Results 1 to 3 of 3

Thread: Cái chết hào hùng của một Thiếu úy VNCH

  1. #1
    Member
    Join Date
    04-09-2010
    Posts
    95

    Cái chết hào hùng của một Thiếu úy VNCH

    STENDHAL ET MES SAISONS EN ENFER COMMUNISTE
    Lê Khánh Thọ (nữ họa sĩ, Châteauroux, Pháp quốc) giới thiệu và dịch

    Hè 1991, sáu năm sau ngày đến Mỹ, cựu đại úy Nguyễn Kim Quư, cựu tù nhân cải tạo, cựu thuyền nhân, tiến sĩ và giáo sư Pháp văn và Latin tại Đại Học Eastern Washington University, đă được Phù Luân Hội (Rotary Club) Antony, mời đến Paris thuyết tŕnh về đề tài "Việt Nam sau 1975". Ông đă chọn nói về những năm ông bị giam trong các trại cải tạo Việt Cộng. Sau đây là nguyên văn bài nói chuyện bằng tiếng Pháp trong đó ông mô tả các trại tù và sự độc ác của Việt Cộng và cho biết nhờ ơn Thượng Đế và tiểu thuyết của Stendhal ông đă được sống c̣n như thế nào, sau tám năm đày ải.
    Bài thuyết tŕnh của Tiến sĩ Nguyễn Kim Quư (tựa đề lấy theo từ một bài thơ nổi tiếng của thi sĩ Rimbaud, “Une saison en enfer”) là một phối hợp độc đáo, lư thú, giữa văn chương huyễn mộng qua Stendhal và thực tế ghê tởm qua những tù ngục Việt Cộng.
    Stendhal, tên thật Henri Beyle, là văn sĩ Pháp, thế kỷ XIX, tác giả những tiểu thuyết nổi tiếng, Le Rouge et le Noir, La Chartreuse de Parme... mà những nữ nhân vật đều tuyệt đẹp, và những nam nhân vật đều bị vào tù, thực tế hoặc theo nghĩa bóng. Thế giới trong tiểu thuyết của Stendhal, kể cả những truyện về tù ngục, v́ thế, ngạt ngào phấn hương nhờ t́nh yêu, hạnh phúc và h́nh bóng mỹ nhân. Lúc Stendhal c̣n sống, không ai đọc sách của ông. Măi 50 năm sau khi chết, ông mới được nổi tiếng và trở thành một hiện tượng trong văn học sử Pháp. Hiện tại, ông là một trong những văn sĩ hiếm hoi được nghiên cứu, phê b́nh, ái mộ nhiều nhất. Có cả một Hội gọi là Stendhal Club, tại Paris và Grenoble.
    Ngoài ra, luận án tiến sĩ (1990) của giáo sư Nguyễn Kim Quư có tựa đề: “ La prison dans l’œuvre romanesque de Stendhal” (Tù ngục trong tiểu thuyết của Stendhal). Tháng 3, 1992, cùng với một số giáo sư đại học trên thế giới, ông được mời thuyết tŕnh về Stendhal nhân ngày mất lần thứ 150 của văn sĩ được tổ chức tại Paris, dưới sự chủ tọa của Tổng thống Pháp François Mitterrand. Bài của các thuyết tŕnh viên đều được in thành sách bán tại Paris.


    STENDHAL VÀ NHỮNG MÙA DƯỚI HỎA NGỤC CỘNG SẢN

    1. Tôi không bao giờ biết tại sao tôi yêu thích Stendhal và tiểu thuyết của ông nhiều đến thế. Và điều đó, ngay từ thời trung học khi mà tôi thích thú đọc đi đọc lại những trang đầy hương của Đỏ và Đen và Tu Viện thành Parme, mặc dù cha tôi, một giáo dân Công giáo mộ đạo gần như cực đoan, rất ghét. Về chuyện này, tôi sực nhớ câu mà ông Victor del Litto, Hội trưởng Stendhal Club, đă bất th́nh ĺnh hỏi tôi nhân dịp tôi đến Grenoble lần chót, cách đây bốn năm: “Tại sao anh thích Stendhal?” Tôi bối rối, không biết trả lời sao. Trong những lần phỏng vấn xin dạy học ở Mỹ, tôi cũng nghe lặp lại câu hỏi tương tự. Nói thực, tôi thú nhận hoàn toàn không biết những lư do nào khiến tôi ái mộ văn sĩ ngoại biên lỗi lạc này –nhưng được ít người biết, và có lẽ ít người thích trong đám độc giả cùng thời với ông.
    Quả vậy, đối với tôi, yêu thích Stendhal cũng giống như yêu một người đàn bà, hay một người đàn ông. Yêu hay không yêu, thế thôi. Nhất là với Stendhal, khởi đầu như một tiếng sét ái t́nh rất êm ái. Sự kết tinh, để dùng chữ của ông trong De l’amour, chỉ đến chậm và rất lâu sau đó. Và một tiếng sét ái t́nh, “nạn nhân” nào cũng biết, là không cắt nghĩa được.
    Năm tháng trôi qua. Và bây giờ tôi lại ngồi trước tờ giấy trắng t́m lại một câu cắt nghĩa mới có thể –hoặc đúng hơn không có thể. Tôi yêu thích Stendhal, có lẽ bởi những tiểu thuyết của ông, và trong tiểu thuyết của ông, bởi các nhân vật nữ bất tử, tuyệt đẹp, dịu dàng quá đỗi, đă mê hoặc không chỉ những nam nhân vật, t́nh nhân của các nàng, và những độc giả như tôi có tâm hồn đa cảm, mà c̣n những phê b́nh gia hiện đại nghiêm khắc nhất nữa trong số có Paul Valéry, Jean-Paul Sartre và Julien Gracq chẳng hạn, giữa nhiều người khác.
    Tôi yêu, hơn nữa, trong tác phẩm của Stendhal, mùi hương thần tiên, ngất ngây, trường cửu như trong Proust, không gian diễm ảo, phi thời gian, cấu thành bởi thực và hư trộn lẫn, biến h́nh, đă vỗ về ḷng tôi trước bao nhiêu “sự thật thô bạo”, như chính Stendhal đă viết, của cuộc đời, và làm tôi mơ đến những khoảng trời xanh hơn, những âm thanh tinh tuyền hơn cho những ca khúc vĩnh cửu tôi dâng cho ái t́nh và nhan sắc.

    2. Trong thời chiến tranh Việt Nam, lúc ấy là sĩ quan của quân lực Miền Nam, tôi luôn mang theo trong túi quần áo trận tuyệt phẩm trữ t́nh Truyện Kiều của thi hào dân tộc Nguyễn Du, tập Les Fleurs du Mal của Baudelaire và một quyển tiểu thuyết của Stendhal mà tôi đọc giữa hai trận đánh, dưới giao thông hào, trong trại binh hay quán rượu... Nguyễn Du, Baudelaire, và nhất là Stendhal, như thế ấy, đă giúp tôi thoát khỏi cái thực tế trĩu nặng mà, theo Nerval nói, “không luôn luôn là em gái của mộng mơ”. Tôi thường để hồn ru theo nỗi êm đềm của một cuộc đời tưởng tượng trong tất cả vẻ rạng ngời của nó, tràn ngập những mây hồng, những t́nh yêu thắm xanh, những nụ hôn vô tận, một cuộc đời không có tên ở trần gian này. Cái chết ŕnh rập chúng tôi mỗi giờ, nhưng văn xuôi Stendhal, c̣n hơn là rượu và mỹ nhân, hay ma túy trong thơ Baudelaire, đă cho tôi sự can đảm phi thường để đương đầu với nó, trực diện: tôi đă quên nó, chưa đủ, tôi đă khinh bỉ nó, một cách rơ ràng, dứt khoát. Như những nhân vật của Stendhal: Julien, Fabrice, Octave, Lucien v.v...
    Giai đoạn hậu chiến sắp cho quư vị thấy tiểu thuyết, và đặc biệt của Stendhal, đă làm tôi mê đắm một cách vừa chuyên chế vừa lợi ích như thế nào

    3. Chúng ta đang ở vào năm 1975. Nền ḥa b́nh nhục nhă, áp đặt bởi những siêu cường lực trên đất nước chúng tôi ngày 30 tháng 4, chấm dứt một cuộc chiến cũng không kém nhục nhă và khai tử quốc gia VNCH từ nay bị trao vào tay bọn bạo tàn Miền Bắc, kẻ chiên thắng không ngờ. Ngày đó, bỗng nhiên tôi trở thành “tù binh” và “kẻ thù của nhân dân” mà không biết chính xác tại sao. Chế độ mới, tự gọi là “cách mạng”, đỏ từ đầu đến chân, nhanh chóng tự gắn cho ḿnh một nhiệm vụ “vĩ đại”: lùa tất cả sĩ quan và cán bộ Miền Nam vào tù. Tại đó bắt đầu mọi bất hạnh của chúng tôi. Nhưng rồi, ḷng tin vào Thượng Đế bỗng nhiên thức dậy trong tôi và sự mê say không phai nhạt đối với Stendhal và những tiểu thuyết của ông thực sự đă cứu vớt tôi, không chỉ thoát khỏi những xấu xí của đời sống mà c̣n sự tàn nhẫn của cái chết –cái chết mà bây giờ tỏ ra ngàn lần đe dọa hơn trong lúc chiến tranh. Như thế, nhờ ơn Chúa và nhờ Stendhal, tôi đă có thể sống sót sau tám năm giam hăm, đói khát, đau khổ, thiếu thốn, trong những trại tù khác nhau và cuộc đọa đày khủng khiếp xuống dưới hỏa ngục.
    Hỏa ngục Cộng sản, dĩ nhiên. Nhưng không có ngôn ngữ nào có thể mô tả đủ sự tàn ác của một trại tù do bọn Cộng sản Việt Nam –tức là Việt Cộng– thiết lập. Đó là bọn cai ngục bẩm sinh, quư vị hăy tin tôi đi, phô diễn một khả năng và kinh nghiệm canh pḥng vô địch. Không một nơi giam giữ nào, hư cấu hay có thực, mà tôi được biết, kể cả Quần đảo Goulag của Soljenitsyne, hay Hồi ức về căn nhà tử tội của Dostoïevski, có thể so bằng những trại Việt Nam trong cái mà tôi gọi là “độc ác tinh vi”: ở đây người ta giết tù nhân một cách khoa học, tiệm tiến, nhẹ nhàng một cách khủng khiếp, bằng cái đói triền miên. Để chế ngự chúng tôi hiệu quả hơn, bọn khốn nạn đă khai thác khéo léo cái bản năng thấp nhất, tệ nhất của con người: nhu cầu ăn. Ít ra trong tù, những nhân vật của Stendhal có thể ăn và uống đầy đủ: Fabrice lại c̣n có sô-cô-la của Clélia và Julien có sâm banh và x́-gà của Mathilde gửi cho. C̣n chúng tôi, c̣n tôi, mỗi ngày, bắt buộc phải tự nh́n thấy ḿnh chết lần chết ṃn như con vật bị vây hăm, sống một cái chết hoàn toàn đúng nghĩa tồi tệ, nhục nhă, hèn hạ, cố t́nh bày ra bởi lũ Cộng sản –đồng hương của chúng tôi. Một cái chết đến chậm, kéo dài, kéo dài, với trong hồn mỗi người tù sự phẫn nộ bất lực, sự xấu hổ bị dồn vào thế buộc phải thường trực, mỗi ngày, nghĩ đến cái dạ dày trống không và cách nào để làm đầy nó.
    Bọn họ đă ra lệnh cho các sĩ quan phải tŕnh diện những “ủy ban cách mạng nhân dân”, chuẩn bị một khóa học cải tạo mà theo thông cáo chính thức với lối hành văn mơ hồ và bịp bợm sẽ kéo dài chỉ mười ngày hoặc một tháng tùy theo cấp bậc. Lúc ấy vào tháng sáu 1975. Tuy nhiên, không ai ngờ rằng đối với tất cả đó sẽ là một “cuộc hành tŕnh cuối đêm” xứng đáng với Céline, kéo dài từ tám, mười, cho tới mười bốn năm, và đối với nhiều người, một vé đi không về, một lần vĩnh biệt cuộc đời và thế gian, trong hai nghĩa đen và bóng. Đầu tiên chúng tôi bị giam giữ trong những trại ở Miền Nam. Rồi một ngày đẹp trời, bọn họ quyết định chuyển ra Miến Bắc khoảng một trăm ngàn “phần tử” bị xét là “phản động” nhất, nghĩa là nguy hiểm nhất, trong đó có Tổng giám mục Sài G̣n Nguyễn Văn Thuận và một số tướng lănh. Trên biển. Trong vài chiếc tàu chở than cũ kỹ tịch thu của “ngụy quyền”. Chúng tôi bị c̣ng tay, bị nhốt hàng ngàn người trong các hầm tàu, và như thể súc vật. Chuyến đi kéo dài ba ngày. Ba thế kỷ. Không khí thiếu. Nước cũng thiếu. Thức ăn cho cả ngày là một ảo tưởng: mỗi tù nhân được phát hai phong bánh bích qui mốc của lính made in China, lớn bằng hai hộp diêm, chỉ vừa đủ để khỏi chết đói. Phía trên, không có ǵ ngoài một ṿm tối đen. Chung quanh, những thân xác bất động chất đống cạ vào nhau và ḿnh mẩy dính đầy bụi than. Cái nóng kinh hồn hành hạ tù nhân. Ngay những giờ đầu, bốc lên một mùi hôi thối, làm ngộp thở, đầu độc căn hầm đầy người. Khắp nơi, im lặng như chết.
    Từ cảng Hải Pḥng, nơi mà cuối cùng chúng tôi được cập xuống, đến những trại tập trung khác nhau, c̣n một chuyền đi nữa không kém kinh hoàng, kéo dài khoảng hai hoặc ba ngày, bằng tàu lửa hay xe cam nhông. V́ biện pháp an ninh, cửa lớn và cửa sổ xe lửa phải đóng kín mít, dưới cái nắng nung người. Trong những hỏa ḷ lưu động ấy, sự ngộp thở kinh khủng đến nỗi một số tù nhân già yếu và kiệt lực sau chuyến vượt biển đă chết trước khi đến nơi chỉ định.
    Những trại tù ở Miền Bắc, tôi nghĩ khoảng ba mươi, dành cho chúng tôi, đều nằm trong vùng núi –nơi sinh sống của những sắc dân thiểu số lạc hậu nhất hay gia đ́nh của những người bị đi đày biệt xứ v́ lư do chính trị từ thời Pháp thuộc và sau Điện Biên Phủ– gần biên giới Tàu và Lào, ở đó những con muỗi to bằng những con ruồi hoặc gần như thế. Trên đường, những trẻ em và bà già, bị thúc đẩy bởi mối hận thù từ lâu nuôi dưỡng và luôn kích thích do sự tuyên truyền thô bỉ, đă ném thẳng tay vào chúng tôi đất đá, đồ dơ và hét lên những tràng chửi bới thậm tệ. Cũng như các bạn đồng cảnh khổ, tôi cố gắng nuốt những giọt nước mắt. Tủi nhục, đắng cay, uất giận.
    Cuộc sống tại các trại Miền Bắc c̣n hơn là hỏa ngục. Không cách nào đào thoát được. Chúng tôi bị bao vây một cách tuyệt vọng bởi những rặng núi trùng điệp làm thành những tường lũy thiên nhiên kiên cố. Nhưng rồi, ngay cả nếu thoát được, làm sao, ở trên núi, có thể sống sót với cái lạnh, đói khát và sức kiệt? Chúng tôi bị giam trong những túp nhà cũ thấp mái rạ, nằm ngủ trên một thứ giường tập thể làm bằng những tấm gỗ thô, không chiếu, không gối, không đệm, để rồi sáng mai thức dậy mặt mày, ḿnh mẩy rải đầy những vết rệp và muỗi cắn. Ngoài ra, cái lạnh tột độ, làm buốt xương. Về quần áo, người ta chỉ phát cho chúng tôi một bộ đồng phục màu xanh da trời bằng vải thô dùng trong kỳ hạn hai năm và một tấm chăn cũ nát nhỏ xíu bằng len xấu. Không săng đan, không tất vớ, không mũ nón. Những thứ này, chúng tôi phải tự xoay xở lấy, người ta bảo chúng tôi, hoặc là mặc kệ! Vào mùa đông hay mùa mưa, không tài nào ngủ được, v́ cái lạnh và ẩm ướt khắc nghiệt, không thể chịu nổi nữa và chúng tôi bị cấm đốt lửa trong nhà.
    Tuy nhiên, tất cả những thứ ấy không là ǵ so với cái đói, cực h́nh tồi tệ nhất. Phần ăn hằng ngày của chúng tôi, quả vậy, là một chén sắn (khoai ḿ) cho một trong hai bữa. Không có ăn sáng. Không cơm. Không sữa không đường. Không thịt không rau. Khoai ḿ mà người ta cho chúng tôi đă được phơi khô và được dành những khi mất mùa cho heo –mà heo, tôi đoán, cũng từ chối không ăn. V́ nó có màu đen đen, vị chua chua, mùi thum thủm. Nhưng cái đói chiến thắng mọi ghê tởm và chọn lựa. Với món ăn kinh khiếp này, những anh chàng to con nhất, sau vài tháng, có màu da xanh mét, vẻ hốc hác, mặt teo lại. Sau một năm, trở thành những bộ xương biết đi. Óc đặc lại, người ta không thể suy nghĩ hay phản ứng ǵ nữa. Quên đi phẩm cách, một số người chỉ c̣n nghĩ đến cái ăn, và đó cũng tự nhiên thôi. Tệ hơn, người ta đánh mất ư chí chống đối, phản kháng, tự trọng, và tất cả điều đó hoàn toàn phù hợp với kế hoạch dự trù của Việt Cộng. Sự thiếu dinh dưỡng và thiếu thuốc men sinh ra nhiều căn bệnh hiểm nghèo, không tránh khỏi, ví dụ bệnh thiếu sinh tố và phù thũng –mỗi ngày, cùng với bệnh sốt rét, chóng vánh đua về bên kia thế giới, một cách nhẹ nhàng, một hay hai tù nhân khốn khổ.
    Những người c̣n sống sót cứ tiếp tục nhai sắn khô bằng thích, tiếp tục đói, tiếp tục đau, và nhất là tiếp tục lao động khổ sai. Cai tù không ngớt lặp đi lặp lại rằng lao động là nguồn gốc mọi vinh quang, rằng khởi thủy, con người đầu tiên, nghĩa là ông tổ của chúng ta, là một con khỉ, rằng con khỉ ấy v́ phải trèo lên cây hái trái, xuống ruộng trồng lúa, vào rừng săn thỏ, vắn tắt, lao động vất vả, đă dần dần mất bộ lông dài để trở thành đẹp đẽ, trơn tru như chúng ta hôm nay. V́ thế, người ta hét vào tai chúng tôi, hăy tống cổ những kẻ chây lười lao động, ăn bám, ḿnh c̣n đầy lông lá, ra khỏi thiên đàng Cộng sản!
    Về lao động hằng ngày, chúng tôi được chia thành nhiều đội và tổ, và phải ra hiện trường làm việc tám tiếng mỗi ngày và sáu ngày mỗi tuần, ngày Chúa Nhật dành cho học tập chính trị và những công việc vặt vănh khác nhau. Chúng tôi làm tất cả mọi thứ, thay đổi việc làm, tổ đội, đồng đội cứ mỗi sáu tháng, đại khái: trồng rau cải, xà-lách, lúa, bắp –những sản phẩm mà chúng tôi không được quyền ăn. Hoặc sáng sớm vào rừng chặt gỗ, đốn tre. Xây hay sửa nhà, cầu, đường với dụng cụ thô sơ từ thời Thượng cổ. Hoặc thay ḅ kéo cày trong ruộng, giữ trâu, nuôi heo, c̣n ǵ nữa? Nói ngắn gọn, làm tất cả những công việc đối với chúng tôi –đại úy, đại tá, và tướng lănh– cho đến lúc ấy hoàn toàn xa lạ, chưa hề biết, kỳ quặc, v́ thế rất mệt. Thêm vào đó là cái đói, cái lạnh, sự tàn tạ thể xác và suy nhược tinh thần, và quư vị hiểu tại sao mức độ tử vong trong các trại tù lên cao như vậy.
    Nhất là sự suy nhược tinh thần. Nó giết người cũng tàn nhẫn như cái đói và bệnh hoạn. Trong cảnh khổ, người ta không thể bỏ qua sức mạnh của tinh thần và chịu đựng của tâm hồn. Không có sự can thiệp cứu rỗi của tinh thần, án tử h́nh sẽ không được băi bỏ, không hoăn lại. Có nhiều người trải qua suốt tháng, kể cả suốt năm, ngồi than văn số phận, tiếc hăo một hạnh phúc, một vinh quang, hay một t́nh yêu vĩnh viễn bay mất, hay bám víu một cách tuyệt vọng vào thực tại ghê tởm. Những người ấy, cái chết không bao giờ bắt hụt.

  2. #2
    Member
    Join Date
    04-09-2010
    Posts
    95

    Cái chết hào hùng của một Thiếu úy VNCH (tiếp theo)

    Nhưng đó cũng chính là điều tôi đă làm thời gian đầu. Tôi cũng đă khóc như mọi người trong đêm Giáng sinh đầu tiên tại trại. Và như mọi người, tôi thấy đói kinh khủng, không cử động nổi, thường té v́ mệt. Sức mạnh thể xác và tinh thần suy sụp chầm chậm, nhưng chắc chắn. Rồi một ngày, được nh́n thấy, bất lực, một người bạn thân thiết chết trong hoàn cảnh hăi hùng và bất xứng của một con vật người ta đem đi thọc huyết, tôi giật ḿnh sợ hăi. Tôi không muốn chết như vậy, tôi lặp lại cho chính ḿnh trong cơn giận dữ đè nén. Chuyện kể trongTerre des hommes của Saint-Exupéry về chàng Guillaumet mệt nhoài, nhưng cứ lầm lũi bước đi trong tuyết ngày này qua ngày khác, để khỏi gục ngă, bỗng trở về trong kư ức, rất đúng lúc. Và rồi, phục hồi sinh khí tôi không biết nhờ sức mạnh thần linh nào, tôi bắt đầu buông lại lời thách đố năm xưa cho cái chết hỗn láo, cái chết xanh xao trong một bài thơ của Horace, cái chết mà tôi đă vất vả vật lộn với, từ thời chiến tranh, nhưng nó không bao giờ chụp bắt được tôi, nhờ ơn Chúa. Nhất là, tôi la lớn, không bao giờ bỏ cuộc.
    Bấy giờ, tôi bắt đầu cầu nguyện trở lại, ban đêm, và đọc lại với sự say mê của một người t́nh cũ những tiểu thuyết Stendhal, nhưng bằng trí nhớ, dĩ nhiên. Từ đó, tôi sống một thực tế khác, tự xem ḿnh đă chết đối với cuộc đời, như Octave trong Armance. Tôi quên, cố gắng quên, bọn cai ngục và trại tù, đói và bệnh, quần áo tả tơi và thân xác khô héo –tất cả những điều nhắc tôi không ngừng vẻ xấu xí của địa ngục. Tôi chiến thắng nỗi bất hạnh của tôi bằng cách thôi tưởng nhớ những người đàn bà đẹp mà tôi đă quen biết và có khi yêu thương trong cuộc đời và bây giờ đă trở thành một thực tế c̣n khó với nắm, c̣n xa xôi hơn cả chính mộng mơ. Trái lại, tôi chỉ nghĩ đến những nữ nhân vật của Stendhal –Mathilde, Mme de Rênal, Clélia, la Sanseverina, Armance, Mme de Chasteller, giữa những nàng khác– mà h́nh bóng trác tuyệt, vĩnh viễn trẻ và đẹp, đă đưa tôi rất nhẹ nhàng ra khỏi thực tế phũ phàng và tầm thường, cái thực tế mà tôi nghĩ tôi không phải sinh ra để ôm lấy, ngay cả thời trước khi vào tù. Ngày tháng của tôi trôi qua như thế, êm đềm, như nước trôi qua cầu, và tôi dám nói thêm, hạnh phúc, dưới bóng những t́nh nhân đẹp như hoa, ít nhiều như trong Proust, ít nhiều lạ thường, nhưng sẽ chung thủy, tôi hy vọng, với tôi cho đến phút ĺa trần –những người yêu dấu duy nhất đă đến thăm tôi trong tù, đem lại b́nh an và ánh sáng. Nhờ các nàng và sự hiện diện thường trực, vỗ về, tù ngục của tôi, tuy không bao giờ có thể trở thành thiên đường như của Julien Sorel hay Fabrice del Dongo, cũng đă mất đi vẻ thê thảm để cho tôi kéo lê, trong nghĩa cụ thể, cuộc sống của tôi, hay đúng hơn cái chết của tôi, một cách xứng đáng nhất, cho đến ngày 18 tháng ba 1983, thời điểm tôi được thả. Sau tám năm trời!
    Sau hơn một năm thất bại ê chề trong những mưu toan vượt trốn quê hương và nỗi khổ bị bắt lại –lần này như một thuyền nhân kém may mắn– tôi và cô em gái, một đêm đen, được lên trên một chiếc thuyền đánh cá nhỏ một hôm đă thả chúng tôi xuống căn cứ hải quân Subic Bay của Mỹ tại Manila sau tám ngày, tám đêm trôi dạt trên Thái B́nh Dương, giữa cơn băo lớn. Nhưng đó là chuyện khác. Tôi trải qua một năm rưỡi tại hai trại tỵ nạn ở Philippines trước khi đến Mỹ định cư ngày 25 tháng giêng 1985. Tôi hứa với ḷng một ngày nào sẽ đến viếng Đúc Mẹ Lộ Đức và viết điều ǵ đó về Stendhal. Trong năm năm, tôi đă thực hiện hai lời hứa ấy. Luận án tiến sĩ của tôi –được chấp nhận với lời khen của các giáo sư trường Đại Học Oregon, và được ông del Litto nhận in trong thư mục Stendhal qua nhà xuất bản Droz, Genève– có chính cái tựa đề Tù ngục trong tiểu thuyết Stendhal. Tôi không bao giờ có thể cảm tạ đủ Thượng Đế đă cứu vớt tôi như thế bằng cách cho tôi một tâm hồn rất lăng mạn, rất mơ mộng và cho tôi niềm si mê về văn chương và, mâu thuẫn thay, về Stendhal, người ta c̣n nhớ, không luôn luôn dễ thương đối với Ngài.

    4. Tôi đă quá tuổi tiếc thương hư ảo rồi, nhưng mỗi tiểu thuyết của Stendhal rực rỡ trong tôi như ánh sáng thiên đường t́m thấy lại. Một mảnh đời tan vỡ. Tôi không thể sống mà không mộng mơ. Cũng giống như những ngày trước, trong địa ngục Cộng sản. Thật là chán nản vô cùng khi phải luôn bám vào thực tế, khi mỗi ngày không đọc một trong những trang sách Stendhal đầy ắp yêu thương, mừng vui, và mùi hương phấn. Dầu sao, để bắt chước Pascal trong cuộc cá độ hy hữu của ông, quư vị sẽ mất ǵ khi đọc một tiểu thuyết của Stendhal? Không mất ǵ hết. Nhưng nếu thắng, quư vị sẽ được cả một trời mơ, trước mặt, cùng với, và chung quanh quư vị. Và để kết thúc, tôi mạn phép được trích những ḍng cuối từ quyển sách của tôi về tù ngục trong Stendhal mà từ nay“là một cơi niết bàn, thực ra, không tưởng (có tù nhân nào hưởng được số phận của Julien và Fabrice?), nhưng vô cùng quư hóa cho tất cả chúng ta bị ném vào cuộc khiêu vũ giả trang được gọi là đời sống, ở thế giới của giờ thứ hai mươi lăm này trong đó con người, sau những chấn song và kém may mắn hơn những nhân vật Stendhal, phải luôn đi t́m kiếm, như Henri Beyle trong suốt cả đời, một hạnh phúc hăo huyền, một ḍng sông Léthé không c̣n chảy nữa, một giọt lệ không bao giờ được khóc.”

    STENDHAL ET MES SAISONS EN ENFER COMMUNISTE

    nguyên bản Pháp ngữ bài thuyết tŕnh của cựu Đại úy Nguyễn Kim Quư

    Mesdames et Messieurs,

    1. Je ne sais jamais pourquoi j’ai tant aimé Stendhal et ses romans. Et ça depuis le lycée où je me plaisais à lire et relire les pages odoriférantes du Rouge et le Noir, de La Chartreuse de Parme, malgré l’aversion de mon père, catholique fervent, voire extrémiste. A propos, je me souviens de cette question que me posa à brûle-pourpoint M. Victor del Litto, président du Stendhal Club, lors de mon dernier séjour à Grenoble, voilà quatre ans: “Pourquoi aimez-vous Stendhal?” Je demeurai perplexe, ne sachant que répondre. Au cours des interviews pour mon poste de professeur, aux États-Unis, j’entendais se reposer la même question. A vrai dire, j’avoue que j’ignorais tout à fait les raisons de ma prédilection pour cet écrivain marginal, génial –pourtant très mal connu, et peut-être, très mal aimé des lecteurs de son époque. Pour moi, en effet, aimer Stendhal, c’est comme aimer une femme, ou un homme. On aime, ou on n’aime pas, c’est tout. Surtout avec lui, il y eut au début une sorte de coup de foudre très doux. La cristallisation, pour reprendre son propre mot dans De l’amour, ne vient que lentement et très longtemps après. Et un coup de foudre, aucune “victime” ne l’ignore, ça ne s’explique pas.
    Des années ont passé. Et me voici, pourtant, devant la page blanche à la recherche d’une nouvelle explication possible –ou plutôt impossible. J’aime Stendhal, peut-être à cause de ses romans, et dans ses romans, à cause de ses héroïnes immortelles, si belles, si tendres, qui ont exercé une séduction irrésistible non seulement sur les héros, leurs amants, et les lecteurs comme moi à l’âme sensible, mais encore sur les critiques contemporains les plus sévères dont Paul Valéry, Jean-Paul Sartre et Julien Gracq, par exemple, entre beaucoup d’autres. J’aime, en plus, dans ses œuvres ce parfum féerique si enivrant, impérissablecomme chez Proust, cette atmosphère si enchanteresse, a-temporelle, faite de fiction et de réel entremêlés, transfigurés –qui me consolent de bien des “âpres vérités”, selon le mot de Stendhal lui-même, de la vie, et me font rêver des cieux plus bleus, des sons plus purs pour mes éternels hymnes à l’amour et à la beauté.

    2. Pendant la guerre du Viêtnam, comme officier des Forces Armées du Sud, j’avais toujours dans les poches de mon treillis le chef-d’œuvre lyrique Truyen Kieu de notre grand poète national Nguyen Du, Les Fleurs du Mal de Baudelaire et un roman de Stendhal que je lisais entre deux batailles, dans les tranchées, aux casernes ou aux snacks... Nguyen Du, Baudelaire et surtout Stendhal m’aidaient ainsi à m’évader hors de la lourde réalité qui, comme dit Nerval, n’est pas toujours la sœur du rêve. Je me laissais souvent charmer par les douceurs d’une vie imaginée dans toute sa splendeur et remplie de nuages roses, d’amours vertes, de baisers infinis, d’une vie qui n’a pas de nom ici-bas. La mort nous guettait à chaque instant, mais la prose de Stendhal, mieux que le vin et la femme, ou le haschisch dans la poésie baudelairienne, me donnait le courage inoui de la défier, bien en face: je l’oubliais, c’est peu dire, je la dédaignais carrément. Tout comme les héros stendhaliens, Julien, Fabrice, Octave, Lucien, etc...
    L’épisode de l’après-guerre va mieux montrer comment les romans, et spécialement ceux de Stendhal, m’ont tenu sous leur charme à la fois tyrannique et bénéfique.

    3. Nous sommes en 1975. La paix honteuse, imposée par les super-puissances internationales à notre pauvre pays le 30 Avril, met fin à une guerre non moins honteuse et sonne le glas pour le Sud du Viêtnam désormais livré aux mains des bourreaux du Nord, vainqueurs malgré eux. Ce jour-là, je devins tout d’un coup “prisonnier de guerre” et “ennemi du peuple”, sans savoir exactement pourquoi. Le nouveau régime, qui se fit appeler “révolutionnaire”, rouge jusqu’au bout des ongles, s’est vite donné une “grandiose” tâche: envoyer en prison tous les officiers et cadres Sudistes. Là commencèrent tous nos malheurs. Mais ma foi soudain réveillée en Dieu et mon inaltérable passion pour Stendhal et ses romans me sauvèrent non plus seulement des laideurs de la vie, mais encore des brutalités de la mort qui se révéla maintenant mille fois plus menaçante, plus moche qu’en temps de guerre. Grâce à Dieu et à Stendhal donc, je pus survivre à mes huit ans d’incarcération, de faim, de souffrances, de privations, dans de multiples camps de labeur, et à mon horrible descente en enfer.
    Enfer communiste, bien sûr. Mais aucun langage ne peut assez décrire les atrocités d’une prison tenue par les Viêtnamiens Communistes –alias Viet Cong. Ce sont des geôliers nés, croyez-moi, faisant preuve d’une vigilance et d’une expérience hors de pair. Aucun lieu de détention, fictif ou réel, que je sache, pas même L’Archipel du Goulagde Soljenitsyne ou Souvenirs de la maison des morts de Dostoïevski, n’arrive à égaler les camps Viêtnamiens en ce que j’appelle “raffinement de cruauté”: ici, on tue d’une manière scientifique, progressive, affreusement douce, par l’obligation à une faim permanente. Pour mieux nous maîtriser, ces salauds exploitaient habilement l’instinct le plus bas, le plus dégradant de l’homme: besoin de . Au moins, dans leurs prisons, les héros stendhaliens peuvent et boire à loisir: en plus, Fabrice a le chocolat de Clélia, et Julien, le champagne et les cigares envoyés par Mathilde. Quant à nous, quant à moi, chaque jour, nous étions forcés de nous voir mourir lentement en bêtes traquées, de vivre pratiquement une mort ignoble, humiliante, avilissante, inventée exprès par les Viet Cong –nos compatriotes. Une mort à retardement qui traînait, traînait, avec dans l’âme de chaque prisonnier la rage impuissante, la honte d’en être réduit à songer constamment, chaque jour, à l’estomac creux et au moyen de le remplir.
    On avait ordonné aux officiers de se présenter aux “comités révolutionnaires du peuple”, faire les préparatifs d’un stage de rééducation qui, d’après le communiqué officiel utilisant une phraséologie vague et trompeuse, ne devrait durer que dix ou trente jours, selon les grades. C’était en Juin 1975. Nul ne s’est jamais douté, cependant, que ce serait pour tous un long voyage au bout de la nuitdigne de Céline, qui durait huit, ou dix, ou même quatorze ans, et pour plusieurs un aller simple, un adieu à la vie et au monde, littéralement. D’abord nous avions été détenus dans les camps du Sud. Puis, un beau jour, on décida de transférer au Nord environ cent mille “éléments” jugés les plus “réactionnaires”, c’est-à-dire les plus dangereux, dont l’archevêque de Saigon Nguyen Van Thuan et un bon nombre de généraux. Sur mer. Dans quelques vieux charbonniers confisqués au “gouvernement fantoche”. On nous passe les menottes, on nous enferme par milliers dans les cales, on nous réduit ainsi à l’état de bétail. La traversée dure trois jours. Trois siècles. L’air nous manque. L’eau aussi. La nourriture est une chimère: pour toute la journée, chaque détenu reçoit deux biscuits moisis, sorte de ration militaire made in China, grands comme deux boîtes d’allumettes, juste assez pour ne pas crever. Au-dessus, rien qu’un plafond noir. Autour, des corps inertes empilés les uns contre les autres et tout couverts de résidus de charbon. La canicule exerce son pouvoir néfaste. Dès les premières heures, une exhalaison méphitique et asphyxiante empoisonne les cales bondées. Partout, un silence de mort.
    Du port de Haiphong, où nous débarquâmes enfin, aux différents camps de concentration, il nous restait à effectuer un autre voyage non moins affreux, qui durait à peu près deux ou trois jours, par le train et en camion. Par mesure de sécurité, nous dit-on, les portières et les fenêtres devaient être complètement fermées, et cela, sous un soleil brûlant. Dans ces fourneaux roulants, la suffocation était telle que plusieurs prisonniers, âgés et déjà bien affaiblis par l’épreuve de la mer, succombèrent avant d’arriver à destination.
    Les prisons du Nord Viêtnam, au nombre d’une trentaine, je crois, à nous destinées, étaient toutes sises dans des régions montagneuses où vivaient les peuplades minoritaires les plus arriérées ou les familles des déportés et exilés politiques depuis l’occupation française et après Dien Bien Phu, près des frontières chinoise et laotienne et où les moustiques avaient la grosseur des mouches, ou presque. Sur le chemin, des gamins et des vieilles femmes, pressés par la haine contre nous longtemps nourrie et sans cesse attisée par une grossière propagande, nous lancèrent à pleine main des cailloux, des ordures et hurlèrent des bordées d’injures. J’essayai, comme mes confrères dans le malheur, d’avaler mes larmes. De honte, d’amertume, de fureur.
    La vie dans les camps nordistes était plus qu’infernale. Aucune possibilité d’évasion. Nous étions désespérément encerclés par d’interminables chaînes de montagne formant des murailles naturelles solides. Et puis, même si on réussissait à les atteindre, comment survivre, là-haut, au froid, à la faim, à la soif, à l’épuisement physique? Nous étions casés dans de vieilles baraques basses en toit de chaume, couchions sur une espèce de lit collectif fait de rugueuses planchettes de bois, sans nattes, sans oreillers, sans paillassons, pour nous réveiller au matin, le visage et le corps criblés de piqûres de punaises et de moustiques. Par ailleurs, le froid était à son comble. Pour tout habillement, on nous donnait à chacun un uniforme bleu en tissu grossier à utiliser pour deux ans, et une minuscule couverture râpée de mauvaise laine. Pas de sandales, ni chausettes, ni chapeaux. A nous de nous démerder, nous dit-on, ou tant pis! En hiver et en saison des pluies, c’était impossible de dormir, tant le froid et l’humidité devenaient intolérables, impitoyables, et on nous interdisait de faire du feu dans la baraque.
    Tout ça, cependant, n’était rien à côté de la faim, le pire des tourments. Notre ration alimentaire, en effet, se limitait à un bol de racine de manioc pour l’un des deux repas quotidiens. Pas de petit déjeuner. Pas de riz. Ni lait ni sucre. Ni viande ni légumes. Le manioc qu’on nous donnait avait été séché au soleil et, ainsi, servait de nourriture en cas de mauvaise récolte aux cochons qui, je devine, l’auraient même refusé, car il avait une couleur noirâtre, un goût douteux, sinon aigre, une odeur fétide. Mais la faim avait raison du dégoût et du choix. Avec cette horrible boustifaille, les plus costauds gars, au bout de quelques mois, avaient le teint pâle, l’air hagard, la figure décharnée. Après un an, ça devenait des squelettes ambulantes. La cervelle devenue pâteuse, on ne pouvait plus réfléchir, ni réagir. Oubliant leur dignité, plusieurs ne pensaient plus qu’à la bouffe, et c’était tout à fait normal. Pire, on perdait ainsi toute velléité de résister, de se révolter, de se respecter, et tout ça se conformait parfaitement au plan prévu par les geôliers. La malnutrition et le manque de vitamines et de médicaments engendraient de nombreuses inévitables maladies graves, l’avitaminose et le béribéri par exemple, qui, avec le paludisme, ne tardaient pas à envoyer, tout doucement, chaque jour, dans l’autre monde un ou deux pauvres diables.
    Les survivants, eux, continuaient de plus belle à mâcher du manioc sec, à avoir faim, à être malades, et surtout à travailler dur. Les gardiens ne cessaient de répéter que le travail est source de toute gloire, et qu’au commencement, le premier homme, à savoir notre ancêtre, avait été un singe, que ce singe à force de grimper sur l’arbre pour cueillir les fruits, descendre dans le champ pour semer les grains, courir dans la forêt pour chasser les lièvres, bref, de travailler dur, avait, peu à peu, perdu ses longs poils pour devenir beau, lisse comme nous le sommes aujourd’hui. Que les paresseux, les parasites, les gens velus, nous hurlait-on à l’oreille, soient donc éliminés du paradis communiste!
    Pour le labeur quotidien, nous étions divisés en plusieurs compagnies et sections, et sortions travailler aux champs huit heures par jour, six jours par semaine, le dimanche étant réservé à l’éducation politique et aux diverses menues besognes. Nous faisions tout et devions changer de job, de compagnie, de compagnons tous les six mois, grosso modo: planter des choux, des salades, du riz, du maïs –que nous n’avions d’ailleurs pas le droit de . Ou aller de grand matin dans la forêt ou la montagne couper du bois, du bambou. Construire ou réparer des maisons, des ponts, des routes avec les outils rudimentaires datant de l’Antiquité. Ou labourer la terre en tirant la charrue à la place des bœufs, garder les buffles, élever les porcs, que dirais-je encore ? Bref, faire tout ce qui pour nous –capitaines, colonels, et généraux– était jusque-là tout à fait inconnu, étranger, bizarre et partant très épuisant. Ajoutez à cela la faim, le froid, l’affaiblissement physique et la dépression morale, et vous comprenez que le taux de mortalité dans les camps soit si élevé.
    Surtout la dépression morale. Elle tue avec la même cruauté que la faim et la maladie. Dans le malheur, on ne peut pas se passer de la force morale et de la résistance spirituelle. Sans l’intervention rédemptrice de l’esprit, la peine de mort est irrévocable et n’admet point de sursis. Or, nombreux étaient ceux qui passaient des mois, voire des années, à se lamenter sur leur sort, à nourrir le vain regret d’un bonheur, d’une gloire, ou d’un amour perdus pour toujours, ou à s’agripper désespérément à la réalité répugnante. Ceux-là, la mort ne les ratait pas.
    Mais voilà exactement ce que j’avais fait, au début. J’avais pleuré à chaudes larmes comme tout le monde au premier Noël. Et comme tout le monde, j’avais horriblement faim, bougeais à peine, tombais souvent de fatigue. La force du corps et de l’esprit périclitait lentement, mais sûrement. Puis un jour, en regardant, impuissant, un de mes chers amis mourir dans les conditions affreuses et indignes d’un animal qu’on allait égorger, je tressaillis de peur. Je ne veux pas mourir de cette manière, me suis-je répété avec une colère sourde. Le souvenir de Guillaumet dans Terre des hommes de Saint-Exupéry, qui, fourbu, s’obstine à marcher dans la neige pendant des jours, pour éviter de succomber, me revint soudain à l’esprit, très à propos. Et alors, animé de je ne sais quel souffle divin, je me mis à relancer le grand défi d’autrefois à l’insolente Mort, cette pallida Mors dans un poème d’Horace, avec laquelle je m’étais colleté tant bien que mal, depuis la guerre, et qui m’a toujours loupé, grâce à Dieu. Surtout, ai-je crié, il ne faut jamais capituler.
    Alors, je recommençai à réciter mes prières, la nuit, et à relire avec l’ardeur d’ancien amoureux les romans de Stendhal, mais mentalement, bien sûr. Dès lors, je vivais une autre réalité, me voyant déjà mort au monde, à l’instar d’Octave dans Armance. J’oubliais, j’essayais d’oublier, les geôliers et les camps, la faim et la maladie, mes guenilles et mon corps désséché –tout ce qui devait me rappeler sans cesse la hideur de l’enfer. Je triomphais de ma misère en ne pensant plus à ces belles femmes que j’avais connues ou même aimées dans la vie, et qui sont maintenant devenues un réel plus inaccessible, plus lointain que le rêve lui-même. Par contre, je ne songeais qu’à ces héroïnes stendhaliennes –Mathilde, Mme de Rênal, Clélia, la Sanseverina, Armance, Mme de Chasteller, entre autres– dont l’image sublime, éternellement jeune et belle, me délivrait bien doucement de cette réalité cruelle et banale pour laquelle je ne me croyais jamais être fait, même à l’époque anté-carcérale. Mes journées coulaient ainsi, tranquilles comme l’eau sous le pont, et même, je dirais plus, heureuses, à l’ombre des ces amantes en fleurs, plus ou moins proustiennes, plus ou moins singulières, mais fidèles, j’espérais, jusqu’à mon dernier souffle –les seules femmes qui fussent jamais venues me consoler dans mes prisons, me rendre la paix et le soleil. Grâce à elles et leur présence permanente et réconfortante, ma prison, sans jamais pouvoir être paradisiaque comme celle de Julien Sorel et de Fabrice del Dongo, perdit quand même son aspect lugubre pour me permettre de traîner, au sens propre, ma vie, ou plutôt ma mort, d’une manière aussi digne que possible, jusqu’au 18 Mars 1983, date de ma délivrance. Huit ans déjà!
    Un an plus tard. Après d’infructueuses tentatives d’évasion hors du pays, d’échecs, de déboires et un nouvel emprisonnement –cette fois comme un boat-people malchanceux– j’ai pu, dans une nuit sombre, avec ma jeune sœur, m’embarquer dans un petit bateau de pêche qui nous a déposés un jour à la base navale américaine de Subic Bay à Manille après avoir flotté à la dérive pendant huit jours et huit nuits sur le Pacifique, en pleine tempête. Mais là, c’est une autre histoire. J’ai passé un an et demi dans deux camps de réfugiés aux Philippines avant d’arriver aux États-Unis le 25 Janvier 1985. Je me suis promis d’aller un jour à Lourdes et d’écrire quelque chose sur Stendhal. Pendant cinq ans, j’ai réussi à remplir ces deux promesses. Ma thèse de doctorat, reçue avec les félicitations des professeurs de l’Université d’Oregon, que M. del Litto a accepté de faire publier par Droz, à Genève, dans sa collection stendhalienne, s’intitule justement La prison dans l’œuvre romanesque de Stendhal. Je ne puis jamais assez remercier Dieu de m’avoir ainsi sauvé en m’accordant une âme très romantique, très rêveuse, et m’inspirant cette passion folle pour la littérature et, paradoxalement, pour Stendhal qui, on s’en souvient, n’est pas toujours gentil envers Lui.

    4. J’ai déjà dépassé l’âge des vaines nostalgies, mais chaque roman de Stendhal brille toujours en moi comme l’éclat d’un paradis retrouvé. Un morceau de ma vie brisée. Je ne peux plus vivre sans rêver. Comme autrefois au fond de l’enfer communiste. Quel irrémédiable ennui de ne s’accrocher toujours qu’au réel, de ne pas lire chaque jour une de ces pages stendhaliennes palpitantes d’amour, de joie, de parfum ! Après tout, pour imiter Pascal dans son fameux pari, qu’allez-vous perdre en lisant un roman de Stendhal? Rien, dirais-je! Mais si vous gagnez, vous auriez tout un ciel du rêve, devant, avec et autour de vous. Et pour finir, je me permets de vous citer les dernières lignes de mon livre sur la prison stendhalienne, qui devient désormais “tout un nirvana, utopique certes (quel prisonnier a connu le sort de Julien et de Fabrice ?), mais infiniment précieux pour nous tous jetés dans ce bal masqué appelé la vie, dans ce monde de la vingt-cinquième heure où l’homme, derrière ses barreaux et moins chanceux que les héros stendhaliens, est en quête perpétuelle, comme Henri Beyle sa vie durant, d’un bonheur impossible, d’un Léthé qui ne s’écoule plus, d’une larme qui n’est point pleurée.”

    Antony, France, Juillet 1991
    Portland, USA, Août 2012

  3. #3
    Member
    Join Date
    04-09-2010
    Posts
    95

    Cái chết hào hùng của một Thiếu úy VNCH (tiếp theo)

    HĂY CHUYỂN CHO NHỮNG NGƯỜI MANG QUỐC TỊCH TỴ NẠN MÀ LĂM LE MUỐN VỀ BỢ ĐÍT BỌN ĐÍT ĐỎ KHÁT MÁU.

    Mời đọc,
    Khối CS thắng th́ bắt phe Tự Do (QG) đi tù. Phe Tự Do thắng th́ cả nước an vui, không trả thù.
    Nước Đức thống nhất, CS Đông Đức không ai bị ở tù, bà Merkel gốc Đông Đức c̣n được bầu làm
    Thủ Tướng. Các nước Đông Âu cộng sản cũ cũng vậy, sau khi hết CS, không hề có trại tù cải tạo .
    Cộng Sản và Tự Do khác nhau chỗ đó.

    Vụ án Trần Quang Trân ở trại tù Tiên Lănh
    (Trích đoạn hồi kư của Bác Sĩ PHÙNG VĂN HẠNH)
    Tôi muốn nói lên những đau khổ chất ngất của anh em tù chính trị và quân đội trong ngục tù Tiên Lănh. Làm y tế trại, tôi được gọi lên pḥng kiên giam để xác nhận cái chết của Nguyễn Công Vĩnh. Trước kia anh to con, nhưng bây giờ xác anh teo táp, co rúm, da bọc xương, g̣ má lồi cao, hai mắt mở trừng trừng. Anh ta chết v́ đói. Bọn cai tù có lệnh không cho anh ăn uống. Bọn trật tự kể lại là những ngày cuối, trong mê sảng, anh bốc những con ḍi ḅ trong đường cống lên ăn, chắc anh tưởng là hạt cơm. Đường cống là một cái rảnh dọc theo bờ tường pḥng kiên giam, dùng cho tù phạm tiêu, tiểu tiện vào đấy. Chắc có nhiều hồi kư trại giam Cộng sản đă tả cái dă man, tinh vi của cái cùm sắt dài xuyên từ bờ tường này đến bờ tường kia. Cảnh cô độc, đói khát, mơ tưởng những món ăn thời tự do, những tiểu xảo để giết th́ giờ thiên thu và để kéo dài chịu đựng, nói lên cái tàn bạo chưa từng có của kiên giam. Chuồng cọp Côn Đảo là thiên đường sánh với kiên giam.
    Vụ án Trần Quang Trân là một biến cố đặc biệt của trại Tiên Lănh, nói lên tinh thần bất khuất của Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. Đây là một tổ chức có mục đích, hệ thống. Một hoạt động dũng cảm, nhiệt t́nh, có tính cách quy mô rộng lớn, bao gồm trên 100 sĩ quan và tù chính trị. Bởi thế, khi vỡ lỡ, công an điều tra mất vài tháng trước khi đưa nội vụ ra ṭa với hai lần xử: phúc thẩm và chung thẩm. Bản án chung thẩm là: Tuyên truyền chống phá cách mạng, tổ chức cướp súng, cướp trại, âm mưu lật đổ chính quyền.
    Sau đây là tên họ những người lănh án phạt và thời gian ở tù thật sự:
    -Thiếu úy Trần Quang Trân, án tử h́nh. Xử tử ngày 19.06.1982.
    -Thiếu úy Trần Lân, án chung thân, ở tù 20 năm.
    -Trung úy Ngô Văn Thạnh, án 20 năm, ở tù 19 năm.
    -Đại úy Nguyễn Văn Hưng, án 18 năm, ở tù 19 năm.
    -Đại úy Đỗ Ngọc Nuôi, án 12 năm, ở tù 16 năm.
    -Xă trưởng Vơ Kinh, án 13 năm, ở tù 15 năm.
    -Trung úy Đỗ Văn Sĩ, án 13 năm, ở tù 16 năm.
    -Đại úy Đinh Văn An, án 10 năm (chết trong tù Hàm Tân năm 1990).
    -Trung sĩ Lê Cao Phúc, án 10 năm, ở tù 14 năm.
    -Bác sĩ Tôn Thất Sang, án 10 năm, ở tù 15 năm.
    -Lê Pḥ, án 10 năm, ở tù 10 năm.
    -Đại úy Nguyễn Minh, án 5 năm, ở tù 12 năm.
    -Thiếu úy Huỳnh Tiến, án 3 năm, ở tù 11 năm.
    Ngoài ra có một số bị kiên giam, song không bị án. Trong số những người kiên cường này, phải kể Nguyễn Văn Ngật, Nguyễn Văn Điểu, Lê Quang, Lê Xuân Mai, Phạm Lộc, Trần Thao, Châu Văn Mầu, Nguyễn Ngọc Trai, Trương Quang Đông.. Tóm lại có chừng 75 người xử theo biện pháp hành chánh, nghĩa là tập trung cải tạo vô thời hạn, không biết ngày nào về, trung b́nh ở tù 10 năm. Trừ hai người ra đi vĩnh viễn là anh Trân và An, số c̣n lại lănh 9 thế kỷ tù tội. Chín thế kỷ đau thương triền miên ray rứt. Điểm đặc biệt của vụ án là ḷng nhiệt huyết của tuổi trẻ. Những người có án nặng là thiếu úy và trung úy.
    Người được anh em mến phục nhất là anh Trần Quang Trân và Đinh Văn An. Trân, người thon nhỏ, mặt trắng thư sinh. Tính t́nh bặt thiệp, ưa đùa cợt, làm thơ hay. Rất tiếc là thơ anh không ai ghi chép lại, v́ thơ làm trong kiên giam không giấybút. Song anh hơn Nguyễn Chí Thiện ở chỗ là anh đọc thơ cho bọn Cộng sản giam giữ anh nghe. Làm thơ xong, anh đọc sang sảng, rất to, cốt cho trại viên nghe, song cán bộ vội xua đuổi trại viên đi, không cho nghe những lời ca yêu nước, hạch tội bọn Cọng sản vong bản, nô dịch chủ thuyết ngoại lai, gieo rắc khổ đau cho nhân dân Việt Nam.
    Trong đêm giao thừa đầu năm 1982, trong kiên giam lạnh lẽo, chờ ngày xử chung thẩm, anh ngâm nga:
    Đón giao thừa giữa bốn bức tường vôi
    Xuân lạnh lùng quá mẹ Việt Nam ơi !
    Bao giờ dẹp tan loài quỷ đỏ
    Mẹ con ḿnh no ấm, rộn niềm vui.
    (chưa chắc đă đúng trong nguyên tác, chỉ v́ nghe từ đàng xa, và lại thời gian xoi ṃn trí nhớ).
    Anh Trân thông minh hiếu học. Nếu đến được bến gờ tự do, anh sẽ là một chuyên viên điện tử có hạng. Trong tù, anh không ngừng trao dồi kiến thức, học thêm ngoại ngữ. Ở Kỳ Sơn, anh được điều động lên cơ quan của tổng trại 2 để sửa chữa máy truyền tin và lắp ráp điện đài. Anh đă sửa chữa một máy ḍ t́m vàng nhăn hiệu Trung cọng, mà nhiều kỹ sư đào tạo ở miền Bắc bó tay. Anh là một chuyên viên điện tử tu nghiệp ở Nhật do tài trợ của hăng Panasonic. Với phương tiện nghèo nàn, anh tái tạo các linh kiện điện tử trong công việc sửa chữa hàng ngày cho cơ quan, và lắp ráp những đài thu thanh nhỏ cầm tay, phân phát cho các trại. Để che mắt bọn cán bộ, linh kiện được lắp vào các máy đo điện đă hư. Muốn máy phát động, chỉ cần lắp vào một dây dẫn điện ngắn, và có thể nghe nhiều đài phát thanh ngoại quốc như VOA, BBC v..v.. Nhờ thế, tin tức về cuộc tấn công của Trung Quốc vào miền Bắc, chiến tranh lạnh giữa Nga và Mỹ đều được phổ biến bí mật cho trại viên để nuôi dưỡng ư chí quật cường. Trại Kỳ Sơn, với quy chế tù binh, chế độ ăn uống, lao động không khắc nghiệt như trại Tiên Lănh. Tôi nghĩ rằng quân đội miền Bắc XHCN cũng tự hào về thành tích của họ, song không biết họ có thấy xấu hổ khi đem đồng loại khác chính kiến ra hành hạ, đem bắn lén nhiều sĩ quan như vụ bắn Đại tá Vơ Vàng, bề hội đồng Thiếu úy Huỳnh Tiết, một sĩ quan trẻ miền Nam giỏi vơ. Hận thù giai cấp đă làm họ tối mắt, không biết ǵ đến tinh thần thượng vơ và t́nh thương đồng loại. Chiến thắng lẫy lừng, cuối cùng là để nhốt đồng loại vào trại tập trung hành hạ, c̣n Mỹ th́ cao chạy xa bay rồi.
    Cuối năm 1978, sĩ quan trại Kỳ Sơn chuyển qua Tiên Lănh. Công an là chuyên viên cai quản tù trong XHCN. Những phương thức đàn áp như lao động cưỡng bách, hạn chế dinh dưỡng, nội quy sắt máu, trừng trị tàn bạo, tối đa là truyền thống quy củ trong quần đảo Goulag, nhà tù Trung Cộng, và một loạt nhà tù miền Bắc mà nghe tên ai cũng giật ḿnh. Tất cả những phương thức ấy đều được áp dụng ở trại Tiên Lănh. Vài tháng sau nhập trại, toàn thể sĩ quan trở nên rách rưới, ốm đói, phờ phạc, hăi hùng. Vài người quá tuyệt vọng đă tự tử chết. Trung tá B́nh, Đại úy Quy trốn trại không thoát. Đă có lệnh từ trên là bắn chết một người để làm khiếp hăi trại viên. Trên đường áp giải hai người trốn trại, bọn công an đă bắn lén từ phía sau, giết Trung tá B́nh và tri hô lên là v́ tù nhân chạy trốn. Tôi có khám tử thi, và thấy vết thương có lỗ vào phía sau lưng, đen thuốc súng, chứng tỏ nạn nhân bị bắn rất gần. Thật là một thời kỳ u ám. Nhiều sĩ quan cấp tá bị kiên giam rồi chuyển đi trại Đồng Mộ. Số người sợ hăi bị chiêu dụ làm ăng-tên tăng lên đáng kể. Soát pḥng liên miên. Trạïi đông người lại có nhiều trại lẻ ở xa, ban giám thị cần một hệ thống liên lạc hữu hiệu, nên anh Trân lại được kêu ra để thiết lập một tổng đài điện thoại, đài liên lạc vô tuyến với Ty Công an. Anh và Trần Lân được ở một căn nhà nhỏ riêng biệt dùng làm xưởng sửa chữa máy móc điện tử. Các cán bộ trong trại cũng nhờ sửa những máy thu thanh cá nhân. V́ là việc làm không công, họ thường bồi dưỡng anh thịt, trứng v..v.. Nhưng anh Trân không v́ những ưu đăi ấy mà quên anh em. Anh lặp lại việc đă làm tại trại Kỳ Sơn là lắp một máy thu thanh để nghe lén các đài ngoại quốc. Anh đă thành công ở Kỳ Sơn v́ không bị phát hiện, nhưng lần nầy không may. Trong vụ án xử anh và bạn hữu, chỉ có độc nhất một tang chứng là cái máy đo điện trở, trong đó anh có lắp linh kiện điện tử để nghe đài phát thanh. Các người bị kêu án là những người có kư vào bản nhận tội khi công an tra tấn hoặc đe dọa. Có nhiều người giữ nhiệm vụ quan trọng, song một mực chối hết, nên chỉ bị trừng trị bằng biện pháp hành chánh. Có bằng cớ ǵ đâu, chẳng qua là nói miệng với nhau, chứ đâu có hội họp biên bản ǵ. Song cuối cùng biện pháp hành chánh cũng giam giữ rất lâu, ít nhất là trên mười năm. Nhiều khi hơn nữa. Xử án chỉ là bày tṛ h́nh thức.
    Phân tích vụ án ta thấy hai phần rơ rệt: Phần loan truyền tin tức ngoại quốc đem lại hưng phấn cho trại viên, ví dụ như cuộc nổi dậy của nhóm Fulro, cuộc bao vây kinh tế Việt Nam của Tổng thống Mỹ Reagan. V́ oán hận lối đối xử dă man tàn bạo của bọn Cộng sản, ai cũng vui mừng khi nghe những tin bất lợi cho chúng. Chẳng thấy viễn ảnh ngày về, những tin ấy mang lại chút hy vọng mong manh. Ví dụ trường hợp bác sĩ Tôn Thất Sang làm y tế cho trại Na sơn. Sang vào tù v́ tội vượt biên. Anh có nói một câu đơn giản mà bị án 10 năm. Nhân Lê Pḥ, từ trại Na Sơn về trại chính, anh nhắn với Trân là có tin tức ǵ hay nói cho “mệ” biết với (con cháu vua thường tự xưng là mệ). Sang không có tham gia ǵ vào tổ chức. Chỉ nghe câu ấy mà không báo cáo với cán bộ, Pḥ cũng lănh án 10 năm. Thật là một chuyện không thể tưởng tượng nổi, mà các nhà luật học khi nghe phải sững sờ. Những thiệt hại mà anh Sang phải chịu trong tù đày, cùng những hậu quả dai dẳng trong cuộc sống định cư ở Mỹ, ai sẽ chịu trách nhiệm đây ?Các nhà luật học phải có biện pháp đưa bọn Cộng sản Việt Nam ra ṭa án quốc tế để trả lời những tội ác đối với hàng triệu người vô tội.
    Phần thứ hai của vụ án là tổ chức cướp súng, cướp trại, đánh quận Tiên Phước, liên lạc với cuộc nổi dậy Fulro lập chiến khu v..v..là những tiết lộ của đại úy Nguyễn Văn Hưng. Anh nói: “Hệ thống nầy suốt trong thời gian ở tù và sau này khi c̣n ở Việt Nam, tôi không hề tiết lộ cho ai. Nhưng nay (anh đă định cư tại Mỹ) theo yêu cầu của một số anh em, chúng tôi xin ghi lại chi tiết”. Anh cho biết anh điều khiển tổ chức trong nhiệm vụ là Tổng thư kư. Trân chỉ là trưởng ban liên lạc ngoại vụ. Trần Lân lo liên lạc với Fulro. Đinh Văn An (chết trong tù) đại đội trưởng đội xung kích, lo chiếm kho súng của trại. Thiếu tá Lê Quang là trung đoàn trưởng trung đoàn giải phóng Quảng Nam Đà Nẵng. Anh c̣n tiết lộ nhiều ủy viên khác. Nói chung, anh em đă có ư chí quật cường, có can đảm chấp nhận hiểm nguy. Tiếp xúc với Fulro là có thật; nhân đi lao động ở Trà Nóc, lúc c̣n ở trại Kỳ Sơn. Nghiên cứu về khả năng cướp súng là có thật. Ngoài ra những điều khác chỉ nằm trong mơ ước
    Phiên ṭa dựng lên gọi là “ṭa án nhân dân tối cao”, có cán bộ ở Hà Nội vào dự, chỉ là xử cái ước mơ đó, chứ không có một hành động phá hoại nào cụ thể. Trị từ trong tư tưởng. Cái dă man, phi lư và luật rừng là ở đó.
    Phiên ṭa đúng là một tṛ hề. Xử trong trại v́ sợ dư luận dân chúng. Không có luật sư biện hộ. Chánh án, phụ thẩm .... ăên bận lôi thôi. Bà phụ thẩm có tên là Chát, mặc áo cụt, ăn trầu, ngồi chồm hổm trên ghế , ăn nói thiếu văn hóa. Chỉ có lính công an là mặc đại lễ. Bị can cũng bị bịt mắt dẫn vào, vành móng ngựa là một hàng ghế dài. Trại viên được nghỉ lao động để dự phiên ṭa, một biện pháp răn đe. Nói là cho bị can tự biện hộ, song ai nói ra lời nào th́ bị chận lại ngay. Phiên ṭa chỉ có chánh án, phụ thẩm nói. Phán quyết th́ đem ra hỏi trại viên:
    -Tên A có phải là phản động không? (Trại viên được công an mớm lời)
    -Phải.
    -Có đáng tử h́nh không?
    -Rất đáng.
    Anh Tâm ơi,

    Sáng thứ bảy, mở máy đọc thư anh, bên tách cà phê đen thơm ngát, thấy hạnh phúc ngày cuối tuần Tây và cuối năm Ta rực rỡ ánh sáng, mặc dù ngoài trời Portland đang mưa, tối mù. Thấy ấm ḷng, không chỉ v́ được khen, dĩ nhiên, mà c̣n v́ được hiểu. Được lời như cởi tấc son (Kiều). Có hiểu nhau mới có thể cùng nhau đi đến hết đầu ghềnh cuối bể, tôi muốn nói, như những đồng chí trong cuộc chiến hiện nay với bọn Cộng Phỉ. Cám ơn anh Tâm.

    Tôi vui lây về những lời khen rất chính xác anh dành cho Ngự Lâm Họa sĩ quư mến của chúng ta. Những nhận xét của anh về bản dịch giống ư của độc giả Oregon đă đọc bài trên tờ báo địa phương.

    Như anh biết, ở ngoại quốc, cũng các bạn khác, tôi "lâm chiến" với Việt Cộng trên mặt trận khác, ngay từ đầu, trực tiếp hay gián tiếp, và một lần bị kiện và thắng (v́ nguyên đơn trong ba năm không làm sao dịch xong bài viết của tôi ra tiếng Anh mà có lợi cho họ trước ṭa). Trận chiến "vơ mồm" và "đồng minh vận" đấy, sau khi bị bắt buộc phải giă từ vũ khí. Tôi "tuyên truyền" chính nghĩa quốc gia ḿnh với bạn bè Mỹ, trong ṿng thân mật, tại trường dạy, hay bất cứ nơi nào, lúc nào. Tại Antony, sau bài nói chuyện, cử tọa Pháp trong Rotary Club đă phát biểu họ quá đỗi ngạc nhiên về sự tàn bạo, hèn hạ của Việt Cộng và lần đầu họ được nghe nói đến điều ấy từ miệng của một nạn nhân trực tiếp. Không biết họ sẽ làm ǵ sau đó, nhưng tôi hy vọng họ sẽ hiểu Cộng sản thêm một chút, mỗi ngày một chút, như vậy cũng an ủi chúng ta phần nào, cũng như khi ta được biết Jean-Paul Sartre, André Gide, Louis Aragon v.v... đă tỉnh ngộ, từ bỏ Cộng sản vậy.

    Viết đến đây, tôi sực nhớ đến câu nói của Edmund Burke, chính trị gia người Anh thế kỷ XVIII: "The only thing necessary for the triumph of evil is for good men to do nothing" (Pour que le mal triomphe, seule suffit l'inactivité des hommes de bien). Và có một ước ao nhỏ, b́nh thường thôi: Nếu mỗi người quốc gia tỵ nạn chúng ta phá bỏ im lặng, không đóng vai tṛ khán giả, độc giả nữa, chịu bỏ sau lưng sự yên ổn cá nhân, và trong điều kiện cho phép, góp thêm một lời, chỉ một lời thôi, "dù một lời không đáng chi", th́ cục diện Việt Nam có thể thay đổi nhanh chóng hơn. Tối hôm qua, tôi xem DVD Paris By Night 106 do nội tướng mượn của ai đó, và thấy rằng dù bị chửi, buổi tổ chức văn nghệ của Trung tâm nổi tiếng thân Cộng này vẫn được những người, đang c̣n tự nhận là tỵ nạn Cộng sản, đến xem chật rạp, MC Nguyễn Ngọc Ngạn và Nguyễn Cao Kỳ Duyên vẫn được vỗ tay nồng nhiệt, mặt vẫn kênh kênh, và các ca sĩ thường đi đi về về VN như đi chợ vẫn được lên hát cùng với những ca sĩ chính gốc của chế độ VC qua, và những đại gia, giám đốc doanh nghiệp từ VN sang được ngồi ghế danh dự, được mời phát biểu cảm tưởng, cho tiền khán giả từ hai ngàn đô trở lên và những người một thời tỵ nạn Cộng sản vẫn ngửa tay kính cẩn, vui sướng nhận tiền thưởng qua hai đứa c̣ mồi vô duyên... Chao ôi, không c̣n ǵ thách thức chúng ta -những nạn nhân triền miên của Cộng sản- hơn! Ngày Tết, người ta vẫn lấy vé về Việt Nam hà rầm, viện cớ thăm gia đ́nh, cũng có, nhưng thực ra cũng v́ muốn ôm gái chân dài, khoe áo gấm, du lịch, đi tour Singapore, Tàu Cộng... và các chuyến bay không c̣n chỗ trống. Và theo thống kê mới nhất, trong năm 2012, người Việt hải ngoại đă gửi về VN 10 tỷ đô la(trong khi chính phủ Nguyễn Văn Thiệu chỉ xin viện trợ 300 triệu thôi để mua vũ khí, mà không được), như thế vô t́nh hay hữu ư vỗ béo chế độ phi nhân, bạo tàn, tham nhũng, vô t́nh hay hữu ư tiếp tay cho Cái Ác hoành hành. Hỡi ơi, nghĩ mà thương cho những anh hùng đấu tranh trong nước đang bị bọn lănh đạo Cộng Phỉ bắt bớ, đánh đập, giam cầm...

    Đau xót và xấu hổ quá! Tôi muốn tâm sự với anh Tâm thân mến, và qua anh, với tất cả những bạn hữu thân mến của tôi trong danh sách nhận thư. Có điều ǵ không phải, xin tất cả niệm t́nh bỏ qua. Xin gửi lời chúc Tết đến tất cả.

    Người Lính Già Oregon

    From: Tamthanhngo <ngotamthanh@yahoo.n o>
    To: Julien Nguyen <n_julien@rocketmail .com>
    Cc:
    Sent: Saturday, February 9, 2013 1:29 AM
    Subject: Re: Cai chet hao hung cua mot thieu uy VNCH

    Bài thuyết tŕnh của Gs Nguyễn Kim Quư thật tuyệt vời. Ông đă khéo léo dắt người ta từ văn chương hư cấu vào thực tế thô bạo, từ nhà tù Stendhal tới trại cải tạo cộng sản. Khéo léo như một Hiệp sĩ d́u người t́nh trong bước luân vũ (he he, tôi tập làm văn đây). Cám ơn Gs Quư, nhưng không thể quên cám ơn Họa sĩ Ngự lâm về bản dịch toàn bích. Tôi dốt tiếng Pha-lang-sa, không đủ tư cách để đối chiếu nó trung thực tới đâu so với nguyên bản, nhưng có hai đặc tính của bản dịch khiến tôi thích, muốn đọc và tin tưởng là nó Việt Nam và Văn chương. Chắc cũng như chính bản, bản dịch giữ được tính khoa bảng nhưng người b́nh dân (như tôi) hiểu được. Ngày cuối năm, đọc được bài hay, toi viết mấy cảm tưởng vặt, xin quư vị hỉ xả.
    Cầu chúc gia đ́nh Thụ Nhân năm mới an lành, hạnh phúc.
    Ngô Thanh Tâm
    t đáng.
    Đúng là một ṭa án nhân dân trong cải cách ruộng đất. Phần lớn trại viên trả lời lí nhí. Một số khác im lặng.
    Phải nói anh Trân là một người trẻ tuổi nhưng rất chững chạc, đầy ḷng vị tha và suy nghĩ. Anh thấy ư định của bọn Cộng sản là phải có một án tử h́nh trong vụ nầy, anh đứng ra lănh cái chết cho anh em. Anh chịu nhận tội, và thay mặt anh em, tỏ ra cái khí phách của một sĩ quan có lư tưởng quốc gia. Trước phiên ṭa, anh không nói “thưa quan ṭa” như ấn định. Anh gọi họ là 'các ông” làm chánh án tức giận đập bàn nhắc lại. Song anh không đổi cách xưng hô. Khi chánh án hỏi anh:
    -Các anh đă được chính phủ khoan hồng cho vào đây để học tập cải tạo. Các anh không thành tâm hối lỗi, mà tổ chức chống đối. Động cơ nào thúc đẩy các anh làm việc ấy?
    -Các ông không có quyền xử tôi, v́ các ông không có tổ quốc, mà chỉ là tay sai đế quốc Cộng sản. Các ông không xứng đáng để tôi đối đáp. Lịch sử, dân tộc Việt Nam sẽ xử các ông. Chế độ các ông là một chế độ phi nhâïn, tàn khốc. Nhà tù mọc lên khắp nơi. Dân chúng đói khổ lầm than, c̣n các ông sống phè phỡn. Nhà tù của các ông là địa ngục sống trên trần gian.
    Chánh án lại đập bàn bảo anh im, song anh cứ nói cho hết ư. Một công an phải chồm tới, bịt miệng anh lại. Thật là hài hước, chốn công đường mà không có tự do ngôn luận.
    Khi ṭa tuyên bố bản án tử h́nh và cho anh nói lời cuối cùng:
    -Tôi biết chắc là chế độ phi nhân, tàn ác chưa từng có trong lịch sử loài người của các ông gần đến ngày cáo chung. Chỉ tiếc là tôi không c̣n sống để phục vụ đất nước.
    (Nội dung những lời đối đáp trên đây rất trung thực. Tuy nhiên đây không phải là những lời ghi chép tại chỗ, người nghe chỉ ghi lại theo trí nhớ).
    Thái độ hiên ngang b́nh tỉnh, giọng nói chắc nịch không chút run rẩy của anh làm cho cả hội trường bàng hoàng. Bọn công an, tổ xứ án sạm mặt trước khí thế hùng dũng của anh.
    Sau khi xử án, chúng cho anh một thời gian suy nghĩ lại và xin ân xá. Song anh không viết đơn xin ân xá, v́ anh biết đó chỉ là một đ̣n tâm lư để làm giảm nhuệ khí của anh. Thế nào bọn chúng cũng đem anh ra bắn. Xin xỏ chỉ thêm nhục. Bởi thế, trong thời gian chờ đợi, anh làm thơ và đọc to lên, mạt sát chế độ tàn ác của Cọng sản. Sợ gương anh ảnh hưởng đến trại viên khác và làm mất mặt chế độ, chúng đem anh ra bắn trước thời gian dự định.
    Ngày 19.06.1982, lúc 12 giờ, chúng bịt mắt anh đẩy anh lên xe đưa ra pháp trường. Toàn thể trại viên bị lùa vào pḥng, đóng cửa nhốt lại. Ra đến cổng trại, anh Trân la to:
    -Xin vĩnh biệt anh em. Bọn Cộng sản đưa tôi đi bắn đây. “Đả đảo Hồ Chí Minh!” “Đả đảo Cộng sản!” “Dân tộc Việt Nam sẽ chiến thắng Cộng sản!”.
    Anh c̣n muốn hô nhiều khẩu hiệu nữa, song bọn công an đè anh xuống, nhét chanh vào miệng. Sang bên cơ quan, anh kư tên vào bản án, chấp nhận tử h́nh. Chúng dọn ra trước mặt anh một mâm cơm thịnh soạn. Anh từ chối không ăn và dặn mang vào pḥng giam cho bạn bè đang đói. Ra pháp trường anh không chịu trói và bịt mắt. Anh té nghiêng xuống sau loạt súng đầu. Một tên công an đến bắn phát ân huệ vào thái dương.
    Trong tù tôi có lần nói chuyện với Trân. Anh ta cho rằng chừng cuối thế kỷ, chế độ Cộng sản sẽ cáo chung. Anh chết đi và không ngờ là thành tŕ của XHCN Liên Xô và Đông Âu tiêu tan 10 năm trước lời tiên đoán. Song chế độ Hà Nội vẫn c̣n tồn tại mặc dầu biến chất đi nhiều. Lạc quan nay ở trong trận tuyến của ta. Ta chỉ đi lên, bọn chúng chỉ đi xuống. Trang sử đau buồn, đầy phản phúc, nham hiểm, tàn bạo từ 1945 đến nay sắp cáo chung. Cơ hội cho những người muốn đóng góp để xây dựng cho một nước Việt Nam thật sự tiến bộ và dân chủ, một xă hội công bằng và thịnh vượng sắp thành h́nh. Chỉ tiếc là thiếu mặt anh Trân, như lời nói cuối cùng của anh trước ṭa án.
    Anh Trân là người anh hùng bất đắc dĩ. Hoàn cảnh đă xô đẩy anh đứng trước một chọn lựa. Anh đă có chọn lựa đầy suy nghĩ và trách nhiệm. Việc phải làm, không đùn lại cho ai, tự ḿnh gánh lấy. Anh chết đi để lại người vợ trẻ và hai con gái. Anh là người có thiện tâm, người tốt nhất trong chúng ta như lời Tổng Thống Kennedy: “Những người tốt nhất trong chúng ta đă chết”.
    Bác Sĩ PHÙNG VĂN HẠNH
    (bản nguyên tác của người viết)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Ảnh hưởng của Quân đội VNCH trong sự phát triển của chiếc M113
    By mơtiên in forum Quân Sử Việt Nam Cộng Ḥa
    Replies: 4
    Last Post: 15-07-2012, 03:18 AM
  2. Người Chiến Sĩ VNCH ngày cuối cùng của cuộc chiến
    By anlocdia in forum Quân Sử Việt Nam Cộng Ḥa
    Replies: 0
    Last Post: 23-03-2012, 03:05 AM
  3. Replies: 11
    Last Post: 22-01-2012, 05:48 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 25-04-2011, 09:26 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •