày kư Hiệp định Paris,quân lực Việt Nam Cộng ḥa c̣n mở cuộc hành quân Sóng thần 18 (từ ngày 17-1 đến ngày 20-1-1973) đánh ra Cửa Việt. Nhưng, cũng như các cuộc hành quân mang tên Sóng thần trước đó, một lần nữa lại thất bại.

    Ngày 21/1/1973, tướng Abrams, tướng Heige và tướng Ngô Quang Trưởng nhất trí với kế hoạch hành quân Tangocyti (tên gọi trận tấn công Cửa Việt-1972 của QLVNCH do các cố vấn Hoa Kỳ đặt). Đêm 25/1/1973, các tiểu đoàn 9 (lữ đặc nhiệm), 3 (lữ 258), lữ 147 và hơn 140 xe tăng nổ súng tấn công. Không lực Hoa Kỳ điều động 80 phi vụ B-52, pháo binh từ hạm đội 7 và 4 tiểu đoàn pháo ở TX Quảng Trị bắn hơn 60.000 viên đạn pháo yểm hộ cho QLVNCH. Các đơn vị TQLC thay đổi hẳn cách đánh so với "Lam Sơn 72", không tấn công vỗ mặt mà luồn qua các chốt của QĐNDVN để nhanh chóng tiếp cận mục tiêu Cửa Việt.

    23 giờ ngày 27/1, lữ đoàn đặc nhiệm đă tiếp cận cảng Cửa Việt. Đến 1 giờ ngày 28/1, Bộ tư lệnh B5 mới biết tin và ngay lập tức, điều trung đoàn 101 và 5 xe tăng đánh vào sườn Lữ đặc nhiệm ở Đông Ḥa, Vĩnh Ḥa, bắn cháy 8 xe tăng của thiết đoàn 17 nhưng không ngăn được đối phương tiến về cảng Cửa Việt. Rạng sáng ngày 28/1, Bộ tư lệnh B5 tiếp tục điều 5 tiểu đoàn tăng viện cho các lực lượng giữ Cửa Việt. Đến trưa 28/1, B5 điều tiếp Trung đoàn 24 (sư đoàn 304) và 1 đại đội xe tăng (thuộc trung đoàn 203) tấn công phía sau cánh quân của lữ đoàn đặc nhiệm VNCH.

    Ngày 30/1 QĐNDVN nổ súng tấn công nhưng các hướng không phối hợp được với nhau nên bị lữ đặc nhiệm và lữ 147 TQLC đẩy lùi. Ngày 31/1, QĐNDVN tổ chức tổng công kích đồng loạt vào 5 cụm quân của QLVNCH. 8h 30' sáng 31/1, ba cụm quân QLVNCH ở cảng bị diệt, hai cụm quân c̣n lại rút về Mỹ Thủy. Tuyến pḥng thủ Vĩnh Ḥa, Thanh Hội, Long Quang, Chợ Săi của B5 được khôi phục. Cuộc hành quân Tangocyti không thu được kết quả nào.

    Nh́n lại trên toàn bộ mặt trận Trị - Thiên, từ sau khi bộ QĐNDVN rút khỏi thị xă - Thành cổ Quảng Trị (16-9-1972) đến cuối tháng 1-1973, mặc dù VNCH liên tiếp mở các cuộc hành quân Lam Sơn 72A, Sóng thần 9, Sóng thần 36, Sóng thần 45, Sóng thần 18 nhằm tái chiếm lại Quảng Trị, nhưng đều bị đẩy lùi. Kế hoạch chiếm lại và tái lập vùng chiếm đóng đă bị rơi vào tay Quân giải phóng như trước tháng 5-1972 bị thất bại. QĐNDVN tuyên bố tiêu diệt 29.822 lính, diệt gọn 12 đại đội, đánh thiệt hại nặng 15 tiểu đoàn và 2 chi đoàn xe tăng - thiết giáp, bắn rơi hơn 100 máy bay, phá hỏng, phá hủy 345 xe quân sự các loại (trong đó có 221 xe tăng và xe thiết giáp), hơn 350 khẩu pháo các loại, 38 kho xăng, đạn, đánh sập 8 cầu, bắn cháy 8 tàu, 13 xuồng, thu 650 súng các loại và 24 máy thông tin…[4]

    Kết quả

    So với mục tiêu ban đầu, QĐNDVN đă không đạt được hoàn toàn những ư đồ chiến lược đă chủ động đề ra. Bộ Tư lệnh B5 chỉ đạt được hai trong ba mục tiêu (chiếm Đông Hà và Quảng Trị); vào giai đoạn cuối của chiến dịch, QĐNDVN không giữ được Thành cổ Quảng Trị, tuy nhiên QLVNCH cũng kiệt sức không chiếm lại được Đông Hà và cảng Cửa Việt. Thiệt hại về quân số của 2 bên rất lớn. QĐNDVN có trên 14.000 người chết, hàng vạn người khác bị thương. QLVNCH cũng bị thiệt hại gần 6 vạn quân thương vong và bị bắt.[cần dẫn nguồn]

    Nếu xét về khía cạnh quân sự thuần túy th́ những kết quả quân sự nói trên chỉ thỏa măn một chiến thắng hạn chế cho QĐNDVN. Nhưng những chiến quả đó đă được khuếch trương tại Hội nghị Paris và đi đến việc kư kết bản Hiệp định Paris 1973, chấm dứt sự dính líu về quân sự của Hoa Kỳ và buộc họ có những nhượng bộ quan trọng. Ba kết quả chính trị quan trọng nhất mà Việt Nam dân chủ cộng hoà đạt được là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa Miền nam Việt Nam có được địa vị chính trị hợp pháp đối với quốc tế (các nước xă hội chủ nghĩa) và ở miền Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam được ở lại miền Nam Việt Nam c̣n Quân đội Hoa Kỳ phải rút về nước. Điều này được phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà coi là một thắng lợi kinh điển về tiến hành chiến tranh phối hợp giữa các hoạt động: quân sự - chính trị - ngoại giao chứ không đơn thuần chỉ là thành quả về quân sự.[cần dẫn nguồn]

    Về quân sự, QĐNDVN cũng nhanh chóng tận dụng được những ǵ giành được trong chiến dịch. Họ lập tức bắt đầu mở rộng các hành lang hậu cần từ Lào và Campuchia vào miền Nam Việt Nam. Các cơ sở tại Cửa Việt và Đông Hà được nhanh chóng mở rộng, trong ṿng 1 năm, hơn 20% hàng chuyển vào cho chiến trường miền Nam đă được đi qua đây.[18]
    Last edited by alamit; 15-02-2013 at 09:31 AM.

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến dịch Xuân - Hè 1972 - CHIẾN LƯỢC CS BẮC VIỆT
    Wikipedia


    Pháo 130 mm Quân đội Nhân dân Việt Nam ở mặt trận Kontum
    .
    Thời gian 30 tháng 3 1972 - 31 tháng 1 1973
    Địa điểm Miền Nam Việt Nam
    Kết quả 2 bên đều cho là ḿnh chiến thắng
    Tham chiến
    Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng Hoà
    Flag of the United States.svg Hoa Kỳ Flag of Vietnam.svg Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
    FNL Flag.svg Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam
    Chỉ huy
    Ngô Quang Trưởng
    Nguyễn Văn Toàn
    Lê Văn Hưng
    Flag of the United States.svg Creighton Abrams Vơ Nguyên Giáp
    Hoàng Văn Thái
    Văn Tiến Dũng
    Trần Văn Trà
    Hoàng Minh Thảo

    Lực lượng
    13 sư đoàn và 11 lữ đoàn chủ lực Việt Nam Cộng ḥa[1] và quân Địa phương tại các nơi diễn ra chiến sự
    2.090 xe tăng, 1.618 xe thiết giáp
    1.692 máy bay chiến đấu các loại, 1.611 tàu chiến[2]
    Flag of the United States.svg Không quân Hoa Kỳ (1.270 máy bay) và hỏa lực Hạm đội 7 (có 6 tàu sân bay, 5 tuần dương hạm). 14 sư đoàn
    26 trung đoàn độc lập[3]
    250-300 xe tăng và xe bọc thép.


    Chiến dịch Xuân - Hè 1972 (Việt Nam Cộng ḥa gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, Mỹ gọi là Easter Offensive) là một phần trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam, xảy ra từ 30 tháng 3 đến 31 tháng 1 năm 1973 trong Chiến tranh Việt Nam, là một nhóm các chiến dịch do Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) thực hiện, chống lại Quân lực Việt Nam Cộng ḥa (VNCH) cùng đồng minh Mỹ. Đây là cuộc tổng tấn công chiến lược bằng các chiến dịch tiến công quy mô lớn, hiệp đồng binh chủng, tiến công sâu hệ thống pḥng ngự của quân đội Việt Nam Cộng ḥa vào những hướng chiến lược quan trọng: Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, đồng bằng Khu V và Khu VIII (Nam Bộ). Cuộc tiến công bắt đầu ngày 30 tháng 3/1972

    Kế hoạch của Quân đội Nhân dân Việt Nam

    Nhận thấy t́nh h́nh chuyển biến ngày càng có lợi về so sánh lực lượng và về thế chiến lược, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Quân đội Nhân dân Việt Nam quyết định xúc tiến việc chuẩn bị để mở cuộc tấn công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam, trong đó mặt trận Trị - Thiên được chọn là hướng tấn công chủ yếu. Khu 5, trong đó có Đà Nẵng là chiến trường phối hợp quan trọng.[7]

    Tháng 10-1971, Trung ương Cục miền Nam họp Hội nghị lần thứ 9, xác định quyết tâm kiên quyết thực hiện thắng lợi Nghị quyết Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Trung ương Cục nêu rơ phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của chiến trường B2 là: "Tranh thủ thời gian, phấn đấu hoàn thành công tác chuẩn bị, xây dựng thế tiến công chiến lược mới bằng ba quả đấm mạnh trên cả ba vùng chiến lược; tiếp đó, mở cuộc tiến công và nổi dậy rộng lớn nhằm đánh suy sụp nặng ngụy quân, ngụy quyền, dánh bại cơ bản kế hoạch b́nh định của địch". Để đạt được yêu cầu trên, Thường vụ Trung ương Cục chỉ rơ yêu cầu, nhiệm vụ trên từng vùng chiến lược:

    Đánh bại về cơ bản kế hoạch b́nh định của Mỹ ở nông thôn.

    Đẩy mạnh đ̣n đánh tiêu diệt địch của bộ đội chủ lực, phát triển thế tiến công liên tục khắp các chiến trường, làm cho quân địch suy sụp và tan ră nặng.

    Đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở đô thị lên một bước mới, nhất là Sài G̣n - Gia Định; khoét sâu mâu thuẫn Mỹ - Thiệu, đấu tranh đ̣i quyền lợi dân sinh, đ̣i ḥa b́nh, chấm dứt chiến tranh, tiến tới cao trào đấu tranh chính trị rộng lớn, phối hợp chặt chẽ với đ̣n tiến công quân sự của bộ đội chủ lực ở hướng chính, buộc Mỹ phải lập một chính phủ mới văn hồi ḥa b́nh.

    Chiến dịch này được định thời gian cho trùng với giai đoạn đầu của chiến dịch bầu cử Tổng thống Mỹ, với hy vọng rằng chiến sự leo thang sẽ gây ra áp lực mạnh mẽ tại Mỹ đ̣i ḥa b́nh và chấm dứt chiến tranh. Quân đội Nhân dân Việt Nam tấn công thẳng vào các hệ thống pḥng thủ chiến lược của Việt Nam Cộng ḥa, nhằm làm mất uy tín chính sách Việt Nam hóa chiến tranh và cầm chân tối đa các lực lượng chủ lực của đối phương, phá vỡ chương tŕnh b́nh định nông thôn của chính phủ Việt Nam Cộng ḥa, và nâng cao vị thế trước khi diễn ra các cuộc đàm phán ḥa b́nh cuối cùng.

    Để giành thắng lợi, Quân đội Nhân dân Việt Nam đă huy động rất nhiều tân binh cho trận quyết chiến này. Rất đông những người lính lên đường mùa hè 1972 ấy là những thanh niên ưu tú từ 30 trường đại học - cao đẳng của Hà Nội: gần 10.000 sinh viên và cả giảng viên trẻ.[8] Hiện nay ở Nghĩa trang Trường Sơn, ở Thành cổ Quảng Trị có rất nhiều bia mộ của những người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam ghi rằng quê quán: Hà Nội - Năm sinh 1954 hay 1955.[9].

    Theo ước tính của Spencer C.Tucker, tổng lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam huy động trong chiến dịch này lúc đầu là 14 sư đoàn và 26 trung đoàn độc lập, bao gồm khoảng 120.000 quân, 1200 xe tăng và xe bọc thép[3](tuy nhiên theo số liệu của QDNDVN, số xe tăng và xe bọc thép của họ thực ra chỉ khoảng 250-300 chiếc). Về sau chiến sự kéo dài nên hai bên huy động binh sĩ tham chiến càng lúc càng nhiều cho tới tháng 1/1973 th́ kết thúc.

    Trong lúc Quân đội Nhân dân Việt Nam đang dồn sức chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, t́nh báo Hoa Kỳ và VNCH vẫn không phát hiện ra. Họ vẫn chủ quan cho rằng: “Cộng sản c̣n ở thế bị động về chiến lược chiến thuật và đang thiếu thốn trầm trọng, nhất là đạn dược, tinh thần cán binh giảm sút, tuyển mộ khó khăn, số hồi chánh tăng, mức độ hoạt động của cộng sản trong năm 1972 sẽ chỉ tương tự như 6 tháng cuối năm 1971. Có thể việc chống phá b́nh định được tăng cường hơn và đẩy mạnh hoạt động trong dịp bầu cử Tổng thống Mỹ tháng 11-1972”[10]
    Diễn biến

    Chiến dịch Xuân hè 1972 xảy ra trên 3 mặt trận chính:

    Mặt trận Trị Thiên Huế hay Chiến dịch Trị Thiên tại mặt trận B2 (Vùng 1 chiến thuật), ở hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế (từ 30/3 tới 31/1/1973) với 40.000 quân chính quy miền Bắc.
    Mặt trận Bắc Tây Nguyên hay Chiến dịch Bắc Tây Nguyên (từ 30/3 đến 5/6/1972) tại Đăk Tô, Tân Cảnh, Kon Tum. có 20.000 quân.
    Mặt trận Đông Nam Bộ hay Chiến dịch Nguyễn Huệ - chiến dịch đánh Lộc Ninh, B́nh Long và dọc đường 13, miền Đông Nam Bộ[11] có 30.000-40.000 quân.

    Lúc chiến dịch diễn ra, Hoa Kỳ chỉ c̣n 65.000 quân tại Việt Nam[12], trong đó số quân chiến đấu trên bộ chỉ c̣n rất ít và không tham chiến.


    Dân chúng di tản khi cuộc chiến diễn ra

    Tại Vùng I chiến thuật, Quân đội Nhân dân Việt Nam tấn công bằng 3 Sư đoàn 304, 308, 324, Mặt trận B5 (4 trung đoàn), 1 trung đoàn hỏa tiễn, 4 trung đoàn pháo binh, 3 trung đoàn chiến xa và 2 trung đoàn biệt lập địa phương. Trong tháng 4 và 5/72, hai Sư đoàn 320 và 325 từ miền Bắc tiến xuống và Sư đoàn 312 từ Lào về tăng cường tấn công Cam Lộ, La Vang, Hải Lăng và thành phố Quảng Trị. Quân lực VNCH có ở đây 2 sư đoàn bộ binh, 2 lữ đoàn lính thủy đánh bộ, 1 lữ đoàn thiết giáp, 17 tiểu đoàn pháo binh, với hơn 40 ngàn quân chính quy, cộng với hơn 100.000 quân địa phương. Tuy nhiên ưu thế quân số này bị vô hiệu hóa bởi Quân đội Nhân dân Việt Nam nắm thế chủ động, buộc Quân lực VNCH phải dàn mỏng lực lượng để đối phó.

    Trưa ngày 30 tháng 3 năm 1972, hai Sư đoàn 304 và 308 Quân đội Nhân dân Việt Nam với khoảng 30.000 quân, với sựu hỗ trợ của các trung đoàn xe tăng và pháo binh, cùng với 150.000 tay súng của Chính phủ Lâm thời Miền Nam Việt Nam[13], vượt qua khu phi quân sự tại giới tuyến 17 chia cắt 2 miền. Từ phía Tây, Sư đoàn 324B, với xe tăng hỗ trợ, theo đường 9 từ Lào vượt qua Khe Sanh, tiến vào thung lũng sông Thạch Hăn. Lực lượng tương đương 3 sư đoàn này đă gây bất ngờ cho quân pḥng thủ của Việt Nam Cộng ḥa và đồng minh Mỹ[14].

    Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh vào các vị trí pḥng thủ của Sư đoàn 3 Quân lực Việt Nam Cộng ḥa và làm tan ră lực lượng này. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa rút lui, hai bên bắt đầu một cuộc chạy đua tới các cây cầu tại Đông Hà và Cam Lộ. Ngày 2 tháng 4, trung tá Phạm Văn Đính, chỉ huy Trung đoàn 56 và trung tá Vĩnh Phong, trung đoàn phó, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa ra hàng cùng 1.500 quân mà không kháng cự. Cuối ngày hôm đó, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa bỏ Mai Lộc, căn cứ cuối cùng ở phía Tây. Từ đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể vượt cầu Cam Lộ cách Đông Hà 11 km về phía Tây.

    Sau 3 tuần giảm hoạt động, ngày 27 tháng 4 Quân đội Nhân dân Việt Nam tấn công Đông Hà từ nhiều hướng (lấy được thị xă này vào ngày hôm sau) và tiến đến sát thị xă Quảng Trị. Ngày 29, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa được lệnh rút về sông Mỹ Chánh cách đó 13 km về phía Nam. Thị xă Quảng Trị về tay Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày 2 tháng 5.

    Chỉ vài ngày sau khi cuộc tiến công tại mặt trận Trị Thiên mở màn, ngày 5 tháng 4, lực lượng gồm Sư đoàn 5, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 cùng một số trung đoàn độc lập của Quân Giải phóng vượt biên giới từ Campuchia tấn công tỉnh B́nh Long ở phía bắc Sài G̣n. Họ nhanh chóng cắt đường tới thủ đô Sài G̣n, chiếm Lộc Ninh ngày 7 tháng 4, bao vây An Lộc từ ngày 13 tháng 4.


    Sơ đồ trận tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam

    Ngày 12 tháng 4, mặt trận Bắc Tây Nguyên nổ súng. Sư đoàn 2 Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng một phần của Trung đoàn 203 Tăng thiết giáp và một số trung đoàn độc lập của Mặt trận B-3 tấn công một loạt các cứ điểm quanh Đăk Tô và Tân Cảnh. Lực lượng gồm hơn 100 thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa từ Bến Hét di chuyển về phía Đăk Tô đă bị mai phục và tiêu diệt. Đến ngày 24 tháng 4, cả Đăk Tô và Tân Cảnh đă thất thủ. Hàng ngàn binh sĩ Việt Nam Cộng ḥa rút chạy về Kon Tum gây nên một sự hỗn loạn và hoảng sợ tại thị xă này. Nếu trong ṿng 1 tuần, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp tục tiến dọc đường 14 để truy đuổi đến đây, Kon Tum sẽ nhanh chóng sụp đổ[15]. Nhưng do thiếu đạn dược bổ sung nên họ đă dừng lại.

    Trong giai đoạn đầu, cuộc tổng tấn công đă là một thành công hoàn hảo. T́nh báo Mỹ đă đánh giá sai về thời gian, quy mô, và địa điểm của các cuộc tấn công. Có được tính bất ngờ, QĐNDVN chọc thủng các tuyến pḥng thủ mỏng của QLVNCH, nhanh chóng tiến về các thị xă Quảng Trị ở phía bắc, Kon Tum ở Tây Nguyên, và An Lộc ở cách Sài G̣n chỉ 60 dặm. Chỉ trong hơn 2 tháng tiến công, riêng tại Quảng Trị, QĐNDVN diệt hoặc bắt sống gần 30.000 quân, trong đó có một số đơn vị tinh nhuệ của quân đội Sài G̣n như Sư đoàn bộ binh 3, Lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ; phá hủy và thu 636 xe tăng, xe thiết giáp, 1.870 xe quân sự, 419 khẩu pháo các loại, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay.

    Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu buộc phải rút quân bỏ ngỏ vùng nông thôn, huy động hầu hết lực lượng dự bị để bảo vệ các thị xă bị đe dọa, tạo cơ hội cho các lực lượng địa phương của Quân giải phóng Miền Nam mở các cuộc tấn công tại đồng bằng sông Cửu Long và các vùng tập trung dân cư quanh Sài G̣n.

    Theo ông William Colby, giám đốc cơ quan CIA tại Sài G̣n th́ Quân đội Nhân dân Việt Nam chắc chắn sẽ chiếm được Huế nhưng không qua nổi Đà Nẵng. Dù vậy, thực tế tốt hơn mong đợi khi Hạm đội 7 và Không lực của Mỹ tham chiến, hỗ trợ hỏa lực giúp ngăn đà tiến của đối phương, giúp quân VNCH có thêm thời gian bổ sung thiệt hại và tổ chức lại. Tổng thống Thiệu giao quyền chỉ huy cho Trung tướng Ngô Quang Trưởng, 1 chỉ huy có năng lực. Với sự yểm trợ hỏa lực tối đa của Mỹ, tướng Trưởng đă ngăn được đà tiến Quân đội Nhân dân Việt Nam vào Huế, khiến đối phương phải lui về pḥng ngự. Quân VNCH sau đó phản công và tái chiếm lại thành cổ Quảng Trị sau đó 2 tháng.[16] Xem chi tiết:Chiến dịch Trị Thiên.

    Tại An Lộc, t́nh h́nh cũng không tốt hơn. Cú đánh ở hướng Bắc Sài G̣n tỏ ra nguy hiểm hơn. Họ đă tập trung 4 sư đoàn mạnh vào đây với hy vọng sẽ đè bẹp đối phương rồi tiến vào bao vây Sài G̣n. Tuy nhiên nhờ những cuộc tấn công yểm trợ dữ dội của không quân Mỹ, quân Việt Nam Cộng ḥa đă trụ vững.[16]. Xem chi tiết:Chiến dịch Nguyễn Huệ

    Tuy không quân Mỹ đă đánh phá 1 cách có hiệu quả các địa điểm tập trung của Quân đội Nhân dân Việt Nam nhưng chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh đă nhấn mạnh: Việt Nam Cộng ḥa phải tự lo lấy phần việc chiến đấu trên mặt đất. Người Mỹ sẽ chỉ giúp họ về hậu cần và hỏa lực Không quân.[17].

    Kết quả

    Sau khi cuộc tấn công của Quân đội Nhân dân Việt Nam diễn ra, Không quân Hoa Kỳ tiến hành oanh tạc Hà Nội và Hải Pḥng cùng những hoạt động phóng ngư lôi phong toả các hải cảng ở miền Bắc Việt Nam đă giáng một đ̣n nặng nề vào kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.

    Sau khi chiến dịch kết thúc, hai bên đều không c̣n sức để tiếp tục giao tranh. Tuy nhiên, cả hai đều cho rằng các nỗ lực của ḿnh đă thành công.

    Tuy rằng hiệu quả chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa không đồng đều và họ phải chịu thương vong rất lớn, nhưng cuối cùng đă đứng vững với sự hỗ trợ của các cố vấn Mỹ và hỏa lực yểm trợ mạnh mẽ của Mỹ từ trên không, trong đó phải kể đến các phi vụ B-52 liên tiếp rải thảm xuống đội h́nh đối phương. Việt Nam Cộng ḥa và Mỹ tin rằng chính sách Việt Nam hóa chiến tranh đă chứng tỏ hiệu lực.[18] Tuy gặp thất bại trên chiến trường và chịu thương vong hàng chục vạn quân, nhưng QLVNCH đă đẩy lui được cuộc tổng tấn công lớn nhất từ trước đến nay của quân Giải phóng - mặc dù thái độ này bị giảm nhẹ do thực tế rằng nhờ có hỏa lực mănh liệt của không lực Mỹ mà QLVNCH mới có thể trụ vững. Tuy nhiên các điểm yếu nội tại trong cấu trúc chỉ huy của VNCH đă xuất hiện trở lại, khi họ tỏ ra quá phụ thuộc vào yểm trợ hỏa lực của Mỹ, điều này đă bị đối phương nắm bắt và tận dụng sau đó. Trong chiến dịch, Hoa Kỳ ước tính khoảng 25.000 dân thường đă bị thiệt mạng, gần 1 triệu trở thành người tị nạn.[19]
    Binh sĩ thuộc Trung đoàn 20 Tăng Thiết giáp QLVNCH thu 1 xe tăng Type-59 của Quân đội Nhân dân Việt Nam ở phía Nam Đông Hà năm 1972

    Hà Nội, sau khi đă sử dụng 14 sư đoàn và 26 trung đoàn độc lập (gần như toàn bộ quân đội của ḿnh) cho cuộc tấn công, đă chịu thương vong khoảng 100.000 người (Hoa Kỳ ước tính), mất hầu hết số xe tăng (58 xe tăng T-54, 18 xe tăng T-59 do Trung Quốc chế tạo, 27 xe tăng lội nước hạng nhẹ PT-76 do Ba Lan chế tạo).[20][21]. (Một nguồn khác cho thống kê 50.000-75.000 binh sĩ chết và bị thương cùng với hơn 700 xe tăng, xe thiết giáp các loại[22]) Tuy nhiên, họ đă giành được quyền kiểm soát lâu dài tại một nửa diện tích của 4 tỉnh miền Trung Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, và Quảng Tín — cũng như các vùng ven phía Tây của các Vùng II và III Chiến thuật (khoảng 10-20% diện tích miền Nam). Hà Nội cũng tin rằng họ đă giành được vị thế mạnh hơn tại cuộc đàm phán ḥa b́nh ở Paris.[3]

    Theo đánh giá của Mỹ, Hà Nội đă mắc phải 2 sai lầm quan trọng khi tính toán về năng lực của đối phương. Điểm thứ nhất là đánh giá thấp khả năng chiến đấu của QLVNCH, quân đội mà vào năm 1972 là một trong những quân đội được trang bị tốt nhất thế giới; điểm thứ hai là không lường được sự hủy diệt cực mạnh của không lực Mỹ đối với đối phương trên chiến trường truyền thống. Cùng với các sai lầm chiến thuật đó, các chỉ huy QĐNDVN đă không tận dụng lợi thế du kích và quân số địa phương mà thay vào đó liên tiếp tấn công trực diện vào các vùng hỏa lực pḥng thủ mạnh, chịu hậu quả là thương vong rất lớn.

    Tuy nhiên, Hà Nội nhanh chóng tận dụng được những ǵ giành được. QĐNDVN lập tức bắt đầu mở rộng các hành lang hậu cần từ Lào và Campuchia vào miền Nam Việt Nam. Các cơ sở tại Cửa Việt và Đông Hà được nhanh chóng mở rộng, trong ṿng 1 năm, hơn 20% hàng chuyển vào cho chiến trường miền Nam được đi qua đây.[23]

    Tại Paris, đàm phán ḥa b́nh tiếp diễn, nhưng lần này, cả hai bên cùng đồng ư thỏa hiệp. Mỹ đồng ư chấp nhận ngừng bắn tại chỗ, thừa nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam tồn tại bên cạnh chính quyền Sài G̣n, và Mỹ rút quân hoàn toàn ra khỏi Nam Việt Nam. Các điểm này thực tế đă đủ để thỏa măn các tiêu chí cho chiến thắng mà Hà Nội đă đề ra trước khi cuộc tổng tấn công bắt đầu.[24] C̣n Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đồng ư để chính quyền của tổng thống Thiệu tiếp tục giữ quyền lực.

    Đến đây, trở ngại duy nhất đối với một cuộc dàn xếp là Nguyễn Văn Thiệu. Thất bại của Mỹ trong việc thuyết phục tổng thống Thiệu đă dẫn đến việc ngừng đàm phán vào tháng 12. Tiếp đó là chiến dịch Linebacker II đánh phá miền Bắc Việt Nam nhưng thất bại, do vậy Mỹ quay sang gây áp lực buộc Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận kết quả thương lượng hồi tháng 10, trước khi các bên quay lại đàm phán. Hiệp định ḥa b́nh Paris được kí vào tháng Giêng năm 1973 với nội dung cơ bản giống với bản đă được kí tắt hồi tháng 10, với điều khoản quan trọng nhất là cho phép Quân đội Nhân dân Việt Nam giữ lại các vùng mà họ đă kiểm soát được.

    Mỹ rút hoàn toàn quân viễn chinh khỏi Nam Việt Nam vào tháng 4 năm 1973, tuy nhiên không có nghĩa họ đă rút hẳn khỏi cuộc chiến. Hoa Kỳ vẫn để lại lực lượng cố vấn quân sự và tiếp tục viện trợ quân sự cho VNCH dù cắt giảm nhiều.[cần dẫn nguồn]

    Trên chiến trường lúc này (28 tháng 1/1973) tổng lực lượng VNCH là 450.000 quân chủ lực và hơn 700.000 quân địa phương và dân vệ. Quân Đội Nhân Dân Việt Nam có 525.000 quân (Hoa Kỳ ước đoán 500.000-600.000) mà 220.000 trong số đó đang có mặt ở miền Nam[cần dẫn nguồn]

    Tổn thất
    Nguồn 1: ~10.000 chết, 33.000 bị thương, 3.500 mất tích
    [4]

    Nguồn 2: Tính chung cả năm 1972: Mĩ: 561 chết, 3936 bị thương, 11 mất tích
    VNCH: 39.587 chết, 139.731 bị thương, hàng ngh́n mất tích [4]
    Nguồn Hoa Kỳ: ~40.000 chết, ~60.000 bị thương hoặc mất tích[5]

    Tính chung cả năm 1972: Chưa có thống kê chi tiết

  4. #24
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Mặt trận Trị Thiên Huế năm 1972 - CHIẾN LƯỢC CS BẮC VIỆT
    Wikipedia

    Chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam

    Mặt trận Trị Thiên Huế năm 1972 là một trong các chiến trường chính của Chiến tranh Việt Nam năm 1972.

    Không gian mặt trận

    Mặt trận Trị Thiên Huế năm 1972 có không gian bao trùm toàn bộ phần phía Bắc của Quân khu I - Quân đoàn I QLVNCH. Chiến trường chủ yếu tại tỉnh Quảng Trị. Chiến trường Thừa Thiên Huế chỉ có các hoạt động quân sự lớn vào khoảng thời gian giữa chiến dịch tại hai bờ sông Mỹ Chánh và các cứ điểm ṿng ngoài khu pḥng thủ Huế. Trong chiến dịch, khu vực Quảng B́nh - Vĩnh Linh và khu vực phía Đông tỉnh Savannakhet (Lào) là hậu phương trực tiếp của QĐNDVN, khu vực Huễ - Đà Nẵng là hậu phương trực tiếp của QLVNCH. Không gian chiến dịch cũng mở rộng đến khu vực ven biển từ Quảng B́nh đến Thừa Thiên Huế, nơi có các pháo hạm của hải quân Hoa Kỳ yểm hộ cho lục quân QLVNCH, là vùng hoạt động của các hải đoàn, hải đội tuần duyên của Hải quân VNCH và đặc công nước của QĐNDVN.

    Giai đoạn I: Quân đội nhân dân Việt Nam tấn công
    "Băo táp I"

    Đại tướng Lê Trọng Tấn (năm 1972 là thiếu tướng), tư lệnh chiến dịch Trị Thiên Huế

    11h30' ngày 30 tháng 3 năm 1972, 4 trung đoàn pháo binh của QĐNDVN đồng loạt pháo kích các vị trí của QLVNCH tại Quảng Trị trong 1 giờ. 12h30, từ hướng Tây: Trung đoàn 27 (phối thuộc Sư 320B) đánh chiếm Đầu Mầu (544); Trung đoàn 24 (Sư 304) đánh cứ điểm Tân Lâm (241), Trung đoàn 9 (Sư 304) tấn công Xa Mưu, Ba Hồ (597), Trung đoàn 66 (Sư 304) đánh Động Toàn (548). Tại hướng Bắc: Trung đoàn 48 (Sư 320B) và Trung đoàn 102 (Sư 308) vượt sông Bến Hải tấn công Cam Lộ; Trung đoàn 36 (Sư 308) và Tiểu đoàn tăng 512 (Trung đoàn 202) cũng vượt sông Bến Hải tấn công Cồn Tiên, Bái Sơn, phát triển về Đông Hà; Trung đoàn 27 và Trung đoàn tăng 202 (thiếu) đánh qua Dốc Miếu, Quán Ngang, chiếm cảng Cửa Việt. Tại hướng Nam, Trung đoàn 1 (Sư 324) đánh Động Ngô (655), Trung đoàn 2 chia quân đánh Động Ông Do và điểm cao 440, giữ bàn đạp cho giai doạn II.

    Sau ba ngày chống đỡ với nhiều thương vong, sáng ngày 2 tháng 4, Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh Sư 3 QLVNCH ra lệnh triệt thoái các cứ điểm ṿng ngoài, rút về củng cố tuyến 2. Hồi 14h cùng ngày, hơn 600 binh sĩ thuộc Trung đoàn 56 (Sư 3) QLVNCH c̣n sống sót tại căn cứ Tân Lâm (241) do trung tá Phạm Văn Đính chỉ huy đă hạ vũ khí đầu hàng QĐNDVN. Cùng ra hàng có toàn bộ ban tham mưu Trung đoàn 56, chỉ huy các tiểu đoàn, đại đội.

    Ngày 7 tháng 4, các trung đoàn 36 và 102 của Sư đoàn 308 QĐNDVN được tăng cường Tiểu đoàn tăng 512 tấn công Đông Hà. Tướng Giai chia thiết đoàn 17 làm nhiều toán, tăng phái cho liên đoàn 5 BĐQ và Trung đoàn 57 (Sư 3) cố thủ tại 5 cứ điểm xung quang Đông Hà. QLVNCH áp dụng chiến thuật pḥng ngự cơ động hay "trâu ngủ rừng" (ban ngày về đóng tại căn cứ, ban đêm rút ra bên ngoài, dùng xe tăng bố trí pḥng ngự ṿng tṛn). Chiến thuật này đă làm cho phương thức cường tập đánh đêm của QĐNDVN mất tác dụng. Ngày 9 tháng 5, trận công kích Đông Hà của Sư đoàn 308 và Trung đoàn 48 (Sư 320B) không thành công, 6 xe tăng bị bắn cháy, thương vong lớn. QĐNDVN dừng cuộc tấn công để củng cố lại, chuẩn bị cho băo táp II.

    "Băo táp II"

    Từ ngày 10 đến 19 tháng 4, QĐNDVN thành lập các tổ săn tăng , dùng B-40, B-41 và B-72 diệt 30 xe tăng và thiết giáp, 4 đại đội biệt động quân của QLVNCH, làm suy yếu đáng kể tuyến pḥng thủ Đông Hà.

    Ngày 23 tháng 4, tướng Giai điều Thiết đoàn 20 và Liên đoàn 4 BĐQ từ Ái Tử lên Đông Hà, phối hợp với số quân hiện có tổ chức 9 đợt phản kích (cuộc hành quân "Tây Tiến I") nhưng đều bị QĐNDVN đẩy lùi.

    Ngày 25 tháng 4 từ Thị xă Quảng Trị, tướng Giai điều Trung đoàn 2 của Sư 3 phối hợp với Lữ 147 TQLC cùng 2 chi đoàn của Thiết đoàn 20 ra Mai Lộc tổ chức phản kích các đơn vị đi đầu của Trung đoàn 9 và 66 (Sư 304 QĐNDVN); sử dụng Trung đoàn 1 của Sư 1 và Liên đoàn 4 BĐQ ra trấn thủ Phượng Hoàng, La Vang và phản kích và đội h́nh Trung đoàn 24 thuộc Sư 304 QĐNDVN (cuộc hành quân ""Tây Tiến II"). Đến chiều 29 tháng 4, QĐNDVN đẩy lùi các đợt phản kích của "Tây Tiến II", đánh chiếm Mai Lộc, bao vây Liên đoàn 4 BĐQ/QLVNCH ở Phượng Hoàng. Thương vong của hai bên đều rất lớn. QĐNDVN mất 4 cao xạ, 8 pháo mặt đất, mất thêm 4 xe tăng và 19 đạn tên lửa C-75B ở Cổ Kiềng (Vĩnh Linh) do máy bay đối phương đánh trúng.

    Ngày 27 tháng 4, Đại tá Nguyễn Hữu An, tư lệnh mặt trận kiêm sư trưởng Sư đoàn 308 QĐNDVN, sử dụng Sư đoàn 308, Trung đoàn 48 (Sư 320B), các tiểu đoàn đặc công 33 và 37, các tiểu đoàn tăng 513 và 512 (thiếu) tổng công kích Đông Hà. 17h15' ngày 28 tháng 4, QĐNDVN chiếm Đông Hà, Trung đoàn 88 (Sư 308) phát triển đến Lai Phước và đánh sập cầu. Tướng Giai lệnh thu quân vượt sông Hiếu rút về Ái Tử sau khi bị tổn thất thêm 41 xe tăng, 38 thiết giáp M-113 cùng toàn bộ Trung đoàn 57 và 4 tiểu đoàn BĐQ.

    Trong tháng 4 năm 1972, Không lực Hoa Kỳ đă sử dụng 54 lượt B-52 và 128 lượt máy bay cường kích ném bom các đơn vị QĐNDVN đang hoạt động ở Quảng Trị. Không quân QLVNCH đă dùng hơn 200 lượt F-5, A-37, T-28 và UH-1 yểm hộ cho lục quân phản kích. Không lực Hoa Kỳ mất 1 EB-66, 3 F-4, 1 B-52 bị thương phải hạ cánh xuống Đà Nẵng, 1 tàu chiến bị trúng bom của MiG-17 (Không quân QĐNDVN) ở ngoài khơi Cửa Việt. Không lực VNCH mất 4 UH-1, 1 AH-1 (Cobra), 1 AD-6, 1 L-19.

    Ngày 29/4/1972, các cứ điểm Lai Phước, Phượng Hoàng, La Vang lần lượt thất thủ. Đến trưa, căn cứ Ái Tử bị công kích ba mặt. Sư 304 QĐNDVN tấn công từ phía Tây Nam, Sư 308 (thiếu E36) theo đường quốc lộ 1 đánh xuống, trung đoàn 27 và trung đoàn tăng 202 tấn công từ phía Đông vào. Để tránh bị tiêu diệt toàn bộ số quân c̣n lại hoặc bị bắt; tướng Giai yêu cầu tướng Lăm cho bỏ Ái Tử, rút về pḥng thủ Nam Thạch Hăn, lấy TX Quảng Trị làm trung tâm. Tướng Lăm gật đầu nhưng không nói ǵ. Ngày 30/4, Trung đoàn 9, Sư 304 QĐNDVN điều tiểu đoàn 3 phá cầu gỗ, chốt chặn cầu sắt. Lữ 147 TQLC, trung đoàn 2 và 1 tiểu đoàn của trung đoàn 57 (sư 3 QLVNCH) phải bỏ lại toàn bộ xe, pháo ở bờ bắc, bơi qua sông về TX Quảng Trị.

    Ngày1/5, các Sư 304 và 308 QĐNDVN tổng công kích thị xă Quảng Trị, trung đoàn 64 (sư 320B) và trung đoàn 1 (F324) tiến quân hợp điểm tại Cầu Nhùng, làm thành một chốt chặn lớn. Số quân c̣n lại Sư 3, lữ 149 TQLC, các thiết đoàn 17, 20 QLVNCH bị đánh ép từ hai phía, phải bỏ quốc lộ 1, phân tán đội h́nh rút vè phía Nam Mỹ Chánh. 17 giờ chiếu 1/5, trung đoàn 9, sư 304 (QĐNDVN) chiếm trung tâm thị xă Quảng Trị.



    "Băo táp III"
    Không ảnh của Không lực Hoa Kỳ chụp căn cứ Cam Lộ sau khi bị QĐNDVN đánh chiếm, tháng 4 năm 1972

    Ngày 3/5, QĐNDVN tiếp tục điều từ lực lượng dự bị: trung đoàn 18 (Sư 325) vào hướng Đông phối hợp với trung đoàn tăng 202 đánh dọc ven biển xuống Quảng Điền. Đến ngày 9/5, tại Mỹ Thủy, cánh quân này vấp phải cuộc phản công của lữ 369 TQLC và thiết đoàn 11 mới tăng viện từ Sài G̣n ra c̣n đang sung sức. Ngày 13/5, lữ 369 TQLC chiếm lại Mỹ Thủy, đẩy các đơn vị QĐNDVN lùi về Luơng Ba, Linh Chiểu.

    Các trung đoàn 27, 64 (Sư 320B), 1 (sư 324) tấn công cụm pḥng ngự Mỹ Chánh theo đường 1. Các trung đoàn 88 (sư 308), 24 (sư 304), 2 (sư 324) luồn rừng công kích Mỹ Chánh từ hướng Tây. Tại Huế, trung đoàn 3 (sư 324) và trung đoàn 6 (chủ lực khu 5) tấn công các cứ điểm Động Chúc Mao, Động Tranh, Đèo Sơn Na, Khe Thai, buộc trung đoàn 54 (sư 1 QLVNCH) phải lùi về giữ Ḥn Vượn nhưng không c̣n lực lượng để tiếp tục phát triển.[1]

    Trong các ngày từ 4/5 đến 9/5, các đơn vị QĐNDVN đánh Mỹ Chánh theo quốc lộ 1 ba lần tổ chức vượt sông nhưng không bám được căn cứ đầu cầu. Tướng Hoàng Xuân Lăm (từ 6/5 là tướng Ngô Quang Trưởng) điều động toàn bộ sư 1, lữ dù 1, lữ 258 TQLC và thiết đoàn 8 chốt giữ bờ Nam Mỹ Chánh với sự yểm hộ liên tục của pháo binh và không quân Hoa Kỳ.

    Từ ngày 15 đến ngày 5/6, QĐNDVN tấn công các cứ điểm ṿng ngoài Đông Mỹ, Lương Mai, Đồng Lâm, Đồng Hun, Đống Đá, Cái Mương của cụm pḥng ngự Mỹ Chánh-Yên Bầu-Cầu Nhi nhưng không giữ được. Quân số chiến đấu hao hụt dần, đạn hết, gạo hết. Cả trung đoàn 2 (sư 324) phải gùi gạo cho trung đoàn 1 đánh. Trung đoàn pháo 38 hết toàn bộ dự trữ đạn, phải chiến đấu như bộ binh. Trung đoàn pháo 164 chỉ c̣n chưa đầy nửa cơ số đạn phải sử dụng pháo 155 mm chiến lợi phẩm.[2]

    Từ ngày 9 đến ngày 26/6, bộ binh chỉ tổ chức vài đợt trinh sát chiến đấu lẻ tẻ. Cuộc chiến chuyển thành cuộc đấu pháo. Từ ngày 3/5 đến ngày 26/5, không lực Hoa Kỳ xuất kích 72 lần chiếc B-52 và 207 lần chiếc cường kích yểm hộ cho QLVNCH tại Trị Thiên, huy động 3 chiến hạm phối hợp với 5 chiến hạm của QLVNCH bắn hơn 8.000 viên đạn pháo vào đội h́nh QĐNDVN đang tấn công cụm Mỹ Chánh-Cầu Nhi.

    Đợt "Băo táp III" của QĐNDVN chỉ thu được kết quả rất hạn chế trong khi thiệt hại về người và vũ khí khí tài rất nghiêm trọng. Trung b́nh các đơn vị chỉ c̣n từ 40 đến 50% quân số, có đại đội chỉ c̣n 12 tay súng (bằng 1 tiểu đội). Tuy nhiên, trên bản đồ của các tướng lĩnh, đó vẫn là những đơn vị đủ biên chế và lệnh tiếp tục tấn công vẫn được đưa ra. Theo đại tá Cao Sơn, nguyên Trung đoàn trưởng trung đoàn pháo 38 (đoàn Bông Lau): Cùng với thiệt hại do phi pháo địch gây ra, đây là nguyên nhân chính làm cho các đơn vị QĐNDVN kiệt sức.

    Giai đoạn II: Quân lực Việt Nam Cộng ḥa phản công
    Thay đổi nhân sự và kế hoạch phản công của QLVNCH
    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa phản công tại mặt trận Quảng Trị, 1972


    Ngày 5/5, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định trung tướng Ngô Quang Trưởng, nguyên tư lệnh Quân đoàn IV làm tư lệnh Quân đoàn I, tướng Hoàng Xuân Lăm bị điều về Bộ Tổng tham mưu "tùy nghi sử dụng". Chuẩn tướng Vũ Văn Giai cũng bị cách chức và phải giải tŕnh việc "để mất một tỉnh vào tay Cộng sản" trước ṭa án binh.

    Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ định các sĩ quan chỉ huy mới cho các đơn vị thuộc quyền: Sư TQLC: Đại tá Bùi Thế Lân (tư lệnh), Đại tá Nguyễn Thành Trí (phó tư lệnh); Sư dù: Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng. Do ngờ rằng trong bộ tham mưu Quân đoàn 1 có điệp báo của QĐNDVN mà em ruột tướng Lăm (bà Hoàng Thị Nhạn) là đối tượng đáng nghi nhất [3]; tướng Trưởng thành lập Ban nghiên cứu kế hoạch phản công độc lập (theo chế độ tối mật, không phụ thuộc Ban tham mưu quân đoàn) do đại tá pháo binh Lê Văn Thân chỉ huy.

    Kế hoạch của Ngô Quang Trưởng nhằm 3 mục tiêu:

    1- Tái bổ sung, tái phối trí lực lượng để ngăn chặn địch, giữ Huế (đến 26/6 đă thực hiện được).
    2- Tái chiếm phần lănh thổ đă lọt vào tay Cộng sản Bắc Việt.
    3- Văn hồi trật tự, gây ḷng tin cho quân, dân, cán, chính vùng giới tuyến.

    Phía QĐNDVN cũng có sự thay đổi về nhân sự. Từ ngày 27/6; thiếu tướng Trần Quư Hai được cử làm Tư lệnh chiến dịch thay thiếu tướng Lê Trọng Tấn; trung tướng Song Hào được cử là chính ủy thay thiếu tướng Lê Quang Đạo. Mục tiêu của chiến dịch không c̣n là tấn công đánh chiếm Huế nữa mà chuyển thành pḥng thủ, giữ vững vùng giải phóng. Tuy nhiên, do công tác chuẩn bị không tốt, hậu cần mới chỉ đảm bảo 50% vật chất; do các cấp chỉ huy không dự kiến trước, không thống nhất, tư tưởng quyết tâm tiến công trở thành tư tưởng phiêu lưu nên QĐNDVN gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Nhiều đơn vị đă vào quá sâu để chuẩn bị tấn công Huế, không kịp rút ra do mệnh lệnh chuyển mục tiêu chiến dịch được phổ biến quá chậm.[4]

    "Lam Sơn 72"
    Ngày 28/6/1972, tướng Ngô Quang Trưởng phát lệnh khởi binh cuộc hành quân Lam Sơn 72 trên hai hướng:

    Hướng Tây: Sư dù đă hội đủ 3 lữ đoàn (1,2,3) và 1 tiểu đoàn, liên đoàn biệt kích dù 81 cùng thiết đoàn 20 (tăng), thiết đoàn 7 (xe bọc thép) tấn công dọc theo quốc lộ 1, yểm hộ sườn trái có liên đoàn 1 biệt động quân.
    Hướng Đông: Sư TQLC đă có đủ 3 lữ đoàn (147, 258, 369); Trung đoàn 4 bộ binh (sư 1), các thiết đoàn 17, 18 tấn công dọc bờ biển trên chính diện 12 km.
    Lực lượng yểm hộ: Pháo 175mm, 155 mm, 105 mm mỗi loại 2 tiểu đoàn; pháo pḥng không: 1 tiểu đoàn. Sư đoàn không quân 1 (ở Đà Nẵng, Phú Bài), hải quân vùng 1 và các lực lượng hải quân, không lực Hoa Kỳ được lệnh chi viện tối đa cho "Lam Sơn 72".

    Chiều 28/6, sau khi vượt sông Mỹ Chánh, QLVNCH đă cô lập được một bộ phận của các sư 304 và 308 QĐNDVN ở nam Sông Mỹ Chánh. Trung đoàn pháo tầm xa 38 phải chôn cơ bẩm, phá hủy toàn bộ pháo 130 mm rồi rút ra (có một khẩu bị QLVNCH chiếm được, đem về triển lăm ở Sài G̣n tháng 10/1972)[5]. Trung đoàn 18 (sư 325) bị thương vong nặng phải rút ra củng cố, để trung đoàn 64 (sư 320B) vào thay. Mặc dù từ ngày 26, Bộ tư lệnh mặt trận (B5) đă gọi sư 304 và 308 quay lại chặn QLVNCH ở Tường Phước-Hướng Điền nhưng chỉ có trung đoàn 66 (sư 304) đến kịp và cũng bị đẩy lui.

    Hướng Đông, ngày 29/6, các lữ TQLC 147 và 258 tấn công các khu vực Diên Khanh, Xuân Viện, Kim Giao (thuộc huyện Hải Lăng), phối hợp với lữ TQLC 369 từ Mỹ Thủy và Cổ Lũy đánh ra, đẩy các trung đoàn 27 và 64 QĐNDVN lùi sâu hơn nữa về phía Triệu Phong.

    Hướng Tây, ngày 2/7, trung đoàn 102 mới đến phối hợp với trung đoàn 66 chặn lữ dù 2 (QLVNCH) ở Tường Phước. Ngày 3/6,trung đoàn 36 phá sập Cầu Nhùng, lập chốt chặn ở bờ Bắc sông Nhùng. Trung đoàn 9 và 24 vẫn phải tiếp tục phá vây và tấn công phía sau cánh quân dù trong khi sức chiến đấu đă suy giảm nghiêm trọng[6]. Từ ngày 3 đến ngày 6/7, sau khi nhổ từng chốt chặn của QĐNDVN trên khoảng cách từng trăm mét một và thương vong hơn 300 quân, lữ dù 1 và liên đoàn 1 biệt động quân đă có mặt ở ngoại vi thị xă Quảng Trị nhưng không lọt vào được. Từ ngày 6 đến 13/7, các lữ dù 2 và 3 (lữ 1 chuyển về làm dự bị) tấn công TX từ hướng Tây và hướng Nam; các lữ 147 và 369 tấn TX từ hướng Đông nhưng đến tuyến Ngô Xá, Trà Tŕ, Cù Hoan, Trà Lộc th́ bị các đơn vị của các trung đoàn 27, 64 (sư 320B), 18 (sư 325) và tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh chặn lại. Các trận đánh cấp tiểu đoàn đă diễn ra ở Quy Thiện, Trầm Lư, An Thái, Đại Nại. Bên sườn trái sư dù-QLVNCH, các lực lượng c̣n lại của trung đoàn 66 và 24 (sư 304) tập kích vào Cây Lời, Phú Long. Ngày 13/7, máy bay trực thăng chở đạt tá Nguyễn Trọng Bảo, tham mưu phó sư dù và 8 sĩ quan tham mưu bị súng 12,7 mm của QĐNDVN bắn rơi ngay tại TX Quảng Trị. Mũi đột kích sâu của sư dù và thiết đoàn 20 bị đẩy lùi.Ư định của QLVNCH chiếm thị xă trước ngày 13/7 để mặc cả tại Hội nghị Paris không thực hiện được. Thương vong mỗi bên đến hàng ngh́n người. QLVNCH mất 12 xe tăng các tiểu đoàn dù 1 và 5 bị tổn thất nặng. QĐNDVN hầu như không c̣n xe tăng tại mặt trận từ 26/6.

    Ngày 14/7, Bộ tư lệnh B5 thành lập hai cánh quân pḥng thủ TX Quảng Trị gồm: Cánh Đông: Sư 320B (ṇng cốt), trung đoàn 18 (sư 325), tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh, tiểu đoàn 10 Quảng Trị, đoàn 1A đặc công hải quân. Trung đoàn 48 (sư 320) và tiểu đoàn 8 (Quảng Trị) được giao nhiệm vụ pḥng thủ thành cổ và nội đô thị xă do chính ủy trung đoàn Lê Quang Tùy chỉ huy. Cánh Tây: sư 325 (thiếu trung đoàn 18), sư 308 (thiếu trung đoàn 102), trung đoàn 165 (sư 312), 1 tiểu đoàn cao xạ. Tuy nhiên, việc chỉ huy chung không được thống nhất. trên danh nghĩa, sư 320B chỉ huy chung nhưng các đơn vị hướng Tây lại do B5 chỉ huy trực tiếp.

    Ngày 14/7, Sư dù và sư TQLC-QLVNCH tổ chức tấn công đợt 2 nhằm chiếm thị xă trước ngày 18/7 và cùng lắm phải trước ngày 27/7. Lữ dù 1 đánh Quy Thiện, Tŕ Bưu, Lữ dù 2 đánh Tích Tường, Như Lệ. Các lữ TQLC 147 và 369 tiến sát sông Vĩnh Định, chiếm An Tiêm, Nại Cửu và Bích La Đông. Trong trận này, lữ 369 TQLC tổn thất 2 đại đội và 11 trực thăng ở Nại Cửu. Đến ngày 16/7, lữ dù 1 đă chiếm được các làng Tŕ Bưu, Cổ Thành; Trung đoàn 18 (sư 325) bị tổn thất nặng phải rút ra Ái Tử-Đông Hà, Bộ tư lệnh B5 điều trung đoàn 95 (sư 325) vào thay. QLVNCH đă h́nh thành thế bao vây ba mặt quanh TX Quảng Trị nhưng chưa vào được nội đô.

    Ngày 18/7, ở hướng Tây, Trung đoàn 88 (sư 308) và trung đoàn 48 (thiếu-Sư 320B) chiếm lại Long Hưng Bắc và ngă tư đường sắt; Tiểu đoàn 8 (Quảng Trị)và tiểu đoàn 2 (trung đoàn 48) chiếm lại Thạch Hăn và ngă tư đường 1; Trung đoàn 66 (sư 304) vẫn giữ dược Phú Long.

    Ngày 22/7, Bộ tư lệnh B5 tung lực lượng thiết giáp cuối cùng có trong tay (tiểu đoàn 66) phối hợp với Trung đoàn 64 và tiểu đoàn 47 (Vĩnh Linh) phản đột kích vào tiểu đoàn 6 (lữ 258) và tiểu đoàn 9 (lữ 369) TQLC đang đổ bộ xuống Lệ Xuyên, Linh Chiểu tiến đánh Cửa Việt.

    Từ ngày 25 đến ngày 27/7, tướng Lê Quang Lưỡng tung lực lượng dự bị cuối cùng (LĐ biệt kích dù 81) vào chiến đấu, chiếm được các làng Tŕ Bưu, Cổ Thành. Tiểu đoàn biệt lích dù 27 tiến sát góc Đông Nam Thành cổ nhiều lần lao lên định cắm cờ lên tường thành nhưng đều bị Trung đoàn 48 đẩy lùi. Hai bên tổn thất lớn về sinh mạng.

    Ngày 28/7, thời hạn đánh chiếm thị xă Quảng Trị và thành cổ đă hết, tướng Ngô Quang Trưởng quyết định dừng cuộc tấn công của sư Dù, chuyển giao nhiệm vụ đánh chiếm thị xă Quảng Trị cho sư đoàn Thủy quân lục chiến. Trong tháng 7, mỗi ngày Không lực Hoa Kỳ huy động từ 40 đến 60 phi vụ B-52, 130 đến 150 phi vụ máy bay cường kích yểm hộ mặt đất cho QLVNCH.

    Rút kinh nghiệm cách đánh vỗ mặt của Sư dù không thành công, tướng Bùi Thế Lân dùng chính chiến thuật của QĐNDVN trong Chiến dịch Điện Biên Phủ: chiến thuật lấn dũi làm phương thức tấn công chính. Lần này, tướng Lân không bị thúc ép thời hạn đánh chiếm TX Quảng Trị như tướng Lưỡng bởi ḥa đàm Paris đă được nối lại. Mỗi đợt tấn công, tướng Lân cho 6 tiểu đoàn thuộc 3 lữ đoàn công kích, để lại 3 tiểu đoàn ở tuyến sau để dưỡng quân, thay thế, bổ sung, trang bị lại sau đó luân phiên thay nhau chiến đấu. Cách đánh này làm cho QĐNDVN phải liên tục chiến đấu và đối phó, liên tục tác chiến dẫn đến mệt mỏi trong khi quân số được thay thế rất hạn chế.

    Từ ngày 29/7đến 19/8, Bộ Tư lệnh B5 bổ sung cho trung đoàn 165 (sư 312) cho hướng Tây, phối hợp với Trung đoàn 88 sư 308), trung đoàn 95 (sư 325) đột kích vào điểm cao 105B, Tích Tường, Thạch Hăn nhưng không đạt kết quả. Ở hướng Đông, đặc công K1, K5 (đoàn 135 - QĐNDVN) đột kích Cảng Mỹ Thủy và trận địa pháo Hải Lăng. Các trung đoàn 101 (sư 325) và 27 (sư 320B) tiếp tục giành giật khu vực Nại Cửu, Chợ Săi với sư Thủy quân lục chiến (QLVNCH). Ngày 9/8, Bộ tư lệnh B5 giao sư 325 chỉ huy chung các lực lượng QĐNDVN pḥng thủ thị xă Quảng Trị.

    Từ ngày 20 đến ngày 30/8, ở hướng Tây, sau khi được bổ sung quân và tái trang bị, sư dù có không quân và pháo binh yểm trợ tối đa đánh lấn phía Tây thị xă, chiếm ngă ba Long Hưng, ngă tư Thạch Hăn, Tích Tường. Các trung đoàn 102 và 88 (sư 308) bị thương vong nặng phải rút lui. Các trung đoàn 36 (sư 308) và 165 (sư 312) vẫn giữ được Tích Tường. Ở hướng Đông, trung đoàn 101 (sư 325) đột kích chiếm Chợ Săi, trung đoàn 27 (sư 320B) chiếm Bích La Trung nhưng sau một ngày, các lữ đoàn 147, 369 TQLC - QLVNCH đă phản kích chiếm lại. Ngày 17/8, Lữ đoàn 258 TQLC đă đội kích vào trung tâm thị xă; khu vực Tŕ Bưu đă ba lần chuyển từ tay Trung đoàn 95 (sư 325-QĐNDVN sang tay Lữ 258 TQLC (QLVNCH) và ngược lại. Đến cuối tháng 8, QLVNCH vẫn giữ thế bao vây TX Quảng Trị từ ba mặt: Đông Bắc, Đông Nam và Tây Nam.

    Ngày 5/9, tướng Trưởng quyết định lợi dụng đối phương đang nguy cấp do nước lụt sông Thạch Hăn dâng cao ngập Thành cổ để mở đợt tấn công thứ năm. Tham gia đợt này c̣n có thêm các liên đoàn biệt động quân 1 và 2, thiết đoàn tăng 21 (có trang bị xe tăng có súng phun lửa M-125) mới điều từ phía Nam ra. Sư đoàn dù huy động toàn bộ lực lượng được tăng cường liên đoàn 1 biệt động quân công kích thị xă từ hướng Tây Nam và hướng Nam. Sư đoàn thủy quân lục chiến được tăng cường thiết đoàn 21 và liên đoàn 2 biệt động quân tấn công thị xă từ hướng Đông và Đông Bắc. Ngày 6/9, các Trung đoàn 27 và 64 (QĐNDVN) phá vỡ pḥng tuyến sông Vĩnh Định của Lữ đoàn 147 TQLC, mở hành lang nối với Nham Biều, Thạch Hăn. Trong thị xă, trung đoàn 95 (sư 325) và trung đoàn 48 (sư 320) đánh chặn lữ dù 3 ở Hải Tŕ, lữ dù 1 ở Tŕ Bưu, liên đoàn 1 biệt động quân ở Hành Hoa sát khu vực Thành cổ khoảng 500m đến 1 km. Ở các hướng khác, QĐNDVN không c̣n lực lượng chốt giữ phải lui dần, trung đoàn 102 (sư 308) phải bỏ Long Hưng rút về phía Tây, trung đoàn 24 (sư 304) phải rút về Tường Phước, sau đó bị nước lũ cô lập. Không lực Hoa Kỳ tăng gấp đôi số phi vụ B-52 và cường kích đánh phá các trận địa của QĐNDVN gây thương vong lớn. Các trung đoàn 48 và 95 chỉ c̣n trên dưới 100 người, có trung đội chỉ c̣n 7-8 người.
    Đài tưởng niệm liệt sĩ tại Thành cổ Quảng Trị

    Ngày 13/9, tiểu đoàn 6, lữ 258 TQLC QLVNCH chiếm được góc Đông Nam Thành cổ. Ngày 15/9, Lữ đoàn 147 TQLC chiếm được góc Đông Bắc Thành cổ. Đêm 15 rạng ngày 16/9, Bộ tư lệnh B5 điều Trung đoàn 18 (sư 325) vào yểm hộ để rút toàn bộ các lực lượng đang chiến đấu ở TX Quảng Trị sang ta ngạn sông Thạch Hăn. Sáng 16/9 (theo lịch VNCH là 15/9), Lữ đoàn TQLC kéo cờ tại Thành cổ Quảng Trị, kết thúc cuộc hành quân Lam Sơn 72.

    Tuy để thị xă Quảng Trị và Thành cổ mất vào tay QLVNCH nhưng QĐNDVN vẫn giữ được hai căn cứ bàn đạp Tích Tường, Như Lệ, Phước Môn, Tân Téo phía Tây và Bích La, An Lộng, Chợ Săi, Nại Cửu, Long Quang ở phía Đông trên hữu ngạn sông Thạch Hăn. Ngoài ra, sư đoàn 324 vẫn chiếm giữ các vị trí cực tây Quảng Trị. Đây là những mục tiêu mà tướng Ngô Quang Trưởng phải tiếp tục đối phó bằng cuộc hành quân Lam Sơn 72A trong giai đoạn sau.
    Giai đoạn III: Từ Lam Sơn 72A đến Trận Cửa Việt
    Lam Sơn 72A và các cuộc hành quân "Sóng thần"

    Từ cuối tháng 9 đến trung tuần tháng 10/1972, QLVNCH sử dụng lữ dù 1, tiểu đoàn 85 biệt động quân tấn công các căn cứ bàn đạp của QĐNDVN. Ở Tích Tường - Như Lệ, lữ dù 1 chiếm được thôn Tích Tường 2 nhưng không phát huy được chiến quả. Lữ dù 2 không đạt được bất cứ mục tiêu nào.

    Ngày 7/10, lữ TQLC 258 tấn công khu vực bàn đạp phía Đông của QĐNDVN ở Bích La, An Lộng, Chợ Săi, Nại Cửu, Long Quang nhưng tiến quân rất chậm do bị tiểu đoàn 8 (Quảng Trị) và tiểu đoàn 47 (Vĩnh Linh) tập kích vào hai bên sườn. Ngày 18/10, trung đoàn 64 (sư 320B) tổ chức phản đột kích vào điểm cao 11, Linh Chiểu, Ngô Xá Đông (hậu cứ của lữ 258) buộc lữ 147 phải điều quân ứng cứu. Lợi dụng QLVNCH tập trung đánh căn cứ bàn đạp, Đặc công K2, K4 và công binh QĐNDVN dùng ḿn phá các cầu Chợ Cống, Vân Tŕnh và cầu đường sắt Quảng Trị. Bộ tư lệnh B5 lệnh cho các đơn vị phía Bắc Thạch Hăn phải "trụ vững và chiến thắng".

    Trên hướng Tây, các lữ dù 2, 3 và liên đoàn 1 biệt động quân (thiếu tiểu đoàn 85) có phi pháo yểm trợ tối đă tấn công các điểm cao 235,367 và các chốt của sư 324, sư 312. Do pḥng thủ sư hở nên QĐNDVN lần lượt mất các điểm tựa 74, 235, 101, 108, 118, 124; các điểm tựa 367, Động Chiên Gịng, Động Ông Do bị uy hiếp nghiêm trọng. Ngày 20/10/1972, Bộ tư lệnh B5 điều các trung đoàn 24, 66 (sư 304) phản kích chiếm lại các điểm cao 118, 124. Ngày 3/11, lữ dù 2 chiếm điểm cao 367.

    Ngày 1/11, Lữ đoàn 369 TQLC mở cuộc hành quân "Sóng thần 9" vượt sông Thạch Hăn đánh sang Nham Biều, Ái Tử. Trung đoàn 18 và tiểu đoàn 42 súng máy cao xạ QĐNDVN tổ chức phục kích tại bờ sông, gây thương vong lớn cho tiểu đoàn 7 TQLC, buộc lữ 369 phải trở về hữu ngạn Thạch Hăn. Ngày 11/11, tướng Trưởng điều toàn bộ sư đoàn TQLC mở cuộc tấn công "Sóng thần 36" đánh vào căn cứ bàn đạp phía Đông (Long Quang-Thanh Hội) để mở đường tiến chiến Cửa Việt. Không lực Hoa Kỳ xuất kích 54 phi vụ cường kích, 18 phi vụ B-52, phối hợp với tàu chiến ném bom, pháo kích yểm trợ cho "Sóng thần 36". Các lữ đoàn TQLC không vượt qua được các chốt Long Quang, Thanh Hội, các tiểu đoàn 1, 2, 8 TQLC mất sức chiến đấu phải rút ra củng cố. Ngày 4/12, Bộ tư lệnh B5 điều trung đoàn 48 (thiếu tiểu đoàn 2) và tiểu đoàn 3 (Quảng Trị) vượt sông phối hợp với quân giữ chốt phẩn kích, đẩy sư đoàn TQLC lùi về B́nh An, Gia Đẳng, Ba Lang. Trong các trận này sư đoàn TQLC QLVNCH bị tổn thất nặng, thương vong 3.200 binh sĩ và sĩ quan, mất 49 xe tăng và xe bọc thép, 16 trực thăng.

    Ngày 16/12, tướng Trưởng tiếp tục ư đồ mở đường ra Cửa Việt, tổ cuộc cuộc hành quân "Sóng thần 45", sử dụng các lữ đoàn 369 và 147 TQLC (thiếu) đánh ra tuyến B́nh An, Thanh Hội. Tại hướng này, sư đoàn 320B QĐNDVN đă hội đủ ba trung đoàn chặn đứng cuộc tiến quân của TQLC VNCH ở B́nh An, truy kích TQLC đến Hữu Niêm, Bích La Trung, Linh An. Ngày 25/12, tướng Trưởng phải kết thúc cuộc hành quân.

    Từ ngày 17 đến ngày 20/1/1973, sư đoàn TQLC tiếp tục mở cuộc hành quân "Sóng thần 18" vẫn theo hướng cũ đánh ra Thanh Hội nhưng bị trung đoàn 101 (sư 325) và trung đoàn 64 (sư 320B) đẩy lui chỉ sau 3 ngày.

    Ở hướng Tây, sư dù tấn công các chốt của QĐNDVN ở Động Ông Do và các điểm cao xung quanh. Ngày 9/11, lữ dù 2 chiếm được điểm cao A1 khống chế động Ông Do. Bộ tư lệnh B5 giao tư lệnh sư đoàn 312 chỉ huy hướng thay cho tư lệnh sư 308, điều trung đoàn 165 tăng cường cho sư 304 tổ chức phản kích lấy lại Động Ông Do nhưng không giữ được. Ngày 12/12, sư đoàn dù QLVNCH chiém toàn bộ cụm chốt Động Ông Do, sau đó lần lượt chiếm Khe Trai, Đá Đứng, Phương Thúy, các điểm cao 105B, 132, 264.

    Nhận thấy lực lượng dù của QLVNCH đă bị hút sang hướng Tây và Tây Nam, ngày 23/1/1973, Mặt trận B5 điều trung đoàn 95 và trung đoàn 209 từ bàn đạp Tích Tường-Như Lệ đánh chiếm lại các điểm cao 52, 29 và 15, chốt giữ hướng Tây pḥng tuyến sông Thạch Hăn cho đến khi có lệnh ngừng bắn (do Hiệp định Paris).
    Trận Cửa Việt

    Ư đồ của QLVNCH khởi trận Cửa Việt nhằm chiếm giữ khu cảng quan trọng, chốt giữ cửa sông Thạch Hăn, đẩy các đơn vị QĐNDVN đóng ở khu vực Bắc sông Thạch Hăn vào t́nh rạng khó khăn về hậu cần, tiếp vận; mặt khác, Cửa Việt có thể được tổ chức thành bàn đạp có giá trị quân sự quan trọng, phối hợp lục quân - hải quân để tấn công chiếm lại phần đất ở Bắc Thạch Hăn, hoàn thành toàn bộ kế hoạch hành quân Lam Sơn 72. Đối với QĐNDVN, Cửa Việt cũng là bàn đạp để phát triển tấn công sau này và là căn cứ trung chuyển hậu cần trọng yếu cho các đơn vị đóng ở phía Đông pḥng tuyến Thạch Hăn của họ. Ngày 21/1/1973, tướng Abrams, tướng Heige và tướng Ngô Quang Trưởng nhất trí với kế hoạch hành quân Tangocyti (tên gọi trận tấn công Cửa Việt-1972 của QLVNCH do các cố vấn Hoa Kỳ đặt).

    Lực lượng QLVNCH tham gia trận này có: Lữ đoàn đặc nhiệm (Lữ đoàn TQLC 470 mới tổ chức), các lữ đoàn TQLC 147, 258, (mỗi lữ đoàn có 2 tiểu đoàn tuyến đầu, 1 tiểu đoàn dự bị chiến dịch), 2 tiểu đoàn bảo an binh, các thiết đoàn xe tăng 17, 18, 20, 4 tiểu đoàn pháo (72 khẩu) 4 tàu đổ bộ LCU, sư đoàn khong quân số 1 (đóng tại Đà Nẵng, Phú Bài). Hải quân Hoa Kỳ điều 5 tàu khu trục, Không lực Hoa Kỳ chủ yếu sử dụng B-52 để yểm hộ.

    Kế hoạch hành quân cụ thể như sau:

    Lữ đoàn đặc nhiệm và thiết đoàn 17 đột kích từ ven biển đánh vào Thanh Hội;
    Lữ đoàn 147 và 2 thiết đoàn 18, 20 tấn công trực diện vào Long Quang;
    Lữ đoàn 258 và 2 tiểu đoàn bảo an đánh sang Nại Cửu, Chợ Săi.

    Đêm 25/1/1973, các tiểu đoàn 9 (lữ đặc nhiệm), 3 (lữ 258), lữ 147 và hơn 140 xe tăng nổ súng tấn công. Các trung đoàn 95 (sư 325) và 64 (sư 320B) tổ chức 3 tuyến pḥng ngự, làm giảm tốc độ tiến quân của QLVNCH nhưng không chặn lại được. Không lực Hoa Kỳ điều động 80 phi vụ B-52, pháo binh từ hạm đội 7 và 4 tiểu đoàn pháo ở TX Quảng Trị bắn hơn 60.000 viên đạn pháo yểm hộ cho QLVNCH. Các đơn vị TQLC thay đổi hẳn cách đánh so với "Lam Sơn 72", không tấn công vỗ mặt mà luồn qua các chốt của QĐNDVN để nhanh chóng tiếp cận mục tiêu Cửa Việt.

    Lợi dụng sự mất cảnh giác của một số đơn vị trinh sát QĐNDVN, 23 giờ ngày 27/1, lữ đoàn đặc nhiệm đă tiếp cận cảng Cửa Việt. Đến 1 giờ ngày 28/1, Bộ tư lệnh B5 mới biết tin và ngay lập tức, điều trung đoàn 101 và 5 xe tăng đánh vào sườn Lữ đặc nhiệm ở Đông Ḥa, Vĩnh Ḥa, bắn cháy 8 xe tăng của thiết đoàn 17 nhưng không ngăn được các tiểu đoàn 2, 5 (lữ đặc nhiệm) tiến về cảng Cửa Việt, h́nh thành 3 cụm quân vây bọc cảng.



    Rạng sáng ngày 28/1, Bộ tư lệnh B5 tiếp tục điều 5 tiểu đoàn từ các trung đoàn 27,48,64 (sư 320B), 271 (độc lập), 38 (Quân khu IV) tăng viện cho các lực lượng giữ Cửa Việt. Đến trưa 28/1, B5 điều tiếp Trung đoàn 24 (sư 304) và 1 đại đội xe tăng (thuộc trung đoàn 203) tấn công phía sau cánh quân của lữ đặc nhiệm QLVNCH.

    Ngày 30/1 QĐNDVN nổ súng tấn công nhưng các hướng không phối hợp được với nhau nên bị lữ đặc nhiệm và lữ 147 TQLC đẩy lùi. Ngày 31/1, QĐNDVN tổ chức tổng công kích đồng loạt vào 5 cụm quân của QLVNCH. 8h 30' sáng 31/1, ba cụm quân QLVNCH ở cảng bị diệt, hai cụm quân c̣n lại rút về Mỹ Thủy. Tuyến pḥng thủ Vĩnh Ḥa, Thanh Hội, Long Quang, Chợ Săi của B5 được khôi phục. Cuộc hành quân Tangocyti không thu được kết quả nào.

    Từ năm 1973 đến tháng 3 năm 1975, tại mặt trận Trị Thiên Huế, các bên tiếp tục có những trận đánh nhỏ nhằm giành đất, cắm cờ cho đến khi nổ ra Chiến dịch mùa Xuân 1975.

  5. #25
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972 - CHIẾN LƯỢC CS BẮC VIỆT
    Wikipedia


    Thời gian 30 tháng 3-5 tháng 6, 1972
    Địa điểm Kontum, Việt Nam
    Kết quả 2 bên đều tuyên bố thắng lợi.
    QĐNDVN chiếm phần lớn tỉnh KonTum nhưng không chiếm được khu vực thị xă[1]

    Tham chiến
    Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa
    Quân đội Nhân dân Việt Nam
    Quân Giải phóng miền Nam
    Chỉ huy
    Ngô Du
    Lư Ṭng Bá
    John Paul Vann † Hoàng Minh Thảo

    Lực lượng
    QLVNCH
    2 Sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn Dù, và một số Trung đoàn tăng viện.
    Tổng cộng 54.000 quân

    Không quân Mỹ chi viện 10.000 phi vụ [1]

    CS Bắc Việt
    2 Sư đoàn + 4 trung đoàn bộ binh và nhiều đơn vị binh chủng,
    tổng cộng 45.000 quân[1]

    Tổn thất
    Theo QĐNDVN: QLVNCH ~41.000 quân bị tiêu diệt, bắt sống hoặc tan ră[1]
    Theo Hoa Kỳ: CS thương vong khoảng 1 sư đoàn rưỡi (~15.000 người)

    Chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972 là một chiến dịch tiến công của các lực lượng của Quân đội Nhân dân Việt Nam /Quân giải phóng miền Nam vào Quân lực Việt Nam Cộng ḥa diễn ra tại Bắc Tây Nguyên trong Chiến dịch Xuân Hè 1972.



    Không quân VNCH yểm trợ cho bộ binh ở thị xă Kontum
    .
    Hoàn cảnh trước khi chiến sự xảy ra

    Theo dự đoán của các tướng lănh Hoa Kỳ tại Việt Nam, vào năm 1972 Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ mở nhiều mặt trận lớn tại khu vực thuộc Vùng I và Vùng II, v́ thế kế hoạch b́nh định và phát triển phải nhanh chóng hoàn thành trong năm 1971, để các đơn vị chính quy của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa có thể rảnh tay đối đầu với Quân đội Nhân dân Việt Nam vào năm 1972.

    Bộ tham mưu của MACV nhận định cho rằng, mũi tiến công chính quân Cộng sản sẽ nhằm vào Vùng II. Chính v́ thế, tháng 5 năm 1971, John Paul Vann, một cựu trung tá Lục quân Hoa Kỳ được đánh giá là có nhiều kinh nghiệm về b́nh định phát triển, được tướng Creighton Abrams, tư lệnh MACV, bổ nhiệm làm cố vấn cho Tư lệnh Quân đoàn II và Quân khu II, Trung tướng Ngô Du.

    Khi nhận vai tṛ Cố vấn toàn quyền cả về quân sự lẫn dân sự của Vùng II, dựa vào những cung cấp t́nh báo, John Paul Vann đưa ra phán đoán sư đoàn 312 QĐNDVN đang dưỡng quân tại Thanh Hóa, trong tháng 2 năm 1972 sẽ di chuyển vào vùng 3 biên giới để tham chiến với quân Việt Nam Cộng ḥa. Do đó, để tăng khả năng xác thực, tháng 1 năm 1972, phía Mỹ và VNCH đă cho tăng cường các hoạt động trinh sát và thu thập thông tin về hoạt động của đối phương. Nhờ bắt được một tân binh Quân Giải phóng, họ đă nắm được thông tin sư đoàn 320 QĐNDVN (c̣n gọi là Sư đoàn 320A) vừa được bổ sung thêm quân số từ Thanh Hóa vào khu vực Ngă 3 biên giới.

    Được củng cố bởi phán đoán Quân Giải phóng sẽ tập trung tấn công chính tại chiến trường Tây Nguyên trong năm 1972, John Paul Vann cho xây dựng một kế hoạch phản kích tương tự kế hoạch mà tướng Walton Walker đă dùng đánh bại quân Bắc Triều Tiên năm 1953. Theo đó, quân VNCH sẽ thực hiện các động thái nhằm bẫy Sư đoàn 320 đối phương tiến sâu vùng Tân Cảnh - Dakto thuộc Kontum rồi sẽ tiêu hao sinh lực sư đoàn này bằng hỏa lực pháo đài bay B-52. Sau đó, các lực lượng của VNCH sẽ tấn công xóa sổ đối phương trong khu vực.

    Bố trí binh lực hai bên

    Dựa trên kế hoạch này, đầu tháng 2 năm 1972, tướng Ngô Du đă ra lệnh cho di chuyển 2 trung đoàn bộ binh 42 và 47, cùng với Sở chỉ huy tiền phương và toàn bộ lực lượng pháo binh (khoảng 10 tiểu đoàn) và chiến xa (khoảng 10 chi đoàn) của Sư đoàn 22 Bộ binh, lên Tân Cảnh để giao chiến với Sư đoàn 320 đối phương. Ngoài ra, Liên đoàn 22 Biệt động quân được tăng cường tại các căn cứ biên pḥng, đặc biệt là đồn Ben Het, để bảo vệ các tuyến giao thông đi vào Vùng II.

    Ban cố vấn và bộ tham mưu của tướng Ngô Du cũng đề pḥng đối phương sẽ dùng Sư đoàn 2 để tập kích vào Kontum nên cũng đă yêu cầu Bộ Tổng tham mưu VNCH tăng cường thêm lữ đoàn Nhảy dù số 2 để làm lực lượng trừ bị tại Kontum và sẵng sàng ứng cứu cho Tân Cảnh khi cần thiết.

    Để dễ dàng chỉ huy, tướng Ngô Du đă cho điều động Đại tá Lư Ṭng Bá vào chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 23 và Đại tá Lê Đức Đạt làm Tư lệnh Sư đoàn 22. Toàn bộ Vùng II được đưa vào t́nh huống chuẩn bị.[2]

    Về phía Quân đội Nhân dân Việt Nam, các kế hoạch chuẩn bị cho việc mở cuộc tấn công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam đă hoàn tất, trong đó mặt trận Trị - Thiên được chọn là hướng tấn công chủ yếu. Mục tiêu của Quân đội Nhân dân Việt Nam là tấn công thẳng vào các hệ thống pḥng thủ chiến lược của Việt Nam Cộng ḥa, nhằm làm mất uy tín chính sách Việt Nam hóa chiến tranh và cầm chân tối đa các lực lượng chủ lực của đối phương, phá vỡ chương tŕnh b́nh định nông thôn của chính phủ Việt Nam Cộng ḥa, và nâng cao vị thế trước khi diễn ra các cuộc đàm phán ḥa b́nh cuối cùng.


    Cố Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, năm 1972: Thiếu tướng, Tư lệnh mặt trận B3

    Phối hợp với chiến trường chính, tại Tây Nguyên, Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh Mặt trận B3, đă điều động binh lực của 2 sư đoàn 320 (gồm 3 trung đoàn 52, 64 và 48) và 2 (gồm 2 trung đoàn 1 và 141), 4 trung đoàn bộ binh độc lập (66, 95, 28 và 24), trung đoàn đặc công 400, 2 trung đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn xe tăng và 6 tiểu đoàn pháo pḥng không. Ngoài ra c̣n có sự tham gia của các lực lượng vũ trang tại địa phương. Tổng binh lực tham gia khoảng 20.000 người.

    Từ ngày 15 đến ngày 25 tháng 3, tiểu đoàn công binh thuộc sư đoàn 320A Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) đă làm giả hai con đường cơ giới phía Tây Bắc thị xă Kon Tum. Tướng Ngô Du liền điều lữ đoàn dù 2 ra phá đường. Sư 320A dùng trung đoàn 52 chặn đánh nhưng không truy kích. Ngày 23 tháng 3, Liên đoàn 22 Biệt động quân tiếp tục tiến ra phá đường, cũng bị trung đoàn 52 chặn đánh.[3]. Ngày 24 tháng 3, trung đoàn 28 (độc lập) cắt đứt đường 14 ở Diên B́nh, bao vây Vơ Định. Ngày 26 tháng 3, trung đoàn 95, tiểu đoàn 6 (bảo vệ 559) và đại đội 1 (địa phương) cắt đường 14 ở Chư Thoi, Tân Phú (nam Kon Tum).

    Diễn biến chiến dịch
    Hướng cụm cứ điểm biên pḥng phía Tây sông Poko


    Ngày 30 tháng 3, 2 trung đoàn 52 và 64 cùng một tiểu đoàn của trung đoàn 48, sư 320 (QĐNDVN), đồng loạt tấn công 5 tiền đồn phía Tây sông Poko do 3 tiểu đoàn Biệt động quân QLVNCH đóng giữ. Tướng Ngô Du điều 2 tiểu đoàn của lữ đoàn dù 2 từ Tân Cảnh về các cứ điểm phía Tây sông Poko để tăng cường pḥng thủ, điều trung đoàn 47 đánh ra tăng phái cho 2 đại đội quân địa phương chốt giữ Ngọc Rinh Rua và Ngọc Bờ Biêng, lập 2 căn cứ hỏa lực đặt tên là "Delta" và "Charlie"[4], trang bị pháo Bofors và đại liên Vulcan trên các sườn đồi phía Nam Tân Cảnh[5] để yểm trợ hỏa lực chống lại sự tấn công của Quân đội Nhân dân Việt Nam. John Paul Vann cũng cho gọi thêm máy bay cường kích Hoa Kỳ từ Thái Lan đến ném bom xung quanh các cứ điểm này. Do bị lộ trận địa, công tác chỉ huy, phối hợp hiệp đồng pháo binh - bộ binh - pḥng không chưa chặt chẽ, thông tin liên lạc kém, bị không quân Mỹ và pháo binh QLVNCH oanh tạc mạnh mẽ, trung đoàn 52 bị thương vong nhiều. Bộ chỉ huy QLVNCH cho rằng "kế hoạch này phối trí tốt đẹp lúc đầu".

    Sau khi bổ sung quân số và điều chỉnh lại đội h́nh, ngày 31 tháng 3, trung đoàn 52 (QĐNDVN) tiếp tục tấn công, chiếm các cứ điểm Ngọc Rinh Rua và Ngọc Bờ Biêng, cô lập 3 cứ điểm khác ở tây sông Poko.[6].

    Từ ngày 3 tháng 4 đến ngày 11 tháng 4, trung đoàn 52 (sư 320A) tiếp tục tấn công cứ điểm "Charlie" (1049), trung đoàn 64 tấn công cứ điểm "Rocket Ridge" (1015). Các cứ điểm khi đó đều đă được tăng viện bằng các tiểu đoàn của Lữ đoàn Dù. Cuộc tấn công diễn ra nhiều đợt, bị pháo binh, không quân, đặc biệt là các phi cơ AC-130 Spectre gắn súng máy bắn ngăn chặn suốt ngày đêm, phía quân Giải phóng chỉ có pháo pḥng không tầm thấp 12,7 và 14,5 mm nên khả năng ngăn chặn hỏa lực pḥng không là khá yếu. Đến lúc 22h30 ngày 11 tháng 4, trung đoàn 52 (sư 320A) chiếm được căn cứ "Charlie". Tiểu đoàn dù 11 (QLVNCH) bị thiệt hại phải rút về Vơ Định; tiểu đoàn trưởng Nguyễn Đ́nh Bảo bị tử thương.

    Cố vấn John Paul Vann yêu cầu sư đoàn 22 QLVNCH phải dụ sư đoàn 320(A) QĐNDVN vào thật sâu để dùng B-52 tiêu diệt. Ngày 14 tháng 4, 9 máy bay B-52 ném bom hủy diệt căn cứ "Charlie" trong khi nhiều thương binh QLVNCH c̣n đang ở đó và các tử sĩ QLVNCH chưa được chôn cất. Trung đoàn 52 cũng bị thiệt hại do không kịp rút ra pḥng tránh.[7].

    Ngày 15 tháng 4, trung đoàn 64 Sư 320A đánh chiếm cứ điểm "Rocket Ridge" (1015), đánh tan tiểu đoàn dù 11 (lữ dù 3), bắn rơi 9 máy bay trực thăng. Cùng ngày, trung đoàn 48 (sư 320A) chiếm cứ điểm "Delta" (1338) và phục kích toán quân c̣n lại của tiểu đoàn dù 11 chạy về đây. Ngày 19 tháng 4, trung đoàn 24 (độc lập) QĐNDVN tấn công tuyến Plei Cần - Đắc Moi, tiêu diệt 287 quân trong số 350 quân của tiểu đoàn 1, trung đoàn 42 QLVNCH đóng tại đây. Ngày 20 tháng 4, để tăng cường cho mặt trận Quảng Trị, Bộ Tổng Tham Mưu VNCH đă rút Lữ Dù 2 ra khỏi mặt trận này và được không vận ra Huế. Trung đoàn 53 (Sư đoàn 23) và Liên đoàn 6 Biệt động quân được đưa vào Kontum để thay thế. Các lực lượng của Sư 320 cũng thiệt hại nặng nề nên cũng không đủ sức phát triển tấn công, đành chuyển sang thế pḥng ngự.

    Hướng Đăk Tô - Tân Cảnh


    Quân VNCH chỉ tổ chức tuyến pḥng ngự ṿng ngoài ở phía tây đường 14 từ thị trấn Tân Cảnh đến thị xă Plâyku, bảo đảm cho trận địa pḥng ngự có chiều sâu ở trên khu vực đó. Như thế là hợp với lô gích quân sự của phương Tây, nhưng VNCH không thể phân tích được cách đánh của QĐNDVN, do đó tuyến pḥng ngự cơ bản bị bỏ hở, không được che chở ở phía đông.

    Trong khi nghiên cứu, phân tích thế trận và cách đánh của địch, QĐNDVN đă phát hiện ra chỗ sơ hở, chỗ yếu nguy hiểm đó. Về h́nh thái thế trận, QĐNDVN đă đứng ở góc độ các chiều của thế trận mà nghiên cứu, phân tích t́m ra các đường tuyến cấu thành thế trận của địch và đường tuyến nào là đường tuyến cơ bản của thế trận: "Ta đánh vào đường tuyến nào, đảo lộn được góc cạnh nào, cắt được cái nút nào th́ toàn bộ thế trận của VNCH sẽ bị xiêu vẹo, lung lay và đổ vỡ. Ta đă t́m ra chiều ngang và chiều dọc trong thế trận của địch và thấy rằng chiều dọc thế trận của địch là cái rường cột cho toàn bộ thế trận của địch, cũng là một sự bắt buộc đối với địch v́ chúng phải chịu sự tác động của quy luật chiến tranh nhân dân của ta. Thế trận chiều dọc bị đánh nhăo, bị đập nát th́ toàn bộ thế trận của địch sẽ bị lung lay hoặc bị phá vỡ."

    Mưu kế chiến dịch của QĐNDVN là thu hút đội dự bị chiến lược của VNCH về phía Kon Tum để sơ hở ở hướng Tân Cảnh. Muốn thu hút hai lữ đoàn dù về phía Kon Tum, QĐNDVN làm giả hai con đường cơ giới ở phía tây bắc thị xă Kon Tum khoảng 20–30 km buộc sư dù (thiếu) phải ra ngăn chặn và QĐNDVN bố trí Sư đoàn 320 để đánh sư dù đó. Quả nhiên, một lữ đoàn dù ra ngăn chặn, phá đường. Trung đoàn 64 Sư 320 đánh ngay và Sư 320 của QĐNDVN cùng sư dù (thiếu) cùng liên đoàn biệt động quân VNCH số 22 chọi nhau ở đó.

    Đến đây coi như QLVNCH đă mắc mưu. Lúc này, Sư đoàn 2 (thiếu), Quân khu 5, do Nguyễn Chơn làm Sư đoàn trưởng, Trung đoàn 66 và tiểu đoàn đặc công B3 cùng các binh chủng pháo binh, pháo cao xạ (đặc biệt có pháo cao xạ tự hành 57 mm) và xe tăng yên ổn tiến vào phía đông Tân Cảnh. VNCH chú ư phía tây Tân Cảnh, QĐNDVN lại bất ngờ cơ động vào phía đông Tân Cảnh, nơi ít đề pḥng mà mở mũi tiến công chủ yếu.

    Ngày 24 tháng 4, lúc 4g30, quân Giải phóng tấn công vào các căn cứ vành đai của cụm cứ điểm Dakto-Tân Cảnh-Vơ Định do 2 Trung đoàn 42 và 47, cùng Bộ Tư Lệnh tiền phương của sư đoàn 22. Tham chiến phía quân Giải phóng là đội h́nh của Sư đoàn 2 (gồm 2 trung đoàn bộ binh là 1 và 141) tăng cường thêm trung đoàn 66 độc lập, tiểu đoàn đặc công 37 và một đại đội xe tăng T-54, cùng một đại đội hỏa tiễn chống tăng AT-3 Sagger (Quân đội Nhân dân Việt Nam gọi là B.72) lần đầu tiên có mặt tại chiến trường (Có cả tại Quảng Trị và trận An Lộc). Lúc 8g, căn cứ trung đoàn 47 VNCH cũng bị tấn công.

    Đến 11g, căn cứ Sở chỉ huy tiền phương và trung đoàn 42, sư 22 VNCH, đă bị thất thủ. Đại tá Lê Đức Đạt, Tư lệnh sư 22 tử thương. Ngày 23 tháng 4, Sư đoàn 10 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đă chiếm được Dakto và các căn cứ bên ngoài Tân Cảnh. Đúng 15 giờ ngày 23-4-1972, pháo binh quân Giải phóng nă đạn dồn dập vào căn cứ Tân Cảnh, cứ điểm mạnh nhất của quân VNCH. 1 giờ sáng 24-4-1972 xe tăng T-54 xông thẳng qua thị trấn Tân Cảnh, lao lên mở cửa phía Đông căn cứ. 5 giờ 55 phút ngày 24-4-1972 thị trấn Tân Cảnh thất thủ. Lúc này cuộc chiến đấu ở căn cứ E42 Tân Cảnh diễn ra dữ dội.

    Mưu kế của QĐNDVN là lừa địch, đánh vào chỗ sơ hở, địch ít đề pḥng. Lừa địch ở Kon Tum. Làm đường để địch đối phó ở Kon Tum. QLVNCH đề pḥng phía tây Tân Cảnh, QĐNDVN lại đánh vào phía đông Tân Cảnh. Do đó chỉ trong một ngày QĐNDVN đă tiêu diệt xong cứ điểm ở Tân Cảnh.

    Ngay khi Tân Cảnh sắp bị tiêu diệt, Bộ Tư lệnh quân giải phóng mặt trận cánh Đông đă cho pháo binh bắn phá phi trường Phượng Hoàng. 8 giờ sáng 24-4-1972, Trung đoàn 1 (sư đoàn 2 QGPMN) đánh thẳng vào Sở Chỉ huy E47 ngay ở phi trường Phượng Hoàng, 4 xe tăng T-54 và một pháo tự hành cấp tốc rời căn cứ Tân Cảnh chi viện cho mũi tấn công tại căn cứ Dakto 2.

    Xe tăng của quân Giải phóng đă tiêu diệt 7 xe tăng VNCH. Bộ đội dần dần làm chủ t́nh h́nh. 11 giờ trưa 24-4-1972, trung đoàn 66 hoàn toàn làm chủ căn cứ Tân Cảnh. Theo quân Giải phóng th́ họ đă bắn rơi 8 máy bay, thu 9 xe tăng, 20 pháo 105 ly, gần 100 xe quân sự, hàng vạn quả pháo và toàn bộ phương tiện chiến tranh của Việt Nam Cộng Ḥa, bắt 429 tù binh. Đại Tá Lê Đức Đạt Sư Đoàn Trưởng 22 tử trận, phần c̣n lại của sư đoàn rút vào rừng t́m đường về Kontum. Sau khi chiếm được Tân Cảnh và các căn cứ khác dọc đường 14 bắc thị xă Kontum, Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng bị thiệt hại đáng kể, nhiều xe tăng bị cháy, hậu cần thiếu, đặc biệt là đạn pháo nên 20 ngày sau mới tổ chức tấn công tiếp vào Kontum. Lúc đó phia quân Nam Việt Nam cũng có nhiều thay đổi, 2 trung đoàn của sư đoàn 23 được đưa lên thay thế sư đoàn 22, Tướng Lư Ṭng Bá, tư lênh sư đoàn 23 được cử làm Tư lệnh mặt trận Kontum, tướng Ngô Du tư lệnh Quân Khu II bị thay bằng Tướng Nguyễn Văn Toàn.
    Hướng Kotum

    Ngày 7 tháng 4, trung đoàn 28 pháo kích Vơ Định phá hủy 9 pháo, 20 xe vận tải và 3 kho đạn của QLVNCH ở Kong Trang Lang Loi. Ngày 10 tháng 4, các lực lượng QĐNDVN chuẩn bị tấn công Đắc Tô - Tân Cảnh đă tập kết xong ở Đông Bắc Tân Cảnh trong khi tướng Ngô Du vẫn cho rằng sư 320(A) sẽ đánh Kontum từ phía Tây.

    Ở nam Kon Tum, trung đoàn 95 QĐNDVN tổ chức 7 chốt hỏa lực cắt đường 14 ở Chư Thoi. Tướng Ngô Du điều các trung đoàn 45 và 52 (sư 23) và 2 chi đoàn thiết giáp ra giải tỏa nhưng lại bị giam chân ở đây.
    Pháo 130 mm của miền Bắc Việt Nam tại mặt trận Kontum

    Về lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam tấn công Kontum gồm các trung đoàn chủ lực của Tây Nguyên: 28, 66, 95, 24B (Sư đoàn 10 - Đoàn Đăktô ngày nay) phối hợp với bộ đội địa phương tỉnh Kontum. Ngày 24-4, Sư đoàn bộ binh 2 (Trung đoàn 1 và Trung đoàn 141) được tăng cường Trung đoàn bộ binh 66, Tiểu đoàn đặc công 37, một đại đội xe tăng và một bộ phận pháo binh, pháo pḥng không cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến công cứ điểm Dakto- Tân Cảnh.[8]

    Kế hoạch pḥng thủ Kontum được giao cho Sư đoàn 23BB của Đại tá Lư Ṭng Bá. Sư đoàn này có nhiệm vụ đảm trách 3 mặt nặng nhất của tỉnh là Đông, Tây và Bắc. Hướng Nam có phần nhẹ hơn nhờ có chướng ngại vật của thiên nhiên là con sông Dakbla, nên giao cho Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đảm nhiệm.

    Tướng Hoàng Minh Thảo đoán rằng có thể kỹ thuật rà bắt điện đài của đối phương khá cao nên đă bắt được tất cả những mật lệnh mà Bộ tư lệnh B3 của ông đă đánh đi. Rút kinh nghiệm, Tướng Thảo không sử dụng điện đài nữa mà xử dùng điện thoại và người để liên lạc. V́ thế, sau ngày 14/5/72, cả toán kỹ thuật của Quân đoàn II đều ngạc nhiên không thấy đối phương lên máy nữa.

    Khi đánh trận then chốt đầu tiên bộ đội đă tiêu diệt cụm pḥng ngự Dakto-Tân Cảnh (ngày 24-4-1972), một căn cứ pḥng ngự quy mô sư đoàn của VNCH, chiếm được một vùng tương đối rộng, tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho chiến dịch tiến công thị xă Kontum thực hiện trận then chốt quyết định. Lúc này, lực lượng VNCH ở thị xă Kontum rất mỏng và yếu, trong thị xă chỉ có hai tiểu đoàn chủ lực và một số đơn vị Địa Phương Quân. Nhưng lúc đó Bộ tư lệnh chiến dịch lại nhận định: "Tuy địch ở Kontum rất hoang mang, sơ hở và mỏng yếu, nhưng ta chưa có đủ điều kiện để phát triển tiến công một cách nhanh chóng, mạnh mẽ v́ đường cơ động chưa làm xong, việc bảo đảm cơ sở vật chất và triển khai binh khí kỹ thuật gặp khó khăn, nên quyết định mở đường để vận chuyển vật chất, đồng thời bổ sung cơ sở vật chất cho các đơn vị chuẩn bị tiến công Kontum."

    Trong thời gian trên Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa đă tập trung Trung Đoàn 53, Tiểu Đoàn 7 Dù cùng lực lượng địa phương tổ chức pḥng thủ. Tuyến pḥng thủ mới ở bắc thị xă Kontum, lấy lực lượng của Sư đoàn 23 làm ṇng cốt, bố trí thành nhiều trận địa pḥng ngự nhỏ, dựa vào công sự vững chắc, liên kết với nhau chặt chẽ bằng cả xung lực và hỏa lực, có thể cơ động đội h́nh để tránh đạn pháo của QĐNDVN; đồng thời chúng tăng cường các hoạt động của pháo binh, không quân, đặc biệt là B52 ném bom rải thảm.[9]

    Từ đêm 14 đến ngày 15-5, bộ đội sử dụng một số đơn vị tiến công ở ngă ba Trung Tín-Đường Ngang, Côn Tiêu, Lôi Hổ, quân VNCH tập trung 2 Liên Đoàn Biệt Động Quân, một tiểu đoàn Bảo an cùng Trung Đoàn 3 Thiết Giáp mở cuộc hành quân “Bắc B́nh Vương 7/2” tăng viện cho Kontum, tuy lực lượng này đă bị quân Giải phóng ngăn chặn và phá vỡ nhưng các cứ điểm ṿng ngoài của Nam Việt Nam vẫn chưa tiêu diệt được hoàn toàn. Ở thị xă Kontum binh sĩ VNCH vẫn tăng cường được lực lượng, tổ chức pḥng ngự liên hoàn, vững chắc do quân miền Bắc không triệt được tiếp tế bằng đường không.

    Trung đoàn 64 và Trung đoàn 28 quân Giải phóng tiến đánh Kontum ngày 14-5-1972. Lúc 5 giờ cùng ngày, cả 25 box B-52 do Mỹ thực hiện đồng loạt thả xuống hơn 3.000 quả bom đủ các loại trên đầu Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2 của Quân giải phóng. Tiếng bom nổ long trời lở đất, khói bụi bay mịt mù. Diện tích rải thảm của 25 box B-52 là 75 km2. Tiếp theo từng đoàn A37 và AD6 của Sư Đoàn 6 Không Quân bay vào mục tiêu, tiếp tục bắn vào các xe tăng và các khẩu đội pḥng không. Trực thăng vũ trang Cobra c̣n tập hậu bắn vào đội h́nh của bộ đội.[1]

    Ngày 20/5/72, 2 tiểu đoàn đặc công của quân Giải phóng đă lợi dụng đêm tối có nhiều sương mù, lội qua sông và tiến chiếm được phi trường, kho đạn và khu Ṭa Giám mục, coi như họ đă chiếm được gần nửa thành phố. Cuộc giao tranh giữa Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của Tiểu khu với đặc công của quân Giải phóng rất dữ dội. Khu dân chúng và khu Ṭa Hành chính vẫn do VNCH chiếm giữ.

    Khu nghĩa địa của thành phố cách hầm chỉ huy của tướng Lư Ṭng Bá độ 300 m và một đại đội đặc công đă đánh chiếm và cố thủ ở đó. Quân VNCH sử dụng một đại đội trinh sát tinh nhuệ nhất của sư đoàn vào nằm chiếm lại khu vực này nhưng gặp sự kháng cự rất mănh liệt, 2 chiến xa bị cháy, đại đội trinh sát không tiến lên được.

    Lúc 6g sáng ngày 20/5/72, Tướng Toàn bay lên Kontum. Thiếu Tướng Toàn quan sát mặt trận và chỉ thị thêm cho Đại tá Bá đề pḥng tuyến đầu v́ địch có ư định tấn công phía trước trong khi ta đang bấn loạn bên trong. Ông cũng ra lệnh phải thanh toán hết đặc công đang cố thủ trong nghĩa trang và sau 1 tiếng th́ thanh toán xong đặc công tại khu nghĩa địa.

    Trong khi đặc công tràn vào thành phố, Chuẩn tướng John Hill dùng trực thăng có gắn 2 khẩu đại liên 12.7 ly bay quan sát vùng Vơ Định (Bắc Kontum 15 km) và thấy nhiều đơn vị quân Giải phóng di chuyển về hướng Nam, ông liền tác xạ liên tục và báo cho Paul Vann biết để sử dụng B52. Ngay hôm đó, Paul Vann đă sử dụng trên 10 Box B52 để làm giảm áp lực của địch.

    Đại tá Nguyễn Bá Long Tỉnh trưởng Kontum hướng dẫn Tướng Toàn đến quan sát các ổ kháng cự của đặc công trong các ṭa nhà được xây cất kiên cố từ thời Pháp trong khu Ṭa Giám mục, đang chống trả với Địa Phương Quân. Tướng Toàn liền tăng cường cho Đại tá Long 5 chiến xa, một Liên đoàn Biệt Động Quân, và chỉ thị nếu cần phải bắn sập một vài ṭa nhà trong khu Ṭa Giám mục để tiêu diệt đặc công th́ cứ làm, sau này chính phủ sẽ xây cất lại, nhưng phải cố gắng đừng gây thiệt hại về nhân mạng cho dân chúng đang ở trong khu. Tuy có lực lượng áp đảo nhưng phải hai ngày sau, Đại tá Bá và Đại tá Long mới thanh toán được lực lượng đặc công trong thành phố.

    Cuộc tấn công đợt 2 của Tướng Hoàng Minh Thảo tiến chiếm Kontum coi như thất bại. Họ trả đũa trong những ngày kế tiếp bằng những hỏa tiễn 122 ly rót vào thị xă liên tục ngày đêm, bất kể khu quân sự hay dân sự. Kontum luôn luôn ở trong t́n trạng căng thẳng.

    Phía VNCH ước tính bộ đội c̣n khả năng tấn công đợt 3 trong ṿng 10 ngày tới. Sư đoàn 968 trừ bị của mặt trận B3 của Tướng Hoàng Minh Thảo c̣n chưa ra quân. Ước tính mức độ và cường độ đợt 3 yếu hơn đợt 1. Tướng Toàn và Paul Vann tiếp tục nghiên cứu và sử dụng kế hoạc 100 Box B52 mà tôi đă tŕnh khi Tướng Toàn mới nhận chức. Paul Van có uy tín với Đại tướng Abrams nên được sử dụng nhiều Box B52 hơn các Quân đoàn khác.

    Đúng 5g sáng ngày 28/5/72, bộ đội tấn công đợt 3 vào Kontum bằng 3 mũi chính:

    - Mũi một từ hướng Bắc do lực lượng Sư đoàn 2 .

    - Mũi 2 từ hướng Tây Bắc do lực lượng Sư đoàn 320.

    - Mũi 3 từ hướng Nam do lực lượng Sư đoàn 968.

    Trong đợt tấn công này quân Giải phóng không dùng chiến xa T54.

    Mũi một và 2 đă gặp sự kháng cự mănh liệt của Sư đoàn 23BB, đă xung phong nhiều đợt để cố chiếm tuyến pḥng thủ đầu nhưng bị đẩy lui. Phi cơ chiến đấu của Sư đoàn 6 Không Quân tại Pleiku xuất trận liên tục để yểm trợ quân VNCH tại tuyến đầu.
    Trực thăng vũ trang với hỏa tiễn TOW ở Pleiku năm 1972

    Mũi 3 do lực lượng Sư đoàn 968, một lực lượng trừ bị của Tướng Hoàng Minh Thảo phụ trách. Lực lượng này mới tham gia trận Kontum lần đầu, chưa tổn thất do B52 nên khí thế có vẻ mạnh hơn mũi 1 và 2. Sông Dakbla bọc quanh phía Nam thị xă là một chướng ngại vật thiên nhiên ngăn chặn không cho họ tiến quân một các dễ dàng. Sư đoàn 968 cố gắng vượt sông nhưng bị các pḥng tuyến của Địa Phương Quân và Nghĩa Quân ngăn chặn. Paul Vann đă sử dụng các phi tuần của Không Quân Hoa Kỳ cất cánh từ Thái Lan trợ chiến, sau đó ông mới gọi các phi vụ B52 đến trải thảm.

    Trong ngày 28/5/72 này, Paul Vann cũng đă được Đại tướng Abrams cấp hết 25 Box B52 cho mặt trận Kontum. Hai bên quần thảo nhau suốt ngày; đến tối bộ đội vẫn không chiếm được vị trí nào của VNCH.

    Theo tài liệu từ quân Giải phóng th́ : Trước t́nh h́nh trên, để chiếm được Kontum, Bộ tư lệnh chiến dịch Bắc Việt chủ trương nhanh chóng bổ sung vật chất cho các đơn vị kiên quyết tiến công địch trong thị xă kết hợp với tiêu diệt lực lượng của chúng ở ngoài thị xă. Từ ngày 25-5, quân ta nổ súng tiến công, đă đánh chiếm được một số khu vực, nhưng không phát triển được, đến ngày 26, 27 rạng ngày 28 ta tiếp tục tiến công, ở các hướng đều bị địch ngăn chặn và phản kích, thương vong lớn, sức chiến đấu giảm dần, đến đêm 5-6, ta lui quân.[10]

    Mặt trận thứ ba tại Vùng 2 Chiến thuật khai diễn ngày 6/4/1972, nỗ lực chính với 3 Sư đoàn: Sư đoàn 2 của mặt trận B3, Sư đoàn 32O, Sư đoàn Sao Vàng và nhiều Tiểu đoàn biệt lập tấn công Kontum, Dakto, Tân Cảnh, đèo Mang Yang và nhắm cắt đứt quốc lộ 1 nơi giáp ranh 2 tỉnh Quảng Ngăi và B́nh Định. Với chủ đích tách rời Vùng I khỏi lănh thổ miền Nam để Mặt trận Giải phóng Miền Nam có đất, có dân và có thế đứng thương thuyết tại Paris.

    Ngày 20/4/1972, t́nh h́nh tại Quảng Trị (Quân đoàn I) quá nặng, nên Đại tướng Viên phải rút Lữ đoàn Dù tại Kontum để tăng cường cho mặt trận Quảng Trị làm quân Việt Nam Cộng ḥa suy yếu rơ rệt.

    Ngày 28/4/1972, Quân Giải phóng tấn công đồn này bằng 10 chiến xa T54, nhưng đă bị Paul Vann điều động 2 trực thăng vũ trang Cobra trang bị hỏa tiễn chống chiến xa, được điều khiển bằng tia laser tiêu diệt 5 chiến xa T54 tại chỗ. Sau đó quân Việt Nam Cộng ḥa rút quân khỏi đồn này, v́ vị trí quá xa và hẻo lánh.

  6. #26
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972 - CHIẾN LƯỢC CS BẮC VIỆT
    Wikipedia
    P2



    Tướng Hoàng Minh Thảo thấy Lữ đoàn Dù đă rút, nên ông có kế hoạch tấn công cấp tốc để dứt điểm Sư đoàn 22 BB tại Tân Cảnh bằng Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2 Sao Vàng với chiến xa T-54 và hỏa tiễn Sagger do Liên Xô chế tạo. Chiến xa T54 và hoả tiễn Sagger là hai loại vũ khí tối tân được sử dụng lần đầu tiên tại chiến trường miền Nam trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. T-54 là loại chiến xa bọc sắt cứng, dày, tương đương với chiến xa M-48 của Hoa Kỳ. Hỏa tiễn Sagger mà phương Tây gọi là AT-3, là loại hoả tiễn chống chiến xa giống như hỏa tiễn TOW của Mỹ, nhưng tầm xa kém (hỏa tiễn Tow tầm xa 3000 m; hoả tiễn Sagger 2500 m).

    Trong những ngày 20, 21 và 22/4/1972, các sư đoàn Quân Giải phóng áp sát bao vây Tân Cảnh. Trong lúc này, Paul Vann dùng trực thăng bay xuống mặt Bắc B́nh Định cũng rất sôi động. Đại tá Trần Hiếu Đức, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 40 thuộc Sư đoàn 22BB làm Tư lệnh chiến trường, chịu trách nhiệm bảo vệ 3 quận Hoài Ân, Bồng Sơn và Tam Quan. Sư đoàn 2 Sao Vàng phối hợp nhịp nhàng với các mặt trận khác nên đă tung quân bao vây quận Hoài Ân. Tại đây, quân Việt Nam Cộng ḥa rút bỏ quận Hoài Ân để cố thủ quận Bồng Sơn. Ngày 21/4/1972, Paul Vann bay lên Tân Cảnh thăm Đại tá Philip Kaplan, cố vấn cho Đại tá Lê Đức Đạt.

    Ngày 23/4/1972, một tiểu đoàn bộ binh của Sư đoàn 22 chạm súng với đối phương rất sớm, không quá xa bộ tư lệnh sư đoàn, đồng thời họ bị pháo kích tới tấp vào căn cứ Tân Cảnh bằng hỏa tiễn 122 ly. Chiến xa Việt Nam Cộng ḥa gồm 10 chiếc được điều động ra để chống lại, đă bị hỏa tiễn Sagger bắn cháy mất 8 chiếc, c̣n lại 2 chiếc th́ bị đứt xích. Thiếu tá Như cùng Đại úy Kenneth Yonan, 23 tuổi, xuất thân từ trường Wespoint, đă leo lên tháp nước cao tại căn cứ, sử dụng đại liên 12.7 ly để tấn công, cũng bị hỏa tiễn Sagger bắn, bồn nước nổ tung và cả hai người chết tại chỗ. Không quân sử dụng tối đa hỏa lực để yểm trợ cho Đại tá Đạt.



    Khoảng 10g tối ngày 23/4/1972, quận Dakto cách Tân Cảnh 2 km về phía Bắc, do Địa Pương Quân và Nghĩa Quân người Thượng bảo vệ, đă quan sát thấy đèn của 11 chiến xa T-54 đang tiến về hướng quận. Quân đoàn liền điều động C-130 Spectre lên tả trái sáng. Lính Việt Nam Cộng ḥa trong các hầm chiến đấu cá nhân đă thấy tất cả 15 chiếc chiến xa T-54 của Quân Giải phóng xếp hàng dọc chạy tiến về Tân Cảnh. Phi cơ C-130 tác xạ để ngăn không cho chiến xa địch tiến, nhưng vô hiệu quả, v́ loại phi cơ này không có loại đạn chống chiến xa.

    Khoảng 2g sáng ngày 24/4/1972, 15 chiến xa Quân Giải phóng đă bao vây căn cứ Tân Cảnh. Đại tá Philip Kaplan yêu cầu Paul Vann lên cứu ông vào lúc 4g khi trời chưa sáng tại băi đáp rất nhỏ bên cạnh băi ḿn. Đại tá Kaplan cho Đại tá Đạt biết và yêu cầu cùng lên trực tăng cấp cứu của Paul Vann nhưng Đại tá Đạt từ chối. Đại tá Đạt biết t́nh h́nh rất bi đát, Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam sẽ tràn ngập căn cứ vào khoảng 7g sáng. Ông ra lệnh cho tất cả các sĩ quan và binh sĩ c̣n lại t́m cách thoát ra ngoài trước khi trời sáng.

    Đại tá Lê Đức Đạt đă ở lại trong căn cứ Tân Cảnh. Theo lời Đại tá Kaplan, có lẽ Đại tá Lê Đức Đạt đă tự sát sau khi đồn Tân Cảnh bị tràn ngập. Đó là ngày 24/4/1972, lúc 10g sáng.

    Sau khi mặt trận Tân Cảnh bị thảm bại, Tư lệnh Sư đoàn 22 BB chết mất xác tại mặt trận, thành phần bộ tham mưu sư đoàn và chỉ huy trưởng các cấp cũng như binh sĩ bị bắt làm tù binh hay bị chết, chỉ một số rất ít chạy được về Kontum. Sư đoàn 22B tan ră. V́ thế, pḥng tuyến kiên cố nhất để bảo vệ thị xă Kontum coi như không c̣n nữa. Ṭa hành chính tỉnh Kontum với dân số 25.000 người sống trong thị xă đă chuẩn bị tản cư.

    Phía Nam Việt Nam không loại bỏ giả thuyết Quân Giải phóng sẽ đánh Kontum, v́ nơi đây chỉ có Địa Phương Quân và Nghĩa Quân trấn giữ. Họ phải cho tái phối trí lực lượng, điều động 2 trung đoàn bộ binh từ Ban Mê Thuột lên cố thủ Kontum, chỉ để lại một trung đoàn pḥng thủ 7 tỉnh phía Nam của quân đoàn.

    Đại tá Lư Ṭng Bá, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, được chỉ định làm Tư lệnh mặt trận Kontum. Đường chuyển quân và tiếp vận chính giữa Pleiku - Kontum là Quốc lộ 14 rất yên tĩnh trong 3 ngày đầu, đến ngày thứ tư th́ Quân Giải phóng chiếm và đóng chốt đèo Chu Pao, giao thông bị gián đoạn. Tuy nhiên lúc này quân Việt Nam Cộng ḥa đă di chuyển xong. Quân của tướng Hoàng Minh Thảo không tiến quân tiếp vào Kontum sau 5 ngày như Tướng Ngô Du dự tính mà đến 20 ngày sau. Như vậy, có thể tin rằng Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2 của Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam đă bị tổn thất khá nặng trong các cuộc chạm súng trước đây với Lữ đoàn Dù và Sư đoàn 22BB. Các chiến xa T-54 cũng bị tiêu hao một số tại phi trường Dakto do Không quân Việt Nam Cộng ḥa bắn cháy và một số tại đồn Ben Het do Cobra của Hoa Kỳ phá hủy. V́ thế, Tướng Hoàng Minh Thảo cần có thời gian củng cố lại đơn vị của ông chớ không thể mở cuộc tấn công mới ngay được.

    Phối trí quân xong tại Kontum, Tướng Ngô Du ngă bệnh nặng nên tại Sài G̣n, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên tham khảo ư kiến với nhiều vị Trung tướng và chọn Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn, v́ Tướng Toàn đồng ư tử thủ tại Kontum.

    Quân Giải phóng ở mặt trận Kontum có đến 3 sư đoàn (Sư đoàn 320, Sư đoàn 2 và Sư đoàn 968), quân Việt Nam Cộng ḥa chỉ có một (Sư đoàn 23BB). Trong lúc này Paul Vann nhớ đến Đại tá Rhotenberry là người làm cố vấn cho Đại tá Bá tại B́nh Dương. Khi đưa Đại tá Rhotenberry đến Kontum, Paul Vann nói: "Ông và tôi phải hết sức yểm trợ Đại tá Bá v́ tôi đă hứa với Đại tướng Abrams là không để mất Kontum. Nếu mất Kontum, th́ Kissinger, Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ tại Hoà đàm Paris, sẽ gặp nhiều khó khăn".

    Đầu tháng 5/1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II thay thế Trung tướng Ngô Du. Trước khi nhận nhiệm vụ, Tướng Nguyễn Văn Toàn tŕnh diện Đại tướng Cao Văn Viên và yêu cầu Đại tướng thỏa măn cho ông về những thay đổi nhân sự.
    Trung tướng Nguyễn Văn Toàn. Năm 1972 là thiếu tướng, tư lệnh Quân đoàn 2 QLVNCH (từ ngày 2/5/1972)

    .

    Ông chỉ thị cho Đại tá Lư Ṭng Bá và các Trung đoàn trưởng, Tiểu đoàn trưởng phải chọn một số binh sĩ can đảm để thành lập ngay các tổ chống chiến xa bằng súng M-72 Law, cho các binh sĩ này thực tập tác xạ vào các chiến xa hư của Việt Nam Cộng ḥa vào ngày kế để họ tin tưởng rằng vũ khí M72 Law của Mỹ có thể tiêu diệt được các chiến xa T-54 của Quân Giải phóng. Tướng Toàn c̣n chỉ thị Trung tá Nguyễn Đức Dung chỉ huy Lữ đoàn 2 Thiết Giáp với một Liên đoàn Biệt Động Quân tăng cường phải đem các chiến xa lên Kontum bằng mọi giá. Ông nói rằng không cần thanh toán các lực lượng địch chốt tại đèo Chu Pao mất thời giờ, phải mở Quốc lộ 14bis ṿng quanh sau lưng địch để đi. Cuộc hành quân của Trung tá Dung gặp rất nhiều khó khăn v́ sức kháng cự của Quân Giải phóng rất mănh liệt nhưng Lữ đoàn 2 Thiết Giáp và Biệt Động Quân đă mở được Quốc lộ 14bis quanh đèo Chu Pao đem nhiều chiến xa lên mặt trận Kontum đúng ngày N+3.



    Tướng Toàn đă tăng cường cho Đại tá Lư Ṭng Bá một Trung đoàn Bộ Binh, một Liên đoàn Biệt Động Quân, trên 20 chiếc xa thiết giáp, nhiều đạn dược, nguyên liệu và thuốc men mới được không vận từ Sài G̣n lên. Số đạn dược và nhiên liệu này đủ để bảo đảm cho các đơn vị Việt Nam Cộng ḥa tại Kontum pḥng thủ trong thời gian một tháng.

    Ngày 13/5/72, nhân viên kỹ thuật của Việt Nam Cộng ḥa báo cáo đă bắt được mật điện của B3. Trong mật điện này, Bộ tư lệnh B3 CS đă ra lệnh như sau: "Mũi tấn công hướng Bắc - Sư đoàn 2 - Stop - Tăng cường mỗi sư đoàn 10 T54 - Stop - Ngày giờ tấn công hướng Tây Bắc Sư đoàn 320 - Stop - Ngày giờ tấn công 05g00 ngày 14/5/72 - Stop".

    Tại hầm chỉ huy Sư đoàn 23, Paul Vann gọi máy yêu cầu Trung tướng chỉ huy Không quân chiến lược Hoa Kỳ (Strategic Air Command) tại Thái Lan để thảo luận với ông về thể tức chuyển đổi các Box B52 cho thật hợp với t́nh h́nh mặt trận dưới đất. Paul Vann cũng điện đàm với Đại tướng Abrams tại Sài G̣n khẩn khoản cho ông được sử dụng hết tất cả 25 Box B52. (Mỗi "Box" B-52, bề dài 3 km, bề ngang một km, được thả bằng 3 chiếc B-52 chứa trên 100 quả bom đủ loại, từ 100 lbs đến 500 lbs) dành để yểm trợ cho 4 vùng chiến thuật trong ngày 14/5/72, để Quân đoàn II có thể tiêu địch tối đa. Đề nghị này được Đại tướng Abrams chấp thuận. Đêm 13 rạng 14/2/72, kém 5 phút đến 5g, Đại tá Bá báo cáo trên máy rất lớn, địch đă bắt đầu nổ súng. Trực thăng của Chuẩn tướng John Hill với 2 đại liên 12.7 ly cất cánh đầu tiên, tiếp theo là trực thăng của Paul Vann và sau cùng là trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn bay về hướng Kontum trong sương mù. Paul Vann ra lịnh cho phi hành đoàn B52 vào vùng đúng 5g ngày 14/2/72. Tất cả 25 Box B52 đồng loạt bấm nút thả xuống trên 3000 quả bom đủ loại, từ 100 lbs đến 500 lbs, trên đầu Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2 Sao Vàng. Diện tích trải thảm của các B52 tổng cộng là 75 km². Tiếp theo từng đoàn A37 và AD6 của Sư đoàn 6 Không quân Việt Nam Cộng ḥa bay vào mục tiêu tiếp tục bắn vào các chiến xa và các ổ pḥng không. V́ bị áp lực quá mạnh của bom, bộ đội phải lui về phía sau, lại bị trực thăng bọc hậu thanh toán rất nhiều.

    Tại tuyến đầu, 9 chiến xa T-54 nằm ngoài khu ném bom của B52 tiếp tục tấn công và bị các chiến xa của Việt Nam Cộng ḥa bắn cháy mất 6 chiếc, 3 chiếc c̣n lại bị bắt sống. Một giờ sau, Tướng Nguyễn Văn Toàn và Paul Vann bay vào vùng thả bom B52 để kiểm soát th́ thấy rất nhiều xác của bộ đội trong các hố bom, không thể đếm hết được. Paul Vann thấy một số đang lảo đảo đi trong các hố bom B52, đă hạ thấp trực thăng xuống cho Trung úy Huỳnh Văn Cai, Trung úy tùy viên, dùng M16 thanh toán.

    Không lực Việt Nam Cộng ḥa và Không quân Hoa Kỳ tiếp tục thanh toán tàn quân và các ổ pḥng không trong vùng suốt ngày 14/5/72. Trong các cuộc oanh kích này, Không quân Việt Nam Cộng ḥa bị thiệt mất một AD6 do Thiếu tá Phạm Thặng làm hoa tiêu. Pḥng không đă bắn trúng chiếc phi cơ do Thiếu tá Phạm Thặng lái khiến ông bị tử thương và chiếc phi cơ rớt ở phía Nam Kontum.

    Kế hoạch trải thảm B52 đă dứt điểm cuộc tấn công đầu tiên của hai sư đoàn vào Kontum. Theo ước tính về phía Hoa Kỳ, trong cuộc tấn công này, địch đă thiệt mất 1000 người và 20 chiến xa T-54. Các chiến xa T-54 mà Quân lực Việt Nam Cộng ḥa đă bắt sống được mang về triển lăm tại Sài G̣n. Sau trận đánh này, các binh sĩ Việt Nam Cộng ḥa đă đặt tên cho Paul Vann là "ông B52".
    Kết thúc

    Trận chiến Kontum kéo dài 3 tháng (3, 4, 5/72) khiến bộ đội bị thiệt mất một số quân khá lớn. Theo ước tính của giới chức quân sự Hoa Kỳ, trong trận đánh kéo dài này, mặt trận B3 của Tướng Hoàng Minh Thảo bị thiệt mất khoảng một sư đoàn rưỡi, 30 chiến xa T54 và nhiều đại pháo, pḥng không bị thiêu hủy.

    Ngày 31/5/72, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên Kontum ủy lạo binh sĩ và gắn cấp bậc Chuẩn tướng cho Đại tá Lư Ṭng Bá.

    Các cuộc chiến đấu Đắc Tô - Tân Cảnh

    Lực lượng chủ công QĐNDVN tấn công Đắc Tô - Tân Cảnh gồm trung đoàn 66, tiểu đoàn 37 đặc công, đại đội 7 xe tăng, đại đội 53 cao xạ tự hành "ZSU-57-2[11]".(Trinh sát đường không của QLVNCH cho rằng "ZSU-57-2" là xe tăng), đại đội 29 tên lửa chống tăng B-72, 4 đại đội cối 81 và 120. Trung đoàn 675 pháo binh chiến dịch có nhiệm vụ pháo kích mở màn và yểm hộ tấn công. Bộ tư lệnh Mặt trận B3 sử dụng trung đoàn 141 để tấn công quận lỵ Đắc Tô, trung đoàn 1 tấn công Đắc Tô 2. Trung đoàn 40 pháo binh yểm hộ hướng này.

    Cứ điểm Đắc Tô (bắc Tân Cảnh) gồm quận lỵ Đắc Tô, chốt Ngọc Tu, có các tiểu đoàn 4, 8 (trung đoàn 47), tiểu đoàn 9 (lữ đoàn dù 3) và 1 chi đội xe tăng bảo vệ. Cứ điểm Tân Cảnh của QLVNCH có trung đoàn 42 (sư 22) gồm 3 tiểu đoàn 1, 2, 4; thiết đoàn 14 (20 xe tăng M-41, 21 xe bọc thép M-113); 1 tiểu đoàn pháo (4 khẩu 155 mm, 6 khẩu 105 mm); 1 đại đội vệ binh; 1 đại đội trinh sát; 1 đại đội công binh, bố trí thành 13 khu pḥng thủ.

    Sáng 24 tháng 4, tiểu đoàn 8, trung đoàn 47, sư đoàn 22 QLVNCH bất ngờ chạm súng với các đơn vị đi đầu của trung đoàn 141 sư đoàn 2 QĐNDVN đang chiếm lĩnh vị trí xuất phát. Trung đoàn 675 pháo binh (QĐNDVN) được lệnh khai hỏa, pháo kích tất cả các vị trí của cụm pḥng ngự Đắc Tô - Tân Cảnh bằng pháo 122 mm và hỏa tiễn H12. Đại tá Lê Đức Đạt điều 10 xe tăng ra phản kích th́ bị tên lửa B-72 bắn cháy 8 chiếc, đứt xích 2 chiếc (trước ngày này, QLVNCH ở Kon tum chưa biết đến B-72 mà cho rằng đây chỉ là loại đạn chống tăng B-41.

    Lúc 10h30 sáng ngày 24 tháng 3, sở chỉ huy tiền phương sư đoàn 22 QLVNCH tại Tân Cảnh bị pháo binh QĐNDVN bắn trúng, 20 sĩ quan QLVNCH chết và bị thương, các phương tiện thông tin liên lạc bị phá hủy. Tân Cảnh mất liên lạc với Kon Tum và không thể chỉ huy được các đơn vị thuộc quyền. Các chi đội thiết giáp 1 và 2 (thiết đoàn 14 QLVNCH) đang pḥng ngự Bến Hét xin đại tá Đạt cho rút về pḥng ngự Tân Cảnh nhưng liên lạc bị đứt, hai đơn vị này tự rút về Tân Cảnh. Chi đội 1 bị tiểu đoàn 7, trung đoàn 24 QĐNDVN phục kích ở cầu Đắc Mốt, 5 xe tăng M-41 bị phá hỏng, chi đội trưởng (thiếu úy Nguyễn Thi) và các binh sĩ dưới quyền bị bắt. Chiều 24 tháng 3, thêm 12 xe thiết giáp của QLVNCH bị diệt trong đó có 2 chiếc M-41 bị 2 chiếc T-54 hạ tại Đắc Tô. QĐNDVN mất 3 xe tăng PT-76 ở Đắc B'Rung do trúng tên lửa TOW từ máy bay AH-1 Cobra. Tuy nhiên, 15 chiếc T-54 và PT-76 c̣n lại vẫn tiếp tục tấn công. Lúc 17 giờ chiều 24 tháng 4, Sư đoàn 2 QĐNDVN đă chiếm được cứ điểm Đắc Moi và quận lỵ Đắc Tô (Đắc Tô I). Các trung đoàn 41, 47, 2 chi đội thiết giáp (1 và 14), một tiểu đoàn của trung đoàn 42, tiểu đoàn 9 (lữ dù 3), 2 tiểu đoàn pháo binh QLVNCH mất sức chiến đấu và tan ră[3]. Đại tá Lê Đức Đạt, sư đoàn trưởng sư đoàn 22 và 1 cố vấn Mỹ tử thương[12]. Sư đoàn phó Vi Văn B́nh và khoảng 1.000 binh sĩ QLVNCH bị QĐNDVN bắt sống.[13] Cùng ngày, trung đoàn đặc công 400 (chủ lực khu 5) phối hợp với trung đoàn 28 tấn công Vơ Định, buộc sở chỉ huy lữ dù 3 (QLVNCH) phải rút về Kon Tum.

    Tướng Ngô Du và ban tham mưu quân đoàn 2 không thể tăng viện cho Đắc Tô - Tân Cảnh v́ đường 14 đă bị QĐNDVN cắt đức ở Diên B́nh. Căn cứ Vơ Định, tiền đồn phía Bắc của Kon Tum đă bị mất. Lúc này, sư đoàn 22 QLVNCH chỉ c̣n lại trung đoàn 42 (thiếu) đang pḥng thủ B́nh Định, Quân đoàn 2 (QLVNCH) chỉ c̣n sư đoàn 23 để pḥng thủ Kon Tum. Ngày 27 tháng 4, Đại tá Lư Ṭng Bá tư lệnh sư 23 được chỉ định làm tư lệnh mặt trận Kon Tum. Tướng Ngô Du bị lên cơn đau tim cấp, không chỉ huy được. Nguyễn Văn Thiệu và Cao Văn Viên đề nghị một số Trung tướng ở Sài G̣n lên thay nhưng không ai chịu lên. Cuối cùng tổng thống Thiệu chọn thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn. Tướng Toàn hứa với Nguyễn Văn Thiệu và Cao Văn Viên sẽ tử thủ tại Kon Tum. John Paul Vann cử Rhotenberry là cố vấn trưởng cho sư 23. Để chống lại xe tăng T-54 của QĐNDVN, Lư Ṭng Bá lệnh cho các tiểu đoàn lập các tổ chống tăng và tập bắn súng M72 LAW vào các xe tăng M-41 đă bị cháy. Ngày 30 tháng 4, tướng Toàn tăng viện cho sư 23 thêm 1 trung đoàn bộ binh, 1 liên đoàn biệt động quân, 20 xe tăng M-48 và nhiều phương tiện, đạn dược... Cố vấn John Paul Vann hứa cấp đủ 100 box B-52 (300 lần chiếc) yểm hộ từ trên không.[14].

    Các cuộc chiến đấu trong thị xă Kon Tum

    Từ ngày 26 tháng 4 đến ngày 10 tháng 5, các trung đoàn 28 (độc lập), 1 và 3 (sư đoàn 320A) đánh thiệt hại nặng liên đoàn 6 biệt động quân QLVNCH ở căn cứ Biển Hồ, h́nh thành thế vây ép cụm pḥng ngự Kon Tum từ hướng Đông Bắc. Trung đoàn 95 (độc lập) chốt chặn đường 14 ở Chư Thoi, đánh tan 4 đại đội bộ binh QLVNCH thuộc các trung đoàn 45 và 53 nhưng không chặn được các trung đoàn 44, 45 và 53 (sư 23 QLVNCH) tăng viện cho Kon Tum. Trung đoàn 52 (320A) đánh chiếm cứ điểm K'Leng, diệt tiểu đoàn 62 biệt động quân QLVNCH áp sát phía Tây Kon Tum. Riêng Trung đoàn 66 do chủ quan, khinh địch, hiệp đồng lỏng lẻo, cán bộ không sâu sát, báo cáo sai t́nh h́nh... nên khi đánh tiểu khu Plei Cần bị thiệt hại nặng, phải rút ra củng cố.[15]

    Từ ngày 3 đến ngày 13 tháng 5, trung đoàn 54 pháo binh QĐNDVN liên tục bắn phá thị xă Kon Tum bằng pháo 130 mm, 122 mm và hỏa tiễn H12. Mục tiêu đánh nhiều nhất là sân bay Phượng Hoàng (TX Kon Tum), gây khó khăn cho tiếp vận hậu cần của QLVNCH. Ngày 13 tháng 5, mạng lưới do thám điện đài (SIGINT) của Mỹ chặn bắt được bức điện của Bộ Tư lệnh B3: "Mũi tấn công hướng Bắc - Sư đoàn 2 - stop - hướng Tây Bắc - sư đoàn 320 - stop - Tăng cường mỗi sư đoàn 10 T54 - stop - G - 05h00 - stop - N - 14-5 - stop". Cũng trong ngày 13 tháng 5, tướng Nguyễn Văn Toàn bố trí lại lực lượng pḥng thủ Kon Tum với 3 trung đoàn 44, 45 và 53 được tăng viện nhưng cũng bị Sái G̣n rút lữ đoàn dù ném ra mặt trận Trị Thiên-Huế. Đại tá Lư Ṭng Bá được lệnh đưa trung đoàn 53 giữ hướng bắc, đông và nam dọc sông Đắc B'La; trung đoàn 44 giữ ngă ba Trung Tín-Đường Ngang ở Tây Bắc. Trung đoàn 45 giữ căn cứ Lôi Hổ làm lực lượng dự bị. Thiết đoàn 14 mới được phục hồi làm lực lượng cơ động tăng cường cho hướng bị uy hiếp mạnh nhất. Số quân c̣n lại của liên đoàn 6 biệt động quân pḥng thủ ṿng trong thị xă. Tướng Toàn và đại tá Bá lệnh cho các đơn vị pḥng thủ không được ra khỏi hầm khi đối phương nổ súng tấn công để B-52 ném bom rải thảm vào đội h́nh của họ.

    17h ngày 13 tháng 5, 75 lần chiếc B-52 và hơn 100 lần chiếc cường kích A-37 Dragonfly và AD-6 của sư đoàn 6 không quân QLVNCH ném hơn 3.000 quả bom từ 50 kg đến 250 kg vào khu vực Bắc Kon Tum, đánh đ̣n phản chuẩn bị từ trên không vào đội h́nh sư đoàn 320 của QĐNDVN. Không quân VHCH bị mất một chiếc AD-6.[16] Tuy không rơ số thương vong cụ thể nhưng QĐNDVN phải tạm dừng kế hoạch tấn công. Tướng Hoàng Minh Thảo ra lệnh cho các đơn vị thuộc quyền niêm phong tất cả các điện đài, chuyển sang sử dụng điện thoại hữu tuyến và liên lạc viên. Bộ tư lệnh B3 phải điều chỉnh lại kế hoạch đánh Kon Tum, chia làm hai bước: Bước 1: bóc các tuyến pḥng ngự ṿng ngoài; bước 2: tiến đánh các mục tiêu trong thị xă.

    Từ ngày 15 đến ngày 23 tháng 5, trung đoàn 3, sư 320A có 1 đại đội xe tăng yểm hộ đánh thiệt hai nặng trung đoàn 44 ở Trung Tín nhưng bị máy bay B-52 ném bom ngăn chặn, không giữ được trận địa. Trung đoàn 1 tấn công căn cứ Lôi Hổ cũng bị QLVNCH có không quân yểm hộ đẩy lùi, thương vong lớn. Hai trung đoàn 28 và 141 (sư đoàn 2 QLVNCH) đánh chiếm được hai cứ điểm Kon Tiêu và Kon Kơ Pát nhưng bị trung đoàn 53 dùng chiến thuật pḥng ngự phân tán và vận động chiến cầm chân. Ở phía Nam, các trung đoàn 95 và 24 tập trung lực lượng cắt đứt hẳn đường 14 ở ba đoạn: Chư Thoi, Chư Pao và Tân Phú. Kon Tum hoàn toàn bị cô lập bằng đường bộ, QLVNCH phải tổ chức cầu hàng không đường ngắn, dùng trực thăng vận tải CH-47 Chinook của sư đoàn 6 không quân từ sân bay Plei Ku tiếp tế cho Kon Tum.[17]

    Ngày 23 tháng 5, Quân đoàn 2 QLVNCH điều 2 liên đoàn biệt động quân (2, 6), 1 tiểu đoàn biệt động biên pḥng, 1 chi đoàn thiết giáp, có pháo và không quân yểm hộ mở cuộc hành quân "Bắc B́nh Vương 72" đánh ra phía Nam Kon Tum nhưng không mở thông được đường 14, 1.000 quân bị thương vong, trong đó có phó tư lệnh sư đoàn 23 Tạ Đ́nh Liên và chi đoàn trưởng chi đoàn thiết giáp Diêm Phú Hưng. QLVNCH mất 62 xe, (trong đó có 2 xe M-48 và 11 xe M-113, 4 pháo 105 mm.[18]

    Đêm 24 rạng ngày 25 tháng 5, QĐNDVN mở cuộc tổng công kích TX Kon Tum. Các tiểu đoàn 3 (trung đoàn 3), 6 (trung đoàn 141), 1 trung đoàn 1 và đại đội 209 đặc công vượt sông Đắc B'La đánh sân bay, khu cơ giới và dinh tỉnh trưởng và trụ lại đánh QLVNCH phản kích. Đại tá Nguyễn Bá Long, tỉnh trưởng Kon Tum phải rút sang sở chỉ huy sư đoàn 23. Trung đoàn 1, sư đoàn 2 có xe tăng yểm hộ đánh chiếm sở chỉ huy trung đoàn 53 (QLVNCH) ở Ngọc Hồi, chiếm khu kho 41 và bệnh viện dă chiến ở bắc Biệt khu 24. Ngày 25/5, QLVNCH phản kích chiếm lại 1/3 sân bay, 1/2 khu cơ giới, dùng 1 đại đội trinh sát quân báo của sư đoàn 23 tấn công đại đội đặc công 209 QĐNDVN trụ ở nghĩa địa nhưng không thành công, QLVNCH mất 2 xe tăng. Sở chỉ huy sư đoàn 23 phải rời về Nam thị xă, sở chỉ huy trung đoàn 44 phải lui về trận địa của tiểu đoàn pháo 43.

    Trong ngày, Không lực Hoa Kỳ sử dụng 10 box B-52 (30 lần chiếc) ném bom vào đội h́nh tấn công của trung đoàn 3 và trung đoàn 52. Hai đơn vị này bị tổn thất, không đột phá được trận địa pḥng ngự của trung đoàn 44 QLVNCH ở ngă ba Trung Tín. Các đơn vị QĐNDVN đă vào được thị xă bị máy bay cường kích của Không lực Hoa Kỳ và các máy bay A-37 Dragonfly, UH-1 Iroquois của sư đoàn 6 không quân liên tục ném bom, bắn phá gây thương vong nặng. Để chi viện cho mặt trận Kon Tum, Bộ tư lệnh B3 sử dụng 1 đại đội đặc công địa phương đánh sân bay Plei Ku, phá hủy 3 máy bay vận tải C-130, đốt cháy 1 kho xăng, phá nổ 1 kho đạn.[6]

    Ngày 6 tháng 6, xét thấy không c̣n khả năng đánh chiếm thị xă Kon Tum do quân số thương vong lớn, gạo thiếu, đạn dược không đủ, Bộ tư lệnh B3 tung trung đoàn 66 là lực lượng dự bị cuối cùng vào trận, yểm hộ cho các đơn vị đă vào trong thị xă rút ra ngoài.

    Ngày 9 tháng 6, trên đường bay thị sát căn cứ của sư đoàn 23 trở về Plei Ku, chiếc UH-1 chở cố vấn Hoa Kỳ John Paul Vann bị trúng đạn pḥng không của QĐNDVN và rơi. John Paul Vann chết ở khu B1-Gia Lai.[2]

    Chiến dịch Bắc Tây nguyên 1972 kết thúc. QĐNDVN giữ được cụm cứ điểm Đắc Tô - Tân Cảnh chiếm được từ đầu chiến dịch. QLVNCH giữ được thị xă Kon Tum.

  7. #27
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Mặt trận Đông Nam Bộ năm 1972 - CHIẾN LƯỢC CS BẮC VIỆT
    Wikipedia


    Chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam

    Mặt trận Đông Nam Bộ năm 1972 là một trong các chiến trường quan trọng trong Chiến tranh Việt Nam năm 1972


    Chiến trường chính miền Đông Nam Bộ

    Giai đoạn I: Quân đội nhân dân Việt Nam tấn công


    Thượng tướng QĐNDVN Trần Văn Trà (tên thật là Nguyễn Chấn; 1919–1996), năm 1972 là Phó tư lệnh QGP miền Nam Việt Nam

    Quyết định ngày 27/3/1972 của Bộ chính trị TW Đảng Lao động Việt Nam và Quân ủy Trung ương QĐNDVN chuyển hướng mặt trận chính ra Trị Thiên đă làm tinh thần một số chỉ huy tại mặt trận Đông Nam Bộ chùng xuống. Thường trực quân ủy Miền phải giải thích, động viên. Mặc dù vẫn giữ ư đồ chiến dịch nhưng mặt trận Đông Nam Bộ sẽ nhận được các phương tiện chi viện tăng cường ít hơn và phải dựa vào sức ḿnh là chính.

    Ngày 25/3 QLVNCH mở chiến dịch Toàn thắng-72B (đợt 1) nhằm phá thế chuẩn bị của QĐNDVN ở Swai Rien (Cam Pu Chia). Các sư đoàn 7, sư đoàn 9 hành quân từ Swai Rien (Cam Pu Chia) chỉ để một số đại đội ở lại chặn kích và cơ động chủ lực về quanh An Lộc nhưng tiếp cận chiến trường muộn. Đến ngày 1 tháng 4, sư đoàn 9 vẫn c̣n ở Đông Bắc Sài G̣n, Sư đoàn 7 vẫn c̣n ở bờ Tây sông Vàm Cỏ Đông. Theo thượng tướng Hoàng Cầm, đây là một trong những nguyên nhân chính khiến QĐNDVN không thực hiện được hoàn toàn kế hoạch hợp vây Lộc Ninh và chia cắt tuyến Lộc Ninh - An Lộc, để QLVNCH có thời gian tổ chức pḥng thủ vững chắc ở An Lộc[1]. Tuy tăng cường pḥng thủ An Lộc nhưng Bộ tư lệnh vùng chiến thuật III (QLVNCH) vẫn coi hướng Tây Ninh - Xa Mát là hướng tấn công chính của QĐNDVN. Họ điều động 7 chiến đoàn pḥng thủ đường 22 đi Tây Ninh - Xa Mát, chỉ để 4 chiến đoàn giữ đường 13 tuyến Lộc Ninh - An Lộc.

    4h ngày 1 tháng 4, Trung đoàn 271 (C30B) có xe tăng chiến lợi phẩm yểm hộ triển khai tiến công vào tuyến pḥng ngự của Trung đoàn 49 (QLVNCH) tại Xa Mát, Bàu Dung. 15h chiều ngày 4 tháng 4, QĐNDVN cứ điểm Xa Mát. 6h sáng ngày 1 tháng 4, Trung đoàn 24 (C30B) tiến công căn cứ Tân Biên và chiếm được lúc 9 giờ sáng ngày 4 tháng 4. Phần lớn Trung đoàn 49 và một tiểu đoàn của Trung đoàn 6 (Sư đoàn 25) bị tiêu diệt và bắt sống. Số c̣n lại nhờ sự yểm trợ của cụm pháo ở Tân Phong và Thiết đoàn 6 cùng với Thiết đoàn 5 lui về Thiện Ngôn và điện gọi sư đoàn 25 ở Tây Ninh chi viện. Liên đoàn biệt kích dù 81 điều 1 tiểu đoàn chặn cánh quân của Trung đoàn 271 (C30B) ở Thiện Ngôn. Tại trận này, phía QGP mất toàn bộ 6 xe tăng - thiết giáp chiến lợi phẩm cùng các tổ lái. Phía QLVNCH mất 11 xe tăng M-41, 2 xe tăng M-48 và 25 xe bọc thép M-113, phần lớn do đạn chống tăng B-40 và B-41 tiêu diệt.[1]


    Công binh xưởng B2 chuẩn bị đạn duợc cho cuộc tiến công

    8 giờ sáng 4 tháng 4, Trung đoàn 2 (QGP tỉnh Phước Long) tấn công Chi khu quân sự Phước B́nh của QLVNCH. Sau 6 giờ chống cự, Chi khu quân sự Phước B́nh bị QGP tràn ngập. Xét thấy tiền đồn này bị cô lập, không có khả năng chi viện cho các hướng khác và QLVNCH đang phải đối phó với chủ lực QĐNDVN tại hướng Tây Ninh, Lộc Ninh, tướng Nguyễn Văn Minh không điều quân cứu Phước B́nh.

    5h 00 ngày 5/4, hướng tấn công chính của QĐNDVN nổ súng. Các đơn vị của sư đoàn 5 (Công trường 5) không đánh công kiên từ ngoài vào mà bỏ qua các lớp pḥng thủ ven Lộc Ninh đánh thẳng vào trung tâm chi khu quân sự. Cùng giờ G, Sư đoàn 9 QGP điều các trung đoàn 1 và 2 của ḿnh cắt đứt đường 13 ở đoạn Lộc Hưng và Thanh Khương, chiếm cầu Cần Lê, cô lập hoàn toàn cụm cứ điểm Lộc Ninh với An Lộc (B́nh Long). Đại tá Nguyễn Công Vĩnh, tư lệnh Chiến đoàn 9 điều 2 tiểu đoàn bộ binh và thiết giáp 1 đang pḥng ngự căn cứ Hoa Lư (tiền đồn ở Bắc Lộc Ninh) về ứng cứu như bị rơi vào đúng trận địa phục kích của sư đoàn 5. Bộ tư lệnh B2 tăng cuờng cho hướng này trung đoàn pháo hỗn hợp 40 (gồm pháo, cối và hỏa tiễn H12), 2 đại đội xe tăng hốn hợp (PT-76 và T-54). Sư đoàn 5 tiếp tục công kích, bắn cháy bắn hỏng 18 xe tăng, 31 xe M-113 và 8 máy bay trực thăng UH-1 của QLVNCH. Ngày 7/4, Chi khu quân sự Lộc Ninh bị tràn ngập. Chiến đoàn 9 QLVNCH bị thiệt hại nặng và tan ră, đại tá Nguyễn Công Vĩnh và trung tá Nguyễn Đức Dương, chỉ huy thiết đoàn 1 đầu hàng. Hơn 100 xe thiết giáp chỉ c̣n hơn 30 chiếc thoát được về An Lộc[2]

    Ngày 8 tháng 4, Chiến đoàn 52 QLVNCH từ Bắc An Lộc định lên cứu viện cho Lộc Ninh nhưng đă bị các trung đoàn 1 và 2 của Sư đoàn 9 (Công trường 9) phản đột kích vào hai bên sườn, buộc phải rút về Cầu Cần Lê sau khi bị tổn thất 2 đại đội. Tiếp theo Lộc Ninh, chuỗi tiền đồn của QLVNCH tại các tỉnh Phước Long, B́nh Long và Tây Ninh như Bố Đức, Ka Tum, Tống Lê Chân... phải "di tản chiến thuật"[3]. Trong cuộc hỏi cung ngay sau trận đánh, trung tá Nguyễn Đức Dương thừa nhận cả ông ta và đại tá Vĩnh đều coi hướng Bắc là hướng đột kích chủ yếu của QĐNDVN nên để hai bên suờn bị yếu dẫn đến thất bại.[1]


    Xe tăng M48A3 bị ḿn phá hủy

    Đêm 6 tháng 4, Bộ tư lệnh B2 họp và đi đến quyết định đánh An Lộc ngay, chậm nhất ngày 9 tháng 4 phải triển khai tấn công mà không cần chuẩn bị đầy đủ để lợi dụng thế bị động, lúng túng của QLVNCH sau khi mất Lộc Ninh. (Biên bản cuộc họp tối 7 tháng 4 của Thường trực Bộ tư lệnh Miền gồm Phạm Hùng, Hoàng Văn Thái và Hoàng Cầm. Nhưng trong Bộ tư lệnh B2 lúc đó cũng có một số ư kiến táo bạo hơn. Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, Tư lệnh chiến dịch Trần Văn Trà đề nghị bỏ qua qua An Lộc, đánh thẳng vào Chơn Thành; mất Chơn Thành, An Lộc sẽ tự tan ră. Tuy nhiên, ư kiến này không đuợc tập thể Đảng uỷ mặt trận chấp nhận do quá mạo hiểm.[1]

    Cuối cùng, Bộ Tư lệnh B2 vẫn quyết định hướng đ̣n tấn công chính vào An Lộc với lực lượng chủ công là Sư đoàn 9 và một bộ phận sư đoàn 5, có 2 trung đoàn pháo và 3 đại đội xe tăng (24 chiếc) tăng cường. Sư đoàn 7 không tham gia đánh An Lộc mà chuyển ngay toàn bộ chủ lực xuống phía Nam An Lộc với nhiệm vụ khoá chặt đường 13 trước khi các sư đoàn 9 và 5 nổ súng. V́ phải hành quân bộ nên đến ngày 12 tháng 4, Trung đoàn 141 (sư đoàn 7) mới bố trí xong các chốt cặn ở Tàu Ô. Trung đoàn 209 trước đó vừa vận động chiến ḱm chân Chiến đoàn 7 QLVNCH ở Phú Lỗ (Nam Lộc Ninh, Bắc An Lộc); vừa phải phục kích đánh vào sườn Chiến đoàn 52 QLVNCH ở Hồng Tâm. Đến ngày 9/4 mới giải quyết xong chiến trường th́ đă nhận ngay nhiệm vụ vu hồi chiến dịch vào phía Nam Chơn Thành. Cũng đến ngày 12/4, Trung đoàn 165 với triển khai xong các lực lượng cơ động chặn đường 13 ở Ngọc Lầu. Sư đoàn 9 và một số đơn vị tăng cường cũng chưa tiếp cận được vị trí xuất phát tấn công. Kế hoạch triển khai tấn công An Lộc ngày 9/4 của QĐNDVN bị bỏ lỡ. Theo tướng Hoàng Cầm, thời cơ đến và đi đều rất nhanh.

    Đối với QLVNCH, khoảng thời gian 4 ngày không bị để mất một cách lăng phí. Trước nguy cơ An Lộc bị vây đánh, ngày 9/4, biệt động quân QLVNCH phá cầu Cần Lê, làm cho việc chuyển quân của các sư đoàn 5, 9, đặc biệt là 2 trung đoàn pháo 40 và 75 xuống gần An Lộc mất thêm thời gian. Cũng trong 4 ngày này, Bộ tư lệnh quân đoàn III (QLVNCH) dùng trực thăng chuyển gấp Chiến đoàn 8 từ căn cứ Lai Khê lên tăng cường cho 2 liên đoàn biệt động quân đă có ở An Lộc, kéo Chiến đoàn 7 về giữ Tây Ninh, điều lữ đoàn dù 1 pḥng thủ Chơn Thành, củng cố được tam giác pḥng ngự An Lộc - Chơn Thành - Dầu Tiếng. Phía sau các đơn vị này là liên đoàn biệt kích dù 81 và lữ đoàn dù 2 làm lực lượng cơ động dự bị.[4]

    Đêm 12 rạng ngày 13/4, sau pháo kích 30 phút, sư đoàn 9 (tăng cuờng) bắt đầu tấn công An Lộc.

    Giai đoạn II: Quân lực Việt Nam Cộng ḥa phá vây


    Một xe tăng T-54 (trong ṿng tṛn) của Quân đội nhân dân Việt Nam khi tấn công đơn độc vào thị xă An Lộc bị bắn hỏng bởi 1 chiếc AH-1 Cobra, (ảnh chụp từ máy bay).

    Sau khi tăng phái Chiến đoàn 8 và tiểu đoàn 3 pháo binh cho An Lộc, đại tá Mạch Văn Trường (Trưởng pḥng hành quân - quân đoàn II QLVNCH) truyền lệnh của tướng Nguyễn Văn Minh cho đại tá Lê Văn Hưng, chỉ huy pḥng thủ An Lộc yêu cầu mở cuộc hành quân càn quét ra xung quanh thị xă để phá thế chuẩn bị của QĐNDVN. Ngày 9 tháng 4, QLVNCH đă phá cầu Cần Lê (bắc An Lộc). Ngày 10 tháng 4, đại tá Hưng tổ chức các cuộc hành quân của liên đoàm 8 biệt động quân ra phía Bắc và phía Đông An Lộc nhưng đều bị đẩy lùi. Cùng ngày 10 tháng 4, sư đoàn bộ binh 21, trung đoàn 15 (sư đoàn 9) và một tiểu đoàn của thiết đoàn xe tăng 2 (QLVNCH) cũng được điều về quanh An Lộc. Đại tá Lê Văn Hưng đưa bộ chỉ huy tiền phương sư đoàn 5 của ḿnh lên tiểu khu quân sự B́nh Long (An Lộc). Ngày 15/4, tướng Nguyễn Văn Minh cũng rời Sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn III từ Biên Hoà lên Lai Khê.[5]

    Ngày 11 tháng 4, các tiền đồn Xa Trạch, Xa Cát, Xa Cam và Quản Lợi lần lượt bị QĐNDVN đánh chiếm. QLVNCH bị mất 23 khẩu pháo của tiểu đoàn pháo 52, 30 tăng, thiết giáp và hơn 600 quân. Do địa bàn nhỏ hẹp, đại tá Hưng phải cho tiểu đoàn 3 pháo binh (mới được tăng phái) bố trí trận địa ngay tại Công viên Tao Phùng. Các cụm pháo ở Lai Khê và Chơn Thành, không quân QLVNCH tại Biên Hoà (sư đoàn 3)và Tân Sơn Nhất (sư đoàn 5) được lệnh chi viện hoả lực tối đa cho An Lộc.[6]

    Ngày 12 tháng 4, các đơn vị đi đầu của sư đoàn 9 (Công trường 9) đă tiến đến đường Hùng Vương, đường Trần Hưng Đạo và công viên Tao Phùng trong thị xă nhưng bị hoả lực của QLVNCH từ các toà nhà cao tầng chặn lại. Do hiệp đồng binh chủng chưa thành thạo, 3 trong số 15 xe tăng T-54 và PT-76 tiến quá xa bộ binh yểm hộ đă bị bắn cháy, 4 chiếc khác bị pháo 40 mm và rốc két từ máy bay AC-130 đánh trúng nóc xe (chỗ hiểm yếu nhất của các xe tăng thời đó). Ngày 13 tháng 4, các đơn vị của sư đoàn 9 QĐNDVN tiếp tục tấn công và chiếm dược 1/3 thị xă nhưng không c̣n lực lượng để tiếp tục phát triển.[1]

    Cùng ngày 13 tháng 4, lữ đoàn dù 1 (QLVNCH) đưa hai tiểu đoàn tiến lên Ngọc Lầu, định mở đường vào An Lộc từ phía Nam nhưng bị trung đoàn 165 (sư đoàn 7 QĐNDVN) chặn lại. Tướng Minh lệnh cho tướng Dư Quốc Đống (tư lệnh sư đoàn dù) để lại một tiểu đoàn tại khu chốt để thu hút đối phương, rút tiểu đoàn c̣n lại về Lai Khê dùng cho đổ bộ đường không. Ngày 15 tháng 4, Quân đoàn III (QLVNCH) sử dụng lữ dù 1 (thiếu) đổ bộ bằng trực thăng xuống đồi Gió (phía sau các đơn vị của sư đoàn 7 QĐNDVN) và điều các trung đoàn 31, 33 (sư đoàn 21) tiến đánh từ Lai Khê lên Chơn Thành. Sư đoàn 7 QĐNDVN phải đánh trên 2 hướng: hướng Đồi Gió, trung đoàn 141 và 1 tiểu đoàn của trung đoàn 209 (QĐNDVN) đấu với lữ đoàn dù 1; hướng Chơn Thành, trung đoàn 165 và trung đoàn 209 (thiếu) đấu với các trung đoàn 31 và 33 (sư đoàn 21 QLVNCH). Hai bên giao chiến 12 ngày liền bất phân thắng bại. Măi đến ngày 22 tháng 4, trung đoàn 141 mới chiếm được Đồi Gió sau khi đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 6 (lữ dù 1)


    Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, năm 1972 là Đại tá, Tư lệnh sư đoàn 5 QLVNCH, chỉ huy trưởng trận pḥng thủ An Lộc

    Ngày 25 tháng 4, QLVNCH tại mặt trận được tăng phái lữ đoàn dù 3 không vận từ Bắc Tây Nguyên về và bố trí pḥng thủ tại Tân Khai, lữ đoàn biệt kích dù 81 và 2 tiểu đoàn của lứ đoàn dù 1 được điều lên An Lộc bằng không vận, đưa quân số QLVNCH pḥng thủ An Lộc (cả bên trong và tiếp cận bên ngoài) lên tương đương 2 sư đoàn. Từ ngày 9 đến ngày 25 tháng 4, Không lực Hoa Kỳ và Không lực Việt Nam Cộng hoà đă sử dụng 60 lần chiếc B-52 và 120 lần chiếc cường kíchGen [7] ném bom vào đội h́nh tấn công của QĐNDVN, đánh cả vào những toà nhà cao tầng đă bị sư đoàn 9 chiếm giữ ở trung tâm thị xă An Lộc gây nhiều thương vong. Trung đoàn 3 (sư đoàn 5) phối thuộc sư đoàn 9 cũng bị hao hụt quân số do phi pháo đối phương.

    Ngày 5 tháng 5, các đại diện Quân uỷ Trung ương, Quân uỷ Miền và Bộ tư lệnh B2 họp phân tích t́nh h́nh mặt trận. Các sư đoàn chủ lực của mặt trận đă bị căng ra 3 hướng. Lực lượng QLVNCH pḥng thủ An Lộc đă được tăng cường, h́nh thành thế trận trong đánh ra, ngoài đánh vào. Quân đoàn III vẫn c̣n sư đoàn 18 nguyên vẹn đóng ở Thủ Dầu Một và nhiều thiết đoàn xe tăng chưa dùng đến. Lực lượng pḥng không của QĐNDVN tại mặt trận quá mỏng, không đủ ngăn chặn các đợt di chuyển quân bằng đường không của QLVNCH. Nhận thấy thế bất ngờ không c̣n, tương quan lực lượng trên chiến trường nghiêng về phía đối phương, đại diện Trung ương cục Phạm Hùng và đại diện Quân uỷ Trung ương Hoàng Văn Thái bàn với tư lệnh Trần Văn Trà việc thay đổi chiến thuật. Không tấn công đánh chiếm mà bao vây An Lộc nhằm giam chân ở đây càng nhiều đơn vị của QLVNCH càng tốt. Tướng Hoàng Văn Thái cũng truyền đạt ư kiến của Bộ Chính trị về vịec đưa sư đoàn 5 luồn xuống Đồng bằng Sông Cửu Long để kéo căng lực lượng QLVNCH ra đồng thời phá kế hoạch b́nh định của VNCH.

    Tư lệnh Trần Văn Trà nôi không phải ông không chấp hành ư kiến của hai vị đại diện cấp trên nhưng vẫn giữ ư kiến đánh chiếm An Lộc. Ông cho rằng trong đợt đầu, không phải đối phương mạnh mà do các đơn vị QĐNDVN phối hợp khong tốt. Đến nay, họ đă dàn xong thế trận, An Lộc đă bị vây cả bốn hướng; cứ điểm (lâm thời) Đồi Gió có tác dụng chi phối thị xă đă bị sư đoàn 7 đánh chiếm; bên trong thị xă, sư đoàn 9 đă chiếm được 1/3 địa bàn phía Đông Bắc và Bắc. Cuối cùng, hai vị Phạm Hùng và Hoàng Văn Thái tạm thời đồng ư để Bộ tư lệnh B2 mở cuộc tấn công An Lộc đợt 2.

    3h sáng ngày 11 tháng 5, sư đoàn 9 (Công trường 9) đuợc tăng cường trung đoàn 2 (sư đoàn 5), có 36 khẩu pháo, cối, 54 pháo và súng cao xạ các loại, 25 xe tăng mở cuộc tấn công dợt 2 vào An Lộc từ hướng Tây. Các đơn vị của trung đoàn 2 (sư đoàn 5 QĐNDVN) đă không bám sát yểm hộ xe tăng, để cho 18 trong tổng số 25 chiếc tham chiến bị bắn cháy ngay ở đợt tấn công đầu tiên. Mặc dù vậy, chủ lực của sư đoàn 9 vẫn phát triển tấn công, giành giật với QLVNCH từng góc phố, từng ngôi nhà nhưng do không được yểm hộ bằng hoả lực của tăng đă mất sức chiến đấu rất nhanh. Ngày 15 tháng 5, sư đoàn 9 chiếm đuợc Ty Công chính, Ty Cảnh sát, Ty Chiêu hồi nhưng không c̣n lực lượng để phát triển. Ở ṿng ngoài, sư đoàn 21 QLVNCH điều các trung đoàn 31 và 32 phối hợp với trung đoàn 9 thiết giáp tấn công sư đoàn 7 QĐNDVN ở cụm chốt Tàu Ô - Xóm Ruộng. Ngày 12 tháng 5, Không lực Hoa Kỳ và Không lực VNCH xuất kích hơn 150 phi vụ, dùng bom khoan, bom phá đánh sập hầm hào của trung đoàn 165, tiểu đoàn 5 của trung đoàn này bị thương vong nặng. Chiy huy sư đoàn phải điều trung đoàn 209 lên thay thế. Bộ tư lệnh B2 đă không chiếm được An Lộc (B́nh Long) ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp theo của chiến dịch[1]. Bộ Tư lệnh B2 chỉ để lại trung đoàn 2 và trung đoàn 3 vây An Lộc, điều trung đoàn 1 ra đánh ṿng ngoài.

    Ở hướng đường 13, QLVNCH dùng trực thăng đổ Trung đoàn 15 (sư đoàn 9) và trung đoàn 33 (sư đoàn 21)xuống Đức Vinh, trung đoàn 32 (sư đoàn 21) lấn lên xóm Ruộng, trung đoàn 9 thiết giáp phối hợp với công binh vượt suối đánh vu hồi, vây bọc cụm chốt Tàu Ô từ phía Bắc với ư định nhổ cụm chốt Tàu Ô của sư đoàn 7 QĐNDVN. Bộ tư lệnh sư đoàn 7 (sư đoàn trưởng Bùi Thanh Vân) đă sửa đổi chiến thuật, không áp dụng "chốt cứng, chặn đứng" như trước mà kết hợp các loại "chốt chặn", "chốt cơ động" với các cuộc vận động phản đột kích và ra tay tấn công trước. Ngày 17 tháng 5, sư đoàn 9 QĐNDVN dùng trung đoàn 165 phối hợp với trung đoàn 1 (sư đoàn 9) tấn công cụm quân của trung đoàn các 15, 33 ở Đức Vinh; điều trung đoàn 209 thay trung đoàn 141 (thiếu) vây cụm quân Tân Khai của QLVNCH.

    Ngày 19 tháng 5, lợi dụng thời gian các đơn vị chủ lực của sư đoàn 7 QĐNDVN thay quân, tướng Nguyễn Văn Minh lệnh cho Chiến đoàn 31 (thiếu) và tiểu đoàn biệt động biên pḥng đánh ép cụm chốt Tàu Ô từ phía Bắc, Chiến đoàn 32 điều các tiểu đoàn 1 và 2 phối hợp chi đoàn 1 Trung đoàn 5 thiết giáp đánh bọc hai bên đường 13 chiếm được cống Ông Tề nhưng không tiến được đến cống Tàu Ô. Đêm 19 tháng 5, trung đoàn 165 QĐNDVN chặn được chiến đoàn 32 ở Xa Cát. Đến đêm 25 tháng 4, đến lượt cụm thiết giáp của chi đoàn 1 bị trung đoàn 1 (sư đoàn 9) vây lấn. Hai tiểu đoàn của Chiến đoàn 32 ở Cống Ông Tề bị cô lập. Ngày 28 tháng 5, tướng Minh ra lệnh rút các đơn vị QLVNCH quanh Tàu Ô - Xóm Ruộng về phía sau. QĐNDVN vẫn chiếm được nhiều địa đoạn quan trọng vây quanh An Lộc, đặc biệt là hai điểm cao 169 và Đồi Gió, được dùng là trận địa pháo kích An Lộc từ nhiều phía, gây thuơng vong lớn cho sư đoàn 5 QLVNCH.[3]

    Trong tháng 5,Không lực Hoa Kỳ và không quân QLVNCH đă dùng 10 lần chiếc B-52, 7.500 phi vụ máy bay cường kích ném 39.500 tấn bom xuống các vị trí của QĐNDVN ở quanh An Lộc, đặc biệt tập trung ở cụm chốt Tàu Ô - Xóm Ruộng.

    Đến ngày 15 tháng 6, Thường trực Quân uỷ miền quyết định điều sư đoàn 5 và rút 1/3 lực lượng binh chủng hợp thành khỏi mặt trận, điều xuống Đông Nam Bộ mở mặt trận khu 8. Tướng Hoàng Văn Thái đi theo để chỉ huy mặt trận này. Tướng Hoàng Cầm được chỉ định làm tư lệnh kiêm chính uỷ mặt trận. Đại tá Trần Văn Phác làm Phó chính uỷ. Các tướng Trần Văn Trà, Trần Độ được điều về Sở chỉ huy miền. Thượng tá Đàm Văn Nguỵ thay Bùi Thanh Vân (được điều sang chỉ huy sư đoàn 5) làm sư đoàn trưởng sư đoàn 7 (Công trường 7). Một số trung đoàn QĐNDVN cũng đuợc đổi phiên hiệu: trung đoàn 141 đổi thành trung đoàn 14, trung đoàn 165 đổi thành trung đoàn 12.

    Ngày 22 tháng 6, Sư đoàn bộ binh 18 do Đại tá Lê Minh Đảo chỉ huy được lệnh đổ bộ bằng trực thăng xuống An Lộc thay thế Sư đoàn 5 của đại tá Hưng phải rút ra do thương vong quá lớn. Với lực lượng mới, trung đoàn 43 (sư đoàn 18), trung đoàn 52 (sư đoàn 5) và liên đoàn 5 biệt động quân được giao nhiệm vụ tấn công sân bay Quản Lợi (phía Đông An Lộc) đang nằm trong tay trung đoàn 3 (sư đoàn 9 QĐNDVN). Phải đến ngày 4 tháng 9, sư đoàn 18 mới chiếm được sân bay. Các tiểu đoàn 2 và 3 (trung đoàn 43) và tiểu đoàn 30 (liên đoàn 5 biệt động quân) bị thiệt hại lớn về người.

    Giai đoạn III: Chốt chặn đường 13, lập thế da báo


    Các xe M113 của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa bị phá hủy trước các trận địa chốt

    Cuối tháng 6 năm 1972, sau khi sư đoàn 5 và một bộ phận các đơn vị hoả lực được điều về khu 8, Bộ tư lệnh B3 c̣n lại 5 trung đoàn bộ binh và một số đơn vị hoả lực với tổng quân số chỉ c̣n 2/3 so với khi mở chiến dịch. Ư đồ của Bộ tư lệnh miền là tiếp tục vây lỏng An Lộc, chốt chặt đuờng 13. Bộ tư lệnh B3 tách trung đoàn 209 thành trung đoàn độc lập, đưa trung đoàn 205 (chủ lực miền nhập vào sư đoàn 7 cùng với trung đoàn 12 (165 cũ) và 14 (141 cũ). Tướng Hoàng Cầm đề nghị sư đoàn 7 bỏ cuộc tấn công vào Tân Khai - Đức Vinh, luồn xuống phía Nam đánh Chơn Thành - Lai Khê - Bến Cát để hút chủ lực của sư đoàn 25 (QLVNCH) về phía sau, tạo điều kiện cho trung đoàn 209 tiếp tục giữ chặt cụm chốt Tàu Ô - Xóm Ruộng.

    Ở Tàu Ô, mặc dù đă đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 3 của trung đoàn 209 QĐNDVN (tiểu đoàn này chỉ c̣n 45 tay súng[4]), Chiến đoàn 46, hai tiểu đoàn biệt động biên pḥng 74, 84 và một trung đoàn thiết giáp của tướng Lê Văn Tư (mới thay tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm sư đoàn trưởng sư đoàn 25) vẫn không thể vượt qua chốt Tàu Ô. Hai bên đóng quân xen kẽ kiểu da báo, bất cứ điểm tựa nào cũng đều là tuyến đầu. Bên nào cũng tích cực đào công sự, vừa để tránh hoả lực của đối phương, vừa để tránh hoả lực của chính quân nhà. Đầu tháng 7, chỉ huy sư đoàn 7 (QĐNDVN) rút tiểu đoàn 7 về tuyến sau, đưa tiểu đoàn 9 (trung đoàn 14) vào thay.

    Ngày 20 tháng 7, tướng Lê Văn Tư tung toàn bộ sư đoàn 25 tấn công, quyết nhổ bằng được cụm chốt Tàu Ô. Tuy nhiên, với thế da báo, ướng Tư không thể sử dụng phi pháo ồ ạt cũng không thể sử dụng đường không để tiếp tế cho các đơn vị như ở An Lộc mà phải dùng quân biệt động tiếp tế bằng đừong ṃn. Các đơn vị của trung đoàn 209 phát hiện ra chiến thuật này và nhiều lần đánh chiếm được hàng tiếp vận của QLVNCH. Đến tháng 8, Lê Văn Tư lệnh cho quân biệt động đổi từ đánh ngày sang đánh đêm để lấn diệt từng chốt một nhưng đều bị quân của trung đoàn 209 QĐNDVN đẩy lùi[4], nhiều trung đội QLVNCH phải lách qua các chốt của đối phương để rút về điểm xuất phát.

    Cũng vào đầu tháng 8, chủ lực sư đoàn 7 QĐNDVN đă cơ động đến tuyến Bàu Bàng, Chơn Thành, La Khê, Bến Cát. Ngày 10 tháng 8, tiểu đoàn đặc công 28 phối hợp với một tiểu đoàn của lữ đoàn 429 đặc công Miền bất ngờ đánh thẳng vào Sở chỉ huy tiền phưong Quân đoàn III - QLVNCH ở Lai Khê. Trung đoàn 14 chiếm lĩnh trận địa chót ở Bàu Bàng. Tướng Nguyễn Văn Minh phải điều liên đoàn 6 biệt động quân từ Biên hoà lên ứng cứu Lai khê, đưa liên đoàn 3 biệt động quân từ đường 2 sang đuờng 13 bố trí ở Bến Cát là lực lượng dự bị. Trong các ngày 21 và 22 tháng 8, trung đoàn 12 (165 cũ) và trung đoàn 205 (sư đoàn 7) tổ chức vận động chiến, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 35 thuộc liên đoàn 6 biệt động quân tại Bắc Lai Khê và tiêu diệt tiểu đoàn 51 (cũng của liên đoàn này) tại Tây Nam Bàu Bàng, buộc liên đoàn 6 biệt động quân phải vừa đánh vừa lùi về Lai Khê.[8]

    Ngày 27 tháng 8, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điện cho tướng Minh: "Quăng đuờng An Lộc - Chơn Thành chưa giải toả được th́ đường 13 lại bị cắt ở Bàu Bàng. Sư đoàn 18 chết cứng ở An Lộc, Sư đoàn 5 c̣n chưa được tái chỉnh trang. Lực lượng tổng trù bị c̣n phải tái chiếm tỏa Quảng Trị. Ông liệu mà đối phó". Ngày 28 tháng 8, bức điện của tướng Nguyễn Văn Minh gửi Lê Văn Tư ra lệnh đưa sư đoàn 25 rút khỏi về phía sau ứng cứu Lai khê bị trinh sát diện đài QĐNDVN thu được[1]. Ngày 30 tháng 8, Tư lệnh mặt trận Hoàng Cầm và tư lệnh sư đoàn 7 Đàm Văn Nguỵ dùng toàn bộ sư đoàn tổ chức phục kích tại địa đoạn Bàu Bàng - Bầu Lồng. Sư đoàn 25 QLVNCH trên đường rút phải vừa đánh vừa lùi. Chiến đoàn 49 rút sau cùng bị thiệt hại 684 quân, mất 170 súng các loại[4]. Kế hoạch giải toả đuờng 13 của tướng Nguyễn Văn Minh và tướng Lê Văn Tư phá sản.

    Từ 15 tháng 9 đến cuối chiến dịch, Bộ Tư lệnh B2 c̣n sử dụng lực lượng của sư đoàn 7, trung đoàn 3 (sư đoàn 9), trung đoàn 209, trung đoàn 271 và các đại đội độc lập mở các cuộc tập kích vào Trảng Bàng, Bến Cát, G̣ Dầu; đánh lui cuộc hành quân tấn công khu căn cứ Dương Minh Châu của sư đoàn 5 (mới phục hồi); phát triển đến Phú Hoà Đông, Củ Chi và Bắc B́nh Dương. An Lộc vẫn bị vây lỏng cho đến ngày kư kết Hiệp định Paris.

    Chiến trường phối hợp tại Khu 8

    Ngày 2 tháng 6 năm 1972, sau khi đưa sư đoàn 5 và các trung đoàn bộ binh 24, 371 và 207 xuống Kiến Tường, Kiến Phong; tướng Hoàng Văn Thái thành lập bộ chỉ huy chiến dịch khu 8 do đích thân ông làm tư lệnh kiêm chính uỷ, hai trợ thủ của ông là Đồng Văn Cống, Phó tư lệnh và Lê Văn Tưởng, phó chính uỷ. Mục tiêu của chiến dịch là mở thêm vùng giải phóng mới ở khu 8, phát triển thế da báo theo kế hoạch hậu chiến (do có Hiệp định Paris).

    Lực lượng QLVNCH ở 5 tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, G̣ Công, Bến Tre có 7 trung đoàn bộ binh và một số đơn vị thiết giáp, pháo tăng cường. Tuy nhiên, đây là địa bàn của Quân đoàn IV QLVNCH. Các lực lượng của sư đoàn 7, sư đoàn 9 đóng tại Mỹ Tho và Cần Thơ có thể phản ứng bất cứ lúc nào. Sư đoàn 4 không quân và Giang đoàn Cửu Long (QLVNCH) cũng có các căn cứ chính tại Cần Thơ và Mỹ Tho.

    Đêm 9 rạng ngày 10 tháng 6, các trung đoàn 1 và 2 tấn công tiểu khu quân sự Long Khốt và pháo kích chi khu quân sự Măng Đa của QLVNCH bên bờ Đông sông Vàm Cỏ Tây thuộc địa bàn tỉnh Kiến Phong. Thám báo của tiểu khu Long Khốt phát hiện được QĐNDVN tiếp cận và gọi pháo binh từ Măng Đa tập kích và không đoàn 4 chi viện, gây thiệt hại nặng cho đại đội 1, tiểu đoàn 6, trung đoàn 2 của sư đoàn 5. Tư lệnh sư đoàn Bùi Thanh Vân phải ra lệnh rút trung đoàn 2 ra củng cố lại. Sáng 11 tháng 6, sư đoàn 5 tiếp tục tấn công Long Khốt lần 2. Chỉ huy chi khu Măng Đa QLVNCH điều 4 đại đội thám báo và 1 chi đoàn thiết giáp tập kích vào sau lưng Trung đoàn 2, sư đoàn 5. Ngày 14 tháng 6, QĐNDVN phải lui quân, không chiếm được Long Khốt.[2]

    Đầu tháng 7, các trung đoàn 1, 3 của sư đoàn 5 vẫn c̣n phải mở hành lang dọc theo kênh Nguyễn Văn Tiếp và 62 để tiếp cận Kiến Tường, Mỹ Tho. Tư lệnh Bùi Thanh Vân ra lệnh để lại tất cả các trang bị nặng tại hậu cứ sư đoàn ở Chi Phú, chuyển thành khinh binh cho phù hợp với vận động chiến. Ngày 22 tháng 7, Tư lệnh quân đoàn 4, tướng Ngyễn Khoa Nam điều động sư đoàn 7 phối hợp với 1 sư đoàn quân Lon Nol định hợp vây chủ lực sư đoàn 5 QĐNDVN ở Kongpong Tabek trên đất Cam Pu Chia nhưng do triển khai chậm nên không thành. Ngày 1 tháng 8, các trung đoàn 1, 3 của sư đoàn 5 bất ngờ đánh chiếm các đồn Thầy Yến, Phật Đá, kênh Nguyễn Văn Tiếp và khu trù mật Thiên Hộ. Trung đoàn 2 của sư đoàn này tiêu diệt lữ đoàn 66 của quân Lon Nol ở phum Krang Swai, phá vỡ kế hoạch hợp vây của QLVNCH và quân Lon Nol. Đến cuối tháng 8, 2 trung đoàn 1 và 3 của sư đoàn 5 đă đứng chân được ở Cái Bè, đánh chiếm 16 đồn bốt dọc kênh La Răng và đuờng 22, phát triển theo trục quốc lộ 4.

    Thấy nguy cơ Mỹ Tho bị đe doạ, quốc lộ 4 nối với Sài G̣n có thể bị cắt đứt, tướng Nguyễn Khoa Nam điều động 2 tiểu đoàn bảo an 502 và 503, tiểu đoàn biệt động quân 41 và trung đoàn 12 thiết giáp tấn công giải toả khu vực Thạnh Trị - Ba Thu - Tà Lu; đưa trung đoàn 10 (sư đoàn 7 QLVNCH) phối hợp với 2 thiết đoàn tập kích khu vực Cái Bè. Trung đoàn 1 (Công trường 5) bị thiệt hại nặng. Sư đoàn trưởng Bùi Thanh Vân tử trận.[2]

    Tháng 10 năm 1972, trung đoàn 1 (sư đoàn 5) sau khi phục hồi đă mở cộc tấn công chiếm lĩnh khu vực phía Nam quốc lộ 4, các trung đoàn 2 và 3 chiếm lại được khu vực kênh Nguyễn Văn Tiếp, Cái Bè, Thạnh Trị, Ba Thu, kênh La Răng, kênh Bằng Lăng, kênh 28... Hai bên giữ thế cài răng lược đến ngày kư Hiệp định Paris.

  8. #28
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Trận Thành cổ Quảng Trị - CHIẾN LƯỢC CS BẮC VIỆT
    Wikipedia

    Thời gian 28 tháng 6 - 16 tháng 9 năm 1972
    Địa điểm Thành cổ Quảng Trị
    Kết quả VNCH và Hoa Kỳ thắng về chiến thuật, QĐNDVN rút về bờ bắc sông Thạch Hăn

    Tham chiến
    Quân đội Nhân dân Việt Nam
    Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam
    Quân lực Việt Nam Cộng Hoà
    Quân đội Hoa Kỳ

    Chỉ huy QDNDVN
    Văn Tiến Dũng
    Trần Quư Hai

    Chỉ huy QLVNCH
    Ngô Quang Trưởng

    Tổn thất QDNDVN
    4.000[1] - 10.000 chết[2][1], bị thương chưa có số liệu.
    3 xe tăng bị phá hủy

    QLVNCH
    Tính riêng thủy quân lục chiến: 3.658 chết [2] trên tổng số hơn 5.000 chết và bị thương[3][3]

    Tổng số: 7.756 chết, hàng ngh́n bị thương[4][cần số trang]
    9 máy bay, 25 xe tăng - xe bọc thép, 4 ôtô bị phá hủy[5]
    .
    Chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam
    Thành cổ Quảng Trị ngày nay

    Trận Thành cổ Quảng Trị là một trận chiến giữa một bên là Quân đội Nhân dân Việt Nam với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và một bên là Quân lực Việt Nam Cộng ḥa với Quân đội Hoa Kỳ tại thành cổ Quảng Trị vào năm 1972. Đây là một trong những trận chiến ác liệt bậc nhất trong Chiến dịch Xuân Hè 1972, một phần của Chiến tranh Việt Nam.

    Trận chiến kéo dài trong suốt 81 ngày đêm, sau khi liên tiếp tung vào các đơn vị bộ binh cũng như sử dụng hỏa lực không giới hạn, Việt Nam Cộng ḥa cùng Hoa Kỳ đă thành công trong việc tái chiếm lại Thành cổ. Tuy vậy về mặt chiến lược, sự kháng cự mạnh mẽ của Quân đội Nhân dân Việt Nam đă khiến kế hoạch tái chiếm thành cổ của đối phương bị kéo dài tới 3 tháng so với kế hoạch ban đầu là 2 tuần, qua đó giúp Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam duy tŕ được thế mạnh trên bàn đàm phán ở Paris.

    Bối cảnh



    Năm 1972, Quân đội Nhân dân Việt Nam tổ chức tổng tấn công trên 3 chiến trường chính: Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên, và Đông Nam Bộ (B́nh Long, B́nh Phước), trong đó hướng chủ yếu là Quảng Trị. Sau khi mở Chiến dịch Trị Thiên từ tháng 3 năm 1972, sau 2 đợt tấn công, đến tháng 5 th́ Quân đội Nhân dân Việt Nam đă chiếm được toàn bộ Quảng Trị. Giữa tháng 6, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa dồn lực lượng phản công với sự tham gia chiến lược của không quân, hải quân Hoa Kỳ và bắt đầu lấy lại ưu thế trên chiến trường (chiến dịch Lam Sơn 72). Đây cũng là thời điểm mà Quân đội Nhân dân Việt Nam đang bổ sung lực lượng chuẩn bị cho đợt tấn công thứ 3 vào Thừa Thiên. Chiến sự trong "mùa hè đỏ lửa" diễn ra cực ḱ ác liệt, ác liệt nhất kể từ khi có cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa bắt đầu mở các cuộc phản công và đến đầu tháng 7 đă tiến đến thị xă Quảng Trị. Cuộc chiến 81 ngày ở thị xă và thành cổ Quảng Trị bắt đầu.

    Tương quan lực lượng

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa: Các Lữ đoàn dù 1, 2, 3; Liên đoàn 81/Biệt cách nhảy dù; Thiết đoàn 7, 18 kị binh; 3 lữ đoàn thuỷ quân lục chiến và các tiểu đoàn pháo, công binh…

    Quân đội Hoa Kỳ: B-52 ném bom chiến lược của không quân Hoa Kỳ, pháo hạm yểm trợ từ Hạm đội 7. Thống kê cho biết trong 81 ngày đêm, Hoa Kỳ đă sử dụng:

    4.958 lần/chiếc B-52 (trung b́nh 60 lần/ngày đêm). 9.048 lần/chiếc máy bay phản lực các loại (trung b́nh hơn 100 lần/ngày đêm), ném tổng cộng hơn 120 ngh́n tấn bom đạn (bằng 7 lần quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Hiroshima)[6].
    Hơn 950 ngh́n viên đạn pháo 105mm, 55 ngh́n viên đạn pháo 155 mm, 8.164 viên đạn pháo 175mm, hơn 615 ngh́n viên đạn hải pháo các cỡ.

    Riêng ở khu vực thị xă Quảng Trị, tổng số bom đạn mà Mỹ sử dụng trong 81 ngày đêm bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật bản. Có ngày số bom Mỹ ném ở Quảng Trị vượt xa số bom Mỹ ném trên toàn miền Nam trong các năm 1968-1969. Dữ dội nhất là ngày 25/7, thị xă phải chịu 5.000 quả đạn pháo chưa kể bom từ máy bay. Thị xă Quảng Trị với 3 km2 và vùng ven có ngày phải chịu hơn hai vạn quả đạn đại bác cỡ lớn. Ước tính có tới hơn 80% thương vong của Quân đội Nhân dân Việt Nam là bởi các đợt oanh tạc và pháo kích, chỉ có 1 phần nhỏ là trong các cuộc đọ súng bộ binh.

    Quân đội Nhân dân Việt Nam: Lực lượng pḥng thủ trong thành cổ Quảng Trị bao gồm Trung đoàn 48 (sư đoàn 320B), Trung đoàn 95 (sư đoàn 325), 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương của tỉnh Quảng Trị, Tiểu đoàn 8 (trung đoàn 64, sư đoàn 320). Chi viện trực tiếp cho lực lượng này là các đơn vị c̣n lại của Sư đoàn 325 và Sư đoàn 312.[7]

    Diễn biến
    Pḥng ngự của Quân đội Nhân dân Việt Nam
    Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin.
    Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ.
    Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết.

    Ngày 28 tháng 6 năm 1972, tướng Ngô Quang Trưởng phát lệnh khởi binh chiến dịch Lam Sơn 72 trên hai hướng. Chiều 28 tháng 6, sau khi vượt sông Mỹ Chánh, QLVNCH đă cô lập được một bộ phận của các sư đoàn 304 và 308 QĐNDVN ở nam Sông Mỹ Chánh. Hướng Đông, ngày 29 tháng 6, các lữ TQLC 147 và 258 tấn công các khu vực Diên Khanh, Xuân Viện, Kim Giao (thuộc huyện Hải Lăng), phối hợp với Lữ TQLC 369 từ Mỹ Thủy và Cổ Lũy đánh ra. Từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 7, sau khi nhổ từng chốt chặn của QĐNDVN trên khoảng cách từng trăm mét một và thương vong hơn 300 quân, Lữ dù 1 và Liên đoàn 1 Biệt động quân đă có mặt ở ngoại vi thị xă Quảng Trị nhưng không lọt vào được.

    Ngày 7 tháng 7, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 48) QĐNDVN sử dụng Đại đội 9, tăng cường 1 trung đội của Đại đội 10, với một trung đội địa phương và 3 xe tăng, được Trung đoàn pháo 45 chi viện trực tiếp, thực hành phản kích đối phương ở phía Đông La Vang Hữu. Quân VNCH thấy xe tăng bất ngờ xuất hiện, nên đội h́nh rối loạn. QLVNCH bị thương vong hàng trăm binh lính, bị bắn cháy hai xe tăng và bị đánh bật ra khỏi khu vực La Vang Hữu. QĐNDVN bị hỏng hai xe tăng, một chiếc do bắn nhầm và một chiếc bị phá do bom.

    Ngày 13 tháng 7, máy bay trực thăng chở đại tá Nguyễn Trọng Bảo, tham mưu phó sư dù và 8 sĩ quan tham mưu bị súng 12,7 mm của QĐNDVN bắn rơi ngay tại thị xă Quảng Trị. Mũi đột kích sâu của sư dù và thiết đoàn 20 bị đẩy lùi. Ư định của QLVNCH chiếm thị xă trước ngày 13 tháng 7 để mặc cả tại Hội nghị Paris đă không thực hiện được. Thương vong mỗi bên đến hàng ngh́n người. Sau mười ngày liên tục tiến công Thị xă, sư đoàn dù chịu tổn thất khá lớn. QLVNCH bị thương vong 1.071 binh lính, tiểu đoàn dù 1 và 5 bị tổn thất nặng, bị cháy 3 xe tăng, rơi 2 máy bay (1 phản lực, 1 trực thăng) và bị phá hủy nhiều vũ khí phương tiện kỹ thuật khác.[8]

    Ngày 14 tháng 7, Sư dù và Sư TQLC-QLVNCH tổ chức tấn công đợt 2 nhằm chiếm thị xă trước ngày 18 tháng 7 và cùng lắm phải trước ngày 27 tháng 7. Lữ dù 1 đánh Quy Thiện, Tŕ Bưu, Lữ dù 2 đánh Tích Tường, Như Lệ. Các lữ TQLC 147 và 369 tiến sát sông Vĩnh Định, chiếm An Tiêm, Nại Cửu và Bích La Đông. Trong trận này, Lữ 369 TQLC tổn thất 2 đại đội và 11 trực thăng ở Nại Cửu. Đến ngày 16 tháng 7, Lữ dù 1 đă chiếm được các làng Tŕ Bưu, Cổ Thành; Trung đoàn 18 (Sư 325) bị tổn thất nặng phải rút ra Ái Tử - Đông Hà, Bộ tư lệnh B5 điều Trung đoàn 95 (Sư 325) vào thay. QLVNCH đă h́nh thành thế bao vây ba mặt quanh thị xă Quảng Trị nhưng chưa vào được nội đô.

    Từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 7, tướng Lê Quang Lưỡng tung lực lượng dự bị cuối cùng (Liên đoàn biệt kích dù 81) vào chiến đấu, chiếm được các làng Tŕ Bưu, Cổ Thành. Tiểu đoàn biệt kích dù 27 tiến sát góc Đông Nam Thành cổ nhiều lần lao lên định cắm cờ lên tường thành nhưng đều bị Trung đoàn 48 đẩy lùi. Hai bên tổn thất lớn về sinh mạng.

    Ngày 28 tháng 7, thời hạn đánh chiếm thị xă Quảng Trị và thành cổ đă hết, tướng Ngô Quang Trưởng quyết định dừng cuộc tấn công của Sư dù, chuyển giao nhiệm vụ đánh chiếm thị xă Quảng Trị cho Sư đoàn thủy quân lục chiến. Trong tháng 7, mỗi ngày Không lực Hoa Kỳ huy động từ 40 đến 60 phi vụ B-52, 130 đến 150 phi vụ máy bay cường kích yểm hộ mặt đất cho QLVNCH.

    Ngày 5 tháng 8, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 48 QĐNDVN cùng đơn vị bạn đă tập kích diệt 1 đại đội quân đối phương ở Hạnh Hoa, đánh thiệt hại 3 đại đội khác, bắn cháy 5 xe tăng. Đơn vị được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.

    Từ hạ tuần tháng 7 đến 15 tháng 9, Trung đoàn 88 sư đoàn 308 bảo vệ khu vực Tây nam Thành cổ, giữ vững trận địa từ khu vực trường Bồ Đề, khu Đệ Ngũ, ngă ba Băi Đá, khu Cầu Sắt, khu Long Hưng đến La Vang và đồn Gia Long. Trung đoàn đă đánh hơn 100 trận lớn nhỏ, trong đó có 50 trận cấp đại đội đến trung đoàn, tiêu diệt 1.670 binh lính đối phương, bắn cháy 16 xe tăng, thu nhiều vũ khí đạn dược.

    Trung tuần tháng 8 năm 1972, Bộ Tư lệnh B5 QĐNDVN quyết định giao nhiệm vụ cho sư đoàn 325 chỉ huy lực lượng pḥng thủ Thành cổ Quảng Trị. Tiêu biểu như trận đêm 24 tháng 8, một phân đội đặc công Sư đoàn 325 đă luồn sâu đánh sở chỉ huy tiểu đoàn thủy quân lục chiến ở An Lưu, diệt 80 lính đối phương, bắn cháy 2 xe tăng, 2 nhà bạt, phá 1 trận địa súng cối.

    Lúc này, Sở chỉ huy cơ bản của sư đoàn đóng ở khu vực Cao Hy - Tây Đông Hà độ 15 km trên một băi bom B-52 đă đánh nát. Sư đoàn chọn địa điểm này là để tạo bất ngờ đối với VNCH, cho là bộ đội không thể đóng một cơ quan chỉ huy cỡ sư đoàn tại một vùng Hoa Kỳ đă ném bom tơi bời. Sở chỉ huy Thành cổ (QĐNDVN) ở ngay sát mép sông, dưới một căn hầm rượu của dinh tỉnh trưởng Quảng Trị đă bị bom đạn làm đổ nát, gạch đá gỗ sắt đổ ngổn ngang bao phủ cả khu hầm dày tới 4-5 mét, bom ném bên cạnh cũng chẳng hề ǵ.[cần dẫn nguồn]

    QĐNDVN đă cải tạo khu hầm, chia thành ba ngăn có giao thông hào chạy ra bên ngoài. Một ngăn làm khu phẫu thuật, ngăn cho thông tin trinh sát và một ngăn chỉ huy và trực ban tác chiến. Cửa hầm được thiết bị chiến đấu chu đáo, có trung liên và B-41 bảo vệ. Không lực VNCH và Hoa Kỳ hàng ngày soi t́m, nhưng do họ ngụy trang kín đáo, kỷ luật, khói lửa và đi lại ban ngày được duy tŕ nghiêm mật, nên vẫn chưa phát hiện được mục tiêu sở chỉ huy, tuy có nghi ngờ, thường xuyên t́m kiếm.[9][cần số trang]

    Trận chiến trong thị xă


    Nụ cười bên thành cổ Quảng Trị" (bộ đội), tác giả Đoàn Công Tính

    Từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 8 năm 1972, các chốt trong thị xă đều được Quân đội Nhân dân Việt Nam giữ vững. Đêm đêm, họ tập kích ở Tri Bưu, ở Thạch Hăn, chùa Bà năm, diệt một số đối phương khiến quân Việt Nam cộng ḥa không tiến được.[cần dẫn nguồn]

    Quân số của họ bổ sung vào Thành đều đặn theo kế hoạch. Mỗi đêm vào trung b́nh được 40-50 người (đă trừ số người bỏ ngũ, lạc ngũ hoặc bị thương từ bên kia bờ sông, chiếm khoảng 30-40 phần trăm). Hàng ngày thuyền gắn máy hậu cần từ Tả Kiên vào thành đều tiếp tế lương thực, đạn dược, thuốc men, kể cả quà Quốc khánh từ hậu phương tới.

    Đợt từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 9 năm 1972, trời mưa to, nước sông Thạch Hăn lên nhanh, chảy xiết, ảnh hưởng đến tăng cường cung cấp và quân số. Có đêm trôi dạt hàng chục chiến sĩ vượt sông. Công sự chốt bị sụt lở nhiều. Bộ đội tiếp tục giữ các chốt trên các hướng. Tiểu đoàn 4 trung đoàn 95 tập kích khu tam giác Thạch Hăn, chiếm một số công sự của VNCH, cải thiện thế pḥng thủ ở đó. Tiểu đoàn đặc công mặt trận phối hợp với đại đội đặc công sư đoàn 325 chuẩn bị đánh khu quận lỵ Mai Lĩnh nhưng thất bại.

    Ngày 4 tháng 9 năm 1972, trung đoàn bộ binh 88 thuộc sư đoàn 308 Quân đội Nhân dân Việt Nam rút khỏi khu Thạch Hăn tây và khu giáp sông ở thôn Đệ Ngũ-trường Bồ Đề làm sườn phía nam bị hở. Một số thành viên trung đoàn 88 trong đó có trung đoàn phó Phan bị thương tạt vào sở chỉ huy Thành cổ. Quân đội Nhân dân Việt Nam quyết định tổ chức đưa số này vượt sông lũ ra hậu phương. Để đối phó với t́nh h́nh quan trọng này, họ sử dụng một bộ phận tiểu đoàn 7, trung đoàn 18 và tiểu đoàn 4, trung đoàn 95 ra chiến đấu thay thế trung đoàn 88 ở khu vực đó để giữ sườn phía nam thị xă.[cần dẫn nguồn]

    Ngày 7 tháng 9 năm 1972, Quân lực Việt Nam Cộng ḥa tiến công đợt 6, mở đầu bằng đ̣n tập kích hỏa lực “Phong lôi 2”. Không quân, hải quân Hoa Kỳ, pháo binh Việt Nam Cộng ḥa bắn suốt 48 giờ liền vào tất cả các trận địa của Quân đội Nhân dân Việt Nam, tập trung đánh vào khu Thành cổ, các bến vượt sông, đường cơ động lực lượng và vận chuyển. Oanh tạc cơ B-52 rải thảm tả ngạn sông Thạch Hăn, tập trung vào khu Nhan Biều-Ai Tử và các trận địa pháo của đối phương. Tính toàn bộ trong 81 ngày đêm của trận Thành cổ, các lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng ḥa đă dội xuống địa điểm thị xă (rộng chưa đầy 3 km²) và vùng lân cận tổng cộng 120.000 tấn bom đạn, trong đó mỗi ngày có từ 70 đến 90 lượt máy bay ném bom B52 tham chiến[10]. "Đây là kế hoạch chi viện hỏa lực cao nhất của Mỹ trong một trận đánh. Tính từ ngày 9 tháng 9 đến ngày 16 tháng 9, Mỹ sử dụng pháo hạm bắn 123.725 viên đại bác vào thị xă (trong đó có 52.573 viên vào Thành cổ); sử dụng 2.244 lần chiếc máy bay ném bom, trong đó có ngày huy động tới 100 lần chiếc máy bay ném bom chiến lược B-52."[11].

  9. #29
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Trận Thành cổ Quảng Trị - CHIẾN LƯỢC CS BẮC VIỆT
    Wikipedia
    P2



    Đêm 7 tháng 9, tiểu đoàn 2 trung đoàn 48 Quân đội Nhân dân Việt Nam tập kích khu Hành Hoa, chiếm một số công sự, cải thiện thế pḥng thủ ở Tri Bưu. Tiểu đoàn 5 trung đoàn 95 tập kích khu nhà thờ Tin Lành, thương vong một số (tiểu đoàn trưởng đơn vị này cũng chết) nhưng đă chiếm được.[9][cần số trang]

    Sáng ngày 9 tháng 9 năm 1972, lữ đoàn 147 và 259 Thủy quân Lục chiến (TQLC) của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa đă khởi động cuộc tấn công lớn. Quân VNCH sử dụng Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến gồm hai lữ đoàn chia làm năm mũi, tiến công từ ba hướng vào thị xă. Họ tập trung xe tăng, xe thiết giáp, súng phun lửa để tái chiếm thành cổ. Đồng thời với việc Quân lực Việt Nam Cộng ḥa tiến công khu La Vang-Tích Tường-Như Lệ để chặn sư đoàn 308 phản kích từ hướng này, liên đoàn biệt động 1 VNCH cũng tiến công Bích Khê-Nại Cửu để chặn sư đoàn 320 QĐNDVN hoạt động từ bắc sông Vĩnh Định.

    Nhiều trận phản kích ác liệt của bộ đội ở ngay sát chân Thành cổ đă đánh bật nhiều mũi tiến công, như ngày 9 tháng 9, một trung đội lọt vào thành cổ, bị tiểu đoàn địa phương 3 phản kích. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa buộc phải tháo chạy, để lại 11 xác chết. Cũng ngày hôm đó tại khu Hạnh Hoa, QĐNDVN diệt một đại đội, đánh thiệt hại nặng một đại đội khác thuộc lữ đoàn thủy quân lục chiến 147, bắn cháy 5 xe bọc thép. QĐNDVN mất 13 người, bị thương một số. Sau trận này, Tiểu đoàn bộ binh 2 Trung đoàn 48 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.[12]

    Tiểu đoàn 4 trung đoàn 95 QĐNDVN chặn đánh 3 tiểu đoàn đối phương ở khu Tin Lành, quyết liệt giành đi giật lại từng công sự. Quân lực Việt Nam Cộng ḥa thiệt hại một đại đội, nhưng chiếm được khu Mỹ Tây. QĐNDVN bị thương vong 30, hỏng một cối 82 ly, một súng 12 ly 7, một đại liên, một B-40, một B-41. Đến đêm 9 tháng 9, tiểu đoàn 4 cùng tiểu đoàn 5 trung đoàn 95 QĐNDVN tập kích chiếm lại khu Mỹ Tây, đẩy Quân lực Việt Nam Cộng ḥa chạy về nam sông con. Đêm 9 tháng 9, đưa tiểu đoàn địa phương 8 vào Thành sau khi ra ngoài củng cố.[9]

    Ngày 10, 11, 12 tháng 9 năm 1972, QLVNCH tiếp tục lấn dũi mạnh từ hướng nam-đông-nam. Nhiều toán nhảy vào thành nhưng đều bị tiêu diệt. Quanh Thành cổ, dưới hào nước, xác chết trương phềnh, mùi hôi thối xông lên nồng nặc.

    Ngày 10 tháng 9, QLVNCH lấn dũi có xe tăng chi viện khu Mỹ Tây, Trường Nữ, Trại giam. Tiểu đoàn 4 trung đoàn 95 QĐNDVN đánh trả ác liệt, giữ vững chốt bắn hỏng một xe tăng, hai đại liên, thu một M79 và nhiều lựu đạn, nhưng cũng bị chết 6, bị thương 49. Đêm 10 tháng 9, QĐNDVN cho tiểu đoàn 4 ra ngoài củng cố, dùng tiểu đoàn 5 trung đoàn 95 thay thế, chiến đấu ở tây-nam Thành cổ.

    Tính chung trong ngày 10-9, cả ở hướng Nam-Đông Nam, Bắc-Đông Bắc, trên toàn khu vực Thị xă, QĐNDVN diệt hơn 200 binh lính đối phương, bắn cháy 1 xe tăng, nhưng cũng bị thương vong 126 người và để mất khu trại giam và Mỹ Tây. Trong 2 ngày 11 và 12, QĐNDVN diệt hơn 518 binh lính đối phương, nhưng cũng bị thương vong 216 người. Đêm 12, QĐNDVN tăng cường vào Thành Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 (201 người) và 70 tân binh cho Tiểu đoàn địa phương 3.

    Ngày 13-9-1972, trời mưa to, lũ lớn, hạn chế nhiều đến việc tăng cường lực lượng (quân số, vật chất kỹ thuật cho Thị xă). QLVNCH sau 4 ngày liên tục tiến công lấn dũi, vẫn chưa chiếm được Thành, nhưng 6 tiểu đoàn thuộc 2 lữ đoàn Thủy quân lục chiến đă áp sát ba góc Thành cổ: Nam, Đông Nam, Đông Bắc[3]. Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 95 và Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 18 chiến đấu quyết liệt, giằng co với đối phương từng khu vực, góc tường, mảnh vườn. Kết quả trong ngày, QĐNDVN diệt 123 lính, bắn cháy 1 xe tăng, bị thương vong 34 chiến sỹ.

    23 giờ ngày 13 tháng 9, Bộ Tư lệnh B5 (QĐNDVN) lệnh cho trung đoàn phó trung đoàn 48, và tiếp sau đó vài giờ, vào 1 giờ sáng 14 tháng 9 lệnh cho Đại tá Nguyễn Việt chỉ huy trưởng Thành ra ngay Nhan Biều để cùng sư phó sư đoàn 325 tổ chức lực lượng trung đoàn bộ binh 18 vào phản kích trong thành.

    Ngày 14 tháng 9 năm 1972, từ hướng đông-nam, QLVNCH tiến sát khu chùa Bà Năm, khu trại giam, chợ. Từ hướng nam, họ vào khu Mỹ Tây, Trường Nữ. QĐNDVN chống trả quyết liệt, vẫn giữ vững các chốt, nhưng bị thương vong nhiều. Mặt trận B5 điều một đại đội xe tăng đến Nhan Biều để làm công sự cố định bắn chi viện sang Thành nhưng sau đó do khó khăn địa h́nh nên chưa bố trí được ngay.

    4 ngày dùng bộ binh liên tục từ ba hướng tấn công vào, nhưng QLVNCH vẫn không chiếm được thành, họ quay ra củng cố công sự và bao vây thành từ ba phía, đồng thời điều cả xe tăng phun lửa liên tục tấn công vào các chốt của QĐNDVN. Chốt chiến đấu của QĐNDVN có điểm chỉ cách địch 50 m. Ngày 14-9-1972, sau khi dùng xe tăng phun lửa dữ dội vào các chốt pḥng thủ, quân VNCH tấn công vào thành. Tiểu đoàn pḥng thủ lúc này chỉ c̣n gần 20 tay súng, quyết tâm thực hiện lời thề danh dự: “K3-Tam Đảo c̣n, Thành cổ Quảng Trị c̣n”, với B-40, B-41, lựu đạn, nổ súng đánh trả quyết liệt vào đội h́nh của TQLC, buộc quân VNCH phải rút chạy. 2 giờ chiều, một toán khác vào thành từ góc đông nam liền bị các tay súng của đại đội 9 QĐNDVN đánh bật ra. Đến 18 giờ, lợi dụng lúc trời chạng vạng tối, từ ba góc, TQLC lại tiếp tục mở đợt tấn công dữ dội vào thành. Được sự chi viện của K8 và các tay súng của trung đoàn 48 Sư đoàn 320, tiểu đoàn đă ngoan cường chiến đấu, đánh bật quân VNCH ra khỏi thành.[cần dẫn nguồn]

    Sau khi đánh bật đối phương tại khu vực bệnh viện Quân Dân Y Quảng Trị và trường Bồ Đề, Tiểu đoàn 1 Quái Điểu QLVNCH khai triển lực lượng tiến về phía vào khu trung tâm thị xă Quảng Trị. Để tiến vào khu vực này, tiểu đoàn Trâu Điên QLVNCH phải triệt hạ cụm kháng cự của đối phương ở Ty Cảnh Sát Quốc Gia, như thế Tiểu đoàn 1 Quái Điểu đă phải vượt qua con suối với cây cầu bắc ngang đường Trần Hưng Đạo. Binh sĩ VNCH dùng ḿn Claymore cột vào những cây tre dài vượt qua suối lúc nửa đêm và bấm nút đă làm bật tung những ổ thượng liên và DKZ của QĐNDVN đặt trong những lô cốt pḥng thủ. Tiếp theo đó là những đợt xung phong ồ ạt của TQLC, từng trung đội tràn lên ném lựu đạn vào các cụm công sự chiến đấu của QĐNDVN và chỉ trong thời gian ngắn đă chọc thủng pḥng tuyến của đối phương tại đây. Chiếm được khu vực Ty Cảnh Sát Quốc gia, tiểu đoàn Quái Điểu tiến chiếm các vị trí ở quanh Nhà máy điện, trường Nữ Tiểu học, doanh trại Cảnh sát Dă chiến.


    Binh sĩ VNCH bên cạnh xác 1 xe tăng T-54 trong thị xă Quảng Trị

    Rạng sáng ngày 13 tháng 9/1972, đại đội 5 tiểu đoàn 2 QLVNCH từ ngă tư Quang Trung-Trần Hưng Đạo mở cuộc tấn công vào khu vực chợ Quảng Trị. Trận chiến đă diễn ra quanh khu vực chợ, dọc theo đường Trần Hưng Đạo ra đến bờ sông. Hai bên đă quần thảo nhau quanh các đống bê tông đổ nát mà QĐNDVN đă biến thành các điểm kháng cự. Cuối cùng tiểu đoàn TQLC này đă chiếm được mục tiêu, sau đó khai triển đội h́nh tiến chiếm khu hành chánh gồm Ty Bưu Điện, Ty Thanh Niên, Ty Ngân khố và tiến sát đến dinh tỉnh trưởng - nơi 1 đại đội của QĐNDVN đang bố trí quân quanh khuôn viên để cố thủ.

    Một mũi nhọn khác của tiểu đoàn 2 QLVNCH với đại đội 4 làm nỗ lực chính thanh toán các chốt địch dọc hai bên đường Phan Đ́nh Phùng, sau đó tiến đánh và triệt hạ các chốt bố trí tại cơ quan USOM và Ṭa án tỉnh Quảng Trị. Thanh toán được các mục tiêu trọng yếu, đại đội 4 và đại đội 5 của tiểu đoàn 2 QLVNCH đă tấn công vào khu vực ṭa Hành chánh tỉnh và Ty Tiểu học vụ Quảng Trị nơi 1 trung đoàn QĐNDVN đặt bộ chỉ huy. Do các chốt bảo vệ xung quanh đă bị TQLC triệt hạ, nên bộ chỉ huy QĐNDVN tại đây đă phải dời ra hướng sông.

    4 giờ sáng ngày 15 tháng 9, Lữ đoàn thủy quân lục chiến 258 và 147 tập trung lực lượng tổng công kích từ ba hướng, được chi viện tối đa hỏa lực của không quân, pháo binh, xe tăng, súng phun lửa các loại. Ở hướng Đông của thành cổ, 4 đại đội của tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 6 TQLC đă dàn hàng ngang đồng loạt xung phong tiến về hướng Tây, tập kích sở chỉ huy tiểu đoàn 1 trung đoàn 48 QĐNDVN và chiếm một góc khu đông-bắc Thành cổ. Các chốt của QĐNDVN c̣n lại tiếp tục chiến đấu trong ngày, mặc dù sức chiến đấu đă giảm, quân số bị thương vong nhiều. Lực lượng tiểu đoàn địa phương 8 tỉnh, tiểu đoàn 3 trung đoàn 48 mới vào cũng đă bị tổn thất nặng. Lực lượng trung đoàn bộ binh 18 vẫn chưa đến được nơi quy định để vượt sông vào Thành cổ.

    Trong đêm 15 tháng 9 năm 1972, QĐNDVN đă pháo kích dữ dội vào đội h́nh của hai tiểu đoàn 3 và 6 TQLC để yểm trợ cho lực lượng đang cố thủ ở đây. Gần rạng sáng, 4 đại đội TQLC nói trên đồng loạt xung phong, những tổ kháng cự của QĐNDVN đă chống trả mạnh nhưng chỉ được nửa giờ sau đó đă bị đánh bật khỏi pḥng tuyến.

    Cũng trong đêm 15 tháng 9 các chỉ huy của QĐNDVN trong thành nắm lại t́nh h́nh, thấy QLVNCH đă chiếm một số góc thành cổ, quân số chiến đấu của họ c̣n lại chẳng bao nhiêu nên thống nhất ra lệnh rút khỏi thị xă và thành cổ từ 22 giờ ngày 15 tháng 9.

    Thứ tự rút, thương binh đi trước, tiếp đến các lực lượng tiểu đoàn ở xe, rồi đến các đơn vị trực thuộc, cuối cùng là sở chỉ huy Thành. Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 48, Tiểu đoàn địa phương 8, đội vệ binh - trinh sát bảo vệ đội h́nh rút. Ban chỉ huy Trung đoàn hỗn hợp cùng đội vệ binh rút cuối cùng vào nửa đêm 15 rạng ngày 16. Trung đoàn 18 Sư đoàn 325 được lệnh dừng lại, không vượt sông sang phản kích nữa, mà nhanh chóng triển khai lực lượng pḥng thủ tả ngạn sông Thạch Hăn, khu vực Nhan Biều - Ái Tử.

    Sau 4 tháng 16 ngày (81 ngày đêm) chiếm giữ Cổ Thành và thị xă Quảng Trị, QĐNDVN đă bị đánh bật và tổn thất rất lớn. Riêng trung đoàn Triệu Hải (trung đoàn 27 QĐNDVN) với hơn 1.500 quân cố thủ trong Cổ Thành đă bị thương vong gần như toàn bộ tại trận địa, chỉ c̣n chưa đến 1 tiểu đội khi rút ra ngoài. Chi tiết về trung đoàn này cũng đă được phóng viên báo Tuổi Trẻ ghi lại theo lời kể của 1 cựu chiến binh (một trong gần 10 người sống sót của trung đoàn này) qua bài kư đăng trong số báo ra ngày 26 tháng 7/1998, có đoạn như sau:
    “ Tết năm 1968, ngay sau khi trung đoàn được thành lập ở miền Bắc, một tháng sau trung đoàn này có mặt tại Quảng Trị. Từ đấy cho đến năm 1972, Quảng Trị đă trở thành chiến trường của trung đoàn 27, và ở đây, họ mang một cái tên mới: trung đoàn Triệu Hải (tên của hai huyện đồng bằng Quảng Trị ghép lại)... Phải đến bây giờ, chúng ta mới được nghe cả một trung đoàn vào giữ Thành Cổ, lúc rút ra c̣n chưa đến một tiểu đội.[3] ”

    Ngoài trung đoàn Triệu Hải bị xóa sổ, trung đoàn 48B thuộc sư đoàn 320B QĐNDVN - đơn vị chiếm giữ trung tâm thị xă, cũng đă bị thiệt hại hơn 80% quân số. (QĐNDVN có 2 sư đoàn cùng mang số 320, đó là sư đoàn 320 thuộc B-3 đă tham dự cuộc tổng tấn công vào Kontum trong tháng 5/1972, và sư đoàn 320 B thống thuộc quyền chỉ huy của bộ tư lệnh quân khu tại Trị Thiên). Trong một hồi kư phổ biến vào năm 1997, trung tướng Lê Tự Đồng, nguyên tư lệnh lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam tại mặt trận tỉnh Quảng Trị, ghi nhận là các sư đoàn và trung đoàn tham chiến đă bị tổn thất hơn 50% quân số.[3]

    Về phía QLVNCH, tuy chiếm được thành cổ nhưng cũng phải trả giá đắt. Kế hoạch chiếm thị xă trước ngày 13/7 để mặc cả tại Hội nghị Paris không thực hiện được mà c̣n phải mất gấp 5 lần thời gian định trước. Để chiếm lại thành cổ, chỉ riêng sư đoàn Thủy quân Lục chiến có 3.658 binh sĩ tử trận, chiếm 25% tổng quân số (tổng thương vong là hơn 5.000 chiếm 38% quân số), các đơn vị Dù cũng chịu thiệt hại nặng tương đương. Tổng quân số tử trận của các đơn vị lên tới 7.756 người, hàng ngàn lính khác bị thương.

    Thiệt hại lớn của các đơn vị tinh nhuệ này khiến QLVNCH cũng không đủ sức tấn công tiếp lên phía bắc, các chiến dịch Lam Sơn 72A và các cuộc hành quân "Sóng thần" để tái chiếm bờ bắc Thạch Hăn nhanh chóng bị QĐNDVN đánh bại. Hai bên quay về giữ thế giằng co cho đến khi hiệp định Paris được kư kết vào tháng 1 năm 1973.
    Kết quả

    Sau 12 tuần lễ liên tục tổng công kích với sự hỗ trợ hỏa lực tối đa của Hoa Kỳ, đến giữa đêm ngày 15 rạng ngày 16 tháng 9 năm 1972, lực lượng Thủy quân Lục chiến đă đánh bật QĐNDVN ra khỏi trung tâm thị xă Quảng Trị và kiểm soát toàn bộ khu vực Cổ Thành. Rạng sáng ngày 16 tháng 9 năm 1972, hai tiểu đoàn 3 và 6 Thủy quân Lục chiến từ các vị trí vừa chiếm được trong Cổ Thành, đă bung ra lục soát và triệt hạ các chốt c̣n lại của QĐNDVN. Đến 8 giờ sáng ngày 16 tháng 9 năm 1972, một toán Cọp Biển của tiểu đoàn 6 Thủy quân Lục chiến đă dựng quốc kỳ Việt Nam Cộng ḥa trên cổng tường phía Tây Cổ Thành Quảng Trị, biểu tượng cho thành công của Quân lực VNCH trong cuộc tổng phản công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.

    Vài phút sau đó, chuẩn tướng Bùi Thế Lân - tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến đă báo tin chiến thắng đến trung tướng Ngô Quang Trưởng. Vị tư lệnh Quân đoàn 1 kiêm tư lệnh chiến dịch tái chiếm Quảng Trị đă gọi máy về Sài G̣n để tường tŕnh lên Tổng thống VNCH và đại tướng Tổng tham mưu trưởng, sau đó tướng Ngô Quang Trưởng đă gửi bưu điệp tuyên dương công trạng Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến với nội dung như sau:
    “ Tôi đă nh́n Quốc kỳ tung bay trên nền trời Quảng Trị chỉ ít lâu sau khi những bàn tay kiêu dũng của anh em kéo lên từ trong Cổ Thành. Tôi đă muốn thấy tại chỗ chiến thắng của anh em, để ngay tại chiến trường, tự cảm thấy hănh diện được chỉ huy Sư đoàn Thủy quân Lục chiến trong một chiến dịch quy mô nhất của quân đội...[3] ”

    Ghi lại cuộc chiến đấu của sư đoàn Thủy quân Lục chiến tại mặt trận trung tâm thị xă Quảng Trị và Cổ Thành từ khi thay thế lực lượng Nhảy Dù vào ngày 27/7/1972, trung tá Trần Văn Hiển, nguyên trưởng pḥng 3 bộ Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến đă viết như sau:
    “ Trong suốt 7 tuần lễ chiến đấu đầy máu xương và nước mắt của chiến hữu đồng ngũ, dưới những làn mưa đạn pháo nặng nề của đối phương, tính trung b́nh cứ 4 người lính Thủy quân Lục chiến có 1 người hy sinh. Tính từ tháng 6 năm 1972 đến ngày toàn thắng, về quân số, Thủy quân Lục chiến bị tổn thất trên 5 ngàn, trong đó có 3.658 chiến sĩ hy sinh... H́nh ảnh người lính Thủy quân Lục chiến Việt Nam dựng cờ, tuy vóc dáng gầy ốm bị chiến trận, nhưng chất chứa đầy ḷng can đảm, cương quyết và hy sinh…[3] ”

    Theo ghi nhận của trung tướng Ngô Quang Trưởng, trong 10 ngày cuối của trận chiến tại trung tâm thị xă Quảng Trị và Cổ Thành, có 2.767 lính QĐNDVN đă chết, 43 bị bắt sống. Về phía Thủy quân Lục chiến, trung b́nh mỗi ngày có 150 binh sĩ Cọp Biển chết trận, chưa tính các đơn vị khác. Chiều ngày 16 tháng 9 năm 1972, sau khi đánh bật QĐNDVN ra khỏi trung tâm thị xă và tái chiếm toàn khu vực Cổ Thành, 6 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đă bung rộng để triệt hạ các chốt kháng cự cuối cùng trong Cổ Thành và nới rộng vùng kiểm soát.[3]

    Theo cuốn Một thời hoa lửa của NXB Trẻ th́ từ mồng 10 tháng 9, Quân đội Nhân dân Việt Nam bị thương vong nhiều. Như hai tiểu đoàn mới vào thành (Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48, Tiểu đoàn địa phương 8) cũng đă tổn thất nặng. Riêng Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 95 từ khi vào thành đến khi rút ra (từ ngày 13 tháng 7 đến ngày 10 tháng 9 năm 1972) đă chết trên 100 người, bị thương trên 700 (tính cả số bổ sung từng ngày), đảng viên có 67 người, lúc ra c̣n 12 người v.v... Thật là quá nặng nề đối với lực lượng pḥng thủ thành cổ. Do đó hành động của tư lệnh chiến dịch vào buổi giao ban sáng 16 tháng 9 và tiếp sau đó lệnh pḥng ngự tả ngạn sông Thạch Hăn vào chiều 16 tháng 9 là thích hợp với t́nh h́nh thực tế. Cũng theo sách này th́:
    “ :Các lực lượng trực tiếp pḥng thủ thị xă đă cùng một ư chí sắt đá là kiên quyết giữ vững Thành cổ bằng mọi giá nhằm phục vụ yêu cầu đấu tranh ngoại giao ở Hội nghị Paris. Rất nhiều gương chiến đấu, phục vụ chiến đấu vô cùng anh dũng của cán bộ chiến sĩ, của các đoàn dân công hỏa tuyến, của nhân dân trong khu vực.

    Trong hơn 80 ngày đêm chiến đấu, chúng ta đă biết phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng bộ đội và nhân dân, tạo nên sức chiến đấu kiên cường, dẻo dai. Bên cạnh lực lượng bám trụ thị xă, phải tính đến sức mạnh của các sư đoàn chủ lực 308, 304, 320 đứng bên sườn địch từ hướng đường 1 và hướng ven biển, mở nhiều đợt tiến công vào sườn đội h́nh tiến công của địch; gây cho địch nhiều thiệt hại, làm chậm bước tiến của chúng, buộc chúng phải đối phó bị động.

    Ngoài ra phải nói đến nhiều đoàn tân binh từ nhiều tỉnh miền Bắc đă lần lượt vào thị xă để bổ sung kịp thời cho các đơn vị chiến đấu. Nhiều lực lượng dân quân du kích và nhân dân địa phương đă đấu tranh kiên cường bằng nhiều h́nh thức phong phú đa dạng ở vùng địch hậu Triệu Phong, Hải Lăng. Nhiều lực lượng dân công hỏa tuyến tại khu vực Tả Kiên, Ba Gơ, Đại Ang, Tân Vinh đă tận t́nh phục vụ cho Quảng Trị chiến đấu.


    Sau chiến tranh

    Hiện nay khu thành cổ Quảng Trị rộng 16 ha là một phần của Khu di tích Thành cổ Quảng Trị, được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia của Việt Nam. Do mật độ bom đạn rất cao và kéo dài nên hầu hết bộ đội Quân đội Nhân dân Việt Nam tử trận trong Thành cổ Quảng Trị đều bị vùi lấp. Nơi đây được xây dựng thành nơi yên nghỉ chung cho những người đang nằm trong ḷng đất với nhiều cây xanh, đài tưởng niệm, bảo tàng... Hiện đang có dự án[13] đầu tư xây dựng khu di tích trở thành một công viên văn hóa, tưởng niệm với các hạng mục như đài tưởng niệm trung tâm, bảo tàng, đài chứng tích sinh viên, vườn hoa cảnh.

    Đă có nhiều bài thơ, bài hát nói về sự khốc liệt và mất mát của trận Thành cổ Quảng Trị, trong đó người ta thường nhắc tới bốn câu thơ trong bài Lời gọi bên sông của Lê Bá Dương, một cựu chiến binh Quân đội Nhân dân Việt Nam từng tham gia trận đánh này:

    “ Đ̣ xuôi Thạch Hăn xin chèo nhẹ.
    Đáy sông c̣n đó bạn tôi nằm.
    Có tuổi hai mươi thành sóng nước.
    Vỗ yên bờ măi măi ngàn năm ”


    Ngoá ra khi chuẩn bị vào sâu trong mặt trận phía Nam ở Bắc Quảng Trị, Lê Bá Dương cũng có 2 câu thơ rất hay, được xem như là tuyên ngôn hay nhất bằng thơ của quân giải phóng Bắc Quảng trị:

    “ Một khẩu súng giữ hai trời Nam Bắc,
    Một dấu chân in màu đất hai miền. ”

    Sau ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam, cựu chiến binh Lê Bá Dương và một số đồng đội của ông hàng năm đều về Quảng Trị ít nhất một lần để tưởng niệm những đồng đội Quân đội Nhân dân Việt Nam đă hy sinh và thả hoa xuống ḍng sông Thạch Hăn. Xuất phát từ đó, những năm gần đây, hàng năm cứ vào ngày 27 tháng 7 (Ngày thương binh liệt sĩ Việt Nam) cũng là gần dịp rằm tháng bảy có lễ Vu Lan báo hiếu, chính quyền tổ chức lễ thả đèn, thả hoa trên sông Thạch Hăn để tưởng niệm những người đă nằm lại tại Thành cổ trong 81 ngày đêm của trận đánh[14].

  10. #30
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    SĐ 1 BB / Chiến Dịch Lam Sơn 719
    Biên khảo và Nhận Định
    Jen W. Nguyễn
    ...

    Tóm Lược Cuộc Hành Quân Lam Sơn 719:

    25 Tháng 2. Ngày 25 tháng 2, quân Bắc Việt xử dụng 20 thiết giáp PT-76 cùng 2,000 bộ đội tấn công Căn Cứ A Lưới -- c̣n được gọi là Căn Cứ Hỏa Lực 31 của VNCH. Ngọn đồi này cũng là nơi đóng quân của Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù do Đại Tá Nguyễn Văn Thọ chỉ huy. Lực lượng Nhảy Dù VNCH với vài trăm binh sĩ không đầu hàng. Họ quyết tâm tử chiến và gây tổn thất nặng nề cho địch quân. Khoảng 1,000 bộ đội Bắc Việt bỏ xác trên chiến trường. Phía bên Nhảy Dù, nhiều sĩ quan bị bị bắt hoặc bị giết. (Will Fowler, "The Vietnam Story", tr.128).

    2 Tháng 3. Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù VNCH phải di tản chiến thuật khỏi Căn Cứ Hỏa Lực 30. Sau ba ngày di chuyển trong rừng già, tiểu đoàn được trực thăng bốc về Khe Sanh. (Trần Đỗ Cẩm, "Hành Quân Lam Sơn 719: Mục Tiêu Tchepone". Nguyệt San Đoàn Kết, tháng 6 1997, tr.28).

    3 Tháng 3. Kế hoạch đánh chiếm Tchepone được thi hành. Tiểu Đoàn 3 (thuộc Trung Đoàn 1 của Sư Đoàn 1 Bộ Binh) được trực thăng bốc đến băi đáp LoLo trên một ngọn đồi với cao độ 723 thước cách thị trấn Tchepone 13 km về hướng Đông Nam. Hỏa lực pḥng không của Cộng quân quá mạnh mẽ nên cuộc đổ quân tạm thời bị tŕ hoăn. Hai trực thăng vơ trang Hoa Kỳ bị bắn rơi, một số trực thăng vận tải khác bị thiệt hại đáng kể. Trong tài liệu "Hành Quân Lam Sơn 719: Mục Tiêu Tchepone" do Trần Đổ Cẩm biên soạn, tác giả có ghi lại cuộc đổ quân hăi hùng này như sau:

    ...khi chiếc trực thăng đầu tiên chuẩn bị đáp, địch quân đồng loạt khai hỏa. Súng pḥng không đủ loại đan một màng lưới lửa dầy đặc khủng khiếp bao phủ chiếc trực thăng trong băi đáp và chụp gọn những trực thăng đang bay lượn trên trời... Một cặp trực thăng vơ trang được gọi tới để dập tát những ổ pḥng không, nhưng địch vẫn bắn lên dữ dội khiến cả hai chiếc đều bị bắn rơi. Các trực thăng chở quân khác không thể nào đáp xuống.

    Trong bài viết, tác giả cũng có ghi lại chiến tích của một toán cảm tử quân tại băi đáp trực thăng LoLo:

    Cuộc đổ quân phải tŕ hoăn đến ba lần để phi cơ oanh kích thêm nhằm tiêu diệt những họng súng ca xạ bắn rất chính xác của Cộng quân. Đặc biệt có một ổ pḥng không 37 ly trên đồi được Cộng quân dấu kín trong một hang núi cao, chỉ cách LoLo chừng vài trăm thước đă tác xạ rất chính xác gây nhiều thiệt hại cho toán trực thăng. Nhiều phi tuần phản lực cũng như trực thăng vơ trang đă nhào xuống thả bom và bắn phá để dập tắt họng súng này nhưng vô hiệu.

    Đến trưa, Đại Tá Nguyễn Văn Điềm trên trực thăng chỉ huy nóng ruột ra lệnh cho Thiếu Tá Toàn phải triệt hạ ổ pḥng không này bằng mọi giá để trực thăng khổng lồ câu đại bác 105 tới. Một tổ cảm tử do Hạ Sĩ 1 Nguyễn Văn Đợi chỉ huy, gồm bốn người, thuộc Đại Đội 1, t́nh nguyện thi hành nhiệm vụ khó khăn này. Toán cảm tử được trọng pháo từ A Lưới và Căn Cứ Hỏa Lực Brown bắn che chở, phải ḅ gần tới nơi rồi dùng lựu đạn và M-72 bắn thẳng mới thanh toán được ổ súng nguy hiểm này...

    Cuối cùng, vào khoảng 18:30H cùng ngày, Tiểu Đoàn 3 (thuộc Trung Đoàn 1, Sư Đoàn 1 Bộ Binh) với trên 500 binh sĩ cũng vượt qua được màng lưới của tử thần, đổ xuống băi đáp và lập tức tổ chức ṿng đai an ninh căn cứ.

    (Trần Đỗ Cẩm, "Hành Quân Lam Sơn 719: Mục Tiêu Tchepone". Nguyệt San Đoàn Kết, tháng 6 1997, tr.33).

    4 Tháng 3. Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 1 Bộ Binh do Đại Tá Nguyễn Văn Điềm chỉ huy cùng với Tiểu Đoàn 4 (thuộc Trung Đoàn 1) do Trung Tá Lê Huấn làm tiểu đoàn trưởng và một pháo đội đại bác 105 ly được trực thăng đưa đến băi đáp LoLo. Lúc này lực lượng pḥng không Bắc Việt quanh băi đáp hầu như đă bị tiêu diệt hoàn toàn. (Trần Đỗ Cẩm, "Hành Quân Lam Sơn 719: Mục Tiêu Tchepone". Nguyệt San Đoàn Kết, tháng 6 1997, tr.34).

    5 Tháng 3. Tiểu Đoàn 4 và Tiểu Đoàn 2 (thuộc Trung Đoàn 2, Sư Đoàn 1 Bộ Binh) được trực thăng vận đến Căn Cứ Hỏa Lực Sophia, khoảng 5 km về hướng Đông Nam của thị trấn Tchepone. Ở nơi này hỏa lực pḥng không Bắc Việt cũng mạnh. Nhưng nhờ các phi vụ oanh tạc cùng pháo binh yểm trợ bắn từ Căn Cứ LoLo nên cuộc đổ quân đă được thành công nhanh chóng. Chỉ có hai trực thăng vơ trang loại UH-1C cùng hai trực thăng chở quân khác bị bắn hạ. Một số khác tuy bị trúng đạn, nhưng thiệt hại không đáng kể.
    Trong cuộc đổ quân (ở băi đáp Sophia), Thiếu Tá Định, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 (Trung Đoàn 2 B Binh), ngồi trên chiếc nón sắt của ḿnh đặt trên sàn trực thăng chở quân. Ông bị một viên đạn pḥng không 12.7 ly xuyên qua sàn trực thăng, qua chiếc nón sắt và trổ từ mông lên tới vai. Tuy bị thương nhưng Thiếu Tá Định rất b́nh tĩnh, ông không để l vẻ đau đớn hay hoảng sợ để thuộc cấp biết, sợ họ mất tinh thần.

    Khi trực thăng mới xà xuống nhưng c̣n khá cao trên băi đáp, vài người lính tính nhảy xuống, nhưng Thiếu Tá Định nắm vai họ lại và bảo "trực thăng c̣n cao lắm." Lúc trực thăng xuống thấp hơn, lính đă nhảy ra hết. Người cận vệ của Thiếu Tá Định thấy ông ngồi yên, bèn lay vai dục ông nhảy ra. Khi thấy tay bê bết máu và Thiếu Tá Định không trả lời, người lính mới biết Thiếu Tá Định đă chết ngồi trên trực thăng.

    Khi các đơn vị Bộ Binh VNCH đổ quân xong xuôi, họ liền bung ra lục soát. Hàng trăm xác chết của bộ đội Cộng Sản được phát hiện. Những xác chết này đều bị tan tàn dưới sức công phá kinh khiếp của đủ loại đạn phi pháo do lực lượng đồng minh bắn yểm trợ. Sáng ngày 5 tháng 3, Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến VNCH mở cuộc hành quân tảo thanh, hạ được 130 địch quân, tịch thâu và phá hủy nhiều vũ khí. Lúc ấy Tiểu Đoàn 4 (Trung Đoàn 1 B Binh) cũng chạm súng với địch quân. Họ hạ được 41 bộ đội Cộng Sản tại chiến trường.

    (Trần Đỗ Cẩm, "Hành Quân Lam Sơn 719: Mục Tiêu Tchepone". Nguyệt San Đoàn Kết, tháng 6 1997, tr.34).

    6 Tháng 3. Trong một cuộc hành quân không vận đại quy mô, 120 chiếc UH-1 đưa hai tiểu đoàn VNCH từ Khe Sanh đến thị trấn Tchepone. Các đơn vị VNCH lục soát và tiêu hủy một số quân dụng to lớn của quân Cộng Sản Bắc Việt gồm 76 khẩu đại bác, 106 chiến xa, 405 xe vận tải, 1,934 súng cộng đồng, 5,066 súng cá nhân, 12,000 tấn gạo, và 800 tấn đạn dược đủ loại. (Will Fowler, "The Vietnam Story", tr.165).

    7-8 Tháng 3. Khoảng 1,000 binh sĩ VNCH thuộc các Tiểu Đoàn 2 và 3 Bộ Binh (Trung Đoàn 2, Sư Đoàn 1) vào đến Tchepone. Họ t́m thấy nhiều vũ khí cùng xác chết Cộng quân đă bị tan nát v́ những phi vụ B-52 trước đây. (Trần Đỗ Cẩm, "Hành Quân Lam Sơn 719: Mục Tiêu Tchepone". Nguyệt San Đoàn Kết, tháng 6 1997, tr.35).

    8 Tháng 3. Đêm 8 tháng 3, các Tiểu Đoàn 2 và 3 mở cuộc hành quân càn quét về hướng Đông thị trấn Tchepone. Từ đó, họ di chuyển về hướng Nam, vượt sông Sepone và tiến về hướng Căn Cứ Hỏa Lực Sophia. (Trần Đỗ Cẩm, "Hành Quân Lam Sơn 719: Mục Tiêu Tchepone". Nguyệt San Đoàn Kết, tháng 6 1997, tr.35).

    9 Tháng 3. Lúc 9 giờ sáng ngày 9 tháng 3, hai tiểu đoàn Bộ Binh VNCH (TĐ2 và TĐ3) về đến căn cứ Sophia nơi đặt Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 2 Bộ Binh. Cuộc đổ quân đánh chiếm Tchepone coi như hoàn tất. (Trần Đỗ Cẩm, "Hành Quân Lam Sơn 719: Mục Tiêu Tchepone". Nguyệt San Đoàn Kết, tháng 6 1997, tr.35).

    23 Tháng 3. Chiến Dịch Lam Sơn 719 chấm dứt sau 23 ngày hành quân. (Trần Đỗ Cẩm, "Những Trận Đánh Của Biệt Động Quân Tại Hạ Lào," Website Nguyệt San Đoàn Kết).

    24 Tháng 4. 500,000 người Mỹ biểu t́nh chống chiến tranh tại Washington, D.C. (Will Fowler, "The Vietnam Story", tr.124).

    Kết Quả Của Cuộc Hành Quân Lam Sơn 719

    Cộng Sản Bắc Việt: 14,000 tử thương, 167 tù binh, 6,657 vũ khí bị tịch thu, và 120 xe tăng bị bắn hạ.

    Việt Nam Cộng Ḥa: 1,392 tử thương, 4,236 bị thương, 71 chiến xa và 96 khẩu đại bác bị thiệt hại. (Charles T. Kamps, Jr., "History Of The Vietnam War", tr.165).

    Chiến Dịch Lam Sơn 720. Ngày 14 tháng 4 Quân Đội VNCH mở cuộc hành quân Lam Sơn 720 vào thung lũng A Shau. Chiến dịch kéo dài đến giữa tháng 5 với nhiều trận đánh kịch liệt xảy ra. Quân Bắc Việt mở cuộc phản công mạnh mẽ để bảo vệ Căn Cứ 607. Vài trung đoàn VNCH liền được đưa đến tăng cường cho mặt trận A Shau. (Charles T. Kamps, Jr., "History Of The Vietnam War", tr.165).

    2 Tháng 6. Trong một cuộc hành quân càn quét vùng Khe Sanh, quân đội VNCH tiêu diệt 225 bộ đội Bắc Việt. Thiệt hại về phía VNCH tương đối nhẹ với 17 quân nhân hy sinh. (Edgar O'ballance, The Wars In Vietnam, 1954-73, tr.163).

    24 Tháng 6. Bắc Việt tấn công Căn Cứ Hỏa Lực Fuller ở gần vùng Phi Quân Sự. Không Quân can thiệp mạnh mẽ làm quân Cộng Sản phải rút lui khỏi chiến trường. (Edgar O'ballance, The Wars In Vietnam, 1954-73, tr.163).

    3 Tháng 10. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử và chấp chánh nhiệm kỳ tổng thống này lần thứ hai (Edgar O'ballance, The Wars In Vietnam, 1954-73, tr.164). Bốn năm sau, ngày 21 tháng 4 năm 1975 ông Thiệu lên đài truyền h́nh đọc bài diễn văn từ chức. Cùng ngày này, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương nhậm chức Tổng Thống Việt Nam Cng Ḥa.

    Chiến Dịch Lam Sơn 810. Tháng 10, Quân Đội VNCH mở cuộc hành quân Lam Sơn 810 để ngăn chận các sự xâm nhập của quân Bắc Việt dọc theo biên giới Việt-Lào. (Charles T. Kamps, Jr., "History Of The Vietnam War", tr.165).

    Tháng 11. Quân Đội Hoàng Gia Cam Bốt cùng Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa mở cuộc hành quân phối hợp gồm 27,500 người giải tỏa thị trấn Chup trong lănh thổ Cam Bốt. Sau nhiều trận giao tranh, lực lượng Cộng Sản bỏ chạy. Quân đội đồng minh tiêu hủy nhiều căn cứ tiếp vận của quân Bắc Việt và Khmer Đỏ (Cộng Sản Cam Bốt). (Charles T. Kamps, Jr., "History Of The Vietnam War", tr.168).

    Tổng Kết Thiệt Hại Trong Năm 1971:

    Việt Nam Cộng Ḥa: 22,738 tử thương, 60,939 bị thương.
    Hoa Kỳ: 2,349 tử thương, 8,936 bị thương.
    Cộng Sản Bắc Việt: 98,094 tử thương.

    SƯ ĐOÀN 1 BỘ BINH * 1ST ARMY DIVISION ARVN
    Last edited by alamit; 16-02-2013 at 07:02 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 41
    Last Post: 17-03-2013, 12:27 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-12-2012, 02:59 AM
  3. Replies: 5
    Last Post: 12-04-2012, 02:14 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 01-08-2011, 07:33 AM
  5. PHẬT NGỌC HOÀ B̀NH - PHẬT TỬ BẤT B̀NH.
    By Hoang Le in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 7
    Last Post: 18-10-2010, 02:40 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •