Page 5 of 7 FirstFirst 1234567 LastLast
Results 41 to 50 of 68

Thread: QLVNCH/SƯ ĐOÀN BỘ BINH 4 VÙNG CHIẾN THUẬT & CÁC TRẬN ĐÁNH LỊCH SỬ

  1. #41
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    SU DOAN 2 BO BINH QLVNCH
    Trận Phan Rang - Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang





    Nhớ lại suốt hạ tuần tháng 3 năm 1975, sau khi có lệnh bỏ Huế và Đà Nẳng, các đơn vị ta cứ lần lượt tháo lui, làm các tỉnh thành, quận lỵ phải rút theo, tạo ra cảnh đỗ vở tan thương cho không biết nhiêu gia đ́nh quân nhân cũng như đân chính. Tốc độ rút lui nhanh hơn tốc độ truy đuổi. Các đơn vị VC đến tiếp thu, không bị đánh chận, nên cứ ung dung tiến vào thành phố đă bị bỏ ngỏ. đến khi vào tiếp thu Nha Trang, chúng vẫn cứ tin rằng Phan Rang cũng đă bỏ chạy, nên tiếp tục cho các toán tiền thám cứ tiến vào. Ngạc nhiên, và cũng là lần đầu tiên bị ngăn chận trước khi đến Phan Rang, chúng bèn tháo lui về hướng Bắc, vào ẩn nấp trong vùng Ba Ng̣i chờ viện binh. Măi đến ngày 16.4.1975, khi tung ra toàn lực áp đảo, chúng mới vào được Phan Rang.
    Vào thời điểm các đại đơn vị ta rút lui, mà không có một sự kháng cự đáng kể nào để làm khó khăn và thiệt hại cho đối phương, th́ căn cứ Phan Rang đă anh dũng chống cự, và đă làm thiệt hại đáng kể cho Quân Đội Chánh Quy Bắc Việt.
    Chiến trận tại Phan Rang có thể chia ra làm 3 giai đoạn:
    Giai đoạn thứ nhứt từ ngày1 đến 3.4.1975, là giai đoạn h́nh thành tuyến pḥng thủ, với Sư Đoàn 6 Không Quân và Tiểu Đoàn 5 Dù thuộc Lữ Đoàn 3 Dù cùng một số đơn vị Địa Phương Quân c̣n lại.
    Sư Đoàn 6 Không Quân gồm:
    3 Phi Đoàn A37, 524, 534, 548
    1 Phi Đội A1
    2 Phi Đội Tản Thuơng 259 B và 259 C
    2 Phi Đoàn Trực Thăng 229 và 235
    Lữ Đoàn 3 Dù gồm:
    Bộ Chỉ Huy
    Tiểu Đoàn 5
    Giai đoạn thứ hai từ ngày 4 đến 12.4.1975, là giai đoạn củng cố tuyến pḥng thủ, với sự thành lập Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn III, với Lữ Đoàn 2 Dù. đây là thời gian đem đến ít nhiều lạc quan trong việc ổn định t́nh h́nh sau nhiều ngày xáo trộn. Một số đơn vị nhỏ của địch đă hoàn toàn bị đẩy lui khỏi đèo Du Long rút về ém quân tại khu Vườn Dừa, Cam Lâm đợi tăng viện.
    Lữ Đoàn 2 Dù gồm:
    3 Tiểu Đoàn 3, 7, 11
    1 Tiểu Đoàn Pháo Binh
    Các Đại Đội Trinh Sát, Công Binh, Quân Y, Truyền Tin, Yểm Trợ Tiếp Vận
    Giai đoạn thứ ba từ 13 đến 16,4.1975, là giai đoạn của trận chiến quyết định, với các đơn vị gồm:
    Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân gồm:
    3 Tiểu Đoàn 31, 36 và 52.
    Tăng cường cho Bộ Tư Lệnh Tiền Phương:
    Toán Thám Sát / Nha Kỹ Thuật
    Sư Đoàn 2 Bộ Binh gồm:
    2 Trung Đoàn 4 và 5
    2 Pháo Đội gồm 10 khẩu 105 ly
    2 Chi đội Thiết Vận Xa gồm 10 chiếc
    Lực lượng Hải Quân gồm:
    Duyên Đoàn 27
    2 Khu Trục Hạm
    1 Giang Pháo Hạm
    1 Hải Vận Hạm và một số tàu yểm trợ
    Trong 2 ngăy 13 và 14, Lữ Đoàn 2 Dù được lịnh rút về Sàig̣n. Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân và Sư Đoàn 2 Bộ Binh ra thay. Vừa thay quân vừa chiến đấu, và pḥng tuyến Phan Rang bị tràn ngập vào trưa ngày 16.4.1975, bởi 2 Sư Đoàn VC 325 và 3 Sao Vàng, cùng với các đơn vị của đoàn 968 VC. Trong ngày 14.4.1975, ngoài Duyên Đoàn 27 đă có mặt tại Phan Rang, Hải Quân Sài G̣n tăng cường khẩn cấp 2 Khu Trục Hạm, 1 Giang Pháo Hạm, 1 Hải Vận Hạm cùng một số tàu yểm trợ.
    Lực lượng địch:
    Theo tù binh thuộc đoàn Hậu Cần 57 địch bị bắt tại đèo Du Long ngày 9.4.1975, các cấp chỉ huy địch ngở Phan Rang đă bỏ chạy, nên tiếp tục cho các bộ phận truy đuổi, cứ yên tâm tiến vào tiếp thu. bị đánh đuổi, chúng lui về lẫn trốn vùng Vườn Dừa, Ba Ng̣i chờ đại quân của 2 Sư Đoàn 3 và 325 VC từ phía Bắc đến. Các nhóm đu kích vẫn hoạt động gần phi trường. Đoàn 968 VC vừa ghi nhận có mặt. (xác nhận bởi Đại Tá Nguyễn Thu Lương và Trung Tá Phạm Bá Mạo khi bị đơn vị nầy bắt tại mặt trận.)



    I. H́nh Thành Tuyến Pḥng Thủ
    Kể từ ngày 1.4.1975, sau khi Nha Trang bỏ ngỏ, căn cứ Phan Rang đương nhiên trở thành căn cứ tiền tuyến của Miền Nam. Buổi tối cùng ngày, Trung Tá Lê Văn Phát, Lử Đoàn Trưởng Lử Đoàn 3 Dù cùng Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và một phần của Tiểu Đoàn 5, trên đường rút từ Khánh Dương xin vào để chờ phi cơ về Sài G̣n. Căn cứ tôi lúc bấy giờ rất là trống trải, v́ một số lớn quân nhân Địa Phương Quân canh gác ṿng đai đă bỏ nhiệm vụ. Trong căn cứ, một số quân nhân trẻ nổ súng loạn xạ v́ lo sợ vu vơ. Ngoài thị xả, Tỉnh Trưởng đă rời nhiệm sở, dân chúng th́ ngơ ngác, phân vân. Trên quốc lộ 1 và 11 hướng về Sài G̣n, từng đoàn xe dân sự và quân sự chật nứt người rầm rộ tiếp nối nhau chạy giặc. Tệ hại hơn nửa là Đà Lạt cũng bỏ chạy, và đoàn xe của Trường Vơ Bị Đà Lạt đang theo Quốc lộ 11 trên đường đi B́nh Tuy cũng vừa chạy ngang căn cứ. Lúc nầy thực sự, căn cứ tôi đang trở thành tiền đồn và đang ở trong t́nh trạng hết sức cô đơn.
    Chuẩn bị t́m phương kế giữ an toàn, tôi chỉ thị hạn chế sự ra vào căn cứ để tránh xáo trộn do toán người tháo chạy mang đến. V́ vậy nên khi nghe có đơn vị Dù xin vào căn cứ, tôi liền hỏi xin lệnh Bộ Tư Lệnh KQ. được biết đó là do Bộ Tư Lệnh Dù yêu cầu để Lử Đoàn 3 được vào căn cứ như đơn vị tăng phái phối hợp pḥng thủ, tôi mới thuận cho đoàn quân của Trung Tá Phát vào phi trường. Thật là đúng lúc cần thiết và tôi rất bằng ḷng có thêm người để giử an toàn cho căn cứ hiện trong t́nh trạng bỏ ngỏ. Tôi phối hợp ngay với Trung Tá Phát để phối trí việc pḥng thủ căn cứ với Không Đoàn Yểm Cứ của Trung Tá Phạm Bá Mạo và Trung Tá Nguyễn Văn Thiệt v́ căn cứ mênh mông với ṿng đai h́nh vuông mỗi cạnh 6 km, mà Liên Đoàn Pḥng Thủ chỉ có khả năng phụ trách canh gác ṿng đai gần mà thôi. Dù muốn dù không, Căn Cứ không Quân Phan Rang đă trở thành tiền đồn của Miền Nam mà tôi đang là người có nhiệm vụ phải chống giữ. Tôi chỉ thị Trung Tá Diệp Ngọc Châu Phụ Tá Nhân Huấn phải theo dỏi sát vấn đề nhân viên, để đừng xảy ra t́nh trạng bung chạy, v́ quá hoang mang, giao động trước việc, có thể chiến đấu như bộ binh.
    Trung Tá Phát sử đụng Đại Đội Trinh Sát Dù, bung ra kiểm tra nội vi căn cứ và đánh đuổi một vài tên du kích mon men vào đồn Đại Hàn gần cổng số 2 của căn cứ. Về phần Không Quân, câc cấp phi hành và kỹ thuật đều am hiểu t́nh h́nh mới, chấp nhận thực trạng và hết ḿnh nổ lực chiến đấu v́ nhu cầu pḥng thủ.
    Vào buổi chiều, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân đoàn II ghé căn cứ thăm hỏi t́nh h́nh. Sáng hôm sau, rời căn cứ bay về Sàig̣n.
    Ngày 2.4.1975, Sàig̣n tăng cường một đơn vị Dù. Trung Tá Phát liền sử dụng để kiện toàn an ninh cho phi trường và phối hợp với các đơn vị Địa Phương Quân trong việc giữ an ninh cho thị xă.
    Lúc 2 giờ chiều, tôi bay xuống Phan Thiết đón Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư Lệnh Quân Đoàn III. Khi gặp tôi, ông nói sở đĩ muốn gặp tôi tại Phan Thiết là để xác nhận sự hiện hữu của Phan Rang, mà giờ nầy lẽ ra cũng đă bỏ chạy như Nha Trang và Cam Ranh rồi. Sau khi nghe tôi thuyết tŕnh t́nh h́nh, Trung Tướng Toàn nói:" kể từ buổi thị sát nầy, Phan Rang sát nhập vào Quân đoàn III, trở thành cứ điểm cực Bắc của Quân Đoàn."
    Cùng ngày tôi nhận được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu chỉ định tôi phụ trách bảo vệ Phan Rang.
    Ngày 3.4.1975, TĐ5 Dù để tạm kiểm soát các khu vực cạnh thị xă và nội vi phi trường. Từ Ba Râu đến Thị Xă, dân chúng bớt hoảng sợ mặc đầu sanh hoạt vẫn c̣n rụt rè. Trong căn cứ, Không Đoàn Yểm Cứ đă chấn chỉnh an ninh nội bộ khiến cho căn cứ lần lần lấy lại sanh hoạt b́nh thường.
    Đại Tá Lê Văn Thảo Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 92 Chiến Thuật với 3 Phi Đoàn A37, 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu và 548 Ó Đen đă sát cánh cùng đoàn viên xuất kích đêm ngày rất hữu hiệu.
    Trung Tá Lê Văn Bút Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật với 2 Phi Đoàn Trực Thăng 229 và 235, 1 Phi Đoàn Quan Sát 118 và một bộ phận của Phi Đoàn 530 A1 với Phi Đội Tản Thương 259 C, đă bay thi hành nhiều công tác khó khăn nguy hiễm.
    Trung Tá Đổ Hữu Sung và đoàn kỹ thuật gan dạ, chu toàn mọi công tác sửa chữa và trang bị dưới làn pháo kích ngày đêm của địch.
    Theo tin tức của các quân nhân ta từ các nơi ghé xin phương tiện về Sài G̣n, th́ VC đang xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ng̣i. Tôi liền cho phi cơ quan sát bao vùng và chỉ điểm cho Phi Cơ A37 đánh phá.
    Cộng thêm các khó khăn, việc tiếp tế nhiên liệu đang gặp trở ngại v́ xe bồn không cung cấp như b́nh thường, bởi cảng Cam Ranh đă bị địch chiếm. V́ vậy hàng ngày, tôi phải nhận tiếp tế từ Sàig̣n bằng phi cơ C130, một số lượng nhiên liệu tối thiểu cho hành quân mà thôi.
    Để tránh hổn loạn khi bị pháo kích dồn đập, tôi cũng phải cho nửa số phi cơ về trú đêm ở Sài G̣n, để sáng hôm sau trở ra với đầy nhiên liệu.
    Trong ngày, khi biết có tàu Mỹ đang lảng vảng ngoài vịnh Phan Rang để chở một số người, tôi liền cử Trung Tá Lư Văn Bút dùng trực thăng đáp trên một trong những tàu đó để chào hỏi và cho biết hiện t́nh ở Phan Rang. Tiếp đón và trả lời những điều muốn biết trong lối 1/2 giờ, Hạm Trưởng thúc giục Trung Tá Bút rời tàu. Xuyên qua lời tŕnh thuật của Trung Tá Bút, tôi đă hiểu rỏ ràng là trong cấp thời, Mỹ không c̣n có ư định đính líu ǵ nửa đến cuộc chiến đang điễn tiến hiện nay.

    II. Bộ Tư Lệnh Tiền Phương
    Phan Rang nằm vào phía Nam của một thung lủng hẹp bao bọc bởi các dăi núi về hướng Tây, Bắc và Đông Bắc, có các cao điểm và đèo Du Long rất thuận tiện cho việc pḥng ngự. Ngày đêm phi cơ trong căn cứ liên tục quan sát bao vùng và oanh tạc ngay các mục tiêu bị phát giác. Các đơn vị VC đă tiến quá xa với hậu tuyến của họ. Họ chỉ mới tiếp thu Nha Trang và Cam Ranh. Với mức độ hành quân 10 cây số ngày hoặc gia tăng với phương tiện chiếm được th́ không thể tập trung tấn công ngay được. Có thể có những phần tử lẻ tẻ đă xâm nhập và đang ém quân, nhưng ngoài ra Phan Rang chưa có nguy cơ bị tấn công ngay bởi quân chánh quy. Muốn tấn công, có thể chỉ có từ 2 hướng: Một là từ hướng Bắc, theo QL 1 tiến qua đèo Du Long thẳng vào thị xă và hai là từ hướng Tây tấn công từ Khrông Pha qua Tân Mỹ hướng về thị xă Phan Rang. Ngoài ra c̣n có một ít đường ṃn từ Vườn Dừa, Ba Ng̣i chạy theo hướng Nam Tây Nam sát căn cứ KQ hướng về Tân Mỹ có thể chọn để xâm nhập được. Trong lần bay quan sát chiều ngày 14.4.75, tôi thấy một vài thiết vận xa địch trên những đường ṃn nầy vào hướng Tây Bắc của căn cứ, cách khoảng 8 km. (Đương nhiên, khi bị phát giác, chúng đều lẫn trốn trước khi bị oanh tạc.)
    Thị Xă và Phi Trường Phan Rang nằm vào phần Nam của cái thung lũng đó. Quốc lộ 1 và đường xe lửa chạy song song xuyên qua đèo Du Long về thị xă, tách ra tại Thôn Ba Râu, chạy sát phi trường rồi tiến về Nam, không qua thị xă. Từ thị xă đến Du Long khoảng 15 km với Ba Râu khoảng 9 km và với Cà Đú khoảng 4 km. Từ Cà Đú đến thị xă, mặt đất bằng phẳng.
    Phi trường Phan Rang rất rộng, h́nh vuông, mỗi cạnh trên đưới 6 km, nằm giữa QL 1 và QL 11 và sát với đường xe lửa về hướng đông, cách thị xả 5km và Nha Trang khoảng 80km. Có 2 đường bay song song, 1 bằng xi măng cốt sắt và 1 bằng vĩ nhôm dài 10.000 bộ, rộng 150 bộ. Có đầy đủ cơ sở cho kỹ thuật, tiếp liệu với các bồn xăng và kho bom theo tiêu chuẩn an ninh tối tân. Việc pḥng thủ bao gồm 60 cḥi gác, với 2 cổng chung quanh căn cứ do 7 Đại Đội Địa Phương Quân phụ trâch.
    Ngày 4.4.1975, Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chánh thức đến Phan Rang cùng với toán truyền tin và chuyên viên, nhận trách nhiệm pḥng thủ Phan Rang, và thiết lập Bộ Chỉ Huy Tiền Phương trong Căn Cứ của Sư Đoàn 6 Không Quân, nằm vào lối 5km Bắc Tây Bắc của Thị Xă Phan Rang. Ông cho biết là đă được Thượng Cấp chấp thuận gởi ra một số đơn vị chưa bị ảnh hưởng của việc rút quân để giữ Phan Rang. Bởi tin tưởng vào lời hứa hẹn nầy, nên Ông rất vui ḷng đảm nhận chức vụ.
    V́ địa thế của Phan Rang có nhiều thuận lợi cho việc pḥng thủ, nên Trung Tướng Nghi quan niệm:
    " Phải chống giữ mặt Bắc từ Quận Du Long, mặt Tây từ Quận Tân Mỹ và phải giữ an toàn cho căn cứ Không Quân, cũng như giữ an ninh cho Thị Xả phối họp với một số đơn vị Địa Phương Quân c̣n lại."
    Theo quan niệm đó, Trung Tướng Nghi thảo ra kế hoạch pḥng thủ Phan Rang với một lực lượng cở 2 Sư Đoàn mới có thể trong tạm thời pḥng thủ được. đó là:
    Mặt Bắc, trên Quốc lộ 1 trấn giữ các điểm cao tại đèo Du Long với một dải chiến tuyến hùng hậu tại Du Long cùng các tuyến phụ tại Ba Râu và Ba Tháp để ngăn chận mọi cuộc tấn công hướng vào thị xă hoặc vào căn cứ.
    Mặt phía Tây, trên Quốc lộ 11, án ngữ tại vùng Tân Mỹ, một chiến tuyến để chận địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi trường.
    Bảo vệ an ninh cho thị xă và phi trường do các đơn vị chánh quy phối hợp với Địa Phương Quân phụ trách.
    Ngày 5.4.1975. Trong ngày, thỉnh thoảng vẫn có vài quân nhân Không Quân thất lạc tŕnh diện xin phương tiện về Sàig̣n và luôn xác nhận là vẫn có một số VC xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ng̣i. Chúng nói v́ có Quân Dù của ta ở phía trước nên chúng c̣n nấp chờ chi viện.
    Ngoài ra Tướng Times, phụ trách an ninh cho Ṭa đại Sứ Mỹ, đến thăm và nói sẽ sắp xếp cho người của ông thường xuyên ở lại đây, để chuyển tin ngay về ṭa đại sứ.
    Trong mấy ngày qua, tôi đă điều hành công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư Đoàn 6 KQ. Vô t́nh tôi đă biến căn cứ Không Quân Phan Rang thành một cứ điểm pḥng thủ tiền tiêu của cuộc chiến tranh rất phức tạp nầy.
    Ngày 6.4.1975, trong ngày, sinh hoạt trong căn cứ không quân đă có sự b́nh thường và các phi vụ đều được thi hành như thông lệ. Thêm một số quân nhân của 7 Đại Đội địa Phương Quân phụ trách canh gác ṿng ngoài phi trường tiếp tục trở về.
    Quân địch sau khi chiếm Nha Trang, liền vội vă đến tiếp thu Cam Ranh. Toán Viễn Thám của họ theo đà chạy tiếp thu, có thể đă xâm nhập từ Vườn Dừa, Ba Ng̣i, qua đồi Du Long, xuống về phía Nam. Các Sư Đoàn xâm nhập chưa thấy xuất hiện. Chỉ biết có đơn vị F10 hoặc 968 đang lẫn núp xâm nhập lẻ tẻ.
    Ngày 7.4.1975 là ngày đáng ghi nhớ.
    Đại Tá Trần Văn Tự, Tỉnh Trưởng Phan Rang, vừa trở về với một số công chức, và đang tập họp các lính địa Phương Quân và Nghĩa Quân.
    Đại Tá Nguyễn Thu Lương, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 2 Dù, với 3 Tiểu Đoàn 3, 7, 11 và 1 Tiểu Đoàn Pháo Binh cùng các Đại Đội Trinh Sát, Công Binh, Quân Y, Truyền Tin, Yểm Trợ Tiếp Vận lần lượt đến căn cứ. Trung Tướng Nghi liền giao cho nhiệm vụ chiếm các cao điểm và tổ chức tuyến pḥng thủ tại Du Long mặt Bắc và tại Tân Mỹ mặt Tây. Tập trung lực lượng khi cần để chận không cho địch vượt qua Du Long. Sử dụng Tiểu Đoàn 5 Dù của Trung Tá phát có mặt tại căn cứ giữ an ninh cho phi trường.
    Ngày 8.4.1975, khi đơn vị cuối cùng của Lữ Đoàn 2 Dù đến căn cứ, Đại Tá Lương liền điều động giải tỏa đoạn Quốc Lộ 1, từ Thị Xă đến Du Long, qua các Thôn Cá Đú, Ba Tháp, Ba Râu và Du Long, với 2 Tiểu Đoàn 11 và Tiểu Đoàn 3. Trên đường tiến quân, Tiểu Đoàn 3 Dù đuổi địch chạy tán loạn khỏi Ba Tháp và Ba Râu. địch tổn thất khoảng một Đại Đội với nhiều vũ khí. Tiểu Đoàn 11 được trực thăng của Sư Đoàn 6 Không quân, đưa đến chiếm Du Long, và các cao địa trọng yếu kiểm soát đường đỉ Du Long.
    Bắt sống tại đèo Du Long, 7 xe tiếp tế thuộc đoàn hậu cần địch cùng một số quân lính VC, v́ ngở Phan Rang đă bị chúng chiếm, nên cứ ngang nhiên di chuyển. đồng thời, t́m thấy bộ đồ bay của Trung úy Lư Tống, thuộc Không Đoàn 92 Chiến Thuật/ Sư Đoàn 6 Không Quân, c̣n để tại vùng đèo Du Long, khi phi cơ A37 của ḿnh vừa bị bắn rơi, lúc cùng Phi Đội oanh tạc khu Vườn Dừa. (Trung úy Lư Tống là người đă thả truyền đơn chống cộng tại Sài G̣n năm 1992, tại Cuba trong năm 2000 và tại Sài G̣n cuối năm 2000, nhân địp Tổng Thống Bill Clinton đến thăm Việt Nam.)
    Tại phía Tây, phần lớn của Tiểu Đoàn 5 Dù đă trấn ngữ đầu cầu hướng về Tân Mỹ, ngừa được sự tấn chiếm từ hướng nầy. Trong căn cứ, toán Trinh Sát Dù cũng lại đuổi khỏi đồn Đại Hàn một số quân nhân địch vừa lén lút xâm nhập. Tiểu Đoàn 7 trừ bị giám sát việc giữ an ninh trong căn cứ không quân với Tiểu Đoàn 5 của Lữ Đoàn 3 Dù. Kết quả là trong ngày nầy, Phan Rang đă hoàn toàn kiểm soát được t́nh h́nh vốn bị tŕ trệ từ khi Nha Trang và Cam Ranh tháo chạy.
    Buổi sáng, lúc Trung úy Nguyễn Thành Trung vừa oanh tạc Dinh Độc Lập, th́ Bộ Tư Lệnh Không Quân bảo tôi phải cho ngăn cản và bắt đáp, nếu Trung bay qua Phan Rang. Lệnh đă được cấp tốc thi hành, và Trung đă không bay qua đây.
    Đặc biệt, Cha sở/ giáo xứ Hồ Diêm, với niềm phấn khởi, đến thăm Trung Tướng Nghi để hoan nghênh quân Dù đă giải tỏa được Phan Rang. điểm đáng đề cao là chính Cha, cùng với lực lượng Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ của giáo xứ, đă thành công bảo vệ địa phận ḿnh chống lại các cố gắng len lỏi xâm nhập của địch.
    Ngày 9.4.1975, Trung Tá Lê Văn Bút, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, bay chỉ huy 40 trực thăng HU với 12 trực thăng vơ trang cơ hữu cùng 8 trực thăng Chinook từ Biên Ḥa biệt phái. Mục đích là để lên Khánh Dương t́m kiếm và chở về các toán c̣n kẹt lại của Lữ Đoàn 3 Dù, gồm 2 Tiểu Đoàn 2 và 6 cùng một số quân của Tiểu Đoàn 5, lúc Nha Trang rút chạy. Cùng đi có Trung Tá Trần Đăng Khôi, Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 3 Dù phụ giúp t́m kiếm, chọn băi đáp để rước toán thất lạc nầy trở về. Bấy giờ khu vực Khánh Dương đă trở thành vùng địch kiểm soât, nên tôi cho bay theo 2 Phi Đội A37 yểm trợ. Kết quả là đoàn trực thăng đă mang về đến căn cứ Phan Rang, hơn 600 người mà phần lớn là quân nhân của các Tiểu Đoàn 2 và 6, cùng một số thất lạc của Tiểu Đoàn 5 với một số ít dân sự chạy loạn đi theo. Toán nầy vào buổi chiều được chở toàn bộ vào Sài G̣n. Cuộc hành quân trực thăng vận thành công tốt đẹp, đem về được số quân nhân thất lạc của Lữ Đoàn 3 Dù. Thật đúng là một chuyến bốc quân lịch sử. đoàn trực thăng 60 chiếc đă phải bay qua vùng địch chiếm với mọi hiểm nguy và bất trắc khôn lường.
    Trong thị xă, Đại Tá Trần Văn Tự Tỉnh Trưởng tiếp tục chấn chỉnh các phần vụ hành chánh, đồng thời lo chỉnh đốn hàng ngũ các đơn vị Địa Phương Quân. Ngoài thị xă, đân chúng hăy c̣n e dè ở lại, nhưng không tuôn chạy nhiều như những ngày trước. Cuộc sống có chỉ dấu trở lại b́nh thường, tạo nhiều phấn khởi.
    Các ngày 10 và 11. 4.1975 có được sự yên tĩnh trong toàn bộ vùng Phan Rang. Bộ Tư Lệnh Tiền Phương đang trù tính kế hoạch chiếm lại Cam Ranh để sau đó lấy lại Nha Trang. địch sau khi bị đuổi khỏi các địa điểm xâm nhập đang tập trung ém quân tại vùng Vườn Dừa ở Cam Lâm chờ đợi viện quân.
    Ngày 12.4.75 là ngày khởi đầu có bất trắc trong việc pḥng thủ Phan Rang.
    Lệnh từ Quân đoàn III cho biết sẽ rút Lữ Đoàn 2 Dù và Tiểu Đoàn 5 Dù vào ngày 13.4.1975, và thay bằng Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân với 3 Tiểu Đoàn, và Sư Đoàn 2 Bộ Binh với 2 Trung Đoàn, cùng 2 Chi Đội Pháo và Chi Đội Thiết Vận Xa.
    Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân vừa rút khỏi Chơn Thành, sau nhiều ngày tác chiến gian khổ với nhiều tổn thất, chưa kịp nghĩ dưỡng quân, th́ được tung ra tiền tuyến với quân số thiếu thốn trầm trọng.
    Sư Đoàn 2 Bộ Binh cũng vừa tháo chạy từ Quảng Ngải, vừa tập trung tại B́nh Tuy và đang được bổ sung quân số th́ được lịnh phải ra Phan Rang, trong khi cả đơn vị hảy c̣n hoang mang, dao động. V́ chưa kịp bổ sung thiết bị, đơn vị nầy phải thu lượm một số pháo và thiết vận xa để mang theo cùng với các Trung Đoàn ra Phan Rang bằng đường bộ.
    Bộ Tổng Tham Mưu Pḥng 7 vừa bổ sung toán thám sát, v́ kiểm thính phát giác rộ lên nhiều liên lạc vô tuyến của các đơn vị địch xung quanh Phan Rang.
    Chuẩn Tướng Lê Quang Lưởng Tư Lệnh Sư Đoàn Dù và Trung Tướng Trần Văn Minh Tư Lệnh Không Quân, cùng đến thám sát công cuộc pḥng thủ. Cả hai vị đều tỏ ư bất đồng về việc điều quân nầy. Trung Tướng Minh nói để căn cứ không quân làm tiền đồn là sai lầm, v́ khi hữu sự dưới lằn đạn pháo th́ không thể sửa chửa, trang bị cho phi cơ có khả năng hành quân như yêu cầu được. Chuẩn Tướng Lưỡng cũng nói, muốn giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy lại Cam Ranh và Nha Trang, tại sao lại rút đơn vị đang chiến đấu tốt mà thay bằng 2 đơn vị đă từng vội vă rút quân và c̣n đang chờ đợi bổ sung quân số.
    Trung Tướng Nghi cũng bất ngờ v́ không có được những đơn vị như đă hứa trước lúc ra nhận trách nhiệm pḥng thủ Phan Rang.

  2. #42
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    SU DOAN 2 BO BINH QLVNCH
    Trận Phan Rang - Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang
    p2

    III. Trận Chiến Quyết Định
    Ngày 13.4.1975 là ngày đánh đấu nhiều việc không may xảy đến cho tuyến pḥng thủ Phan Rang.
    Trong ngày, liên tục toán kiểm thính Pḥng 7 TTM báo cáo có sự hoạt động bất thường của các đơn vị Sư Đoàn 325 và Sư Đoàn 3 Bắc Việt.
    Tướng Times của Ṭa Đại Sứ Mỹ hấp tấp bay đến, dẫn theo Ông Lewis, chuyên viên truyền tin, để chuyển về Ṭa Đại Sứ mọi biến chuyển mới nhứt của mặt trận. Ông Lewis ở lại, rất tích cực làm việc và rất b́nh tĩnh lúc địch đồn dập tấn công.
    Sau mấy ngày ém quân, địch bắt đầu chuyển quân từ khu ém quân và khởi sự pháo kích vào Căn Cứ Không Quân. Các đơn vị địch đang t́m cách tấn công các điểm cao ở vùng đồi Du Long và phía Đông Ba Râu. đơn vị địch 968 cũng bắt đầu xâm nhập lẻ tẻ từ phía Tây của Căn Cứ Không Quân, phối họp với từng đợt pháo kích.
    Tiếc thay, trong t́nh thế như vậy mà cơ cấu pḥng thủ phải thi hành lệnh thay quân đang chiến đấu tốt, bằng 2 đơn vị vừa mới được bổ sung sau khi bị tổn thất nhiều về trang bị và tinh thần.
    Trong khi bộ phận lớn của Lữ Đoàn 2 Dù, gồm Tiểu Đoàn 7 với các bộ phần nặng và Tiểu Đoàn 5 của Lữ Đoàn 3 Dù rời căn cứ, th́ Đại Tá Nguyễn Văn Biết, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân và 3 Tiểu Đoàn 31, 36 và 52 cũng vừa từ Biên Ḥa tới bằng phi cơ C130. Quân số Liên Đoàn gồm khoảng 1.000 người. Các đơn vị liền vội vă đến trám vào các địa điểm đóng quân của Tiểu Đoàn 11 Dù tại Du Long và Ba Râu. Tiểu Đoàn 31 trám tại Du Long, Tiểu Đoàn 36 trám từ Ba Râu đến Cá Đú và Tiểu Đoàn 52 làm trừ bị. đang thay quân th́ chạm súng với các toán thăm ḍ của địch.
    Cùng lúc, Trung Đoàn 4 của Sư Đoàn 2 Bộ Binh, quân số khoảng 450 người, từ B́nh Tuy theo đường bộ cũng vừa tới, và được giao trách nhiệm trấn giữ mặt Tây căn cứ và bảo vệ phi trường thay cho Tiểu Đoàn 5 Dù vừa rời căn cứ.
    Theo khuyến cáo của Bộ Tư Lệnh Không Quân, Đại Tá Nguyễn Đ́nh Giao, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 6 Không Quân được nhiệm vụ cùng các chuyên viên về Tân Sơn Nhất để phụ lo việc quân số và tiếp liệu cho Sư Đoàn.
    Ngày 14.4.1975, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ binh, cùng Trung Đoàn 5 vừa đến với khoảng 450 quân, được giao nhiệm vụ bảo vệ mặt Nam căn cứ và phi trường v́ Lữ Đoàn 2 Dù đă hết nhiệm vụ và đă bàn giao với Trung Đoàn 4 hôm qua. Lực lượng Pháo Binh chỉ có 1 Pháo Đội 105 ly hiện diện tăng phái cho Tiểu Khu trong đó có một Trung Đội đóng tại An Phước, phía Nam phi trường lối 10 km.
    Thị xă được pḥng vệ bởi khoảng1Tiểu Đoàn Địa Phương Quân c̣n lại. Cùng lúc, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, theo lệnh, đề cử Đại Tá Trương Đăng Liêm Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 4 giử chức vụ Tỉnh Trưởng thay đại Tá Trần Văn Tự.
    Cũng để dự pḥng cho những ngày tác chiến sắp tới, Bộ Tư Lệnh Không Quân cũng vừa gởi đến, một phi cơ C47 để tăng cường phương tiện hành quân cho Bộ Tư Lệnh Hành Quân.
    Bên ngoài căn cứ, từ sáng sớm, địch lần lượt tung vài đơn vị cấp Đại Đội từ khu ém quân, đánh thăm ḍ cơ cấu pḥng thủ tại Du Long và Ba Râu. Một trong các đơn vị nầy đă xâm nhập được vào cổng số 2 phi trường về phía Bắc, lúc mờ sáng. Phi cơ trực thăng tuần tiểu phát giác, và cùng với trực thăng vơ trang, yểm trợ cho một bộ phận của Tiểu Đoàn 11 Dù đang chờ phi cơ về hậu tuyến, được gởi ra tiêu diệt toán xâm nhập nầy. Kết quả địch rút chạy, bỏ lại gần 100 tên bị hạ với khoảng 80 vũ khí đủ loại, trong đó có 2 súng cối 82 ly và 2 khẩu đại bác không giựt 75 ly. Ta chỉ có 6 chiến sĩ hy sinh và 1 thiết vận xa pḥng thủ phi trường bị cháy. Trung Tướng Nghi tưởng thưởng ngay huy chương Anh đũng Bội Tinh cho các quân nhân hữu công.
    Khoảng trưa, Tướng Nghi và tôi cùng Đại Tá Lương chạy xe thong thả từ phi trường đến Ba Tháp, Ba Râu và Du Long thị sát công việc pḥng thủ. Tại Du Long Tướng Nghi có tập họp và trấn an số Nghĩa Quân có mặt tại đây.
    Tóm lại, mặc dầu hôm nay có các cuộc đánh thăm đ̣ của địch, mặt trận vẫn đứng vững như những ngày qua. .
    Ngày 15.4.1975 từ sáng sớm địch liên tục pháo từng chập vào căn cứ. Buổi chiều khoảng 2 giờ, có phái đoàn của Trung Tướng Trần Văn Đôn Tổng Trưởng Quốc Pḥng và Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư Lệnh Quân Đoàn III đến thị sát mặt trận. Sau khi thăm thị xă, nghe Tướng Nghi thuyết tŕnh t́nh h́nh và ghi nhận các đề nghị, Trung Tướng Tổng Trưởng Quốc Pḥng tỏ vẻ chú trọng đến việc pḥng thủ Phan Rang và hứa sẽ t́m mọi cách bổ sung đầy đủ mọi trang thiết bị thiếu hụt.
    Từ chiều trở đi, Trung Tướng Nghi liên tiếp nhận được tin địch sẽ tập trung tấn công đêm nay. Một trong những công điện của Bộ Chỉ Huy địch với đanh hiệu Sông Hồng, đóng tại Ba Râu, cho hay địch sẽ tấn công vào Phan Rang lúc 5 giờ sáng. Tiến quân theo đường rầy xe lửa cùng với 300 chiến xa, theo quốc lộ 1 phát xuất từ rừng dừa ở Ba Ng̣i. Biết ư định của địch, Trung Tướng Nghi báo động ngay mọi nơi đề pḥng, đặc biệt là Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân có nhiệm vụ án ngữ ở Du Long.
    Quả nhiên, sau 8 giờ tối địch gia tăng cường độ pháo kích vào phi trường, đồng thời cho di chuyển suốt đêm rất nhiều đoàn xe chở bộ binh, thiết giáp, pháo binh v.v…Chúng vượt đồi Du Long, chủ yếu chỉ để tràn qua pḥng tuyến pḥng thủ của Tiểu Đoàn 31 Biệt Động Quân mà tiến nhanh về hướng Nam. Tiểu Đoàn 31 đă ở tại chổ chiến đấu gan dạ mặc đầu đoàn xe địch vượt được qua. Tại Ba Râu, Ba Tháp và Cá Đú, từ địa điểm đóng quân chờ di chuyển về hậu cứ, từ 2 giờ sáng trở đi, Tiểu Đoàn 11 Dù trừ và Tiểu Đoàn 3 Dù, cùng với Tiểu Đoàn 36 Biệt Động Quân vừa trám chổ, chạm địch ác liệt, làm chậm sức tấn công ồ ạt của đoàn cơ giới địch. Liên tục bị oanh kích, chúng tẻ xuống đường, tắt đèn và lại tiến tới. Phi cơ A37 không ngớt tung xuống đợt oanh tạc ngăn chăn, nhưng v́ không đủ phương tiện soi sáng và Hỏa Long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị tổn thất khá nặng nề. Bên ta có 4 A37 bị bắn bể b́nh xăng phải về đáp. Trận nầy Không Đoàn 92/Chiến Thuật đă tung toàn lực phi cơ cơ hữu kể cả 4 A1 của Phi Đoàn 530.
    Tôi cùng Trung Tá Lưu Đức Thanh Phụ Tá Hành Quân Sư Đoàn 6 KQ đích thân theo dỏi trận đánh suốt đêm. Chúng tôi liên tục đốc thúc phần tham gia của Không Quân, kể từ lúc các đơn vị bộ binh chạm súng, liên tục báo cáo địch đang xử đụng hàng đoàn xe để đèn sáng chạy từ Du Long tràn xuống. Cuối cùng, đoàn xe tắt đèn vượt qua Ba Râu, và chiếm thị xả lúc 7 giờ sáng ngày16.4.1975.
    Tại Bộ Chỉ Huy Tiền Phương, Trung Tướng Nghi cũng theo dỏi trận chiến suốt đêm và không nhận được tin ǵ từ Du Long của Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân sau 3 giờ sáng. (Sau nầy, Thiếu Tá Đào Kim Minh, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 36 Biệt Động Quân và Thiếu Tá Nguyễn Văn Tú Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 31 Biệt Động Quân có nhiệm vụ trấn giữ Ba Râu và Du Long cho biết không hiểu v́ lư do ǵ mà từ 2 giờ sáng không liên lạc được với Bộ Chỉ Huy. Sở dỉ cần liên lạc khẩn cấp là v́ đă 3 ngày, từ lúc thay quân, cứ liên miên đụng địch nên cấp số đạn được mang theo đă gần cạn. đến sáng, khu vực trách nhiệm vẫn yên tịnh như sau những lần chạm súng. Trên đường vẫn an toàn nhưng nh́n vào phi trường thấy đang bị pháo kích.)
    Ngày 16.4.1975, lúc vừa sáng, địch lại lẻ tẻ xâm nhập vào cổng số 2 của phi trường về hướng Bắc và kho bom ở hướng Tây. đến khi pḥng không của chúng, bắn trúng chiếc phi cơ quan sát O1 vừa cất cánh quan sát hành quân, phải trở lại đáp khẩn cấp, th́ đồng thời chúng gia tăng số lượng pháo kích.
    Lúc bấy giờ mới khoảng gần 8 giờ sáng. Đại Tá Biết bổng báo cáo là Du Long bị mất và địch đă vào thị xă khiến cho Trung Tướng Nghi phải t́m phương thế thích nghi. Cùng lúc, Chuẩn Tướng Nhựt vừa đặt văn pḥng cạnh văn pḥng Trung Tướng Nghi, liền được mời tham gia vào việc duyệt xét t́nh h́nh. Sau đó Ông đi thị sát mặt trận tại nơi trách nhiệm của đơn vị ḿnh.
    Trong khi Trung Đoàn 4 Bộ Binh đang án ngữ bên ngoài phía Tây của phi trường và Trung Đoàn 5 đang pḥng ngự địch tràn lên từ thị xă, th́ bên trong căn cứ t́nh h́nh bắt đầu có chiều hướng bất lợi. địch vẫn giữ mức độ pháo kích quấy rối từng chập. Nhân có các khoảng trống giữa những đợt pháo kích, một số lớn phi cơ đă rời căn cứ. C̣n lại chỉ có một số rất ít trực thăng vơ trang và tản thương ở lại đến phút chót.
    Khoảng hơn 9 giờ sáng, khi trực thăng vơ trang bị hỏa tiển SA.7 bắn tại ngọn đồi gần phi trường th́ t́nh h́nh đă khá nguy ngập. Trung Đoàn 4 báo cáo đang chạm địch. Toán Dù bảo vệ Bộ Tư Lệnh Tiền Phương đang thanh toán các toán VC lẻ tẻ chạy lạng quạng gần khu vực Bộ Tư Lệnh Tiền Phương. đến lúc nầy, Trung Tướng Nghi vẫn tin tưởng vào khả năng chiến đấu của Trung Đoàn 4 bảo vệ phi trường và Trung Đoàn 5 án ngữ ngăn chận địch tràn vào cổng số 1 của căn cứ.
    Đến khoảng gần 10 giờ, khi tiếng súng càng lúc càng dồn dập, Tướng Nghi liền họp cùng Chuẩn Tướng Nhựt, Đại Tá Lương và tôi để tái đuyệt xét t́nh h́nh. V́ lẽ mặt trận đă bị thủng từ Du Long và địch đang hăm dọa căn cứ nên Trung Tướng Nghi dự tính có thể sẽ dời Bộ Tư Lệnh Tiền Phương về Cà Ná để lập tuyến pḥng thủ mới tại đó, nếu địch chọc thủng được pḥng tuyến bảo vệ phi trường, dự trù sẽ đi khỏi phi trường từ cổng số 1 và đi cùng Trung Đoàn 5.
    Khoảng10,30 giờ sáng, măi đến khi các toán quân địch sắp tiến vào Bộ Tư Lệnh Tiền Phương th́ Trung Tướng Nghi mới ra lịnh rời căn cứ bằng đường bộ, từng đơn vị theo đơn vị trưởng ḿnh rút theo hướng Nam về Cá Ná để lập pḥng tuyến mới. Trung Tướng Nghi, Đại Tá Lương, Ông Lewis chuyên viên Ṭa Đại Sứ Mỹ cùng các quân nhân của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương, Sư Đoàn 6 Không Quân, Lữ Đoàn 2 Dù cùng các toán quân lẻ tẻ của Liên Đoàn 3I Biệt Động Quân lối 400 người rời căn cứ tiến ra cổng số 1 về hướng Nam.
    Đoàn quân di chuyển trật tự đến cổng số 1 khoảng 11 giờ, để cùng đi với Trung Đoàn 5 về Cà Ná như dự định. Tại đây, v́ không liên lạc được với Chuẩn Tướng Nhựt, nên Trung Tướng Nghi quyết định theo đường rào phía Nam, di chuyển dọc theo đường từ Tour Cham đến ngă ba An Phước. đoàn quân an toàn đến Thôn Mỹ Đức lúc 12 giờ trưa.
    Trên đường rút khỏi Ba Tháp, Tiểu Đoàn 3 Dù lần xuống băi biển, tẻ sâu về hướng Nam và không c̣n thấy Giang Đoàn 27, chiến hạm WHEC cùng bất cứ chiếc tàu nào khác tại cảng Ninh Chử. đến một băi cát xa hơn về hướng Nam của thị xă, đơn vị Dù nầy, gặp và kháng cự với một toán quân địch khác đến bao vây. Sau khi thoát ṿng vây với ít nhiều tổn thất, Tiểu Đoàn 3 Dù được một đoàn trực thăng, bốc về an toăn. (Đoàn trực thăng cấp cứu nầy, dự trù đón Bộ Tư Lệnh Tiền Phương, nhưng v́ Trung Tướng Nghi không thuận cho đáp v́ lư đo an toàn băi đáp, nên trên đường trở về, mới bốc được toán Dù trên.)
    Tiểu Đoàn 11 Dù c̣n lại rút được qua sông, phối hợp với toán quân vừa thoát khỏi trận phục kích ở Thôn Phú Quư về được an toàn.
    Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân và Sư Đoàn 2 Bộ Binh với một ít đơn vị cố gắng di chuyển về Nam lại chịu thêm tổn thất trên đường rút lui. Đại Tá Lê Thương, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 2 Bộ Binh, trên đường rút về An Phước nơi có Trung Đội Pháo Binh đang trú đóng, cũng gặp địch đă đóng làm nút chận tại đây rồi,
    Tại phi trường, khi đoàn quân của Trung Tướng Nghi di chuyển khá xa, th́ Sư Đoàn 325 VC phối họp với Sư Đoàn 3 VC cùng Đoàn 968 tấn công và chiếm phi trường lúc 11,30 giờ trưa.
    Thiệt hại của Sư Đoàn 6 Không Quân rất đáng kể v́ mất toàn bộ kho bom đạn và các trang thiết bị phụ thuộc, với lối 10 phi cơ đủ loại không bay được. Tuy nhiên tổn thất hành quân tương đối là nhẹ: 1 A37 rớt, 4 A37 bị bắn về đáp an toàn, 2 trực thăng cháy, 1 phi cơ quan sát cùng khá nhiều trực thăng bị bắn nhưng về đáp được an toàn.
    Hải Quân ta chỉ có một số ít Giang Thuyền bị ch́m và một chiến hạm bị pháo.
    Tại Thôn Mỹ Đức lúc khoảng 4 giờ chiều, Trung Tướng Nghi được toán truyền tin của Đại Tá Lương cho hay có 1 đoàn phi cơ xin xác nhận vị trí để xuống bốc. Lúc bấy giờ, với số gần 700 quân nhân và thân nhân nên khó bốc hết được, vả lại khi trực thăng đến, khó ḷng mà giữ được trật tự, chắc chắn sẽ tạo hổn loạn làm lộ mục tiêu giúp địch đến vây bắt. V́ vậy Trung Tướng Nghi quyết định v́ sự an toàn cho đồng đội, từng khổ cực chiến đấu với nhau mà không v́ an toàn cho bản thân, nên ra lịnh toán cứu cấp đó không nên đáp, và chỉ nên đến ngày hôm sau, tại một địa điểm xa hơn về phía Nam.
    Lúc 9 giờ tối, dưới sự hướng dẫn của Đại Tá Lương, đoàn người bắt đầu rời Thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa th́ bị phục kích. Trung Tướng Nghi, Ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn 3 chúng tôi ngược về Nha Trang sáng hôm sau. Trên đường tôi thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt đọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thiểu, lang thang đi ngược trở về. Tôi bổng cảm nhận rất có tội đối với đồng bào, v́ làm Tướng mà không giữ được Thành. Ở tại đồn điền Yersin 2 ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẳng bằng đường bộ. Tại đây, ngày 22.4.1975 chúng đem phi cơ chở chúng tôi ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù binh Mỹ. Chúng thả Ông Lewis vào tháng 8.1975, Trung Tướng Nghi vào năm 1988 và tôi năm 1992.

    IV. Kết Luận
    Sư Đoàn 6 Không Quân rời Pleiku ngày 16.3.1975 đến tạm trú tại Nha Trang. Ngày 22.3.1975 được lịnh đến căn cứ Phan Rang đồn trú. Chưa kịp thích nghi với sanh hoạt địa phương th́ phải đương đầu với nhiều nổi ưu lự kể từ lúc Nha Trang rút bỏ. Liên tiếp trong 16 ngày, toàn thể quân nhân Sư Đoàn 6 Không Quân đă khắc phục bao khó khăn, trong một hoàn cảnh khác thường của một căn cứ Không Quân bổng trở thành một tiền đồn, vừa thi hành các phi vụ, vừa tham gia chiến đấu như bộ binh.
    Địa Phương Quân và Nghĩa Quân Phan Rang có những đơn vị hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ đáng khen, như việc bảo vệ Giáo Xứ Hồ Diêm được an toàn là một thí đụ.
    Sư Đoàn 2 Bộ Binh với 2 Trung Đoàn 4 và 5, tuy có một số lớn quân nhân hảy c̣n hoang mang, dao động v́ lo lắng cho thân nhân c̣n kẹt lại khi đơn vị vội vả rút lui, nhưng cũng đă cố gắng tham đự.
    Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân với 3 Tiểu Đoàn 31, 36 và 52, chứng minh được cái tinh thần của người Chiến Sĩ Mũ Nâu, mặc dầu sau những trận đánh ác liệt tại Chơn Thành được điều động thẳng ra Phan Rang, không có một ngày nghĩ dưỡng quân, cũng như không được bổ sung quân số, tái trang bị đầy đủ.
    Lữ Đoàn 2 Dù với các Tiểu Đoàn 3, 7 và 11 cùng Tiểu Đoàn 5 của Lữ Đoàn 3 Dù đă chiến đấu rất tích cực và tạo được sự tin tưởng của nhiều người, quả xứng đáng là những đơn vị thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.
    Với những đơn vị như trên cộng thêm Phan Rang có vị trí rất thuận lợi cho việc pḥng thủ, đáng lư Phan Rang không thể bị chiếm quá nhanh như thế được.
    Chiếm được Phan Rang, địch mới có lư do tung ra kế hoạch Tổng Công Kích, mà đáng lư ra theo dự trù, chúng chỉ có thể tung ra vào năm1976 thay v́ năm 1975. Tướng VC Văn Tiến Dũng, sau chiến thắng, đê tuyên bố tại Cuba: " Khi chiếm được Phan Rang th́ coi như chiếm được miền Nam." Lời tuyên bố nầy chứng minh được việc chọn pḥng tuyến Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Việc mất Phan Rang quả đúng là một tổn thất quá lớn cho công cuộc bảo vệ Miền Nam vậy.
    Đă hơn 25 năm, chắc chắn tôi không thể c̣n nhớ đầy đủ các điễn biến liên quan đến việc pḥng thủ Phan Rang. Tôi đă tham khảo một vài tài liệu và tiếp xúc một vài thân hữu. Cộng với kư ức, tôi đă cố gắng ghi lại trong bài viết nầy mọi hiểu biết có thể có và đương nhiên chắc phải có nhiều thiếu sót.


    Viết xong ngày 15 tháng 1 năm 2002
    Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang

  3. #43
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771


    SU DOAN 3 BO BINH QLVNCH


    Thành lập tháng 10/1971 trách nhiệm pḥng thủ tỉnh Quảng Trị, tan hàng lần thứ nhất tại Quảng Trị (1/4/1972), sau khi tái bổ sung chịu trách nhiệm an ninh Tiểu khu Quảng Nam, Đà Nẵng, từ Quế Sơn, Quảng Tín đến Hải Vân, Đà Nẵng (1973), sau khi di tản khỏi Quân khu 1 tháng 3/1975 được giao trách nhiệm pḥng thủ Phước Tuy, tan hàng lần hai tại Phước Tuy ngày 30 tháng 4/1975.

    Nhằm trám lỗ hổng to lớn sau khi quân đội Hoa Kỳ triệt thoái để lại ở vùng Phi Quân Sự, vào ngày 1 tháng 10/1971, QLVNCH cho thành lập Sư đoàn 3 BB, biệt danh Sư đoàn Bến Hải, từ Trung đoàn 2 BB. Từ Bộ Tổng Tham mưu đến Trung tướng Hoàng Xuân Lăm, Tư lệnh Quân đoàn 1 bấy giờ, đều không tin là CSBV dám vi phạm Hiệp định Geneva tấn công qua vùng Phi Quân Sự. Do đó Sư đoàn 3 BB tân lập này sẽ không đụng trận lớn mà có nhiều thời gian huấn luyện chuẩn bị chiến đấu.

    Ngoài Trung đoàn 2 BB, là một trong các trung đoàn bộ binh thiện chiến nhất của QLVNCH, với nhiều kinh nghiệm chiến đấu ở vùng hỏa tuyến và Thiết đoàn 11 Kỵ binh được tách ra từ Sư đoàn 1 BB, Trung đoàn 56 và 57 BB tân lập của Sư đoàn 3 BB gồm có các binh sĩ Địa phương quân và Nghĩa quân tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên được đôn lên, các thành phần lính vô kỷ luật, bất măn từ các đơn vị khác, cùng các quân phạm và đào binh được ân xá. Vũ khí và trang bị cũng thiếu hụt do phải xin từ các đơn vị bạn. Các đơn vị mới vừa hoàn tất chương tŕnh huấn luyện cơ bản, chưa có kinh nghiệm phối hợp chiến đấu.
    Bù lại đơn vị được chỉ huy bởi Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, xuất thân từ binh chủng Nhảy dù, từng chỉ huy Trung đoàn 2 BB và là Tư lệnh phó Sư đoàn 1 BB trong chiến dịch Hạ Lào. Chuẩn tướng Giai là một trong những chỉ huy trẻ, năng động và có nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Biết được những yếu kém và thiếu sót của đơn vị tân lập, ông trực tiếp trông coi nỗ lực huấn luyện cũng như thường xuyên thanh sát các vị trí pḥng thủ. Để khắc phục khả năng cơ động yếu kém của các đơn vị, Tướng Giai cho phân tán Sư đoàn 3 BB ra nhiều cứ điểm pḥng thủ nhỏ để tránh bị tiêu diệt bới một cuộc tấn công lớn và hoán chuyển thường xuyên để các đơn vị dưới quyền đều quen thuộc với các khu vực trách nhiệm. Tuy nhiên phần lớn những nhu cầu đ̣i hỏi của ông để gia tăng hiệu quả chiến đấu cho Sư đoàn 3 BB đều không được Trung tướng Hoàng Xuân Lăm đáp ứng.

    Sau khi triệt thoái khỏi Quảng Trị tháng 4/1972 và tái xây dựng ở Trung tâm Huấn luyện Ḥa Cầm xong, Sư đoàn 3 BB dưới quyền Tư lệnh mới của Chuẩn tướng Nguyễn Duy Hinh được Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 giao cho trách nhiệm pḥng giữ thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam, đặc biệt là khu vực hướng tây nam qua ngă thung lũng Quế Sơn và quận Đức Dục nơi mà Sư đoàn 711 CSBV đă cố chiếm để đặt phi trường và thành phố Đà Nẵng trong tầm pháo. Bộ Tư lệnh SD 3 BB đặt tại căn cứ Hoà Khánh, phía nam đèo Hải Vân, gần ngă ba Huế.

    Từ hậu cứ của Quân khu 5 CSBV ở Hiệp Đức thuộc địa phận tỉnh Quảng Tín, Sư đoàn 711 Cộng quân thường dàn quân trên các sườn núi hai bên thung lũng để chờ cơ hội tiến ra khu vực đồng bằng duyên hải nên cuối năm 1972, Sư đoàn 3 BB đă cho mở cuộc hành quân tấn công vào căn cứ địa này. Ngày 3 tháng 1/1973, Trung tướng Ngô Quang Trưởng tăng cường TRD 51 BB của SD 1 BB cho Tướng Hinh để tấn công vào khu vực căn cứ West, đồi 1460 phía đông Hiệp Đức, trong khi Trung đoàn 2 BB kiểm soát tỉnh lộ 534 dẫn vào Hiệp Đức. Cuối tháng 1/1973, SD 3 BB phải hủy bỏ cuộc hành quân này để rút về yểm trợ cho các đơn vị Địa phương quân-Nghĩa quân giải tỏa các cuộc hành quân “Dành dân Lấn đất” của CSBV trước ngày ngưng bắn trong các khu vực phía tây và tây nam Đà Nẵng trong các quận Hiếu Đức, Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Đức Dục và Quế Sơn.

    Trong năm 1973, Bộ Tư lệnh SD 3 BB đă cho Trung đoàn 2, được tăng cường thêm Trung đoàn 6 của SD 2 BB, tái chiếm lại Tiên Phước, tỉnh Quảng Tín. Sư đoàn 3 BB cũng tiến dần vào giải tỏa khu vực Hiệp Đức với căn cứ Ross là vị trí tiền đồn sâu nhất trong thung lũng Quế Sơn. Do thành quả này, Chuẩn tướng Hinh được thăng cấp Thiếu tướng và Sư đoàn 3 BB được Bộ Tổng Tham mưu đánh giá là một trong những Sư đoàn khá nhất của QLVNCH trong năm.

    Tháng 3/1975, khi QD 1 phải triệt thoái, SD 3 BB được lệnh rút về pḥng tuyến sông Thu Bồn làm nút chận cho quân bạn rút lui. Trong buổi họp tối ngày 28 tháng 3/1975 tại Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải trong căn cứ HQ Tiên Sa, sau khi Trung tướng Ngô Quang Trưởng thông báo quyết định bỏ Đà Nẵng của Tổng thống Thiệu, ông chỉ thị Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh đưa SD 3 BB ra băi bắc Hội An để tàu Hải quân đón. Tướng Hinh xin 24 giờ để có thể điều động xong các đơn vị trực thuộc nhưng không được chấp thuận. Sau cùng, chỉ có 1/3 quân số của SD 3 BB rút về được đến Nam Ô. Về phần Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh SD 3 BB, và Bộ Chỉ huy Hành quân QD 1 tại phía nam Sơn Trà cùng một số sĩ quan Không quân được chiến hạm HQ 802 đưa tàu nhỏ vào cứu sau khi gửi tín hiệu khẩn cấp. Sau khi QD 1 tan ră, thành phần c̣n lại của Sư đoàn về tỉnh Phước Tuy tái bổ sung gộp chung với các đơn vị c̣n lại của SD 1 BB. Sư đoàn được giao trách nhiệm pḥng thủ khu vực Bà Rịa-Vũng Tàu và quốc lộ 15 với lực lượng tăng cường gồm Chi đoàn 2 của Thiết đoàn 15 KB và Lữ đoàn 1 ND. Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh SD 3 BB, được bổ nhiệm Tư lệnh Mặt trận Bà Rịa-Vũng Tàu để tổ chức pḥng thủ và đánh đuổi Cộng quân ra khỏi trung tâm thị xă.
    Sáng ngày 30 tháng 4/1975 sau khi tân Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố yêu cầu các đơn vị ở yên tại chỗ chờ bàn giao, thành phố Vũng Tàu mất vào tay CSBV, Sư đoàn coi như tan hàng tại đây.

    ● Thông thường, một sư đoàn bộ binh có 3 trung đoàn. Riêng Sư đoàn 1 BB trước tháng 10/1971 có 4 trung đoàn. Một ngoại lệ nữa là TRD 2 BB lại có 5 tiểu đoàn thay v́ 3, và mỗi tiểu đoàn có 4 đại đội, nên trung đoàn này có 20 đại đội. Do đó, BTTM chỉ cần bổ sung thêm 7 đại đội để thành lập sư đoàn mới.

    Đơn vị trực thuộc
    DD 103 QC
    PB SD 3 BB
    TD 11 KB
    TD 3 CB
    TD 3 QY
    TRD 2 BB
    TRD 56 BB
    TRD 57 BB
    . . .
    Chỉ huy
    10/1971 Chuẩn tướng Vũ Văn Giai
    7/1972 Chuẩn tướng Nguyễn Duy Hinh
    Chiến trường tham dự
    ● Quân khu 1 (1972)
    ● CCHL Ái Tử (4/1972)
    ● Quảng Trị (4/1972)
    ● Quân khu 1 (5/1972)
    ● Thường Đức (1974)
    ● Quân khu 1 (3/1975)
    ● Đà Nẵng (3/1975)
    ● Quảng Nam (3/1975)
    ● Quảng Tín (3/1975)
    ● Bà Rịa (4/1975)
    ● Phước Tuy (4/1975)
    ● Vũng Tàu (4/1975)


    Tiểu sử Đơn vị trưởng
    ● Chuẩn tướng Vũ Văn Giai
    Thiếu tá Trưởng pḥng 2 SD 1 BB (1964), thăng Trung tá Trung đoàn trưởng TRD 2 BB kiêm Biệt khu trưởng Biệt khu Giới tuyến (6/1966), sau Tổng công kích Tết Mậu Thân thăng Đại tá (1/1969), giữ chức vụ Tư lệnh phó SD 1 BB (9/1969), Tư lệnh ...
    ● Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh
    Thiếu tá Thiết giáp (1960), Chuẩn tướng Tư lệnh phó QD 4-QK 4 (1971), đặc trách B́nh định Phát triển, theo Trung tướng Ngô Quang Trưởng ra Huế giữ chức vụ Tham mưu trưởng QD 1-QK 1 kiêm Tư lệnh Biệt khu Quảng Đà (2/5/1972), sau đó giữ chức vụ ...

    Được biết...
    ● Khưu Đức Hùng - Phụ tá Tư lệnh SD 3 BB đặc trách Hành quân (1971)
    ● Ngô Văn Chung - Tư lệnh phó SD 3 BB (1971)
    ● THIET DOAN 11 KY BINH - Trực thuộc SD 3 BB sau ngày sư đoàn này được thành lập (1/10/1971)
    ● TIEU DOAN 3 QUAN Y - Tan hàng (1/4/1972, xem SD 3 BB)
    ● Quảng Trị - Sau khi SD 3 BB và các đơn vị tăng phái rút khỏi Quảng Trị vào đầu tháng 5/1972, Lữ đoàn 369 TQLC đă lập ngay tuyến chận địch ở sông Mỹ Chánh
    Ngày 1 tháng 5/1972, LD 147 TQLC, LD 1 BDQ và các đơn vị c̣n lại tại Quảng Trị của SD 3 BB, là những đơn vị cuối cùng rút khỏi thành phố
    ● LIEN DOAN 14 BDQ - Tăng phái cho SD 3 BB trấn giữ Nông Sơn và Thường Đức, Quảng Nam (1974)
    ● Ngô Văn Lợi - Tư lệnh phó SD 3 BB (1975)
    ● Nguyễn Hữu Cam - Chỉ huy trưởng PB SD 3 BB (1975)
    ● TRUNG DOAN 5 BO BINH - Cuối tháng 3/1975, Trung đoàn đă phải rút về vùng hoạt động của SD 3 BB ở phía bắc quận Thăng B́nh
    ● TRUNG DOAN 2 BO BINH - Tháng 3/1975, sau khi Quân đoàn 1 triệt thoái khỏi Đà Nẵng, SD 3 BB rút về tỉnh Phước Tuy tái bổ sung từ thành phần c̣n lại của SD 1 BB
    ● Đà Nẵng - 7 giờ 30 tối ngày 28 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng và vài sĩ quan tham mưu Quân đoàn 1 đến Bộ Tư lệnh SD 3 BB tại căn cứ Ḥa Khánh
    ● THIET DOAN 15 KY BINH - Tăng cường cho SD 3 BB pḥng thủ khu vực Bà Rịa-Vũng Tàu và quốc lộ 15 (24/4/1975)
    ● CHI DOAN 2/15 KY BINH - Tăng cường cho SD 3 BB khi sư đoàn này triệt thoái khỏi Quân khu 1 pḥng thủ khu vực Bà Rịa-Vũng Tàu và quốc lộ 15 (24/4/1975)

  4. #44
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TRẢ LẠI SỰ THẬT CHO LỊCH SỬ VỀ VIỆC SƯ ĐOÀN 3-BB
    LUI QUÂN TẠI QUẢNG TRỊ VÀO MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972.

    Thế Huy, Paris.
    August 6, 2010

    Năm nay, tháng 7/2010, trong dịp nghỉ hè tại Mỹ, chúng tôi gặp một số sĩ quan Sư đoàn 3 Bộ Binh (BB) cư ngụ tại vùng Nam California. Trong cuộc trao đổi, anh em nhắc lại kỷ niệm của những ngày binh lửa, trong đó có cuộc lui quân của các đơn vị thuộc SĐ3 trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” năm 1972. Sự kiện đó đă khơi lại trong tôi nỗi bẽ bàng, đắng cay về một trận đánh oan khiên tới độ phi lư mà các đơn vị trú pḥng tại đây đă phải gánh chịu và đấy cũng là những băn khoăn, thắc mắc nằm sâu trong kư ức tôi từ hơn 38 năm rưỡi qua.

    Tưởng cũng phải nói ngay rằng: Khi cuộc lui quân để tái phối trí này xảy ra, tôi đang làm việc tại Ban Nghiên cứu và Kế hoạch Đặc biệt, dưới quyền Tr/tá Phạm Đức Lợi (1) thuộc Phân Khối Không ảnh/Pḥng 2/Bộ Tổng Tham Mưu. Nhiệm vụ của chúng tôi là ghi nhận tất cả mọi diễn biến, mọi đổi thay trên toàn lănh thổ Miền Bắc và các hoạt động địch trên Đường Ṃn HCM. Trung b́nh mỗi tuần, chúng tôi có 2 hoặc 3 nhiệm ảnh do Hoa Kỳ cung cấp. Chúng tôi khẳng định là TT Thiệu, Thủ Tướng Khiêm và Đại Tướng Viên nắm rất rơ t́nh h́nh và biết chắc rằng VC sẽ tấn công qua vùng phi quân sự. Ba vị lănh đạo cao nhất đă được chúng tôi đệ tŕnh những tấm Slides được phóng lớn với đầy đủ chi tiết từ cuối năm1971 cho đến ngày xảy ra trận chiến vào cuối tháng 3/1972 v́ từ mùa thu 1971, VC đă ráo riết đưa hàng đoàn xe ủi đất và dân công để làm một lộ tŕnh mới từ đường ṃn HCM đi về hướng đông nam đến tận vùng Phi Quân Sự (PQS). Con đường này đă được hoàn tất vào khoảng tháng 1/1972. Những tin tức t́nh báo kỹ thuật cũng xác nhận sự kiện đó. VC c̣n thiết lập các vị trí hỏa tiễn SAM, pháo 130 ly và hoả tiễn 122 ly ngay cạnh vùng Bắc PQS. Điều đó có nghĩa là các căn cứ hoả lực của ta tại vùng Nam Bến Hải đều nằm trong tầm pháo của VC. Mỗi chiều thứ sáu, Đại tá Phạm Ngọc Thiệp, Trưởng Pḥng 2/TTM đều thuyết tŕnh trước ba vị lănh đạo quân sự cao nhất của VNCH về t́nh h́nh QS tại toà nhà chính Bộ TTM, nhưng những hoạt động địch tại phía Bắc vùng PQS vẫn tiếp tục. Hơn thế nữa, khi VC làm tiếp đoạn đường này xuyên qua sông Bến Hải vào tận vùng phi quân sự phía Nam mà vẫn không thấy bên ta động tĩnh ǵ, mặc dù nhiều lần chúng tôi đă xin Không Quân HK oanh kích. Sự bỏ ngỏ và thái độ khó hiểu của các giới chức Việt-Mỹ lúc đó đă làm cho chúng tôi hết sức kinh ngạc.

    I. Mạn đàm với Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, Cựu Tư lệnh SĐ3-BB:

    Cuộc tṛ truyện với các chiến hữu SĐ3 khiến tôi nghĩ đến việc t́m hiểu thêm để viết về những điều đă khiến tôi bận tâm và băn khoăn từ mấy chục năm qua. Bởi vậy, tôi ngỏ ư muốn gặpTướng Giai để biết thêm về những điều mà tôi nghĩ rằng chỉ có ông mới trả lời chính xác được. Bốn ngày sau, vào trung tuần tháng 7/2010, tôi đến gặp Tướng Giai tại tư gia của ông cũng ở Nam California. Đi cùng với tôi là Tr/tá Nguyễn Tri Tấn, cựu Trung đoàn phó Trung đoàn 2/SĐ3. Khi VC tấn công qua sông Bến Hải, ông Tấn là Tiểu đoàn trưởng TĐ3/2/SĐ3. Ông là người rất gần gũi với Tướng Giai v́ đă cùng tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào trước đây.

    V́ làm việc chung với Mỹ nên chúng tôi thường sử dụng các tên ngoại quốc mà người Mỹ đă đặt cho các căn cứ hoả lực tại vùng nam vĩ tuyến 17. Do đó, chúng tôi muốn biết là khi VC tấn công, các căn cứ này do Hoa Kỳ hay VN trấn giữ th́ Tướng Giai cho hay là hoàn toàn do VNCH trách nhiệm.

    Về việc VC sửa soạn tấn công, Tướng Giai tiết lộ rằng ông đă được cố vấn Mỹ báo trước, nhưng trong cương vị của ḿnh, ông không thể làm ǵ hơn được. Khi cuộc chiến xảy ra, các cố vấn Mỹ khuyên ông lui quân để pḥng thủ ở tuyến sau v́ theo họ, lực lượng trú pḥng của ta không thể đương cự được. Được hỏi về dư luận cho rằng Tướng Hoàng Xuân Lăm ra khẩu lệnh cho ông rút quân, nhưng sau đó Tướng Lăm đă phủ nhận để tránh trách nhiệm; Tướng Giai trả lời rằng điều đó không đúng. Ngược lại, ông Lăm muốn SĐ3 giữ nguyên vị trí, dù áp lực và các trận địa pháo của địch đă phá vỡ nhiều pḥng tuyến khiến các đơn vị pḥng thủ hoang mang và vô cùng hoảng hốt.

    Tướng Giai cũng cho chúng tôi biết thêm là ngay từ đầu, HK đă chống lại việc thành lập SĐ3 v́ họ đă chuẩn bị cho việc rút quân Mỹ ra khỏi VN và không chấp nhận việc tăng quân viện cho VNCH. SĐ3-BB ra đời hoàn toàn do quyết định của Bộ TTM/QLVNCH. Do đó, Mỹ hầu như bỏ mặc cho phía VN xoay trở với những khó khăn tại vùng địa đầu giới tuyến do SĐ này đảm trách. Sự kiện trên khiến tôi liên tưởng tới cái chết của Đại tá Lê Đức Đạt, TL/SĐ22 v́ ông không được cảm t́nh của John Paul Vann, người cố vấn Mỹ “rất đặc biệt” tại Quân đoàn 2 lúc đó.

    Trả lời câu hỏi là trước khi VC mở cuộc tấn công và với t́nh h́nh sôi động như vậy, SĐ3 có được tăng cường đặc biệt bằng các đơn vị tổng trừ bị hay không; Tướng Giai xác nhận là các đơn vị TQLC và BĐQ th́ đă được tăng phái cho SĐ3 từ khá lâu. Riêng trong những ngày trước khi cuộc đánh đẫm máu xảy ra th́ không có thêm lực lượng nào khác. Ngoài ra, cựu TL/SĐ3 c̣n cho chúng tôi hay rằng: Trước đó một tháng, Tướng Lavelle, Tư lệnh Không quân Mỹ tại Thái b́nh Dương v́ ra lệnh cho KQ Mỹ bắn cháy một số xe tăng của VC nên ông ta đă bị Mỹ cách chức, lột lon và truy tố!

    Cũng trong cuộc mạn đàm này, chúng tôi được biết thêm là song song với những biến chuyển của t́nh h́nh Quảng Trị, Mỹ và VC vẫn tiếp tục gặp gỡ nhau trên bàn Hội Nghị Paris, và từ trước năm 1971, hai bên đă thoả thuận về việc cấm mọi hoạt động của các phi cơ quân sự Việt-Mỹ tại vùng Bắc sông Bến Hải. Sự kiện này khiến chúng tôi hiểu tại sao những bản “Đề nghị mục tiêu oanh kích” mà chúng tôi gửi cho BTL/MACV của Mỹ ở Sài G̣n, vào thời điểm đó, đă không được thực hiện. Đấy cũng là lư do khiến KQ/VNCH từ Đà Nẵng không được phép tấn công và phá hủy ngay từ khi VC bắt đầu mở lộ tŕnh mới từ đường ṃn HCM dẫn đến vùng Bến Hải hầu tiếp cận các căn cứ hoả lực và các đơn vị pḥng thủ của VNCH tại phía nam của vùng PQS. Rơ ràng là HK đă dọn đường và dành mọi điều kiện thuận lợi cho VC tấn công VNCH mà trước đó họ vẫn ca tụng là “Tiền đồn chống Cộng” của Thế giới Tự Do. Tổng Thống Thiệu, ĐT Viên dư biết các sự kiện đó, nhưng tại sao các ông không t́m một biện pháp nào tương xứng để pḥng bị hoặc đối phó? Phải chăng VNCH đă được lănh đạo bởi những người không đủ đảm lược và tầm vóc?

    Tướng Giai c̣n cho chúng tôi hay rằng cũng vào thời điểm này, TT Thiệu tuyên bố ngụ ư rằng đây sẽ là mồ chôn của VC.

    Chúng tôi hỏi là: Về tương quan lực lượng giữa ta và địch trước khi VC tấn công vào vùng hoả tuyến, niên trưởng có nghĩ rằng việc sử dụng một Sư đoàn tân lập với một quân số phức tạp như SĐ3-BB để đương đầu với một lực lượng VC có một quân số nhiều lần lớn hơn và được xe tăng, pháo binh yểm trợ mạnh mẽ; là một sai lầm nghiêm trọng của Bộ TTM ở Sài G̣n hay không? Tướng Giai không trả lời, ông mỉm cười, một nụ cười héo hon, chua xót khiến chúng tôi chạnh ḷng và xúc động. Những thắc mắc của chúng tôi hầu như đă được giải tỏa. Hơn nữa, chúng tôi không muốn khơi lại vết thương ḷng của một vị tướng vừa được vinh thăng tại mặt trận, nhưng chỉ it lâu sau đó, bị tước đoạt binh quyền và khi VC chiếm được Miền Nam, ông lại bị Cộng Sản đọa đày thêm 13 năm nữa. Ông hiện sống âm thầm, ẩn dật, và khép kín trong một chung cư dành cho người già cùng người vợ yếu đau và chính ông, sức khoẻ cũng không được khả quan lắm.

    Có lẽ v́ định mệnh, khi BTL SĐ3-BB di chuyển về căn cứ Hoà Khánh tại phía nam đèo Hải Vân, gần Ngă ba Huế; tôi được thuyên chuyển từ Sài G̣n ra tăng cường cho P2/SĐ3. Ngay sau khi tŕnh diện Chuẩn tướng Hinh, Tư lệnh SĐ3, tôi được gửi ra Bộ tư lệnh (BTL) tiền phương đóng tại Hương An và đi bay với các toán trực thăng Mỹ trong các cuộc hành quân “lấn đất giành dân” trước khi bản Hiệp Định Paris được kư kết vào ngày 27/01/1973. Trong gần ba năm, tôi đă chứng kiến điều kiện chiến đấu khó khăn của các đơn vị tiền đồn và tôi hiểu rằng Miền Nam sẽ mất vào [tay CS] bất cứ lúc nào.

    Tiếp liệu và đạn dược bị hạn chế tối đa. Một viên đạn bắn đi là kho đạn trung ương hao đi một ít v́ không được bổ sung. Nguyên tắc “một đổi một” được quy định trong HĐ Paris không được phía HK thực hiện. Điều đó có nghĩa:VNCH là một con bệnh mắc chứng nan y nằm chờ chết! Chiến đấu trong hoàn cảnh đó là chiến đấu trong nỗi tuyệt vọng. Ai chịu trách nhiệm về việc này?

    Tại Ngă ba Huế, tôi chứng kiến cảnh dân quân VNCH từ Huế vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng trong những ngày 21, 22/3/75. Đúng một tuần lễ sau, lúc 00giờ20 ngày 29/3/75, tôi cũng là một trong những người sau cùng rời Căn cứ Hoà Khánh bằng đường bộ sau khi Tướng Hinh và một số sĩ quan cao cấp nhất có mặt tại BTL-SĐ3 lên trực thăng bay ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi gần Đà Nẵng. Hai mươi mốt ngày sau, tôi t́m về được với gia đ́nh và người thân ở Sài G̣n đúng 10 ngày trước khi thủ đô của VNCH rơi vào tay CS.

    II. Phân tích và nhận định về cuộc lui quân để tái phố trí của SĐ3-BB khỏi Quảng Trị năm 1972:

    Chúng tôi không nhắc lại chi tiết của các trận đánh v́ trong suốt mấy chục năm qua, nhiều tác giả tham dự trong biến cố này đă viết khá đầy đủ. Hơn nữa, đó cũng không phải là chủ đích của bài viết này.

    Theo quan niệm của chúng tôi th́ sự thành công hay thất bại, dù huy hoàng hay chua xót tới đâu, chúng ta cũng có thể phân tích và nhận định một cách khách quan để từ đấy, rút ra những kinh nghiệm hữu ích cho các thế hệ tương lai, nhất là những thất bại, để con cháu chúng ta không rơi vào vết xe đau thương và bẽ bàng của ông cha chúng.

    Để nh́n vấn đề một cách trung thực và chính xác hơn, chúng ta phải nh́n từ “góc cạnh chính trị” của cuộc chiến VN vào thời điểm đó. Tuy nhiên, trên b́nh diện thuần túy quân sự, qua việc thất bại ấy, chúng ta ghi nhận những khuyết điểm sau:

    1. Thành phần:

    Thành phần chủ lực của SĐ3 là Trung đoàn 2 lấy ra từ SĐ1. Đặc biệt, Trung đoàn này có tới 5 tiểu đoàn. Khi được chuyển qua SĐ3 th́ 3 Tiểu đoàn ở lại với Trung đoàn 2. Đây là một đơn vị dạn dày tác chiến và nổi danh từ lâu tại vùng giới tuyến. Nhưng hai Trung đoàn 56 và 57 th́ mỗi trung đoàn có một Tiểu đoàn c̣n lại của Trung đoàn 2 trước kia và một Tiểu đoàn lấy ra từ SĐ2-BB; số c̣n lại là các tân binh quân dịch, địa phương quân, nghĩa quân, và lao công đào binh chưa có kinh nghiệm chiến trường mà đột nhiên phải đối mặt với một trận đánh bốc lửa có cả tăng, pháo, và các loại vũ khí nặng của VC đánh phủ đầu th́ việc thất trận không làm ai ngạc nhiên. Vả lại, chúng ta đừng quên rằng SĐ3 và các đơn vị tăng phái đă phải đối đầu với một lực lượng địch đông gấp 3 lần về quân số, và chiến trường đă được VC sửa soạn kỹ từ nhiều tháng trước.

    2. Tinh thần và khả năng chiến đấu:

    Chỉ 3 ngày sau khi VC mở trận đánh, căn cứ Holcomb của TĐ8/TQLC đă bị VC tràn ngập. Ngay sau đó, việc đầu hàng của Tr/tá Đính, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 tại căn cứ Tân Lâm cùng 1,500 binh sĩ dưới quyền đă làm chấn động tinh thần quân nhân các cấp khiến nó trở thành một phản ứng dây chuyền trong những tuần lễ tiếp theo đối với các đơn vị khác. Hiện tượng này đă được lập lại trong cuộc di tản ồ ạt vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4/1975 tại Miền Trung trước khi mất nước.

    Tóm lại, với một tương quan lực lượng như thế và với t́nh h́nh phức tạp từ trung ương đến địa phương như đă tŕnh bày ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng bất cứ một tướng lănh nào, dù tài giỏi đến mấy, cũng khó có thể thay đổi được t́nh thế bởi nó đă vượt ra ngoài tầm kiểm soát của các cấp chỉ huy. Các đơn vị tăng phái nhiều khi nhận lệnh theo hệ thống hàng dọc từ đơn vị ḿnh chứ không hoàn toàn nằm dưới sự điều động của Tướng Giai. Với quân số như thế, cuộc hành quân này trở thành một cuộc hành quân cấp quân đoàn, vượt khỏi khả năng của Tướng Giai vừa được vinh thăng chuẩn tướng sau cuộc hành quân Hạ Lào 1971, nhất là nó lại xảy ra đúng vào lúc mà tinh thần quân nhân các cấp đang bị hoang mang, giao động hết mức.

    3. Các yếu tố chính trị liên quan đến chiến cuộc tại Miền Nam:

    Trước t́nh h́nh hết sức xáo trộn tại Miền Nam sau ngày QĐ đảo chính lật đổ chính phủ Đệ Nhất Cộng Hoà, người Mỹ đến VN “gọi là” để giúp VNCH trong cuộc chiến đấu chống cộng và họ hy vọng rằng chiến tranh sẽ chấm dứt trong một thời gian ngắn bởi họ tin tưởng hầu như tuyệt đối vào hiệu năng của vơ khí. QĐ Mỹ đă chiến thắng hai cuộc Đại Chiến Thế Giới và đă thắng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, đè bẹp đạo quân Trung cộng và Bắc Hàn năm 1953 nên người Mỹ nghĩ rằng sẽ dễ dàng giải quyết cuộc chiến tại VN. Những người làm sách lược và chỉ huy QĐ Hoa Kỳ không hiểu được bản chất và sách lược của cuộc chiến tranh du kích là kéo dài thời gian làm cho đối phương mất kiên nhẫn, mệt mỏi, chán nản và căng thẳng thần kinh khiến đối thủ phải bỏ cuộc. Với phương thức đánh lén, đánh trộm, họ có thể tấn công đối thủ vào những lúc bất ngờ và thuận lợi nhất nên dễ đạt được kết quả mà chỉ cần rất ít người tham chiến. Giả dụ, nếu thua họ sẽ dễ dàng trà trộn vào đám đông, quần chúng hay trốn vào rừng hoặc chạy qua biên giới các nước bên cạnh. Qua h́nh thái chiến tranh ấy, VC đă làm cho người Mỹ chán nản v́ bị thiệt hại khá nhiều về sinh mạng cũng như về ngân sách mà kết quả đạt được không như dự tính.

    Bản chất của người Mỹ là mau chán, tiết kiệm thời gian. Làm việc ǵ họ cũng đặt nặng vấn đề thời gian và năng suất bởi vậy cuối năm 1964 họ đổ quân vào VN và cuối năm 1967 họ đă nghĩ đến việc rút quân. Việc QĐ Hoa Kỳ án binh bất động khi VC bắt đầu tấn công QLVNCH trong những ngày đầu của Tết Mậu Thân 1968 đă một phần chứng minh điều đó. Cá nhân chúng tôi không tin rằng các cơ quan t́nh báo Mỹ không biết ǵ về cuộc Tổng công Kích này trước khi nó xảy ra. Là một nước cổ súy cho tự do và dân chủ, nhưng những người lănh đạo Hoa Kỳ ít quan tâm đến tâm lư, lịch sử, truyền thống và văn hoá của người bản xứ. Người Mỹ cũng không muốn hiểu rằng sự có mặt của QĐ Mỹ ở VN đă tạo cơ hội cho khối CSQT [Cộng sản Quốc tế] mở rộng mặt trận tuyên truyền lừa gạt dư luận thế giới rằng VC đánh VNCH và Mỹ là để giải phóng Miền Nam; dù thực chất đó là một cuộc xâm lăng nhằm mở rộng Khối CSQT v́ cuộc chiến VN đă bắt đầu 7 năm trước khi QĐ Mỹ đến VN. Mỗi năm CSQT đă chi ra hàng trăm triệu mỹ kim về lănh vực đó và kết quả là dư luận thế giới nghiêng về phía VC. Các cuộc biểu t́nh chống Mỹ xảy ra tại khắp nơi trên thế giới và ngay tại nước Mỹ do các thành phần phản chiến và thiên tả Mỹ chủ trương. Điều đó mặc nhiên bất lợi cho cả Mỹ lẫn VNCH.

    Nước Mỹ mỗi tháng tiếp nhận hàng trăm quan tài, hàng ngàn thương binh trở về từ một nước xa xôi, không liên hệ ǵ đến đời sống hàng ngày của họ trong khi chi phí quốc pḥng mỗi năm một tăng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Đă thế, họ c̣n bị cả thế giới lên án th́ việc chống chiến tranh cũng là một phản ứng dễ hiểu và tự nhiên. Hơn nữa, phe đối lập tại Thượng và Hạ Viện Mỹ đả kích chính phủ để kiếm phiếu trong các mùa bầu cử cũng là một yếu tố khiến Mỹ muốn rút khỏi VN. Được sự viện trợ và thúc đẩy của CSQT, VC ngày càng mở những trận đánh quy mô hơn và tổn thất của mỗi bên ngày một lớn. Sinh mạng con người đối với CS chẳng nghĩa lư ǵ, nhưng sinh mạng người lính Mỹ khiến gia đ́nh họ phải lo lắng nên họ đ̣i chính phủ HK phải chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá để chồng con của họ được lành lặn trở về trước khi trở thành quá trễ.

    4. Mục tiêu của chính phủ Hoa Kỳ khi tham chiến tại VN:

    Là một quốc gia giàu mạnh với tất cả các cơ cấu hạ tầng vĩ đại và tối tân, do đó không bao giờ HK muốn chiến tranh xảy ra ngay trên lănh thổ của ḿnh v́ sự thiệt hại về tài sản cũng như về nhân mạng sẽ vô cùng to lớn. Đó là lư do khiến HK tham dự vào 2 cuộc thế chiến ở phía bên kia bán cầu và ở Cao Ly.

    Sau thế chiến thứ 2, khối CSQT lớn mạnh và chủ trương phát động cuộc chiến tranh xâm lấn khiến HK phải áp dụng sách lược bao vây để chận đứng. Với cương vị đứng đầu phe tư bản và thế giới tự do, Mỹ viện trợ cho các nước có chiến tranh bằng chính ngân sách của ḿnh để phe thân Mỹ thắng hoặc nắm được ưu thế, chứ không nhằm biến các nước này thành thuộc địa như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đă làm từ cuối thế kỷ thứ 19. Riêng tại VN, trong cuộc chiến vừa qua, HK muốn dùng VNCH như một bức tường để ngăn chặn CSQT bành trướng về phía ĐNA [Đông Nam Á châu] v́ theo quan điểm của Mỹ lúc ấy, họ cho rằng nếu VNCH sụp đổ th́ các nước lân bang của VN sẽ dần dần rơi vào quỹ đạo của CS. VNCH chấp nhận HK là đồng minh v́ cả hai có cùng một chủ đích chống CS. Vả lại, ngoài HK ra, VNCH không c̣n một lựa chọn nào khác. Tuy nhiên, việc HK gửi quân sang VN là một điều thất sách như đă đưọc nói đến ở trên.

    5. Lư do khiến Mỹ muốn rút quân ra khỏi VN:

    Ngoài nguyên nhân là phản ứng bất lợi của quần chúng, chính phủ Mỹ c̣n nghĩ rằng nếu dùng ưu thế về vơ khí để thắng trong cuộc chiến VN th́ Mỹ lại phải đương đầu trực tiếp với Trung Cộng. Lúc ấy điểm nóng của chiến tranh sẽ là vùng biên giới Việt Trung. Điều đó nhất định không phải là điều HK mong muốn. Hơn nữa, hơn ai hết, bằng những h́nh ảnh chụp bằng phi cơ U2 bay trên thượng tầng khí quyển và không ảnh chụp từ vệ tinh, HK biết rất rơ rằng tại biên giới giữa Liên bang Xô Viết và Trung Cộng, mỗi bên đều dàn hơn 20 sư đoàn sẵn sàng tác chiến v́ sự xung đột về ư thức hệ, và v́ cả hai đều muốn cầm đầu khối CSQT. Đấy cũng là động lực thúc đẩy Mỹ làm thân với TC và mượn tay TC ngăn chận Nga mở rộng ảnh hưởng về phía nam v́ vào thời điểm ấy, tiềm lực quân sự của TC chưa thể là đối thủ và là mối bận tâm hàng đầu của Mỹ. Qua chiến lược đó, VNCH bắt buộc trở thành “vật hy sinh để tế thần”, cùng chung số phận với Đài Loan bị đẩy ra khỏi các tổ chức Quốc Tế v́ Mỹ muốn làm vừa ḷng “người bạn mới”. Đó là kết quả của chính sách”ngoại giao bóng bàn” của Henry Kissinger và Richard Nixon. T́nh nghĩa đồng minh với VNCH và Đài Loan chấm dứt! VNCH bị bức tử.

    Hai mươi năm sau, Liên Bang Xô Viết và khối CS Đông Âu sụp đổ. Trung Cộng mỗi ngày một lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự và qua những biến cố tại Biển Đông từ hơn 10 năm qua, trở thành mối lo hàng đầu của Mỹ. Trong bối cảnh ấy, HK lại t́m mọi cách để làm thân với VC để t́m một chỗ đứng tại vùng Đông Nam Á châu hầu cân bằng cán cân thế lực tại khu vực này của thế giới.

    IV. Kết Luận:

    Nhiều người trách Mỹ phản bội VNCH. Họ có thể đúng nếu trên lănh vực bang giao QT buộc tất cả các nước trên thế giới hành xử theo nguyên tắc: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Tiếc rằng, điều đó sẽ không bao trở thành sự thật như một quy ước bắt mọi người phải tôn trọng nên mỗi quốc gia đều làm những ǵ có lợi nhất cho ḿnh. Hơn ai hết, HK đă từ lâu theo đuổi chủ trương ấy. Tôi không nhớ tên một nhà lănh đạo nào đó của HK đă thẳng thắn xác định ngụ ư rằng HK không có Bạn, cũng không có Thù, chỉ có quyền lợi của HK là trên hết.

    Cuộc chiến VN đă kết thúc một cách đau thương, đầy nước mắt và cuộc lui quân của SĐ3-BB tại Vùng Hoả Tuyến năm 1972 là bước khởi đầu cho nỗi đắng cay và đọa đày chung của cả Dân Tộc.

    Khi chính trị chen vào bất cứ lănh vực nào th́ mọi lư lẽ và đạo đức phải đội nón ra đi!

    Xin một phút mặc niệm cho tất cả những người đă nằm xuống v́ LƯ TƯỞNG TỰ DO. Chúng tôi nghiêng ḿnh trước nỗi thống khổ của những chiến hữu đă bị đọa đày, khổ nhục sau cuộc chiến đấu “oan khiên nhưng hào hùng và gian khổ” để bảo vệ Đất Nước.

    Thế Huy, Paris.
    Viết xong tại California ngày 19/7/2010.

    Ghi chú: (1) Trung tá Phạm Đức Lợi tức nhà thơ Mạc ly Châu trong Hội Văn nghệ Sĩ QĐ đă tự sát tại nhà riêng ngày 30/4/75 khi VNCH rơi vào tay CS.

  5. #45
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Sư Đoàn 3 Bộ Binh Trên Cụm Tuyến Lửa Quảng Trị vào Mùa Hè 1972




    -Căn cứ Ái Tử (Quảng Trị) của Sư đoàn 3 Bộ binh

    * Lược tŕnh về cuộc tổng tấn công của 45 ngàn CQ tại Quảng Trị trong Hè 1972:

    Như đă tŕnh bày, trưa ngày 30 tháng 3/1972, Cộng quân ( CQ) đă tung 45 ngàn quân vượt sông Bến Hải tấn công cường tập vào các cứ điểm pḥng ngự của Sư đoàn 3 Bộ binh (BB) và đơn vị tăng phái tại giới tuyến. Do áp lực quá nặng của Cộng quân, chiều tối ngày 1 tháng 4/1972, các căn cứ dọc theo chu vi pḥng thủ phía Bắc được di tản và lập cụm pḥng tuyến mới kéo dài từ Cửa Việt đến phía Tây Cam Lô, tiếp đến ngày 2 tháng 4/1972, Cộng quân đă hỏa tập dữ dội căn cứ Carroll-bản doanh của trung đoàn 56 BB, đến 2 giờ 30 chiều cùng ngày, căn cứ trọng điểm này thất thủ. Trong hai ngày kế tiếp, áp lực của CQ đă đè nặng lên toàn cụm tuyến pḥng thủ phía Tây Đông Hà. Căn cứ Ái Tử-bản doanh của bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB bị pháo kích dữ dội. Ước định t́nh h́nh, Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, đă quyết định di chuyển Bộ Tư lệnh Hành quân của Sư đoàn 3 BB từ Ái Tử về Cổ Thành Quảng Trị, việc pḥng thủ căn cứ này được giao lại cho lữ đoàn 258 Thủy quân Lục chiến ( TQLC) tăng phái.

    Từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 4/1972, CQ nỗ lực mở các cuộc tấn công để chọc thủng cụm pḥng tuyến của Sư đoàn 3 BB và lực lượng tăng phái (hai Lữ đoàn 147 và 258 TQLC là nỗ lực chính) nhưng địch quân đă bị đẩy lùi. Theo sự báo cáo của các đơn vị trú pḥng, đội h́nh tấn công của CQ đă bị lực lượng VNCH bẻ găy, sự hiệp đồng trong tác chiến giữa bộ binh và chiến xa bị phá vỡ, nhiều đơn vị CQ đă phải rút khỏi trận địa trong hỗn loạn dưới các trận hỏa tập rất có hiệu quả của Pháo binh và Thiết giáp thống thuộc và tăng phái Sư đoàn 3 BB và hỏa lực của các đơn bộ chiến VNCH. Trong thời gian này, Cộng quân đă rút khỏi các tuyến tấn công để về tuyến sau tái bổ sung quân số và điều chỉnh kế hoạch.


    -Một chiến binh VNCH đứng gác bên cầu Quảng Trị

    Để tăng cường cho lực lượng pḥng thủ tại mặt trận giới tuyến, Bộ Tổng tham mưu đă điều động Liên đoàn 4 và Liên đoàn 5 Biệt động quân ( BĐQ) ở miền Nam cùng với Liên đoàn 1 Biệt động quân thống thuộc Quân đoàn 1, khẩn cấp tiếp ứng cho Sư đoàn 3 Bộ binh. Theo ghi nhận của Tướng Ngô Quang Trưởng tŕnh bày trong một bài viết cho Ủy ban Quân sử Hoa Kỳ, th́ đă có sự bất đồng lớn giữa Tư lệnh Quân đoàn 1 lúc bấy giờ là Trung tướng Hoàng Xuân Lăm và Chuẩn tướng Vũ Văn Giai-Tư lệnh Sư đoàn 3 BB về việc sử dụng và phối trí các binh đoàn tăng cường trong đó có 3 liên đoàn Biệt động quân nói trên. Theo phân tích của Trung tướng Ngô Quảng Trưởng, th́ Trung tướng Lăm đă lạc quan khi ra lệnh cho Bộ Tham mưu Quân đoàn 1 nghiên cứu một kế hoạch phản công sẽ được tiến hành sau khi Không quân chiến thuật thực hiện một loạt phi vụ oanh tạc ở mức cao nhất. Sự lưu tâm của Tướng Lăm về kế hoạch phản công đă làm thay đổi và chuyển hướng thiết kế của Bộ Tham mưu Quân đoàn 1 đang cố gắng tái phối trí và tái tổ chức hệ thống pḥng thủ chiều sâu, một việc làm cần được đặt một ưu tiên trong t́nh h́nh nghiêm trọng như thế.

    Khi ra lệnh tiến hành kế hoạch phản công, Tướng Lăm tin tưởng ở tiềm lực chiến đấu từ sự tăng cường của các lực lượng tổng trừ bị và trừ bị gồm 3 liên đoàn Biệt động và Lữ đoàn 369 TQLC cùng với Lữ đoàn 147 và và Lữ đoàn 258 TQLC đang tham chiến tại mặt Quảng Trị. Vị Tư lệnh Quân đoàn 1 tin rằng với các binh đoàn tăng cường này, Quân đoàn 1 không những giữ vững tỉnh Quảng Trị mà c̣n có thể tái chiếm các khu vực đă bị CQ đánh chiếm trong một thời gian ngắn.

    Chính với sự lạc quan này, Trung tướng Lăm đă liên tiếp bác bỏ các yêu cầu của Tư lệnh Sư đoàn 3 BB xin Quân đoàn tăng cường các liên đoàn BĐQ cho kế hoạch củng cố hệ thống bố pḥng tỉnh Quảng Trị. Thế nhưng Tướng Giai vẫn kiên nhẫn giải thích cho Tướng Lăm thấy được nguy cơ rất bi thảm sẽ xảy ra nếu không có đủ lực lượng pḥng thủ ṿng đai Quảng Trị.

    Cũng theo tài liệu của Trung tướng Ngô Quang Trưởng th́ cuối cùng Tư lệnh Quân đoàn 1 đă tăng phái cho Sư đoàn 3 BB một liên đoàn BĐQ đầu tiên, sau đó thêm một liên đoàn Biệt động quân thứ hai. Đến giữa tháng 4/1972, khi t́nh h́nh quá nguy kịch, Trung tướng Lăm đă tăng cường tiếp cho Sư đoàn 3 BB thêm hai liên đoàn BĐQ. Rốt cuộc, tất cả 3 liên đoàn BĐQ có mặt tại chiến trường Quảng Trị đă được Tướng Lăm đặt thuộc quyền điều động của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB. Liên đoàn 6 BĐQ cũng được bộ Tổng tham mưu điều động tăng viện cho chiến trường giới tuyến, tuy nhiên khi liên đoàn vừa khai triển khu vực hoạt động th́ được lệnh di chuyển lên Dakto để thay cho 1 lữ đoàn Nhảy Dù vào ngày 20/ 4/1972.

    * Sư đoàn 3 Bộ binh và 3 liên đoàn Biệt động quân lập cụm tuyến pḥng thủ Đông Hà-Quảng Trị:



    Với 3 liên đoàn Biệt động quân cùng với 2 trung đoàn 2 và 57 Bộ binh, Chuẩn tướng Giai đă tái phối trí lực lượng pḥng thủ, lập cụm pḥng ngự chiều sâu. Theo đó, ngoài khu vực phía Tây do các đơn vị TQLC đảm trách, các binh đoàn thống thuộc và tăng phái được phối trí như sau:

    - Trung đoàn 2 BB trách nhiệm pḥng thủ khu vực phía Nam của Ái Tử đến bờ Bắc sông Thạch Hăn. Ba tiểu đoàn dàn quân tạo thế liên hoàn trong pḥng ngự để ngăn chận CQ đánh chiếm Quốc Lộ 1 đoạn Quảng Trị-Ái Tử.

    - Liên đoàn 1 BĐQ pḥng thủ phía Nam sông Thạch Hăn, giữ mặt Tây Quảng Trị, một đơn vị của liên đoàn án ngữ khu vực La Vang; trung đoàn 57 BB cùng với 2 liên đoàn 4 và 5 BĐQ pḥng thủ tuyến Đông Hà và mặt Đông căn cứ Ái Tử.

    * Trận chiến Quảng Trị nh́n từ phía các cố vấn Hoa Kỳ:

    Nhận xét về cuộc tổng tấn công của CQ dưới cái nh́n của một cố vấn Hoa Kỳ, Đại tá Gerald Turley, cố vấn Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, người đă có mặt tại Quảng Trị ngay từ ngày đầu của cuộc chiến, khi ông đang đi thăm các cố vấn Hoa Kỳ của các đơn vị Thủy quân Lục chiến VNCH, đă nhận định như sau: Cuộc tổng tấn công của quân Cộng sản Bắc Việt (CSBV) đă được báo cáo ngay về Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 và nơi đây cũng lập tức báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu. Lúc đó, Bộ Tổng Tham mưu không có một hành động cấp thời, v́ tất cả mọi người đều có ư rằng: trục tấn công chính của quân đội CSBV từ phía Bắc mà đó chỉ là Diện mà Điểm của cuộc tấn công là một nơi nào đó ở phía Tây.

    Đại tá Turley ghi nhận tiếp: Đối với các cấp chỉ huy Việt Mỹ tại tỉnh Quảng Trị, th́ không c̣n ǵ phải nghi ngờ nữa, chắc chắn chính diện của cuộc tấn công của CSBV là khi vực phi quân sự. Đây là lần đầu tiên, sau sáu năm, Quân lựcVNCH phải chiến đấu đơn độc trên chiến trường. Họ chiến đấu v́ danh dự và tự do của miền Nam Việt Nam.

    Về phía Hoa Kỳ, cũng theo lời của Đại tá Turley, Đại tướng Abrams, Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam-đă tức giận v́ ông ta không có đầy đủ dữ kiện của mặt trận Quảng Trị, trong khi đó, Bộ Chỉ huy Hải quân Hoa Kỳ tại vùng Thái B́nh Dương lại có đầy đủ tin tức hơn, bởi v́ việc xin yểm trợ hải pháo trực tiếp từ Trung tâm Hành quân Sư đoàn 3 Bộ binh VNCH đến các tàu Hải quân của Đệ thất Hạm đội và từ đó những hoạt động của Hải quân Hoa Kỳ được báo cáo về thẳng Bộ Tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ vùng Thái B́nh Dương đặt tại Hạ Uy Di. Có thể nói rằng hải pháo đă làm chậm bước tiến của CSBV trong những ngày đầu của cuộc chiến trong khi mà sự hoạt động của Không quân bị hạn chế do thời tiết xấu.



    Tác giả bài viết: Vương Hồng Anh

    Nguồn tin: Vietstaronline.com

  6. #46
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại Cổ Thành Quảng Trị cuối tháng Tư 1972





    Vào những ngày cuối tháng 4/1972, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh (BB) đă hoạt động 24/24 giờ để kịp thời điều động các đơn vị ứng phó với t́nh h́nh. Ngoài Tư lệnh Sư đoàn là Chuẩn tướng Vũ Văn Giai và Đại tá Ngô Văn Chung-Tư lệnh phó- luôn theo sát diễn biến trận địa, từ các trưởng pḥng, sĩ quan tham mưu cho đến anh em hạ sĩ quan, binh sĩ đại đội Tổng hành dinh tất cả đều ở trong t́nh trạng ứng chiến thường trực. Giữa lúc trận chiến diễn ra khốc liệt th́ một sự việc đă xảy ra ảnh hưởng đến tinh thần quân sĩ: Do vô ư, tài xế một quân xa Hoa Kỳ đă húc xe làm sập trụ cột cờ ở trong doanh trại Đinh Công Tráng (Cổ Thành). Câu chuyện này đă được ghi lại trong loạt bài kư sự phổ biến vào năm 1972 của Trung tá Nguyễn Thượng Thọ, (bút hiệu Lê Huy Linh Vũ, tác giả truyện phim Nguyện Cầu, ông đă mất tại Sài G̣n sau khi ở trại tù CS về). Lúc bấy giờ trung tá Thọ là phụ tá Cục trưởng Tâm Lư Chiến đặc trách về Truyền H́nh Điện Ảnh, ông đă hướng dẫn một toán phóng viên quân đội từ Sài G̣n đến bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB để thực hiện cuốn phim chiến sự về mặt trận Quảng Trị. Sau đây là ghi nhận của tác giả Lê Huy Linh Vũ về sự việc này:

    Một tiếng động mạnh rơi loảng xoảng, một người nào đó la to: Chết cha! Cột cờ đổ rồi. Tôi vùng dậy, chụp lấy cái máy ảnh, chạy ra ra sân cờ. Cái cột cờ hiên ngang với lá cờ phất phới theo gió như muốn thách đố với bất cứ ai và bất cứ cái ǵ, niềm hănh diện của người lính Sư đoàn 3 Bộ binh, chỉ c̣n là một đống sắt vụn. Mấy anh cố vấn Mỹ đứng gần một chiếc căm nhông nói năng chỉ chỏ. Cái ǵ mà kỳ vậy" Chính họ đă làm ngă cột cờ. Dù vô ư chứ không phải cố ư, họ cũng đă gieo vào ḷng những chiến sĩ Quảng Trị có mặt tại đó một nỗi hoang mang vô tận. Cột cờ tượng trưng cho một cái ǵ thiêng liêng. Cột cờ ngă là điềm rất xấu. Cả bộ Tư lệnh nhốn nháo. Nhiều người nóng mặt muốn bước ra dần cho mấy anh Mỹ một trận. Vài anh lính hung hăng bước đến gây sự. Mấy anh Mỹ h́nh như cũng đoán biết sự bất b́nh của ta nên rủ nhau rút êm về phía hầm trú ẩn dành riêng cho họ.

    Tướng Giai đă có mặt ngay. Ông điềm tỉnh trấn anh em: Không sao! Cột cờ này nhô lên ngay giữa trung tâm bộ Tư lệnh là điểm chuẩn cho địch điều chỉnh pháo kích. Ngă đi là may, địch sẽ không c̣n điểm chuẩn nào khác để canh súng vào bộ Tư lệnh. Thôi tất cả giải tán và tuyệt đối không được bàn tàn ǵ nữa.

    Dù tướng Giai tỏ ra không quan tâm đến vụ cột cờ găy và các sĩ quan cao cấp trong bộ Tổng tham mưu trấn an binh sĩ bằng đủ mọi cách nhưng ḷng người vẫn xao xuyến. V́ tập quán, v́ mê tín dị đoan, ai ai cũng đinh ninh đó là điềm xấu.



    -Tướng Vũ Văn Giai Tư lệnh Sư đoàn 3 BB đón Tổng thống
    VNCH Nguyễn Văn Thiệu thị sát chiến trường Quảng Trị mùa Xuân 1972

    * Lời của Chuẩn tướng Vũ Văn Giai về cuộc chiến Quảng Trị

    Cũng trong thời gian công tác tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB, nhà văn Lê Huy Linh Vũ đă có cuộc phỏng vấn Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, ông được Tư lệnh Sư đoàn 3 thố lộ một số chi tiết về t́nh h́nh trận liệt với nội dung được ghi nhận như sau:

    Tôi (Lê Huy Linh Vũ) nhớ đến vụ cột cờ găy khi chiều và mơ hồ có linh cảm những lời tướng Giai sắp thố lộ với tôi có thể là lời nói cuối cùng của một vị tướng. Tôi mở to mắt, quan sát từng nét mặt của ông và chuẩn bị nghe thật kỹ những lời ông nói, tay ghi chép thật nhanh cho kịp.

    Tướng Giai bắt đầu phân tích và so sánh t́nh h́nh ta với địch. Ông cho biết qua t́nh báo và khẩu cung tù binh, Cộng quân (CQ) vừa tung thêm vào chiến trường Sư đoàn 325 từ bên kia vĩ tuyến 17 mới xâm nhập qua bốn năm hôm nay thôi. Sự có mặt của Sư đoàn 325 CQ nâng tổng số địch hiện diện trong vùng Quảng Trị và Đông Hà lên đến 4 sư đoàn. BB th́ có các sư đoàn 304, 308 và 325. Ngoài ra c̣n có hai trung đoàn pháo và 1 trung đoàn chiến xa, chưa kể du kích, dân công.

    Đối diện với 4 sư đoàn địch, ta chỉ có 2 sư đoàn. Gọi là 2 sư đoàn nhưng thật ra chỉ có 1 sư đoàn chính thức, c̣n lại là các binh đoàn thuộc đủ mọi binh chủng: Thủy quân Lục chiến (TQLC), Biệt động quân (BĐQ), Thiết giáp, Pháo binh, Địa phương quân, Nghĩa quân, tập đoàn quân này tuy đông nhưng rời rạc, không có sự thống nhất chỉ huy, khó điều động. Về sư đoàn chính thức là Sư đoàn 3 BB mà ông hănh diện chỉ huy từ hơn 6 tháng qua (thành lập ngày 1 tháng 10/1971). Tuy quân số và trang bị chưa đầy đủ, huấn luyện chưa xong, nhưng đă một thân một ḿnh lúc đầu trong khi chờ đợi các đơn vị bạn đến tiếp cứu. Chận được địch tại pḥng tuyến Đông Hà khi trận chiến xảy ra đó là công của Sư đoàn 3 BB. Sau một tháng trời chiến đấu, sư đoàn hao hụt hết 1 trung đoàn phải đưa về căn cứ Nancy (gần Mỹ Chánh) dưỡng quân và bổ sung quân số. Đó là trung đoàn 56 BB. Phần c̣n lại của Sư đoàn , khoảng trên 1 trung đoàn, được rải dọc theo bờ nam sông Đông Hà, hiện giờ là tuyến đang giáp địch.

    Điều động pḥng thủ tuyến Đông Hà có một bộ Tham mưu đặt tại căn cứ Ái Tử. Ông chỉ giữ lại 1 tiểu đoàn để bảo vệ Bộ Tư lệnh Sư đoàn đóng ở Quảng Trị. Đó là tiểu đoàn 2 đang giữ cầu Quảng Trị (bắc ngang sông Thạch Hăn) và rải theo bờ Nam sông này.

    Lực lượng trung ương đến tăng cường th́ được phân phối: lữ đoàn TQLC pḥng thủ khu vực Tây Bắc của chiến trường từ bờ sông Đông Hà đến bờ Tây Bắc sông Thạch Hăn, 3 liên đoàn Biệt động quân giữ mặt Tây với La Vang là địa điểm trọng yếu, rút về cố thủ nếu địch mạnh ta yếu và dùng bàn đạp dồn địch trở lên núi ra tới biên giới Việt Lào nếu ta mạnh địch yếu. Địa phương quân có Thiết giáp tăng cường được giao phó trọng trách bảo vệ Quốc lộ 1, con đường tiếp liệu chính nối liền với hậu tuyến là Huế.

    Sau khi đề cập sự phối trí lực lượng, Tướng Giai giải thích cho biết quan niệm chiến thuật mới của ông. Theo vị tư lệnh này, địch đánh từng giai đoạn một: giai đoạn thứ nhất, sư đoàn 304 và 308 vượt sông Bến Hải chiếm đến Đông Hà th́ hết nhiệm vụ, ngừng lại nghỉ ngơi và nhường chỗ cho sư đoàn 325 thực hiện giai đoạn 2 tiến chiếm Quảng Trị. Nếu chiếm được Quảng Trị, sư đoàn 325 sẽ dừng lại nhường cho một đơn vị khác vượt lên tiến đánh Huế, đó là giai đoạn 3. Mỗi giai đoạn, địch luôn luôn dùng đơn vị mới chưa xáp trận tinh thần chưa bị lung lạc nhờ vậy tiến quân rất nhanh và đánh rất mạnh.

    Để chận địch, ta lại luôn luôn dùng đơn vị cũ. Carroll, Gio Linh, A2, A1, C2... th́ cũng Sư đoàn 3 BB. Vỡ pḥng tuyến thứ nhất, rút về lập pḥng tuyến thứ nh́ dọc theo sông Đông Hà th́ cũng Sư đoàn 3 Bộ binh BB. Áp lực địch quá mạnh, phải bỏ Đông Hà, tập trung về Ái Tử lập pḥng tuyến bảo vệ Quảng Trị th́ lại cũng Sư đoàn 3BB nữa. Binh sĩ mệt mỏi, quân số hao hụt, đạn dược không được tiếp liệu kịp, di tản thương binh bị đ́nh trệ, đó là những yếu tố bất lợi cho ta. Muốn chận địch ta nên thiết lập nhiều pḥng tuyến, mỗi pḥng tuyến do một đại đơn vị phụ trách. Vỡ pḥng tuyến thứ nhất, đại đơn vị thứ nhất rút về qua khỏi tuyến thứ hai lập tuyến thứ ba. Địch tiến quân đến tuyến 2 đụng đơn vị mới của ta, sức lực tương đồng, cuộc tiến quân của địch chậm lợi, ta có th́ giờ hoàn hảo hóa công sự bố pḥng ở tuyến 3 để chờ địch.

    Sau khi hỏi tôi đă ghi chép kỹ chưa và nghe tôi đọc lại đầy đủ gần như một cái máy ghi âm những lời ông nói, tôi chào Tướng Giai ra về. Trở về pḥng, tôi suy nghĩ về những lời nói của tướng Giai, số phận của thành phố Quảng Trị đă được định đoạt, chỉ c̣n vấn đề thời gian, tối nay, tối mai hay tối mốt. Liệu ta có tiếp viện kịp thời không, và bao lâu mới giải tỏa được ṿng vây của địch.



    Tác giả bài viết: Vuong Hong Anh

  7. #47
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Sư Đoàn 3 Bộ Binh
    Một Quân Đội Bị Bỏ Quên: Anh hùngvà Bội Phản Trong Quân Đội VNCH
    Vietnam's Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN




    2 Apr 1972 - Trung tá Phạm Văn Đính, ra hàng quân Bắc Việt tại Quảng Trị.
    Trung tá Phạm Văn Đính chỉ huy trưởng Trung đoàn 56 đầu hàng tại căn cứ Tân Lâm (Camp Carroll) Quảng Trị, trong mùa hè đỏ lửa, tháng 4 -1972. Trung đoàn 56 là một đơn vị của sư đoàn 3 BB, tư lệnh sư đoàn là tướng Vũ Văn Giai.


    “Một Quân Đội Bị Quên: Anh Hùng và Bội Phản Trong Quân Đội VNCH”, là một cuốn sách viết về hai người lính và binh nghiệp của họ trong cuộc chiến Việt Nam. Hai người lính - trong trường hợp này là hai sĩ quan - Trung Tá Phạm Văn Đính và Thiếu Tá Trần Ngọc Huế. Trung Tá Đính và Thiếu Tá Huế, hai ngôi sao sáng đang lên của quân lực VNCH. Hai người đang xả thân chiến đấu chống lại một chủ nghĩa mà họ thù ghét từ lúc mới lớn. Nhưng vào những giờ cuối cùng trong đời binh nghiệp, hai người chọn hai lối đi khác nhau: Thiếu Tá Huế chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi bị bắt làm tù binh; Trung Tá Đính, dưới áp lực của địch, đầu hàng để khỏi bị bắt làm tù binh.

    T́nh tiết trong “Một Quân Đội Bị Quên” giống như một cuốn tiểu thuyết, nhưng tất cả đều sự thật; đều có thể kiểm chứng được. Đường binh nghiệp của Trung Tá Đính và Thiếu Tá Huế gần như đi song song với nhau: cả hai là sĩ quan tác chiến; đều là chỉ huy trưởng những đơn vị vang tiếng của quân lực VNCH. Và đoạn cuối binh nghiệp của cả hai cũng giống nhau, khi bị chấm dứt trong hai trận đánh khốc liệt nhất của chiến tranh Việt Nam: Thiếu Tá Huế trong trận hành quân Lam Sơn 719 năm 1971; Trung Tá Đính vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972.

    Trung Tá Phạm Văn Đính tốt nghiệp khóa 9 trường Liên Trường Vơ Khoa Thủ Đức; Thiếu Tá Trần Ngọc Huế, khóa 18 trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Ra trường hai người về phục vụ ở miền Trung - nơi sanh ra và lớn lên của Huế và Đính. Đính phục vụ ở tiểu đoàn 3/ trung đoàn 3/ sư đoàn 1 Bộ Binh; Huế, TĐ1/ Tr.Đ 1/ SĐ 1BB. Sau vài năm nếm mùi binh lửa ở vị trí thấp nhất của một sĩ quan mới ra trường, cả hai được hoán chuyển về đơn vị mới, với nhiều cơ hội thăng tiến hơn. Đầu năm 1965, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, tư lệnh sư đoàn 1BB, quyết định thành lập một đại đội xung kích, có khả năng phản ứng nhanh để đáp ứng những trường hợp khẩn cấp ở Vùng I. Đại đội này c̣n phải có khả năng trinh sát như một đại đội thám báo/ viễn thám của sư đoàn. Đại đội tân lập đó được đặt tên Hắc Báo, nằm dưới quyền chỉ huy trực tiếp của tư lệnh sư đoàn. Và Trung Úy (lên đại úy vài tháng sau đó) Đính được danh dự chọn làm chỉ huy trưởng đầu tiên.

    Đại đội Hắc Báo của sư đoàn 1BB có lẽ là một trong những đơn vị cấp đại đội được nhắc đến tên nhiều nhất trong quân lực VNCH. Thành h́nh vào tháng 2-1965, đại đội có năm trung đội tác chiến (năm 1968 có sáu trung đội); có một đơn vị không vận cơ hữu ứng trực 24 tiếng đồng hồ một ngày, gồm năm trực thăng chuyên chở và hai trực thăng vơ trang yểm trợ. Đại đội có một toán cố vấn Mỹ và Úc Đại Lợi đi kèm. Sự có mặt của các cố vấn ở cấp đại đội cho thấy sự quan trọng của đơn vị này: thông thường cố vấn chỉ có mặt ở cấp tiểu đoàn trở lên. Từ lúc thành h́nh cho đến ngày VNCH thất thủ, đại đội Hắc Báo chưa bao giờ thất bại với những công tác giao phó. Từ những công tác giải cứu phi công bị rớt trong ḷng đất địch, cho đến những cuộc đột kích vào những binh trạm của CSBV ở thung lũng A Shau, ở Co Roc, hay xa hơn bên kia biên giới Lào. Đại Tướng Creighton Abrams, tư lệnh MACV, nhiều lần nhắc đến tên đại đội Hắc Báo trong những buổi họp tham mưu cuối tuần (ghi lại trong The Abrams Tapes, của Lewis Sorley). Ít có một đại đội nào của quân lực VNCH có danh tiếng vang tận đến Bộ Quốc Pḥng Mỹ ở Hoa Thịnh Đốn như đại đội Hắc Báo.

    Cuối năm 1971, trong cao điểm của chương tŕnh Việt Nam Hóa, phó giám đốc Nha Nghiên Cứu và Biến Chế của Bộ Quốc Pḥng, Leonard Sullivan - đang làm việc trực tiếp cho Tổng Trưởng Quốc Pḥng Melvin Laird - sang Việt Nam điều nghiên một kế hoạch ít tốn kém để ngăn chận đường xâm nhập Hồ Chí Minh. Trong lần viếng thăm Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm và Thiếu Tướng Phạm Văn Phú vào trung tuần tháng 10-1971, Sullivan cho biết Tổng Trưởng Laird đă thông báo là Không Quân Hoa Kỳ sẽ c̣n tài chánh để tiếp tục giội bom ngăn chận bằng B-52 vào năm tới. Thay vào đó, Bộ Quốc Pḥng Mỹ đề nghị một phương cách ngăn chận khác là dùng những đại đội như đại đội... Hắc Báo để đột kích những binh trạm của CSBV trên đường Hồ Chí Minh! Tiếp theo, Sullivan đề nghị quân đoàn I nên lập thêm vài đại đội Hắc Báo nữa và đưa vào Vùng II để đột kích những binh trạm ở vùng ba biên giới Việt-Miên-Lào.

    Nhưng hai vị tư lệnh quân đoàn và sư đoàn cho biết họ chỉ có thể thực hiện lời yêu cầu nếu có lệnh từ Bộ Tổng Tham Mưu VNCH. Hơn nữa, nhân sự của đại đội Hắc Báo không phải dễ có. Trung Tá Nguyễn Xuân Lộc, trưởng Pḥng 2 Sư Đoàn 1BB, cho biết nhân sự của Hắc Báo đến từ hai đại đội thám báo của trung đoàn 3 và 54. Nghĩa là hai trung đoàn này không có đại đội thám báo như hai trung đoàn 1 và 2 của SĐ 1BB, để có chỗ cho nhân sự của đại đội Hắc Báo. Tóm lại, lập ra một đại đội như đại đội Hắc báo không phải là chuyện đơn giản (Đọc thêm: Điện tín của Trung Tướng Welborn G. Dolvin, tư lệnh Quân Đoàn XXIV, gởi Đại Tướng Creighton Abrams, tư lệnh MACV. Secret DNG 2997 Eyes Only, 20 October 1971. Subject: Visit to MR 1 of Mr. Leonard Sullivan; về vai tṛ của phó giám đốc Leonard Sullivan, đọc Bernard C. Nalty, The War Agaisnt Truck). Liên hệ và thành tích của Đính với đại đội thiện chiến và lừng danh như Hắc Báo, làm độc giả khó giải thích được hành động đầu hàng CSBV sau này của ông.

    Trong thời gian Đính chỉ huy đại đội Hắc Báo, Trung Úy Huế, sau khi tốt nghiệp khóa śnh lầy ở Mă Lai Á, được về làm sĩ quan tùy viên cho Tướng Chuân ở Sư Đoàn 1BB. Cùng phục vụ cho một vị tư lệnh, Đính và Huế thường gặp nhau, t́m hiểu về nhau. Sau những biến động liên tục ở miền Trung năm 1966; sau nhiều lần tư lệnh của Quân Đoàn I và Sư Đoàn 1 BB bị thay đổi, nhiệm sở của Đính và Huế cũng bị thay đổi theo, nhưng thay đổi theo chiều hướng khả quan.

    Khi Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng về coi SĐ 1 BB, ông đề bạt Đính về làm tiểu đoàn trưởng TĐ 2/ Tr.Đ 3, kiêm luôn quận trưởng Quảng Điền. Nhiệm vụ của Thiếu Tá Đính lúc đó là vừa đáng giặc, vừa b́nh định. Về phần Huế, dù có chọn lựa để được thuyên chuyển một đơn vị không tác chiến, để hưởng thụ một đời sống gia đ́nh (vừa mới lấy vợ), anh xin đổi về một đơn tác chiến: đại đội Hắc Báo. Về làm đại đội phó Hắc Báo được chừng hai tháng th́ Tướng Trưởng bổ nhiệm Huế làm đại đội trưởng, thay vào chỗ của Đính. Một lần nữa, Huế và Đính lại làm việc chung cho một ông thầy, cùng ở chung một sư đoàn. Sự liên hệ, quen biết liên tục đó làm tăng thêm ngỡ ngàng về sau, sau khi hai người trở thành kẻ thù - dù kẻ thù trong yên lặng.

    Trong hai năm 1968 và 1969, phục vụ ở Sư Đoàn 1BB, đường binh nghiệp của Trung Tá Đính và Thiếu Tá Huế được thăng hoa. Hai đơn vị của Huế và Đính có công tiếp cứu Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 BB của Tướng Trưởng, và một phần nào đó, có công giải tỏa thành nội và dựng lại lá cờ VNCH ở kỳ đài Đại Nội vào trận Mậu Thân 1968. Dựa vào những ǵ hai nhân vật chánh trong tác phẩm kể lại, TĐ2/ 3 của Đính là đơn vị triệt tiêu những điểm kháng cự cuối cùng của cộng sản ở kỳ đài; và đại đội Hắc Báo là đơn vị bảo vệ bộ tư lệnh Sư Đoàn 1 BB trong giờ phút kịch liệt nhất của trận Mậu Thân. Cũng trong trận này, liên hệ của hai người gắn chặt nhau hơn khi tiểu đoàn 2/3 và đại đội Hắc Báo cùng được giao nhiệm vụ chung là giải tỏa một góc chiến trường của thành nội Huế.

    Năm 1969, Trần Ngọc Huế bây giờ mang thiếu tá, rời đại đội Hắc Báo về coi tiểu đoàn 2/2; trong khi đó Đính đă là trung tá, vẫn c̣n coi tiểu đoàn 2/3. Năm 1969 tiểu đoàn của Trung Tá Đính liên quan đến một trận đánh mănh liệt, nhưng không được bao nhiêu báo chí nhắc đến: Trận Động Ấp Bia - mà báo chí và các quân nhân tham dự đặt cho một tên rất biểu tượng là Đồi Hamburger Hill (Thịt Bằm). Theo báo chí và phần lớn sách sử về chiến tranh Việt Nam, trận Hamburger Hill kết thúc khi lính của một trong ba tiểu đoàn Nhảy Dù Mỹ - sau hơn 10 ngày giao chiến ác liệt - triệt tiêu những lô cốt cuối cùng của trung đoàn 29 CSBV trên đỉnh đồi cao 937 thước và làm làm chủ ngọn đồi.

    Nhưng theo tác giả Wiest, và theo một số sử liệu chúng ta có thể t́m được, th́ tiểu đoàn 2/ trung đoàn 3 của Trung Tá Đính là đơn vị lên được đỉnh đồi trước nhất. Trận đánh này, lúc khởi đầu, chỉ có một tiểu đoàn Nhảy Dù Mỹ phụ trách, nhưng sau hơn một tuần quần thảo, bộ tư lệnh Sư Đoàn 101 Nhảy Dù quyết định lấy ngọn đồi bằng mọi giá. Tướng Trưởng, trong tinh thần hợp tác Việt-Mỹ, gởi tiểu đoàn 2/3 của Trung Tá Đính để phụ lực vào cuộc tấn công cuối cùng. Bốn tiểu đoàn đánh bốn hướng từ chân đồi lên, và lính của tiểu đoàn 2/3 có mặt trên cao điểm của đỉnh đồi trước nhất. Trong tác phẩm, tác giả Wiest trích lời của Đại Tướng Abrams trong buổi họp tham mưu ở MACV ngày 24 tháng 5-1969. Tướng Abrams nói tuy các cơ quan truyền thông nói là lính Dù Mỹ chiến được ngọn đồi, nhưng ông có tin riêng nói lính VNCH là đơn vị được vinh dự đó (Tác giả Wiest trích lời của Abrams trong The Abrams Tapes của tác giả Lewis Sorley).

    Cũng trong buổi họp đó, Tướng Abrams có nhắc lại chuyện đại đội Hắc Báo và trận đánh chung quanh kỳ đài thành nội Huế năm 1968). Điều đáng tiếc, tác giả Wiest kết luận, là đơn vị VNCH không được tuyên dương như sự thật đă xảy ra.

    Sau trận Hamburger Hill, Trung Tá Đính về làm sĩ quan hành quân cho bộ tư lệnh Sư Đoàn 1BB Tiền Phương (Đây là một đơn vị gồm trung đoàn 2/ SĐ1BB và một lữ đoàn TQLC VNCH, được lập ra để trám vào chỗ của những đơn vị TQLC Mỹ rút đi trong chương tŕnh Việt Nam Hóa. Đơn vị này nằm dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Vũ Văn Giai, tư lệnh phó sư đoàn). Thiếu Tá Huế th́ vẫn coi tiểu đoàn 2, trung đoàn 2, đóng quân sát vùng giới tuyến. Là một đơn vị nằm dưới quyền điều khiển của SĐ1 BB Tiền Phương, con đường binh nghiệp của Huế và Đính lại gặp nhau. Tháng 5-1970, Tướng Trưởng yêu cầu Đại Tá Giai đưa Trung Tá Đính về trung đoàn 54/ SĐ1BB với chức vụ trung đoàn phó. Trong khi đó Huế và tiểu đoàn 2/2 vẫn hoạt động ở hướng Bắc Đông Hà.

    Ở chương 4 của tác phẩm, chương nói về thành tích của Huế và Đính trong năm 1968, tác giả Andrew Wiest đặt tên là, “Thời Của Những Người Hùng.” Chương 4 ghi lại một số dữ kiện để đưa độc giả đến hai chương ṇng cốt 8 và 9, làm tiền đề cho quyển sách: anh hùng và bội phản. Chương 8 “Shattered Lives and Broken Dreams: Operation Lam Son 719,” nói về giấc mơ chiến thắng của Huế bị tan vỡ - và những mảnh vụn của cuộc đời theo sau đó. Và chương 9, “The Making of a Traitor,” nói về sự phản bội của Trung Tá Đính khi ông đầu hàng cộng sản vào năm 1972 trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa. Ở chương này, tác giả Wiest đă cố gắng giải thích những sự kiện và hoàn cảnh chung quanh quyết định đầu hàng của Trung Tá Đính.

    Giấc mơ chiến thắng của Thiếu Tá Trần Ngọc Huế tan vỡ vào Mùa Xuân năm 1971 ở Hạ Lào. Đầu tháng 2-1971, khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh qua những căn cứ hậu cần của CSBV trên đường xâm nhập Hồ Chí Minh xảy ra, đơn vị của Thiếu Tá Huế vẫn c̣n hoạt động ở vùng phi quân sự, và trung đoàn 54 của Trung Tá Đính vẫn lo an ninh ở phía Nam cố đô Huế. Mặc dù Sư Đoàn 1BB là một trong ba lực lượng chính của cuộc hành quân, trong thời gian đầu BTL Sư Đoàn 1BB chỉ sử dụng hai trung đoàn. Nhưng đến cuối tháng 2, t́nh h́nh thay đổi bất lợi ở mặt trận Hạ Lào.

    Sau cuộc hội thảo với Tổng Thống Thiệu ở Sài G̣n ngày 28 tháng 2, Tướng Hoàng Xuân Lăm quyết định thay Sư Đoàn Nhảy Dù bằng Sư Đoàn 1BB, làm đơn vị chính đánh vào Tchepone. Ngày 2 tháng 3 đơn vị của Huế, TĐ 2/2; TĐ 3/2; và một ban tiền trạm của trung đoàn 4 được trục thăng vận đến Khe Sanh để chuẩn bị nhảy vào Tchepone. Sau khi các tiểu đoàn của trung đoàn 1 liên tiếp thiết lập các cứ điểm dây chuyền Lolo, Liz và Sophia ở hướng Nam dẫn về Tchepone để chuẩn bị cho mục tiêu chánh. Ngày 6 tháng 3, TĐ 2 và 3 của trung đoàn 2 nhảy vào Tchepone theo đúng lịch tŕnh của kế hoạch. Hơn 120 trực thăng đưa hai tiểu đoàn 2/2 và 3/2 vào cứ điểm - một băi đáp trực thăng - có tên là Hope ở hướng Bắc của Tchepone. Chỉ gặp một vài kháng cự nhỏ sau khi đổ quân, tiểu đoàn của 2/2 của Thiếu Tá Huế bung ra lục soát và tiến vào Tchepone. Đến ngày 8, tiểu đoàn 2/2 báo cáo họ đă nằm bên trong thị trấn. Sau hai ngày lục soát, thay v́ hai tiểu đoàn sẽ được trực thăng vận ra khỏi Tchepone như kế hoạch nguyên thủy, Tướng Lăm ra lệnh cho tiểu đoàn của Huế tiến sâu về phía nam, vượt qua sông Xe Pone, rồi hành quân lục soát về hướng các cứ điểm Sophia, Liz, và LoLo.

    Tại đây họ sẽ nhập chung với quân của trung đoàn 1, rồi cả hai trung đoàn sẽ được trực thăng vận về khu vục đường 914 ở để phá hủy binh trạm 33. Sau khi hành quân ở đó từ bảy đến mười ngày, Sư Đoàn 1 BB sẽ theo thứ tự rút về biên giới Việt Nam. Tại sao lại có sự thay đổi trái ngược như vậy? Tại sao không “nhảy vào Tchepone... đái một cái rồi nhảy ra...” như những ǵ báo chí đă viết về mục đích của cuộc đột kích vào Tchepone như chúng ta thường đọc qua? Theo tác giả Wiest, phấn khởi v́ những chống trả yếu ớt của địch ở chung quanh Tchepone, Tướng Lăm quyết định kéo dài nhiệm vụ của trung đoàn 1 và 2 thêm 10 ngày nữa. Đây không phải là ư kiến riêng của Tướng Lăm. Những tài liệu giải mật sau này cho thấy, ba ngày sau khi quân VNCH đặt chân xuống Tchepone, Tướng Lăm bay về Sài G̣n họp với Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng Cao Văn Viên. Trong buổi họp ngày 9 tháng 3, Tổng Thống Thiệu muốn TQLC và Sư Đoàn 1BB bỏ ra bảy đến 10 ngày hành quân ở khu vực đường 914/ binh trạm 33, một vị trí khoảng chín cây số Tây Nam căn cứ Bản Đông/ A Loui trên đường 9 (Điện văn, Top Secret MAC 02455 Eyes Only, Đại Tướng Abarms gởi Trung Tướng Sutherland, 9 March 1971; điện văn, Top Secret QTR 0306 Eyes Only, Trung Tướng Sutherland gởi Đại Tướng Abarms, 10 March 1971).

    Ngày 11, từ băi đáp Liz, tiểu đoàn 2/2 của Huế được trực thăng vận đến băi đáp Brown ở khu vực đường 914. Tại đây tiểu đoàn lục soát về phía Nam cho đến ngày 14. Nhưng ngày 14 tháng 3 cũng là ngày địch quân đồng loạt phản công trên mọi hướng. Đến hôm đó, CSBV đă tụ đủ quân để tấn công liên tục vào tất cả căn cứ hỏa lực hay băi đáp ở phía Nam đường 9. Ở phía Nam đường 9 - mặt trận của Sư Đoàn 1 BB và Lữ Đoàn 147 TQLC - Cộng quân có Sư Đoàn 2 và 324B, cộng với hai binh trạm (một binh trạm tương đương một trung đoàn), một số quân hơn là đủ để ngăn chận mọi kế hoạch rút quân của VNCH. Từ sáu giờ sáng ngày 14, cứ điểm LoLo và chung quanh phía Nam Tchepone, bốn tiểu đoàn của trung đoàn 1 bị CSBV tấn công liên tục.

    Đến ngày 17, trung đoàn quyết định phải di tản. Tiểu đoàn 4/1 ở lại chận hậu cho ba tiểu đoàn kia được trực thăng vận khỏi mặt trận. Khi đến lượt TĐ 4/1 di tản, trung đoàn phải yêu cầu B-52 đánh bom cách vị trí tiểu đoàn chừng 500 mét (so với khoảng an toàn thông thường là 1,000-1,500 mét) để ngăn chận những đợt tấn công của Cộng quân, hầu có th́ giờ lên trực thăng. Nhưng tiểu đoàn chỉ có 83 quân nhân thoát khỏi LoLo; tiểu đoàn phó và tiểu đoàn trưởng th́ ở lại LoLo vĩnh viễn. Cùng ngày, ở khu vực đường 914, bốn tiểu đoàn của trung đoàn 2 cũng chuẩn bị rời mặt trận. Ngày 18, TĐ 5/2 được bốc về Khe Sanh trước, trong khi ba tiểu đoàn 2, 3, và 4 được lệnh di chuyển theo hướng Đông về cứ điểm Delta I để tiếp tục được di tản. Trên đường về Delta I, ba tiểu đoàn chạm địch liên tục. Khi biết không thể tiến về điểm hẹn ở Delta I, Huế cho tiểu đoàn nằm lại tại một cao điểm và dàn quân ra chuẩn bị tử thủ.

    Đêm 19, Cộng quân tấn công bằng pháo và hỏa tiễn trước, tiếp theo đó là quân bộ binh có trang bị súng phun lửa ồ ạt xung phong. Trưa ngày 20, trung đoàn xin Bộ Tư Lệnh Tiền Phương ở Khe Sanh, bằng mọi cách phải cho trực thăng phải hạ cánh di tản ba tiểu đoàn c̣n lại trước khi họ bị tiêu diệt. Nhưng với gần 1,400 phi vụ trực thăng vơ trang; 11 phi vụ B-52; và 270 phi vụ oanh tạc chiến thuật trong ngày, hỏa lực đó chỉ đủ giảm áp lực của địch đủ để trực thăng đáp xuống bốc được tiểu đoàn 3. Tiểu đoàn 2 và 4 phải chờ những phi vụ di tản ngày hôm sau. Nhưng ngày ngày hôm sau là một ngày quá trễ cho Huế và những quân nhân c̣n lại.

    Trong cao điểm của những cuộc tấn công đêm đó, Huế bị trúng đạn súng cối và ngất lịm. Trong lúc loa phóng thanh của địch vang dội những lời kêu gọi đầu hàng, Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn 2/2 phải đánh mở đường máu để di tản. Khi lính của Huế chuẩn bị đến khiêng ông đi, Thiếu Tá Huế từ chối, biết rằng ḿnh sẽ là một gánh nặng cho toán quân rút đi. Huế ra lệnh cho họ đánh mở đường máu rời mặt trận. Tiểu Đoàn Phó Nguyễn Hữu Cước chào vĩnh biệt Huế trước khi dẫn toán quân 60 người c̣n lại đánh mở đường máu rút quân. Vài phút sau, Huế trở thành một trong những tù binh cao cấp bị bắt tại mặt trận Hạ Lào. (Theo lời Thiếu Tá Huế kể lại, sau khi thành công nhảy vào Tchepone, ông được đặc cách vinh thăng trung tá. Chuẩn Tướng Phạm Văn Phú trực tiếp chuyển tin đó dến ông. Sau khi bi bắt làm tù binh, Thiếu Tá Huế khai chức vụ ông là thiếu tá. Nhưng sĩ quan thẩm vấn của CSBV nói ông đă là trung tá, theo những ǵ họ nghe được trên hệ thống truyền tin của loan truyền ngoài mặt trận của VNCH)

  8. #48
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Một Quân Đội Bị Bỏ Quên: Anh hùngvà Bội Phản Trong Quân Đội VNCH
    Vietnam's Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN
    P2


    Ở bên kia biên giới, Trung Tá Đính theo dơi tất cả diễn biến. Trong những ngày cuối cùng của hành quân Lam Sơn 719, Đính đưa tiểu đoàn 2 của trung đoàn 54 đến Khe Sanh để yểm trợ và dóng cửa căn cứ Khe Sanh. Nh́n những chiến tích - và chiến bại - của Lam Sơn 719, Đính suy nghĩ nhiều về một cuộc chiến không tương lai, và thân phận của những quân nhân trong cuộc chiến. Cảm nghĩ đó, tác giả Wiest thuật lại theo những ǵ Trung Tá Đính kể.

    Trong chương 9, “The Making of A Traitor,” tác giả Wiest viết sơ qua về cuộc tổng tấn công của CSBV vào mùa Hè năm 1972, nhưng tác giả viết sâu hơn khi nói về hoàn cảnh chung quanh việc Trung Tá Đính đầu hàng. Dựa vào những cuộc phỏng vấn với các cố vấn của trung đoàn và sư đoàn có mặt tại chiến trường; dựa vào các nhân vật - những sĩ quan trong ban tham mưu của trung đoàn 56/SĐ 3BB - c̣n sống, như Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Trung Tá Trung Đoàn Phó Vĩnh Phong; Đại Úy Nguyễn Đ́nh Nhu, trung đoàn 56; Trung Úy Mai Xuân Tiểm, ban 3 trung đoàn; Thiếu Tá Tôn Thất Măn, tiểu đoàn trưởng TĐ 1/56... Với những lời kể của nhân chứng, Andrew Wiest viết lại hoàn cảnh đưa đến quyết định đầu hàng tập thể của trung đoàn 56 tại căn cứ Carroll. Nhưng những ǵ Trung Tá Đính thuật lại sau cuộc chiến có phải là những lư do để chạy tội? Đính và hơn 600 quân nhân của trung đoàn 56/ SĐ3BB phải đầu hàng v́ không c̣n lối thoát, v́ bị bỏ rơi, hay chính Trung Tá Đính là người đă vẽ cho họ một bức tranh bi đát, rồi thuyết phục họ đầu hàng? Mỗi độc giả sẽ là một chánh án đối với Trung Tá Đính, sau khi thẩm định sự kiện và hoàn cảnh được tŕnh bày trong sách.

    Người điểm sách này xin nói trước: trước khi đọc tác phẩm Vietnam's Forgotten Army, người viết đă có một định kiến về hành động đầu hàng của Trung Tá Đính: đó là hành động của một sĩ quan chủ bại, chưa đánh đă chạy. Và sau khi đọc tác phẩm, người viết vẫn không hoàn toàn đồng ư với lư do đầu hàng của ông trung tá: Thông cảm? Có. Chấp nhận? Không!

    Gần nửa năm sau cuộc hành quân Lam Sơn 719, để gia tăng quân số thay vào khoảng trống của các đơn vị Mỹ rút quân, tháng 10-1971 Bộ Tổng Tham Mưu thành lập Sư Đoàn 3 Bộ Binh. Sư đoàn tân lập này chỉ có một trung đoàn làm rường cột chánh, hai trung đoàn c̣n lại là lính thuyên chuyển từ các đơn vị khác, tân binh tuyển mộ từ các lực lượng Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ, hay một đôi khi là những quân nhân ṭng phạm được ân xá để trở lại quân ngũ. Trong ba trung đoàn 2, 56 và 57 của Sư Đoàn 3BB, chỉ có trung đoàn 2 lấy ra từ Sư Đoàn 1BB, là đơn vị có kinh nghiệm chiến trường lâu nhất. Với một sư đoàn như vậy, không vị sĩ quan nào muốn nhận chức sư đoàn trưởng.

    Sau cùng, Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai nhận chức tư lệnh sư đoàn. Theo lời ông kể, ông là một “tư lệnh kém may mắn của một sư đoàn không không ai muốn nhận.” Và khi t́m sĩ quan về chỉ huy trung đoàn, Tướng Giai t́m những thuộc viên cũ đă làm việc chung với ông: Trung Tá Đính được mời về làm chỉ huy trưởng trung đoàn 56.

    Cuối năm 1971 đầu năm 1972, quân đội Hoa Kỳ đă rút khỏi Vùng I. C̣n lại chỉ là những đơn vị tiếp liệu và cố vấn. Hơn 80 ngàn lính TQLC Hoa Kỳ có mặt ở Vùng I vào giữa năm 1969, bây giờ chỉ c̣n khoảng 500. Để pḥng thủ năm tỉnh của Vùng I, Tướng Hoàng Xuân Lăm cho SĐ 1BB giữ phía Tây thành phố Huế; SĐ 2BB giữ ba tỉnh ở phía Nam; và sư đoàn yếu nhất, SĐ 3 BB, được giao nhiệm vụ trấn giữ hai hướng Bắc và Tây Quảng Trị. Trung đoàn 57 phụ trách bên phải quốc lộ 1, hướng Bắc Cửa Việt; trung đoàn 2, bên trái quốc lộ 1, Bắc Cam Lộ; và, trung đoàn 56, phía Nam đường 9, gần những căn cứ Khe Gió, Carrol, Mai Lộc. Để yểm trợ và phụ giúp thêm cho SĐ 3BB, Vùng I cho hai lữ đoàn TQLC đóng ở những tiền đồn dọc theo ṿng cung Tây Nam đường 9, gần biên giới Lào, như là ṿng đai pḥng thủ đầu tiên cho trung đoàn 56. V́ trung đoàn 56 c̣n mới, để tiếp tục huấn luyện các tiểu đoàn tân lập của Tr./ Đ 56, và tránh t́nh trạng đóng quân ù ĺ một chỗ, Tướng Giai cho thay đổi vị trí của hai trung đoàn 2 và 56 theo chu kỳ: trung đoàn này đến vùng trách nhiệm của trung đoàn kia, và ngược lại. Đó là lối bày binh và trận liệt ở Vùng I khi CSBV đồng loạt tấn công - và CSBV tấn công vào ngay thời điểm bất ngờ và nguy hiểm nhất.

    Chín giờ sáng ngày 30 tháng 3-1972 Tr./ Đ 2 và 56 hoán chuyển trại và vùng trách nhiệm. Tr./ Đ 56 của Đính từ căn cứ C2 ở Bắc Cam Lộ di chuyển về hướng Nam, thay thế Tr./ Đ 2 ở căn cứ Carroll, căn cứ hỏa lực Fuller và Khe Gió. Mười một giờ ba mươi, khi đoàn quân c̣n đang di chuyển, một số chưa kịp qua sông (sông Cam Lộ, trên đầu đường 9), chỉ có một đại đội tác chiến và đại chỉ huy vừa vào trong căn cứ Carroll th́ địch quân tấn công. Pháo 130 ly của địch bắn tràn ngập các mục tiêu. Không phải chỉ có Tr./ Đ 2 và 56 bị tấn công, tất cả các căn cứ trên toàn Quảng Trị bị tấn công. Ở hướng Bắc SĐ 308 CSBV chia làm bốn mũi vượt qua vĩ tuyến 17 đánh thẳng vào Tr./ Đ 57; ở hướng Tây từ biên giời Lào, SĐ 304 và một trung đoàn thiết giáp đánh vào các tiền đồn của lữ đoàn 147 TQLC ở Núi Ba Hô và Sarge. Ngày hôm đó, mặt trận Bắc và Tây Bắc Quảng Trị hoàn toàn trong biển lửa: CSBV bắn 2,000 quả đạn chung quanh căn cứ Fuller, Khe Gió, Carroll trong tổng số 11,000 trái trong 24 tiếng đầu của chiến dịch.

    Với cuộc hoán chuyển vị trí đang diễn ra khi cộng sản tấn công, ba tiểu đoàn của Tr./ Đ 56 chỉ có một phần bên trong những căn cứ đă được chỉ định. Hai tiểu đoàn 1/56 và 2/56 vẫn c̣n kẹt giữa đường và đang bị pháo của địch quân kèm lại một chỗ; tiểu đoàn 3/56 ở Khe Gió và 1/2 (tiểu đoàn 1 của trung đoàn 2, chưa rời trại khi Cộng quân tấn công) ở Fuller cũng không di chuyển được v́ bị pháo. Bộ binh CSBV tấn công hai căn cứ suốt ngày 30. Trưa 31, Khe Gió và Fuller thất thủ. Lực lượng ở hai căn cứ này mở đường máu rút về hướng đông nam, về căn cứ Carroll. Với hệ thống truyền tin bị phá hủy, Đính gần như hoàn toàn bất lực trong việc điều động các cánh quân đang phân tán. Không phải chỉ có trung đoàn 56 của Đính là nằm trong hoàn cảnh ngặt nghèo: bên trái của căn cứ Carroll, ở hướng Tây và Tây Nam, hai căn cứ hỏa lực Núi Ba Hô và Sarge - ṿng đai bảo vệ của Carroll - sắp bị tràn ngập. Mười giờ rưởi đêm 31, tiểu đoàn 4 TQLC ở căn cứ hỏa lực Núi Ba Hô di tản. Khi Núi Ba Hồ di tản th́ căn cứ Sarge ở phía Nam cũng không thể giữ được. Bốn giờ sáng đêm đó, sau khi khẳng định được t́nh h́nh ở hướng Bắc, bộ chỉ huy TĐ 4 TQLC ở Sarge cũng rút đi. Hai toán quân TQLC đều di tản về căn cứ Mai Lộc, ba cây số hướng Nam căn cứ Carroll, nơi có bản doanh của lữ đoàn 147 TQLC. Bây giờ chỉ c̣n Carroll và Mai Lộc nằm trên hướng tiến quân của SĐ 304 về Quảng Trị.

    Ngày 31 tháng 3-1972 Trung Tá Đính liên lạc với Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai để xin tiếp viện. “Nếu không được tiếp viện, căn cứ chỉ có thể giữ được vài ngày nữa thôi.” Đính báo cáo với Tướng Giai. “Ráng chờ, sẽ có tiếp viện,” Tướng Giai trả lời. Hôm sau, 1 tháng 4, Tướng Lăm đích thân gọi Đính. Lạc quan v́ nghĩ rằng ḿnh sẽ có tin vui, nhưng Tướng Lăm chỉ ra lệnh vắn tắt, là Sư Đoàn 3BB và Quân Đoàn I không c̣n ǵ để tiếp viện. Trung đoàn 56 phải giữ căn cứ Carroll bằng mọi giá! Chỉ có vậy, chỉ có vậy từ người tư lệnh quân đoàn. Cùng ngày, những cánh quân di tản hay những cánh quân bị kẹt v́ pháo kích lần lượt về được bên trong căn cứ Carroll, trong đó có cánh quân dưới quyền chỉ huy của trung đoàn phó Vĩnh Phong.

    Tường tŕnh của Trung Tá Phong làm cho Đính bi quan thêm: Sư Đoàn 308 CSBV đang truy kích họ. Sự bi quan trở thành thất vọng khi tin tức qua hệ thống truyền tin cho biết hai trung đoàn 2 và 57 trên đường di tản về Đông Hà; và Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 3BB sẽ rời căn cứ Ái Tử về Quảng Trị để tránh tầm đại bác 130 ly của Cộng quân từ bên kia sông Bến Hải bắn qua. Tối ngày 1 tháng 4, với tất cả quân di tản tụ về, căn cứ Carroll bay giờ có khoảng 1,500 tay súng trong ṿng đai pḥng thủ (có tường tŕnh nói quân số bên trong căn cứ trước giờ đầu hàng là 1,800 quân).

    Đọc đến đoạn này trong Vietnam's Forgotten Army, không ít đọc giả sẽ có chút thông cảm cho hoàn cảnh Trung Tá Đính, như tác giả Wiest ít nhiều đă có - theo sự nhận xét của người điểm sách. Chúng ta có thể thấy được sự lo sợ và hoang mang của Trung Tá Đính: Đường tiếp viện toàn bị cắt đứt; đối diện với một lực lượng của địch lớn hơn ba đến bốn lần về nhân lực cũng như hỏa lực; và bộ chỉ huy h́nh như đă bỏ trung đoàn, hay sẽ dùng trung đoàn như một lực lượng tế thần để đ́nh trệ đường tiến quân của đối phương. Trong ư nghĩ của Đính, quân lệnh cuối cùng của Trung Tướng Lăm có hàm ư như vậy.

    Nhưng nh́n lại địa h́nh và t́nh h́nh của mặt trận ở hướng Tây và Tây Bắc Quảng Trị, quân lệnh của Tướng Giai và Tướng Lăm không phải không có ư nghĩa. Những căn cứ nhỏ như Núi Ba Hô, Sarge, C2, C3, hay Mai Lộc có thể di tản được v́ đó là những căn cứ nhỏ, không có địa h́nh thuận lợi để pḥng thủ. Nhưng căn cứ Carrol th́ hoàn toàn khác. Đây là một căn cứ có thể cầm cự một hay là hai trung đoàn địch dễ dàng.

    Tên chánh thức của căn cứ là Camp James J. Carroll. Tên căn cứ đến từ tên một đại úy TQLC Hoa Kỳ tử trận trong cuộc hành quân Prarie ở khu vực đó vào năm 1966. Trong cao điểm của cuộc chiến Việt Nam, căn cứ Carroll là căn cứ pháo binh quan trọng của TQLC Hoa Kỳ ở Bắc đường 9. Từ căn cứ Carrol, đại bác 175 ly của Lục Quân và đại bác ṇng 8 inches của TQLC bắn yểm trợ cho căn cứ Khe Sanh (cách đó 20 cây số về hướng Tây Nam) và thường xuyên đấu súng với những pháo đội 130 ly của CSBV Ớ bên kia sông Bến Hải (20-22 cây số hướng Bắc). Trước khi trao lại cho quân lực VNCH, căn cứ là nơi đóng quân của bốn tiểu đoàn pháo binh Hoa Kỳ (hai tiểu đoàn của trung đoàn 12 pháo binh TQLC; hai tiểu đoàn của liên đoàn 94 pháo binh Lục Quân). Căn cứ rộng đủ để chứa hơn 2,000 quân và một ṿng đai pḥng thủ qui mô. Địa h́nh của căn cứ rất lư tưởng để pḥng thủ: Xây theo h́nh bát giác trên một ngọn đồi trống, quân pḥng thủ bên trong Carroll có thể quan sát bốn hướng: địch quân không thể tấn công bằng bộ binh mà không bị phác giác từ xa 500-1,000 mét.

    Địch quân có thể pháo kích - như họ đang làm - nhưng tấn công bằng quân bộ bịnh th́ lại là một chuyện khó khăn nếu quân trú pḥng quyết định tử thủ. Ngày 1 tháng 4, như đă nói ở trên, căn cứ Carroll có 1,500-1,800 tay súng bên trong và một lực lượng pháo binh gồm 26 khẩu đại bác từ 105 cho đến 175 ly, với vài chiến xa hạng nhẹ có trang bị đại bác 40 ly (loại thiết giáp tương tự như M41, gọi là “Duster,” trang bị hai khẩu 40mm và một đại liên 30 trên pháo tháp). Nh́n từ quan điểm pḥng ngự, lực lượng này có thể gây thiệt hại đáng kể cho mọi cuộc tấn công - hay ít nhất có thể cầm chân một lực không nhỏ của CSBV.

    Sáng Chủ Nhật ngày 2 tháng 4, Vùng I được một phi tuần B-52 yểm trợ. Bom bỏ hướng Tây Bắc ṿng đai bên ngoài của căn cứ. Liền sau cuộc giội bom, CSBV tấn công căn cứ từ ba hướng. Nhưng với địa h́nh kiên cố của căn cứ, CSBV bỏ cuộc vài tiếng tấn công biển người. Tác giả Wiest viết, cuộc tấn công biển người bị đẩy ngoài công sự một cách dễ dàng bằng ḿn và súng cá nhân. Cuộc tấn công bị coi thường đến độ vị trung tá cố vấn Mỹ đang có mặt bên trong căn cứ, trả lời với tiền sát viên không quân là ông chưa cần yểm trợ không lực trong lúc đó v́ không có mục tiêu nào thích đáng (đọc, Trial By Fire: the 1972 Easter Offensive, Americas Last Vietnam Battle, của Dale Andradé). Sau cuộc tấn công vào buổi sáng, Đính gọi về bộ tư lệnh sư đoàn xin yểm trợ. Trung Tá Cường, sư đoàn phó, trả lời là ông không thể trả lời cho Đính được; và Chuẩn Tướng Giai th́ đang ở Đông Hà thị sát t́nh h́nh. Cũng như lần nói chuyện trước, không ai có một câu trả lời rơ ràng về số phận của Trung Đoàn 56.

    Hai giờ trưa, Cộng quân tấn công lần thứ nh́: lần này địch tiến gần được hàng rào pḥng thủ hơn lần trước, nhưng vẫn không làm được ǵ. Trong khi cuộc tấn công đang diễn ra, Đính nghe trên hệ thống truyền tin một sĩ quan CSBV muốn nói chuyện với ông. Người trên hệ thống truyền tin nói ông ta đang quan sát mặt trận. Ông nói số phận của Đính và quân lính dưới quyền đang nằm trong t́nh trạng nguy hiểm. Nếu Đính và quân của trung đoàn đầu hàng th́ họ sẽ được đón tiếp và bảo vệ an toàn. Nếu không tất cả sẽ bị tiêu diệt. Chưa đầy một tiếng sau, một tư lệnh mặt trận lên máy truyền tin nói chuyện với Đính một lần nữa. Người tự nhận là tư lệnh mặt trận cho biết đây là lần đề nghị cuối cùng trước khi họ tấn công. Đính yêu cầu CSBV ngưng bắn và cho thêm giờ để quyết định. Ba giờ trưa, Đính tập hợp 13 sĩ quan chỉ huy của trung đoàn trong hầm chỉ huy để quyết định.

    Đính mở lời trước, cho biết t́nh thế rất tuyệt vọng. Căn cứ không thể cầm cự trước sự tấn công liên tục của địch quân. Sau đó Đính nói ra ư nghĩ thật của ḿnh, là “Nếu tiếp tục chiến đấu, nhiều người sẽ chết. Và nếu chúng ta có bị thương, có chết, để có được một chiến thắng, th́ cũng không ai lo cho chúng ta sau đó. Chúng ta bây giờ phải tự lo lấy thân.” Tiếp theo Đính nói về đề nghị của địch. Sau đó ông hỏi tất cả muốn tử thủ, đánh mở đường máu, hay đầu hàng? Nếu tất cả các sĩ quan có mặt đồng ư tiếp tục đánh th́ ông sẽ nghe chiều theo ư họ. Trong số sĩ quan hiện diện, chỉ có Thiếu Tá Tôn Thất Măn (khóa 12 Thủ Đức, TĐT 1/56) lên tiếng đ̣i đánh đến cùng. Số sĩ quan c̣n lại yên lặng không ư kiến.

    Trước sự yên lặng của các sĩ quan, Đính nói về gia đ́nh của họ, về viễn ảnh những vui mừng khi họ được sống sót trở về. Sau đó - theo tác giả Wiest viết - họ bỏ phiếu để quyết định: tất cả đều đồng ư đầu hàng, chỉ có Thiết Tá Tôn Thất Măn không bỏ phiếu. Với quyết định đă được đồng thuận, Đính đi qua lô cốt của hai sĩ quan cố vấn Mỹ để thông báo. Nhưng Thiếu Tá Joseph Brown và Trung Tá William Camper không đồng ư. Camper đề nghị trung đoàn dùng những chiếc thiết giáp có trong căn cứ đánh bung ra ṿng đai mở đường máu. Đính không chịu, nói vô ích. “Tôi muốn giết ông trung tá [Đính] ngay tại chỗ,” Trung Tá Camper kể lại sự tức giận của ông khi Đính nằng nặc đ̣i đầu hàng. Sau khi nói với Trung Tá Đính là nếu ông ta đầu hàng th́ trách nhiệm của hai người cố vấn đă hết. Camper gọi về trung tâm hành quân của Sư Đoàn 3BB cho biết “nhiệm vụ của ông ta không c̣n cần ở căn cứ Carroll nữa, và xin được di tản.” May mắn, một trực thăng C-47 trên đường tiếp tế đạn cho căn cứ Mai Lộc bay ngang qua đó, ghé lại bốc hai sĩ quan Hoa Kỳ và 30 người lính không chịu đầu hàng và muốn đi theo hai sĩ quan Mỹ.

    Khi chiếc trực thăng cất cánh th́ cờ đầu hàng đă bay trên căn cứ Carroll. Trung Tá Đính dẫn toán quân 600 người ra khỏi trại đi đến điểm hẹn với địch. Bên trong, số quân không chịu đầu hàng c̣n lại rút đi về hướng Đông. Trong nhóm quân không chịu theo Trung Tá Đính là Pháo Đội B của TĐ 1 Pháo Binh TQLC. Đây là pháo binh đi kèm TĐ 4 TQLC, họ đóng nhờ trong căn cứ Carroll. Theo tường tŕnh của cố vấn Mỹ sau này, Pháo Đội B ṇng đại bác xuống bắn thẳng cho đến khi bị tràn ngập. Tất cả toán quân rút đi, về đến pḥng tuyến VNCH được khoảng 1,000 người, trong đó có một tiểu đoàn c̣n nguyên vẹn. Tối đêm đó Đính và 600 quân đến một địa điểm gần căn cứ Khe Gió. Ở đây một sĩ quan CSBV ra đón họ.

    Ngày hôm sau, 3 tháng 4, Đính lên đài phát thanh CSBV đọc lời kêu gọi quân nhân VNCH đầu hàng như ông đă làm.

    Thiếu Tá Huế bị đưa về Bắc được hơn một năm th́ Trung Tá Đính cũng được CSBV đem ra Bắc để tiếp tục thực hiện kế hoạch tuyên truyền của họ. CSBV đề nghị Đính gia nhập quân đội CSBV th́ sẽ được phục hồi chức vụ trung tá trong quân đội của họ. Đính đồng ư. Đính làm như vậy chỉ để - theo lời Đính kể - giúp đỡ 600 quân nhân đầu hàng bị đưa về miền Bắc. Những quân nhân này đang phục vụ công tác lao động ở các đơn vị hậu cần CSBV. Trở thành một sĩ quan cộng sản, Đính có lương và nhà ở, và làm việc như một sĩ quan văn pḥng ở Hà Nội. Sau này, sau khi VNCH thất thủ, Đính đă phục vụ trong công tác tuyên truyền cho CSBV. Một trong những công tác là làm giảng viên ở những trại tập trung quân đội VNCH.

    Về phần Huế, sau sáu tháng bị nhốt ở Hỏa Ḷ, ông bị đưa về trại tù Sơn Tây. Trong thời gian ở Sơn Tây, CSBV đưa Đính và Trung Tá Vĩnh Phong vào nói chuyện với một số tù binh. Trong buổi gặp mặt đó, bên phía tù binh VNCH ngoài Huế c̣n có Đại Tá Nguyễn Văn Thọ và Thiếu Tá Trần Văn Đức của lữ đoàn 3 Nhảy Dù. Trong lần nói đó, chuyện phía bên kia không thẳng lời chiêu dụ Huế và hai sĩ quan Nhảy Dù. Nhưng họ có hàm ư là nếu ba người sĩ quan đầu hàng th́ sẽ có được một đời sống thoải mái hơn là đời sống của tù binh. Sau đó, Huế và một số sĩ quan được đưa về Hà Nội để chiêu dụ thêm một lần nữa. Nhưng một lần nữa Huế từ chối không theo về bên kia. Hai năm sau, cuộc đời của Thiếu Tá Huế bị thêm một “tai nạn” nữa.

    Sau khi Hiệp Định Paris 1973 được kư kết: Là một tù binh, tên của ông được nằm trong bản trao trả tù binh chính thức. Nhưng chỉ vài giờ trước khi được giao trả về miền Nam, CSBV giữ ông lại. V́ ông bị bắt ở Hạ Lào, nên nói “một cách kỹ thuật,” ông là tù binh của Pathet Lào! Huế bị giam đến năm 1983 mới được trả tự do. Theo lời kể của Huế, trước khi gia đ́nh ông được phép rời Việt Nam sang Mỹ, Trung Tá Đính có t́m vào Sài G̣n gặp Huế. Đính muốn khi Huế đến Mỹ và khi gặp lại những sĩ quan cố vấn, nên giải thích hoàn cảnh đă làm cho ông phải đầu hàng - Những hoàn cảnh mà Thiếu Tá Huế cho là không chính đáng để đầu hàng.

    Tài liệu căn bản của Vietnam's Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN đến từ phỏng vấn những nhân vật có liên quan đến sự kiện. Sử liệu trong tác phẩm không quan trọng hay mới lạ trên quan điểm sử học. Nhưng đó là sự lôi kéo của tác phẩm: tác giả tạo được một tác phẩm lư thú dựa trên những ǵ rất ít ông đă t́m được. Andrew Wiest là giáo sư sử học tại Đại Học Southern Mississippi. Ông đă có một thời gian giảng dạy tại trường Cao Đẳng Không Quân (Air War College), nơi đào tạo sĩ quan cấp tướng tương lai cho Không Quân Hoa Kỳ. Vietnam's Forgotten Army là tác phẩm thứ ba về chiến tranh Việt Nam của tác giả.

    Nguyễn Kỳ Phong

  9. #49
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    GS Andrew Wiest, University of Southern Mississippi, nói về cuốn sách của ḿnh nhân ngày 30.4.2008. Bàn dịch của GS Trần Thủy Tiên
    Bài Diễn Văn của Giáo sư Sử học Andrew Wiest


    Trước hết, xin cho phép tôi được cám ơn Cộng Đồng Người Mỹ Gốc Việt ở Dallas, Fort Worth và Các Vùng Phụ Cận, và ông Cung Nhật Thành, đă mời tôi đến đây để tŕnh bầy trước một tập thể khán giả tuyệt vời như hôm nay.

    *

    Tôi chỉ có 14 tuổi khi Saigon thất thủ vào năm 1975, và v́ vậy, tôi c̣n quá nhỏ nên đă không thể tham dự vào Cuộc Chiến Việt Nam của nước Mỹ.

    Tuy nhiên, tôi đă nh́n thấy cuộc chiến qua ti vi, và những người anh lớn tuổi của các bạn tôi, đă thực sự chiến đấu trong cuộc chiến. Mặc dù lúc đó c̣n quá nhỏ, Chiến Tranh Việt Nam đă là cuộc chiến của thế hệ tôi về nhiều phương diện.

    Sau bậc trung học, tôi đă lên đại học để nghiên cứu về lịch sử quân đội, nhưng lúc đó, không có ai giảng dạy các lớp học về Cuộc Chiến Việt Nam. Hậu quả là, tôi đă trở thành người viết lịch sử về Cuộc Thế Chiến Thứ I - nhưng việc t́m hiểu về Cuộc Chiến Việt Nam vẫn là niềm khát vọng sâu kín trong ḷng tôi.

    Năm 1997, tôi đă bắt đầu dạy các lớp ở trường đại học nơi tôi cư ngụ, Đại Học Miền Nam Mississippi, về Chiến Tranh Việt Nam. Trong khi chuẩn bị dạy lớp, tôi đă đọc rất nhiều về cuộc chiến, và cố gắng hết sức để quán triệt đề tài nầy, nhưng dường như vẫn c̣n điều ǵ đó thiếu sót về Cuộc Chiến Việt Nam. Để tiếp tục t́m kiếm giải đáp, tôi đă quyết định mang một nhóm sinh viên của tôi và các cựu chiến binh Hoa Kỳ, tới Việt Nam, để hiểu biết về Cuộc Chiến.

    Chúng tôi đă đi từ Saigon tới Cần Thơ và Hà Nội, tôi đă học được rất nhiều, nhưng vẫn cảm thấy có cái ǵ đó thiếu sót.

    Rồi chúng tôi đi đến Huế, nơi đó, tôi đă gặp ông Phạm văn Đính (PVĐ), người đă làm được nhiều việc rất tài giỏi, với vị trí của một chỉ huy trong quân đội Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH). Tuy nhiên, tôi lại biết được rằng PVĐ đă mang nguyên cả Trung Đoàn của ông đến gia nhập quân đội của kẻ thù trong Trận Đánh vào Lễ Phục Sinh Tháng Tư 1972 *.

    Khi trở về Hoa Kỳ, tôi gặp ông Trần Ngọc Huế, người đă từng là bạn và chiến hữu của Đính, và cũng đă thực hiện được nhiều chiến công đáng kể với vị trí chỉ huy trong quân đội VNCH. Nhưng khác với Đính, ông Huệ đă chiến đấu cho đến phút cuối cùng, dù lúc đó ông đang bị thương trầm trọng và bị bắt trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào của Quân Đội VNCH vào năm 1971, và đă bị tù 13 năm trong các ngục tù của quân Cộng Sản Bắc Việt.

    Các câu chuyện về Phạm Văn Đính và Trần Ngọc Huế đă thu hút và chiếm trọn tâm hồn tôi; tôi muốn những câu chuyện nầy cần phải được kể ra cho mọi người biết.

    Tôi đă đi tới Việt Nam để cố ư t́m hiểu về Cuộc Chiến Của Người Mỹ. Nhưng điều mà tôi đă t́m thấy được, lại là Cuộc Chiến Của Người Việt Nam.

    Tôi đă lập tức khởi sự nghiên cứu tất cả mọi thứ mọi việc mà tôi có thể t́m được về Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa. Thật là ngạc nhiên, tôi t́m thấy quá ít. Cũng thật là nhanh chóng để cho tôi thấy rơ ràng là, Miền Nam Việt Nam và quân đội Miền Nam chỉ được kể đến trong những phần ghi chú ở cuối trang sách của các sách lịch sử của phương tây và người Mỹ khi viết về Chiến Tranh Việt Nam.

    Lúc đó, tôi đă nhận thấy rằng; viết một quyển sách về Phạm Văn Đính và Trần Ngọc Huế không những sẽ là một niềm vui thích thú mănh liệt cho cá nhân tôi, mà ngoài ra, khi xử dụng nghề nghiệp chuyên môn của họ như một bối cảnh văn chương cho việc mô tả, th́ sau cùng, tôi có thể viết về Miền Nam Việt Nam và Quân Đội VNCH, vào trong phần lịch sử của Chiến Tranh Việt Nam.

    Các quan điểm duy nhất về quân đội Việt Nam mà tôi đă t́m thấy trong văn chương Hoa Kỳ khi viết về quân đội Miền Nam Việt Nam, là một quân đội đầy khuyết điểm và đă bị tiền định cho sự thất bại vào tay quân cộng sản. Tuy nhiên, những sự kiện có thật mà tôi khai phá được, đă bác bỏ cái lối nh́n cổ điển nầy về Quân Đội VNCH.

    Tôi đă khám phá được là, Quân Đội VNCH đă tranh đấu can trường, vật vă trong gian - khổ, chống lại quân cộng sản trong 25 năm, và đă tử trận trên 200,000 người. Để làm sáng tỏ sự kiện nầy, hai trọng tâm chính trong công việc nghiên cứu của tôi là Phạm văn Đính và Trần Ngọc Huế, mỗi người đă chiến đấu trong một thập niên để phục vụ xứ sở của họ, trước khi binh nghiệp của mỗi người dẫn họ đến hai điểm kết thúc hoàn toàn khác nhau.

    Thật quá hiển nhiên là, đă đến lúc câu chuyện về Quân Lực VNCH phải được viết lại cho đúng. Cuốn sách của tôi, Quân Đội Việt Nam Bị Lăng Quên: Tính Cách Anh Hùng và Sự Phản Bội Trong Quân Đội VNCH, tập trung vào hai cuộc đời của hai người đàn ông trong khu vực Quân Đoàn I & Quân Khu I của Miền Nam Việt Nam.

    V́ vậy, cuốn sách không thể tŕnh bầy toàn thể lịch sử của một cơ cấu phức tạp như Quân Đội VNCH. Tuy nhiên, tôi hy vọng rằng, cuốn sách là một sự khởi đầu tốt đẹp, một bước tiến đến gần để giải thoát Quân Đội VNCH ra khỏi vị trí vô h́nh vô tâm của lịch sử.

    Trong vài phút tới đây, tôi sẽ cố gắng phác họa đại cương những kết luận cơ bản của công việc nghiên cứu của tôi. Tôi muốn bầy tỏ ư kiến của tôi, là Quân Đội VNCH đă bị chiến đấu trong một cơ cấu có kế hoạch sai trái, lỗi lầm. Kế đó, giống như nhiều người khác ngày hôm nay, nhiều người Mỹ đă xem Chiến Tranh Việt Nam như là một sự tập luyện quân đội với một giải pháp quân sự của người Mỹ.

    Thay v́ đoàn kết làm việc chung với Quân Đội VNCH, các lực lượng mạnh mẽ của người Mỹ đă có khuynh hướng xô Quân Đội VNCH sang một bên, với ư muốn dành phần thắng trận về một phía cho người Mỹ mà thôi. Do đó, nỗ lực quân sự của người Mỹ, dù có ư định tốt, đă gây hậu quả áp đặt, làm mất sự độc lập của Quân Đội VNCH và trói buộc Miền Nam Việt Nam vào cái kiểu tác chiến của người Mỹ, không phải của người Miền Nam Việt Nam.

    Có thể nói, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, vị chỉ huy nổi tiếng và đáng kính của Sư Đoàn I, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, đă diễn tả đúng nhất, khi ông nhận định như sau:

    Bước vào cuộc chiến tranh nầy với vị thế và cách bố trí dàn quân của một đội lính cứu hỏa, người Mỹ đă hối hả chạy đến để cứu giúp căn nhà Việt Nam khỏi bị tàn phá, nhưng lại ít quan tâm tới việc chăm sóc cho các nạn nhân đang bị cháy ở trong nhà. Chỉ sau khi người Mỹ nhận biết rằng các nạn nhân cũng cần được chữa trị và tập luyện trở thành những người lính chữa lửa để tự cứu lấy những căn nhà của chính họ, th́ đến lúc đó, người Mỹ mới bắt đầu thực sự quan tâm chăm sóc cho họ. Nhưng thời gian quư báu đă trôi qua mất rồi, đợi đến lúc các nạn nhân cố gắng đứng lên và vừa mới bắt đầu đi được vài bước sau khi hồi phục, th́ đội lính cứu hỏa lại nhận được mệnh lệnh phải trở về trụ sở cứu hỏa.

    Bên trong cái cơ cấu sai lầm toàn diện nầy, Quân Đội VNCH đă chiến đấu lâu dài và can trường -- đă hoàn thành được rất nhiều chiến công hơn cả những ǵ mà các sách lịch sử Mỹ ghi nhận về cuộc chiến nầy.

    Từ các năm 1965 - 1969, các lực lượng Hoa Kỳ và VNCH đă tham dự nhiều trận chiến nổi tiếng và vài trận mang tiếng xấu, trong Chiến Tranh Việt Nam.

    Từ cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 của Việt Cộng, tới các cuộc đụng độ trong thung lũng A Shau (gần Quảng Trị), những trận đánh nầy được nổi tiếng trong lịch sử Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các sách lịch sử của người Mỹ đă sai lầm qua cách nh́n của họ, v́ trong những sách nầy, Quân Đội VNCH thường xuyên bị bỏ quên trong các trận đánh.

    Như vậy tôi tin rằng, để có một sự hiểu biết đầy đủ hơn về cuộc chiến nầy, lịch sử phải bắt đầu tường thuật về Quân Đội VNCH.

    Công việc nghiên cứu của tôi đă mở rộng ra để mô tả toàn thể cuộc chiến. Tuy nhiên, tôi sẽ đưa ra hai thí dụ vững chắc làm đại diện cho lư do tại sao Quân Đội VNCH phải được viết vào lịch sử của Chiến Tranh Việt Nam.

    Thử cầm lên bất cứ cuốn sách nào về cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân của Cộng quân từ Miền Bắc tràn vào Miền Nam, các bạn sẽ đọc thấy rằng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đă nắm giữ vai tṛ chính trong việc chiếm lại Thành Nội Huế nổi tiếng (ở Miền Trung) vào năm 1968. Tuy nhiên, khi nghiên cứu sâu rộng hơn, sẽ thấy, mặc dù Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đă chiến đấu rất gan dạ, nhưng thực ra chính những người lính của Quân Đội VNCH thuộc Sư Đoàn I, dẫn đầu bởi Đại Đội Hắc Báo, được chỉ huy bởi Trần Ngọc Huế, đă bảo vệ và chiến đấu mănh liệt nhất để chiếm lại Cố Đô Huế.

    Trong một thí dụ khác, đa số người tây phương đă nghe về Ngọn Đồi Hamburger, một trận đánh trong đó lực lượng Nhẩy Dù Hoa Kỳ đă chiếm giữ được một ngọn đồi hẻo lánh trong rừng từ sự chống trả ác liệt của quân Việt Cộng. Tuy nhiên, điều mà nhiều người không biết là chính Phạm Văn Đính và Tiểu Đoàn Bộ Binh VNCH của ông ta mới là những người đầu tiên đă tiến lên tới đỉnh Ngọn Đồi Hamburger trong trận đánh then chốt đó.

    Do vậy, ư tôi muốn nói là, ngay trong những vấn đề nhỏ về chiến thuật như trên, chỉ bằng cách viết về Quân Đội VNCH vào trong lịch sử của Chiến Tranh Việt Nam, chúng ta sẽ thực sự hiểu được cách thức diễn tiến của cuộc chiến ra sao.

    Một sự kiện đáng chú ư khác nữa là đa số sách vở tây phương viết về Chiến Tranh Việt Nam chỉ viết sơ sài vắn tắt về bất cứ những ǵ xẩy ra sau năm 1968. Lúc đó, sau năm 1968, mối quan tâm quyền lợi của người Mỹ trong cuộc chiến đă suy giảm, và phương sách tách rời khỏi Việt Nam đă bắt đầu.

    Thật là một khuyết điểm trầm trọng trong việc tường thuật về lịch sử của chiến tranh Việt Nam, v́ trong khi tấn bi kịch quốc gia của nước Mỹ lúc đó đang tiến đến hồi kết thúc, th́ bi kịch quốc gia của Miền Nam Việt Nam đă chỉ mới bắt đầu.

    Trong khi được huấn luyện và trang bị để sinh tồn là một phần quan trọng trong cuộc chiến của người Mỹ ở Việt Nam, th́ Quân Đội VNCH bất th́nh ĺnh thấy hầu như chỉ c̣n một ḿnh lẻ loi trong những trận đánh quan trọng nhất của toàn thể cuộc chiến, nhưng lại không được thông báo trước.

    Cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào năm 1971 giữ vị trí khá quan trọng trong cuốn sách của tôi. Đó là một trận chiến chứng minh rằng Quân Đội VNCH đă có những sức mạnh kỳ diệu. Quân Đội VNCH đă chiến đấu can đảm trên các vùng đất của kẻ thù với các lực lượng đông hơn và mạnh hơn nhiều.

    Tuy nhiên, đó cũng là một trận đánh đă chứng minh rằng Quân Đội VNCH vẫn cần sự ủng hộ của người Mỹ trong một thời gian nào đó, trước khi trở nên độc lập hoàn toàn.

    Nhưng thay v́ tạm ngưng để học hỏi từ các bài học của cuộc hành quân Lam Sơn 719 rồi tiếp tục, người Mỹ chỉ muốn rút lui ra khỏi chiến tranh Việt Nam cho nhanh.

    Kế đến là Trận Chiến Mùa Hè Đỏ Lửa (Tháng Tư, 1972), một cuộc công kích ồ ạt và bất th́nh ĺnh của quân Cộng Sản Bắc Việt, đă chờ đợi để tấn công, sau khi tất cả các lực lượng chiến đấu Hoa Kỳ đă thực sự rời khỏi Việt Nam.

    Trong các giai đoạn đầu của trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa nầy, một vài đơn vị của Quân Đội VNCH đă tỏ ra yếu ớt không vững mạnh, đáng kể là đơn vị đầu hàng của Phạm văn Đính ở Trại Carroll.

    Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của không lực Hoa Kỳ, Quân Đội VNCH đă trấn giữ vững chắc trong những trận tranh hùng ác liệt tại chỗ như Cổ Thành Quảng Trị và An Lộc - những trận quyết chiến can đảm như trong các bài anh hùng ca, hầu như đă bị bỏ quên trong nhiều sách lịch sử tây phương viết về Chiến Tranh Việt Nam.

    Lịch sử của cuộc chiến nầy, một khi Quân Đội VNCH được lưu tâm chú ư, phải tạo lập nên một câu chuyện khác hẳn với những ǵ đă t́m thấy trong nhiều sách.

    Quân Đội VNCH, mặc dù có khuyết điểm, đă chiến đấu dai dẳng và can trường, đă có thể thắng trận và xứng đáng với sự chiến thắng. Tuy nhiên, Quân Đội VNCH đă bị hiện hữu quá lâu như một thành phần phụ thuộc bổ túc do một định nghĩa sai lầm của người Mỹ về Chiến Tranh Việt Nam.

    Bên trong cái cơ cấu của cuộc chiến tranh của người Mỹ ở Việt Nam, Quân Đội VNCH đă hoạt động hữu hiệu trong các trận đánh, nhưng lại bị bỏ quên quá thường xuyên bởi lịch sử, từ Trận Tết Mậu Thân đến Đồi Hamburger.

    Tuy nhiên, các cuộc giao tranh với quân Việt Cộng ở Hạ Lào và Mùa Hè Đỏ Lửa Tháng Tư, đă xác định rằng Quân Đội VNCH vẫn cần có thờ́ gian để xem lại cuộc chiến của ḿnh và để trở nên tự lập -- điều mà Quân Đội VNCH xứng đáng được hưởng.

    Nhưng, buồn thay, sự kiên nhẫn của nước Mỹ đối với Chiến Tranh Việt Nam đă suy giảm, và sự rút lui của người Mỹ ra khỏi cuộc chiến đă diễn ra quá nhanh và quá ồ ạt nên Quân Đội VNCH đă không thể tồn tại một cách độc lập kịp thời.

    *

    Đă đến lúc phải viết lịch sử của Quân Đội VNCH vào lịch sử của Chiến Tranh Việt Nam. Chỉ bằng cách t́m hiểu Quân Đội VNCH, chúng ta mới có thể hiểu được lịch sử thật sự của chiến tranh Việt Nam, và có thể học hỏi được từ kinh nghiệm nầy.

    Một điều tôi hy vọng nơi cuốn sách của tôi là nó phải chứng minh được rằng, Quân Đội VNCH đă quyết chiến lâu dài và quả cảm v́ lư tưởng Tự Do, và Quân Đội VNCH xứng đáng có một sinh mệnh tốt đẹp hơn.

    Một lần nữa, tôi xin được cám ơn quư vị đă cho tôi cơ hội nói chuyện hôm nay, và tôi xin kết thúc bằng cách cúi chào những cựu chiến binh của các Lực Lượng Quân Đội VNCH.

    Quư vị, các bạn của tôi đây, là những anh hùng. Và tôi vinh dự được làm người thông tin tường thuật cho quư vị.

    Ra mắt sách “Vietnam’s Forgotten Army”: Giáo sư sử học Andrew West và nhân vật chính trong sách, Trung tá Trần Ngọc Huế cùng các đồng đội Việt Mỹ của ông.

    Address to The Vietnamese American Community of
    Greater Dallas, Fort Worth, and Vicinity April 26, 2008

    First please allow me to offer my thanks to The Vietnamese American Community of Greater Dallas and Vicinity, and Mr. Cung Nhat Thanh, for inviting me here to talk today to such a wonderful gathering.

    *

    I was only 14 years old when Saigon fell in 1975, and was thus too young to take part in Americás Vietnam War. However, I witnessed the war on television, and the older brothers of my friends did fight in the war. Although I was too young, the Vietnam War was in many ways the war of my generation.

    After high school I went to university to study military history, but at that time nobody taught courses on the Vietnam War. As a result, I became a historian of World War I - but understanding the Vietnam War remained my secret passion.

    In 1997, I first began to teach classes at my home university, the University of Southern Mississippi, on the Vietnam War. In preparation for the class, I read quite widely on the war, and did my best to master the topic. Something, though, seemed to be missing from my understanding of the Vietnam War. Still searching for answers, I decided to take a group of students and US veterans to learn about the Vietnam War in Vietnam.
    We traveled from Saigon, to Can Tho to Hanoi, and I learned a great deal, but still something was missing.

    Then we journeyed to Hue, where I met Pham Van Dinh, who had achieved great things as a commander within the Army of the Republic of Vietnam (ARVN).

    However, I also learned that Pham Van Dinh had surrendered his entire regiment and defected to the enemy during the Easter Offensive of 1972.

    Upon returning home I met Tran Ngoc Hue, who had once been Dinh's friend and comrade, and also had achieved great things as an officer in the ARVN.

    However, Hue fought until the end, being severely wounded and captured during the Lam Son 719 invasion of Laos in 1971, and then served 13 years in North Vietnamese prisons.

    The stories of Pham Van Dinh and Tran Ngoc Hue captivated me; they were stories that needed to be told.

    I had gone to Vietnam in search of the American War there. What I found, though, was a Vietnamese War.

    I immediately began to research everything I could find on the ARVN. To my surprise, I found very little. It quickly became apparent that South Vietnam and its military were only footnotes in the American and western histories of the Vietnam War.

    At that point I realized something; that writing a book about Pham Van Dinh and Tran Ngoc Hue would not only be of great personal interest to me but also, by using their careers as a narrative structure, I would be able finally to write South Vietnam and the ARVN into the history of the Vietnam War.

    The only views of the ARVN that I discovered in most American literature characterized the South Vietnamese military as fatally flawed and predestined to failure at the hands of the communists. However, the facts that I was discovering disputed this traditional vision of ARVN.

    I discovered that ARVN fought hard, struggling against the communists for 25 years, losing more than 200,000 dead. As a reflection of this fact, the two main focuses of my research, Pham Van Dinh and Tran Ngoc Hue, each fought for a decade in service of their country before their careers came to such different ends. It was obvious that the story of ARVN had to be re written. My book, Vietnam's Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN, focuses on the lives of two men in the I Corps area of South Vietnam.

    For that reason it cannot pretend to present the entire history of an institution as complex as the ARVN. However, I hope that it is a good start, a step toward rescuing ARVN from historical invisibility.

    In the next few minutes, I will attempt to outline the basic conclusions of my research.

    It is my opinion that ARVN fought its war within a flawed strategic structure. Americans then, like so many today, viewed the war in Vietnam as a military exercise with an American military solution.

    Instead of working with ARVN, the mighty American forces tended to shove ARVN to one side in an effort to win the war single-handed. The American military effort, though well intentioned, had the effect of stifling ARVN independence and tied South Vietnam to an American style of war.

    Perhaps General Ngo Quang Truong, the legendary commander of the 1st ARVN Division, put it best when he stated: Entering the war with the posture and disposition of a fire brigade, the Americans rushed about to save the Vietnamese house from destruction but took little interest in caring for the victims. Only after they realized that the victims, too, should be made firefighters to save their own houses, did Americans set about to really care for them. Valuable time was lost, and by the time the victims could get onto their feet and began to move forward a few steps after recovery, the fire-brigade was called back to the home station. Within this flawed overall structure of the war, ARVN fought long and hard - achieving much more success than most American histories of the conflict indicate. From 1965-1969 US and ARVN forces took part in the most famous, and in some cases infamous, battles of the Vietnam War. From the Tet Offensive 1968 to clashes in the A Shau Valley, these battles are very well known in American history. However, the histories as they stand are wrong, for in these books ARVN is usually absent from those battles. It is my belief that to gain a fuller understanding of the conflict, history must begin to include ARVN in the story.

    My research was wide ranging and covered the entire war. However, I will allow two examples to stand as representative of why ARVN must be written into the history of the Vietnam War.

    Pick up any book on the Tet Offensive, and you will read that it was the US Marines who played the major role of retaking the famed Hue Citadel in 1968. However, on further reflection, although the US Marines fought bravely, it was the men of the ARVN 1st Division, led by the Hac Bao Company commanded by Tran Ngoc Hue, that first defended and then did the most to recapture the Citadel.

    In another example, most westerners will have heard of Hamburger Hill, a battle in which the American airborne seized a forlorn jungle hilltop from fierce communist resistance. However, what most people do not know is that it was Pham Van Dinh and his ARVN battalion of infantry that first reached the top of Hamburger Hill in that pivotal battle. Thus it is my contention, that even in such small matters of tactics only by writing the ARVN into the history of the Vietnam War will we actually understand how the conflict progressed. Another interesting fact is that most western books on the Vietnam War give only cursory coverage of anything that happened after 1968. By that time American interest in the conflict had waned, and the process of disengaging from Vietnam had begun.

    It is a great flaw in the historical coverage of the war, for while Americás national tragedy was nearing its end, the national tragedy of South Vietnam had only just begun. Trained and equipped to exist as an important part of an American war in Vietnam, the ARVN suđenly found itself almost alone in some of the most important, but under reported, battles of the entire war.

    The Lam Son 719 invasion of Laos in 1971 figures quite prominently in my book. It was a campaign that demonstrated that ARVN had great strengths. ARVN fought bravely on enemy territory against heavy ođs.

    However, it was also a campaign that demonstrated that ARVN would still need American support for some time before becoming fully independent. However, instead of pausing to take stock of the lessons of Lam Son 719, the American withdrawal from the conflict only gained speed.

    Next came the Easter Offensive, an all out attack by the North Vietnamese, which came after virtually all of the US combat forces had left the country.

    In the early stages of the battle, some ARVN units faltered, notably represented by Pham Van Dinh's surrender at Camp Carroll.

    However, with the aid of US air power, ARVN held firm in titanic struggles in places like the Quang Tri Citadel and An Loc - epic battles that are almost ignored by most western histories of the Vietnam War.

    The history of the war, when ARVN is taken into account, thus makes up a story that is different than what you will find in most books.

    ARVN, though it had its faults, fought long and hard and was capable of and deserving of victory. ARVN, though, had too long existed as an adjunct to a flawed American definition of the Vietnam War. Within the structure of the American war in Vietnam, ARVN had performed well, in battles too often ignored by history from Tet to Hamburger Hill.

    However, fighting in Laos and in the Easter Offensive indicated that ARVN still needed time to redefine its war and to become independent - something that ARVN deserved. But, sadly Americás patience with the Vietnam War had run out, and the American withdrawal from the conflict was too quick and too total for ARVN to survive on its own. It is time to write the history of ARVN into the history of the Vietnam War.

    *

    Only by understanding the ARVN will we ever be able to understand the true history of the conflict in Vietnam, and be able to learn from the experience. One thing that I hope that my book does is demonstrate that ARVN fought long and hard in the cause of Freedom, and that ARVN deserved a better fate. Again, I would like to thank you for the opportunity to speak here today, and I would like to close by saluting the veterans of the Republic of Vietnam Armed Forces. You, my friends, are the heroes. And I am honored to be your reporter.


    Người Cũ added this photo to their favorites. (12 months ago)

    I do not like this . (11 months ago)

    Người Mỹ tự cho là cứu tinh của thế giới. Nhưng khi không cứu được th́ họ bỏ đi như những tên hèn hạ. Nixon vốn là một tay cờ bac, C̉N kISSINGER LÀ CON CÁO GIÀ Do Thái.Ông ta xúi Nixon bỏ VN để nước Mỹ quay lại với Do Thái. Kiểu cách của người Mỹ là thế .

    kim938 (10 months ago)

    Sự thất bại mà cũng tranh dành nhau.người Mỹ là con buôn,thắng th́ buôn tiếp,thu th́ bỏ của chạy lấy người.c̣n chánh quyền sài g̣n không biết tự chủ và khôn khéo để tồn tại.


    Lưu Quang Minh added this photo to his favorites. (9 months ago)

    traitor30041975 (7 months ago)

    Phạm Văn Đính là một sỉ quan anh hùng của VNCH tạo dựng được bao chiến công diệt địch hiển hách ở chiến trường , nhưng thật dáng tiếc vào phút cuối lại "Thèm Sống Sợ Chết".

    Viet nam tien len (7 months ago)

    Có thể các bạn được tuyên truyền là CS lưu manh, CS tàn bạo nhưng các bạn ko bao giờ biết đó chỉ là chiêu bài tâm lư chiến của những người đối đầu nhau.
    C̣n thực sự các bạn muốn biết tại sao người CS lại chiến thắng th́ các bạn nên t́m hiểu về lịch sử việt nam ko phải thông qua sách báo trong nước mà thông qua sách báo nước ngoài và trang wikipedia là một những trang có thông tin khá chân thực ko nghiêng về phe nào..!
    Người CS xuất thân từ những người dân nghèo nên lư tưởng duy nhất của họ là độc lập dân tộc, tự chủ, thống nhất đất nước. Nếu các bạn t́m hiểu qua lịch sử VN thời ḱ bị pháp đô hộ, và nhật chiếm đóng rồi chiến tranh thế giới thứ 2. Nạn đói năm 1945 giết chết 15% dân số miền bắc th́ các bạn sẽ hiểu tại sao người CS lại có quyết tâm chiến đấu đến như vậy, đó là sự chiến đấu cho sự tồn vong của một dân tộc.
    Cuộc chiến với người việt quốc gia (VNCH) và người mỹ là một t́nh thế ép buộc là màn kịch 100% do người mỹ dựng lên khi họ đánh giá sai về chiến lược đối với cuộc chiến này, đầu tiên là họ từ chối giúp đỡ Việt Minh trong việc chống lại người pháp để dành độc lập, thay v́ hỗ trợ Việt Minh họ lại hỗ trợ người pháp ( pháp chiếm ưu thế về vũ khí và quân đội) buộc Việt Minh phải nghiêng về Liên Xô và Trung Quốc, khi người pháp bị thất bại, người mỹ lại quyết tâm theo đuổi chiến lược học thuyết domino CS, do vậy họ hất cẳng người pháp và thay thế hẳn người pháp trong việc tái lập một nhà nước đối lập với CNCS, chính v́ vậy tư tưởng duy nhất của VNCH đó là chống lại CS với những bài tâm lư chiến do mỹ và VNCH tuyên truyền, c̣n miền bắc họ theo chủ thuyết độc lập dân tộc, thống nhất đất nước chứ ko phải là chống lại CNTB,..do vậy miền bắc họ chiến đấu với lư tưởng rơ ràng hơn và quyết tâm hơn. Mặc dù trong chính sách của họ trước và sau khi thống nhất đất nước có những sai lầm, nhưng họ luôn t́m cách thay đổi để cho phù hợp với sự phát triển của dân tộc do vậy họ vẫn được nhân dân tin tưởng.
    C̣n người Việt Quốc gia tiền thân là những người thuộc liên hiệp pháp hoặc thân pháp sau khi thất bại ở điện biên phủ, người pháp kí hiệp định gionevo th́ họ rút vào miền nam sau vĩ tuyến 17, họ được người mỹ hỗ trợ và thành lập ra nước VNCH, do họ được tuyên truyền tư tưởng CNCS tàn bạo, thế nên họ chiến đấu v́ lư tưởng tự do, chống lại chủ nghĩa CS, có điều chính trong ḷng họ cũng có những người CS và theo chủ nghĩa dân tộc muốn thống nhất nên tinh thần chiến đấu (xét toàn diện) của họ thấp hơn người CS, ngoài ra do việc Mỹ chi phối toàn bộ về tài chính, quân sự do vậy đẩy người VNCH vào thế bị động khiến quân đội VNCH trở thành lực lượng dự bị hơn là lực lượng chính quy, và cũng chính vấn đề này làm nảy sinh những vấn đề trong nội tại của người quốc gia.
    Tất nhiên v́ lư tưởng đấu tranh cho tự do, và chống lại CS nên sau khi thống nhất đất nước cộng thêm những sai lầm của người CS khiến cho nhiều người việt quốc gia sau khi rời xa quê hương vẫn có tư tưởng và quan điểm chống đối lại nhà nước VN, mặc dù chiên tranh đă qua đi 38 năm rồi, và CNCS dường như đă thay đổi hoàn toàn cho phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại.

  10. #50
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Đầu hàng Giạc khi bị bao vây?
    Trung tá Phạm Văn Đính trong mùa hè đỏ lửa

    Báo Ân ninh Thế giới
    http://antg.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=77925


    Chuẩn tướng Vũ Văn Giai lúc được Tổng thống Thiệu gắn mề đay năm 1971.

    Như những ǵ chúng ta đă biết, lúc 11h30' ngày 30/3/1972, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Trị-Thiên đă phát lệnh tấn công vào các căn cứ hỏa lực của quân đội Sài G̣n đóng dọc theo vùng giới tuyến nằm trên địa bàn của tỉnh Quảng Trị. Bằng những đợt tấn công dồn dập, trúng mục tiêu của Quân giải phóng, chỉ trong một thời gian ngắn giao tranh đă làm tê liệt hoàn toàn những cứ điểm của địch...

    Lúc 14h30' ngày 2/4/1972, trước cơn mưa pháo kích như băo lửa của Trung đoàn Pháo binh 38 (Đoàn Bông Lau) và sự tấn công bằng bộ binh của Sư đoàn 304 chủ lực của Đại tá Hoàng Đan. Ṿng vây ở căn cứ Carroll của địch đă bị siết chặt, Trung tá Phạm Văn Đính - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 của Sư đoàn 3 Bộ binh quân đội Sài G̣n đă lên hệ thống truyền tin để xin được gặp người chỉ huy cao nhất của Đoàn Bông Lau, xin ngưng bắn để treo cờ trắng dẫn binh sĩ của ḿnh trở về với Cách mạng.

    Đúng một tháng sau, ngày 2/5/1972, trước t́nh h́nh vô cùng nguy khốn và thiệt hại nặng nề của các lực lượng tác chiến Việt Nam Cộng ḥa (VNCH), Chuẩn tướng Vũ Văn Giai - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 3 Bộ binh ngụy - Tư lệnh chiến trường Quảng Trị đă tuyên bố triệt thoái để t́m đường tháo chạy về phương Nam, trước khi từng đoàn Quân giải phóng rầm rập tiến về giải phóng Quảng Trị.

    Ngày trở về của viên trung tá

    Trung tá Phạm Văn Đính, người Thừa Thiên, tốt nghiệp Khóa 9 Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức và bắt đầu nổi tiếng khi c̣n là trung úy chỉ huy liên đại đội Hắc Báo (lực lượng phản ứng cấp thời được thành lập vào năm 1965) theo sáng kiến của chuẩn tướng Nguyễn Văn Chuân - Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh ngụy lúc bấy giờ. Trong cuộc đời binh nghiệp của ḿnh, Trung tá Đính được thăng cấp rất nhanh, từ thiếu úy lên trung tá chỉ trong ṿng 5 năm.

    Rời Hắc Báo, Đính được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 3 Bộ binh. Khi tiểu đoàn này hoạt động tại quận Quảng Điền (Thừa Thiên), Tiểu đoàn trưởng Đính được tướng Ngô Quang Trưởng đề cử kiêm nhiệm quận trưởng và được thăng thiếu tá vào tháng 6/1967. Ngày 1/1/1969, thiếu tá Đính là 1 trong 3 tiểu đoàn trưởng bộ binh đầu tiên của Sư đoàn 1 và của Quân lực VNCH được thăng cấp trung tá, sau đó được đề cử giữ chức Trưởng pḥng 3 - Bộ Chỉ huy Tiền phương Sư đoàn 1 Bộ binh (Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy tiền phương lúc đó là Đại tá Vũ Văn Giai). Giữa năm 1970, Trung tá Đính được bổ nhiệm làm Trung đoàn phó Trung đoàn 54 Bộ binh và đến tháng 10/1971 được đề cử làm Chỉ huy trưởng Trung đoàn 56 khi mới 28 tuổi.

    Khoảng 9h sáng ngày 30/3/1972, khi Trung đoàn 2 và 56 hoán chuyển trại và vùng trách nhiệm theo chu kỳ đă định sẵn. Trung đoàn 56 của Trung tá Đính từ căn cứ C2 ở Bắc Cam Lộ di chuyển về hướng Nam, thay thế Trung đoàn 2 ở căn cứ Carroll, căn cứ hỏa lực Fuller và Khe Gió.

    11h30', khi đoàn quân c̣n đang di chuyển, một số chưa kịp vượt qua sông Hiếu, chỉ có một đại đội tác chiến và chỉ huy vừa vào đến căn cứ Carroll th́ bất ngờ bị Quân giải phóng tấn công. Pháo 130 ly của Đoàn Bông Lau bắn tràn ngập các mục tiêu.

    Ngày 31/3/1972, Trung tá Đính liên lạc với chuẩn tướng Vũ Văn Giai để xin tiếp viện. "Nếu không được tiếp viện, căn cứ chỉ có thể giữ được vài ngày nữa thôi" - Đính báo cáo với tướng Giai. "Ráng chờ, sẽ có tiếp viện, "tướng Giai trả lời. Hôm sau, 1/4, tướng Hoàng Xuân Lăm - Tư lệnh Quân đoàn 1 của Quân lực VNCH đích thân gọi cho Đính. Lạc quan v́ nghĩ rằng ḿnh sẽ có tin vui, nhưng tướng Lăm chỉ ra lệnh vắn tắt, là Sư đoàn 3 Bộ binh và Quân đoàn 1 không c̣n ǵ để tiếp viện. Trung đoàn 56 phải giữ căn cứ Carroll bằng mọi giá!


    Trung tá Phạm Văn Đính nói lời tri ân với Cách mạng.

    Sáng ngày 2/4/1972, các xạ thủ của Đoàn Bông Lau tiếp tục tập trung hỏa lực tấn công vào căn cứ Carroll. Trung tá Đính liên tục gọi điện về Bộ chỉ huy Sư đoàn 3 để xin tăng viện, nhưng mọi chờ đợi của Đính và thuộc cấp của ḿnh đều ch́m trong vô vọng, và điều quan trọng nhất là không nhận được bất cứ câu trả lời cụ thể nào về số phận của Trung đoàn 56.

    Biết là ṿng vây của Quân giải phóng ngày càng khép chặt trong t́nh thế không có bất cứ một phương án kháng cự nào khả thi. Trung tá Đính đă lên hệ thống truyền tin để liên lạc xin được gặp vị chỉ huy cao nhất của Quân giải phóng đang nhằm hướng tấn công vào Trung đoàn 56 tại cứ điểm Carroll. Sự kiện này đă được cựu chiến binh Hồ Văn Duyệt kể lại như sau: "Hồi đó tôi là giáo viên Trường Sĩ quan Pháo binh được phái đi phục vụ cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Tôi được đi cùng Trung đoàn Pháo binh 38, chi viện cho Sư đoàn 304, tấn công căn cứ Carroll do Trung đoàn 56, Sư đoàn 3 đóng giữ.

    Ngày 2/4/1972, đồng chí Trung đoàn phó pháo binh chỉ huy đài quan sát phải lên Sở chỉ huy Sư đoàn họp, ủy nhiệm cho tôi thay thế tiếp tục thực hiện kế hoạch hỏa lực. Khoảng đầu giờ chiều hôm ấy, một chiến sĩ trực vô tuyến điện báo cáo với tôi: "Có một thằng nó yêu cầu gặp thủ trưởng!", tôi bảo: "Nó phá rối đấy chứ gặp ǵ, mặc kệ nó". Một lát sau, chiến sĩ lại báo cáo: "Thằng đó xưng là trung tá chỉ huy trưởng xin gặp Sao Hôm". Sao Hôm là mật danh của đài quan sát chỉ huy.

    Theo cách xưng hô, tôi đoán là một viên sĩ quan nên tôi cầm máy. "Alô! Tôi là Sao Hôm đây, các anh cần gặp có việc ǵ?". Phía bên kia trả lời: "Tôi, trung tá Phạm Văn Đính - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 xin được gặp cấp chỉ huy cao nhất. Xin ông cho biết danh tính và cấp bậc".

    Nghe câu nói đó, tôi nghĩ tay này chắc được huấn luyện rất chính quy ở bên Mỹ. Riêng tôi, chưa từng dự kiến đối thoại với địch nên lúng túng không biết xưng hô thế nào. Tôi trả lời Trung tá Đính: "Chúng tôi không có thói quen xưng hô tên tuổi cấp bậc với đối phương trong lúc tác chiến, anh gọi tôi là Sao Hôm là được rồi. Tôi không phải là cấp chỉ huy cao nhất, nhưng có thể trả lời những ǵ anh cần hỏi, nếu quá quyền hạn tôi sẽ chuyển đạt lên cấp trên".

    Đính nói: "Tôi đề nghị các ông dừng hỏa lực trong một giờ, chúng tôi muốn thương lượng". Tôi dùng điện thoại báo cáo lên cấp trên, Sư đoàn điện xuống chỉ đạo: "Anh có thể gọi họ là ông, anh bảo nó đầu hàng đi chứ c̣n thương lượng cái ǵ". Tôi lên vô tuyến điện trả lời viên trung tá chỉ huy trưởng: "Tôi nghĩ đề nghị của ông không thích hợp, các ông đă mất Đầu Mầu, Ba Hồ, Động Toàn rồi. Lữ đoàn thiết giáp lên giải vây cho các ông đă bị đánh tan tác, chạy lui rồi. Đông Hà cũng sắp mất. Chắc ông cũng đă nghe tiếng súng máy gần kề rồi. Các ông hạ vũ khí ngừng chiến đấu là tốt nhất. Các ông nên đầu hàng đi".

    Viên trung tá trả lời: "Có đầu hàng cũng phải thảo luận các điều kiện chứ". Tôi nói: "Không cần thảo luận đâu! Ông có biết chính sách 10 điểm của Mặt trận giải phóng miền Nam không?". Đính trả lời: "Tôi có biết". Tôi bảo: "Chúng tôi chấp hành đầy đủ chính sách của 10 điểm đó". Đính bảo rằng: "Nhưng tôi cũng cần triệu tập các sĩ quan dưới quyền, họ chỉ huy từng bộ phận rải rác khắp nơi và cần thời gian để họp".

    Chỉ huy Sư đoàn vẫn tập trung để theo dơi cuộc trao đổi của tôi với viên trung tá chỉ huy trưởng, đồng thời gọi điện thoại xuống để hướng dẫn cho tôi một số thủ tục. Tôi nói với trung tá Đính: "Vậy th́ tôi đồng ư ngừng hỏa lực trong ṿng 1 giờ theo yêu cầu của ông. C̣n yêu cầu của chúng tôi là ông cho kéo cờ trắng lên cột cờ trung tâm của căn cứ trước khi ngừng hỏa lực. Sau khi ngừng hỏa lực được 30 phút, một nửa số quân của ông phải ra khỏi công sự, lên mặt đất, không mang theo vũ khí".

    Ngay sau đó, Đính tập hợp 13 sĩ quan chỉ huy của trung đoàn trong hầm chỉ huy để quyết định. Đính mở lời trước, cho biết t́nh thế rất tuyệt vọng. Căn cứ không thể cầm cự trước sự tấn công liên tục của Quân giải phóng. Sau đó Đính nói ra ư nghĩ thật của ḿnh, là "Nếu tiếp tục chiến đấu, nhiều người sẽ chết. Và nếu chúng ta có bị thương, có chết, để có được một chiến thắng, th́ cũng không ai lo cho chúng ta sau đó. Chúng ta bây giờ phải tự lo lấy thân".

    Tiếp theo Đính nói về đề nghị của chỉ huy Quân giải phóng. Sau đó Phạm Văn Đính hỏi tất cả muốn tử thủ, đánh mở đường máu, hay đầu hàng? Nếu tất cả các sĩ quan có mặt đồng ư tiếp tục đánh th́ trung tá Đính sẽ nghe chiều theo ư họ. Trong số sĩ quan hiện diện, chỉ có Thiếu tá Tôn Thất Măn, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 56 lên tiến đ̣i đánh đến cùng. Số sĩ quan c̣n lại yên lặng không ư kiến.

    Trước sự yên lặng của các sĩ quan, Đính nói về gia đ́nh của họ, về viễn ảnh những vui mừng khi họ được sống sót trở về. Tất cả đều đồng ư đầu hàng, chỉ có Thiếu tá Măn không bỏ phiếu. Với quyết định đă được đồng thuận, Đính đi qua lô cốt của hai sĩ quan cố vấn Mỹ để thông báo. Nhưng thiếu tá Joseph Brown và trung tá William Camper không đồng ư. Camper đề nghị trung đoàn dùng những chiếc thiết giáp có trong căn cứ đánh bung ra ṿng đai mở đường máu. Đính không chịu, nói vô ích.

    Lúc này, có một máy bay trực thăng trên đường tiếp tế đạn cho căn cứ Mai Lộc bay ngang qua đó, ghé lại bốc 2 viên sĩ quan Mỹ cùng với khoảng 30 binh sĩ không chịu đầu hàng muốn đi theo 2 sĩ quan cố vấn. Khi chiếc trực thăng cất cánh th́ cờ trắng đầu hàng đă bay trên căn cứ Carroll.

    Số phận của tướng ngụy Vũ Văn Giai

    Chuẩn tướng quân đội Sài G̣n Vũ Văn Giai sinh năm 1934, tại làng Duy Tắc, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định trong một gia đ́nh có cha mất sớm, mẹ làm ruộng nuôi 1 con gái và 3 con trai, ông ta là con trai út trong gia đ́nh. Khi đang theo học lớp Đệ nhị (lớp 11 bây giờ), Vũ Văn Giai đă nộp đơn thi vào Khóa 10 Trường Vơ bị Liên quân Đà Lạt. Vũ Văn Giai ra trường tháng 6/1954, cấp bậc thiếu uư hiện dịch và được thuyên chuyển về Tiểu đoàn 5 Nhảy dù ở cạnh Hồ Tây, Hà Nội, giữ chức trung đội trưởng.

    Tháng 7/1954, đất nước bị chia hai, quân đội Quốc gia rút về Nam Việt Nam. Sau hai năm đeo lon thiếu úy, Vũ Văn Giai được thăng cấp trung uư năm 1956, giữ chức đại đội trưởng Đại đội 3 Tiểu đoàn 5 Nhảy dù ngụy. Năm 1961, ông ta được thăng đại úy, rồi lên thiếu tá năm 1964 khi đang làm Trưởng pḥng 2, Sư đoàn 1 Bộ binh ở Huế.

    Năm 1966, Vũ Văn Giai được thăng trung tá lúc đang giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2, Sư đoàn 1 Bộ binh, trấn giữ vùng giới tuyến ở Đông Hà, Quảng Trị. Sau chiến cuộc Mậu Thân năm 1968, Giai lên đại tá và được đưa giữ chức Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Tiền phương Sư đoàn 1 Bộ binh tại Ái Tử, Đông Hà, Quảng Trị. Sau cuộc hành quân Lam Sơn 1971 ở Hạ Lào, Giai được gắn lon chuẩn tướng.

    Tháng 10/1971, Quân lực VNCH thành lập thêm Sư đoàn 3 bộ binh và Giai được thuyên chuyển đến làm Sư đoàn trưởng sư đoàn này. Bộ tư lệnh và hậu cứ chính của Sư đoàn 3 đóng ở căn cứ Ái Tử - Quảng Trị do Mỹ để lại sau khi rút quân.

    Không thể kháng cự sức tấn công như vũ băo của Quân giải phóng tại chiến trường Quảng Trị. Tướng Giai đă gọi điện cho trung tướng Hoàng Xuân Lăm - Tư lệnh Quân đoàn 1 để xin ư kiến, nhưng chỉ nhận được từ tướng Lăm những chỉ đạo chung chung. Chiến trường Quảng Trị nóng lên từng ngày, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu cùng với Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đă đáp máy bay đến Huế rồi cho gọi tướng Hoàng Xuân Lăm, tướng Phạm Văn Phú (Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh), tướng Vũ Văn Giai đến Dạ Lê gần sân bay Phú Bài để họp bàn. Theo lệnh của Thiệu, tướng Lăm đă di chuyển Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 ra Mang Cá - Huế để gần với mặt trận hơn.

    Cuối tháng 4/1972, tướng Giai gọi điện báo cáo với tướng Lăm về t́nh h́nh nguy kịch của quân đội Sài G̣n: "Tŕnh trung tướng, Quảng Trị không c̣n ǵ để giữ nữa, nếu cầm cự sẽ mất hết quân, xin trung tướng cho rút lui…". Tướng Lăm không trả lời, trong khi sự tấn công của Quân giải phóng mỗi lúc thêm mạnh mẽ… Hết cách, tướng Giai đă ra lệnh cho các lực lượng ngụy đang có mặt ở chiến trường Quảng Trị rút quân.

    Thua trận ở Quảng Trị, ngày 4/5/1972, Vũ Văn Giai bị gọi về Bộ Tổng tham mưu để phúc tŕnh sự việc. Về Bộ Tổng tham mưu, Vũ Văn Giai đến tŕnh diện ở Pḥng thanh tra và bị giữ tại Đại đội Tổng hành dinh một tháng. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh truy tố Giai rồi ông này bị chuyển qua Khám Chí Ḥa và bị đưa ra ṭa. Ṭa án Quân sự Sài G̣n kết án Vũ Văn Giai 5 năm tù v́ tội "bất tuân thượng lệnh". Đang thọ án, th́ miền Nam hoàn toàn giải phóng. Cũng như nhiều sĩ quan cao cấp của quân đội VNCH, Vũ Văn Giai phải đi học tập cải tạo cho đến năm 1987 th́ được trả tự do. Năm 1993, Vũ Văn Giai cùng gia đ́nh sang định cư tại bang California - Mỹ theo diện HO

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 41
    Last Post: 17-03-2013, 12:27 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-12-2012, 02:59 AM
  3. Replies: 5
    Last Post: 12-04-2012, 02:14 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 01-08-2011, 07:33 AM
  5. PHẬT NGỌC HOÀ B̀NH - PHẬT TỬ BẤT B̀NH.
    By Hoang Le in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 7
    Last Post: 18-10-2010, 02:40 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •