Results 1 to 10 of 10

Thread: 4 Quân Đoàn 4 Quân Khu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    4 Quân Đoàn 4 Quân Khu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa


    4 Quân Đoàn 4 Quân Khu - Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
    Quân Đoàn I Quân Khu I




    Quân Đoàn I Và Cuộc Lui Binh

    3/1975 - Ngày 13 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân Đoàn 1 - Quân Khu 1, về dinh Độc Lập họp để nghe Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nói về kế hoạch tái phối trí lực lượng, rút bỏ Cao Nguyên về giữ đồng bằng. Theo đó, các đơn vị Biệt Động Quân thay Sư đoàn TQLC tại Quảng Trị, Sư đoàn TQLC rút về Đà Nẵng thay Sư đoàn Nhảy Dù về Sài G̣n.

    Ngày 19 tháng 3/1975, Quảng Trị di tản. Trong khi đó, Tướng Trưởng được triệu về Sài G̣n lần thứ hai họp với Tổng thống Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên, để tŕnh bầy kế hoạch rút các lực lượng Quân Đoàn 1 về Đà Nẵng.

    3/1975 - Ngày 19 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh QD 1 – QK 1 về Sài G̣n để gặp Tổng thống Thiệu tŕnh bày kế hoạch rút quân của Quân Khu 1. Cuộc họp bắt đầu 11 giờ, cùng với sự hiện diện của Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Theo ghi nhận của Tướng Viên, kế hoạch của Trung tướng Trưởng rất chu đáo và được tiến hành theo hai phương cách:

    - Phương cách thứ nhất: Các lực lượng từ Huế và Chu Lai theo Quốc lộ 1 cùng một lúc rút về Đà Nẵng.

    - Phương cách thứ hai: Nếu địch cắt Quốc lộ 1 th́ sẽ rút quân về ba nơi: Đà Nẵng, Huế và Chu Lai. Tuy nhiên Huế và Chu Lai chỉ là nơi tập trung tạm thời để sau đó các đơn vị được hải vận về Đà Nẵng. Đà Nẵng sẽ trở thành nơi cố thủ của SĐ 1 BB, SĐ 2 BB, SĐ 3 BB, SĐ TQLC và 4 Liên đoàn BĐQ .

    Sáu giờ chiều, Trung tướng Trưởng trở lại Đà Nẵng. Khi phi cơ vừa hạ cánh, th́ ông nhận được báo cáo khẩn cấp của Trung tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh phó QĐ 1 gọi từ bộ Tư lệnh Tiền phương QĐ 1 ở Huế. Tướng Thi báo rằng địch đang pháo đại bác 130 ly vào bản doanh của ông đồng thời tung ra những đợt tấn công quy mô với thiết giáp yểm trợ để t́m cách vượt qua ṿng đai pḥng thủ của lực lượng VNCH tại sông Thạch Hăn. Nhận được khẩn báo của Trung tướng Thi, Trung tướng Trưởng liền báo cáo cho Đại tướng Viên và yêu cầu cho Quân Đoàn 1 được giữ lại LĐ 1 ND, lúc đó đang có mặt tại Đà Nẵng chuẩn bị về Sài G̣n. Đại tướng Viên báo lại cho Tổng thống Thiệu. Là Tổng Tư Lệnh Tối cao của QLVNCH, Tổng thống Thiệu chấp thuận yêu cầu này với điều kiện: Lữ đoàn 1 ND được ở lại nhưng Quân Đoàn 1 không được sử dụng để tung vào chiến trận.

    3/1975 - Suốt đêm 19 và rạng sáng ngày 20 tháng 3/1975, tất cả lực lượng pḥng thủ VNCH dọc theo bờ nam sông Bến Hải, kể cả liên đoàn Địa Phương Quân, 1 tiểu đoàn BĐQ và vài chi đoàn Thiết giáp đă rút về pḥng ngự phía nam sông Mỹ Chánh. Sáng ngày 20 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng bay ra bộ Tư lệnh Tiền phương của Sư đoàn TQLC cách Mỹ Chánh chừng 8 km. Tại đây, Tướng Trưởng đă gặp các cấp chỉ huy của những đơn vị trong khu vực để cùng họ duyệt lại t́nh h́nh cùng kế hoạch pḥng thủ Huế v́ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vừa ra lệnh phải giữ với bất kỳ giá nào, khác với chỉ thị trước đó một ngày là phải bỏ Huế. T́nh h́nh lúc đó không đến nỗi quá xấu. Các đơn vị chủ lực quân và diện địa vẫn c̣n nguyên vẹn, kỷ luật nghiêm minh và tinh thần chiến đấu cao. Việc triệt thoái khỏi Quảng Trị tuy có ảnh hưởng phần nào nhưng không làm cho tinh thần quân sĩ nao núng. Dù sao th́ dân chúng đă bỏ đi trước đó, nên không c̣n gây trở ngại cho các đơn vị khi giao tranh với Cộng quân. Hơn nữa với 1 lữ đoàn TQLC tại phía nam sông Mỹ Chánh và 2 lữ đoàn TQLC trừ bị tại Đà Nẵng th́ Quân Khu 1 vẫn c̣n đủ lực lượng ṇng cốt để tăng viện khi chiến trường sôi động. Sau buổi họp, các cấp chỉ huy đều bày tỏ sự quyết tâm giữ vững Huế.


    quân đoàn I quân khu I

    Trên đường trở về Đà Nẵng, Tướng Trưởng đă ghé vào Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân Đoàn 1 tại thành Mang Cá, Huế. Sau đó, ông cùng Tướng Thi đi một ṿng thanh tra các hệ thống pḥng thủ trong thành phố Huế. Tinh thần Tướng Trưởng lúc đó rất phấn chấn v́ sự bố pḥng bảo vệ Huế rất vững vàng. Đến 1 giờ rưỡi trưa, đài phát thanh Huế tiếp vận đài Sài G̣n phát đi lời của Tổng thống Thiệu, đặc biệt với dân chúng Huế, rằng quân đội sẽ bảo vệ Huế bằng mọi giá. Tướng Trưởng rời Huế, ḷng vẫn tin tưởng với quyết tâm cao.

    Khi vừa đặt chân xuống Đà Nẵng, Trung tướng Trưởng nhận được một công điện "mật khẩn" của Tổng thống Thiệu do Bộ Tổng Tham Mưu chuyển. Ngược lại những ǵ nói trên đài phát thanh Huế, Tổng thống Thiệu khuyên Tướng Trưởng tùy nghi ứng phó và làm sao chỉ giữ một ḿnh Đà Nẵng mà thôi v́ không thể nào pḥng thủ nổi ba thành phố Huế, Đà Nẵng và Chu Lai cùng một lúc được. Đồng thời Lữ đoàn 1 ND được lệnh lên đường về Sài G̣n ngay khuya đêm đó.

    3/1975 - Ngày 21 tháng 3/1975, CSBV bắt đầu đánh mạnh vào Phú Lộc, nằm trên trục lộ Huế và Đà Nẵng. Dân chúng trong khu vực bị đạn pháo kích phải bỏ chạy lánh nạn. SĐ 1 BB điều động lực lượng giải tỏa áp lực địch, Pháo Binh và Không Quân yểm trợ tối đa đă đẩy lùi được địch trong một thời gian ngắn. Đến trưa ngày 22 tháng 3, địch tập trung lực lượng tấn công cường tập tuyến pḥng thủ của các đơn vị TRĐ 1 BB và LĐ 15 BĐQ. Đến 2 giờ chiều cùng ngày, các đơn vị này bị địch tấn công mạnh phải rút về tuyến sau. Quốc lộ 1 bị cắt đứt và hầu như không giải tỏa được.

    Trước t́nh thế chiến sự diễn biến khá đột ngột và Quốc lộ 1 bị gián đoạn, Trung tướng Ngô Quang Trưởng cho lệnh rút quân về cố thủ Huế. Cùng lúc đó, tàu Hải Quân VNCH được tăng cường để khẩn cấp đón dân tị nạn cùng thân nhân gia đ́nh binh sĩ ở Huế vào Đà Nẵng.

    Ngày 23 tháng 3/1975, Cộng quân tấn công vào các tuyến pḥng thủ ṿng đai thành phố Huế. Từ sáng địch đă pháo kích dữ dội suốt ngày. Tại phía nam của Quân Khu 1, ngày 24 tháng 3, vào lúc 9 giờ sáng, một biệt đội Đặc công CSBV có chiến xa yểm trợ đột nhập vào thị xă Tam Kỳ, trong khi đó lực lượng của Sư đoàn 711 CSBV khởi động các cuộc tấn công vào ṿng đai tỉnh lỵ. Trước áp lực nặng của địch, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Quảng Tín, Bộ Chỉ huy Tiền phương của SD 2 BB và Bộ Chỉ huy TRĐ 5 BB và hậu cứ các đơn vị đồn trú ở Tam Kỳ rút quân về khu vực trách nhiệm của SĐ 3 BB ở phía bắc quận Thăng B́nh.

    Cũng trong ngày 24 tháng 3, Cộng quân bao vây tỉnh lỵ Quảng Ngăi, tối cùng ngày, các đơn vị đồn trú tại thị xă Quảng Ngăi và khu vực phụ cận được lệnh rút quân về Chu Lai.

    Trong khi tất cả các lực lượng của QĐ 1 - QK 1 đang tập trung tại ba địa điểm: Đà Nẵng (gồm cả Hội An), phía bắc thành phố Huế và phía nam Chu Lai th́ một bức điện của Tổng thống Thiệu do Bộ Tổng Tham Mưu gửi đi cho Bộ Tư lệnh QĐ 1 - QK 1, chỉ thị Tướng Trưởng cho rút toàn bộ quân tại Huế và Chu Lai về tập trung tại Đà Nẵng để tổ chức tuyến pḥng thủ bảo vệ thành phố trọng yếu này. Nhận được chỉ thị, Tướng Trưởng ra lệnh cho SĐ 1 BB và các đơn vị tại Huế rút về Đà Nẵng. Theo kế hoạch rút quân này, SĐ 1 BB cùng các đơn vị thống thuộc và tăng phái phải di chuyển quân về cửa Tư Hiền và cửa Thuận An. Hải Quân và Công binh sẽ lo nhiệm vụ làm cầu đường. Sau đó SD TQLC và các đơn vị trực thuộc sẽ được chở bằng tàu. Bộ Tư lệnh Tiền phương QD 1 sẽ chịu trách nhiệm điều động và kiểm soát cuộc rút quân này.

    Cùng lúc, Tướng Trưởng cho SĐ 22 BB cùng với lực lượng Tiểu khu Quảng Ngăi, rút về đảo Ré nằm ngoài khơi cách Chu Lai chừng 30 km.

    3/1975 - Tại Huế, các đơn vị của Sư đoàn 1 BB và các đơn vị yểm trợ pḥng ngự ở phía bắc và khu vực cận sơn ở phía đông Thành phố Huế được lệnh rời bỏ pḥng tuyến chuyển quân về để cùng với Bộ Tư lệnh Sư đoàn rút quân khỏi chiến trường Trị Thiên. Trong khi đó, các tiểu đoàn Bộ binh và Biệt Động Quân đang án ngữ pḥng tuyến dọc trên Quốc lộ 1 được lệnh di chuyển về bờ biển và tập trung tại các điểm hẹn để tàu Hải Quân vào đón.

    Theo kế hoạch tổng quát, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân Đoàn 1 do Trung tướng Lâm Quang Thi chỉ huy sẽ chịu trách nhiệm điều động và kiểm soát cuộc rút quân này. Về phương tiện vận chuyển, Bộ Tư lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên hải do Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại làm Tư lệnh có nhiệm vụ cung cấp tối đa tàu thuyền để chở tất cả các đơn vị thuộc SĐ 1 BB, TQLC, BĐQ và lực lượng quân sự của hai Tiểu khu Thừa Thiên và Quảng Trị vào Đà Nẵng. Bộ Chỉ huy Quân vận Quân Khu 1 sẽ sử dụng LCU để đưa các đơn vị từ bờ ra tàu. Công binh sẽ lập những cầu phao tại các cửa sông để đoàn quân đi qua.

    Sau khi Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh SĐ 1 BB, tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn trong căn cứ Giạ Lê phổ biến lệnh rút quân khỏi Huế, th́ một giờ sau đó, cảnh tượng hỗn loạn đă diễn ra tại Bộ Chỉ huy của các đơn vị trực thuộc.

    Theo ghi nhận của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư đoàn TQLC, do lệnh rút quân quá nhanh, các đơn vị không có thời gian chuẩn bị nên kế hoạch rút quân đă không thể thực hiện đúng theo thời biểu. Cũng theo Thiếu tướng Lân, khi Trung tướng Trưởng quyết định cho rút quân khỏi Thừa Thiên và Thành phố Huế th́ LĐ 147 TQLC đang hoạt động tại chiến trường này. Bộ Chỉ huy Lữ đoàn đóng tại căn cứ Tân Mỹ ở cửa Thuận An, hai tiểu đoàn đang pḥng thủ tại pḥng tuyến An Lỗ, cách trung tâm Thành phố Huế khoảng 17 km, tiểu đoàn thứ ba đang pḥng thủ ở phía bắc quận Hương Điền và ở phía nam của sông Mỹ Chánh.

    Trước t́nh h́nh đó, nhiều đơn vị đă tự rút quân bằng phương tiện tự túc. Một đơn vị TQLC rút theo Quốc lộ 1 để vượt qua đèo Hải Vân vào Đà Nẵng đă bị Cộng quân phục kích chận đánh và bị tổn thất nặng. Bộ Chỉ huy LĐ 147 TQLC và một số đại đội do Đại tá Nguyễn Thế Lương, Lữ đoàn trưởng chỉ huy, từ Thuận An đi bộ dọc theo bờ biển để về hướng Đà Nẵng. Trên đường đi, đoàn quân đă được LCU và tàu Hải Quân vào đón. Trong khi điều động quân sĩ lội ra tàu, Đại tá Lương đă bị thương ở chân.

    Một tiểu đoàn TQLC và một số đơn vị Bộ binh cũng rút theo đường biển nhưng khi đến phá Tam Giang ở cửa Tư Hiền th́ gặp phải con sông chắn ngang quá rộng, trong khi phía bên kia sông đă bị Cộng quân chiếm giữ. Một số chiến binh quyết vượt sông nhưng đă bị tử thương do đạn Cộng quân. Theo ước tính của Thiếu tướng Lân th́ chỉ có một số nhỏ quân nhân TQLC vào đến Đà Nẵng, số đông c̣n lại bị tử thương v́ trúng đạn pháo kích hoặc bị kẹt lại ở Huế. Những người bị kẹt lại đă lập thành từng đội quyết tử với Cộng quân cho đến khi hết đạn.

    Về phần SĐ 1 BB, các tiểu đoàn của các Trung đoàn 1, 3, 51 và 54 BB và các đơn vị thống thuộc như Thiết giáp, Pháo Binh, cũng lâm vào t́nh cảnh tương tự. Một số được tàu Hải Quân chở, một số khác mở đường máu ven theo Quốc lộ 1 hoặc ven theo biển, phần lớn đă hy sinh trên đường rút quân.

    Nhận định tổng quát về cuộc rút quân khỏi Huế, Đại tướng Cao Văn Viên ghi nhận rằng trong cuộc hành tŕnh triệt thoái này, th́ chỉ có 1/3 số quân nhân về đến Đà Nẵng được. Nhưng khi về đến Đà Nẵng, th́ họ tự động bỏ hàng ngũ đi t́m gia đ́nh và thân nhân. Chỉ c̣n các đơn vị TQLC là giữ được trọn vẹn t́nh h́nh.

    3/1975 - Sáng ngày 25 tháng 3/1975, tại cửa Tư Hiền biển động mạnh nên tàu Hải Quân đến trễ. Cầu phao tại cửa sông cũng chưa hoàn tất kịp để sử dụng. Đến trưa th́ thủy triều lên cao, không làm sao ra tàu được. Lúc đó, Cộng quân biết được có các cuộc chuyển quân nên bắt đầu pháo kích dồn dập vào các vị trí điểm hẹn để tàu đến đón. Bộ Tư lệnh Tiền phương QĐ 1 từ Mang Cá chuyển về đặt tại căn cứ Tân Mỹ cũng bị pháo kích nặng. Hỗn loạn đă diễn ra, do đó chỉ có khoảng 30% binh sĩ về đến Đà Nẵng được. Nhưng một số đông khi vừa về Đà Nẵng đă rời đơn vị đi t́m gia đ́nh và thân nhân. Riêng các đơn vị TQLC là c̣n giữ được trọn vẹn đội h́nh.

    Về đến Đà Nẵng, một số sĩ quan của bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 BB tŕnh diện Bộ Tư lệnh QĐ 1. Riêng Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 BB, đă ghé thăm Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh SD 3 BB, tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 ở căn cứ Ḥa Khánh để nhờ giúp cho một số máy móc truyền tin đă bị thất lạc trên đường chuyển quân. Sư đoàn 1 BB cần gấp để liên lạc giữa các cánh quân v́ theo Tướng Điềm c̣n rất nhiều quân nhân bị kẹt ở các băi gần Thuận An và Tư Hiền.

    Tướng Điềm cũng cho biết ông và Trung tướng Lâm Quang Thi đă hứng pháo kích của Cộng quân ở băi biển khi điều động các đơn vị rút quân. Sau đó ông và Tướng Thi vào Đà Nẵng bằng tàu Hải Quân thay v́ đi bằng trực thăng. (Các Tư lệnh Sư đoàn bộ binh, Tư lệnh phó và Tư lệnh Quân Đoàn đều có trực thăng riêng, nhưng trong ngày rút quân, Tướng Thi và Tướng Điềm đă từ chối sử dụng phương tiện


    3/1975 - Trong cảnh hỗn loạn tại Quân Khu 1 lúc đó, Hải Quân VNCH đă thành lập Phân đội Bắc, gồm nhiều chiến hạm, chiến đĩnh đổ bộ vào cửa Thuận An, Huế, di tản quân dân về Đà Nẵng. Do bởi các phi trường gần như bị tê liệt v́ bị pháo kích, Hải Quân trở thành phương tiện di tản chính. Chiều ngày 26 tháng 3/1975, Phân đội Nam gồm có HQ 802, HQ 505, HQ 404, Liên đoàn Đặc nhiệm Chu Lai, một số Giang vận hạm tăng phái, được giao nhiệm vụ vào Chu Lai đón SD 2 BB ra đảo Lư Sơn (Cù lao Ré).

    Ngày 26 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng gặp Trung tướng Lâm Quang Thi, các Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Nguyễn Duy Hinh, và Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm để bàn về kế hoạch lập tuyến pḥng thủ bảo vệ Đà Nẵng. Theo đó, các đơn vị c̣n lại của SD 1 BB sẽ tập trung tại Nam Ô (phía nam đèo Hải Vân) và sẽ cùng với lực lượng Thiết giáp và Pháo Binh phụ trách pḥng thủ từ đèo Hải Vân về đến gần Ḥa Khánh. SĐ 3 BB sẽ bảo vệ pḥng tuyến “vàng” dọc theo phía bắc sông Thu Bồn về đến gần Ḥa Cầm. SD TQLC là lực lượng tổng trừ bị sẽ phụ trách khu vực phía tây Đà Nẵng và các khu vực trọng yếu.

    Về phần SĐ 2 BB, ngoài TRĐ 5 BB và Bộ Chỉ huy Tiền phương từ Tam Kỳ về Đà Nẵng trong ngày 24 tháng 3/1975, các đơn vị c̣n lại của Sư đoàn này đă tập trung về căn cứ Chu Lai, nơi bộ Tư lệnh Sư đoàn đặt bản doanh. Một ngày sau, Tướng Trưởng ra lệnh cho Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh SĐ 2 BB, cho rút toàn bộ lực lượng tại Chu Lai ra Cù lao Ré thuộc lănh hải tỉnh Quảng Ngăi.

    Theo nhận xét của Đại tướng Cao Văn Viên ghi trong hồi kư của ông, cuộc di chuyển từ Chu Lai ra đảo Ré bằng tàu diễn ra êm xuôi. Các đơn vị SĐ 2 BB và lực lượng Địa Phương Quân được tàu Hải Quân đến đón và sau đó tập họp lại trên đảo an toàn. Quân sĩ được nghỉ ngơi và được tái tổ chức. Trong cuộc rút quân khỏi căn cứ Chu Lai, Sư đoàn 2 BB không bị áp lực nặng của Cộng quân.

    Ngày 26 tháng 3/1975, Đại tướng Viên cử Thiếu tướng Nguyễn Xuân Trang, Tham mưu phó BTTM ra Đà Nẵng để tổng kiểm tra t́nh h́nh quân dụng, quân trang tại tổng kho Đà Nẵng và gặp Trung tướng Trưởng để biết về t́nh trạng quân số tại hàng của các đơn vị tại Quân Khu 1. Một khó khăn lớn đối với Tướng Trưởng và Bộ Tư lệnh Quân Khu 1 lúc bấy giờ là dân chúng từ các tỉnh Quảng Ngăi, Quảng Tín, Quảng Trị, Thừa Thiên chạy giặc dồn về Đà Nẵng. Thành phố có nguy cơ hỗn loạn, chính quyền địa phương bất lực trong việc ổn định t́nh h́nh an ninh trật tự. Để giải quyết thực trạng này, ngày 26 tháng 3/1975, Tướng Trưởng đă cử Thiếu tướng Hoàng Văn Lạc, Tư lệnh phó Quân Khu 1 vào Sài G̣n để yêu cầu chính quyền trung ương có biện pháp giải quyết khẩn cấp t́nh trạng cư ngụ, sinh hoạt của dân chúng tị nạn. Thế nhưng, chuyến đi Sài G̣n của Tướng Lạc không có kết quả.

    3/1975 - Ngày 27 tháng 3/1975, phi cơ dân sự của Hoa Kỳ ra Đà Nẵng để bắt đầu chở người di tản. Theo dự trù th́ phi cơ sẽ chuyển mỗi ngày khoảng 14 ngàn người từ Đà Nẵng vào Cam Ranh. Nhưng tin di tản lan truyền nhanh chóng đến độ phi trường tràn ngập người tị nạn. Hàng rào pḥng thủ bị phá bỏ, mọi người hỗn loạn úa ra phi đạo để lên phi cơ. Cuối cùng do t́nh h́nh vô trật tự không an toàn nên các chuyến di tản phải tạm ngưng. Ngày sau đó có 4 chiếc C130 t́m cách thay thế nhưng chỉ chở được một chuyến rồi ngưng luôn. Chiều ngày 27 tháng 3, một số quân nhân SĐ 2 BB gây áp lực đ̣i HQ 404 đưa họ về Đà Nẵng. Trong khi hàng chục ngàn dân tị nạn từ Quân Khu 1 về đến Vũng Tàu hay Phú Quốc th́ tại pḥng tuyến Đà Nẵng, t́nh h́nh chiến sự trở nên khốc liệt hơn từ rạng sáng ngày 28 tháng 3/1975.

    Tại hải cảng, người di tản bám đông nghẹt cầu tàu. Một số chiến hạm của Hoa Kỳ đến Đà Nẵng nhưng được lệnh thả neo ngoài khơi. Từ bờ sẽ có nhiều phà và thuyền nhỏ vào đón dân chúng ra tàu lớn. Cuộc vận chuyển này diễn ra khá chậm, nhưng kết quả khả quan hơn. Hễ mỗi khi có đủ 10 ngàn người th́ tàu chở vào Cam Ranh. Rạng sáng ngày 29 tháng 3, Tướng Trưởng đặt bản doanh tại Căn cứ Hải Quân ở Tiên Sa, Đà Nẵng. Ông ra lệnh cho SĐ 3 BB lập đầu cầu ở phía bắc Hội An, Đà Nẵng, để tàu Hải Quân đến đón. Sau đợt di tản binh sĩ TQLC lần thứ nhất, đến đợt thứ nh́ cách đó 6 tiếng, do binh sĩ SĐ 3 BB mất kiên nhẫn, bắn vào chiến hạm, công tác triệt thoái phải ngừng lại.

    Đến ngày 1 tháng 4/1975 các tàu này được lệnh chở người tị nạn vào Vũng Tàu và Phú Quốc v́ lúc đó Nha Trang cũng đang phải di tản. Đến Phú Quốc, dân chúng phát giác có 10 tên VC trà trộn để xúi giục nên đă xử tử chúng ngay tại băi.

    -----------------------------------
    V́ Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I (Trung Tướng Ngô Quang Trưởng)



    Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài G̣n họp, tôi vào tới Sài G̣n nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có ḿnh tôi vào gặp Tổng thống và Thủ tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra không có ai khác. Thường lệ khi được lệnh về Sài G̣n họp th́ đều có đầy đủ mặt các vị Tư lệnh Quân đoàn và Tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần nầy th́ chỉ có một ḿnh tôi. Tôi thắc mắc lo lắng.

    Nhưng khi Tổng thống Thiệu cho biết ư định của ông ta là phải rút bỏ Quân đoàn I ngay hôm nay th́ tôi mới vỡ lẽ, cay đắng, và uất ức v́ lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó t́nh h́nh tại Huế, Quảng Ngăi và Đà Nẵng tuy có hơi nặng nề v́ địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường Sư đoàn Dù cùng với Thuỷ Quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi tŕnh bày cặn kẽ những ư kiến của tôi lên Tổng thống và Thủ tướng nhưng không được chấp thuận.

    Lệnh bất dịch di là: Phải rút khỏi Quân đoàn I càng sớm càng hay. Trở ra Quân đoàn I, tôi cho triệu tập tất cả các Tư Lệnh Sư đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các Sĩ quan trong buổi họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rốt cuộc tôi chỉ hỏi sơ qua t́nh h́nh và nói vu vơ quanh quẩn.

    Chứ làm sao tôi ra lịnh thẳng khi chỉ với một ḿnh tôi là Tư lệnh Quân đoàn mà thôi. V́ vậy, cuộc họp hôm đó chẳng mang lại một kết quả nào mà tôi mong muốn. Lệnh của Tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân đoàn I vào ngày 13 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên. lấy Quốc lộ 22 làm ranh giới Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên.

    Cái lẩm cẩm của trung ương là không cho các thuộc cấp biết ư định của ḿnh. Nghĩa là các Tư lệnh các quân binh chủng, Tổng Bộ trưởng, Tư lệnh Sư đoàn, v.v… đă không biết ǵ về lệnh rút quân của Quân đoàn I và II cả. Lệnh nầy chỉ có Tổng thống và Thủ tướng, Đại tướng Cao Văn Viên, tôi (Tư lệnh Quân đoàn I) và Tư lệnh Quân đoàn II (Tướng Phạm Văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối họp chặt chẽ giữa tham mưu và các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng hoàng, lệnh đột ngột không có đủ th́ giờ để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đ́nh họ cũng không được bảo vệ đúng mức th́ làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum bị chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Đà Nẵng ngày một đông gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Đà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp lực nặng.

    Tôi ra lệnh cho Tướng Trần Văn Nhựt rút Sư đoàn 2 từ Chu Lai ra trấn tại Lư Sơn (Cù Lao Ré) để kiểm soát đường bể, sợ địch ra chiếm đóng đường biển th́ sẽ khó khăn. Trong khi đó, cảnh hỗn loạn đă xảy ra phần lớn do dân chúng hốt hoảng từ chỗ nầy sang chỗ khác làm cho binh sĩ nao núng và chạy cùng theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân, trong khi mới hôm qua với ḷng sắt đá và giọng nói cứng rắn hằng ngày buộc anh em phải giữ không để mất một cục sỏi ở Vùng I.

    Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn. Tôi quyết định gọi Đai tướng Cao Văn Viên nhờ xin Tổng thống cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và Vùng I. Làm sao tôi bỏ Huế và Vùng I được? Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá nầy mà bao nhiêu chiến hữu của tôi đă đổ máu để ǵn giữ? Nhất là trong vụ Mậu Thân.

    Tổng thống Thiệu rung động, chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp Tướng Lâm Quang Thi (Tư lệnh phó Quân đoàn) chỉ huy tại Huế. Tôi ra lệnh: Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do Đại tướng Cao Văn Viên, thừa lệnh Tổng thống yêu cầu tôi “bỏ Huế”. Thật làm tôi chết lặng người. V́ mới buổi sáng nay ở Huế tôi ra lệnh cho Tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ th́ tôi biết nói làm sao với Tướng Thi và anh em binh sĩ.

    Nhưng vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng Thi trả lời ngay: “Ở Huế bây giờ xă ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu t́nh h́nh cũng tốt cả mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao? Tôi buồn bă trả lời: “Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế giùm tôi. Đó là lệnh trên, không bỏ là không được”. Kết quả là Tướng Thi thi hành lệnh, bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để được tàu Hải quân rút về Đà Nẵng.

    Trong khoảng thời gian từ 13 đến 18 tháng 3, hàng đêm tôi gọi điện thoại cho Thủ tướng Khiêm và báo cáo mọi biến chuyển từ công việc hành chánh đến quân sự. T́nh h́nh khó khăn, địch tấn công, mà lại thêm cái lệnh phải rút càng sớm càng tốt, lan truyền rỉ rả cho nên binh sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo cáo mọi việc và xin Thủ tướng ra quan sát t́nh h́nh. Sáng 19 tháng 3, 1975, Thủ tướng Khiêm đến, tôi cho họp tất cả vị Tư lệnh Sư đoàn, Tỉnh trưởng, Thị trưởng, Bộ tham mưu, và các Trưởng pḥng sở của hành chánh để Thủ tướng nói chuyện.

    Trước khi Thủ tướng đến, tôi đă nói chuyện với anh em có mặt tại hôm đó rằng t́nh h́nh khẩn trương, anh em phải nói lên sự thật đang xảy ra trong thực tế tại nơi nầy để Thủ tướng biết rơ t́nh h́nh và giải quyết cấp thời, chứ đừng có giữ thái độ “tŕnh thưa dạ bẩm” trong lúc nầy nữa. Phải thẳng thắn mà nói lên sự thật. Nhưng sau khi Thủ tướng nói chuyện xong, đến phần thắc mắc th́ cũng chẳng có ai nói ǵ cả. Tôi rất buồn v́ anh em không chịu nghe lời tôi để nói cho Thủ tướng biết những sự thật về t́nh h́nh hiện nay. Duy chỉ có một ḿnh Đại tá Kỳ , tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị, có hỏi một câu: “Thưa Thủ tướng, trong mấy ngày vừa qua, có một số công chức đă tự ư rời bỏ nhiệm sở không đến làm việc, thưa Thủ tướng, phải dùng biện pháp ǵ để trừng phạt những người đó? Câu hỏi thật hay, nhưng Thủ tướng không trả lời và lảng sang chuyện khác. V́ Thủ tướng làm sao nói được khi lệnh trên đă muốn giải tán Quân đoàn I và Quân khu I càng sớm càng tốt.

    Đúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh rút Sư đoàn Dù và Sư đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến về giữ Nha Trang. Ngày 29 tháng 3, cộng quân tràn vào Đà Nẵng với những trận giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm HQ404 đưa về Sài G̣n. Trên tàu cũng có một Lữ đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến. Khi tàu chạy ngoài khơi, Tổng thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm lại Đà Nẵng. Tôi trả lời ngay là bây giờ tôi lấy ai để theo chân tôi tái chiếm Đà Nẵng? Lính tráng đă phân tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ huy th́ mạnh ai nấy thoát. Làm sao tôi có thể làm chuyện đó (tái chiếm Đà Nẵng) được? Sau đó tôi được lệnh cho Hạm trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết Thuỷ Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ chở một ḿnh tôi về Sài G̣n. Tôi không chịu mặc dù lúc đó tàu đă cập bến Cam Ranh rồi.

    Tôi nhờ Hạm trưởng gọi về Bộ Tổng tham mưu xin cho anh em Thuỷ Quân Lục Chiến được về Sài G̣n tĩnh dưỡng nghỉ ngơi cùng tôi. C̣n nếu không th́ tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thuỷ Quân Lục Chiến và cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài G̣n bằng ḷng cho tàu chở tất cả về Sài G̣n.

    Về đến Sài G̣n tôi được bổ nhiệm vào Bộ Tư lệnh Hành quân lưu động ở Bộ Tổng tham mưu. Khi vào đây, tôi gặp Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên Hải) và Chuẩn tướng Nguyễn Văn Khánh (Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân) đang ngồi viết bản tự khai, và Trung tướng Thi th́ bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu v́ sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy. Họ đâu có tội ǵ. Họ chỉ thi hành theo đúng lệnh mà lại bị phạt th́ quả thật bất công.

    Tướng Thi thực sự là người chống lại việc bỏ Huế. Lúc trước, khi nghe tôi cho biết là Tổng thống đă ra lệnh bỏ Huế th́ Tướng Thi đă trả lời thẳng với tôi rằng: “Xă ấp tốt quá mà bỏ làm sao?” Vậy mà bây giờ ông lại bị phạt giam quản thúc. Những vị tướng nầy bị phạt quá oan uổng v́ họ xứng đáng gấp mấy trăm lần những ông Tướng phè phỡn tại Sài G̣n.

    Hôm sau, trong buổi họp tại Bộ Tổng tham mưu, tôi có nói rằng: “Việc phạt Tướng Thi và hai Tướng Thoại và Khánh là không đúng. Họ chỉ là thuộc cấp của tôi. Họ chỉ làm theo chỉ thị của tôi mà thôi. Họ không có tội ǵ cả. Nếu có phạt th́ xin hăy phạt tôi đây này.” Pḥng họp lặng ngắt. Đại tướng Viên nh́n qua Trung tướng Trần Văn Đôn. Tướng Đôn mới đi Pháp về, mới đảm nhận chức Tổng trưởng Quốc pḥng. Có thể v́ vậy mà Tướng Đôn mới không biết là Tổng thống Thiệu đă trực tiếp ra lệnh cho tôi bỏ Huế, nên Tướng Đôn làm đề nghị phạt Tướng Thi v́ đă bỏ Huế mà rút lui. Mà Tổng thống Thiệu lại không dám nói sự thật với Tướng Đôn, và chỉ kư lệnh phạt. Sau đó, Tướng Lê Nguyên Khang, với giọng giận giữ đă buột miệng nói: “Anh em chúng tôi không có tội t́nh mẹ ǵ cả!”.

    Tiện đây, tôi cũng xin nói về trường hợp ra đi của Tướng Thoại và Tướng Khánh. Là vị Tư lệnh trong tay có đến hàng ngàn lính, hàng trăm chiến hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi hỗn loạn, Tướng Thoại đă bị bỏ quên không ai chở đi khỏi Bộ Tư lệnh ở Tiên Sa, và ông đă phải đi bộ qua dăy núi phía sau bờ biển. May nhờ có một chiếc tàu nhỏ của hải quân mà anh em trên tàu lúc đó cũng c̣n giữ kỹ luật, thấy Đề đốc Thoại ở đó, họ ghé vào chở Tướng Thoại đi chứ nếu không lại cũng chẳng biết sau này sẽ ra sao. C̣n Tướng Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân đă không đủ nhiên liệu để bay xa mà phải đáp trực thăng tại một băi cát ở Sơn Trà rồi lội ra tàu. Cũng may lúc đó gặp tàu HQ404 và đă cùng tôi về Sài G̣n.

    NGÔ QUANG TRƯỞNG

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân Đoàn I Quân Khu I
    P2


    Đà Nẵng Những Ngày Cuối Cùng (Lam Hà)

    LTS: Lam Hà là bút hiệu của cựu Đại Uư, cựu Học Sinh TH Phan Chu Trinh Đà Nẵng, Sĩ Quan Tuỳ Viên cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh QĐ1/QK 1 /VNCH. Bài dưới đây trích từ Nhật Kư của một Tùy Viên Tưởng Ngô Quang Truởng.

    Hôm nay, ngày 23 tháng 10, năm 2010, tôi đi dự lễ tiễn đưa Đại Tá Đặng văn Phước về nơi an nghỉ cuối cùng. Ông là Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51, và chính ông là người đă nhận tín hiệu cuả tôi qua cái đèn bấm và cái Samsonite, ông đă can đảm đáp xuống cột cờ BTL/HQVI Duyên Hải để cứu Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lịnh Quân Đoàn I và tôi, ra khỏi vùng nguy hiểm vào khoảng 2 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975. Sau đó chúng tôi ghé núi Sơn Chà bốc Chuẩn Tướng Khánh, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân, rồi trực chỉ phi trường Non Nước để nhập cùng anh em Thủy Quân Lục chiến Việt Nam.
    Tôi muốn giữ im lặng sau cuộc chiến, như bao nhiêu chiến binh chuyên nghiệp khác. Nhưng tôi không thể nào quên được bài báo của Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng đă đăng trong tuần báo Viet Tide của ông Vũ quang Ninh (chủ nhiệm) và cô Mai Khanh (chủ bút).

    Là người học sử, hay viết sử, phải tôn trọng “sử xanh”, và là những người có phương tiện truyền thông để dẫn dắt dư luận quần chúng, xin diễn đạt vô tư, chính xác, và nhất là để cho các thế hệ con cháu biết sự thật là tại sao thế hệ cha ông phải chiến đấu và đă chiến đấu như thế nào.

    Bài báo đă đăng ở trang 71 (Viet Tide số 421)

    Lá thư tôi hỏi và trang báo xin đăng đă bị phớt lờ.

    Chúng tôi, những người đă tận t́nh phục vụ quê hương xứ sở, quên cả thân ḿnh, cha mẹ, vợ con cùng thân bằng quyến thuộc, đă làm hết khả năng và bổn phận của người quân nhân trong cuộc chiến, rất buồn ḷng khi bị đánh giá sai sự thật.

    Hôm nay, giờ này, khi tôi đang viết những ḍng chữ nầy th́ có nhiều người đă ra đi, có nhiều người ở lại quê nhà, và cũng có nhiều người đang chịu trăm cay ngh́n đắng trong khắp bốn phương trời ở xứ người.

    Trong lúc đó những ngựi bạn cũ cũng như quân thù đă t́m cách bôi nhọ, hay đổ tội cho QLVNCH, để nhằm mục đích tự tôn vinh hay che dấu mặc cảm phản bội đồng minh.

    Ba câu hỏi của tôi không được trả lời th́ bây giờ tôi cũng xin được nói lên để mọi người cùng biết:

    1. Khi Đà Nẵng đang cơn hấp hối, tôi đă theo sát Tư Lệnh Quân Đoàn I cho đến ngày ra khỏi nước.

    2. Tương quan lực lượng đôi bên.

    2a. Lực lượng quân đội Cộng Sản:

    Những lực lượng Tiền Phương Cộng Sản đang bao vây Đà Nẵng gồm:

    - Các Sư đoàn 324B, Sư Đoàn 325,

    - Một Trung đoàn chiến xa,

    - Hai Trung Đoàn Pháo làm nỗ lực chính.

    Tất cả theo Elephant Valley tấn công phía Bắc Đà Nẵng.

    -Một nỗ lực thứ hai là Sư Đoàn 711 cùng Mặt trận 44 tiến chiếm khu Kỹ Nghệ An Ḥa (quận Đức Dục) và quận Đại Lộc rồi tiến về phía Nam Đà Nẵng.

    Thành phố coi như nằm giữa hai gọng kềm của địch.

    Tôi nhớ một phái đoàn dân chính gồm có các đại diện dân cử, đảng phái và thân hào nhân sĩ khoảng 10 người, trong số nầy tôi biết dân biểu Phước (cựu HS Phan Chu Trinh và chúng tôi thường gọi là Phước Lít), Giáo sư Trần ngọc Quế( giáo sư trường Phan chu Trinh và là một thành viên cuả một đoàn thể chính trị), họ đến để yêu cầu Tư Lệnh Quân Đoàn có biện pháp quân sự để Đà Nẵng không nằm chịu trận địa pháo như ḷng chảo Điện Biên Phủ.

    Những đơn vị địch ở phía bắc đèo Hải Vân như

    - Các Sư Đoàn 304, SĐ 308, SĐ 320 B và SĐ 312 đang ở đâu? Có phải chúng đang ở sau lưng những nỗ lực chính không?

    Đó là chưa kể những đơn vị địch ở Quân Khu II dồn lên v́ QĐ II đă mất trước rồi.

    2b. Lực lượng phía QĐVNCH gồm có:

    - Sư Đoàn 3/BB, Sư Đoàn /TQLC trừ (v́ Lữ Đoàn 147 xem như đă xoá sổ ở phía bắc đèo Hải Vân).

    - Không Quân th́ tất cả máy bay phải xuôi nam theo lệnh Bộ Tổng Tham Mưu.

    - Pháo binh c̣n vài khẩu.

    - Hải Quân chỉ có khả năng vận chuyển hạn chế.

    - Sư Đoàn Dù th́ đă hoàn toàn rút về Nam.

    Quân thất trận đi t́m gia đ́nh, dân lánh nạn từ phía Bắc và phiá Nam đổ về Đà Nẵng, khoảng 1.5 triệu người. B́nh thường Đà Nẵng chỉ có khoảng 300,000 dân. Người đi đứng chật đường không thể chen chân được; dĩ nhiên trong số hỗn loạn nầy có cả đặc công cùng tiền sát viên pháo binh Cộng Sản..

    Đến đây th́ Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng cùng quí độc giả đă thấy được quân số tham chiến đôi bên.

    Sơ lược những biến cố cuối cùng tại Huế và Đà Nẵng:

    - Đêm 25 tháng 3, 1975 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh các lực lượng ở Huế rút về ĐN.

    - Ngày 26 tháng 3 Trung Tướng Trưởng và tôi bay trực thăng dọc theo bờ biển và tôi thấy tận mắt quân dân bồng bế, gánh gồng dẫn dắt nhau di chuyển về phía Nam. Đi đầu là ĐPQ/NQ tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Kế đến là SĐ 1 rồi đến TQLC. Dân chúng th́ chạy lẫn lộn trong đoàn quân và phiá sau. Đa số trong số họ là gia đ́nh quân nhân. Trông thảm thương như cảnh Lưu Bị dắt dân Tân Dă chạy về Diễn Châu trong chuyện Tam Quốc Chí.

    Trung Tướng Trưởng muốn tôi lên tầng số để Trung Tướng nói chuyện với Đại Tá Lương, Lữ Đoàn Truởng LĐ 147. Về sau tôi được biết qua Trung Tâm hành Quân QĐI là đoàn người đến cửa Tư Hiền th́ tan tác v́ không qua được cửa Tư Hiền. Hải Quân và Công Binh nhận lănh công tác đánh đắm một chiếc tàu Hải Quân làm cầu nổi như dự định trong buổi họp trước đó tại BTL/QĐI, nhưng họ đă không thực hiện được

    Thêm nữa đoàn người bị VC tác xạ và mạnh ai nấy chạy. Bộ Binh và ĐPQ/NQ về đến Đà Nẵng được khoảng 1/3; Nhưng số nầy tan hàng trong hỗn loạn để lo đi t́m gia đ́nh nên không c̣n kiểm soát được.

    Sư Đoàn 1 coi như bị xoá sổ cùng với ĐPQ/NQ ở phía Bắc đèo Hải Vân.

    Trong ngày 26 tháng 3, 1975 Lữ Đoàn 147 TQLC không bốc được nên Lữ Đoàn đă chiến đấu đến khi hết đạn. Một số tự tử và một số bị địch bắt.

    Ngày 26 tháng 3, 1975 Huế xem như đă mất.

    T́nh h́nh phía Nam đèo Hải Vân cũng bi đát chẳng kém ǵ Huế.

    Ngày 10 tháng 3 th́ hai quận Hậu Đức và Tiên Phước bị tràn ngập bởi Trung Đoàn 52 và Sư Đoàn 711 của VC.

    Ngày 24 tháng 3 Tiểu Khu Quảng Tín rút chạy về Đà Nẵng, và cũng ngày nầy Tiểu khu Quảng Ngăi rút về Chu Lai.

    Ngày 26 tháng 3 Sư Đoàn 2 rút ra Cù Lao Ré. Thành phố Đà Nẵng lên cơn sốt hỗn loạn. Cướp bóc đă xảy ra tại kho gạo gần thương cảng.

    Sáng ngày 28 tháng 3 Tư Lệnh Quân Đoàn cho triệu tập các cấp chỉ huy để t́m biện pháp văn hồi trật tự và tái trang bị cho những đơn vị có mặt trong thành phố. Nhưng kế hoạch không thi hành được v́ không đủ quân số tác chiến, và hầu như một số lớn sĩ quan đă bỏ pḥng sở để đi lo chuyện gia đ́nh. Tôi thấy chỉ có văn pḥng Tư Lệnh c̣n làm việc c̣n tất cả pḥng ban trong bộ tư lệnh hầu như ngừng lại hết.

    Vào khoảng 2 chiều ngày ngày 28 tháng 3 Tiểu khu Quảng Nam xem như mất liên lạc. Trung Tướng Trưởng và Tôi chỉ bay đến chi khu Hoà Vang rồi phải trở lại BTL/QĐ. Chi Khu Ḥa Vang ở sát phi trường Đà Nẵng. Như vậy QĐI chỉ c̣n lại Thành Phố Đà Nẵng và Phi Trường chưa bị VC chiếm mà thôi.

    Lực lượng đáng kể để pḥng thủ Đà Nẵng chỉ c̣n Sư Đoàn 3 và 3 Lữ Đoàn TQLC mà thôi
    Trong suốt những tháng ngày ở Mỹ, Trung Tướng Trưởng vẫn thường gặp và đặt giả thuyết với các cấp chỉ huy thuộc quyền rằng nếu khi ấy chúng ta tử thủ Đà Nẵng th́ chúng ta có giữ được không? Và việc ǵ sẽ xảy ra.?

    Bây giờ tôi xin chuyển câu hỏi nầy lại cho quí độc giả.

    Đến đây tôi cũng xin nhắc đến Sư Đoàn 3.

    Sư Đoàn được thành lập với chủ lực là Trung Đoàn 2 cuả SĐ1 BB cùng với quân nhân đủ mọi thành phần: quân nhân văn pḥng, quân phạm, hay bị trù dập và bị tống ra Sư Đoàn 3, và Sư Đoàn nầy ra trấn ải địa đầu giới tuyến. Sư Đoàn bị mang tiếng “chạy làng” khi VC ồ ạt tràn qua vùng giới tuyến phi quân sự, để tấn công quân ta. Ai giỏi hơn ai để không “chạy làng”?

    Khi lực lượng Đồng Minh chưa rút đi, th́ lực lượng của họ gồm

    - Sư Đoàn 3/ TQLC/ Hoa Kỳ
    - Thêm Trung Đoàn 1/ TQLC/ Hoa Kỳ tăng phái.
    - Sư Đoàn 101 Nhảy Dù/ HK,
    - Lữ Đoàn 5 Cơ Giới.

    Một tiểu đoàn cuả họ vừa tăng phái lẫn cơ hữu vào khoảng 1,500 quân nhân – bằng quân số một trung đoàn chiến đấu của ta.

    Hỏa lực cuả một Sư Đoàn / Hoa Kỳ chấp cả Hoả lực cuả QĐVNCH không địch nổi. Họ có hỏa lực cuả Không, Hải, Lục yểm trợ tối đa. Mất một sư đoàn là rung chuyển cả nước Mỹ. Một sư đoàn chiến đấu nhưng cả 250 triệu người yểm trợ cả phương tiện lẫn tinh thần. Ngày tôi theo Tiểu Đoàn 3/1 TQLC /Hoa Kỳ hành quân ở vùng Quảng Nam th́ một hồi chánh viên nói cho biết rằng các đơn vị VC rất sợ đụng trận với Mỹ. Tôi hỏi lại anh ta: vậy chúng tôi, QLVNCH, đánh giặc dở hơn Mỹ phải vậy không th́ anh ta trả lời rằng không phải vậy - Chúng tôi ít sợ các anh v́ các anh bắn ít hơn nhiều, c̣n Mỹ th́ họ bắn như mưa. Anh xem các cây trong làng, có cây nào không đầy vết đạn chằng chịt. Thế nhưng ngày tôi theo Tiểu Đoàn 2/1 TQLC / Hoa Kỳ, tăng phái cho Sư Đoàn 3 / TQLC / Hoa Kỳ, tại phía nam Cồn Thiên vẫn phải chịu trận pháo kích 61 và 82 ly cuả quân chính qui cộng sản mấy tháng trời.

    -----------------------

    Đám quân sinh Bắc tử Nam c̣n dám tấn công các đơn vị Mỹ ở vùng phi quân sự như ở Cồn Thiên, Khe Sanh huống ǵ một Sư Đoàn tân lập như Sư Đoàn 3?

    Những ngày cuối cùng cuả Đà Nẵng nếu không có Sư Đoàn 3, th́ Sư Đoàn / TQLC / VN không rút xuống tàu được. Sư Đoàn 3 đă bị hi sinh ngăn chận địch và không có kế hoạch bốc Sư Đoàn 3.

    Tổng Thống Thiệu đă đặt câu hỏi cho Trung Tướng Trưởng là nếu rút, th́ rút được bao nhiêu quân?. Ưu tiên vẫn là rút Sư Đoàn Dù, Sư Đoàn /TQLC để có lực lượng làm hơi thở cuối cùng cuả VNCH.

    Lữ Đoàn I Dù c̣n lại sau cùng chỉ được dùng để ứng chiến nhằm nâng cao tinh thần quân dân mà không được phép xử dụng tác chiến. Sư Đoàn / TQLC cũng vậy; phải làm sao rút được về Sài G̣n.

    Khi Tư Lệnh Sư Đoàn 3 về họp lần cuối cùng đêm 28 tháng 3 tại BTL / Hải Quân/ VIDH th́ chỉ được biết bất ngờ là phải rút về vùng Horse Shoe gần sông Thu Bồn mà không thấy nói di tản Sư Đoàn 3.

    Phương tiện và t́nh thế chỉ có thể lo cho 2 Sư Đoàn tổng trừ bị mà thôi. Đến đây tôi xin trả lời nghi vấn cuả Đại Tá Phạm Bá Hoa trong “Đôi Ḍng Ghi Nhớ” rằng không có quan Xịa nào khuyên đừng đánh cả. Phiá Việt cũng như Mỹ và kể cả Trung Tướng Trưởng chỉ muốn bảo toàn lực lượng để lo chuyện khác về sau, và khả năng chỉ có thể lo cho hai Sư Đoàn Tổng Trừ Bị mà thôi. Sư Đoàn 3 đă bị làm con chốt thí.

    Trong quân sử chiến tranh Cao Ly: khi chí nguyện quân Cộng Sản Trung Hoa ồ ạt tấn công th́ quân Mỹ và Nam Hàn phải rút về phiá Nam. Sư Đoàn 1/ TQLC/ Hoa Kỳ phải làm nút chận cho quân bạn rút lui. Sư Đoàn nầy đă chiến đấu oanh liệt; nhưng họ phải trả một giá quá đắt: hơn 800 Sĩ Quan và nhiều ngàn binh sĩ hi sinh sau khi họ tự giải cứu và rút sau cùng. Sư Đoàn 3 cuả chúng ta không làm được như vậy, không có quân bạn gíúp đở, để dựa lưng, trưóc mặt là địch, sau lưng là bạn. Sư Đoàn đă phải tứ bề thọ địch.

    Hơn nữa chính phủ và nhân dân cuả Sư Đoàn 1 / TQLC / Hoa Kỳ không bỏ rơi họ, trong khi các bạn (Sư Đoàn 3) hoàn toàn bị bỏ rơi. Các bạn ( Sư Đoàn 3) đă chiến đấu oanh liệt trong một hoàn cảnh nghiệt ngă. Xin đứng nghiêm kính chào các chiến hữu Sư Đoàn 3 đă nằm xuống, hoặc đang quằn quại đau thương tại quê hương Quảng Đà.

    Giờ phút cuối cùng tại Đà Nẵng:

    Sáng sớm ngày 29 tháng 3, năm 1975 chúng tôi tiến ra bờ biển để lội lên tàu. Ngoài TQLC ra , tôi đếm BB có khoảng 13 người: Tr/T Trưởng, Tôi , Đại Tá Duệ (Tỉnh trưởng Thưà Thiên), Đại Tá Kỳ (Tỉnh Trưởng Quảng Trị), Trung Tá Tuân (Pḥng 3 QĐI) và mấy người nữa tôi không nhớ tên.
    Tôi đi ḷng ṿng để t́m một cái phao cho TR/T Trưởng nhưng không t́m được. Các phi cơ trực thăng và Chinooks đang tiếp nhiên liệu bằng cái mũ sắt. Họ phá hai chiềc để lấy nhiên liệu đổ vào một chiếc. Đi đến đâu th́ những người trên phi cơ cũng đều chĩa súng vào tôi.

    Tôi gặp thiếu tá Hiếu, người trước đây từng lái trực thăng cho Tr/T Trưởng, và ông la to,

    ” Đừng bắn nó, nó là bạn tao,”

    Ông hỏi: “ Mầy có đi th́ lên đi với tao.”

    “Không,” tôi trả lời

    “Thiếu tá có cái phao nào cho tôi một cái cho Tr/T Trưởng.”

    “ không, tao không có.

    Mầy có đi không?” Ông lại hỏi

    ” Không, tôi c̣n phải lo cho Tr/T Trưởng ” tôi trả lời.

    Ông chúc tôi may măn và tôi cũng chúc lại ông may mắn.
    Tôi trở lại t́m TR/T Trưởng th́ thấy Thiếu Tá Phương (TQLC) đă nhường cái phao mang cho Tr/T Trưởng mặc dù Th/T Phương không biết lội. Đại Tá Trí kẹp Tr/T trưởng một bên, một bên th́ Th/T Phương kẹp. Tôi vớ một khúc gỗ cuả một cái bunker cũ để làm cái phao. Một tay tôi nắm thắt lưng TR/T Trưởng để đẩy ông, một tay ôm khúc gỗ và cả ba chúng tôi d́u ông lội ra tàu.

    Biển động, sóng lớn, không có cầu tàu. Nhiều lúc sóng phủ tôi bị ch́m lỉm. Chúng tôi lội đến vừa lút đầu th́ lên được tàu. Sau khi lên đến nơi th́ TR/T Truởng mê sảng và tôi cũng ngất đi một khoảng thời gian dài v́ một phần đói, một phần uống nhiều nước mặn khi sóng phủ, một phần v́ quá mệt.
    Theo Trung Uư B́nh, Hạm Phó LST 404, th́ Tr/T Trưởng đă nói trong lúc mê sảng:

    ”Bây giờ Tổng Thống biểu tôi phải làm ǵ?”

    “Làm như vậy th́ làm sao tôi nói với các Tướng dưới quyền tôi được.”

    Khi tàu đang lênh đênh ngoài khơi Đà Nẵng th́ chúng tôi nhận được lệnh Tổng Thống Thiệu phải tái chiếm ĐN.

    “Bây giờ tôi đi với ai và lấy ǵ để tái chiếm.”

    Tr/T Trưởng nói một ḿnh và ông ra lịnh cho HạmTrưởng đưa ông và TQLC xuôi Nam.
    Trên đường xuôi Nam, tôi và Chuẩn Tướng Khánh, mỗi bữa hai người chia nhau nửa muỗng cơm và nửa muỗng nước của anh em hải quân nhịn miệng để dành cho. Chúng tôi không có thực phẩm và nước uống. Theo anh em HQ cho biết tàu vừa xong công tác và trên đường về bến th́ nhận được lệnh quay trở ra Đà Nẵng vận chuyển QĐ I nên không có tái tiếp tế

    Về đến Sài G̣n th́ Tr/T Trưởng đă kiệt lực nên được đưa vào Tổng Y Viện Cộng Hoà. Vài ngày sau ông tỉnh táo lại và đă khóc khi tôi đứng bên giường bệnh cuả ông, và ông đă than thở rằng: “Nhờ trời giúp tôi với Ḥa mới vào được tới đây.”

    C̣n nhiều chi tiết nhưng bài báo giới hạn. Một ngày nào thuận tiện tôi sẽ viết nhiều hơn. Trước khi tạm chấm dứt bài nầy tôi xin thưa rằng trong sách “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” cuả Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng vừa mới phát hành có đề cập đến Sư Đoàn 1 tự động tan hàng ở Huế là không đúng. Đối với Tr/T Trưởng một đôi khi một đaị đội BB do một Thiếu Úy chỉ huy đang chạm địch ông cũng đáp xuống xem xét và tôi đă toát mồ hôi hột v́ sợ không bảo vệ được ông. Chuyện một đại đơn vị cấp Sư Đoàn tự động giải tán mà Tr/Tướng Trưởng không biết, th́ không thể nào có thể xảy ra được. Chuyện lệnh lạc tiền hậu bất nhất cuả Tổng Thống Thiệu th́ có và đúng “solid 100%”. Tôi c̣n vài tài liệu để chứng minh điều này.

    Ngày tháng qua đi, qua đi…Mọi sự rồi cũng chẳng c̣n ǵ cả. Tổng Thống Thiệu đă ra đi, Đại Tướng Viên đă ra đi, vị tướng tài ba và đức độ Tr/T Ngô Quang Trưởng ngày nào của ḷng tôi kính mến cũng đă ra người thiên cổ. Các niên trưởng cuả tôi như Chuẩn Tướng Khánh, Đ/T Duệ, Đ/T Phước cũng đă ra đi, và rồi chúng tôi cũng sẽ mờ dần theo năm tháng…Nếu có c̣n chăng là đôi ḍng lịch sử vây xin tôn trọng “sử xanh” và đừng bẻ cong ng̣i bút v́ bất cứ lư do nào.

    “Biết th́ nói rằng biết, không biết th́ nói rằng không biết.” Nếu dẫn chứng cho lập luận cuả ḿnh th́ xin nêu rơ xuất xứ (foot notes). Xin đừng nói rằng nghe người nầy, người kia nói, là vô căn cớ.

    Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng và Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng đă làm buồn ḷng những người đă ra đi và những kẻ c̣n ở lại. Chúng tôi đă từ bỏ tất cả kể cả gia đ́nh thân yêu để làm hết sức ḿnh cho tổ quốc, cho quân đội và cho lư tưởng.

    Quân đội nào cũng có một vài cấp chỉ huy hèn mọn, khi địch chưa đến đă bỏ chạy. Quân Đoàn I cũng không ra ngoài cái thông lệ tầm thường đó; nhưng không phải tất cả cấp chỉ huy đều hèn nhát bỏ chạy về đến Sài G̣n trong lúc c̣n 100,000 quân c̣n ở lại chiến đấu tại Đà Nẵng.

    Tôi là một cá nhân nhỏ bé tầm thường nhưng may mắn c̣n sống sót sau biến cố 1975. Ở một góc độ nhỏ bé nào đó tôi đă thấy, đă nghe và đă chịu đựng những điều đă xảy ra v́ vậy tôi phải nói cho những người không c̣n nói được nữa, hay họ không bao giờ muốn nói.

    Hà Lam
    California, đầu thu 2010
    Lam Hà
    1791 Deere Ave
    Irvine, Ca 92608
    Emai: lam.ha@newport.com

    Kính gởi:
    Ông Vũ Quang Ninh, Chủ Nhiệm Tuần Báo VIỆT TIDE
    Cô Mai Khanh, Chủ Bút Tuần Báo VIỆT TIDE

    Kính thưa ông chủ nhiệm và cô chủ bút nhân đọc mục Tản Mạn Lịch Sử (scaned dưới đây) tôi nhận thấy không đúng với sự kiện lịch sử v́ tôi là một cựu quân nhân QLVNCH có tham dự cuộc triệt thoái bi tráng nấy. Để trả lại sự thật cho lịch sử xin ông và cô cho đăng lá thư nầy lên quí tuần báo.

    Xin trân trọng cám ơn ông và cô

    Kính thưa ông Lê Mạnh Hùng:

    Khi đọc bài báo bên cạnh tôi xin hỏi ông:

    1/ Khi Đà Nẵng đang cơn hấp hối th́ ông đang ở đâu?

    2/ Làm sao ông biết được quân số chiến đấu của hai bên?

    3/ Nếu như ông dựa vào tài liệu để viết xin ông vui ḷng cho biết xuất xứ (foot notes) để tác giả chịu trách nhiệm trước lịch sử.

    Tôi chờ đợi ông trả lời trên VIỆT TIDE hoặc công báo để mọi người cùng sáng tỏ

    LAM HA

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân Đoàn II Quân Khu II
    Những Giờ Phút Sau Cùng Của Quân Đoàn II




    KHÁNH DƯƠNG


    ● 3/1975 - Khánh Dương là một thị trấn nhỏ bao quanh bởi những khu rừng già thật hùng vĩ, nằm ở độ cao khoảng 1000 mét, cạnh Quốc lộ 21, nối liền cao nguyên Ban Mê Thuột với vùng duyên hải tỉnh Khánh Ḥa, cách Quốc lộ 1 khoảng 60 km. Quanh Khánh Dương là những bản Thượng có nhiều sắc dân thiểu số hiền ḥa sinh sống. Cách Khánh Dương về hướng đông dọc theo QL 1 không bao xa, núi Đá Bia nằm trên Đèo Cả thuộc Phú Yên, sừng sửng khối đá lớn trông như tạc h́nh ảnh mẹ bồng con đứng nh́n ra biển gọi là ḥn Vọng Phu, hay c̣n gọi là núi Mẹ Bồng Con.

    Vào những ngày đầu năm 1975, dưới áp lực của địch đè nặng trên cao nguyên, tuyến pḥng thủ Khánh Dương được trấn giữ bởi TRĐ 40 BB thuộc SD 22 BB và hai tiểu đoàn thuộc LĐ 922 DPQ Tiểu khu Khánh Ḥa. Sau khi chiếm lĩnh trọn vùng Cao Nguyên gồm các tỉnh Ban Mê Thuột, Kontum và Pleiku, CSBV muốn tiến về vùng duyên hải để tiến chiếm Khánh Ḥa, Phú Yên và Qui Nhơn nên bằng mọi giá chúng phải tiến chiếm Khánh Dương.

    Chiều ngày 19 tháng 3/1975, Bộ Tư lệnh Quân Đoàn 2 nhận được báo cáo tỉnh Phú Bổn thất thủ. Một số lớn chiến xa M48 và M41 của Lữ đoàn 2 Kỵ binh bị kẹt lại tỉnh lỵ Hậu Bổn. Trong ngày này, đang trên đường xuôi nam sau hai ngày và ba đêm hải hành, LĐ 3 ND được lệnh đổ quân xuống cầu Đá Nha Trang để tăng viện cho Quân Khu 2. Sau khi cập bến Nha Trang, Trung tá Lê Văn Phát, Lữ đoàn trưởng LĐ 3 ND, nhận lệnh từ Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân Đoàn 2, điều động tất cả đơn vị đến lập tuyến pḥng thủ dọc theo QL 21 trên đèo M’Drak khởi đầu từ chân đèo Phượng Hoàng đến Khánh Dương.

    Sáng ngày 21 tháng 3/1975 tất cả đơn vị thuộc LĐ 3 ND, gồm có ba tiểu Đoàn TĐ 2 ND, TĐ 5 ND và TĐ 6 ND, cùng TĐ 3 PB/ND, ĐĐ 3 TS/ND, đều sẳn sàng tại vị trí chiến đấu của ḿnh. TĐ 5 ND của Trung tá Bùi Quyền trấn ngự tại phía nam thị trấn Khánh Dương cạnh QL 21. TĐ 6 ND của Trung tá Nguyễn Văn Thành trấn ngự tại cao điểm 957 buôn Ea Thi. TĐ 2 ND của Thiếu tá Trần Công Hạnh trấn ngự ngay tại chân đèo Phượng Hoàng. Bộ Chỉ huy Lữ Đoàn 3, TĐ 3 PB/ND và ĐĐ 3 TS/ND đóng tại Dục Mỹ. Tin tức t́nh báo cho biết hai Sư Đoàn F10 và 320 CSBV từ Ban Mê Thuột sẽ tiến đánh Khánh Dương để dọn đường tiến thẳng về Sài G̣n.

    3/1975 - Sáng ngày 22 tháng 3/1975, mặt trận Khánh Dương bị áp lực nặng khi lực lượng CSBV dốc toàn lực mở cuộc tấn công các pḥng tuyến. Lúc 7 giờ 30, Cộng quân mở trận địa pháo kinh hồn vào các đơn vị pḥng thủ phía tây Khánh Dương. Trước hết là hàng ngàn quả đạn pháo đủ loại tới tấp rơi vào các căn cứ pḥng thủ của TRĐ 40 BB và hai tiểu đoàn Địa Phương Quân. Sau đó Sư đoàn F10 CSBV tấn công biển người với xe tăng yểm trợ vào các đơn vị nầy. Sau một giờ giao tranh các đơn vị pḥng thủ bị tràn ngập và cắt ra từng mănh nhỏ, trên phân nửa quân số bị thương vong, một số tàn quân của các đơn vị nầy rút về phía nam pḥng tuyến của TĐ 5 ND rồi tiếp tục rút về Diên Khánh.

    Lúc 9 giờ sáng cùng ngày, Cộng quân tiến về Chi khu Khánh Dương với 12 xe tăng hổ trợ, và nả đại pháo 122 ly vào quận Khánh Dương. Đến 10 giờ th́ Chi khu Khánh Dương mất liên lạc.

    Ngày 23 tháng 3/1975, Cộng quân gia tăng áp lực tại tuyến pḥng ngự của LĐ 3 ND. Lúc 16 giờ 30, nhiều chiến xa CSBV xuất hiện ở vị trí cách trung tâm quận lỵ Khánh Dương 2 km về phía tây bắc. Ở phía đông nam Khánh Dương, phi cơ quan sát của Không quân VNCH ghi nhận có hai chiến xa T54. Ở phía bắc có nhiều xe kéo đại pháo cách quận lỵ khoảng 3 km. Không quân đă thực hiện nhiều phi xuất oanh tạc chính xác ngăn chận mức độ tiến quân của Cộng quân. Sau đó các đơn vị tiền sát của LĐ 3 ND bắt đầu chạm địch. Gặp sức kháng cự dũng mảnh của các chiến sĩ Nhảy Dù, địch quân đă bị tổn thất nặng.

    4/1975 - Ngày 28 tháng 3/1975 một đoàn xe tiếp tế thực phẩm và đạn dược cho LĐ 3 ND bị Cộng quân phục kích trên Quốc lộ 21 dưới chân đèo Phượng Hoàng. TĐ 5 ND được lịnh lui quân về vị trí TĐ 6 ND và TĐ 2 ND trở thành đơn vị cơ động ứng chiến và được lịnh giải tỏa QL 21 từ đèo Phượng Hoàng đến Dục Mỹ để đảm bảo an ninh lộ tŕnh tiếp tế.

    Ngày 29 tháng 3/1975 vào lúc ba giờ sáng, Pháo Binh Cộng quân đủ loại dập lên tuyến pḥng thủ của Tiểu đoàn 5 và 6 ND sau đó các Sư đoàn 316, 320 và F10 CSBV tập trung toàn lực lượng biển người quyết dứt điểm LD 3 ND từ ba phía. Địch quân đông như kiến cùng quân pḥng thủ đánh cận chiến suốt đêm đến 7 giờ sáng mà tuyến pḥng thủ vẫn c̣n giữ vững.

    Sáng ngày hôm sau, hơn 20 phi tuần A37 bay lên yểm trợ làm giảm bớt áp lực của địch quân.

    Ngày 31 tháng 3/1975 t́nh h́nh tại Khánh Dương vô cùng nguy ngập. Lực lượng chống giữ tại đây của Lữ đoàn 3 ND gồm có ba Tiểu đoàn 2, 5 và 6 ND, Tiểu đoàn 2 PB/ND cùng Đại đội 3 Trinh sát ND, đă phải giao tranh quyết liệt với các trung đoàn thuộc Sư đoàn F10 và 320 CSBV. Các tiểu đoàn ND đă chống trả dữ dội. Nhiều vị trí mất rồi được chiếm lại, rồi lại bị mất, nhiều lần như vậy nhưng Lữ đoàn 3 ND vẫn cố giữ vững vị trí chiến đấu.

    TRĐ 25/F10 CSBV đồng loạt tấn công vào vị trí của TĐ 6 ND do Trung tá Nguyển Văn Thành chỉ huy. Tuyến pḥng thủ của TĐ 6 ND bị tràn ngập. Trung tá Thành cùng một số quân nhân bị bắt tại trận. TĐ 5 ND do Trung tá Bùi Quyền chỉ huy bị TRĐ 28 CSBV vây hảm và tràn ngập. Thiếu tá Vỏ Trọng Em, Tiểu đoàn phó, đă hướng dẩn được khoảng 200 chiến sĩ rút vào rừng, vượt núi về phía nam. Năm ngày sau toán quân nầy được trực thăng giải cứu bốc về Phan Rang. Một số quân nhân khác tháp tùng Thiết đoàn M113 về được Huấn khu Dục Mỹ.

    Trong t́nh h́nh sôi động và trước áp lực nặng của Cộng quân, 8 giờ ngày 1 tháng 4/1975, Đại tá Lê Văn Phát, Lữ đoàn Trưởng LD 3 ND, tŕnh với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh QD 2, là nếu không có tăng viện, không được cấp phát thêm đạn dược và hỏa tiễn TOW chống chiến xa th́ tuyến Khánh Dương sẽ bị Cộng quân tràn ngập. Tướng Phú yêu cầu Lữ đoàn 3 ND cố gắng cầm cự để chờ quân của Sư đoàn 22 BB từ Qui Nhơn rút vào cùng với một trung đoàn tái chỉnh trang của Sư đoàn 23 BB.

    Lần thứ năm trong ngày Đại tá Phát gọi xin thêm quân viện khẩn cấp và được Thiếu Tướng Phú cho biết không c̣n quân để tăng viện nữa và ra lịnh cho LĐ 3 ND di chuyển về phía nam. Trong khi đó, sau những đợt tấn công biển người liên tục và ác liệt của TRĐ 66 CSBV, tuyến pḥng thủ dọc theo chân đèo Phượng Hoàng của TĐ 2 ND do Thiếu tá Trần Công Hạnh và TĐ 2 PB/ND do Thiếu tá Nguyển Ngọc Triệu chỉ huy bị tràn ngập.

    Đến 4 giờ chiều cùng ngày, khi đang bay trên không phận Khánh Dương th́ Tướng Phú chỉ liên lạc được với một sĩ quan của Lữ đoàn 3 ND. Tướng Phú được báo vắn tắt là địch quân đă tràn ngập nhiều vị trí của các đơn vị Nhảy Dù, tuyến pḥng thủ đă bị cắt nhỏ. Sau đó cuộc điện đàm đă bị gián đoạn. Bị chia cắt ra thành nhiều mảnh nhỏ, lại không được tiếp tế lương thực và đạn dược, LĐ 3 ND buộc phải triệt thoái đơn vị về bải biển dưới chân Ḥn Son và theo đường bộ về Phan Rang

    Buổi tối cùng ngày, Đại tá Phát cùng Bộ Chỉ huy Lữ đoàn và một phần của TĐ 5 ND trên đường rút từ Khánh Dương ra Quốc lộ 1 không c̣n liên lạc được với Bộ Tư lệnh QĐ 2 nên liên lạc thẳng về Sài G̣n bằng hệ thống GRC106. Đại tá Phát được lệnh phối hợp với Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh SD 6 KQ, để pḥng thủ Phi trường Phan Rang.

    4/1972 - Trong những ngày 20, 21 và 22 tháng 4/1972, các sư đoàn Bắc Việt áp sát bao vây Tân Cảnh, Dakto. Thời gian này, mặt trận mặt bắc B́nh Định cũng rất sôi động. Tướng Ngô Du chỉ định Đại tá Trần Hiếu Đức, Trung đoàn trưởng TRĐ 40 BB thuộc Sư đoàn 22 BB làm Tư lệnh Chiến trường, chịu trách nhiệm bảo vệ ba quận Hoài Ân, Bồng Sơn và Tam Quan. Sư đoàn 3 Sao Vàng CSBV được lệnh phối hợp với các mặt trận khác, từ mật khu An Lăo tung quân cắt đứt Quốc lộ 1 tại đèo Bồng Sơn và tấn công một số vị trí thuộc ba Chi khu Hoài Ân, Hoài Nhơn, Tam Quan. Tại đây, Cố vấn Quân Đoàn 2 là John Paul Vann cũng gây khó khăn cho Đại tá Đức về yểm trợ hỏa lực. Bị áp lực nặng nề của địch quân, Đại tá Đức phải ra lệnh rút bỏ quận Hoài Ân để cố thủ quận Bồng Sơn.

    3/1975 - Kể từ khi Bộ Tư lệnh Quân Đoàn 2 thực hiện lệnh của Tổng thống Thiệu triệt thoái lực lượng khỏi hai tỉnh Kontum, Pleiku vào giữa tháng 3/1975, t́nh h́nh chiến sự tại B́nh Định trở nên nghiêm trọng. Cộng quân đă gia tăng áp lực tại nhiều quận của tỉnh này. Cuối cùng, để bảo toàn lực lượng, SĐ 22 BB và các đơn vị đồn trú tại tỉnh B́nh Định đă phải rút khỏi Qui Nhơn trong những ngày cuối tháng 3/1975.

    Ngày 31/3/1975, trong khi t́nh h́nh tại Khánh Dương vô cùng nguy ngập, CSBV bắt đầu tấn chiếm các quận lỵ của tỉnh B́nh Định. Tại Qui Nhơn, SĐ 3 CSBV đă chiếm nhiều vị trí trọng yếu trong thành phố, trong đó có hải cảng. Lực lượng Sư đoàn 22 BB với TRĐ 41 BB và TRĐ 42 BB đă nổ lực mở cuộc phản kích với sự yểm trợ hỏa lực hải pháo từ tàu Hải Quân ở ngoài biển nên địch quân bị đánh bật ra khỏi khu ven bờ biển. Vùng kiểm soát của lực lượng VNCH được mở một khoảng rộng dài chừng 6 km về phía nam, để tạo an ninh cho tàu Hải Quân cập bến đón các đơn vị c̣n lại của Sư đoàn 22 BB triệt thoái khỏi tỉnh B́nh Định.

    Trong cuộc triệt thoái tại Qui Nhơn, SĐ 22 BB tổn thất khoảng 70% quân số. Trung đoàn trưởng TRĐ 42 BB là Đại tá Nguyễn Hữu Thông đă từ chối di tản và tử trận sau đó (hay tự sát ?). Trung đoàn trưởng TRĐ 41 BB cùng 2/3 cấp sĩ quan chỉ huy được ghi nhận là tử trận hoặc mất tích. Trung đoàn 47 BB bị CSBV tấn công cường tập. Khi trung đoàn này rút về Qui Nhơn th́ bị phục kích tại quận lỵ Phù Cát, thiệt hại gần 50% lực lượng, Trung đoàn trưởng Đại tá Lê Cầu đă bị bắt. Cộng quân đă chiếm quận lỵ này vào buổi chiều.

    LONG AN
    ● Tỉnh Long An vào khoảng thời gian 1966 thuộc Vùng 3 Chiến thuật, là vùng trách nhiệm của Sư đoàn 25 BB. Theo phối trí của Bộ Tư lệnh Quân Đoàn 3 lúc đó, tại Long An luôn luôn có một trung đoàn thuộc SĐ 25 BB hoạt động. Trung đoàn này liên tục mở các cuộc hành quân truy kích Cộng quân tại các khu vực trọng yếu, đồng thời án ngữ các yết hầu không cho Cộng quân xâm nhập vào tỉnh lỵ Long An.

    4/1975 - Ngày 29 tháng 4/1975 CSBV bắt đầu tấn công bằng bộ binh và thiết giáp vào Sài G̣n bằng hai mũi: Phú Lâm và cầu Nhị Thiên Đường. Rạng sáng ngày 29 tháng 4/1975, Bộ Tổng Tham Mưu, Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất và Bộ Tư lệnh Hải Quân tại bến Bạch Đằng đă trở thành mục tiêu của Pháo Binh CSBV. Những đợt pháo kích liên tiếp của Cộng quân đă nhắm vào các vị trí trên. Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Tư lệnh Hải Quân chỉ bị thiệt hại nhẹ, nhưng căn cứ Tân Sơn Nhất bị thiệt hại nặng nhất. Các băi phi cơ đậu, các ụ xăng dầu và các trạm truyền tin đều bị đạn pháo bắn trúng. Quanh ṿng đai Sài G̣n, chiến trận diễn ra khốc liệt tại Long An, Hậu Nghĩa, B́nh Dương, Biên Ḥa.

    Tại Long An, các đơn vị SĐ 22 BB đă giao chiến quyết liệt với hai trung đoàn Cộng quân muốn chọc thủng pḥng tuyến thị xă Tân An.

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân Đoàn II Quân Khu II
    Những Giờ Phút Sau Cùng Của Quân Đoàn II
    Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7 Ngày 17 Tháng 3 Năm 1975 và những hệ lụy sau đó

    Phạm Bá Hoa




    Sau khi tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản ngày 7/1/1975, thủ phủ Ban Mê Thuột và tỉnh Darlac thất thủ ngày 11/3/1975, t́nh h́nh chiến sự Quân Đoàn II/Quân Khu II trở nên sôi động. Xin nhớ là Thỏa Hiệp Ngưng Bắn đă kư tại Paris ngày 27/1/1975 và hạ tuần tháng 3/1975 là có hiệu lực. Do vậy mà bầu không khí chính trị cũng sôi động không kém t́nh h́nh quân sự.

    Lúc bấy giờ các vị lănh đạo quốc gia và lănh đạo quân đội liên quan đến những phản ứng sau đó, là:

    - Tổng Thống: Nguyễn Văn Thiệu (Trung Tướng).

    - Thủ Tướng: Trần Thiện Khiêm (Đại Tướng).

    - Tổng Tham Mưu Trưởng: Đại Tướng Cao Văn Viên.

    - Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Ông được phép đưa thân phụ sang Tokyo chữa bệnh ung thư, nên không có mặt từ lúc đầu cuộc rút quân. Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, xử lư thường vụ chức vụ Tổng Cục Trưởng.

    - Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.

    - Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại Tá Bửu Khương.

    - Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lư.

    Lúc bấy giờ tôi là Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.

    Vào chuyện.

    Ngày 14/3/1975, một buổi họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng không rơ nội dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột. Rất tiếc là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên chưa về, nên tôi với Đại Tá Phạm Kỳ Loan không biết ǵ hơn.

    Ngày 15/3/1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo:

    - Đại Tá Hoa tôi nghe -

    - Có ai ngồi gần anh không? -

    - Dạ không, thưa Đại Tướng -

    Đó là Đại Tướng Cao Văn Viên. Ông tiếp:

    - Tuyệt đối là anh không cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan trách nhiệm thi hành -

    - Vâng, tôi rơ thưa Đại Tướng -

    - Tổng Cục Tiếp Vận có bao nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng? -

    - Thông thường th́ sử dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp tối cần thiết có thể sử dụng được 8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ hỏi bên Không Quân và sẽ tŕnh lại Đại Tướng con số chính xác hơn, thưa Đại Tướng -

    - Thôi được. Điều cần thiết là anh phải sử dụng tối đa v́ đây là nhu cầu khẩn cấp. Anh liên lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ cần bao nhiêu chiếc th́ cho họ bấy nhiêu, c̣n sử dụng vào công tác ǵ th́ tùy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày mai. Anh rơ chưa? -

    - Thưa Đại Tướng, tôi rơ -

    - Phần anh, anh chuyển các quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn đem về đâu th́ tùy anh-

    - Vâng. Tôi thi hành, thưa Đại Tướng -

    Tôi thuật lại cho Đại Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn tôi, đều không suy đoán được là chuyện ǵ sắp xảy ra mà chúng tôi không được phép biết. Nếu chuẩn bị đánh nhau với quân cộng sản th́ tại sao không để quân dụng lại mà thay thế số tổn thất? Nếu không đánh nhau,..... mà không đánh nhau là thế nào? Thật không hiểu nỗi!

    Tổ chức một quân đội, phải có hai yếu tố chính, là "con người và quân dụng". Quân dụng do ngành Tiếp Vận quản trị. Những ǵ trang bị cho mỗi quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, từ dinh dưỡng đến điều trị khi bị thương hay đau yếu, vấn đề mai táng và nghĩa trang, rồi doanh trại, phương tiện di chuyển, rồi súng đạn, xe tăng thiết giáp, đại bác hỏa tiển,...... đều là nhiệm vụ của ngành Tiếp Vận. Ấy vậy mà Tiếp Vận lại không được quyền biết đến kế hoạch hành quân, ít nhất là đối với lệnh vừa rồi của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa !

    Trong quân đội, chỉ có Trung Tướng Đỗ Cao Trí và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, là hai vị Tư Lệnh đại đơn vị đặt Tiếp vận vào đúng vị trí của ngành này mà thôi. Điển h́nh là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đầu năm 1970, khi soạn kế hoạch hành quân sang lănh thổ Cambodia tấn công các kho dự trữ tiếp vận của quân cộng sản sát biên giới Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung Tướng Trí nêu câu hỏi với Trung Tá Trương Bảy (sau này là Chuẩn Tướng Cảnh Sát) Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận:

    - Theo kế hoạch hành quân như đă tŕnh bày, Tiếp Vận có chuẩn bị kịp không? Nếu không, Quân Đoàn sẽ lùi ngày lại".

    Khi vị Tư Lệnh hỏi như vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách mấy cũng phải thực hiện cho xong chớ đâu thể xin lùi ngày được. Đằng nào cũng phải vất vă, nhưng vất vă mà được biết đến vẫn vui ḷng hơn.

    Trước khi lên Pleiku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú điện thoại tôi:

    - Anh Hoa à, tôi sắp sửa lên Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung Úy Thiêm một tuần để nó lên đó chọn hướng đặt bàn giấy giùm tôi nghe anh-

    - Vâng. Tôi sẽ nói với anh Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực tiếp với anh ấy về những chi tiết cần thiết -

    Lúc bấy giờ tôi là Cục Trưởng Cục Măi Dịch (đồn trú ở Sài G̣n), và trong đơn vị tôi có Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm được nhiều người cho là giỏi tướng số tử vi và chữ kư. Và sau 5 ngày công tác riêng cho Thiếu Tướng Phú ở Plei Ku trở về, Trung úy Thiêm nói với tôi:

    - Thưa Đại Tá, tôi thấy vận số của Thiếu Tướng Phú hết rồi, nhiều lắm cũng chỉ tính bằng tháng chớ không tính bằng năm đâu -

    - Anh có nói ǵ với Thiếu Tướng Phú không?-

    - Dạ không. V́ sợ ổng mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có cách ǵ giải được, thà không nói vẫn hơn -

    - Nghî như anh cũng phải -

    (Năm 1990, tôi được biết Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm định cư tại Australia )

    Tôi nhớ, có một hôm Trung Tướng Đồng Văn Khuyên nói với tôi rằng, "Thiếu Tướng Phú tuổi con rắn, nên Tổng Thống cử lên Quân Đoàn II v́ rắn thích hợp với núi rừng".

    Trở lại lệnh của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên Plei Ku liên lạc với Đại Tá Lê Khắc Lư, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II:

    - Tôi Hoa đây anh Lư. Tôi được lệnh cấp C.130 cho anh nhưng không được biết là Quân Đoàn sử dụng vào công tác ǵ. Vậy anh có thể cho tôi biết để tôi tiện sắp xếp phi cơ theo đúng nhu cầu của anh không ? V́ chắc anh cũng biết là số phi cơ khả dụng của chúng tôi giới hạn lắm -

    - Anh cứ đưa lên đây cho tôi, c̣n sử dụng vào công tác ǵ th́ không thể nói được đâu- Lời của Đại Tá Lư.

    - Đành vậy. Nhưng anh cần bao nhiêu chiếc? Cần vào lúc nào? Và chuyển vận từ đâu tới đâu?

    - Anh có bao nhiêu chiếc th́ đưa lên tôi bấy nhiêu, và kể từ sáng mai (16/3/1975). Không tŕnh có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc Sàig̣n -

    - Vậy th́ như thế này. Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi 2 chiếc kế tiếp túc trực tại phi trường Tân Sơn Nhất và anh cần là cất cánh ngay, v́ một lúc anh đâu sử dụng được 4 chiếc. Được không? -

    - Được. 8 giờ sáng mai anh cho có mặt tại phi trường Cù Hanh nghe -

    - Xong. Ḿnh thỏa thuận như vậy nhé -

    Tôi tŕnh Đại Tá Loan là vẫn không biết được ǵ thêm ở Quân Đoàn II. Đại Tá Loan hỏi Chuẩn Tướng Trần Đ́nh Thọ, Trưởng Pḥng 3/Bộ Tổng Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết lộ điều ǵ. Bên Không Quân xác nhận là có thể sử dụng tối đa 9 chiếc C.130, nhưng sau khi sử dụng như vậy th́ các nhu cầu tiếp theo không thể thực hiện được ít nhất là một tuần v́ phải tu bổ lại. Bộ Chỉ Huy Không Chiến, cơ quan điều động phi cơ, đồng ư về thỏa thuận giữa tôi với Đại Tá Lư, nghĩa là 2 chiếc C130 cất cánh lên Pleiku th́ 2 chiếc kế tiếp túc trực tại căn cứ Tân Sơn Nhất.

    Sáng ngày 16/3/1975, Bộ Chỉ Huy Không Chiến điện thoại tôi:

    - Tŕnh Đại Tá, trưởng phi cơ C.130 đang trên không phận phi trường Cù Hanh (Plei Ku), cho biết là không thể nào đáp xuống phi trường được, v́ người ta đông không thể tưởng tượng nỗi. Chẳng biết là chuyện ǵ xảy ra v́ không liên lạc được dưới đất. Và hai chiếc C.130 đang chờ lệnh Đại Tá đó -

    - Anh chuyển đến Trưởng phi cơ, hăy chờ tôi vài phút để tôi liên lạc với Quân Đoàn xem t́nh h́nh ra sao đă -

    Gọi Quân Đoàn II và tôi nói chuyện với Đại Tá Lư:

    - Phi cơ tôi đang trên không phận của anh đó, nhưng không thể đáp được. Nếu anh muốn họ đáp xuống th́ anh phải giải toả sân bay giùm đi v́ nếu chậm quá th́ họ sẽ về lại Sài G̣n đó. Mà chuyện ǵ xảy ra vậy Anh? -

    - Tại v́ người ta tranh nhau chờ lên phi cơ mới có chuyện tràn ngập đường băng như vậy. Để tôi cho Quân Cảnh giải toả, anh bảo phi cơ đáp xuống cho tôi đi -

    - Th́ phi hành đoàn đang chờ đường băng trống là đáp xuống, trừ khi anh không giải toả nỗi. Anh nhớ ưu tiên cho Trung Tá Thời, Liên Đoàn Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi ở Plei Ku, chở một số kiện hàng quan trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha Trang à nghe -

    Tôi lại nhờ Bộ Chỉ Huy Không Chiến chuyển đến phi hành đoàn C.130. Và sau đó, phi cơ đáp xuống được tuy rất khó khăn v́ đông nghẹt người là người hai bên đường băng. Để rồi một h́nh ảnh hỗn loạn chưa từng thấy -theo lời thuật của Trưởng phi cơ- là cả một rừng người chen lấn xô đẩy, thậm chí đạp lên nhau để tranh lên phi cơ, và hết sức khó khăn đến độ nguy hiểm, phi hành đoàn mới cho phi cơ cất cánh được.

    Hóa ra là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn chuyển xuống Nha Trang. Tôi tŕnh ngay cho Đại Tá Loan v́ ước tính là sắp đánh nhau với quân cộng sản rồi. Ước tính này không phải là vô căn cứ, bởi v́ cộng sản đă chiếm thủ phủ Cao Nguyên, bây giờ chúng tấn công vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cũng là điều có thể xảy ra lắm chớ. Nhưng chúng tôi nhầm ...

    V́ sáng ngày 17/3/1975, trong lúc 2 chiếc C.130 trên không phận Plei Ku th́ điện thoại nhà tôi reo, hôm nay là chủ nhật nên tôi đi làm muộn:

    - Đại Tá Hoa tôi nghe -

    - Bộ Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là toàn thị xă Plei Ku hôm nay không có một bóng sinh vật nào cả, và bây giờ phi hành đoàn xin phép về lại căn cứ -

    - Anh hỏi lại phi hành đoàn giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như vậy th́ tôi đồng ư phi cơ quay về. Xin nhớ, đây là trách nhiệm rất quan trọng nghe anh -

    Tôi điện thoại qua nhà Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngay sau đó Đại Tá Loan liên lạc Chuẩn Tướng Trần Đ́nh Thọ (Trưởng Pḥng 3/Bộ Tổng Tham Mưu) nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ được một giọt thông tin nào về t́nh h́nh đó cả. Tôi và Đại Tá Loan tức lắm, nhưng chúng tôi không có cách nào khác v́ Trung Tướng Khuyên đi Tokyo chưa về. Có vẻ như chúng tôi bị coi như là những sî quan không đáng tin cậy th́ phải, ít nhất cũng là không được tin cậy trong cuộc hành quân này, dù rằng Đại Tá Loan đang là cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận với gần 100.000 quân nhân công chức chuyên ngành và quản trị một khối lượng dụng cụ chiến tranh trên dưới 7 tỉ mỹ kim!

    Tất cả các hệ thống liên lạc truyền tin bằng vô tuyến lẫn hữu tuyến của quân đội, cũng như hệ thống liên lạc bên hành chánh, đều không liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở Plei Ku cả. Đại Tá Bửu Khương (ở Qui nhơn) cũng không có tin tức ǵ khá hơn trong khi đoàn quân xa hơn 100 chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải vẫn c̣n kẹt trên Plei Ku v́ quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn - Plei Ku bị quân cộng sản chiếm giữ nhiều chặng. Một t́nh h́nh không thể hiểu nỗi ít nhất là đối với ngành Tiếp Vận chúng tôi. Không biết tại sao lúc ấy chúng tôi không nghĩ đến giả thuyết nào khác, chẳng hạn như Quân Đoàn II vờ rút quân ra ngoài để thành phố bỏ ngỏ cho quân cộng sản tiến vào, và bất th́nh ĺnh quật lại tấn công chúng ngay trong thành phố. C̣n về giả thuyết rút bỏ Cao Nguyên th́ nhất thiết không thể có trong tư tưởng của bất cứ sĩ quan nào chớ chẳng riêng ǵ chúng tôi. Cho dù một giả thuyết như vậy thôi cũng không có trong hàng sĩ quan cấp dưới, nhưng nó lại là một kế hoạch thật sự của hàng sĩ quan cấp Tướng lănh đạo đất nước 20.000.000 dân, trong đó có một quân đội hơn 1.000.000 người!

    Cả hai chúng tôi -Đại Tá Loan và tôi- không thông báo t́nh h́nh tệ hại đó cho bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi hết sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói chung và số phận của anh em trong ngành Tiếp Vận ở Plei Ku và Kon Tum nói riêng, v́ chúng tôi không có bất cứ một thông tin nào về t́nh h́nh đó, kể cả nguồn cung cấp chính xác nhất là vị Tướng Trưởng Pḥng 3 ngang hàng với cơ quan chúng tôi, và vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp trên của chúng tôi cũng vậy.

    Chiều 18/3/1975, điện thoại reo:

    - Đại Tá Hoa tôi nghe -

    - Khương đây anh Hoa- Đó là Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, đồn trú tại Qui Nhơn.

    - Anh có tin ǵ về anh em ḿnh trên Plei Ku chưa? -

    - Liên Đoàn 2 Vận Tải mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị kẹt trên Plei Ku rồi anh. Đoàn xe này đang cùng với hằng ngàn quân xa và dân xa rút bỏ Plei Ku và Kon Tum, đang di chuyển trên đường liên tỉnh số 7 để xuống Tuy Ḥa. Toàn bộ lực lượng gồm nhiều đơn vị chiến đấu, cùng với Pháo Binh, Thiết Giáp, bị sa lầy sau khi vượt qua Cheo Reo. Phần th́ đường hư cầu sập làm nhiều chiến xa M.48 và đại bác 175 cơ động lật xuống hố, phần th́ các đơn vị cộng sản tấn công nhiều mặt, đă gây tổn thất nặng cho cả quân đội lẫn dân sự nhưng chưa thấy phản ứng của Quân Đoàn. Anh em mất tinh thần lắm anh ơi! -

    - Được rồi. Bảo vệ đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy Hoà, chắc chắn là trách nhiệm của Quân Đoàn. Bây giờ anh nên chuẩn bị tổ chức nhiều toán do một sî quan của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận chỉ huy và đặt tại Tuy Hoà, mỗi toán phụ trách một công tác, để khi đoàn quân xuống đến Tuy Ḥa th́ cấp phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà không cần theo thủ tục tiếp liệu thông thường, chỉ cần viết tay và kư nhận là đủ. Hàng mang theo cấp phát là: Lương khô đủ ăn 3 ngày, 1 bộ quần áo trận, đổ đầy xăng dầu cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y th́ cấp thuốc cho các bệnh thông thường và cấp cứu đầu tiên. Anh thấy được không? -

    - Được anh. Để tôi lo -

    - Anh nói Liên Đoàn 2 Vận Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ tin tức ǵ về đoàn quân này th́ anh cho tôi biết ngay nghe anh Khương-

    Sở dĩ có đoàn xe hằng trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là v́ sau khi Phước Long mất, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực hiện kế hoạch chuyển tiếp liệu loại 1 (lương thực thực phẩm), loại 3 (nhiên liệu), loại 5 (đạn dược chất nổ), lên Plei Ku dự trữ cho 20.000 quân pḥng thủ trong 30 ngày mới bổ sung. Do vậy mà hằng ngày đoàn xe cả trăm chiếc đi đi về về giữa Qui Nhơn với Plei Ku để vận chuyển tiếp liệu từ Qui Nhơn lên Plei Ku.

    Tôi sang văn pḥng Đại Tá Loan, và sau đó tôi điện thoại lên Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng:

    - Tôi Hoa đây anh Nguyện (Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn pḥng), anh cho tôi tŕnh vấn đề gấp với Đại Tướng -

    - Anh chờ tôi một chút -

    - Tôi đây. Anh có chuyện ǵ vậy? -

    - Thưa Đại Tướng, tôi Hoa đây -

    - Có việc ǵ vậy? -

    - Vài phút cách đây, Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, cho tôi biết về đoàn quân rút bỏ Plei Ku và Kon Tum đang bị sa lầy ... (tôi thuật lại chi tiết mà tôi và Đại Tá Khương đă nói với nhau).

    - Anh có chắc là đúng như vậy không? -

    - Từ chỗ đoàn xe bị kẹt đến Đại Tá Khương như thế nào th́ tôi không dám chắc, nhưng từ Đại Tá Khương đến tôi là hoàn toàn chính xác, thưa Đại Tướng -

    - Thôi được. Anh đừng nói với ai nữa nghe -

    - Vâng -

    Đại Tá Loan và tôi đều ngẩn ngơ về câu sau cùng của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Chúng tôi ngẩn ngơ v́ không hiểu tại sao t́nh h́nh đến như vậy mà vẫn muốn giấu kín chúng tôi nữa! Vài phút sau đó, Chuẩn Tướng Trần Đ́nh Thọ điện thoại tôi:

    - Cưng ơi (Chuẩn Tướng Thọ thường gọi tôi như vậy), cưng có liên lạc với đoàn xe trên đường số 7 hả? -

    - Tôi không trực tiếp liên lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng tôi đă liên lạc được với đoàn xe chở tiếp liệu lên Plei Ku và bị kẹt trên đó, nay th́ cùng trong đoàn quân sa lầy mà vừa rồi tôi đă tŕnh Đại Tướng -

    - Có. Đại Tướng mới gọi anh đây. Cưng cứ biết vậy thôi nghe -

    Tôi có biết chút ít về đường liên tỉnh số 7 này, từ đoạn Plei Ku vào đến Cheo Reo và xuống đến Cung Sơn. V́ cuối năm 1955 -lúc bấy giờ tôi đang là Thiếu Úy, Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn Khinh Quân 510- toàn bộ Tiểu Đoàn chúng tôi cùng với Tiểu Đoàn Khinh Quân 507 và 527, di chuyển từ Vỉnh Long lên Cao Nguyên và đồn trú tại Cheo Reo, để thành lập Trung Đoàn 35 Bộ Binh trong hệ thống tổ chức Sư Đoàn Khinh Chiến 12. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đồn trú tại Plei Ku. Các Tiểu Đoàn được cấp phiên hiệu như sau: Tiểu Đoàn 507 thành Tiểu Đoàn 1/35, Tiểu Đoàn 510 chúng tôi thành Tiểu Đoàn 2/35, và Tiểu Đoàn 527 thành Tiểu Đoàn 3/35.

    V́ các đơn vị yểm trợ tiếp liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở Plei Ku, nên chúng tôi thường xuyên đi lại giữa Cheo Reo với Plei Ku bằng đường liên tỉnh số 7 và một đoạn quốc lộ 14. Sở dĩ đoạn đường từ ngă ba quốc lộ 14 với liên tỉnh lộ 7 -tên địa phương là Mỹ Thạch- vào đến Cheo Reo c̣n sử dụng được, là v́ trong chiến tranh giữa thực dân Pháp với cộng sản 1945-1954 (lúc đó cộng sản núp dưới tên Việt Minh), Cheo Reo là cứ điểm quân sự của Pháp, nên đường này được tu bổ v́ nó là "con đường huyết mạch" của cứ điểm. C̣n đoạn từ Cheo Reo xuống Cung Sơn và Tuy Hoà, quân đội Pháp không sử dụng nên không tu bổ ǵ cả. Khi Trung Đoàn chúng tôi đến Cheo Reo, th́ xác những chiếc thiết giáp của Pháp c̣n ngổn ngang tại đó, c̣n chiếc cầu bắc ngang Sông Ba th́ tồi tệ hơn bất cứ chiếc cầu tồi tệ nào. Thuở ấy "rất là hoà b́nh", nên chúng tôi thường đi săn trên đường từ Cheo Reo xuống đến Cung Sơn, chỉ cần thận trọng một chút th́ xe jeep vẫn ḅ qua chiếc cầu tồi tệ ấy được. Trên đoạn đường này, chiếc xe jeep của chúng tôi chỉ gọi là "ḅ" chớ không thể gọi là chạy được v́ mặt đường giữa vùng rừng già heo hút này hầu như không c̣n ǵ để gọi là con đường nữa.

    Giữa năm 1969, lúc ấy tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn Văn Là, đến thăm các đơn vị tại Cheo Reo và các quận lân cận, con đường bên kia Sông Ba được tu bổ đôi chút. Và nếu đoạn đường tiếp nối xuống Cung Sơn để ra Tuy Hoà (tỉnh Phú Yên) không được tu bổ thường xuyên, mà Quân Đoàn II quyết định sử dụng cho đoàn quân hơn 10.000 người cùng với trên dưới 2.000 quân xa, dân xa, và chiến xa hạng nặng triệt thoái, quả là tạo được bất ngờ đối với địch, nhưng phải nói là quá liều lĩnh! Bất ngờ, nhưng con đường có sử dụng được hay không, lại là vấn đề trước mặt của Quân Đoàn II nói chung, và của bộ chỉ huy hành quân cuộc hành quân lui binh này nói riêng.

    Chiều tối hôm sau th́ Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật Bản) về đến. Sau khi nghe chúng tôi tŕnh bày về t́nh h́nh từ ngày ông vắng mặt đến nay, ông nói sáng mai sẽ tŕnh diện Tổng Thống với Đại Tướng (Tổng Tham Mưu Trưởng), chắc là sẽ có tin tức rơ ràng hơn.

    Và đây là những tin tức đó:

    "Sau khi mất Ban Mê Thuột, áp lực của quân cộng sản rất mạnh. Tổng Thống nhận định là không đủ khả năng bảo vệ toàn bộ Cao Nguyên trong khi Ban Mê Thuột cần giữ hơn là Plei ku với Kon Tum, v́ vậy mà Tổng Thống trong buổi họp tại Cam Ranh, đă quyết định rút bỏ Plei Ku, Kon Tum, Phú Bổn, để đem lực lượng về phản công lấy lại Ban Mê Thuột. Tổng Thống giao cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, nhiệm vụ thực hiện cuộc hành quân triệt thoái khỏi 3 tỉnh đó, nhưng phải giữ bí mật tối đa và bảo vệ toàn vẹn lực lượng (có lẽ v́ bảo mật tối đa mà Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi không được cho biết ǵ cả). Thiếu Tướng Phú tŕnh kế hoạch là rút theo đường liên tỉnh số 7, dù rằng con đường này không sử dụng từ lâu nhưng đạt được yếu tố bất ngờ đối với lực lượng cộng sản. Thiếu Tướng Phú đề nghị Tổng Thống thăng cấp Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất, và Chuẩn Tướng Tất sẽ là Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân lui binh này. Lời đề nghị được Tổng Thống chấp thuận tại chổ".

    Lúc bấy giờ, Đại Tá Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/Quân Đoàn II.

    Hết giờ buổi chiều khá lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận chỉ c̣n nhân viên trực hoạt động. Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn pḥng (ông ngồi ở văn pḥng Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, trên ṭa nhà chánh), và ông đưa tôi xem một xấp không ảnh (ảnh chụp từ trên phi cơ) đă được giải đoán đầy đủ. Toàn bộ xấp không ảnh cho thấy đoàn xe không phải theo một h́nh dài mà là một h́nh gần như tṛn, v́ khi phần đi đầu bị kẹt th́ những chiếc sau cứ lấn qua bên trái hay bên phải với hy vọng t́m được lối đi, nhưng càng lấn vào rừng th́ càng không lối thoát, và cứ như thế mà cả đoàn xe quá nhiều đó đă tạo nên dáng như vậy. Ghi chú bên cạnh những khoanh tṛn bằng ng̣i bút của chuyên viên giải đoán không ảnh, có gần 800 xe đă bị thiêu hủy. Nếu như giải đoán viên không ảnh chính xác hay ít ra cũng gần như vậy, th́ chỉ mới 4 ngày dấn thân vào đường liên tỉnh số 7 mà số xe bị tổn thất trên dưới 1/3 trong tổng số xe các loại, quả là rất nặng. Trong số tổn thất đó có Tiểu Đoàn Pháo Binh 175 ly cơ động và Trung Đoàn Chiến Xa hạng nặng M48". Đây là hai loại vũ khí mới được Hoa Kỳ viện trợ năm 1973 bằng cách các đơn vị pháo binh và xe tăng của họ chỉ rút người về nước và để toàn bộ chiến cụ đó lại cho quân đội chúng ta.

    Những bài học chiến thuật trong trường Vơ Bị cũng như trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của Pháp và là tiền thân của trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân th́ hành quân rút lui (hay triệt thoái, hay lui binh) là nhiều hiểm nguy hơn các cuộc hành quân khác, v́ đơn vị "đưa lưng" về phía địch. Khi tấn công th́ trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, c̣n trong rút lui th́ trước mặt lại là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiền tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học "lui binh" là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), c̣n lực lượng lui binh th́ tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được Không Quân quan sát và yểm trợ hỏa lực nữa.

    Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Ḥa lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn v́ bị quân Việt cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà th́ tổn thất đến nỗi không c̣n khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết v́ súng đạn, chết v́ xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa băi, chết v́ tranh nhau miếng ăn nước uống, chết v́ cướp giật, ..v..v..

    Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Ḥa lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn v́ bị quân Việt cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà th́ tổn thất đến nỗi không c̣n khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết v́ súng đạn, chết v́ xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa băi, chết v́ tranh nhau miếng ăn nước uống, chết v́ cướp giật, ..v..v..

    Rút bỏ 3 tỉnh Cao Nguyên là Plei Ku, Kon Tum, và Phú Bổn, những tưởng bảo toàn được lực lượng gồm một phần của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh, Truyền Tin, và các ngành khác, để phản công chiếm lại thủ phủ Ban Mê Thuột, nhưng rồi toàn bộ Cao Nguyên miền Trung bỗng dưng rơi vào tay quân cộng sản một cách nhẹ nhàng. Tôi nói "bỗng dưng", v́ rút bỏ Plei Ku từ đêm thứ bảy 16 rạng ngày chủ nhật 17/3, mà đến 3 giờ 15 phút chiều thứ tư 20/3/75 tín hiệu của Truyền Tin tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II mới ngưng hoạt động. Đại Tá Cục Trưởng Cục Truyền Tin nói với tôi như vậy. Điều này có thể là lúc đó quân cộng sản mới tiến đến và phá hủy máy móc hoặc tắt máy, cũng có thể là quân cộng sản chưa chiếm nhưng v́ máy phát điện hết nhiên liệu nên cả hệ thống đều ngưng hoạt động. Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa, th́ rơ ràng là quân cộng sản mà ḿnh tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vây Plei Ku, nhưng thật ra chúng c̣n ở tận đâu đâu nên măi 4 ngày sau -đó là thời gian sớm nhất- chúng mới vào chiếm Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, trong khi những Sư Đoàn của chúng ở càng xa Plei Ku về hướng Nam và Đông Nam th́ khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoái hơn, do dó mà thiệt hại của đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20 năm chiến tranh! Một thất bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng, nhất là những người cầm súng dưới quyền chỉ huy của vị Tư Lệnh đă từng xông pha trận mạc. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, khi c̣n là sĩ quan cấp Úy cấp Tá trong hàng ngũ quân đội Liên Hiệp Pháp lẫn trong quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, đă có tiếng là cấp chỉ huy can đăm, không lùi bước bất kể chiến trận gay go nghiêng ngă như thế nào. Nay, với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, liệu có phải là hơi quá tầm lănh đạo chỉ huy của ông không? Hay là quyền lực hoặc khả năng của ông bị điều ǵ đó giới hạn? Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đă tự tử ngay sau ngày 30/4/1975. Tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm (Sài G̣n) vào ngày 2/5/1975 và chào tiễn biệt ông vào cơi vĩnh hằng giữa hoàn cảnh đau thương của đất nước, dân tộc!

    Năm 1960, trong thời gian tôi học tại Trường Đại Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự của Quân Đội Viễn Chinh Pháp), tôi đọc được một tập tài liệu, có nhận định rằng: "Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm giữ được Cao Nguyên miền Trung th́ người dó sẽ nắm phần chiến thắng". Chắc chắn rằng, những vị Tướng của chúng ta đang nắm quyền lănh đạo quốc gia và lănh đạo quân đội đều biết tài liệu đó, nhưng có thể các vị bị chính trị đẩy Cao Nguyên ra khỏi tầm tay chăng?

    Ngược ḍng thời gian, thượng tuần tháng 5/1954, Điện Biên Phủ do 13.000 quân của Pháp trấn giữ, đă thất thủ làm rúng động toàn bộ quân viển chinh Pháp tại Đông Dương và rúng động cả nước Pháp. Và hiển nhiên là sự thất trận này đă đưa nước Pháp đến t́nh trạng mất toàn bộ Đông Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Hơn 20 năm sau -tháng 3/1975- toàn bộ Cao Nguyên miền Trung vào tay quân cộng sản, làm rúng động toàn quân và toàn dân Việt Nam Cộng Ḥa. Và liệu sự thất bại này có phải là nguyên nhân dẫn đến toàn bộ Việt Nam Cộng Ḥa vào tay quân cộng sản từ ngày cuối tháng 4/1975 không? Dù ǵ đi nữa th́ sự thể đă là như vậy rồi!

    T́nh trạng hỗn loạn bi đát trong cuộc hành quân lui binh trên đường liên tỉnh số 7, nếu chưa phải là nguyên nhân chính, cũng là khởi đầu cho sự hỗn loạn trong các cuộc hành quân lui binh của các Sư đoàn 1, 2, 3, 22, 23 Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Hải Quân, Không Quân, dọc các tỉnh duyên hải từ Quảng Trị, Huế, Đà Nẳng, đến Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên, Khánh Ḥa, Cam Ranh.

    Trước ngày cuối tháng 3/1975, th́ từ Quảng Trị đến Cam Ranh đều bỏ ngỏ. Tôi nói "bỏ ngỏ" v́ không có Tiểu Khu nào hay Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn nào, pḥng thủ chống lại quân cộng sản, hoặc nếu có chống trả như Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại sườn Tây Đà Nẳng cũng chỉ trong thời gian ngắn ngủi là rút lui, c̣n lại là rút đi trước khi quân cộng sản đến!

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân Đoàn II Quân Khu II
    Những Giờ Phút Sau Cùng Của Quân Đoàn II
    Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7 Ngày 17 Tháng 3 Năm 1975 và những hệ lụy sau đó

    Phạm Bá Hoa
    P2




    Trong số những vị Tướng Tư Lệnh đại đơn vị thuộc Quân Đoàn I và Quân Đoàn II rút khỏi khu trách nhiệm của những vị đó, tôi luôn tự hỏi về thái độ của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân khu I. Tôi được tiếp xúc với ông qua những công tác "chống đảo chánh" từ năm 1965 khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhẩy Dù. Chính v́ hiểu ông mà tôi tự hỏi như vậy. Bởi trong cuộc tấn công của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Huế và nhất là trong khuôn viên thành nội, nơi có bản doanh cùng một số đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh đồn trú, đă bị chúng chiếm giữ trong 3 tuần lễ. Lúc bấy giờ, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng (cấp bậc lúc ấy) là Tư Lệnh Sư Đoàn này. Cuộc phản công chiếm lại từng khu vực trong thành nội Huế rất cam go với tổn thất đáng kể, Chuẩn Tướng Trưởng đă chứng tỏ quyết tâm tiêu diệt quân cộng sản hay ít nhất cũng phải đánh bật chúng ra khỏi Huế trong thời gian ngắn nhất, khi ông đứng nghiêm chỉnh ở chân cột cờ với lễ phục và huy chương biểu tượng cho các chiến công của ông, Chuẩn Tướng Trưởng đă kêu gọi quyết tâm của quân sĩ dưới quyền ông hăy v́ danh dự và trách nhiệm đối với tổ quốc dân tộc. Qua lời kêu gọi đầy trách nhiệm cùng với nhiệt tâm của ông, chính là quyết tâm của vị Tư Lệnh cùng quân sĩ chiến đấu, đă thúc đẩy cuộc phản công của Sư Đoàn đến chiến thắng vẻ vang. Đành rằng trong cuộc hành quân phản công này, có sự chiến đấu yểm trợ của quân lực Hoa Kỳ, nhưng Sư Đoàn 1 Bộ Binh Việt Nam vẫn là lực lượng chính.

    ‘Mùa Hè Đỏ Lửa’ năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đă thăng cấp) đang là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Quân khu IV vùng đồng bằng Cửu Long, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và tức tốc lên phi cơ ra Đà Nẳng nhận chức. Một vị Tướng như thế, tôi nghĩ, ông không thể để Đà Nẳng vào tay quân cộng sản gần như êm thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng gốc là binh chủng Nhẩy Dù, và binh chủng này là một trong những binh chủng rất ĺ với chiến trận. Nhưng sự thể đă diễn ra như vậy, ắt phải có điều ǵ đằng sau quyết định rút bỏ thành phố cảng quan trọng của miền Trung. Và chỉ có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng mới có thể hiểu đến tận cùng điều ấy mà thôi.

    Ngày 14/1/1995, tôi gặp anh Nguyễn Thành Trí trong chợ Hong Kong ở Houston, bạn tôi. Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và Sư Đoàn này đặt dưới quyền sử dụng dài hạn của Quân Đoàn I từ sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Dưới đây là lời thuật của cựu Đại Tá Trí về những ngày cuối tháng 3/1975, trong lúc anh và bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở khu vực Non Nước, Đà Nẳng:

    ‘’Khoảng 5 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn công vào Sư Đoàn 3 Bộ Binh ở sườn Tây Đà Nẳng, và chỉ vài giờ chống trả là Sư Đoàn rút lui, tạo khoảng trống bên sườn của Thủy Quân Lục Chiến, và các đơn vị co về bản doanh Sư Đoàn (Thủy Quân Lục Chiến). Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, đă rời khỏi Sư Đoàn và lên chiến hạm của Hải Quân (Việt Nam) từ lúc chiều. Nhưng trước khi đi ông có đến gặp Trung Tuóng Ngô Quang Trưởng xin quyết định v́ t́nh h́nh rất nghiêm trọng, nhưng Trung Tướng Trưởng không nói ǵ cả. Lúc này bên cạnh Thiếu Tướng Bùi Thế Lân có ông Tổng Lănh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng, ông ta có mang theo máy vô tuyến cầm tay loại nhỏ và chốc chốc ông ta nói vị trí của ông với ai ở đâu đó tôi (tức cựu Đại Tá Trí) không rơ. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân nói với tôi rằng: Ông Tổng Lănh Sự khuyên ổng (tức Thiếu Tướng Lân) nên bảo toàn lực lượng, nhưng Thiếu Tướng Lân không nói điều này với Trung Tướng Trưởng.

    ‘’Khoảng nửa đêm 28 rạng 29/3/1975, có tiếng động cơ trực thăng xuống băi đáp bên cạnh, sĩ quan trực chạy ra đón và hướng dẫn phái đoàn vào bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, gồm các vị: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Khánh (tôi không biết họ) Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân (đồn trú tại Đà Nẳng), Đại Tá Phước (cũng không biết họ) Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51/Sư Đoàn 1 Không Quân, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh/Thị Trưởng Thừa Thiên/Huế, và Đại Úy sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Trưởng. Vào bộ chỉ huy, sau khi Trung Tướng Trưởng liên lạc với các đơn vị và được biết đă rút lui an toàn (tức bỏ Đà Nẳng), Trung Tướng Trưởng nói với các sĩ quan cùng đi theo ông:

    - Bây giờ th́ các anh hăy tự thoát, c̣n tôi, tôi đi theo Thủy Quân Lục Chiến -

    ‘’Trung Tướng Trưởng vừa nói xong th́ gần như cùng một lúc, Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, Đại Tá Duệ, cùng chào Trung Tướng Trưởng và lên trực thăng cất cánh ngay. Khoảng 6 giờ sáng ngày 29/3/1975, sĩ quan vào tŕnh tôi là chiến hạm đang tiến vào để đón các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Tôi đến tŕnh Trung Tướng Trưởng:

    - Thưa Trung Tướng, tôi không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm đang chờ đón tôi và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Vậy Trung Tướng nên đi với chúng tôi ngay bây giờ, thưa Trung Tướng-

    ‘’Sau một lúc chần chừ như có ư không muốn rời Đà Nẳng, ông đứng dậy cùng đi với tôi. Nhưng v́ chiến hạm không vào sát bờ được, cũng không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến hạm, nên tất cả đều lội nước, và khi mực nước lên đến ngực cũng là lúc trèo lên tàu. Sau khi mọi người lên chiến hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá Hường (Nguyễn Xuân Hường), Tư Lệnh Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đă có mặt trên tàu. Chiến hạm lui ra khơi nhưng chưa chạy, có vẻ như chờ lệnh hay chờ ai đó.

    ‘’Vài tiếng đồng hồ sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan rời khỏi bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đêm qua, đă quay trở lại, không rơ là do thời tiết xấu hay v́ lư do ǵ đó, và cả ba vị là Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, với Đại Tá Duệ, cùng lội nước ra chiến hạm. Vẫn là chiến hạm đang có Trung Tướng Trưởng trên đó. Tôi thấy sự chia tay đêm qua sao mà thản nhiên quá, thản nhiên đến mức không có vẻ ǵ có chút t́nh cảm đọng lại trong giây phút chia tay đó làm tôi cảm thấy khó chịu. (lời của Phạm Bá Hoa: thuật chuyện đến đây đôi mắt anh Trí đỏ hoe, chực phát khóc! Rơ ràng là anh đang xúc động!)

    Sau phút im lặng v́ xúc động, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí thuật tiếp:

    ‘’Tôi nhờ ông Hạm Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía trước hầu tránh cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trông thấy e không đẹp ḷng nhau. Măi đến quá trưa, chiến hạm mới rời vùng biển Đà Nẳng và trực chỉ Cam Ranh. Giữa chiến hạm với Bộ Tư Lệnh Hải Quân giữ liên lạc vô tuyến chặt chẻ, nên khi chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh th́ nhận được công điện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Theo đó th́ Tổng Thống ra lệnh cho tất cả lên bờ, chỉ riêng Trung Tướng Trưởng vẫn ở trên chiến hạm và về Sài G̣n ngay. Tôi thắc mắc nếu muốn Trung Tướng Trưởng về Sài G̣n ngay th́ tại sao Tổng Thống hay Bộ Tổng Tham Mưu không cho phi cơ ra Cam Ranh đón mà lại bảo đi bằng tàu? Lúc đó Trung Tướng Trưởng nói là ông đi theo Thủy Quân Lục Chiến chớ không về Sài G̣n. Đến khi Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II một đại đơn vị hầu như đă tan ră sau cuộc hành quân lui binh thảm bại, ông từ Nha Trang vào Cam Ranh khuyên Trung Tướng Trưởng nên về Sài G̣n theo lệnh Tổng Thống. Và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I đă theo chiến hạm về Sài G̣n’’.

    Đến đây là hết lời thuật của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

    Với lời thuật trên đây của cựu Đại Tá Trí, tôi nghĩ rằng: rất có thể là các vị Tư Lệnh tại Quân Đoàn I từ binh chủng Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng Hải Quân, Không Quân, và cũng có thể ngay cả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I, đă nhận được lời khuyên ‘bảo toàn lực lượng’ như Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đă nhận của ông Tổng Lănh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cũng nên? Không chừng chiến hạm vào gần bờ để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng từ ‘lời khuyên’ của ông Tổng Lănh Sự nữa chăng! V́ rơ ràng là cựu Đại Tá Trí không hề biết lệnh xuất phát từ đâu mà. Và phải chăng với ‘lời khuyên’ đó đă dẫn đến các vị có quân có quyền trong tay lần lượt rời khỏi đơn vị hoặc chỉ huy đơn vị triệt thoái? Điều này tôi không rơ, nhưng có điều quí vị đều rơ là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Đà Nẳng vào tay quân cộng sản quá dễ như khi vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Plei Ku vậy!

    Tối ngày 6/9/2003, khi vợ chồng tôi dự tiệc cưới tại Washington DC, chúng tôi ngồi chung bàn với cựu Trung Tướng Ngô Quan Trưởng, và cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi có ư định hỏi Trung Tướng Trưởng về điều thắc mắc của tôi, nhưng v́ cựu Phó Đề Đốc Thoại lại đưa vấn đề cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 hỏi tôi nên tôi măi nóí chuyện với ông, để rồi cuối cùng không c̣n th́ giờ xin lời tâm sự từ cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.

    Bây giờ xin mời quí vị quay nh́n vào số lượng đồng bào chạy loạn được các loại tàu chở từ Huế và Đà Nẳng xuôi Nam và đưa ra đảo Phú Quốc tạm trú. Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang mà tỉnh lỵ là Rạch Giá, nằm ngay cửa ngỏ vào vịnh Thái Lan. Số đồng bào chạy loạn này do Bộ Xă Hội phụ trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải quyết chung. Bộ Xă Hội yêu cầu Tổng Cục Tiếp Vận giúp họ tiếp tế mỗi ngày 20.000 phần cơm và phi cơ đưa ra Phú Quốc cung cấp cho đồng bào. Trung Tướng Đồng Văn Khuyên bảo tôi lo giúp Bộ Xă Hội. Tôi điện thoại lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm này:

    - Hoa đây Anh. Có việc này xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay được- Xin lỗi quí vị, tôi xưng hô như vậy với Thiếu Tướng Trần Bá Di, v́ chúng tôi thân nhau từ lâu.

    - Việc ǵ mà coi bộ quan trọng vậy anh?

    - Tại Phú Quốc hiện có khoảng 20.000 đồng bào của các tỉnh miền Trung chạy vào tạm trú, bên Bộ Xă Hội nhờ quân đội nấu cơm, vắt lại từng vắt, và dùng phi cơ quân sự đưa ra Phú Quốc cho đồng bào. Chuyện này là chuyện hằng ngày nghe Anh. Gạo th́ Bộ Xă Hội cung cấp. Anh liệu Trung Tâm có thể giúp được không?

    - Được chớ. Chuyện chung mà. Nhưng chừng nào th́ tụi tôi nấu?

    - Ngay hôm nay. để mai là chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đội nhận giúp. Vậy Anh cho mượn gạo hôm nay nghe, và mai chúng tôi chở gạo đến Anh đủ một tuần, sau đó tính tiếp.

    - Được. Tôi cho nấu ngay. Khi xong, tôi cho anh hay.

    - Xin cám ơn Anh -

    - Cái ǵ mà anh cám ơn. Mỗi người mỗi đơn vị phải góp phần trách nhiệm của ḿnh chớ anh -

    Thế là từ hôm ấy, cơm vắt được đưa ra Phú Quốc bằng phi cơ phi cơ tiếp tế cho đồng bào tạm trú tại đó. Nhưng rồi t́nh h́nh ngày càng xấu thêm ./.

    * * * * *

    Houston, cuối Đông 2003-2004

    Bài viết này trích từ quyển Đôi Ḍng Ghi Nhớ ấn hành năm 1994, 1995, 1998, và tôi đang chuẩn bị để nhà xuất bản ấn hành lần 4 vào mùa hè 2004 này, sau khi bổ túc do những điều mà cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết thêm.

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân Đoàn II Quân Khu II
    Những Giờ Phút Sau Cùng Của Quân Đoàn II
    Nh́n Lại Trận Đánh Ban Mê Thuột 1975

    Đại Tá Nguyễn Trọng Luật


    Lời Ṭa Soạn: Sau những bài liên quan đến trận đánh Ban Mê Thuột, có nhiều thư từ gởi đến nói lên những nhận xét, góp ư kiến hay những bài tŕnh bày thêm những chi tiết góp phần làm sáng tỏ những bí ẩn của trận đánh này, trong đó có bài dưới đây của Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac khi trận đánh Ban Mê Thuộc xảy ra.

    Như Đại tá Luật nói ngay từ đầu, ông chỉ là một Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng của tỉnh Darlac, quyền hạn của ông rất giới hạn. Tư lệnh chiến trường lúc đó là Đại tá Vũ Văn Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh, ông chỉ là người thừa hành. V́ thế, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông không biết rơ những tin tức t́nh báo mà Quân đoàn 2 đă thu lượm được cũng như những quyết định của Quân đoàn 2 liên quan đến trận Ban Mê Thuột. Nhưng đối với diễn biến của trận đánh, từ khi mở màng cho tới khi kết thúc, ông nắm rất vững, v́ ông là người trong cuộc. Đây là một tài liệu quư báu có thể giúp cho các nhà sử học và các nhà phân tích, phê b́nh hiểu rơ hơn về trận đánh có tính cách quyết định này.

    * * * * *
    Chủ Nhật 9/3/75

    - Tŕnh Đại tá, Thiếu tướng Tư lệnh Quân doàn 2 sẽ đến Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 vào lúc 10 giờ hôm nay để duyệt t́nh h́nh. Trung úy Dzi, sĩ quan tùy viên, sau khi đứng nghiêm chào tôi và nói với tôi như vậy, khi tôi c̣n ngồi tại tư dinh để xem công văn công điện cùng kư những giấy tờ cần thiết cho một ngày làm việc. Không phân biệt ngày cuối tuần, ngày nào cũng là ngày thứ Hai, mà người Mỹ thường nói trên cửa miệng. Với trọng trách Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac, ngày lại ngày tôi rất bận, về hành quân, đi thanh tra, đôn đốc, kiểm soát các chi khu, phân chi khụ Đó là chưa kể dành th́ giờ tiếp đón các phái đoàn từ Saigon ra hay từ Quân đoàn xuống. Nên chỉ c̣n ban đêm và những giờ sáng sớm để xe công văn giấy tờ. Tôi hỏi lại:

    - Xe sẵn sàng chưa?
    - Dạ, thưa sẵn sàng.
    - OK, thôi chúng ta đi.

    Khi tới phi trường Phụng Dực, ḷng tôi như lửa đốt. Phần v́ đêm qua mất ngủ, phần lo số phận của hàng trăm sinh linh đang chiến đấu tại Đức Lập mà VC đă tấn công tối quạ Hiện mất liên lạc không biết c̣n hay mất. Tâm hồn tôi như đang gắn liền với các chi khu, các binh lính dưới quyền ḿnh. Làm sao cho họ an toàn giữa cuộc chiến càng ngày càng tàn khốc này. Hàng đêm vừa chợp mắt là thấy những lo lắng không đâu chợt đến với giấc ngủ muộn màng... Dù quận Đức Lập không phải là vùng trách nhiệm của ḿnh nhưng tiên liệu cho kế hoạch pḥng thủ Darlac vẫn là trọng tâm của tôi trong lúc này. Tôi có một cái nh́n rơ ràng, mất Thuần Mẫn, mất Đức Lập th́ việc tiến chiếm Ban Mê Thuột chỉ c̣n là vấn đề thời gian. Nhưng tiếng nói của tôi có ai nghe trong khi tôi chỉ là một Tiểu khu trưởng trong tay có mấy tiểu đoàn Địa phương quân, mấy Trung đôi Nghĩa quân, Cảnh sát, Nhân dân tự vệ. Tư lệnh chiến trường lại do Đại tá Quang đảm trách, tôi chỉ là cấp thừa hành. Tôi sinh ra trong binh chủng Thiết giáp; nếu tấn công th́ rất thích hợp cho binh chủng này, c̣n pḥng thủ th́ thiết giáp chỉ là bia đỡ đạn cho những tṛ chới của súng chống chiến xạ Tôi càng suy nghĩ bao nhiêu, lại càng nh́n thấy sự bất lực của ḿnh. Con ngựa sắt của tôi đâu, hay bây giờ chỉ c̣n những tay súng tài tử đối chọi với những kẻ gian hùng đang điên khùng xông vào lửa đỏ chẳng khác ǵ những con thiêu thân? Chợt phía Tây, h+ớng về phía Đông, một chiếc Dakota 47 lù lù đang tiến tới và đáp xuống phi trường.

    Máy bay mở cửa, tôi dứng nghiêm chào Tướng Phạm Văn Phú và phái đoàn. Tướng Phú tiến đến bắt tay tôi và ngồi lên xe của Ṭa Hành chánh đi về Ban Mê Thuột. Ngồi cạnh Tướng Phú, tôi thấy ông có vẻ đăm chiêụ Ông không hỏi tôi điều chi, cũng như tôi vẫn giữ im lặng, trông chờ một hy vọng. H́nh như, Tướng Phú đang lo nghĩ về quận Đức Lập, đến bay giờ c̣n hay mất?

    Đoàn xe trực chỉ Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Tướng Lê Trung Tường, Đại tá Vũ Thế Quang đă chờ sẵn để hướng dẫn phái đoàn vào Trung tâm Hành quân Sư đoàn. Tại đây, đă có sự hiện diện của Đại tá Ngh́n, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Quảng Đức để thuyết tŕnh về t́nh h́nh quận Đức Lập lên Tướng Phú và phái đoàn. Nh́n trên bản đồ hành quân, sau mấy câu mở đầu chiếu lệ, Đại tá Ngh́n ngậm ngùi:

    - Cộng quân đă pháo kích và tấn công vào quận Đức Lập vào lúc 5 giờ sáng, rất nặng và thiệt hại đáng kể. Bộ chỉ huy Chi khu đă trúng nhiều đạn pháo binh 130 ly, nên Chi khu trưởng đă đưa Bộ chỉ huy Chi khu rời khỏi quận và hiện giờ vẫn c̣n đang chiến đấu...

    (Sau này, tôi được gặp lại Trung tá Nguyễn Cao Vực, Quận trưởng Đức Lập tại trại tù Vĩnh Phú, Tân Lập. Trung tá Vực đă kể cho tôi biết trận đánh vào Chi khu như sau: Khi tấn công vào Chi khu, VC đă dùng pháo binh 130 ly và SKZ 82 ly — súng không giựt 82 ly — bắn vào Chi khu và Chi đoàn Chiến xạ Với đạn SKZ 82 ly bắn tru+.c xạ, địch đă làm tê liệt các chiến xa của ta, nên không c̣n được xử dụng ngay từ phút đầu. Chi khu cầm cự cho đến sáng, khi mặt trời bắt đầu lên th́ thất thủ).

    Sau đó Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 BB, kiêm Tư lệnh Mạt trận Ban Mê Thuột, lên tŕnh bày kế hoạch pḥng thủ của Trung đoàn 53 BB do Trung tá Vơ Văn Ân làm Trung đoàn trưởng. Nói là Trung đoàn, nhưng cấp số chỉ c̣n Bộ chỉ huy Trung đoàn và một Tiểu đoàn mà thôi, cộng thêm một Trung đội Pháo binh 105 ly để làm lực lượng tiếp ứng cho Darlac và Quảng Đức khi bị tấn công.

    Đại tá Quang tŕnh bày kế tiếp về kế hoạch pḥng thủ của thị xă Ban Mê Thuột. Thị xă Ban Mê Thuột được pḥng thủ với tất cả các đơn vị trú đóng như sau:

    - Phía Bắc có Trung tâm Huấn luyện Sư đoàn 23 BB.
    - Phía Nam có Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 BB.
    - Phía Đông có Bộ chỉ huy Chi khu Ban Mê Thuột.
    - Phía Tây, vùng nguy hiểm nhất, có hậu cứ của Thiết đoàn 3 Thiết giáp và Kho đạn Mai Hắc Đế.
    - Trừ bị cho thị trấn Ban Mê Thuột là Trung đoàn 53 trừ bị, đóng tại phi trường Phụng Dực.

    Nghe xong phần tŕnh bày của Đại tá Vũ Thế Quang, Tướng Phú có vẻ hài ḷng và không chê trách cũng như cho những chỉ thị đặc biệt. Lúc bấy giờ đă quá trưa, tôi cho dọn cơm ra mời Tướng Phú, Tướng Tường, Đại tá Ngh́n cùng phái đoàn ăn tại chỗ. Đây là bữa cơm rất dạm bạc. Tất cả đều dùng cơm đĩa, uống nước ngọt hay biạ Tướng Phú ăn rất nhanh để c̣n kịp trở về Pleiku theo dơi t́nh h́nh chung của Quân đoàn 2. Tôi cũng không ngờ, đây là bữa ăn cuối cùng giữa tôi và Tướng Phú, cấp chỉ huy trực tiếp của tôi.



    Ăn xong, chính tôi đích thân đưa tiễn Tướng Phú ra phi trường Phụng Dực để về Pleikụ Khi bắt tay tạm biệt, Tương Phú đă vỗ vai tôi nhỏ nhẹ:”Chú mầy cẩn thận coi chừng chúng nó đánh nghe”. Đây chỉ là câu nói thông thường mà cuộc đời binh nghiệp đă dạy cho tôi, nghĩa là hầu hết các cấp chỉ huy đi thăm các đồn bót, hay đơn vị tiếp giáp với địch đều dặn ḍ với thuộc cấp của ḿnh bằng câu nói trên. Nói khác hơn, không có tính cách khẩn cấp, nguy ngập. Nếu nghiêm trọng, các cấp chỉ huy sẽ chỉ thị một cách tỉ mỉ hơn nhiều.

    Khi về đến Ban Mê Thuột tôi lại phải đến nhà Tướng Tường để đưa Tướng này về Pleiku bằng trực thăng. Bước vào nhà tôi thấy Tướng Tường đang nói chuyện với gia đ́nh và sau đó ông ra phi trường L19 cũng là phi trường trực thăng. Trong lúc chờ đợi phi công trực thăng đến, có ông Paul Struharick, là đại diện cho Tổng lănh sựMyẠ tại Nha Trang đến hỏi Tướng Tường về t́nh h́nh VC xung quanh Ban Mê Thuột ra saọ Tướng Tường cười hí hí, có vẻ tự tin tự đắc, cầm cây gậy tướng đánh vào mông đít ḿnh bộp bộp, rồi trả lời bằng tiếng Anh:”Don't worry about that”. Ông Paul cụt hứng nên không hỏi thêm và Tướng Tường cũng lên trực thăng bay về Pleikụ

    Việc đầu tiên trở về Bộ chỉ huy Tiểu khu là tôi triệu tập ngay Bộ tham mưu, các đơn vị trưởng quân đội tại thị xă và các ty sở thuộc Ṭa hành chánh cũng như các Ty trưởng chuyên môn. Tôi tŕnh bày t́nh h́nh quân sự. Quận Thuần Mẫn đă bị mất. Quốc lộ 14 nối liền Pleiku - Ban Mê Thuột đă bị cắt. Quốc lộ 21 từ Ban Mê Thuột - Nha Trang qua quận Khánh Dương đă gián đoạn và sáng nay quận Đức Lập đă bị CS tấn chiếm, và như vậy Quốc lộ từ Quảng Đức - Ban Mê Thuột coi như không xử dụng được nữa. Không cần phải là nhà quân sự, mọi người cũng đủ hiểu, Mặt trận Ban Mê Thuột coi như bị bao vây tứ phía, và cần đặt câu hỏi về sự kiện hoạt dộng quân sự của địch và thấy rơ ư đồ của địch. Riêng phía Tây thị xă c̣n dồn Ban Đon, cách xa Ban Mê Thuột khoảng 40 km.

    Cuối cùng việc cấm trại 100% từ quân nhân đến công chức là điều bắt buộc trong thời gian nghiêmtro.ng này và tôi ra lệnh:”Sẵn sàng ứng chiến!”.

    Để tăng cường cho Ban Mê Thuột, tôi quyết định nhanh chóng rút ngay Tiểu đoàn 204 Địa phương quân đang đóng tại Ban Don về thị xă. Việc di chuyển này không phải là dễ dàng v́ phải trưng dụng hết tất cả các xe GMC của các đơn vị đóng tại Ban Mê Thuột mới đủ chuyên chở cả một Tiểu đoàn. Trước khi trở về tư dinh, tôi đă cẩn thận đi quan sát tất cả những yếu điểm pḥng thủ của thị xă và cho họ những chỉ thị cần thiết. Có một điều tôi hơi an tâm một chút là các đơn vị như Địa phương quân, Nghĩa quân, Cảnh sát và Nhân dân tự vệ đều thi hành nghiêm chỉnh lệnh cắm trại 100% và báo động.

    Chẳng cần tắm rửa và dù người nhà đă dọn cơm sẵn, tôi vẫn đi thẳng vào nơi làm việc của tôi với bản đồ hành quân. Tôi như muốn suy nghĩ về t́nh h́nh và ư đồ của địch. Dù cấp nhỏ, nhưng tôi vẫn cố gắng phân tích theo nhăn quan của tôi để ḿnh c̣n nước c̣n tát trong việc giữ Ban Mê Thuột, vùng trách nhiệm của ḿnh bằng mọi giá. Nh́n qua những mũi tên và những đơn vị của Cộng quân, theo như bản phối trí của Quân đoàn: các Sư đoàn 320, F10, 316 của Cộng quân vẫn c̣n ở phía Tay Pleiku và Kontum. Những tin tức các sư đoàn này đă về Ban Mê Thuột vẫn chưa được Quân đoàn xác nhận, vẫn c̣n phải theo dơi và kiểm chứng, nói theo Pḥng 2 của Quân đoàn.

    Tôi đă tiên đoán, Ban Mê Thuột sẽ là nơi thử lửa đầu tiên cho việc tiến chiếm miền Nam. Bằng chứng là VC đă chặt tay chân của Ban Mê Thuột rồi bằng cách nhổ 2 cứ điểm Thuần Mẫn và Đức Lập, Khánh Dương coi như đứt đoạn. V́ vậy, tôi đă nhiều lần xin Tướng Phú tăng cường quân chính qui bằng cách đưa Trung đoàn 45 BB về pḥng thủ Ban Mê Thuột.

    Với nhiều lần xin quân viện, măi đến ngày 4/3/75, Tướng Phú mới bằng ḷng cho Trung đoàn về Ban Mê Thuột. Lệnh di chuyển đă được ban hành. 2 giờ chiều cùng ngày, toàn thể đơn vị thuộc Trung đoàn 45 đă ngồi lên xe GMC để chờ lệnh Tướng Tường là xe chuyển bánh. Không ngờ vừa lúc đó, pháo kích của Cộng quân rót vào thị xă Pleiku, cũng Bộ Tư lịnh Quân đoàn 2. Tướng Phú đang ở Nha Trang được báo cáo của Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 về việc pháo kích này, đă không ngần ngại hét vào máy:”Tôi ra lệnh cho Trung đoàn 45 BB không di chuyển về Ban Mê Thuột nữa, ở lại Pleiku v́ Mặt trận Pleiku đă bùng nổ rồi”.

    Qua ngày hôm sau, tức ngày 5/3/96, Chi khu Thuần Mẫn thuộc tỉnh Phú Bổn, nằm ngay Quốc lộ 14, lại bị Cộng quân đánh chiếm. Sự kiện này càng củng cố ước đoán của Tướng Phú:”CS sẽ tấn công Pleiku” là đúng.

    Cho dù ngày 7/3/95, chi khu Khánh Dương thuộc tỉnh Khánh Ḥa nằm trên trục lộ Ban Mê Thuột - Nha Trang bị mất mà Tướng Phú vẫn chưa nghĩ đến việc CS sẽ tấn chiếm Ban Mê Thuột. Rồi đến sáng ngày 9/3/75, Tỉnh Quảng Đức đă báo cáo cùng Tướng Phú về t́nh h́nh rất bi đát của Quảng Đức, các chi khu đang giao tranh với cấp số đáng kể của Cộng quân. Tôi như người có miệng phải câm, nh́n đồi núi chập chùng của Cao nguyên mà ḷng héo hắt. Vận mệnh của cả đất nước đang bị cấp chỉ huy lượng giá sai và chiến thắng sẽ đến của CS chỉ là may mắn. Tôi phải đương đầu với thử thách này đến bao giờ??? Nghĩ đến câu dặn ḍ của Tướng Phú để dối ḷng:”Hăy coi chừng tụi nó đánh nghe”, như một câu nói thôn thường. Rồi “Don't worry about that” của Tướng Tường nói một cách kiêu hănh với ông Paul. Cộng thêm lời tường tŕnh của Trung tá Trưởng Pḥng 2 Quân đoàn: Cộng quân vẫn c̣n luẩn quẩn tại Pleiku, Kontum, kể cả những đơn vị thiết giáp, làm tôi cũng bớt lo âu phần nào. Và tự an ủi ḿnh, nếu Cộng quân có tiến chiếm Ban Mê Thuột, ḿnh c̣n cầm cự được đôi ba ngày. Khó khăn lắm tôi mới chợp mắt qua đêm, với những lo âu...


    TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN
    Ngày 10/3/75

    Khoảng 2 giờ sáng, khi Ban Mê Thuột c̣n đang trong giấc điệp, bỗng bị đánh thức dậy bằng tiếng pháo kích inh tai, rợn óc của Cộng quân. Tôi rất b́nh tĩnh v́ đă nếm mùi hỏa tiễn của Cộng quân ở những trận đánh trước Tết Mậu Thân tại Kontum, tại Quảng Ngăi, Đà Nẵng và cả trận đánh Hạ Lào, v.v... Từ lầu hai tôi chạy xuống hầm chỉ huy mà những vị Tiểu khu trưởng tiền nhiệm đă xây cất. Đây là một hầm rất kiê cố, làm bằng bê tông cốt sắt, có thể chống được pháo kích. Trong hầm trang bị đầy đủ máy móc truyền tin để liên lạc tới các đơn vị trực thuộc cũng như liên lạc với cấp trên, hay cấp trung ương rất dễ dàng. Tôi liên lạc ngay với Thiếu tá Hy, Trưởng Pḥng 3 Tiểu khu dưới hầm TOC của Tiểu khu:

    - Pháo kích từ hướng nào?

    - Dạ thưa, Cộng quân bắn từ phía Tây tới.

    - Bắn vào vị trí nào?

    - Tŕnh Đại tá, bắn vào Bộ chỉ huy Tiểu khu, Đài truyền tin ở sân bay L19, Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 BB và Kho đạn Mai Hắc Đế.

    - Anh hăy gọi ngay Pháo binh của ḿnh cũng như Pháo binh Sư đoàn 23 BB tại Phụng Dực phản pháo.


    Tiếng pháo kích vang rền thị xă Ban Mê Thuột cho đến 4 giờ sáng. Chúng dùng chiến thật tiền pháo hậu xung và tấn chiếm kho đạn Mai Hắc Đế ở phía Tây, bằng mũi dùi thật mănh liệt. Đơn vị đồn trú đă chống trả một cách anh dũng và kho đạn vẫn vững vàng. Về phía Bắc, Đài Truyền tin của Không quân cũng bị tấn công.. Với chiến thuật biển người (Human Wave) và đánh sát lá cà, chỉ cần nửa tiếng đồng hồ sau, Cộng quân đă tiến tới sát miệng hầm và dùng lựu đạn tung vào miệng hầm. Một số sĩ quan và binh sĩ ta bị tử thương và bị thương. Và chỉ 15 phút sau, TOC đă báo cáo với tôi, Đài Truyền tin đă lọt vào tay giặc. Về phía trại Mai Hắc Đế, với những tay súng can trường ta dă bẻ gẫy nhiều đợt tấn công của Cộng quân. Khoảng 5 giờ sáng, TOC/TK báo cáo Đại úy Chỉ huy trưởng bị thương nặng. Kho đạn như rắn mất đầu và chỉ cầm cự đến 5 giờ 30 th́ kho đạn bị tràn ngập. Như vậy mặt trận về phía Bắc và Tây đă bỏ ngơ, bây giờ chỉ c̣n trông chờ vào những đơn vị phía Nam và Đông.

    Đạn pháo kích 130 ly vẫn rót đều vào thị xă. Lư do dễ hiểu là pháo binh của ta tại phi trường Phụng Dực phản pháo với đạn 105 ly đâu có tầm xa như đạn 130 ly của CS, đang đặt tuốt phía Tâỵ V́ vậy sự phản pháo trở nên vô vọng, không thể khóa họng những khẩu đại pháo của địch. Nhất là pháo binh của ta không có L19 hướng dẫn, chỉ điểm, điều chỉnh chính xác.

    Đến 7 giờ sáng, địch ngưng pháo kích và cũng ngay lúc này Thiếu tá Trưởng ty Cảnh sát Darlac báo cáo thẳng với tôi:

    - Thưa Đại tá, chiến xa CS đă tiến vào thị xă và hiện đang bố trí xung quanh nhà thờ thị xă. (Cũng nên ghi nhận là nhà thờ Công giáo này nằm ở trung tâm thành phố).

    Lúc bấy giờ, v́ Tiểu khu nằm dưới hệ thống chỉ huy của Sư đoàn 23 BB và để tiện phối hợp, bàn bạc kế hoạch chóng trả nhanh chóng. Tôi liề báo cáo và xin Tướng Phú được qua chung với Đại tá Vũ Thế Quang, tại Trung tâm Hành quân Sư đoàn 23 BB. Tướng Phú chấp thuận.

    Mối lo ngại lớn lao của Đại tá Quang và tôi là chiến xa CS đă lọt vào giữa thị xă. Với kinh nghiệm của một sĩ quan kỵ binh tôi hiểu rất rơ hỏa lực tấn công của những con ngựa sắt này.

    Tia hy vọng tới, khi trên bầu trời Ban Mê Thuột, đă xuất hiện L19 của Quân đoàn 2 gởi tới. Những chiếc phản lực cơ chiến đấu đă vần vũ trong vùng giao tranh để yểm trợ cho Tiểu khu Darlac và Sư đoàn 23 BB. Tinh thần chiến đấu của quân cán chính lên rất caọ Những đoàn chiến xa CS từ hướgn Bắc tiến về phía Nam đă bị các đơn vị Điạ phương quân của Tiểu khu đánh chặn lại. Sư tiến quân của CS rất chậm chạp.

    9 giờ tin vui đem tới. Ta hạ được 2 chiến xa T54 địch và đang bốc cháy trước Câu lạc bộ Sĩ quan trên đường Thống Nhất. Sự chênh lệch về lực lượng ta và địch quá rơ. Địa phương quân phải so tài với quân chính qui Bắc Việt, với sự yểm trợ chiến xa và pháo binh. C̣n bên ta, đội pháo binh tại Phụng Dực, cũng như phi pháo không thể yểm trợ v́ dân chúng chưa được di tản. Cộng thêm, hỏa lực pḥng không của địch rất dày đặc, làm phản lực cơ A37 của ta cũng không thể xuống thấp để thả bom cho chính xác được.

    12 giờ 45, Thiếu tá Hy, Trưởng pḥng 3 Tiểu khu báo cáo: BCH/TK đă bị pháo kích nặng nề. Một trái đă đánh trúng hầm TOC/TK làm nhiều người chết và bị thương. Trong số đó có Trung úy Năm, Trưởng pḥng 5/TK đă đền nợ nước. Hệ thống và máy truyền tin chỉ huy bị hư hại nặng. Thiếu tá Hy xin phép được di chuyển Bộ Tham mưu ra khỏi vị trí. Tôi chấp nhận ngaỵ

    13 giờ 30, Thiếu tá Hy báo cáo, địch quân đă tập trung pháo binh bắn vào Bộ Chỉ huy, sau đó chiến xa và bộ binh đang tràn ngập vào hệ thống pḥng thủ.

    14:00 giờ, BCH/TK coi như thất thủ hoàn toàn. Tôi liền báo cáo cho Tướng Phú. Tướng Phú ra lệnh cho trực thăng vận Liên đoàn 21 Biệt động quân xuống Ban Mê Thuột để tái chiếm BCH/TK.

    Măi đến 16 giờ chiêu, tôi mới nhận tin của Quân đoàn 2 rằng Liên đoàn 21/BDQ đang được trực thăng vận xuống Ban Mê Thuột để chiếm lại BCH/TK.

    17:00 giờ, đoàn trực thăng đă đến gần thị xă nhưng không đáp xuống được v́ pḥng không CS bắn quá rát. Đến măi 18 giờ, Quân đoàn 2 mới quyết định cho thả Liên đoàn 21 BDQ xuống BCH/Chi khu Buôn Hô rồi đi bộ tiến vào thị xă Ban Mê Thuột. Tôi liên lạc với Trung tá Dậu, Chỉ huy trưởng Liên đoàn 21 BDQ, hối thúc Trung tá Dậu phải cho tiến quân nhanh vào thị xă để tái chiếm lại BCH/TK. Măi đến 11 giờ khuya, Trung tá Dậu cho biết rằng đă tới ven thị xă Ban Mê Thuột mà không tiến vào được v́ bị VC chặn đánh.

    Tướng Phú ra lệnh cho Trung tá Dậu, với bất cứ giá nào đêm nay Liên đoàn BDQ phải tái chiếm BCH/TK.

    Sau khi CS chiếm được BCH/TK/DL xong là tiếng súng pháo binh cũng như súng trường đều được im lặng khắp mọi nơị

    Tôi báo cáo lên Tướng Phú kết quả trong ngày là Tiểu khu bắn cháy 7 chiến xa T54 CS và rất nhiều xác VC. Tướgn Phú rất vui khen ngợi TK/DL (Darlac).

    Tôi theo dơi cuộc tiến quân của Liên doàn 21 BDQ từng phút, cứ 15-20 phút là tôi liên lạc với Trung tá Dậu hỏi coi đă tiến tới đâu rồi. Vẫn những câu trả lời ngắn gọn:”Đang tiến nhưng gặp nhiều ổ kháng cự. Ở trong hầm TOC/SD/23 BB suốt đêm, tôi và Đại tá Vũ Thế Quang không nghe một tiếng súng nổ nào của bạn và địch cả.

    Tôi ra lệnh cho ông Phó Tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Vỵ và Trung úy Dzi hiện là tùy viên của tôi, nhưng trước là sĩ quan Chiến tranh Chánh trị của Tiểu khu, viết bài kêu gọi dân chúng yên tâm, ngày mai Quân đoàn 2 sẽ chiếm lại Bộ Chỉ huy Tiểu khụ

    Tôi đọc ghi vào băng và phát ra cho dân torng thị xă Ban Mê Thuột nghe lúc 1 giờ sáng ngày 11/3/75.

    Trong đêm, Pḥng 3 Bộ Tổng tham mưu liên lạc với tôi bằng điện thoại nhiều lần, hỏi về tinh h́nh thị xă như thế nào. Tôi báo cáo: BCH/TK đă mất, Kho đạn Mai Hắc Đế, phi trường L19 đă bị CS chiếm từ sáng. Tôi và Đại tá Quang đang ở BTL/SĐ cố thủ, chờ quân viện của Quân đoàn 2. Tinh thần anh em sĩ quan và binh sĩ rất cao, không có ǵ nao núng.

    Lực lượng trừ bị của Tiểu khu là Trung đoàn 53 với 1 Tiểu đoàn và 1 Trung đội pháo binh cũng bị CS tấn công từ sáng nên không thể tiếp cứu, giúp đỡ ǵ được cho Tiểu khu Darlac.

    Tôi chờ đợi Liên đoàn 21 BDQ tiến vào thị xă, 2 giờ sáng ngày 11/3, rồi 3 giờ, rồi 4 giờ cho đến hừng sáng Liên đoàn 21 BDQ cũng không tiến vào được.

    Đúng 7 giờ sáng ngày 11/3/75, CS Bắc Việt bắt đầu nă pháo binh vào Bộ Tư lịnh Sư đoàn 23, chiếc xe Jeep của tôi đậu gần TOC cũng bị trúng pháo nổ tung rạ Tôi đoán chắc rằng CSBV đang cho pháo binh bắn vào vị trí BTL/SD 23 để chuẩn bị tấn công. Tôi nói với Đại tá Vũ Thế Quang, lúc này là lúc nguy ngập, sắp cận chiến, nếu không có cấp chỉ huy đứng bên cạnh binh sĩ để chỉ huy, th́ binh sĩ sẽ bỏ chạy khi địch quân xung phong. Đại tá Quang đồng ư. Tôi nói với Đại tá Quang — V́ ở trước cổng BTL/SD (Bộ Tư lịnh Sư đoàn) có 1 chiếc M113, nên để tôi trấn giữ mặt đó, c̣n Đại tá Quang th́ trấn giữ phía Tây Nam.

    Lúc này khoảng 7 giờ 30 sáng. Tôi liền đi thẳng ra cửa BTL/SD đến chiếc thiết quân vận M113 đang bố trí tại cổng, dưới các loạt pháo kích 130 ly của CSBV gây nên một vùng khói lửa mịt mù.

    Tôi nhảy lên chiếc thiết quân vận để quan sát th́ thấy ngay ngoài cổng BTL khoảng cách độ 300 m đầy chiến xa T54 đă bao xung quang BTL. Đồng thời trong lúc này, Trung úy Hoành đặc trách pḥng thủ dinh Tỉnh trưởng với 1 Trung đội Địa phương quân, báo cáo tư dinh, đang bị chiến xa tấn công và bắn trực xạ vào lầu tư dinh, đă bị sụp đổ. Trung đội pḥng thủ đă hạ được 2 chiến xa địch ngay trước cổng dinh bằng súng M72. Tôi hết sức động viên khen ngợi Trung úy Hoành cố gắng chống cự.

    Tôi cũng biết CS tấn công xong tư dinh là tấn công BTL SD 23.

    Các chiến xa T54 đậu xung quanh BTL ngạo nghễ coi thường đối phương, không cần phải ẩn núp, ngụy trang chi cả, v́ chúng nó biết bên ta không có một chiến xa nào cả để đương đầu, có thể tiêu diệt chiến xa của chúng.

    Trung úy Hoành báo cáo chiến xa CS đă ủi sập cổng tư dinh và tấn công vào phía trước. Trung úy Hoành báo cáo v́ có một số tử thương cùng bị thương, không thể chống giữ với đợt tấn công bằng chiến xa của địch, nên binh sĩ rất nao núng và xin phép được rút ra khỏi tư dinh.

    Tôi chấp thuận.

    (Trong khi chiến xa CS tấn công bắn trực xạ đại bác của chiến xa vào lầu của tư dinh, 3 đứa con trai của tôi vẫn c̣n ở trên lầu, có một đứa con trai út bị sức ép của viên đạn đại bác nổ ra, nó bị hơi đẩy té từ lầu, lăn xuống thang, rớt xuống đất bị thương ở ngực và chân).

    Trung úy Hoành hướng dẫn Trung đội Điạ phương quân c̣n lại thoát ra ngoài. C̣n 3 dứa con trai của tôi th́ được toán phục dịch trong nhà dẫn theo Trung đội.

    Tôi biết, sau khi thanh toán tư dinh, th́ bọn CS sẽ cho lệnh xung phong vào BTL/SD 23.

    Giờ phút nguy ngập sắp đến, tôi sợ binh sĩ bỏ chạy, liền nhảy xuống M113 đi một ṿng theo hàng rào pḥng thủ để kiểm soát binh sĩ và nhất là với mục đích cho binh sĩ thấy mặt cấp chỉ huy của ḿnh, cùng trực tiếp tham dự vào trận đánh, nên không dám bỏ chạy. Tôi nói với binh sĩ hăy can đảm chống giữ BTL v́ lực lượng của Quân đoàn 2 sắp tới. Kiểm soát và ra lệnh xong, tôi liền nhanh chân trở lại chiếc M113 và nhảy phóc lên trên, quan sát lại th́ thấy các chiến xa T54 vẫn c̣n ở vị trí cũ.
    Những giây phút cuối cùng của Bộ Tư lệnh SD 23 BB

    Khoảng 10 giờ sáng, tiếng pháo địch im tiếng. Nếu ai đă ở trong binh nghiệp th́ đều hiểu rơ tâm trạng của những phút giây im lặng này. Nó hoang mang và lo sợ hơn nhiều khi bên tai ḿnh có tiếng súng nổ. Người ta cho là say súng. Mà thật vậy, khi đă làm quen với chiến trận, việc nghe thấy tiếng nổ làm mọi người quên chính ḿnh và chỉ c̣n một cách duy nhất là chiến đấu. Chiến đấu để sống c̣n và ít ai c̣n để ư đến thần chết đang lảng vảng quanh ḿnh. Tôi lại nhảy lên pháo tháp quan sát và thấy những chiếc xe đang chuyển bánh. Tôi nhảy vội xuống và la lớn:”Sẵn sàng ứng chiến!”. Tôi dứng cạnh trưởng xa va căn dặn chỉ được bắn khi chúng tới gần 100 m nhé. Các anh em đều răm rắp tuân lệnh theo và chờ đợi khúc phim nghẹt thở bắt đầu.

    Chiến xa địch đầu chầm chậm tiến thẳng vào chiết vận xa M113. May mà ngụy trang khéo léo nên chúng không thấy. Tôi mừng quá và nói thầm trong bụng:”Mày sẽ chết con ạ”... Khói đen từ ống thoát phun ra mù mịt, chiến xa T54 địch, chiếc đầu chầm chậm tiến vào. Chúng vẫn chưa biết có chiếc M113 đang chờ đón nó vào cửa tử, v́ được ngụy trang kỹ càng như đă nói trên.

    Tiếng máy kêu ầm và các chiến xa đâm thẳng vào cổng Bộ Tư lệnh. Những con cua sắt ́ ạch tiến gần cổng 250m, rồi 200m, rồi 100m. Thần kinh tôi như giăn ra. Tất cả anh em chúng tôi hồi hộp, giờ sinh tử bắt đầu. Tôi hét lớn “Bắn!”. Thay v́ chúng tôi phải nghe tiếng nổ thật lớn của viên đạn vút ra khỏi ṇng súng, th́ trái lại cây súng chỉ cho chúng tôi một tiếng khô khan, lăng xẹc:”Cóc!”.

    Trong khi mắt mọi người và tôi dán chặt vào những con cua sắt. Tôi gào lên:
    - Ǵ thế! Ǵ thế!
    Xạ thủ trả lời:
    - Trở ngại tác xạ, Đại tá!
    - Mở “culasse” ra xem?
    - Tŕnh Đại tá, “Percuteur” bị gẫy!
    - Có “Percuteur” thay thế không?
    - Thưa... không!

    Tiếng “thưa không” làm tôi toát mồ hôi, v́ đây là hy vọng cuối cùng cho sự cầm cự với Cộng quân để chờ viện binh tới. Cây súng đại bác 106 ly không giựt này là phương tiện duy nhất chống trả với T54 của địch mà thôi. Các loại súng khác chỉ là tṛ đùa với những con cua sắt này.

    Bây giờ tiêu diệt chiến xa địch bằng phương tiện ǵ đây? Tôi biết tôi phải rất b́nh tĩnh mới cứu được anh em và chính ḿnh. À phải rồi, chúng ta c̣n oanh tạc cơ đang bay lượn trên không. Những chiếc phản lực cơ A37 sẽ xơi tái chúng một cách dễ dàng. Cũng nên biết từ ngày hôm qua cho đến sáng nay, phi cơ của ta chỉ có thể thả bom ở các mục tiêu xa ở ngoài thị xă. Trong thị xă c̣n 50,000 thường dân chưa được di tản, v́ vậy tôi đă tŕnh với Tướng Phú về việc này và ông đă chấp nhận không oanh tạc vào khu đông dân cự Cũng cần ghi nhận, từ trước tới giờ, chưa bao giờ thị xă bị pháo kich của CS hoặc tấn công nên không gia đ́nh nào có hầm trú ẩn... Nay th́ chiến xa địch đă lọt vào thị xă th́ các oanh tạc cơ cũng không có cơ hội nhào xuống thấp để đánh trúng mục tiêu v́ pḥng không của Cộng quân quá mạnh. Cứ mỗi lần máy bay quan sát L19 hay oanh tạc cơ bay thấp một chút là pḥng không địch đă bắn lên trời như cảnh đốt pháo bông trong ngày Quốc Khánh.

    Tôi liên lạc ngay với L19 và nói chấp nhận sự nguy hiểm để dùng phản lực cơ dội bom thẳng vào các chiến xa đang tiến vào Bộ Tư Lịnh Sư đoàn 23 BB, và như vậy mới chặn đứng cuộc xung phong của CS. Trong lúc chờ đợi phi cơ làm thịt mấy con “cua sắt”, tôi đi lui đi tới kế cận các chiến sĩ đang gh́ tay súng chống trả lại địch quân.

    Th́nh ĺnh, mọi người nghe một tiếng nổ “ầm” thật khủng khiếp vang dội cả một góc trời. Cát, đá, bụi tung lên cao cả hàng trăm thước. Thôi hỡi ơi! Trung tâm Hành quân Sư đoàn (TOC), nơi đầu năo Mặt trận Ban Mê Thuột để chống lại địch quân đă bị Không quân ta đánh trúng.

    TOC bị sập và các phương tiện truyền tin thiết trí trong đó đều tiêu tùng theo mây khói. Một số lớn sĩ quan, binh sĩ ở trong TOC bị chết và bị thương. Ai cũng biết, trong trận mạc, truyền tin là huyết mạch chính. Bây giờ không c̣n để liên lạc với cấp trên và thông tin cho cấp dưới nữa. Không một chút suy nghĩ, tôi chạy về phía sau TOC để bàn với Đại tá Quang. Tôi nói nhanh với Đại tá Quang nhận định của tôi:

    - Chúng ta không thể cố thủ được nữa v́ đầu năo của chúng ta là Trung tâm hành quân nay đă sụp đổ. Không có truyền tin, không có chiến xa làm sao chận đứng những chiến xa T54 và bộ binh CS đang tiến vào căn cứ. Trong khi đó chúng ta không có viện binh. Tồi đề nghị chúng ta rút ra khỏi vị trí pḥng thủ BTL Sư đoàn ngay để bảo toàn lưc lượng c̣n lại.

    Đại tá Quang đồng ư và ra lịnh rút quân. Chúng tôi vọt ra khỏi hàng rào và hướng về phía Tây tức là “Suối Bà Hoàng” - cách BTL Sư đoàn 250m.

    Cũng may mùa này là mùa khô nên suối cạn. Đáy suối lại thấp hơn mặt đất tới 15m nên rất dễ cho việc ẩn nấp. Anh em binh sĩ đi theo rất đông, chừng 100 người. Xa xa tiếng phát thanh tuyên truyền của địch quân gần Chùa Phật giáo của Tỉnh hội Phật giáo Ban Mê Thuột kêu gọi các binh sĩ ta đầu hàng. Chúng tôi tiếp tục di chuyển về phía Tâỵ Nh́n anh em binh sĩ, súng trên vai và lầm lũi theo ḿnh. Đến giờ phút này tôi mới thấy t́nh chiến hữu bên nhau thắm thiết. Ḷng tôi bỗng chùng xuông. Không có bút nào tả cho hết nỗi nhọc nhằn, buồn tủi của chúng tôi khi phải xa ĺa BLT Sư đoàn, tượng trưng cho sự thách đố với địch quân. Tôi không dám ngoảnh mặt nh́n lại một lần cuối v́ sợ không biết chính ḿnh có đủ can đảm để không nhỏ nước mắt cho số phận hẩm hiu, xui xẻo cho Ban Mê Thuột, cho anh em binh sĩ, cho chính ḿnh không? Đừng oanh tạc lầm, th́ bây giờ ḿnh đâu đến nỗi trở thành kẻ chạy trốn như thế này. Ôi Ban Mê Thuột, xin tạm biệt mi và hứa sẽ trở về bên mi suốt đời...

    H́nh ảnh lê thê lếch thếch của đoàn quân ô hợp, như những khúc phim trên màn bạc cho trận thế chiến II - trận Dunkerque năm 1940, mà lực lượng đồng minh phải bỏ thành phố v́ bị Đức tràn ngập. Lúc đó ho c̣n thiết giáp, nhưng thiết giáp của Đức tối tân hơn nên phải ra hàng. Họ chạy đến bờ biển và đă kiếm bất cứ phương tiện nào như du thuyền, canô hay thùng phao để thoát. C̣n tôi bây giờ c̣n ǵ đâỵ Sinh ra làm lính thiết giáp mà bây giờ di chuyển như lính bộ binh. Tôi cũng không biết ḿnh là ai bây giờ. Ḿnh là cấp chỉ huy hay chỉ là một binh sĩ tầm thường? Lo cho anh em ra sao đây và chính ḿnh sẽ ra sao đây? Trong những giây phút cuối cùng của đời binh nghiệp, chết hay sống là chuyện b́nh thường. Lúc vào lính, tôi đă có lúc nghĩ đến lúc ḿnh làm thân chiến bại hay một viên đạn xuyên vào lồng ngực. Nhưng không ngờ trong cảnh huống này nó lại sầu đau chất ngất như lúc này, tủi nhục như bây giờ? Tôi chưa dám nghĩ quẩn v́ bên cạnh ḿnh c̣n anh em đang trông chờ nơi ḿnh. Chỉ một phút sai lầm, sẽ đem anh em và ḿnh xuống hố sâu vực thẩm. Tôi chỉ bàn với Đại tá Quang. Ḿnh phải phân tán mỏng để tránh sư phát giác của địch quân. Tôi đề nghị:”Toa” đi về một phía, “moa” một phía và cố gắng t́m về Nha Trang nhé. Đại tá Quang gật đầu và chọn ngay cho ḿnh một quyết định. Vị Tư lịnh chiến trường Ban Mê Thuột nói với tôi:”Moa sẽ đi về hướng Nam, đến gần cầu khoảng cách 14km là t́m đường về Nha Trang”. C̣n tôi không c̣n chọn lựa nạ khác hơn là đi về hướng Tây, nằm về khu cà phê của Trung tướng Hoàng và chờ trời tối sẽ bọc lên phía Bắc Ban Mê Thuột và từ đó t́m về Nha Trang. Thật là đau thương, khi làm việc có nhau, và giữa phút nghiêm trọng này chúng tôi cần có nhau hơn. Nhưng hoàn cảnh lại không cho phép như vậy. Đành chia tay nhau và may ra c̣n cứu được lấy định mệnh riêng của ḿnh.

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân Đoàn II Quân Khu II
    Những Giờ Phút Sau Cùng Của Quân Đoàn II
    Nh́n Lại Trận Đánh Ban Mê Thuột 1975

    Đại Tá Nguyễn Trọng Luật
    P2


    Trước khi chia tay, chúng tôi bèn tập trung anh em binh sĩ lại và tôi tuyên bố:

    - Tôi xin thay mặt cho chính phủ và quân đội tuyên dương công trạng của anh em - những chiến sĩ anh hùng, can trường đă chống trả mănh liệt với bọn CS xâm lược miền Nam với một tinh thần hy sinh cao độ. Từ 2 giờ sáng ngày hôm qua cho đến cho đến giờ này các anh em đă làm tṛn nhiệm vụ mà đất nước giao phó cho dù địch quân có đông gấp mười chúng tạ 2 quả bom rơi nhầm vào Trung tâm Hành quân đă đưa chúng ta tới nông nỗi này. Bây giờ anh em phân tán mỏng đừng dể địch quân phát giác và t́m cách trở về Nha Trang. Hy vọng lúc đó chúng ta sẽ tập họp lại để tiếp tục chiến đấu... Toàn dân ghi công anh em. Tổ quốc VN ghi công anh em. Xin tạm biệt.

    Với nét buồn vô tận, anh em đă nghe tôi nói như lời biệt ly sầu thảm. Nhiều anh em đă bật khóc, khiến tôi không dám nh́n thẳng vào mặt họ và lặng lẽ giơ tay chào anh em. Nh́n anh em binh sĩ, Đại tá Quang và tôi c̣n nguyên vẹn bộ đồ tác chiến, giây ba chạc, áo giáp, nót sắt. Nh́n chiếc hoa mai bạc trên ngực Đại tá Quang, tôi đề nghị nên dấu nó đi để dễ bề ngụy trang trong khi di chuyển. Chúng tôi chia tay nhau mà ai cũng như muốn khóc. Đi theo con suối Bà Hoàng mà ḷng tôi như bị cắt từng đoạn ruột, chúng tôi len lỏi qua các bụi lau sậy, những tảng đá lớn và những nhà cḥi mà người dân cất làm chỗ tạm thời che nắng đụt mưa khi làm việc cả ngày ngoài đồng áng. Đi khoảng 100m tôi ngó lại vẫn c̣n chừng 20 người theo tôị Trong đó có ông Phó Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, Nguyễn Ngọc Vy, một người kỳ cựu của vùng Darlac và nhất là thị xă Ban Mê Thuột.

    Tôi liền hỏi ông Vy:

    - Anh có biết đồn điền cà phê của Trung tướng Thái Quang Hoàng ở đâu không?

    Ông Vy chỉ tay về hướng đằng trước mặt:

    - Thưa Đại tá tôi biết. Xin Đại tá cứ tiếp tục đi về phía Tây là sẽ tới.

    - Vậy khi nào đi ngang qua anh cho biết nhé. Chúng ta sẽ vào đó ẩn núp cho đến tối. Lợi dụng bóng đêm chúng ta sẽ bọc về phía Bắc rồi t́m đường về Nha Trang.

    Ông Vy gật đầu và chúng tôi âm thầm tiếp tục di chuyển. Việc tôi chọn đồn điền của Trung tướng Thái Quang Hoàng v́ đồn điền này đă có từ lâu tất nhiên cây cỏ đă cao và rậm rạp rất dễ ngụy trang...

    Những phút cuối cùng của đời binh nghiệp :

    Chúng tôi tiếp tục đi khoảng 300m, anh Nguyễn Ngọc Vy nói với tôi:

    - Tŕnh Đại tá, chúng ta đă tới ngang vườn cà phê của Trung tướng Hoàng rồi đây.

    Tôi nói ngay:

    - Bây giờ chúng ta phân tán mỏng và cẩn thận ḅ từ con suối này lên vườn cà phê và mỗi người hăy chọn một chỗ ẩn núp và rồi chờ đến tối chúng ta sẽ t́m đường thoát thân về Nha Trang.

    Tuân theo lời nói của tôi tất cả đều giăng hàng ngang và từ từ ḅ lên bờ suối. Sự hồi hộp đến với mọi người v́ phải ḅ băng qua một thửa đất bằng lộ thiên - không có cây cối nào để ngụy trang, ẩn núp được. Nh́n toán người theo tôi, tôi rất lo ngại. Phần v́, có hơn phân nửa là quân nhân, c̣n kỳ dư là nhân viên hành chánh với những chiếc sơ mi áo trắng rất dễ dàng cho địch quân phát giác. Tôi rất ngao ngán cho việc vượt thoát này. Nhưng không c̣n một con đường nào khác. Chúng tôi ḅ tiến lên ngang mặt đất. Vưà lúc đó hàng loạt súng cộng đồng nổ vang và nhắm vào đoàn người chúng tôị Đạn cày xới lên đất làm tung bụi mịt mù. Phản ứng tự nhiên của mọi người là chạy ào lên vườn cà phê để ẩn núp. Bây giờ tôi mới thấm thía câu “đạn tránh người chớ không phải người tránh đạn”. Nhiều người trúng đạn đă lăn ra chết hoặc rên la v́ bị thương. Dưới hỏa lực vũ băo, tôi vẫn ḅ như người lính trong quân trường. Nh́n sang bên cạnh có Thiếu úy Phương, tùy viên của tôi vẫn bám sát lấy tôị Tôi rất cảm phục người sĩ quan tùy viên này, dù đến phút này tinh thần kỹ luật vẫn c̣n giương cao và vẫn làm tṛn nhiệm vụ của một quân nhân gương mẫu. Tiếng đại liên, tiếng gào thét của chiến xa đang tiến về chúng tôi như cuộc bủa vây đang thắt chặt. Tôi biết chúng tôi không thể nào thoát trước một thế trận đường cùng này. Tôi bèn bàn với Thiếu úy Phương là chúng ta nên đầu hàng. Như hiểu ư tôi, Thiếu úy Phương cởi áo lót trắng và lấy cây đưa lên cao phẩy qua phẩy lại để ra dấu hiệu đầu hàng. Lập tức súng đại liên ngưng bắn và chiến xa tiến sát về phía chúng tôi. Chúng ngừng cách chúng tôi khoảng 10m, một cán binh CS nhảy ra khỏi chiến xa, với khẩu AK47 chĩa thẳng vào chúng tôi và quát lớn:

    - Tất cả hăy giơ tay lên! Giơ tay lên!

    Mọi người đều tuân lệnh hắn. Nó hỏi tôi:

    - Tụi bây chức vụ ǵ và cấp bậc ǵ??

    Như cái máy, tôi trả lời:

    - Tôi là Đại tá Tỉnh trưởng.

    Hắn tṛn xoe mắt lại và nghi ngờ:

    - Thật không? Thật không?

    Tôi gật đầu và hắn hỏi tiếp:

    - Tên ǵ nói mau.

    Tôi không ngần ngại:

    - Nguyễn Trọng Luật!

    - Thật không?

    - Thật.

    Khi biết tôi là sĩ quan cao cấp, hắn sững người và rất đỗi ngạc nhiên. Hắn càng gh́m tay súng vào đầu tôi và nói hăy đứng yên và giơ tay cao khỏi đầu, và hắn tiếp tục hỏi Thiếu úy Phương như vậy. Một cán binh khác nhảy từ trên xe đến lột hết quần áo chúng tôi. Trên người tôi và Thiếu úy Phương chỉ c̣n chiếc áo lót và chiếc quần treillis. Chúng lấy hết súng lục, áo giáp, nón sắt, giầy boots và luôn cả vớ. Chúng nhanh tay lấy giây trói chặt tay chúng tôi ra đằng sau và đẩy chúng tôi mỗi người vào một hố cá nhân. Chừng nửa giờ sau, từ phía Tây một chiến xa khác tới. Một cán binh người mập mạp, mặt mũi sáng sủa nhảy ra khỏi chiến xa và tiến tới tôi chất vấn:

    - Anh có thật là Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Darlac không?

    - Đúng.

    - Thôi anh ngồi chờ, chốc lát sẽ có xe đưa anh đi.

    Khoảng 4 giờ chiều, cũng từ phía Tây một chiến xa xuất hiện và bốc một ḿnh tôi lên xe. Cửa xe đóng lại tối thui và xe bắt đầu di chuyển. Tôi có thể đoán chắc là chúng đi về hướng Tây để đến Bộ Chỉ huy của chúng. Đến lúc này, tôi thật b́nh tĩnh và coi nhẹ những sự việc xảy ra cho ḿnh. “Sinh nghề tử nghiệp. Tôi là sĩ quan thuộc binh chủng Thiết giáp và bây giờ bị bắt bởi chính đoàn quân kỵ mă này. Dầu sao, tôi vẫn c̣n những tia hy vọng rọi xuống tâm hồn khô héo của tôi lúc này là tiếng súng vẫn c̣n vang động khắp chiến trường Ban Mê Thuột. Phản lực cơ của quân đội ta vẫn vần vũ trên không phận thân quí Cao nguyên. Dù tôi có bị bắt, nhưng hy vọng của tôi vẫn là Ban Mê Thuột vẫn như thành đồng trụ sắt. Quân tiếp viện sẽ tới và những con mănh hổ sẽ làm tṛn nhiệm vụ của người lính VNCH ngàn đời uy danh. Ban Mê Thuột vẫn ngạo nghễ thách đố với mọi hoàn cảnh...



    Bây giờ với đời sống thật sự thanh thản, b́nh tâm mà nh́n lại, nghĩ lại tôi thấy vài điều cần được xét lại. Tất nhiên không phải để phê phán, hay gỡ tội hoặc giả để lẩn tránh trách nhiệm, lẩn tránh sự thật. Nh́n lại, nghĩ lại chỉ có mục đích duy nhất là chia sẻ với những người c̣n sống về một biến cố trọng đại đầu tiên đă dẫn tới sự sụp đổ của chính thể và chế độ VNCH tại miền Nam nước Việt.
    1. Mất tỉnh, Tỉnh trưởng phải chịu trách nhiệm?

    Đây là câu nói thông thường của những người thiếu hiểu biết. Nhiệm vụ của Tỉnh trưởng chỉ là trách vụ về hành chánh, kinh tế, chính trị, v.v...mà thôi. Về an ninh quân sự lại nằm trong tay Tiểu khu trưởng.

    Nhiệm vụ của Tiểu khu trưởng là giữ an ninh các cơ sở, đường xá, cầu cống, t́m kiếm tin tức t́nh báo để báo cáo lên cấp trên, cũng như truy lùng, tiêu diệt du kích và những cán bộ CS xâm nhập vào vùng trách nhiệm của ḿnh. Tiểu khu trưởng chỉ có trong tay những Tiểu đoàn Địa phương quân, Nghĩa quân, Cảnh sát và tổ chức Nhân dân Tự vệ... V́ vậy, các đơn vị này không có khả năng đương đầu với quân chính qui của địch.

    Nh́n lại trận đánh Ban Mê Thuột, Tiểu khu Darlac đă nhiều lần báo cáo có những dấu hiệu về sự xuất hiện hoạt động của quân chính qui CS. Bằng chứng là tại phía Tây, Ban2 Tiểu khu Darlac đă phát hiện ống dẫn dầu của quân Bắc Việt hay những dấu xích chiến xa để lại ở phía Tây Ban Don và Ia Sup. Đặc biệt ngày 7/3/75, Tiểu khu Darlac hành quân đă bắt được một tù binh thuộc Sư đoàn 320/BV đang giăng giây điện thoại. Tin tức này cũng không thuyết phục nổi Tướng Phú và Tướng Tường để cho Trung đoàn 45 BB trở lại Ban Mê Thuột. 2 ông này vẫn c̣n ám ảnh về CS sẽ đánh Kontum hay Pleiku. Chưa bao giờ các ông cho rằng Ban Mê Thuột sẽ bị tấn công.
    2. Tại sao Tiểu khu lại không biết chiến xa địch tiến vào Ban Mê Thuột?

    Câu hỏi này làm tôi thắc mắc măi và muốn t́m câu trả lời cho chính ḿnh. Khi ngồi trong tù, tôi có đọc “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn Tiến Dũng tôi mới vỡ lẽ. Các chiến xa của CS đă được bố trí cách thị xă Ban Mê Thuột trên hàng trăm km về phía Tây Bắc, trong rừng núi trùng trùng điệp điệp của Cao nguyên. Nh́n trên bản đồ, Pḥng 2 hay cấp chỉ huy bao giờ cũng tiên đoán ngay và cho rằng nếu chiến xa địch, nếu có tấn công đêm nay, th́ chỉ có khả năng tấn công Pleiku chứ không thể là Ban Mê Thuột. V́ xung quanh Ban Mê Thuột, hay phía Tây, dù Tây Bắc hoặc Tây Nam đều là dăy rừng già với cây cối cao lớn. Qua con mắt của một sĩ quan kỵ binh như tôi, việc tấn công Ban Mê Thuột bằng chiến xa khó có thể thực hiện nổi. Trái lại, Pleiku với những đồi thoai thoải, trống trải, không có cây cối là địa bàn lư tưởng cho chiến xạ Nhưng, đây là chữ nhưng to tướng, nghĩa là CS đă cho công binh dọn đường trước, bằng cách cho cưa tất cả các cây lớn mà chiến xa không ủi ngă được. Bọn CS đă không cưa đứt hẳn để cây đổ xuống làm phi cơ quan sát được, mà chỉ cưa 2/3 cây thôi. Trên máy bay do thám của ta luôn luôn thấy cây cối um tùm như thường, không có con đường nào băng qua rừng cả. Đến khi mặt trời lặn chiến xa cứ việc trực chỉ Ban Mê Thuột, và khi gặp những thân cây lớn, chiến xa cứ ủi xập những cây mà công binh đă cưa sẳn 2/3. cây lớn đều nằm rạp xuống và chiến xa cứ thế mà tiến lên dễ dàng. Khi gần tới thị xă, CS đă cho pháo kích vào thị xă để che lấp tiếng động cơ của các chiến xa đang di chuyển...
    3. Làm sao Địa phương quân có thể tiêu diệt chiến xa?

    Tôi là sĩ quan kỵ binh được giao trọng trách chỉ huy trưởng Tiểu khu Darlac, ngoài ư muốn của tôi. Kinh nghiệm về Thiết giáp vẫn là sở trường của tôi. Khi tôi nhận nhiệm vụ lẽ tất nhiên tôi đă để ư nhiều về những con ngựa sắt này. Tất cả thiết giáp của ta đều được điều dộng về Pleiku hết. Ban Mê Thuột chỉ c̣ có 2 chiếc Commando car để tuần tiểu, hộ tống cho các đoàn công voa hay các cấp chỉ huy. Trong đầu tôi bao giờ cũng đặt ra câu hỏi, liệu CS tấn công các chi khu hay đồn bót bằng chiến xa th́ sao? V́ vậy, việc đầu tiên nghĩ đến là loại súng M72, loại chống chiến xa mà Quân đội Hoa Kỳ cung cấp. Tôi bèn xin BTL Quân đoàn 2 cho trang bị loại súng trên cho Tiểu khu. Không có toán, tiểu đội, trung đội, đại đội nào thuộc Địa hương quân của Tiểu khu Darlac là không có trang bị M72. Ngay cả những Trung đội Nghĩa quân nữa. Tôi chỉ thị cho các sĩ quan và binh sĩ đều phải sử dụng M72 một cách nhanh nhẹn và chính xác. Tôi c̣n luôn luôn kiểm soát chặt chẽ và khi tôi thanh tra bất cứ một đơn vị thuộc Tiểu khu Darlac, bất cứ đâu, từ sĩ quan đến binh sĩ đều lưu lại khảo hạch và chờ biểu diễn cách sử dụng M72 chống chiến xa, cũng như ân cần nhắc nhở mọi người làm sao tăng hiệu năng của của súng và bắn cho chính xác. Trong trận đánh Ban Mê Thuột, 9 chiến xa CS nằm ụ trên đường Thống Nhất hoặc trước mặt BCH Tiểu khu và Dinh Tỉnh trưởng đều là công đầu của các chiến sĩ Địa phương quân Tiểu khu Darlac. Ai cũng biết, các oanh tạc cơ của ta không được thả bom vào thị xă mà chỉ được đánh bom vào các mục tiêu ven thị xă mà thôi. Oanh tạc cơ của ta chỉ có một lần đánh vào chiến xa địch trước mặt BTL Sư đoàn 23 BB với 2 quả bom. Nhưng thảm thương thay lại đánh trúng Trung tâm Hành quân của Mặt trận Ban Mê Thuột. Tôi cũng cần minh xác, tôi viết ra đây những sự kiện này, không phải là kể công cho Tiểu khu Darlac hay phiền trách Không quân, mà là những lời nói danh dự của một sĩ quan QLVNCH biết tự trọng, liêm sỉ và sự trung thực gởi đến các chiến hữu đă sát cánh bên nhau trong những ngày lửa đạn và các bạn.

    Tôi cũng xin kể thêm, năm 1984, trong thời gian tôi ở trại tù Nam Hà — Hà Nam Ninh. Một buổi sáng tôi đang gánh nước tưới rau, v́ tôi thuộc trung đội trồng rau cho trại. T́nh cờ tôi gặp một thanh niên trạc ngoài 30 tuổi, lại chào tôi:

    - Chào Đại tá.

    - Thôi cứ gọi nhau bằng anh em đi, v́ nước mất nhà tan rồi, c̣n đâu là tá với tướng.

    - Không! Riêng với Đại tá, tôi vẫn tôn kính là Đại tá. Tôi phục Đại tá là chưa có Địa phương quân của Tiểu khu nào mà bắn cháy được chiến xa CS được. Riêng chỉ có Địa phương quân Darlac là tiêu diệt được T54 của địch. Tôi c̣n nhớ ngày 11/3/75, tôi là người đi dọc theo đường Thống Nhất để lấy tin tức về báo cáo cho Đại đội 23 Thám sát của tôi. Tôi đă đếm được 10 chiến xa bị bắn cháy.. Sự thán phục ấy đến nay tôi mới gặp Đại tá để bày tỏ nỗi niềm cũng như chào kính và thăm hỏi Đại tá.

    - Vậy anh là ai và ở đâu?

    - Tôi tên là Chí trước thuộc Đại đội Thám báo Sư đoàn 23 BB. Hiện nay tôi c̣n bị tù ở đây cùng với Đại tá nhưng ở khu khác.

    - Cám ơn anh về những lời khen cho Địa phương quân Tiểu khu Darlac. Xin anh một điều là từ bây giờ chúng ta cứ gọi là anh em thôi. V́ như tôi đă nói lúc năy, đất nước đă mất rồi, chúng ta chỉ c̣n t́nh nghĩa để đối với nhau mà thôi.

    - Dạ nếu như Đại tá cho phép th́ tôi vâng.
    Ḷng tôi dâng lên một niềm vui sướng cho buổi gặp gỡ ngắn gọn ấy. Thứ nhất là dù trong hoàn cảnh tù đày anh em vẫn tôn kính nhau và họ nhận ra tôi đă không làm điều sai quấy khi c̣n tại chức. Đây cũng là phần thưởng cho tôi v́ trong tù anh em thường hay nói với nhau:”Khi ở tù rồi mới biết ai là tướng tá thật, ai là tướng tá giả — đáng kính hay đáng khinh...

    Thứ hai là anh Chí đă xác nhận số chiến xa bị bắn cháy mà do Thiếu tá Trưởng Pḥng 3 báo cáo cùng tôi là 9 chiếc mà bây giờ là 10 chiếc.
    4. Tướng Phạm Văn Phú là tướng giỏi hay dở?

    Tướng Phú hoàn toàn bị địch đánh lừa và ít ra không có kinh nghiệm chiến trường Cao nguyên. Trước kia, khi c̣n Quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại VN, tin tức t́nh báo chiến lược hay tin tức liên quan đến các đơn vị lớn của VC đều do Mỹ cung cấp. Nhưng sau Hiệp định Paris, nguồn tin từ Mỹ đều chấm dứt và Pḥng 2 của ta chỉ c̣n khả năng lấy tin tức các đơn vị chính qui Bắc Việt bằng cách t́m điện đài của địch. V́ biết được yếu điểm này của QLVNCH, nên CS vẫn cho điện đài phát thanh hàng ngày như thường lệ và tuyệt đối im lặng truyền tin trong khi di chuyển về phía Nam. V́ vậy Tướng Phú cứ đinh ninh là các Sư đoàn Bắc Việt vẫn c̣n ở phía Tây Pleiku và Kontum.
    5. Tổng Thống và Tổng Tham mưu Trưởng

    Nếu qui trách nhiệm cho Tướng Phú làm mất Ban Mê Thuột v́ dở là quá sai. V́ kế hoạch hành quân hay bố trí các đơn vị để pḥng thủ các Vùng đều được Tổng Tham Mưu Trưởng và Tổng Thống (Tổng Tư Lệnh) duyệt xét và chấp thuận mới được thi hành. Quân đoàn 2 và Tướng Phú được sự chỉ huy trực tiếp của Tổng TMT và TT. Mất Ban Mê Thuột đâu phải trách nhiệm riêng ǵ của Tướng Phú mà chính là Tổng TMT và TT. Các đơn vị chia sẻ trách nhiệm như Pḥng 2 Bộ Tổng Tham Mưu, Cục An ninh Quân đội, Đơn vị 101/TTM. Tất cả các cơ quan trên làm ǵ, để các đại đơn vị Bắc Việt di chuyển về phía Nam, để đánh vào thị xă Ban Mê Thuột? Ai là người dám công khai lănh nhận trách nhiệm? Cho đến nay, trong chiến tranh VN mới chỉ có thấy ông cựu Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara là dám nói lên lỗi lầm của ông ấy mà thôi. Bằng một cuốn sách, McNamara nhận trách nhiệm. C̣n ai nữa? Hay tất cả chỉ cầu mong thời gian khỏa lấp vào “cuối trời lăng quên” hay là viết hồi kư để rửa tay kiểu quan Phi-la-tô trong Thánh kinh khi trao Đức chúa Giésu cho dân chúng muốn làm ǵ th́ làm, muốn giết chúng mày cứ việc giết, tao không có trách nhiệm ǵ hết? Ngụy biện quá sức.
    6. Hăy so sánh lực lượng đôi bên

    a) Lực lượng Quân đoàn 2

    - Sư đoàn 22 BB
    - Sư đoàn 23 BB
    - 4 Liên đoàn BĐQ (bằng 1 sư đoàn)
    - 1 Lữ đoàn Thiết giáp
    - 1 Sư đoàn Không quân (Sư đoàn 6 Không quân)
    - 1 Trung đội Hoả tiển TOW

    b) Lực lượng CS

    - Sư đoàn 320
    - Sư đoàn F10
    - Sư đoàn Sao Vàng
    - Sư đoàn 968
    - Pháo binh 130
    - Pháo binh Pḥng không (Sư đoàn)
    - Thiết giáp (Lữ đoàn)
    - Các đơn vị Công binh
    - Các đơn vị Đặc công (2 Trung đoàn)

    Nh́n qua tương qua giữ ta và địch, với nhiệm vụ pḥng thủ, ta có thể làm tṛn nhiệm vụ một cách dễ dàng. Trong binh pháp ai cũng biết, một lực lượng tấn công, phải gấp 3 lần lực lượng pḥng thủ mới mong thắng trận được. Mất Ban Mê Thuột ta đă bị đánh lừa, v́ ta không biết địch tấn công ở đâu, cũng giống như trên bàn cờ tướng, ta thua v́ không biết nước chiếu của đối thủ.
    7. Bài học của người Pháp

    Khi c̣n là Đại úy, tôi đă có dịp theo học một khóa tham mưu, trong đó học chiến thuật, chiến lược. Người Pháp đă để lại một tài liệu nói về Cao nguyên. Đại ư:”Muốn giữ Cao nguyên th́ phải giữ Ban Mê Thuột. Muốn giữ miền Nam phải giữ Cao nguyên”. Phải chăng qua nhận dịnh đó, chúng ta đă mắc tới 3 sai lầm:

    - Dời Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 về Pleiku?
    - Tập trung quân giữ Kontum và Pleiku?
    - Bỏ Cao nguyên để giữ miền Nam?
    8. Những chuyện nghe được từ trong tù

    Tại trại tù Nam Hà (Hà Nam Ninh), tôi được biết đứa con út của tôi đă chết tại xă Châu Sơn cách thị xă Ban Mê Thuột chừng hơn 3km. Số là khi CS tràn ngập tư dinh Tỉnh trưởng Darlac, các con tôi đă theo chân những binh lính trong dinh chạy trú ẩn tại nhà cha Tâm, cha sở xă Châu Sơ, một xă phần đông là người Công giáo từ Bắc di cư vào Nam năm 1954, nên có tinh thần chống Cộng cao độ. CS đă nă pháo kích như mưa vào làng, làm trúng hầm trú ẩn gia đ́nh cha Tâm. Kết quả là đứa con út tôi và 2 đứa cháu của cha Tâm bị tử thương. Cũng trong tù CS, tôi có gặp Đại tá Nguyễn Văn Của, Thiết giáp, Tỉnh trưởng tỉnh Châu Đốc đă có dịp nói chuyện cho tôi biết: “Khi thị xă Ban Mê Thuột bị mất, TT Thiệu đă triệu các Tỉnh trưởng về họp tại Dinh Độc lập và có phán một câu xanh rờn, “Thằng Luật trở về tŕnh diện, tôi sẽ xử bắn ngay v́ bỏ chạy mà không giữ được thị xă. C̣n các anh cũng vậy, ai bỏ tỉnh mà chạy, tôi cũng bắn ngay”.

    Nghe lời kể của anh Của mà ḷng tôi xót xa. Ở đời ai có hiểu ḿnh và tôi lại nhớ tới bài hát “Bay Đêm” của Song Ngọc có câu “Ở đời ai hiểu ai...” để an ủi chính ḿnh trong đời lao tù không có ngày ra này. Thêm nữa, cũng may cho tôi là tôi đă không có bỏ tỉnh, chạy trước khi địch quân đến như ít vị Tỉnh trưởng khác và cũng may là tôi c̣n ở lại cố thủ để bị bắt tại chiến trường. Nếu không bị xui xẻo v́ bị oanh tạc lầm vào TOC, nếu quân tiếp viện đến kịp thời th́ đâu đến nỗi bị bắt và ở tù tại miền Bắc 13 năm, 5 tháng, 25 ngày.

    Để chấm dứt bài này, sau khi gia đ́nh tôi đă được định cư tại Mỹ, qua diện HO. V́ chưa ổn định được đời sống nên tôi chưa có dịp diện kiến TT Thiệu để thưa lại vị Tổng tư lịnh của tôi đôi điều. Có một cảm nghĩ mà tôi cứ suy nghĩ măi là các Tướng VNCH có đọc truyện Tàu không, nhất là Tướng Phú, để không bị CS đánh lừa ở vùng 2. V́ nếu đọc truyện Tàu đời xưa, chúng ta đều biết trận đánh giữa Hàn Tín và Hạng Vơ được gọi là “Minh tu sạn đạo; ám độ trần thương”.

    Đại Tá Nguyễn Trọng Luật
    (Florida, 6/95)

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771


    Quân Đoàn III Quân Khu III



    Quân khu 3 VNCH bao gồm 10 tỉnh Phước Long, B́nh Long, Long Khánh, B́nh Tuy, Phước Tuy, Biên Ḥa, B́nh Dương, Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An và Biệt khu Thủ đô Sài G̣n-Gia Định.

    Lực lượng chủ lực chiến đấu tại QK 3 là QD 3 gồm các sư đoàn SD 5 BB, SD 18 BB và SD 25 BB, đơn vị yểm trợ tác chiến có LD 3 KB. Về Không yểm có SD 3 KQ và SD 5 KQ. Hải quân Vùng 3 Sông Ng̣i lo về phần yểm trợ trên hệ thống sông ng̣i. Lực lượng trừ bị chiến thuật gồm các liên đoàn LD 3 BDQ, LD 5 BDQ và LD 6 BDQ. Các đại đơn vị này có trách nhiệm pḥng thủ những vùng sau đây. Sư đoàn 5 BB chịu trách nhiệm các tỉnh B́nh Dương, B́nh Long và Phước Long, bảo vệ hướng bắc của Sài G̣n. Sư đoàn 18 BB chịu trách nhiệm các tỉnh B́nh Tuy, Phước Tuy, Long Khánh và Biên Ḥa, bảo vệ hướng đông của Sài G̣n. Sư đoàn 25 BB chịu trách nhiệm các tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa và Long An, bảo vệ Sài G̣n theo một ṿng cung từ tây bắc đến tây nam.

    T́nh h́nh quân sự ở QK 3 kể từ cuối năm 1971 và đầu năm 1972 được ghi nhận là rất tốt. Những mật khu và căn cứ địa của địch đặt dọc theo biên giới Cam Bốt đă bị Quân đội VNCH phá nát trong cuộc hành quân vượt biên năm 1970. Trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 3/1972, cơ quan quân báo VNCH xác nhận đă có sự hiện diện của Sư đoàn 5 CSBV tại Snoul, cách Lộc Ninh khoảng 30km về phía tây bắc trên quốc lộ 13. Hai sư đoàn khác là 7 và 9 cũng đang đóng quân tại các đồn điền Dambe và Chup (Cam Bốt). Cả ba sư đoàn CSBV này đều đă qua những đợt chỉnh quân và học tập chính trị trong suốt những tháng đầu năm 1972.

    Nhưng đến cuối tháng 3, t́nh báo VNCH đă ghi nhận được sự chuyển quân của SD 9 CSBV. Theo một tài liệu bắt được trong một cuộc hành quân ở Tây Ninh th́ sư đoàn này đang chuyển quân đến căn cứ 708 trong vùng Lưỡi câu (Fishook Area), phía tây của tỉnh B́nh Long. Tài liệu cho thấy là địch đă có kế hoạch tấn công vào Quân đoàn 3, mục tiêu là tỉnh B́nh Long chứ không phải là tỉnh Tây Ninh như t́nh báo của ta trước đây đă dự đoán. Ngày 27 tháng 3/1972 một hồi chánh viên thuộc toán trinh sát của SD 7 CSBV đă khai rằng có nhiệm vụ đi điều nghiên con đường từ Tây Ninh đến B́nh Long để chuẩn bị đợt chuyển quân của sư đoàn này. Mặc dầu những thông tin tương đối chính xác này, Bộ Tư lệnh QD 3 – QK 3 vẫn không đặt trọng tâm theo dơi vào tỉnh B́nh Long dù là lực lượng pḥng thủ VNCH ở B́nh Long yếu hơn nếu so sánh với Tây Ninh, v́ cho rằng B́nh Long ở xa các mật khu CSBV hơn là Tây Ninh.

    Đơn vị VNCH pḥng thủ chính lúc đó ở tỉnh B́nh Long là Chiến đoàn Đặc nhiệm 52 gồm hai tiểu đoàn của TRD 52 BB với hai pháo đội 105 và 155 ly đặt tại căn cứ hỏa lực TF-52, nằm trên trục giao thông liên tỉnh lộ 17 và quốc lộ 13 nối liền Lộc Ninh và An Lộc, thủ phủ của tỉnh B́nh Long. Cộng quân bắt đầu mở cuộc tấn công vào QK 3 sáng sớm ngày 2 tháng 4/1972 bằng TRD 24 biệt lập với sự yểm trợ của xe tăng vào căn cứ hỏa lực Lạc Long, sát vùng biên giới 35km về phía tây bắc của thành phố Tây Ninh, được bảo vệ bởi một tiểu đoàn của TRD 49 BB. Căn cứ này đă bị thất thủ vào buổi trưa cùng ngày. Sự thất thủ nhanh chóng của căn cứ hỏa lực Lạc Long đă khiến Bộ Tư lệnh QD 3 đi đến một quyết định nhanh chóng là cho triệt thoái tất cả những căn cứ dọc theo vùng biên giới Cam Bốt. Những tiền đồn nhỏ này rất khó bảo vệ so với lực lượng đông đảo của địch, nên tốt hơn hết là cho di tản và củng cố lại pḥng thủ chiều sâu để tránh sự mất mát về người và vũ khí. Tiếp theo đó, tất cả những lực lượng này đă thiết lập một ṿng đai pḥng thủ quanh thành phố Tây Ninh.

    CSBV đă tung vào chiến trường B́nh Long ba sư đoàn chính quy và hai trung đoàn biệt lập địa phương với một trung đoàn thiết giáp. Giai đoạn đầu là đánh lạc hướng ta bằng cách xử dụng hai trung đoàn địa phương phá rối ở Tây Ninh. Giai đoạn hai, Sư đoàn 5 mở cuộc tấn công vào Lộc Ninh và sau đó Sư đoàn 9 tấn công và chiếm giữ thị trấn An Lộc. Trong khi đó Sư đoàn 7 án ngữ phía nam của An Lộc và ngăn chận không cho những đơn vị tiếp viện tiến về An Lộc theo quốc lộ 13. Sau khi chiếm Lộc Ninh, Sư đoàn 5 sẽ tiến về Tây Ninh, cô lập thành phố và đánh phá những lực lượng của SD 25 BB đang bảo vệ ở đây.

    12/1974 - Từ sau Hiệp định Paris 1973, CSBV đă đưa vào miền Nam hơn hằng trăm ngàn bộ đội, hằng ngàn đại bác, chiến xa hạng nặng và một số lớn vũ khí pḥng không hiện đại nhằm chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công mới sau khi bị thảm bại nặng nề mùa Hè 1972. Đồng thời qua đó Hà Nội muốn trắc nghiệm sức mạnh và sự kháng cự của QLVNCH, đặc biệt là đo lường quyết tâm yểm trợ của Hoa Kỳ cho VNCH.

    Sáng ngày 16 tháng 5/1974, tại tỉnh B́nh Dương hai trung đoàn thuộc SD 9 CSBV cùng nhiều chiến xa khởi sự tập trung pháo kích mănh liệt vào ấp Rạch Bắp, An Điền và căn cứ 82 do các tiểu đoàn Địa phương quân trấn giữ. Giao tranh đă diễn ra dữ dội cho đến tối ngày 17 tháng 5, th́ quân trú pḥng buộc phải rút bỏ pḥng tuyến. Tiếp theo đó vào tháng 6/1974, các đơn vị của Quân đoàn 3 đă phối hợp mở những cuộc hành quân tái chiếm các vùng lănh thổ bị mất.

    Trong việc bảo vệ Sài G̣n, hai ngỏ B́nh Long và Phước Long cũng quan trọng như Tây Ninh. Từ Chiến khu D, Cộng quân có thể tiến từ B́nh Long theo quốc lộ 13 qua Chơn Thành xuống Lai Khê và từ Phước Long qua ngả Đồng Xoài vào Phú Giáo c̣n nhanh hơn từ Tây Ninh theo quốc lộ 22 qua ngă G̣ Dầu Hạ. Ngay từ tháng 10/1974, Bộ Tư lệnh SD 5 BB đă đệ tŕnh kế họach bảo vệ Phước Long, nhưng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă để qua một bên.

    Đầu tháng 12/1974, CSBV cho mở một vài cuộc tấn công gần Tây Ninh để nhử các đơn vị trừ bị của QLVNCH đến tăng cường cho tỉnh này. Ngày 13 tháng 12/1974, ba Sư đoàn 3, 7 và 9 CSBV đồng loạt tấn công vào năm mục tiêu trong tỉnh Phước Long được bảo vệ bởi một số đơn vị Địa phương quân và đă chiếm được hai tiền đồn Bố Đức và Đức Phong ngày hôm sau. Quận Đôn Luân do một tiểu đoàn Địa phương quân trấn giữ đă anh dũng đẩy lui được đợt tấn công đầu tiên, tuy nhiên quốc lộ 14 đă bị Cộng quân cắt đứt. Không quân VNCH phải vận tăi tiếp liệu và di tản thương binh cùng thường dân bằng phi cơ C-130, nhưng sau đó Cộng quân đă pháo kích vào phi trường Phước B́nh, tiêu hủy một chiếc C-130, làm hư hỏng một chiếc khác. Phi trường Phước B́nh đă bị Cộng quân pháo kích hàng ngàn trái đạn do đó không c̣n sử dụng được.



    Ngày 26 tháng 12/1974, sau 13 ngày anh dũng chống trả, Chi khu Đôn Luân bị thất thủ sau khi Cộng quân pháo kích hàng ngàn đạn pháo binh rồi sử dụng chiến xa và bộ binh tràn ngập quận lỵ. Sau khi Đôn Luân bị thất thủ, các đơn vị của QLVNVH đă chống trả các cuộc tấn công biển người của 3 sư đoàn Cộng quân với sự yểm trợ của chiến xa T-54 và đại pháo 130 ly trong hơn 10 ngày. Nửa đêm 6 tháng 1/1975, sau khi các vũ khí hạng nặng và trang bị truyền tin bị pháo địch phá hủy hoàn toàn, dưới những trận tấn công biển người ào ạt của Cộng quân, một số mấy trăm chiến sĩ thuộc các binh chủng Biệt động quân, Biệt kích Dù, Địa phương quân-Nghĩa quân thuộc tỉnh Phước Long đă rút được vào những khu rừng rậm quanh tỉnh lỵ Phước B́nh. Trong tổng số 5000 quân nhân, cảnh sát và cán bộ tỉnh Phước Long, chỉ có hơn 1000 người đă thoát được và trở về tŕnh diện Quân đoàn 3.

    4/1975 - Tính đến ngày 19 tháng 4/1975, VNCH đă triệt thoái trọn vẹn khỏi lănh thổ Quân khu 1 và 2. Về khả năng tham chiến, bấy giờ QLVNCH c̣n sáu sư đoàn Bộ binh đủ quân số (SD 5 BB, SD 7 BB, SD 9 BB, SD 18 BB, SD 21 BB và SD 25 BB), hai sư đoàn tổng trừ bị (SD ND và SD TQLC), hai lữ đoàn Kỵ binh (LD 3 TK và LD 4 TK), gần 10 liên đoàn BDQ, và hơn 30 tiểu đoàn pháo binh của các sư đoàn và quân đoàn.

    Sau hơn 10 ngày ác chiến với 4 sư đoàn CSBV, vào ngày 20 tháng 4/1975, toàn bộ lực lượng VNCH tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc-Long Khánh được lệnh rút khỏi chiến trường này để về Phước Tuy. Cuộc rút quân diễn ra từ chiều ngày 20 tháng 4/1975 đến sáng ngày 22 tháng 4, tất cả các đơn vị đă có mặt tại các vị trí mới do Bộ Tư lệnh QD 3-QK 3 phối trí.

    Sau khi về đến Long Lễ, Phước Tuy trong ngày 21 tháng 4/1975, Sư đoàn 18 BB được Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 cho nghỉ dưởng quân hai ngày tại Long B́nh. Sau đó các đơn vị trực thuộc sư đoàn này được điều động đi tăng cường pḥng thủ tuyến mặt đông Thủ đô Sài G̣n, kéo dài từ Tổng kho Long B́nh đến kho đạn thành Tuy Hạ, tiếp cận với lực lượng của các quân trường như trường Bộ binh Thủ Đức, trường Thiết giáp v.v. Lữ đoàn 1 ND được bố trí giữ Phước Tuy, bảo vệ quốc lộ 15 từ Long Thành về Bà Rịa, và là lực lượng tiếp ứng cứu Vũng Tàu khi thành phố này bị tấn công.

    Với kế hoạch phối trí mới để bảo vệ Sài G̣n của Bộ Tư lệnh QD 3, kể từ 22 tháng 4/1975, pḥng tuyến án ngữ phía bắc và phía đông của QD 3-QK 3 được thành h́nh với liên tuyến Trảng Bom-Long Thành-Phước Tuy. Lực lượng chính tại pḥng tuyến này có SD 18 BB, LD 1 ND, LD 3 KB và LD 468 TQLC tân lập. Trước đó, thành phần c̣n lại của LD 147 TQLC sau khi rút khỏi Quân khu 1 cùng LD 258 TQLC cũng đă được tăng phái cho Quân đoàn 3 và là lực lượng bảo vệ phía bắc của phi trường Biên Ḥa. Về lực lượng pḥng thủ ṿng đai xa của Sài G̣n, ngoài SD 18 BB của Tướng Lê Minh Đảo, c̣n có SD 25 BB của Tướng Lư Ṭng Bá phụ trách pḥng tuyến Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An, SD 5 BB của Tướng Lê Nguyên Vỹ phụ trách pḥng tuyến B́nh Dương.

    Ngày 22 tháng 4/1975, tại các tỉnh B́nh Dương và Biên Ḥa, CSBV bắt đầu gia tăng các đợt pháo kích bằng hỏa tiễn và đại bác 130 ly. Tin tức t́nh báo cho biết Cộng quân đang siết chặt ṿng vây quanh Sài G̣n bằng nhiều mũi dùi, mỗi mũi là một quân đoàn gồm 2 đến 3 sư đoàn bộ binh có thiết giáp và pháo binh yểm trợ.



    Sáng ngày 27 tháng 4/1975, t́nh h́nh Thủ đô Sài G̣n đă trở nên sôi động khi Cộng quân bắt đầu pháo kích vào ṿng đai phi trường Tân Sơn Nhất, tiếp đó một đơn vị Đặc công CSBV đă tấn công cầu xa lộ Tân Cảng và cầu xa lộ Biên Ḥa. Lực lượng của Biệt khu Thủ đô đă được điều động khẩn cấp để giải tỏa áp lực địch. Đến chiều cùng ngày, địch quân phải rút lui sau khi bị tổn thất nặng.

    4/1975 - Ngày 29 tháng 4/1975, CSBV bắt đầu tấn công bằng bộ binh và thiết giáp vào Sài G̣n bằng hai mũi: Phú Lâm và cầu Nhị Thiên Đường. Từ sáng sớm, Bộ Tổng Tham mưu, căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất và Bộ Tư lệnh Hải quân tại bến Bạch Đằng đă trở thành mục tiêu của những đợt pháo kích liên tiếp của Cộng quân. BTTM và Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ bị thiệt hại nhẹ nhưng tại căn cứ Tân Sơn Nhất, các băi phi cơ đậu, các ụ xăng dầu và các trạm truyền tin đều bị đạn pháo bắn trúng. Quanh ṿng đai Sài G̣n, chiến trận diễn ra khốc liệt tại Long An, Hậu Nghĩa, B́nh Dương, Biên Ḥa.

    Tại Long An, các đơn vị SD 22 BB đă giao chiến quyết liệt với hai trung đoàn Cộng quân muốn chọc thủng pḥng tuyến thị xă Tân An.

    Tại mặt trận Củ chi, Hậu Nghĩa, 7 giờ sáng ngày 29/4, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Hậu Nghĩa bị mất liên lạc với Bộ Tư lệnh QD 3-QK 3. Tại pḥng tuyến Củ Chi của SD 25 BB, Cộng quân tung 1 sư đoàn chính quy CSBV có một trung đoàn chiến xa yểm trợ tấn công ồ ạt vào các vị trí của quân trú pḥng. Từ hầm chỉ huy, Chuẩn tướng Lư Ṭng Bá trực tiếp điều động các tuyến chống trả các đợt xung phong biển người của địch quân và xin trực thăng chiến đấu yểm trợ. Quốc lộ 22 Củ Chi-Sài G̣n bị đắp mô, giao thông tắc nghẽn. Đêm 29 tháng 4, Bộ Tư lệnh SD 25 BB phải bỏ pḥng tuyến Củ Chi rút về Hóc Môn.

    Tại B́nh Dương, căn cứ Lai Khê bị pháo kích dữ dội suốt đêm 28 và rạng sáng ngày 29 tháng 4. Quận lỵ Bến Cát bị một trung đoàn Cộng quân tấn công. Quốc lộ 13 bị cắt đứt tại đoạn giữa thị xă Phú Cường và Lai Khê. Sáng ngày 29 tháng 4, nhiều biệt đội Đặc công của địch đă lọt được vào Phú Cường và đóng chốt nhiều nơi trong thị xă.

    Tại tuyến pḥng thủ Trảng Bom, Biên Ḥa, do một đơn vị thuộc SD 18 BB phụ trách, vào 7 giờ 30 sáng, nhiều vị trí bị Cộng quân chọc thủng và đến 10 giờ pḥng tuyến này hoàn toàn bị Cộng quân tràn ngập. Một số đơn vị của Sư đoàn 18 BB rút về phía nam căn cứ Long B́nh, LD 258 TQLC án ngữ mặt bắc Long B́nh cũng bị tấn công. Lúc 11 giờ sáng, Cộng quân pháo kích liên tục căn cứ Long B́nh và tấn công vào pḥng tuyến phía nam nhưng bị Sư đoàn 18 Bộ binh đẩy lùi. Tại căn cứ kho đạn thành Tuy Hạ, quận Nhơn trạch, nhiều vựa chứa đạn trong kho đă bị pháo kích và ṿng đai pḥng thủ kho đạn đă bị khoảng 2 tiểu đoàn Cộng quân bao vây. Tại Biên Ḥa, quận lỵ Tân Uyên bị tấn công ác liệt. Lực lượng Địa phương quân và Cảnh sát Dă chiến pḥng thủ quân lỵ đă phải bỏ pḥng tuyến, thị xă bỏ ngỏ. Bộ Tư lệnh QD 3-QK 3, căn cứ Không quân Biên Ḥa, và một số doanh trại quân đội gần Biên Ḥa, dọc xa lộ Biên Ḥa-Sài G̣n cũng bị pháo kích.



    Rạng sáng 29 tháng 4, quận lỵ Hóc Môn, tỉnh Gia Định, bị tấn công, đơn vị DPQ-NQ trú pḥng bị thiệt hại nặng. Trung tâm Huấn luyện Quang Trung và khu vực Tiếp vận Hạnh Thông Tây, G̣ Vấp, cũng bị tấn công, pháo kích từ 1 giờ sáng. TD 43 BDQ thuộc LD 4 BDQ từ Long B́nh được lệnh của Biệt khu Thủ đô tăng phái pḥng thủ Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Thiếu tướng Trần Bá Di, Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, đă huy động những tân binh quân dịch ngăn không cho Cộng quân xâm nhập từ hướng Hậu Nghĩa. Mặc dù các tân binh không có kinh nghiệm chiến trường nhưng đă bắn hạ được 4 chiến xa địch.

    4/1975 - Tại pḥng tuyến Củ Chi, tối 29 tháng 4/1975, SD 25 BB lui về Hóc Môn. Chuẩn tướng Lư Ṭng Bá, Tư lệnh Sư đoàn, bị lọt vào tay địch khi ông và người cận về gần đến Hóc Môn.

    Tại mặt nam Sài G̣n, v́ ngay từ ngày 28 tháng 4/1975, Biệt khu Thủ đô đă không c̣n quân trừ bị để giải tỏa áp lực của Cộng quân, một Liên đoàn BDQ đang hành quân dọc theo quốc lộ 4 phía nam Bến Tranh được điều động về quận lỵ Cần Đước và đặt dưới quyền điều động của Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. liên tỉnh lộ 5A nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị địch cắt nhiều đoạn.

    Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi th́ kho đạn thành Tuy Hạ tại Nhơn Trạch, Biên Ḥa lại bị pháo kích nặng nề nên phát nổ nhiều nơi. Hệ thống truyền tin liên lạc với bộ Chỉ huy kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ chiều. Xe tăng CSBV xuất hiện tại Cát Lái và bắn vào cầu tàu chất đạn chưa được bốc dỡ.

    Khoảng lúc 12 giờ đêm ngày 30 tháng 4/1975, Cộng quân tấn công dữ dội bằng bộ binh và chiến xa khắp các pḥng tuyến tại Biên Ḥa, nhất là tại pḥng tuyến Chiến đoàn 315 của Trung tá Đổ Đức Thảo. Hai giờ sáng, pḥng tuyến SD 18 BB của Thiếu tướng Lê Minh Đảo tại Long B́nh bị CSBV tràn ngập, các đơn vị VNCH từ Nghĩa trang Quân đội Biên Ḥa phải rút về Thủ Đức.

    Tại cụm pḥng tuyến từ ngă tư Quân vận (gần trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lương, B́nh Thới, Bà Quẹo, các đơn vị Nhảy dù pḥng ngự tại đây đă nỗ lực ngăn chận Cộng quân. Những người lính Nhảy dù không hề nao núng, b́nh tĩnh chuẩn bị cho trận đánh giờ thứ 25.

    Tại ṿng đai Bộ Tổng Tham mưu, một Chiến đoàn thuộc LD 81 BKD do Thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đă dàn quân chận địch. Từ 8 đến 10 giờ sáng, Chiến đoàn này đă bắn cháy 6 chiến xa Cộng quân và nỗ lực đánh bật địch ra khỏi trận địa.

    Từ sáng sớm, quanh Sài G̣n và Biên Ḥa, mọi đơn vị QLVNCH đều đặt trong t́nh trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân. Tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát từ sáng sớm đă dùng trực thăng bay quan sát t́nh h́nh. Vừa đáp xuống Bộ Tư lệnh, ông liên lạc với Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó, yêu cầu cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân dọc theo con đường từ Hóc Môn xuống ngả tư Bảy Hiền.



    Trong khi các đơn vị QLVNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi Bộ Tổng Tham mưu, th́ vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa ngưng chiến.

  9. #9
    Càng Cua
    Khách
    C̣n QD IV và QK 4 sao không thấy ông alamit viết tiếp ????

  10. #10
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466




    QUÂN ĐOÀN IV QUÂN KHU IV

    Quân đoàn IV (Việt Nam Cộng ḥa)

    Huy hiệu
    Hoạt động 1963 - 1975
    Quốc gia Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng ḥa
    Phục vụ Flag of the Army of the Republic of Vietnam.jpg Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Quân chủng Hỗn hợp
    Phân loại Chủ lực Quân khu
    Quy mô Quân đoàn
    Bộ phận của ARVN Joint General Staff Insignia.svg Bộ Tổng Tham mưu
    Bộ chỉ huy Đại lộ Ḥa B́nh, thị xă Cần Thơ, tỉnh Phong Dinh, Việt Nam Cộng ḥa
    Khẩu hiệu Tự thắng - Tự cường
    Tham chiến - Trận Ấp Bắc
    - Trận Mậu Thân
    - Chiến cuộc 1975
    Các tư lệnh
    Chỉ huy
    nổi tiếng - Huỳnh Văn Cao
    - Dương Văn Đức
    - Nguyễn Văn Thiệu
    - Nguyễn Viết Thanh
    - Ngô Quang Trưởng
    - Nguyễn Khoa Nam

    Quân kỳ
    Quân đoàn IV là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải - Lục - Không quân, là một trong bốn quân đoàn chủ lực của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa và là Quân đoàn được thành lập sau cùng. Đây là Quân đoàn có nhiệm vụ kiểm soát địa bàn gồm các tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

    Vào giai đoạn cuối tháng 4 năm 1975, khi các Quân đoàn khác đă bị tan ră hoặc không c̣n sức chiến đấu th́ lực lượng của Quân đoàn IV gần như vẫn c̣n khá nguyên vẹn. Chỉ huy Quân đoàn này đă lập ra "Kế hoạch mật khu", theo đó sẽ cố thủ vùng đồng bằng sông Cửu Long nếu Sài G̣n thất thủ, tuy nhiên kế hoạch này đă phá sản do phần lớn sỹ quan cấp dưới đă bỏ chạy, bộ máy chỉ huy đă rối loạn đến mức không thể điều khiển được các đơn vị dưới quyền. Quân đoàn đă buông súng sau khi có lệnh đầu hàng từ Tổng thống Dương Văn Minh. Một số sĩ quan của quân đoàn đă tự sát, trong đó có cả Tư lệnh và Tư lệnh phó Quân đoàn.
    Lịch sử h́nh thành
    Tiền thân của Vùng IV chiến thuật là Đệ ngũ Quân khu, được thành lập ngày 26 tháng 10 năm 1956[1]. Địa bàn của Đệ ngũ Quân khu bấy giờ gồm các tỉnh Long An, Kiến Tường, Kiến Phong, Định Tường, Kiến Ḥa, Vĩnh Long, Vĩnh B́nh, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên Giang, An Xuyên và Đặc khu Côn Sơn. Tuy nhiên, măi đến ngày 14 tháng 2 năm 1957, Đại tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam Cộng ḥa mới kư Công vụ lệnh số 146/TTM/VP chỉ định Chỉ huy trưởng 3 Quân khu kể trên, gồm: Trung tướng Dương Văn Minh, Chỉ huy trưởng Quân khu Thủ đô; Đại tá Nguyễn Văn Y, Chỉ huy trưởng Đệ nhất quân khu; Đại tá Nguyễn Văn Là, Chỉ huy trưởng Đệ ngũ Quân khu. Trung tướng Dương Văn Minh đồng thời kiêm nhiệm chức Tư lệnh 3 quân khu trên.[2]

    Ngày 1 tháng 6 năm 1961, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đă ra sắc lệnh cải tổ các Quân khu thành các Vùng chiến thuật, theo đó Đệ nhất và Đệ ngũ Quân khu được sáp nhập để thành lập Vùng 3 chiến thuật[3]. Tỉnh Côn Sơn được tách ra, trực thuộc vào Bộ Tư lệnh Hải quân.[4]. Tuy nhiên, do lănh thổ của Vùng 3 chiến thuật khi đó tương ứng với địa bàn rộng lớn của Nam Bộ, gây ra rất nhiều khó khăn trong kiểm soát địa bàn. Do nhu cầu cần có thêm các đơn vị chủ lực nữa để hỗ trợ và chia sẻ vùng hoạt động, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm quyết định thành lập thêm Sư đoàn 9 vào ngày 1 tháng 1 năm 1962) và Sư đoàn 25 Bộ binh vào ngày 1 tháng 7 năm 1962. Như vậy, trên địa bàn của Đệ ngũ Quân khu cũ có các Sư đoàn bộ binh: Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 và Sư đoàn 21 phụ trách.

    Ngày 1 tháng 1 năm 1963, Tổng thống Diệm cho thành lập Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật từ phần lănh thổ miền tây Nam phần, với ṇng cốt là các Sư đoàn 7, 9 và 21. Đại bản doanh của Quân đoàn được đặt tại Cần Thơ và Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao làm Tư lệnh đầu tiên. Phần lănh thổ trách nhiệm của Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật gồm 16 tỉnh và một Đặc khu thuộc miền tây Nam phần, tổ chức thành 3 Khu chiến thuật: Khu chiến thuật 41 (gồm các tỉnh Châu Đốc, An Giang, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh B́nh); Khu chiến thuật 42 (gồm các tỉnh Kiên Giang, Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên); Khu chiến thuật 43 (gồm các tỉnh Định Tường, Kiến Tường, Kiến Phong, Kiến Ḥa, G̣ Công). Ngoài ra, c̣n có Khu chiến thuật đặc biệt bán tự trị 44 làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh khu vực tây bắc đồng bằng sông Cửu Long dọc biên giới Việt Nam-Campuchia (giải thể năm 1973). Riêng Đặc khu Phú Quốc trực thuộc vào Bộ Tư lệnh Hải quân. Mỗi khu chiến thuật là địa bàn hoạt động của một Sư đoàn. Các tỉnh cũng được tổ chức về mặt quân sự thành các Tiểu khu chiến thuật, đứng đầu là một sĩ quan cấp Đại tá hoặc Trung tá với chức danh Tỉnh trưởng (hoặc Thị trưởng) kiêm Tiểu khu trưởng, trực tiếp chỉ huy và điều động các đơn vị Địa phương quân và các Chi khu (trong đó có các Trung đội Nghĩa quân). Quân số của mỗi Tiểu khu tương đương với quân số từ một đến hai Trung đoàn bộ binh nhưng về mặt trang bị không bằng các đơn vị chủ lực. V́ vậy khi cần thiết sẽ được sự hỗ trợ của các sư đoàn chủ lực. Do đó, khi phối hợp tác chiến Tiểu khu trưởng dưới quyền của Tư lệnh Sư đoàn.

    Trận Ấp Bắc
    Bài chi tiết: Trận Ấp Bắc
    Những mùa đảo chính
    Mậu Thân 1968
    Xem thêm: Sự kiện Tết Mậu Thân
    Ngày 1-7-1970, Vùng 4 được đổi tên thành Quân khu 4.

    Chiến cục 1972
    Xem thêm: Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam
    Kế hoạch mật khu phá sản
    Xem thêm: Chiến dịch Hồ Chí Minh
    Last edited by dtkcamau; 19-02-2020 at 02:08 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 27-12-2011, 03:37 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 22-09-2011, 05:14 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 13-08-2011, 02:18 PM
  4. Replies: 8
    Last Post: 07-06-2011, 08:45 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 28-04-2011, 12:11 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •