Page 4 of 6 FirstFirst 123456 LastLast
Results 31 to 40 of 53

Thread: QLVNCH: Những trận đánh cuối cùng.

  1. #31
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    NH̀N LẠI TRẬN ĐÁNH BAN MÊ THUỘT 1975
    Đại Tá Nguyễn Trọng Luật


    Lời Ṭa Soạn: Sau những bài liên quan đến trận đánh Ban Mê Thuột, có nhiều thư từ gởi đến nói lên những nhận xét, góp ư kiến hay những bài tŕnh bày thêm những chi tiết góp phần làm sáng tỏ những bí ẩn của trận đánh này, trong đó có bài dưới đây của Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac khi trận đánh Ban Mê Thuộc xảy ra.

    Như Đại tá Luật nói ngay từ đầu, ông chỉ là một Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng của tỉnh Darlac, quyền hạn của ông rất giới hạn. Tư lệnh chiến trường lúc đó là Đại tá Vũ Văn Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh, ông chỉ là người thừa hành. V́ thế, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông không biết rơ những tin tức t́nh báo mà Quân đoàn 2 đă thu lượm được cũng như những quyết định của Quân đoàn 2 liên quan đến trận Ban Mê Thuột. Nhưng đối với diễn biến của trận đánh, từ khi mở màng cho tới khi kết thúc, ông nắm rất vững, v́ ông là người trong cuộc. Đây là một tài liệu quư báu có thể giúp cho các nhà sử học và các nhà phân tích, phê b́nh hiểu rơ hơn về trận đánh có tính cách quyết định này.

    * * * * *


    Chủ Nhật 9/3/75

    - Tŕnh Đại tá, Thiếu tướng Tư lệnh Quân doàn 2 sẽ đến Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 vào lúc 10 giờ hôm nay để duyệt t́nh h́nh. Trung úy Dzi, sĩ quan tùy viên, sau khi đứng nghiêm chào tôi và nói với tôi như vậy, khi tôi c̣n ngồi tại tư dinh để xem công văn công điện cùng kư những giấy tờ cần thiết cho một ngày làm việc. Không phân biệt ngày cuối tuần, ngày nào cũng là ngày thứ Hai, mà người Mỹ thường nói trên cửa miệng. Với trọng trách Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac, ngày lại ngày tôi rất bận, về hành quân, đi thanh tra, đôn đốc, kiểm soát các chi khu, phân chi khụ Đó là chưa kể dành th́ giờ tiếp đón các phái đoàn từ Saigon ra hay từ Quân đoàn xuống. Nên chỉ c̣n ban đêm và những giờ sáng sớm để xe công văn giấy tờ. Tôi hỏi lại:

    - Xe sẵn sàng chưa?
    - Dạ, thưa sẵn sàng.
    - OK, thôi chúng ta đi.

    Khi tới phi trường Phụng Dực, ḷng tôi như lửa đốt. Phần v́ đêm qua mất ngủ, phần lo số phận của hàng trăm sinh linh đang chiến đấu tại Đức Lập mà VC đă tấn công tối quạ Hiện mất liên lạc không biết c̣n hay mất. Tâm hồn tôi như đang gắn liền với các chi khu, các binh lính dưới quyền ḿnh. Làm sao cho họ an toàn giữa cuộc chiến càng ngày càng tàn khốc này. Hàng đêm vừa chợp mắt là thấy những lo lắng không đâu chợt đến với giấc ngủ muộn màng... Dù quận Đức Lập không phải là vùng trách nhiệm của ḿnh nhưng tiên liệu cho kế hoạch pḥng thủ Darlac vẫn là trọng tâm của tôi trong lúc này. Tôi có một cái nh́n rơ ràng, mất Thuần Mẫn, mất Đức Lập th́ việc tiến chiếm Ban Mê Thuột chỉ c̣n là vấn đề thời gian. Nhưng tiếng nói của tôi có ai nghe trong khi tôi chỉ là một Tiểu khu trưởng trong tay có mấy tiểu đoàn Địa phương quân, mấy Trung đôi Nghĩa quân, Cảnh sát, Nhân dân tự vệ. Tư lệnh chiến trường lại do Đại tá Quang đảm trách, tôi chỉ là cấp thừa hành. Tôi sinh ra trong binh chủng Thiết giáp; nếu tấn công th́ rất thích hợp cho binh chủng này, c̣n pḥng thủ th́ thiết giáp chỉ là bia đỡ đạn cho những tṛ chới của súng chống chiến xạ Tôi càng suy nghĩ bao nhiêu, lại càng nh́n thấy sự bất lực của ḿnh. Con ngựa sắt của tôi đâu, hay bây giờ chỉ c̣n những tay súng tài tử đối chọi với những kẻ gian hùng đang điên khùng xông vào lửa đỏ chẳng khác ǵ những con thiêu thân? Chợt phía Tây, h+ớng về phía Đông, một chiếc Dakota 47 lù lù đang tiến tới và đáp xuống phi trường.

    Máy bay mở cửa, tôi dứng nghiêm chào Tướng Phạm Văn Phú và phái đoàn. Tướng Phú tiến đến bắt tay tôi và ngồi lên xe của Ṭa Hành chánh đi về Ban Mê Thuột. Ngồi cạnh Tướng Phú, tôi thấy ông có vẻ đăm chiêụ Ông không hỏi tôi điều chi, cũng như tôi vẫn giữ im lặng, trông chờ một hy vọng. H́nh như, Tướng Phú đang lo nghĩ về quận Đức Lập, đến bay giờ c̣n hay mất?

    Đoàn xe trực chỉ Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Tướng Lê Trung Tường, Đại tá Vũ Thế Quang đă chờ sẵn để hướng dẫn phái đoàn vào Trung tâm Hành quân Sư đoàn. Tại đây, đă có sự hiện diện của Đại tá Ngh́n, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Quảng Đức để thuyết tŕnh về t́nh h́nh quận Đức Lập lên Tướng Phú và phái đoàn. Nh́n trên bản đồ hành quân, sau mấy câu mở đầu chiếu lệ, Đại tá Ngh́n ngậm ngùi:

    - Cộng quân đă pháo kích và tấn công vào quận Đức Lập vào lúc 5 giờ sáng, rất nặng và thiệt hại đáng kể. Bộ chỉ huy Chi khu đă trúng nhiều đạn pháo binh 130 ly, nên Chi khu trưởng đă đưa Bộ chỉ huy Chi khu rời khỏi quận và hiện giờ vẫn c̣n đang chiến đấu...

    (Sau này, tôi được gặp lại Trung tá Nguyễn Cao Vực, Quận trưởng Đức Lập tại trại tù Vĩnh Phú, Tân Lập. Trung tá Vực đă kể cho tôi biết trận đánh vào Chi khu như sau: Khi tấn công vào Chi khu, VC đă dùng pháo binh 130 ly và SKZ 82 ly — súng không giựt 82 ly — bắn vào Chi khu và Chi đoàn Chiến xạ Với đạn SKZ 82 ly bắn tru+.c xạ, địch đă làm tê liệt các chiến xa của ta, nên không c̣n được xử dụng ngay từ phút đầu. Chi khu cầm cự cho đến sáng, khi mặt trời bắt đầu lên th́ thất thủ).

    Sau đó Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 BB, kiêm Tư lệnh Mạt trận Ban Mê Thuột, lên tŕnh bày kế hoạch pḥng thủ của Trung đoàn 53 BB do Trung tá Vơ Văn Ân làm Trung đoàn trưởng. Nói là Trung đoàn, nhưng cấp số chỉ c̣n Bộ chỉ huy Trung đoàn và một Tiểu đoàn mà thôi, cộng thêm một Trung đội Pháo binh 105 ly để làm lực lượng tiếp ứng cho Darlac và Quảng Đức khi bị tấn công.

    Đại tá Quang tŕnh bày kế tiếp về kế hoạch pḥng thủ của thị xă Ban Mê Thuột. Thị xă Ban Mê Thuột được pḥng thủ với tất cả các đơn vị trú đóng như sau:

    - Phía Bắc có Trung tâm Huấn luyện Sư đoàn 23 BB.
    - Phía Nam có Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 BB.
    - Phía Đông có Bộ chỉ huy Chi khu Ban Mê Thuột.
    - Phiá Tây, vùng nguy hiểm nhất, có hậu cứ của Thiết đoàn 3 Thiết giáp và Kho đạn Mai Hắc Đế.
    - Trừ bị cho thị trấn Ban Mê Thuột là Trung đoàn 53 trừ bị, đóng tại phi trường Phụng Dực.

    Nghe xong phần tŕnh bày của Đại tá Vũ Thế Quang, Tướng Phú có vẻ hài ḷng và không chê trách cũng như cho những chỉ thị đặc biệt. Lúc bấy giờ đă quá trưa, tôi cho dọn cơm ra mời Tướng Phú, Tướng Tường, Đại tá Ngh́n cùng phái đoàn ăn tại chỗ. Đây là bữa cơm rất dạm bạc. Tất cả đều dùng cơm đĩa, uống nước ngọt hay biạ Tướng Phú ăn rất nhanh để c̣n kịp trở về Pleiku theo dơi t́nh h́nh chung của Quân đoàn 2. Tôi cũng không ngờ, đây là bữa ăn cuối cùng giữa tôi và Tướng Phú, cấp chỉ huy trực tiếp của tôị

    Ăn xong, chính tôi đích thân đưa tiễn Tướng Phú ra phi trường Phụng Dực để về Pleikụ Khi bắt tay tạm biệt, Tương Phú đă vỗ vai tôi nhỏ nhẹ:”Chú mầy cẩn thận coi chừng chúng nó đánh nghe”. Đây chỉ là câu nói thông thường mà cuộc đời binh nghiệp đă dạy cho tôi, nghĩa là hầu hết các cấp chỉ huy đi thăm các đồn bót, hay đơn vị tiếp giáp với địch đều dặn ḍ với thuộc cấp của ḿnh bằng câu nói trên. Nói khác hơn, không có tính cách khẩn cấp, nguy ngập. Nếu nghiêm trọng, các cấp chỉ huy sẽ chỉ thị một cách tỉ mỉ hơn nhiều.

    Khi về đến Ban Mê Thuột tôi lại phải đến nhà Tướng Tường để đưa Tướng này về Pleiku bằng trực thăng. Bước vào nhà tôi thấy Tướng Tường đang nói chuyện với gia đ́nh và sau đó ông ra phi trường L19 cũng là phi trường trực thăng. Trong lúc chờ đợi phi công trực thăng đến, có ông Paul Struharick, là đại diện cho Tổng lănh sựMyẠ tại Nha Trang đến hỏi Tướng Tường về t́nh h́nh VC xung quanh Ban Mê Thuột ra saọ Tướng Tường cười hí hí, có vẻ tự tin tự đắc, cầm cây gậy tướng đánh vào mông đít ḿnh bộp bộp, rồi trả lời bằng tiếng Anh:”Don't worry about that”. Ông Paul cụt hứng nên không hỏi thêm và Tướng Tường cũng lên trực thăng bay về Pleikụ

    Việc đầu tiên trở về Bộ chỉ huy Tiểu khu là tôi triệu tập ngay Bộ tham mưu, các đơn vị trưởng quân đội tại thị xă và các ty sở thuộc Ṭa hành chánh cũng như các Ty trưởng chuyên môn. Tôi tŕnh bày t́nh h́nh quân sự. Quận Thuần Mẫn đă bị mất. Quốc lộ 14 nối liền Pleiku - Ban Mê Thuột đă bị cắt. Quốc lộ 21 từ Ban Mê Thuột - Nha Trang qua quận Khánh Dương đă gián đoạn và sáng nay quận Đức Lập đă bị CS tấn chiếm, và như vậy Quốc lộ từ Quảng Đức - Ban Mê Thuột coi như không xử dụng được nữa. Không cần phải là nhà quân sự, mọi người cũng đủ hiểu, Mặt trận Ban Mê Thuột coi như bị bao vây tứ phía, và cần đặt câu hỏi về sự kiện hoạt dộng quân sự của địch và thấy rơ ư đồ của địch. Riêng phía Tây thị xă c̣n dồn Ban Đon, cách xa Ban Mê Thuột khoảng 40 km.

    Cuối cùng việc cấm trại 100% từ quân nhân đến công chức là điều bắt buộc trong thời gian nghiêmtro.ng này và tôi ra lệnh:”Sẵn sàng ứng chiến!”.

    Để tăng cường cho Ban Mê Thuột, tôi quyết định nhanh chóng rút ngay Tiểu đoàn 204 Địa phương quân đang đóng tại Ban Don về thị xă. Việc di chuyển này không phải là dễ dàng v́ phải trưng dụng hết tất cả các xe GMC của các đơn vị đóng tại Ban Mê Thuột mới đủ chuyên chở cả một Tiểu đoàn. Trước khi trở về tư dinh, tôi đă cẩn thận đi quan sát tất cả những yếu điểm pḥng thủ của thị xă và cho họ những chỉ thị cần thiết. Có một điều tôi hơi an tâm một chút là các đơn vị như Địa phương quân, Nghĩa quân, Cảnh sát và Nhân dân tự vệ đều thi hành nghiêm chỉnh lệnh cắm trại 100% và báo động.

    Chẳng cần tắm rửa và dù người nhà đă dọn cơm sẵn, tôi vẫn đi thẳng vào nơi làm việc của tôi với bản đồ hành quân. Tôi như muốn suy nghĩ về t́nh h́nh và ư đồ của địch. Dù cấp nhỏ, nhưng tôi vẫn cố gắng phân tích theo nhăn quan của tôi để ḿnh c̣n nước c̣n tát trong việc giữ Ban Mê Thuột, vùng trách nhiệm của ḿnh bằng mọi giá. Nh́n qua những mũi tên và những đơn vị của Cộng quân, theo như bản phối trí của Quân đoàn: các Sư đoàn 320, F10, 316 của Cộng quân vẫn c̣n ở phía Tay Pleiku và Kontum. Những tin tức các sư đoàn này đă về Ban Mê Thuột vẫn chưa được Quân đoàn xác nhận, vẫn c̣n phải theo dơi và kiểm chứng, nói theo Pḥng 2 của Quân đoàn.

    Tôi đă tiên đoán, Ban Mê Thuột sẽ là nơi thử lửa đầu tiên cho việc tiến chiếm miền Nam. Bằng chứng là VC đă chặt tay chân của Ban Mê Thuột rồi bằng cách nhổ 2 cứ điểm Thuần Mẫn và Đức Lập, Khánh Dương coi như đứt đoạn. V́ vậy, tôi đă nhiều lần xin Tướng Phú tăng cường quân chính qui bằng cách đưa Trung đoàn 45 BB về pḥng thủ Ban Mê Thuột.

    Với nhiều lần xin quân viện, măi đến ngày 4/3/75, Tướng Phú mới bằng ḷng cho Trung đoàn về Ban Mê Thuột. Lệnh di chuyển đă được ban hành. 2 giờ chiều cùng ngày, toàn thể đơn vị thuộc Trung đoàn 45 đă ngồi lên xe GMC để chờ lệnh Tướng Tường là xe chuyển bánh. Không ngờ vừa lúc đó, pháo kích của Cộng quân rót vào thị xă Pleiku, cũng Bộ Tư lịnh Quân đoàn 2. Tướng Phú đang ở Nha Trang được báo cáo của Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 về việc pháo kích này, đă không ngần ngại hét vào máy:”Tôi ra lệnh cho Trung đoàn 45 BB không di chuyển về Ban Mê Thuột nữa, ở lại Pleiku v́ Mặt trận Pleiku đă bùng nổ rồi”.

    Qua ngày hôm sau, tức ngày 5/3/96, Chi khu Thuần Mẫn thuộc tỉnh Phú Bổn, nằm ngay Quốc lộ 14, lại bị Cộng quân đánh chiếm. Sự kiện này càng củng cố ước đoán của Tướng Phú:”CS sẽ tấn công Pleiku” là đúng.

    Cho dù ngày 7/3/95, chi khu Khánh Dương thuộc tỉnh Khánh Ḥa nằm trên trục lộ Ban Mê Thuột - Nha Trang bị mất mà Tướng Phú vẫn chưa nghĩ đến việc CS sẽ tấn chiếm Ban Mê Thuột. Rồi đến sáng ngày 9/3/75, Tỉnh Quảng Đức đă báo cáo cùng Tướng Phú về t́nh h́nh rất bi đát của Quảng Đức, các chi khu đang giao tranh với cấp số đáng kể của Cộng quân. Tôi như người có miệng phải câm, nh́n đồi núi chập chùng của Cao nguyên mà ḷng héo hắt. Vận mệnh của cả đất nước đang bị cấp chỉ huy lượng giá sai và chiến thắng sẽ đến của CS chỉ là may mắn. Tôi phải đương đầu với thử thách này đến bao giờ??? Nghĩ đến câu dặn ḍ của Tướng Phú để dối ḷng:”Hăy coi chừng tụi nó đánh nghe”, như một câu nói thôn thường. Rồi “Don't worry about that” của Tướng Tường nói một cách kiêu hănh với ông Paul. Cộng thêm lời tường tŕnh của Trung tá Trưởng Pḥng 2 Quân đoàn: Cộng quân vẫn c̣n luẩn quẩn tại Pleiku, Kontum, kể cả những đơn vị thiết giáp, làm tôi cũng bớt lo âu phần nào. Và tự an ủi ḿnh, nếu Cộng quân có tiến chiếm Ban Mê Thuột, ḿnh c̣n cầm cự được đôi ba ngày. Khó khăn lắm tôi mới chợp mắt qua đêm, với những lo âu...
    TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN
    Ngày 10/3/75

    Khoảng 2 giờ sáng, khi Ban Mê Thuột c̣n đang trong giấc điệp, bỗng bị đánh thức dậy bằng tiếng pháo kích inh tai, rợn óc của Cộng quân. Tôi rất b́nh tĩnh v́ đă nếm mùi hỏa tiễn của Cộng quân ở những trận đánh trước Tết Mậu Thân tại Kontum, tại Quảng Ngăi, Đà Nẵng và cả trận đánh Hạ Lào, v.v... Từ lầu hai tôi chạy xuống hầm chỉ huy mà những vị Tiểu khu trưởng tiền nhiệm đă xây cất. Đây là một hầm rất kiê cố, làm bằng bê tông cốt sắt, có thể chống được pháo kích. Trong hầm trang bị đầy đủ máy móc truyền tin để liên lạc tới các đơn vị trực thuộc cũng như liên lạc với cấp trên, hay cấp trung ương rất dễ dàng. Tôi liên lạc ngay với Thiếu tá Hy, Trưởng Pḥng 3 Tiểu khu dưới hầm TOC của Tiểu khu:

    - Pháo kích từ hướng nào?

    - Dạ thưa, Cộng quân bắn từ phía Tây tới.

    - Bắn vào vị trí nào?

    - Tŕnh Đại tá, bắn vào Bộ chỉ huy Tiểu khu, Đài truyền tin ở sân bay L19, Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 BB và Kho đạn Mai Hắc Đế.

    - Anh hăy gọi ngay Pháo binh của ḿnh cũng như Pháo binh Sư đoàn 23 BB tai Phụng Dực phản pháo.

    Tiếng pháo kích vang rền thị xă Ban Mê Thuột cho đến 4 giờ sáng. Chúng dùng chiến thật tiền pháo hậu xung và tấn chiếm kho đạn Mai Hắc Đế ở phía Tây, bằng mũi dùi thật mănh liệt. Đơn vị đồn trú đă chống trả một cách anh dũng và kho đạn vẫn vững vàng. Về phía Bắc, Đài Truyền tin của Không quân cũng bị tấn công.. Với chiến thuật biển người (Human Wave) và đánh sát lá cà, chỉ cần nửa tiếng đồng hồ sau, Cộng quân đă tiến tới sát miệng hầm và dùng lựu đạn tung vào miệng hầm. Một số sĩ quan và binh sĩ ta bị tử thương và bị thương. Và chỉ 15 phút sau, TOC đă báo cáo với tôi, Đài Truyền tin đă lọt vào tay giặc. Về phía trại Mai Hắc Đế, với những tay súng can trường ta dă bẻ gẫy nhiều đợt tấn công của Cộng quân. Khoảng 5 giờ sáng, TOC/TK báo cáo Đại úy Chỉ huy trưởng bị thương nặng. Kho đạn như rắn mất đầu và chỉ cầm cự đến 5 giờ 30 th́ kho đạn bị tràn ngập. Như vậy mặt trận về phía Bắc và Tây đă bỏ ngơ, bây giờ chỉ c̣n trông chờ vào những đơn vị phía Nam và Đông.

    Đạn pháo kích 130 ly vẫn rót đều vào thị xă. Lư do dễ hiểu là pháo binh của ta tại phi trường Phụng Dực phản pháo với đạn 105 ly đâu có tầm xa như đạn 130 ly của CS, đang đặt tuốt phía Tâỵ V́ vậy sự phản pháo trở nên vô vọng, không thể khóa họng những khẩu đại pháo của địch. Nhất là pháo binh của ta không có L19 hướng dẫn, chỉ điểm, điều chỉnh chính xác.

    Đến 7 giờ sáng, địch ngưng pháo kích và cũng ngay lúc này Thiếu tá Trưởng ty Cảnh sát Darlac báo cáo thẳng với tôi:

    - Thưa Đại tá, chiến xa CS đă tiến vào thị xă và hiện đang bố trí xung quanh nhà thờ thị xă. (Cũng nên ghi nhận là nhà thờ Công giáo này nằm ở trung tâm thành phố).

    Lúc bấy giờ, v́ Tiểu khu nằm dưới hệ thống chỉ huy của Sư đoàn 23 BB và để tiện phối hợp, bàn bạc kế hoạch chóng trả nhanh chóng. Tôi liề báo cáo và xin Tướng Phú được qua chung với Đại tá Vũ Thế Quang, tại Trung tâm Hành quân Sư đoàn 23 BB. Tướng Phú chấp thuận.

    Mối lo ngại lớn lao của Đại tá Quang và tôi là chiến xa CS đă lọt vào giữa thị xă. Với kinh nghiệm của một sĩ quan kỵ binh tôi hiểu rất rơ hỏa lực tấn công của những con ngựa sắt này.

    Tia hy vọng tới, khi trên bầu trời Ban Mê Thuột, đă xuất hiện L19 của Quân đoàn 2 gởi tới. Những chiếc phản lực cơ chiến đấu đă vần vũ trong vùng giao tranh để yểm trợ cho Tiểu khu Darlac và Sư đoàn 23 BB. Tinh thần chiến đấu của quân cán chính lên rất caọ Những đoàn chiến xa CS từ hướgn Bắc tiến về phía Nam đă bị các đơn vị Điạ phương quân của Tiểu khu đánh chặn lại. Sư tiến quân của CS rất chậm chạp.

    9 giờ tin vui đem tới. Ta hạ được 2 chiến xa T54 địch và đang bốc cháy trước Câu lạc bộ Sĩ quan trên đường Thống Nhất. Sự chênh lệch về lực lượng ta và địch quá rơ. Địa phương quân phải so tài với quân chính qui Bắc Việt, với sự yểm trợ chiến xa và pháo binh. C̣n bên ta, đội pháo binh tại Phụng Dực, cũng như phi pháo không thể yểm trợ v́ dân chúng chưa được di tản. Cộng thêm, hỏa lực pḥng không của địch rất dày đặc, làm phản lực cơ A37 của ta cũng không thể xuống thấp để thả bom cho chính xác được.

    12 giờ 45, Thiếu tá Hy, Trưởng pḥng 3 Tiểu khu báo cáo: BCH/TK đă bị pháo kích nặng nề. Một trái đă đánh trúng hầm TOC/TK làm nhiều người chết và bị thương. Trong số đó có Trung úy Năm, Trưởng pḥng 5/TK đă đền nợ nước. Hệ thống và máy truyền tin chỉ huy bị hư hại nặng. Thiếu tá Hy xin phép được di chuyển Bộ Tham mưu ra khỏi vị trí. Tôi chấp nhận ngaỵ

    13 giờ 30, Thiếu tá Hy báo cáo, địch quân đă tập trung pháo binh bắn vào Bộ Chỉ huy, sau đó chiến xa và bộ binh đang tràn ngập vào hệ thống pḥng thủ.

    14:00 giờ, BCH/TK coi như thất thủ hoàn toàn. Tôi liền báo cáo cho Tướng Phú. Tướng Phú ra lệnh cho trực thăng vận Liên đoàn 21 Biệt động quân xuống Ban Mê Thuột để tái chiếm BCH/TK.

    Măi đến 16 giờ chiêu, tôi mới nhận tin của Quân đoàn 2 rằng Liên đoàn 21/BDQ đang được trực thăng vận xuống Ban Mê Thuột để chiếm lại BCH/TK.

    17:00 giờ, đoàn trực thăng đă đến gần thị xă nhưng không đáp xuống được v́ pḥng không CS bắn quá rát. Đến măi 18 giờ, Quân đoàn 2 mới quyết định cho thả Liên đoàn 21 BDQ xuống BCH/Chi khu Buôn Hô rồi đi bộ tiến vào thị xă Ban Mê Thuột. Tôi liên lạc với Trung tá Dậu, Chỉ huy trưởng Liên đoàn 21 BDQ, hối thúc Trung tá Dậu phải cho tiến quân nhanh vào thị xă để tái chiếm lại BCH/TK. Măi đến 11 giờ khuya, Trung tá Dậu cho biết rằng đă tới ven thị xă Ban Mê Thuột mà không tiến vào được v́ bị VC chặn đánh.

    Tướng Phú ra lệnh cho Trung tá Dậu, với bất cứ giá nào đêm nay Liên đoàn BDQ phải tái chiếm BCH/TK.

    Sau khi CS chiếm được BCH/TK/DL xong là tiếng súng pháo binh cũng như súng trường đều được im lặng khắp mọi nơị

    Tôi báo cáo lên Tướng Phú kết quả trong ngày là Tiểu khu bắn cháy 7 chiến xa T54 CS và rất nhiều xác VC. Tướgn Phú rất vui khen ngợi TK/DL (Darlac).

    Tôi theo dơi cuộc tiến quân của Liên doàn 21 BDQ từng phút, cứ 15-20 phút là tôi liên lạc với Trung tá Dậu hỏi coi đă tiến tới đâu rồi. Vẫn những câu trả lời ngắn gọn:”Đang tiến nhưng gặp nhiều ổ kháng cự. Ở trong hầm TOC/SD/23 BB suốt đêm, tôi và Đại tá Vũ Thế Quang không nghe một tiếng súng nổ nào của bạn và địch cả.

    Tôi ra lệnh cho ông Phó Tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Vỵ và Trung úy Dzi hiện là tùy viên của tôi, nhưng trước là sĩ quan Chiến tranh Chánh trị của Tiểu khu, viết bài kêu gọi dân chúng yên tâm, ngày mai Quân đoàn 2 sẽ chiếm lại Bộ Chỉ huy Tiểu khụ

    Tôi đọc ghi vào băng và phát ra cho dân torng thị xă Ban Mê Thuột nghe lúc 1 giờ sáng ngày 11/3/75.

    Trong đêm, Pḥng 3 Bộ Tổng tham mưu liên lạc với tôi bằng điện thoại nhiều lần, hỏi về tiÀh h́nh thị xă như thế nào. Tôi báo cáo: BCH/TK đă mất, Kho đạn Mai Hắc Đế, phi trường L19 đă bị CS chiếm từ sáng. Tôi và Đại tá Quang đang ở BTL/SD cố thủ, chờ quân viện của Quân đoàn 2. Tinh thần anh em sĩ quan và binh sĩ rất cao, không có ǵ nao núng.

    Lực lượng trừ bị của Tiểu khu là Trung đoàn 53 với 1 Tiểu đoàn và 1 Trung đội pháo binh cũng bị CS tấn công từ sáng nên không thể tiếp cứu, giúp đỡ ǵ được. cho Tiểu khu Darlac.

    Tôi chờ đợi Liên đoàn 21 BDQ tiến vào thị xă, 2 giờ sáng ngày 11/3, rồi 3 giờ, rồi 4 giờ cho đến hừng sáng Liên đoàn 21 BDQ cũng không tiến vào được.

    Đúng 7 giờ sáng ngày 11/3/75, CS Bắc Việt bắt đầu nă pháo binh vào Bộ Tư lịnh Sư đoàn 23, chiếc xe Jeep của tôi đậu gần TOC cũng bị trúng pháo nổ tung rạ Tôi đoán chắc rằng CSBV đang cho pháo binh bắn vào vị trí BTL/SD 23 để chuẩn bị tấn công. Tôi nói với Đại tá Vũ Thế Quang, lúc này là lúc nguy ngập, sắp cận chiến, nếu không có cấp chỉ huy đứng bên cạnh binh sĩ để chỉ huy, th́ binh sĩ sẽ bỏ chạy khi địch quân xung phong. Đại tá Quang đồng ư. Tôi nói với Đại tá Quang — V́ ở trước cổng BTL/SD (Bộ Tư lịnh Sư đoàn) có 1 chiếc M113, nên để tôi trấn giữ mặt đó, c̣n Đại tá Quang th́ trấn giữ phía Tây Nam.

    Lúc này khoảng 7 giờ 30 sáng. Tôi liền đi thẳng ra cửa BTL/SD đến chiếc thiết quân vận M113 đang bố trí tại cổng, dưới các loạt pháo kích 130 ly của CSBV gây nên một vùng khói lửa mịt mù.

    Tôi nhảy lên chiếc thiết quân vận để quan sát th́ thấy ngay ngoài cổng BTL khoảng cách độ 300 m đầy chiến xa T54 đă bao xung quang BTL. Đồng thời trong lúc này, Trung úy Hoành đặc trách pḥng thủ dinh Tỉnh trưởng với 1 Trung đội Địa phương quân, báo cáo tư dinh, đang bị chiến xa tấn công và bắn trực xạ vào lầu tư dinh, đă bị sụp đổ. Trung đội pḥng thủ đă hạ được 2 chiến xa địch ngay trước cổng dinh bằng súng M72. Tôi hết sức động viên khen ngợi Trung úy Hoành cố gắng chống cự.

    Tôi cũng biết CS tấn công xong tư dinh là tấn công BTL SD 23.

    Các chiến xa T54 đậu xung quanh BTL ngạo nghễ coi thường đối phương, không cần phải ẩn núp, ngụy trang chi cả, v́ chúng nó biết bên ta không có một chiến xa nào cả để đương đầu, có thể tiêu diệt chiến xa của chúng.

    Trung úy Hoành báo cáo chiến xa CS đă ủi sập cổng tư dinh và tấn công vào phía trước. Trung úy Hoành báo cáo v́ có một số tử thương cùng bị thương, không thể chống giữ với đợt tấn công bằng chiến xa của địch, nên binh sĩ rất nao núng và xin phép được rút ra khỏi tư dinh.

    Tôi chấp thuận.

    (Trong khi chiến xa CS tấn công bắn trực xạ đại bác của chiến xa vào lầu của tư dinh, 3 đứa con trai của tôi vẫn c̣n ở trên lầu, có một đứa con trai út bị sức ép của viên đạn đại bác nổ ra, nó bị hơi đẩy té từ lầu, lăn xuống thang, rớt xuống đất bị thương ở ngực và chân).

    Trung úy Hoành hướng dẫn Trung đội Điạ phương quân c̣n lại thoát ra ngoài. C̣n 3 dứa con trai của tôi th́ được toán phục dịch trong nhà dẫn theo Trung đội.

    Tôi biết, sau khi thanh toán tư dinh, th́ bọn CS sẽ cho lệnh xung phong vào BTL/SD 23.

  2. #32
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    NH̀N LẠI TRẬN ĐÁNH BAN MÊ THUỘT 1975
    Đại Tá Nguyễn Trọng Luật
    P2



    Giờ phút nguy ngập sắp đến, tôi sợ binh sĩ bỏ chạy, liền nhảy xuống M113 đi một ṿng theo hàng rào pḥng thủ để kiểm soát binh sĩ và nhất là với mục đích cho binh sĩ thấy mặt cấp chỉ huy của ḿnh, cùng trực tiếp tham dự vào trận đánh, nên không dám bỏ chạy. Tôi nói với binh sĩ hăy can đảm chống giữ BTL v́ lực lượng của Quân đoàn 2 sắp tới. Kiểm soát và ra lệnh xong, tôi liền nhanh chân trở lại chiếc M113 và nhảy phóc lên trên, quan sát lại th́ thấy các chiến xa T54 vẫn c̣n ở vị trí cũ.
    Những giây phút cuối cùng của Bộ Tư lệnh SD 23 BB

    Khoảng 10 giờ sáng, tiếng pháo địch im tiếng. Nếu ai đă ở trong binh nghiệp th́ đều hiểu rơ tâm trạng của những phút giây im lặng này. Nó hoang mang và lo sợ hơn nhiều khi bên tai ḿnh có tiếng súng nổ. Người ta cho là say súng. Mà thật vậy, khi đă làm quen với chiến trận, việc nghe thấy tiếng nổ làm mọi người quên chính ḿnh và chỉ c̣n một cách duy nhất là chiến đấu. Chiến đấu để sống c̣n và ít ai c̣n để ư đến thần chết đang lảng vảng quanh ḿnh. Tôi lại nhảy lên pháo tháp quan sát và thấy những chiếc xe đang chuyển bánh. Tôi nhảy vội xuống và la lớn:”Sẵn sàng ứng chiến!”. Tôi dứng cạnh trưởng xa va căn dặn chỉ được bắn khi chúng tới gần 100 m nhé. Các anh em đều răm rắp tuân lệnh theo và chờ đợi khúc phim nghẹt thở bắt đầu.

    Chiến xa địch đầu chầm chậm tiến thẳng vào chiết vận xa M113. May mà ngụy trang khéo léo nên chúng không thấy. Tôi mừng quá và nói thầm trong bụng:”Mày sẽ chết con ạ”... Khói đen từ ống thoát phun ra mù mịt, chiến xa T54 địch, chiếc đầu chầm chậm tiến vào. Chúng vẫn chưa biết có chiếc M113 đang chờ đón nó vào cửa tử, v́ được ngụy trang kỹ càng như đă nói trên.

    Tiếng máy kêu ầm và các chiến xa đâm thẳng vào cổng Bộ Tư lệnh. Những con cua sắt ́ ạch tiến gần cổng 250m, rồi 200m, rồi 100m. Thần kinh tôi như giăn ra. Tất cả anh em chúng tôi hồi hộp, giờ sinh tử bắt đầu. Tôi hét lớn “Bắn!”. Thay v́ chúng tôi phải nghe tiếng nổ thật lớn của viên đạn vút ra khỏi ṇng súng, th́ trái lại cây súng chỉ cho chúng tôi một tiếng khô khan, lăng xẹc:”Cóc!”.

    Trong khi mắt mọi người và tôi dán chặt vào những con cua sắt. Tôi gào lên:
    - Ǵ thế! Ǵ thế!
    Xạ thủ trả lời:
    - Trở ngại tác xạ, Đại tá!
    - Mở “culasse” ra xem?
    - Tŕnh Đại tá, “Percuteur” bị gẫy!
    - Có “Percuteur” thay thế không?
    - Thưa... không!

    Tiếng “thưa không” làm tôi toát mồ hôi, v́ đây là hy vọng cuối cùng cho sự cầm cự với Cộng quân để chờ viện binh tới. Cây súng đại bác 106 ly không giựt này là phương tiện duy nhất chống trả với T54 của địch mà thôị Các loại súng khác chỉ là tṛ đùa với những con cua sắt này.

    Bây giờ tiêu diệt chiến xa địch bằng phương tiện ǵ đây? Tôi biết tôi phải rất b́nh tĩnh mới cứu được anh em và chính ḿnh. À phải rồi, chúng ta c̣n oanh tạc cơ đang bay lượn trên không. Những chiếc phản lực cơ A37 sẽ xơi tái chúng một cách dễ dàng. Cũng nên biết từ ngày hôm qua cho đến sáng nay, phi cơ của ta chỉ có thể thả bom ở các mục tiêu xa ở ngoài thị xă. Trong thị xă c̣n 50,000 thường dân chưa được di tản, v́ vậy tôi đă tŕnh với Tướng Phú về việc này và ông đă chấp nhận không oanh tạc vào khu đông dân cự Cũng cần ghi nhận, từ trước tới giờ, chưa bao giờ thị xă bị pháo kich của CS hoặc tấn công nên không gia đ́nh nào có hầm trú ẩn... Nay th́ chiến xa địch đă lọt vào thị xă th́ các oanh tạc cơ cũng không có cơ hội nhào xuống thấp để đánh trúng mục tiêu v́ pḥng không của Cộng quân quá mạnh. Cứ mỗi lần máy bay quan sát L19 hay oanh tạc cơ bay thấp một chút là pḥng không địch đă bắn lên trời như cảnh đốt pháo bông trong ngày Quốc Khánh.

    Tôi liên lạc ngay với L19 và nói chấp nhận sự nguy hiểm để dùng phản lực cơ dội bom thẳng vào các chiến xa đang tiến vào Bộ Tư Lịnh Sư đoàn 23 BB, và như vậy mới chặn đứng cuộc xung phong của CS. Trong lúc chờ đợi phi cơ làm thịt mấy con “cua sắt”, tôi đi lui đi tới kế cận các chiến sĩ đang gh́ tay súng chống trả lại địch quân.

    Th́nh ĺnh, mọi người nghe một tiếng nổ “ầm” thật khủng khiếp vang dội cả một góc trời. Cát, đá, bụi tung lên cao cả hàng trăm thước. Thôi hỡi ơi! Trung tâm Hành quân Sư đoàn (TOC), nơi đầu năo Mặt trận Ban Mê Thuột để chống lại địch quân đă bị Không quân ta đánh trúng.

    TOC bị sập và các phương tiện truyền tin thiết trí trong đó đều tiêu tùng theo mây khói. Một số lớn sĩ quan, binh sĩ ở trong TOC bị chết và bị thương. Ai cũng biết, trong trận mạc, truyền tin là huyết mạch chính. Bây giờ không c̣n để liên lạc với cấp trên và thông tin cho cấp dưới nữa. Không một chút suy nghĩ, tôi chạy về phía sau TOC để bàn với Đại tá Quang. Tôi nói nhanh với Đại tá Quang nhận định của tôi:

    - Chúng ta không thể cố thủ được nữa v́ đầu năo của chúng ta là Trung tâm hành quân nay đă sụp đổ. Không có truyền tin, không có chiến xa làm sao chận đứng những chiến xa T54 và bộ binh CS đang tiến vào căn cứ. Trong khi đó chúng ta không có viện binh. Tồi đề nghị chúng ta rút ra khỏi vị trí pḥng thủ BTL Sư đoàn ngay để bảo toàn lưc lượng c̣n lại.

    Đại tá Quang đồng ư và ra lịnh rút quân. Chúng tôi vọt ra khỏi hàng rào và hướng về phía Tây tức là “Suối Bà Hoàng” - cách BTL Sư đoàn 250m.

    Cũng may mùa này là mùa khô nên suối cạn. Đáy suối lại thấp hơn mặt đất tới 15m nên rất dễ cho việc ẩn nấp. Anh em binh sĩ đi theo rất đông, chừng 100 người. Xa xa tiếng phát thanh tuyên truyền của địch quân gần Chùa Phật giáo của Tỉnh hội Phật giáo Ban Mê Thuột kêu gọi các binh sĩ ta đầu hàng. Chúng tôi tiếp tục di chuyển về phía Tâỵ Nh́n anh em binh sĩ, súng trên vai và lầm lũi theo ḿnh. Đến giờ phút này tôi mới thấy t́nh chiến hữu bên nhau thắm thiết. Ḷng tôi bỗng chùng xuông. Không có bút nào tả cho hết nỗi nhọc nhằn, buồn tủi của chúng tôi khi phải xa ĺa BLT Sư đoàn, tượng trưng cho sự thách đố với địch quân. Tôi không dám ngoảnh mặt nh́n lại một lần cuối v́ sợ không biết chính ḿnh có đủ can đảm để không nhỏ nước mắt cho số phận hẩm hiu, xui xẻo cho Ban Mê Thuột, cho anh em binh sĩ, cho chính ḿnh không? Đừng oanh tạc lầm, th́ bây giờ ḿnh đâu đến nỗi trở thành kẻ chạy trốn như thế này. Ôi Ban Mê Thuột, xin tạm biệt mi và hứa sẽ trở về bên mi suốt đời...

    H́nh ảnh lê thê lếch thếch của đoàn quân ô hợp, như những khúc phim trên màn bạc cho trận thế chiến II - trận Dunkerque năm 1940, mà lực lượng đồng minh phải bỏ thành phố v́ bị Đức tràn ngập. Lúc đó ho c̣n thiết giáp, nhưng thiết giáp của Đức tối tân hơn nên phải ra hàng. Họ chạy đến bờ biển và đă kiếm bất cứ phương tiện nào như du thuyền, canô hay thùng phao để thoát. C̣n tôi bây giờ c̣n ǵ đâỵ Sinh ra làm lính thiết giáp mà bây giờ di chuyển như lính bộ binh. Tôi cũng không biết ḿnh là ai bây giờ. Ḿnh là cấp chỉ huy hay chỉ là một binh sĩ tầm thường? Lo cho anh em ra sao đây và chính ḿnh sẽ ra sao đây? Trong những giây phút cuối cùng của đời binh nghiệp, chết hay sống là chuyện b́nh thường. Lúc vào lính, tôi đă có lúc nghĩ đến lúc ḿnh làm thân chiến bại hay một viên đạn xuyên vào lồng ngực. Nhưng không ngờ trong cảnh huống này nó lại sầu đau chất ngất như lúc này, tủi nhục như bây giờ? Tôi chưa dám nghĩ quẩn v́ bên cạnh ḿnh c̣n anh em đang trông chờ nơi ḿnh. Chỉ một phút sai lầm, sẽ đem anh em và ḿnh xuống hố sâu vực thẩm. Tôi chỉ bàn với Đại tá Quang. Ḿnh phải phân tán mỏng để tránh sư phát giác của địch quân. Tôi đề nghị:”Toa” đi về một phía, “moa” một phía và cố gắng t́m về Nha Trang nhé. Đại tá Quang gật đầu và chọn ngay cho ḿnh một quyết định. Vị Tư lịnh chiến trường Ban Mê Thuột nói với tôi:”Moa sẽ đi về hướng Nam, đến gần cầu khoảng cách 14km là t́m đường về Nha Trang”. C̣n tôi không c̣n chọn lựa nạ khác hơn là đi về hướng Tây, nằm về khu cà phê của Trung tướng Hoàng và chờ trời tối sẽ bọc lên phía Bắc Ban Mê Thuột và từ đó t́m về Nha Trang. Thật là đau thương, khi làm việc có nhau, và giữa phút nghiêm trọng này chúng tôi cần có nhau hơn. Nhưng hoàn cảnh lại không cho phép như vậy. Đành chia tay nhau và may ra c̣n cứu được lấy định mệnh riêng của ḿnh.

    Trước khi chia tay, chúng tôi bèn tập trung anh em binh sĩ lại và tôi tuyên bố:

    - Tôi xin thay mặt cho chính phủ và quân đội tuyên dương công trạng của anh em - những chiến sĩ anh hùng, can trường đă chống trả mănh liệt với bọn CS xâm lược miền Nam với một tinh thần hy sinh cao độ. Từ 2 giờ sáng ngày hôm qua cho đến cho đến giờ này các anh em đă làm tṛn nhiệm vụ mà đất nước giao phó cho dù địch quân có đông gấp mười chúng tạ 2 quả bom rơi nhầm vào Trung tâm Hành quân đă đưa chúng ta tới nông nỗi này. Bây giờ anh em phân tán mỏng đừng dể địch quân phát giác và t́m cách trở về Nha Trang. Hy vọng lúc đó chúng ta sẽ tập họp lại để tiếp tục chiến đấu... Toàn dân ghi công anh em. Tổ quốc VN ghi công anh em. Xin tạm biệt.

    Với nét buồn vô tận, anh em đă nghe tôi nói như lời biệt ly sầu thảm. Nhiều anh em đă bật khóc, khiến tôi không dám nh́n thẳng vào mặt họ và lặng lẽ giơ tay chào anh em. Nh́n anh em binh sĩ, Đại tá Quang và tôi c̣n nguyên vẹn bộ đồ tác chiến, giây ba chạc, áo giáp, nót sắt. Nh́n chiếc hoa mai bạc trên ngực Đại tá Quang, tôi đề nghị nên dấu nó đi để dễ bề ngụy trang trong khi di chuyển. Chúng tôi chia tay nhau mà ai cũng như muốn khóc. Đi theo con suối Bà Hoàng mà ḷng tôi như bị cắt từng đoạn ruột, chúng tôi len lỏi qua các bụi lau sậy, những tảng đá lớn và những nhà cḥi mà người dân cất làm chỗ tạm thời che nắng đụt mưa khi làm việc cả ngày ngoài đồng áng. Đi khoảng 100m tôi ngó lại vẫn c̣n chừng 20 người theo tôị Trong đó có ông Phó Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, Nguyễn Ngọc Vy, một người kỳ cựu của vùng Darlac và nhất là thị xă Ban Mê Thuột.

    Tôi liền hỏi ông Vy:
    - Anh có biết dồn điền cà pê của Trung tướng Thái Quang Hoàng ở đâu không?
    Ông Vy chỉ tay về hướng đằng trước mặt:
    - Thưa Đại tá tôi biết. Xin Đại tá cứ tiếp tục đi về phía Tây là sẽ tới.
    - Vậy khi nào đi ngang qua anh cho biết nhé. Chúng ta sẽ vào đó ẩn núp cho đến tối. Lợi dụng bóng đêm chúng ta sẽ bọc về phía Bắc rồi t́m đường về Nha Trang.

    Ông Vy gật đầu và chúng tôi âm thầm tiếp tục di chuyển. Việc tôi chọn đồn điền của Trung tướng Thái Quang Hoàng v́ đồn điền này đă có từ lâu tất nhiên cây cỏ đă cao và rậm rạp rất dễ ngụy trang... H3> Những phút cuối cùng của đời binh nghiệp

    Chúng tôi tiếp tục đi khoảng 300m, anh Nguyễn Ngọc Vy nói với tôi:

    - Tŕnh Đại tá, chúng ta đă tới ngang vườn cà phê của Trung tướng Hoàng rồi đây.
    Tôi nói ngay:
    - Bây giờ chúng ta phân tán mỏng và cẩn thận ḅ từ con suối này lên vườn cà phê và mỗi người hăy chọn một chỗ ẩn núp và rồi chờ đến tối chúng ta sẽ t́m đường thoát thân về Nha Trang.

    Tuân theo lời nói của tôi tất cả đều giăng hàng ngang và từ từ ḅ lên bờ suối. Sự hồi hộp đến với mọi người v́ phải ḅ băng qua một thửa đất bằng lộ thiên - không có cây cối nào để ngụy trang, ẩn núp được. Nh́n toán người theo tôi, tôi rất lo ngại. Phần v́, có hơn phân nửa là quân nhân, c̣n kỳ dư là nhân viên hành chánh với những chiếc sơ mi áo trắng rất dễ dàng cho địch quân phát giác. Tôi rất ngao ngán cho việc vượt thoát này. Nhưng không c̣n một con đường nào khác. Chúng tôi ḅ tiến lên ngang mặt đất. Vưà lúc đó hàng loạt súng cộng đồng nổ vang và nhắm vào đoàn người chúng tôị Đạn cày xới lên đất làm tung bụi mịt mù. Phản ứng tự nhiên của mọi người là chạy ào lên vườn cà phê để ẩn núp. Bây giờ tôi mới thấm thía câu “đạn tránh người chớ không phải người tránh đạn”. Nhiều người trúng đạn đă lăn ra chết hoặc rên la v́ bị thương. Dưới hỏa lực vũ băo, tôi vẫn ḅ như người lính trong quân trường. Nh́n sang bên cạnh có Thiếu úy Phương, tùy viên của tôi vẫn bám sát lấy tôị Tôi rất cảm phục người sĩ quan tùy viên này, dù đến phút này tinh thần kỹ luật vẫn c̣n giương cao và vẫn làm tṛn nhiệm vụ của một quân nhân gương mẫu. Tiếng đại liên, tiếng gào thét của chiến xa đang tiến về chúng tôi như cuộc bủa vây đang thắt chặt. Tôi biết chúng tôi không thể nào thoát trước một thế trận đường cùng này. Tôi bèn bàn với Thiếu úy Phương là chúng ta nên đầu hàng. Như hiểu ư tôi, Thiếu úy Phương cởi áo lót trắng và lấy cây đưa lên cao phẩy qua phẩy lại để ra dấu hiệu đầu hàng. Lập tức súng đại liên ngưng bắn và chiến xa tiến sát về phía chúng tôị Chúng ngừng cách chúng tôi khoảng 10m, một cán binh CS nhảy ra khỏi chiến xa, với khẩu AK47 chĩa thẳng vào chúng tôi và quát lớn:

    - Tất cả hăy giơ tay lên! Giơ tay lên!
    Mọi người đều tuân lệnh hắn. Nó hỏi tôi:
    - Tụi bây chức vụ ǵ và cấp bậc ǵ??
    Như cái máy, tôi trả lời:
    - Tôi là Đại tá Tỉnh trưởng.
    Hắn tṛn xoe mắt lại và nghi ngờ:
    - Thật không? Thật không?
    Tôi gật đầu và hắn hỏi tiếp:
    - Tên ǵ nói mau.
    Tôi không ngần ngại:
    - Nguyễn Trọng Luật!
    - Thật không?
    - Thật.

    Khi biết tôi là sĩ quan cao cấp, hắn sững người và rất đỗi ngạc nhiên. Hắn càng gh́m tay súng vào đầu tôi và nói hăy đứng yên và giơ tay cao khỏi đầu, và hắn tiếp tục hỏi Thiếu úy Phương như vậy. Một cán binh khác nhảy từ trên xe đến lột hết quần áo chúng tôị Trên người tôi và Thiếu úy Phương chỉ c̣n chiếc áo lót và chiếc quần treillis. Chúng lấy hết súng lục, áo giáp, nón sắt, giầy boots và luôn cả vớ. Chúng nhanh tay lấy giây trói chặt tay chúng tôi ra đằng sau và đẩy chúng tôi mỗi người vào một hố cá nhân. Chừng nửa giờ sau, từ phía Tây một chiến xa khác tới. Một cán binh người mập mạp, mặt mũi sáng sủa nhảy ra khỏi chiến xa và tiến tới tôi chất vấn:

    - Anh có thật là Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Darlac không?
    - Đúng.
    - Thôi anh ngồi chờ, chốc lát sẽ có xe đưa anh đi.

    Khoảng 4 giờ chiều, cũng từ phía Tây một chiến xa xuất hiện và bốc một ḿnh tôi lên xe. Cửa xe đóng lại tối thui và xe bắt đầu di chuyển. Tôi có thể đoán chắc là chúng đi về hướng Tây để đến Bộ Chỉ huy của chúng. Đến lúc này, tôi thật b́nh tĩnh và coi nhẹ những sự việc xảy ra cho ḿnh. “Sinh nghề tử nghiệp. Tôi là sĩ quan thuộc binh chủng Thiết giáp và bây giờ bị bắt bởi chính đoàn quân kỵ mă này. Dầu sao, tôi vẫn c̣n những tia hy vọng rọi xuống tâm hồn khô héo của tôi lúc này là tiếng súng vẫn c̣n vang động khắp chiến trường Ban Mê Thuột. Phản lực cơ của quân đội ta vẫn vần vũ trên không phận thân quí Cao nguyên. Dù tôi có bị bắt, nhưng hy vọng của tôi vẫn là Ban Mê Thuột vẫn như thành đồng trụ sắt. Quân tiếp viện sẽ tới và những con mănh hổ sẽ làm tṛn nhiệm vụ của người lính VNCH ngàn đời uy danh. Ban Mê Thuột vẫn ngạo nghễ thách đố với mọi hoàn cảnh...
    Nh́n lại trận đánh Ban Mê Thuột

    Bây giờ với đời sống thật sự thanh thản, b́nh tâm mà nh́n lại, nghĩ lại tôi thấy vài điều cần được xét lại. Tất nhiên không phải để phê phán, hay gỡ tội hoặc giả để lẩn tránh trách nhiệm, lẩn tránh sự thật. Nh́n lại, nghĩ lại chỉ có mục đích duy nhất là chia sẻ với những người c̣n sống về một biến cố trọng đại đầu tiên đă dẫn tới sự sụp đổ của chính thể và chế độ VNCH tại miền Nam nước Việt.
    1. Mất tỉnh, Tỉnh trưởng phải chịu trách nhiệm?

    Đây là câu nói thông thường của những người thiếu hiểu biết. Nhiệm vụ của Tỉnh trưởng chỉ là trách vụ về hành chánh, kinh tế, chính trị, v.v...mà thôi. Về an ninh quân sự lại nằm trong tay Tiểu khu trưởng.

    Nhiệm vụ của Tiểu khu trưởng là giữ an ninh các cơ sở, đường xá, cầu cống, t́m kiếm tin tức t́nh báo để báo cáo len cấp trên, cũng như truy lùng, tiêu diệt du kích và những cán bộ CS xâm nhập vào vùng trách nhiệm của ḿnh. Tiểu khu trưởng chỉ có trong tay những Tiểu đoàn Địa phương quân, Nghĩa quân, Cảnh sát và tổ chức Nhân dân Tự vệ... V́ vậy, các đơn vị này không có khả năng đương đầu với quân chính qui của địch.

    Nh́n lại trận đánh Ban Mê Thuột, Tiểu khu Darlac đă nhiều lần báo cáo có những dấu hiệu về sự xuất hiện hoạt động của quân chính qui CS. Bằng chứng là tại phía Tây, Ban2 Tiểu khu Darlac đă phát hiện ống dẫn dầu của quân Bắc Việt hay những dấu xích chiến xa để lại ở phía Tây Ban Don và Ia Sup. Đặc biệt ngày 7/3/75, Tiểu khu Darlac hành quân đă bắt được một tù binh thuộc Sư đoàn 320/BV đang giăng giây điện thoại. Tin tức này cũng không thuyết phục nổi Tướng Phú và Tướng Tường để cho Trung đoàn 45 BB trở lại Ban Mê Thuột. 2 ông này vẫn c̣n ám ảnh về CS sẽ đánh Kontum hay Pleikụ Chưa bao giờ các ông cho rằng Ban Mê Thuột sẽ bị tấn công.
    2. Tại sao Tiểu khu lại không biết chiến xa địch tiến vào Ban Mê Thuột?

    Câu hỏi này làm tôi thắc mắc măi và muốn t́m câu trả lời cho chính ḿnh. Khi ngồi trong tù, tôi có đọc “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn Tiến Dũng tôi mới vỡ lẽ. Các chiến xa của CS đă được bố trí cách thị xă Ban Mê Thuột trên hàng trăm km về phía Tây Bắc, trong rừng úi trùng trùng điệp điệp của Cao nguyên. Nh́n trên bản đồ, Pḥng 2 hay cấp chỉ huy bao giờ cũng tiên đoán ngay và cho rằng nếu chiến xa địch, nếu có tấn công đêm nay, th́ chỉ có khả năng tấn công Pleiku chứ không thể là Ban Mê Thuột. V́ xung quanh Ban Mê Thuột, hay phía Tây, dù Tây Bắc hoặc Tây Nam đều là dăy rừng già với cây cối cao lớn. Qua con mắt của một sĩ quan kỵ binh như tôi, việc tấn công Ban Mê Thuột bằng chiến xa khó có thể thực hiện nổi. Trái lại, Pleiku với những đồi thoai thoải, trống trải, không có cây cối là địa bàn lư tưởng cho chiến xạ Nhưng, đây là chữ nhưng to tướng, nghĩa là CS đă cho công binh dọn đường trước, bằng cách cho cưa tất cả các cây lớn mà chiến xa không ủi ngă được. Bọn CS đă không cưa đứt hẳn để cây đổ xuống làm phi cơ quan sát được, mà chỉ cưa 2/3 cây thôị Trên máy bay do thám của ta luôn luôn thấy cây cối um tùm như thường, không có con đường nào băng qua rừng cả. Đến khi mặt trời lặn chiến xa cứ việc trực chỉ Ban Mê Thuột, và khi gặp những thân cây lớn, chiến xa cứ ủi xập những cây mà công binh đă cưa sẳn 2/3. cây lớn đều nằm rạp xuống và chiến xa cứ thế mà tiến lên dễ dàng. Khi gần tới thị xă, CS đă cho pháo kích vào thị xă để che lấp tiếng động cơ của các chiến xa đang di chuyển...
    3. Làm sao Địa phương quân có thể tiêu diệt chiến xa?

    Tôi là sĩ quan kỵ binh được giao trọng trách chỉ huy trưởng Tiểu khu Darlac, ngoài ư muốn của tôi. Kinh nghiệm về Thiết giáp vẫn là sở trường của tôi. Khi tôi nhậ nhiệm vụ lẽ tất nhiên tôi đă để ư nhiều về những con ngựa sắt này. Tất cả thiết giáp của ta đều được điều dộng về Pleiku hết. Ban Mê Thuột chỉ c̣ có 2 chiếc Commando car để tuần tiểu, hộ tống cho các đoàn công voa hay các cấp chỉ huỵ Trong đầu tôi bao giờ cũng đặt ra câu hỏi, liệu CS tấn công các chi khu hay đồn bót bằng chiến xa th́ sao? V́ vậy, việc đầu tiên nghĩ đến là loại súng M72, loại chống chiến xa mà Quân đội Hoa Kỳ cung cấp. Tôi bèn xin BTL Quân đoàn 2 cho trang bị loại súng trên cho Tiểu khụ Không có toán, tiểu đội, trung đội, đại đội nào thuộc Địa hương quân của Tiểu khu Darlac là không có trang bị M72. Ngay cả những Trung đội Nghĩa quân nữa. Tôi chỉ thị cho các sĩ quan và binh sĩ đều phải sử dụng M72 một cách nhanh nhẹn và chính xác. Tôi c̣n luôn luôn kiểm soát chặt chẽ và khi tôi thanh tra bất cứ một đơn vị thuộc Tiểu khu Darlac, bất cứ đâu, từ sĩ quan đến binh sĩ đều lưu lại khảo hạch và chờ biểu diễn cách sử dụng M72 chống chiến xa, cũng như ân cần nhắc nhở mọi người làm sao tăng hiệu năng của của súng và bắn cho chính xác. Trong trận đánh Ban Mê Thuột, 9 chiến xa CS nằm ụ trên đường Thống Nhất hoặc trước mặt BCH Tiểu khu và Dinh Tỉnh trưởng đều là công đầu của các chiến sĩ Điạ phương quân Tiểu khu Darlac. Ai cũng biết, các oanh tạc cơ của ta không được thả bom vào thị xă mà chỉ được đánh bom vào các mục tiêu ven thị xă mà thôị Oanh tạc cơ của ta chỉ có một lần đánh vào chiến xa địch trước mặt BTL Sư đoàn 23 BB với 2 quả bom. Nhưng thảm thương thay lại đánh trúng Trung tâm Hành quân của Mặt trận Ban Mê Thuột. Tôi cũng cần minh xác, tôi viết ra đây những sự kiện này, không phải là kể công cho Tiểu khu Darlac hay phiền trách Không quân, mà là những lời nói danh dự của một sĩ quan QLVNCH biết tự trọng, liêm sỉ và sự trung thực gởi đến các chiến hữu đă sát cánh bên nhau trong những ngày lửa đạn và các bạn.

    Tôi cũng xin kể thêm, năm 1984, trong hời gian tôi ở trại tù Nam Hà — Hà Nam Ninh. Một buổi sáng tôi đang gánh nước tưới rau, v́ tôi thuộc trung đội trồng rau cho trại. T́nh cờ tôi gặp một thanh niên trạc ngoài 30 tuổi, lại chào tôi:

    - Chào Đại tá.
    - Thôi cứ gọi nhau bằng anh em đi, v́ nước mất nhà tan rồi, c̣n đâu là tá với tướng.
    - Không! Riêng với Đại tá, tôi vẫn tôn kính là Đại tá. Tôi phục Đại tá là chưa có Địa phương quân của Tiểu khu nào mà bắn cháy được chiến xa CS được. Riêng chỉ có Địa phương quân Darlac là tiêu diệt được T54 của địch. Tôi c̣n nhớ ngày 11/3/75, tôi là người đi dọc theo đường Thống Nhất để lấy tin tức về báo cáo cho Đại đội 23 Thám sát của tôị Tôi đă đếm được 10 chiến xa bị bắn cháy.. Sự thán phục ấy đến nay tôi mới gặp Đại tá để bày tỏ nỗi niềm cũng như chào kính và thăm hỏi Đại tá.
    - Vậy anh là ai và ở đâu?
    - Tôi tên là Chí trước thuộc Đại đội Thám báo Sư đoàn 23 BB. Hiện nay tồi c̣n bị tù ở đây cùng với Đại tá nhưng ở khu khác.
    - Cám ơn anh về những lời khen cho Địa phương quân Tiểu khu Darlac. Xin anh một điều là từ bây giờ chúng ta cứ gọi là anh em thôị V́ như tôi đă nói lúc năy, đất nước đă mất rồi, chúng ta chỉ c̣n t́nh nghĩa để đối với nhau mà thôi.
    - Dạ nếu như Đại tá cho phép th́ tôi vâng.

    Ḷng tôi dâng lên một niềm vui sướng cho buổi gặp gỡ ngắn gọn ấy. Thứ nhất là dù trong hoàn cảnh tù đày anh em vẫn tôn kính nhau và họ nhận ra tôi đă không làm điều sai quấy khi c̣n tại chức. Đây cũng là phần thưởng cho tôi v́ trong tù anh em thường hay nói với nhau:”Khi ở tù rồi mới biết ai là tướng tá thật, ai là tướng tá giả — đáng kính hay đáng khinh...
    Thứ hai là anh Chí đă xác nhận số chiến xa bị bắn cháy mà do Thiếu tá Trưởng Pḥng 3 báo cáo cùng tôi là 9 chiếc mà bây giờ là 10 chiếc.
    4. Tướng Phạm Văn Phú là tướng giỏi hay dở?

    Tướng Phú hoàn toàn bị địch đánh lừa và ít ra không có kinh nghiệm chiến trường Cao nguyên. Trước kia, khi c̣n Quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại VN, tin tức t́nh báo chiến lược hay tin tức liên quan đến các đơn vị lớn của VC đều do Mỹ cung cấp. Nhưng sau Hiệp định Paris, nguồn tin từ Mỹ đều chấm dứt và Pḥng 2 của ta chỉ c̣n khả năng lấy tin tức các đơn vị chính qui Bắc Việt bằng cách t́m điện đài của địch. V́ biết được yếu điểm này của QLVNCH, nên CS vẫn cho điện đài phát thanh hàng ngày như thường lệ và tuyệt đối im lặng truyền tin trong khi di chuyển về phía Nam. ViÀvậy Tướng Phú cứ đinh ninh là các Sư đoàn Bắc Việt vẫn c̣n ở phía Tây Pleiku và Kontum.
    5. Tổng Thống và Tổng Tham mưu Trưởng

    Nếu qui trách nhiệm cho Tướng Phú làm mất Ban Mê Thuột v́ dở là quá saị V́ kế hoạch hành quân hay bố trí các đơn vị để pḥng thủ các Vùng đều được Tổng Tham Mưu Trưởng và Tổng Thống (Tổng Tư Lệnh) duyệt xét và chấp thuận mới được thi hành. Quân đoàn 2 và Tướng Phú được sự chỉ huy trực tiếp của Tổng TMT và TT. Mất Ban Mê Thuột đâu phải trách nhiệm riêng ǵ của Tướng Phú mà chính là Tổng TMT và TT. Các đơn vị chia sẻ trách nhiệm như Pḥng 2 Bộ Tổng Tham Mưu, Cục An ninh Quân đội, Đơn vị 101/TTM. Tất cả các cơ quan trên làm ǵ, để các đại đơn vị Bắc Việt di chuyển về phía Nam, để đánh vào thị xă Ban Mê Thuột? Ai là người dám công khai lănh nhận trách nhiệm? Cho đến nay, trong chiến tranh VN mới chỉ có thấy ông cựu Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara là dám nói len lỗi lầm của ông ấy mà thôị Bằng một cuốn sách, McNamara nhận trách nhiệm. C̣n ai nữa? Hay tất cả chỉ cầu mong thời gian khỏa lấp vào “cuối trời lăng quên” hay là viết hồi kư để rửa tay kiểu quan Phi-la-tô trong Thánh kinh khi trao Đức chúa GieÁsu cho dân chúng muốn làm ǵ th́ làm, muốn giết chúng mày cứ việc giết, tao không có trách nhiệm ǵ hết? Ngụy biện quá sức.
    6. Hăy so sánh lực lượng đôi bên
    a) Lực lượng Quân đoàn 2


    - Sư đoàn 22 BB

    - Sư đoàn 23 BB

    - 4 Liên đoàn BDQ (bằng 1 sư đoàn)

    - 1 Lữ đoàn Thiết giáp

    - 1 Sư đoàn Không quân (Sư đoàn 6 Không quân)
    - 1 Trung đội Hoả tiển TOW

    b) Lực lượng CS

    - Sư đoàn 320
    - Sư đoàn F10
    - Sư đoàn Sao Vàng
    - Sư đoàn 968
    - Pháo binh 130
    - Pháo binh Pḥng không (Sư đoàn)
    - Thiết giáp Lữ đoàn)
    - Các đơn vị Công binh
    - Các đơn vị Đặc công (2 Trung đoàn)

    Nh́n qua tương qua giữ ta và địch, với nhiệm vụ pḥng thủ, ta có thể làm tṛn nhiệm vụ một cách dễ dàng. Trong binh pháp ai cũng biết, một lực lượng tấn công, phải gấp 3 lần lực lượng pḥng thủ mới mong thắng trận được. Mất Ban Mê Thuột ta đă bị đánh lừa, v́ ta không biết địch tấn công ở đâu, cũng giống như trên bàn cờ tướng, ta thua v́ không biết nước chiếu của đối thủ.
    7. Bài học của người Pháp

    Khi c̣n là Đại úy, tôi đă có dịp theo học một khóa tham mưu, trong đó học chiến thuật, chiến lược. Người Pháp đă để lại một tài liệu nói về Cao nguyên. Đại ư:”Muốn giữ Cao nguyên th́ phải giữ Ban Mê Thuột. Muốn giữ miền Nam phải giữ Cao nguyên”. Phải chăng qua nhận dịnh đó, chúng ta đă mắc tới 3 sai lầm:

    - Dời Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 về Pleiku?
    - Tập trung quân giữ Kontum và Pleikụ
    - Bỏ Cao nguyên để giữ miền Nam?
    8. Những chuyện nghe được từ trong tù

    Tại trại tù Nam Hà (Hà Nam Ninh), tôi được biết đứa con út của tôi đă chết tại xă Châu Sơn cách thị xă Ban Mê Thuột chừng hơn 3km. Số là khi CS tràn ngập tư dinh Tỉnh trưởng Darlac, các con tôi đă theo chân những binh lính trong dinh chạy trú ẩn tại nhà cha Tâm, cha sở xă Châu Sơ, một xă phần dông là người Công giáo từ Bắc di cư vào Nam năm 1954, nên có tinh thần chống Cộng cao độ. CS đă nă pháo kích như mưa vào làng, làm trúng hầm trú ẩn gia đ́nh cha Tâm. Kết quả là đứa con út tôi và 2 đứa cháu của cha Tâm bị tử thương. Cũng trong tù CS, tôi có gặp Đại tá Nguyễn Văn Của, Thiết giáp, Tỉnh trưởng tỉnh Châu Đốc đă có dịp nói chuyện cho tôi biết: “Khi thị xă Ban Mê Thuột bị mất, TT Thiệu đă triệu các Tỉnh trưởng về họp tại Dinh Độc lập và có phán một câu xanh rờn, “Thằng Luật trở về tŕnh diện, tôi sẽ xử bắn ngay v́ bỏ chạy mà không giữ được thị xă. C̣n các anh cũng vậy, ai bỏ tỉnh mà chạy, tôi cũng bắn ngay”.

    Nghe lời kể của anh Của mà ḷng tôi xót xạ Ở dời ai có hiểu ḿnh và tôi lại nhớ tới bài hát “Bay Đêm” của Song Ngọc có câu “Ở đời ai hiểu ai...” để an ủi chính ḿnh trong đời lao tù không có ngày ra này. Thêm nữa, cũng may cho tôi là tôi đă không có bỏ tỉnh, chạy trước khi địch quân đến như ít vị Tỉnh trưởng khác và cũng may là tôi c̣n ở lại cố thủ để bị bắt tại chiến trường. Nếu không bị xui xẻo v́ bị oanh tạc lầm vào TOC, nếu quân tiếp viện đến kịp thời th́ đâu đến nỗi bị bắt và ở tù tại miền Bắc 13 năm, 5 tháng, 25 ngày.

    Để chấm dứt bài này, sau khi gia đ́nh tôi đă được định cư tại Mỹ, qua diện HO. V́ chưa ổn định được đời sống nên tôi chưa có dịp diện kiến TT Thiệu để thưa lại vị Tổng tư lịnh của tôi đôi điều. Có một cảm nghĩ mà tôi cứ suy nghĩ măi là các Tướng VNCH có đọc truyện Tàu không, nhất là Tướng Phú, để không bị CS đánh lừa ở vùng 2. V́ nếu đọc truyện Tàu đời xưa, chúng ta đều biết trận đánh giữa Hàn Tín và Hạng Vơ được gọi là “Minh tu sạn đạo; ám độ trần thương”.

    Đại Tá Nguyễn Trọng Luật
    (Florida, 6/9)5


    h**p://doanket.orgfree.com/quansu/bmtluat.html

  3. #33
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771


    Người Lính Địa Phương Quân Và Nghĩa Quân
    Trong Những Ngày Hấp Hối Tháng 4-75 Tại B́nh Thuận
    Tác giả: Mường Giang
    (Nguyên Tiểu Đoàn 1/Trung Đoàn 43/SĐ18BB - KBC 4424, Phó Trưởng Tty XLTV Trưởng Ty CCB-B́nh Thuận – KBC 4508)



    Thời VNCH(1955-1975), Quân Đoàn II chiếm một lănh thổ có diện tích lên tới 78.841 km2, rộng nhất trong bốn vùng chiến thuật. Bộ tư lệnh đóng tại Pleiku, c̣n 2 Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận 2 và 5 th́ ở Qui Nhơn và Nha Trang - Cam Ranh, c̣n có hai SĐ 2 và 6 Không Quân Chiến Thuật đóng tại Pleiku và Nha Trang. Các Phi Trường Nha Trang, Bửu Sơn, Phù Cát và Cù Hanh rộng lớn tối tân. Vùng 2 Chiến Thuật bao gồm 12 tỉnh cao nguyên và Duyên Hải Trung Phần, trong đó quan trọng và cũng có nhiều phiến cộng nằm vùng nhất là B́nh Thuận - B́nh Định. Để xâm lược Miền Nam, Cộng Sản Bắc Việt cho mở lại con đường giao liên đă có sẳn từ thời toàn dân kháng chiến chống Pháp 1945-1954, thành con đường chiến lược mang đủ thứ tên trong đó có Hồ Chí Minh, xuất phát từ Hà Nội vào tới Cà Mau dài trên 2000 cây số. Con đường khai sinh đồng thời với cái mặt trận ma GPMN sau khi vượt qua vùng phi quân sự ở Bến Hải , men theo rặng Trường Sơn, tới Đổ Xá, Ḳn Tà Nừng, Chulya, Khánh Hoà. Tại đây đường phân làm hai nhánh, một đi ngược lên Lâm Đồng, Quảng Đức, Phước Long về Sài G̣n. Nhánh hai tới Ninh Thuận, B́nh Thuận, Rừng lá, Rừng Sát, Biên Ḥa...

    Sau ngày binh biến 1-11-1963, VNCH gần như vô chính phủ, rối nát, tan hoang, do đám kiêu tăng loạn tướng gây ra, măi tới cuối năm 1967 khi Tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng Thống VNCH , t́nh thế mới tạm ổn định. B́nh Thuận là một trong các tỉnh ở Miền Trung cùng chịu nhiều nạn kiếp, khiến cho t́nh h́nh an ninh toàn tỉnh kể luôn thị xă Phan Thiết tồi tệ đến mức ai nghe tới cũng sợ, khi phải tới miền đất này. Dù Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng tấn công Phan Thiết ba lần bị thất bại, không có cơ hội tắm máu đồng bào như tại Huế theo mong muốn của một số VC nằm vùng và có thân nhân nhảy núi , tập kết nhưng hoàn cảnh lúc đó hết sức bi quan, 95 % lănh thổ bị địch chiếm, vùng c̣n lại ban ngày là của ta và thuộc về giặc ban đêm. Tại Phan Thiết, VC về ám sát, đốt, tấn công các trụ sở ấp Đức Nghĩa, Phú Trinh, Hưng Long, Đức Long..coi như chỗ không người, thậm chí ngay trong Ṭa Hành Chánh và Tiểu Khu, Tỉnh Trưởng khi di chuyển cũng phải có hộ tống và cận vệ. Các viên chức Xă Ấp, Công Chức, Cảnh Sát kể luôn các cấp chỉ huy XDNT, Nghĩa Quân, ĐPQ ..ban đêm phải di chuyển chiến thuật tới các vùng tạm có an ninh ở Sông Mao, Phan Thiết, Mũi Né để ngủ giữ mạng. Các đồn bót trong tỉnh luôn bị tấn công, VC pháo kích bạt mạng vào thành phố, huyện lỵ và tàn nhẩn gài ḿn khắp nơi, khiến cho thường dân vô tội bị chết oan hằng ngày khi di chuyển cũng như lúc ra đồng làm ruộng. Các trục giao thông tại Quốc Lộ 1, Liên Tỉnh Lộ 8, Tỉnh Lộ Phan Thiết - Mũi Né..bị tắt nghẽn, nhiều trạm thu thuế gần như công khai của VC tại cây số 25, Thiện Giáo, Tùy Hoà, Tà Dôn, Đá Ông Địa, Vĩnh Hảo..làm cho mọi người lo sợ, phải dùng phương tiện ghe thuyền thay v́ đi xe đ̣. Đă vậy trong tỉnh c̣n thêm vụ học sinh các trường trung học xuống đường biểu t́nh đ̣i Mỹ rút, kêu gào bảo vệ đạo pháp và các thầy, cha, c̣n thêm màn mổ bụng, rạch ngực viết huyết thư, tạo đủ đắng cay, máu lệ cho người dân vô tội trong cảnh chiến tranh tận tuyệt. Tóm lại theo lượng giá của Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, trong ngày nhậm chức Tỉnh Trưởng vào mùa thu 1969 thế Đại Tá Đàng Thiện Ngôn, th́ B́nh Thuận và Phan Thiết lúc đó sắp lọt vào tay VC. Theo Trung Tá Ngô Văn Xuân, nguyên Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 2, Trung Đoàn 44, Sư Đoàn 23 BB từng tham chiến nhiều ngày tại B́nh Thuận, th́ chính Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, một sĩ quan dầy kinh nghiệm trong chức vụ Trưởng Pḥng 2 Quân Đoàn II nhiều năm, qua nhiều vị tư lệnh, đă thành công trong việc tách rời các cơ sở cũng như vô hiệu hoá Việt Cộng tại địa phương, từ đó cho tới ngày miền nam bị sụp đổ vào tháng 4-1975. Chính các lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đă góp phần lớn máu xương trong việc bảo vệ an ninh và mạng sống của đồng bào trong tỉnh, cho tới những giây phút cuối cùng trong đêm 18 rạng ngày 19-4-1975. Họ là những chiến sĩ của QLVNCH không tên với những chiến công hiển hách , đă dánh những trận để đời như sử gia Chánh Đạo đă hết ḷng khen ngợi trong tác phẩm “ 55 ngày đêm - cuộc sụp đổ của VNCH”. Tôn vinh cuộc chiến đấu thần thánh trên là cách trả lời cao thượng nhất để tri ân và lấy lại uy tín cũng như danh dự cho người lính miền nam, những người đă v́ nước, v́ đời, mà tự t́m lấy cái chết b́nh thản tại chiến trường , ngay lúc giặc đă tràn ngập.

    1. Những Người Lính ĐPQ & NQ/QLVNCH
    Tại B́nh Thuận vào năm 1952, trước ngày đ́nh chiến, Quân Đội Quốc Gia đă thành lập 2 Trung Đoàn Vệ Binh , mỗi Trung Đoàn có 5 Đại Đội. Trung Đoàn số 2 đóng tại Phan Rí, Trung Đoàn số 4 đóng tại Phan Thiết. Đầu năm 1953, các Trung Đoàn Vệ Binh được biến đổi thành Tiểu Đoàn Bộ Binh. Do đó, Trung Đoàn Vệ Binh số 4 thành Tiểu Đoàn 264 B1 (Bataillon d’infanterie), c̣n Trung Đoàn 2 thành Tiểu Đoàn 265 B1. Ngày 1-8-1954 lại thành lập Trung Đoàn 404 BB tại Phan Thiết với các Tiểu Đoàn 83 (nguyên TĐ 264 B1), tiểu đoàn 84 ( nguyên TĐ 265 B1) và TĐ 808 Biệt Lập đóng tại Phan Thiết. Đầu năm 1955, Trung Đoàn 404 được cải danh là Trung Đoàn 43 BB với các TĐ 1/43 (83), 2/43(84) và 3/43(808) thuộc SĐ 15 Khinh Chiến, từng tham dự các chiến dịch tiểu trừ B́nh Xuyên, Ḥa Hảo năm 1955 tại Nam phần Từ năm 1964 Trung Đoàn 43 biệt lập qua các Trung Đoàn Trưởng tài danh như Thiếu Tá Vơ Văn Cảnh, Thiếu Tá Quách Đăng, Trung Tá Lư Bá Phẩm,Đại Tá Đàm Văn Quư.. trấn đóng tại Biệt Khu B́nh Lâm, sau đó di chuyển vào Nam. Năm 1966 cùng với các Trung Đoàn Biệt Lập 48 BB,52BB thành lập Sư Đoàn 10 BB., sau đổi thành SĐ18BB vào tháng 4-1975, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, đă tạo nên chiến thắng Xuân Lộc vang lừng trong Việt Sử Cận Đại. Cũng tại B́nh Thuận vào tháng 7/1954 có 4800 quân nhân người Nùng, thuộc SĐ 3 Khinh Chiến của Đại Tá Woàng A Sáng từ miền bắc di cư vào đóng tại Sông Mao nhưng cũng chỉ một thời gian ngắn lại di chuyển vào Tam Hiệp, Biên Ḥa, sau đó đổi thành SĐ 5 BB. Để thay thế, Trung Đoàn 44 và 53 thuộc SĐ 23 BB , hậu cứ đóng tại Sông Mao thường xuyên hành quân bảo vệ B́nh Thuận và Ninh Thuận. Từ đầu năm 1970, hầu hết các thành phần cơ sở, du kích kể luôn chính quy VC gần như bị tiêu diệt., khiến cho quân khu 7 Việt Cộng, trong đó có tỉnh B́nh Thuận do Tướng Bắc Việt Nguyễn Văn Ngàn chỉ huy, cũng lâm vào tuyệt lộ. Để vớt vát cũng như vực dậy niềm tin của cán binh, cán bộ, VC xữ dụng 2 Tiểu Đoàn chính quy Miền Bắc là 481 và 482 tấn công vào Trung Đoàn 44 BB tại Sông Mao từ tháng 7 - 10/1970, đồng thời thường xuyên tổ chức các cuộc phục kích , phá rối trên Quốc Lộ 1, từ đoạn đường cây số 25 Nam về tới Phan thiết và khúc ngang qua mật khu Lê Hồng Phong, từ Long Thạnh tới Lương Son, Chợ Lầu và phía Bắc trong quận Tuy Phong. Thời gian này B́nh Thuận c̣n có sự yểm trợ của Chi Đoàn 3/8 Thiết Kỵ / QLVNCH và Tiểu Đoàn 3 thuộc Lử Đoàn 506 Nhảy Dù Hoa Kỳ và toán Viễn Thám LLĐB/BTTM/QLVNCH, hải pháo Mỹ ở ngoài khơi, các phi tuần Mỹ-Việt luôn tiếp ứng tỉnh mau lẹ và cấp thời , nên đă bẻ gảy tất cả. Nhưng rồi giai đoạn VN Hoá Chiến Tranh và Hiệp Định ngưng bắn 1973 đă thành h́nh, theo đó các đơn vị chính quy của VNCH cũng như Hoa Kỳ đều rời tỉnh vào cuối năm 1971 hoặc hồi hương hay nhận nhiệm vụ mới, giao công cuộc b́nh định và ǵn giữ an ninh cho các đơn vị ĐPQ và NQ của tỉnh lúc đó lên tới 13.000 người đăm trách.
    Để chống địch bằng cây nhà lá vườn, Đại Tá Nghĩa đă áp dụng chiến lược mọi người đều phải RA TIỀN TUYẾN kể cả các Trưởng Ty Sở, Phó Tỉnh Trưởng, Phó Quận.., không bỏ đồn bót lẽ loi cho giặc về đêm. Theo lời các nhân chứng hiện ở Hoa Kỳ như Phạm Ngọc Cửu Phó Tỉnh Trưởng, Trung Tá Dụng Văn Đối Quận Trưởng Hoà Đa rồi Hàm Thuận, Đại Úy Mai Xuân Cúc ĐĐT /ĐĐ 948 ĐPQ.. th́ chính Đại Tá Nghĩa là người đầu tiên xung phong làm gương mẫu cho thuộc cấp, ông đă noi gương Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu luôn xông xáo tại chiến trường khi dấu binh lửa, bom đạn c̣n ngun ngút , Đại Tá Nghĩa đă lần lượt ngủ đêm tại 173 trong tổng số 197 tiền đồn hẻo lánh và nguy hiểm của tỉnh, do các Tiểu, Trung Đội Nghĩa Quân hoặc Xây Dựng Nông Thôn trấn giữ. Nhờ vậy đă tạo được niềm tin trong quân đội cho tới khi mất nước. Một chiến thuật khác cũng vô cùng hiệu quả, đó là xữ dụng hàng rào ḿn claymore làm Ấp Chiến Lược lưu động. Với phương pháp này đă làm VC bị tổn thất nặng và gần như hoàn toàn tê liệt, bẽ gảy kế hoạch nuôi ăn cán binh v́ ai cũng sợ toi mạng khi vướng ḿn vào ban đêm khi ra vào ấp .Song song c̣n có chương tŕnh đập cỏ bắn rắn, tức là ủi quang hai bên Quốc Lộ 1 từ cây số 25 Nam Phan Thiết cho tới Cà Ná, giáp giới Ninh Thuận,các vùng cây cỏ rậm rạp mà trước đây VC dùng làm địa bàn để hoạt động quân sự, thu thuế, phục kích, chặn xe đ̣.., mang lại t́nh h́nh an ninh hoàn toàn trong tỉnh và tại thị xă Phan Thiết. Cũng kể từ đó cho tới hồi tàn cuộc, cán bộ xă ấp, công chức không c̣n phải sống lưu vong và việc Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tới Phan Thiết cùng với Tỉnh Trưởng săn bắn ban đêm ngay trên địa bàn của cái gọi là mật khu Lê Hồng Phong. hay đi xe Jeep trên Quốc Lộ 1 từ Phan Thiết về Phan Rang như lời tư sự của Trung Tá Ngô Văn Xuân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 44, SĐ 23 BB, trong Quân Sử VNCH, là một xác nhận khích lệ.

    Từ sau Hiệp Định Ngưng Bắn 1973, lực lượng ĐPQ &NQ đă được tổ chức và phối trí lại để phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Quyền chỉ huy trực tiếp thuộc tiểu khu, chi khu và các phân chi khu. Quân số cũng được cải tổ từ cấp đại đội thành tiểu đoàn, liên đội và Liên đoàn . Tính đến năm 1973, Quân Lực VNCH đă có 360 Tiểu Đoàn ĐPQ, quân số từ binh sĩ, HSQ tới SQ một số là chủ lực quân biệt phái, nên có rất nhiều kinh nghiệm chiến đấu, có đủ khả năng thay thế các SĐ Bộ Binh kề cả các Lực Lượng tổng Trừ Bị trong các cuộc hành quân cơ động quy ước chiến, đáp ứng sự hổ trợ đắc lực cho các đơn vị chính quy. Theo tài liệu từ Quân Sử, cho tới Tháng 4 - 1975, lực lượng ĐPQ-NQ gần 500.000 người và số tử vong cũng nhiều lần so với các lực lượng chính quy, diều đó chứng tỏ sự chiến đấu dũng mảnh và can trường của họ.
    Trong Hiệp Định Paris năm 1973, có điều khoản cắm cờ nhận đất vào giờ N và B́nh Thuận được coi là thí điểm, nơi CS Bắc việt luôn đ̣i trở thành vùng vỹ tuyến. Các xă giáp tỉnh lỵ như Đại Nẵm, Phú Long, Tuỳ Ḥa, Phú Lâm có nhiều nằm vùng và thân nhân nhảy núi hoặc tập kết, nên luôn là điạ điểm tin cậy để giặc đóng quân hay đặt BCH. Với quân số lúc đó là 13.000 ĐPQ - NQ nhưng v́ phải bảo vệ 197 ấp nên đă dàn mỏng , trong khi việt công luôn tập trung được ba Tiểu Đoàn Địa Phương, ngoài ra c̣n có một trung đoàn chủ lực từ Quân Khu 6 tăng phái và cán binh cơ sở, nên t́nh thế lúc đó cũng thật nguy hiểm . Rồi giờ G cũng tới, VC tấn công một lúc 13 ấp trong tỉnh nhưng nặng nhất là tại ấp Đại Tài, xă Đại Nẳm. Nhờ đă chuẩn bị trước, nên sau 2 ngày giao tranh , VC thất bại trong âm mưu cắm cờ dành đất, một phần là do đồng bào có ư thức quốc gia không chịu hợp tác hay đồng khởi, phần khác sợ tai bay đạn lạc nên đă bồng bế nhau tản cư khỏi vùng chiến địa theo lời kêu gọi của tỉnh qua truyền đơn và đài phát thanh. Cuối cùng các ấp xă chỉ c̣n thuần tuư là chiến địa, điểm hợp đồng của pháo binh và phi pháo, trước khi các đơn vị ĐPQ-NQ mở cuộc tấn công, làm VC phải chém vè, mang theo nhiều xác chết đồng bọn khi tháo chạy sau 2 ngày giao tranh đẳm máu nhưng vẫn bỏ lại tại ấp Đại Tài, xă Đại Nẳm 121 xác chết..

    Những Ngày Cuối Cùng Tại B́nh Thuận
    Ngày 7-4-1975, Tướng Phạm Văn Phú Tư Lệnh QĐII từ Nha Trang đáp trực thăng ghé thăm BCH Tiểu Khu B́nh Thuận lúc đó đang đóng tại lầu ông Hoàng, thuộc Xă An Hải Quận Hải Long. Lúc này, Tướng Phú đă bị tước chức Tư lệnh QĐII và do Tướng Nguyễn Văn Hiếu thay thế. T́nh h́nh đă bắt đầu hổn loạn v́ Ninh Thuận, B́nh Thuận đă trở thành vùng hỏa tuyến. Sau này tại hải ngoại, có dịp tiếp xúc với những thẩm quyền của B́nh Thuận trong giờ phút hấp hối như Đại Tá Tỉnh Trưởng Ngô Tấn Nghĩa, ông Phạm Ngọc Cửu Phó Tỉnh Trưởng, Trung Tá Dụng Văn Đối, Quận Trưởng Hàm Thuận và các Đại Úy Nguyễn Chánh Trúc, ĐĐT giữ cầu Phú Long nhưng quan trọng nhất là tự sự của Đại Úy Mai Xuân Cúc, Đại Đội Trưởng ĐĐ 948 ĐPQ là đơn vị giữ an ninh trong Thị Xă Phan Thiết cho tới giờ phút cuối cùng.Tóm lại không giống như nhiều tỉnh thị khác, B́nh Thuận vào những giờ phút hấp hối , đă không có những trận đánh không có đại bàng như một tác giă nào đă viết trong mấy năm trước, v́ tất cả đại bàng từ cấp thấp nhất như Thiếu Úy Phùng Thế Xương Phân Chi Khu Trưởng PCK Ḥa Vinh, Trung Úy Lê Ngữ Phân Chi Khu Trưởng PCK Thiện Khánh cho tới các đại bàng cao cấp ở quận như Trung Tá Dụng Văn Đối, Thiếu Tá Phạm Minh Trung Tâm Trưởng Trung tâm Tiếp vận , các vị Phó Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng, Trưởng Ty và trên hết là Đại Tá Tỉnh Trưởng Ngô Tấn Nghĩa đều không bỏ chạy.
    Sự sụp đổ nhanh chóng của QLVNCH từ khi Ban Mê Thuộc thất thủ, tiếp theo là cuộc di tản đẳm máu trên Liên Tỉnh Lộ 7-B và Quân Đoàn I, cuộc lui binh tại Qui Nhơn., Quảng Ngăi..khiến cho ṿng vây bao quanh Sài G̣n càng lúc càng thu hẹp. Mặt Bắc, Phan Rang và Phan Thiết trở thành vùng hỏa tuyến phải đương đầu với nhiều lộ quân hùng hậu của Cộng Sản Bắc Việt có đầy đủ tăng, pháo hiện đại do Liên Xô, Trung Cộng và các nước Đông Âu trong toàn khối Cộng Sản quốc tế viện trợ. Trong lúc đó, VNCH đang lâm vào tuyệt lộ v́ đồng minh Hoa Kỳ đă cạn tào ráo mán, rút ván qua sông, ngoài ra c̣n đem danh lợi c̣ mồi một số tướng lănh miền nam bỏ nước ôm của chạy, khiến cho QLVNCH bốn bề thọ địch, chỉ c̣n chờ chết mà thôi. Ngày 4-4-1975, hai tỉnh c̣n lại của QĐII là Ninh Thuận và B́nh Thuận được sáp nhập vào QĐIII lúc đo do Tướng Nguyễn Văn Toàn làm tư lệnh, bổ nhiệm Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm Tư Lệnh Tiền Phương QĐIII, chỉ huy mặt trận Phan Rang, vốn là quê hương của Tổng Thống Thiệu. Trong dịp này Phan Thiết cũng được tăng cường Trung Đoàn 6 và một pháo đội thuộc SĐ 2 BB vừa di tản từ Quăng Ngải vào B́nh Tuy. Tại Phan Thiết, thời gian này đă giao tranh ác liệt với Trung Đoàn 812 chính quy và các tiểu đoàn địa phương VC, nhưng đă giữ vửng được pḥng tuyến nhờ sự yểm trợ của phi pháo và hỏa pháo VNCH. Ngày 16-4-1975 mặt trận Phan Rang tan vở, các tướng lảnh Nghi, Sang, Đại Tá Nguyễn Thu Lương và nhiều sĩ quan cao cấp khác của VNCH bị bắt làm tù binh. Từ đó B́nh Thuận là chiến tuyến về hướng Tây Bắc, phiá Nam B́nh Tuy vẫn c̣n nhưng đường bộ bị bít v́ giao tranh long trời lở đất đang nổ tung tại Xuân Lộc , Long Khánh từ ngày 9 cho tới 14/4/1975.

    Vào ngày 2/4/1975, Đại Đội 948 ĐPQ đang đóng tại Ấp Hiệp Ḥa, Xă Chợ Lầu , Quận Ḥa Đa th́ được lệnh Trung tá Quận Trưởng Kiều Văn Út theo chỉ thị của P3 TK , về tăng cường Thị Xă Phan Thiết. nhưng đóng quân tại trường Nông Lâm Súc Phú Long , bảo vệ Trung Đội Pháo Binh đóng gần cầu đang yểm trợ hỏa pháo cho Chi Khu Thiện Giáo. Ngày 3-4-1975, đoàn di tản từ Nha Trang - Đà Lạt về trong đó có đủ mọi quân binh chủng kể luôn Trường Vơ Bị Quốc Gia , nổ súng bắn loạn xạ làm cho dân chúng sợ hăi và trước khi ra đi đă cướp bốc cũng như đốt chợ lớn Phan Thiết được xây dựng từ năm 1899. Lúc này tại khu vực Phú Long và các vùng lân cận, ngoài ĐĐ 948 của ĐU Cúc từ Ḥa Đa về tăng cường, c̣n có ĐĐ 283 ĐPQ của ĐU Nguyễn Văn Ba giữ Tuỳ Ḥa, ĐĐ 3/TĐ 249 ĐPQ của ĐU Ḥa phụ trách Xă Ḥa Vinh, nên t́nh h́nh an ninh cũng khả quan, ngoài các vụ pháo kích, bắn sẽ vào ban đêm mà thôi. Vào ngày 15-4 75 Chi Khu Thiện Giáo tại huyện lỵ Ma Lâm được lệnh di tản chiến thuật v́ không chịu nổi đại pháo 130 ly của VC. Các đơn vị của chi khu do ĐU Lê Văn Tuân, Chi Khu Phó chỉ huy đoàn xe, qua cầu Phú Long về Phan thiết. Ngày 16-4-75 lại thêm một đoàn quân xa đông đảo gồm đủ mọi thứ binh chủng như Dù, BĐQ, Sư Đoàn 2 BB, ĐPQ..từ Phan Rang cũng qua cầu Phú Long, để di tản về Sài G̣n sau khi Ninh Thuận mất. Lúc này t́nh h́nh trong Thị Xă Phan Thiết đă bắt đầu hổn loạn, nhiều gia đ́nh kể cả công chức đă cuốn gói ra đi bằng thủy lộ, trong phố hầu như chỉ c̣n lại người nghèo không có phương tiện đào sanh, các hàng cột đèn không có chân và lính, cảnh sát, XDNT ở lại mà thôi. Từ ngày 10/4/75 ĐĐ948 ĐPQ của ĐU Cúc đổi vùng, di chuyển về đóng cạnh căn cứ của Duyên Đoàn 28 HQ sát cửa Thương Chánh thuộc Ấp Vĩnh Phú, để bảo vệ cho BCH hành quân của Trung Tá Tŕ, TKP/TKBT. Lúc đó Đại Tá Nghĩa cho thành lập hai BCH hành quân, BCH chánh do ông trực tiếp điều động toàn bộ lực lượng ĐPQ-NQ đóng tại Lầu Ông Hoàng, c̣n TKP làm việc với các pḥng 2,3 hành quân. Cũng trong ngày , ĐU Cúc nhận lệnh trực tiếp từ Đại tá Nghĩa, dẫn ĐĐ 948 ĐPQ biệt phái cho yếu khu châu thành tại trại Đinh Công Tráng của Thiếu Tá Cư, trước sân vận động Quang Trung, nằm kế một phân đội YTQC sát trường Trung học tư thục Bạch Vân và Dân Y Viện Phan Thiết. Lúc này VC đă pháo kích nhiều hỏa tiển 122 ly vào phố, các khu vực quanh TK và Toà Hành Chánh thường hứng đạn. Sở dĩ VC bắn rất chính xác v́ tiền sát viên của chúng là bọn nằm vùng , một tên giả làm ngư ông câu cá dưới chân cầu Phan Thiết, tên khác là cận vệ của Đại Tá Nghĩa, một tên làm tuỳ phái cho ṭa hành chánh..

    Theo Cúc, th́ Phan Thiết lúc đó hầu như chỉ c̣n có lính mà thôi, ĐĐ 948 ĐPQ pḥng thủ ấp Đại Tài, ĐĐ 206 Trinh Sát Tỉnh của ĐU Lê Văn Tṛ giữ Xă Tường Phong, kế đồn Trinh Tường, xa hơn có Tiểu Đoàn 202 ĐPQ do ĐU Nguyễn Văn Hoàng, thế Thiếu Tá Bích làm XLTV Tiểu Đoàn Trưởng, đóng tại Phú Hội và vùng giáp ranh với Đại Nẳm. Trên Liên Tỉnh Lộ 8, Tiểu Đoàn 275 ĐPQ bao vùng từ cầu Bến Lội , Xă Lại An trên Quốc Lộ 1, qua tới các Ấp Tân An, Tân Điền trên đường Phan Thiết - Ma Lâm. Về phiá Nam giao cho một ĐĐ/ĐPQ và một Liên Đội NQ giữ cổng chữ Y, bảo vệ các Ấp Kim Hải, B́nh Tú và Đức Long. Trong phố, phần an ninh được giao cho các đơn vị NQ và NDTV do Thiếu Tá Nguyễn Thanh Hải, Xă Trưởng Xă Châu Thành Phan Thiết chỉ huy. Tại BCH Cảnh Sát B́nh Thuận nằm trên đường Cao Thắng, phía sau CLB Sĩ Quan và TTTV, là phần pḥng thủ của một Tiểu Đoàn CSDC do Trung tá Trưởng Ty điều động. Tại QYV Đoàn Mạnh Hoạch không có đơn vị nào tăng phái bảo vệ, chỉ c̣n các quân nhân cơ hửu do Y Sĩ Đại Úy Lê Bá Dũng và Trung Úy Công, SQ /CTCT của Đơn Vị chỉ huy. Cũng theo lời Đại Úy Mai Xuân Cúc hiện ở Hoa Kỳ, một nhân chứng thật của B́nh Thuận trong lúc đó, th́ vị Thiếu Tá CHT.QYV.Đoàn Mạnh Hoạch đă di tản chiến thuật về Sài G̣n từ đầu tháng 4/1975 khi B́nh Thuận đang bước vào giờ thứ 25 định mệnh. Trong ngày 17/4/75, VC pháo kích ban ngày lẫn đêm, một vài quả bích kích pháo và hỏa tiển rơi rớt quanh các khu quân sự, trước Tiểu Đội Quân Cảnh Điều Tra Tư Pháp và Ty Bưu Điện , thành phố thật sự đă chết, nhà nhà cài chặt cửa, chen chúc chui rúc dưới các hố tránh đạn thô sơ làm bằng bao cát mua ngoài chợ. Nơi nơi im vắng nảo nùng ngoại trừ khu vực cồn chà Đức Thắng vẫn c̣n hoạt động tấp nập v́ ai cũng chạy.
    Giờ N đă tới lúc 17 h 30 chiều ngày 18-4-1975, pḥng tuyến Phú Long vỡ nhưng cầu không phá kịp, tuy nhiên phía bên khu vực Phước Thiện Xuân, An Hải, kể cả Hải Long, Lầu Ông Hoàng vẫn chưa vở tuyến, Đại Tá Nghĩa cùng BCH vẫn đủ giờ di chuyển về cữa Thương Chánh, trong lúc ngoài khơi có hằng hà tàu chiến của hải quân VNCH nhưng không làm gí được v́ tàu lớn không áp sát ven bờ được, hơn nửa sợ pháo kích như đă từng xăy ra ở Qui Nhơn, Phan Rang, Cà Ná..Bên Quốc Lộ 1, đoàn âm binh của Cộng Sản Bắc Việt với tăng, pháo và hàng hàng lớp lớp cán binh cở lộ quân, chừng mấy chục ngàn người, ạ ạ hơn sóng cuộn cuồng phong di chuyển khắp các nẽo đường phố thị. Tất cả các pḥng tuyến ĐPQ và NQ gần như bị đè bẹp trước đạn súng tối tân của Nga Hoa. Tại pḥng tuyến ở Đại Tài, ĐU Cúc nhận được lệnh từ Thiếu Tá Cư, Yếu Khu Trưởng trên máy PRC 25 cho biết VC đă chiếm được Ṭa Hành Chánh, Tiểu khu nhưng tại Trung Tâm Tiếp Vận, Thiếu Tá Phạm Minh đă đốt được các kho quân nhu trước khi di tản, , B́nh Thuận coi như đă mất , ĐĐ 948 của Cúc được lệnh vượt sông Cà Ty để di tản về B́nh Tuy. Nửa đêm rạng sáng ngày 19/4/75, đại đội tới được xóm đạo Văn Lâm, từ đó lần về quận đường Hàm Thuận, mới biết Trung tá Dụng văn Đối Chi Khu Trưởng cùng Đại Úy Lê Viết Lợi Chi Khu Phó , cũng đă nhận được lệnh di tản. Đêm khuya thật là buồn, cả đại đội phần đói khát thêm lạnh run v́ quần áo ướt sủng nước khi lội qua sông, nên tạm bố trí tại ngả hai Phú Lâm vào lúc 2 giờ sáng, để rồi khi tiếng gà đầu vừa cất th́ mọi người cũng choàng dậy , băng Quốc Lộ 1, đi ngược về hướng Phú Khánh, B́nh Tú để xuống bến tàu cạnh phi trường đợi hải quân vào rước theo lệnh của TKBT. Trong đêm 18/4/75, qua máy truyền tin vẫn c̣n liên lạc 24/24, ĐU Cúc biết được Thiếu tá Cư Yếu Khu Trưởng Châu Thành cùng Trung Tá Trí đă xuống được thuyền của Duyên Đoàn 28 HQ. Theo Điệp Mỹ Linh trong tác phẩm “ HQ.VNCH ra khơi năm 1975 “ th́ giữa lúc khói đạn mịt mùng, tàu HQ 505 nghe tiếng cầu cứu của Đại Tá Nghĩa trong máy PRC 25 nhưng bất lực, tuy nhiên như lời ông Phạm Ngọc Cửu Phó Tỉnh Trưởng, th́ đại tá cuối cùng nhờ được một ghe đánh cá đưa ra tàu lớn và đă rớt xuống biển khi hai chiếc va chạm, cũng may mọi người cứu ông kịp thời.

    Sáng ngày 19-4-75 tuy Cộng Sản đă làm chủ Phan Thiết nhưng khu vực bến tàu thuộc Ấp Kim Hải, phía sau QYV Đoàn Mạnh Hoạch và phi trường vẫn c̣n thuộc quyền kiểm soát của QLVNCH, trên bải có đầy lính đủ mọi quân binh chủng, từ Dù, SĐ2, BĐQ tại mặt trận Phan Rang c̣n đọng lại, cho tới các đơn vị ĐPQ-NQ tỉnh. Cũng trong ngày 19-4-75, một chiếc L19 của KQ/VNCH bay trên thành phố, kêu gọi các lực lượng ĐPQ-NQ đang bị thất lạc, phải t́m cách xuống bến tàu để được lực lượng Hải Quân Vùng 2 Duyên Hải cứu vớt đem về Nam. Một phi tuần F.5 có nhiệm vụ dội bom phá sập ba cây cầu trên ḍng sông Mường Mán , hầu ngăn cản bước tiến quân của cộng quân nhưng đánh lạc vào ngả tư quốc tế, làm hư hại một vài căn nhà trên đường Gia Long, Ngô Sĩ Liên và Nguyễn Tri Phương.
    Cuối cùng nhờ kỷ luật và b́nh tỉnh, tất cả các quân nhân mọi binh chủng có mặt trên bải biển B́nh Tú vào lúc 10 giờ sáng ngày 19-4-75 đều được vớt. Lúc đó thủy triều đang xuống nên đoàn tàu lớn phải đậu xa bờ hơn nữa cây số. Tuy nhiên nhờ những chiếc tàu đổ bộ LCM nên tất cả các đơn vị kể cả Chi Đoàn TQV thuộc Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh hành quân tại Phan Thiết, cũng được theo tàu về Nam, ngoại trừ một chiếc bị ch́m tại bải Vĩnh Phú. Tóm lại đoàn tàu Hải Quân thuộc BTL Vùng 2 Duyên Hải đă hoàn thành nhiệm vụ , chở hơn 3000 quân nhân các cấp thuộc ĐPQ-NQ B́nh Thuận trong đó có ĐĐ 948 ĐPQ của ĐU Mai Xuân Cúc, cùng các lưc lượng Dù, BĐQ, SĐ2BB và mọi quân binh chủng tham chiến tại Phan Thiết - Phan Rang trong những giờ phút hấp hối ngày 19-4-1975, đoàn tàu HQ đă cặp bến Vũng Tàu an toàn lúc 3 giờ sáng ngày 20-4-1975 và các đơn vị lại được Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa tiếp rước hướng dẫn , vào trú đóng tại doanh trại củ của Trung Đoàn 43/SĐ18BB ở Bà Rịa, cùng góp phần tham chiến với các đơn vị bạn tại đây cho tới ngày tàn cuộc. Riêng Trung Tá Dụng Văn Đối, Quận Trưởng Hàm Thuận, ngày 18-4-1975 cho người đốt các kho đạn, kho quân tiếp vụ, sau đó cùng Liên đoàn ĐPQ-NQ, một pháo đội và một Chi Đội Thiết Giáp V100, mở cuộc hành quân từ Hàm Thuận vào tới Bà Rịa một cách an toàn. Đoàn quân di tản này được bổ sung cho sư đoàn 22BB chiến đấu tại Bên Lức Long An, cho tới ngày tàn cuộc. Như vậy, trong những ngày cuối cùng QLVNCH đă có hai cuộc lui binh thành công, một tại bến tàu Kim Hải, Phan Thiết do BTL/V2DH thực hiện, vớt ĐPQ-NQ-BT và nhiều quân binh chủng tham dự trận Phan Rang, cuộc lui binh thứ hai bằng đường bộ từ Long Khánh về Phước Tuy của SĐ18BB và các đơn vị do Thiếu Tướng Lê minh Đảo chỉ huy.

    Đời lính da ngựa bọc thây, nổi tủi hờn của những thanh niên thời đại VNCH, may thay đă sớm chấm dứt khi cái mặt thật của lịch sử , của Cộng Sản Hà Nội trơ trẽn lộ ra sau lớp phấn son huyền thoại : hại dân, bán nước và vị kỹ.

    Mường Giang
    XB đông 2002
    (Viết Tặng Mai Xuân Cúc)

    Tài Liệu Tham Khảo
    ĐĐ 948 ĐPQ, những ngày tử thủ BT của Đ/U. Mai xuân Cúc
    - Một chiến thuật hửu hiệu … của Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa
    - Tôn vinh QLVNCH của Phạm Kim Vinh
    - Chiến sử QLVNCH của Phạm Phong Dinh
    - 55 ngày sụp đổ của Chánh Đạo

  4. #34
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771


    Bút Kư Chiến Trường:
    Hổ Cáp - Gia Đ́nh 9 Kỵ Binh
    Cuối Tháng 4/75 ...
    Hổ Cáp Trần Hữu Thành

    -


    Sanh năm 1937 tại Thủ Dầu Một.
    - Xuất thân khoá 10 Nhân Vị , Trường SQTB / Thủ Đức năm 1961 .
    - 1961-1968 : Chi Đội Trưởng và Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 3 Trung Đoàn 1 KBTG.
    - 1968-1969 : Sỉ Quan Tiếp Vận , Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh, Quảng Trị, QĐ I
    - 1969-1970 : Trưởng Pḥng Bảo vệ, Phủ Thủ Tướng, Sàig̣n .
    - 1970 -1971: Chi Đoàn Trưởng CĐ2/18 Thiết Kỵ, LĐ III KB, QĐ. III .
    - 1972-1974 : Thiết Đoàn Phó TĐ9KB, LĐIVKB, QĐ.IV .
    -1974-1975 : Thiết Đoàn Trưởng , TĐ9KB, LĐIVKB, QĐ IV.
    - 1975-1983 : Tù CS ở Miền Bắc Việt Nam .
    - Cuối 1990 : Định cư tại Hoa Kỳ/ HO3.
    - Với 5 lần bị thương ở chiến trường .
    Tri ân và tưởng niệm Cố Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV và Quư Chiến hữu cùng chiến đấu đă nằm xuống v́ lư tưởng Tự Do . Vinh danh và trân trọng tri ơn Quư Chiến hữu Không Quân, Hải Quân, Biệt Động Quân, Bộ Binh, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân và Kỵ Binh các cấp đă cùng phối hợp tạo nên những thành quả nầy.
    Kính tặng Chuẩn Tướng Mạch văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, người đă trực tiếp chỉ huy tôi...
    * * * * *
    Sau Hiệp Định Paris năm 1973, v́ nhu cầu chiến lược giành dân, giữ đất và yểm trợ b́nh định, Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư Lệnh Quân Đoàn IV kiêm Quân Khu IV, đă xử dụng SĐ21BB, tổ chức những cuộc hành quân càn quét, dồn địch vào rừng U Minh và lập một hệ thống đồn bót ṿng đai U Minh để kiểm soát và ngăn chận hoạt động địch, đồng thời thành lập căn cứ hoả lực Pháo binh 105 ly tại xă Lương Tâm để chỉ huy và yểm trợ các hoạt động của quân ta.
    (Quân Khu IV dự trù sau nầy dân cư trù phú, sẽ tŕnh Chính Phủ lập thêm 1 Quận Hành Chánh đặt tên là Quận Hưng Long thuộc Tỉnh Chương Thiện)
    Ngày 1/11/ 1974, Đại Tá Mạch văn Trường nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB thay Chuẩn Tướng Lê văn Hưng. Tướng Hưng về làm Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV, Phụ Tá cho Thiếu Tướng Nguyển Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV.
    Sư Đoàn 21 BB, trách nhiệm hành quân yểm trợ chiến thuật cho các Tỉnh An Xuyên + Bạc Liêu + Ba Xuyên + Phong Dinh + Chương Thiện + Kiên Giang + An Giang, tức là phần đất từ Sông Hậu Giang xuống Cà Mau, trực thuộc QĐ IV và QK IV.
    Giữa năm 1974, do nghị quyết của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng Sản VN ở Hà Nội, Sư Đoàn 4 Hậu Giang trực thuộc Quân Khu 9 CSVN (tức vùng đất từ Sông Hậu Giang xuống mũi Cà Mau) được thành lập, gồm có 3 Trung Đoàn Chủ lực biệt lập D1+ D2 + E 6, thêm Trung Đoàn Pháo - Cối từ Miền Bắc mới xâm nhập vào (hoả Tiển 122 ly + cối 120 ly + đại bác không giật 82 ly và súng 12ly 8 pḥng không )
    Cuối năm 1974, CSVN phát động chiến dịch Đông Xuân, đánh phá đồng loạt vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tại QK9,Việt Cộng tung Sư Đoàn 4 Hậu Giang khai quân vào chiến dịch nầy. Khởi đầu, địch quân đánh chiếm hệ thống đồn bót ṿng đai U Minh, giai đoạn kế tiếp là đánh chiếm tỉnh Chương Thiện. Chương Thiện và Rạch Giá là một vùng sông rạch chằn chịt, ruộng lúa và śnh lầy ngập nước.

    Dụ địch ra khỏi hang ... VC phơi ḿnh trong lưới lửa
    Ngày 11/11/74, nhằm giải tỏa áp lực địch và giải vây cho căn cứ hỏa lực tại xă Lương Tâm, theo lệnh của Quân Đoàn IV, Trung Đoàn 31 /21 BB, do Đại Tá Nguyển văn Biết chỉ huy, cho 2 Tiểu Đoàn 1+3/31 BB trực thăng vận xuống ruộng trống hướng Đông của căn cứ hoả lực và cách khoảng 2 cây số. Vừa đặt chân xuống băi đáp an toàn, 2 Tiểu đoàn tiến song song về hướng Tây (hướng căn cứ hoả lực), cách căn cứ hoả lực khoảng 1 Km. Tiểu Đoàn 1/31 đi ngoài ruộng trống và bị VC dùng chiến thuật độn thổ phục kích. Tiểu Đoàn 3/31 đi phía trong con rạch và vườn cây cũng chạm súng nặng và bị VC cầm chân, không ứng cứu được Tiểu Đoàn 1/31. Trung Đoàn 31 BB đă phải dùng hoả lực phi pháo yểm trợ tối đa mới giúp được 2 Tiểu Đoàn nầy lui quân ra khỏi ṿng chiến.
    Trong trận đổ quân bị phục kích và chạm địch này, Tiểu đoàn 1/31 BB bị tổn thất nặng (Tiểu đoàn trưởng chết và mất xác, một số binh sĩ bị mất tích), Tiểu Đoàn 3/31 BB bị tổn thất trung b́nh, đổi lại, Việt Cộng bị tổn thất rất nặng trong trận đánh xáp lá cà và bị mưa pháo bắn dập. Điều đáng ca ngợi tinh thần huynh đệ chi binh của 2 Tiểu Đoàn nầy, mặc dầu giao chiến hết sức gay go và thất thế, nhưng họ vẫn cố gắng khiên vác đưa ra vùng an toàn hơn 100 đồng đội bị thương.
    Sau đó Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn lệnh cho thành lập Chiến Đoàn 32 lưu động do Trung Tá Hồ Viết Lượng, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 32/21 Bộ Binh Chỉ huy (nồng cốt là Trung Đoàn 32/21 BB) và di quân rời vùng Cà Mau lên vùng Chương Thiện, phối hợp với Chiến Đoàn 219 xung kích (nồng cốt là Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh do Trung Tá Trần Hữu Thành, Thiết Đoàn Trưởng TĐ9KB làm Chiến Đoàn Trưởng) để hành quân giải tỏa áp lực VC ở vùng căn cứ hỏa lực nầy. Sư Đoàn 21BB chỉ huy trực tiếp cuộc hành quân .
    Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn nhận định, với thực tế địa thế śnh lầy, sông lớn và kinh rạch chằng chịt, sông Cái Lớn quá rộng và sóng rất to, 2 bờ sông śnh và lầy, Thiết kỵ khó có thể làm capstan để vượt sông, rất trở ngại cho Thiết Kỵ di chuyển và áp dụng đội h́nh thích hợp. Nếu tung Chiến Đoàn 32 Lưu Động vào mà không có Thiết Kỵ đi kèm để yễm trợ th́ khó thành công, và sẽ bị tổn thất nặng như Trung Đoàn 31 BB. Do đó, Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn và chúng tôi thảo luận và chấp nhận chọn giải pháp: Câu thời gian, dùng chiến thuật "điệu hổ ly sơn", dụ địch ra khỏi hang để tiêu diệt.
    Giai đoạn đầu, quan niệm hành quân là: Chiến Đoàn 219 xung kích nhận nhiệm vụ làm mũi nhọn tiến quân chính, tiến từ hướng Bắc xuống sông Cái Lớn, vượt sông Cái Lớn và tiến xuống giải toả áp lực địch quanh căn cứ hoả lực. Chiến Đoàn 32 Lưu Động làm lực lượng trừ bị, hành quân phía sau, giữ đường tiếp tế, giải toả áp lực địch quanh quận Kiên Hưng, cùng lúc đánh phá khu hậu cần của Trung Đoàn D2 Việt Cộng và sẳn sàng Trực Thăng Vận. (Xem phóng đồ số 1)
    Khi Chiến Đoàn 219 tiến xuống cách phía Bắc bờ sông Cái Lớn khoảng hơn 3 cây số th́ Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ báo cáo bị lầy. Chi Đoàn 3/9Thiết Kỵ do Thiếu Tá Nguyễn Quí Phát làm Chi Đoàn Trưởng, được 2 Đại Đội của Tiểu Đoàn 1/33/21 BB tùng thiết. Chiến Đoàn đă dùng nghi binh là bị lầy, các chiến xa lên, xuống, xoay xích sắt quanh chỗ nầy, không đi được xuống hướng Nam để chuẩn bị vượt sông như lệnh hành quân. Liên tiếp trong nhiều ngày Chiến Đoàn bị Tư Lệnh Sư Đoàn xài xể rùm beng trong máy... Trong thời gian nầy căn cứ hoả lực được bảo vệ hữu hiệu bằng Pháo Binh. Những trở ngại trao đổi giữa Chiến Đoàn với Tư Lệnh Sư Đoàn chắc chắn là VC kiểm thính và nghe tất cả. Đánh giá là Thiết giáp thực sự không đi xuống hướng Nam được, VC cho bỏ trận địa chờ đón đả viện ở phía Nam sông và di quân vượt sông Cái Lớn lên hướng Bắc, bố trí tạo dựng trận địa mới, phục kích chận đánh BB.
    Sáng ngày N+4, khoảng 10 giờ, sau khi báo cáo bị lầy như các ngày trước, Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ cho 2 ĐĐ/BB tùng thiết xuống xe và đi về phía trước, tức hướng Nam cận bờ sông Cái Lớn, lục soát và bố trí. Khi 2 ĐĐ/BB đi cách Chi Đoàn khoảng 700 thước th́ bị VC khai hoả bằng thượng liên pḥng không 12 ly 8. Bộ Binh liền nằm lại, móc hố, bố trí bám trụ, không rút lui.( V́ đă nhận lệnh miệng từ trước là nằm tại chỗ, Thiết Kỵ sẽ tràn lên diệt địch ).
    Bộ Binh báo cáo trước mặt họ khoảng 600 thước có 5, 6 cái ụ đất có cây tràm mọc,VC đặt thượng liên ở đó bắn vào cánh quân của Bộ Binh, và có thể có súng nặng ở đó. Chiến Đoàn cho pháo binh tác xạ mạnh vào các điểm tiên liệu phía trước và điều động Chi Đoàn 1/9 TK do Đại Uư Lê Quí Thọ chỉ huy, trừ bị từ phía sau tiến lên, cùng dàng hàng ngang với Chi Đoàn 3/9 TK, di chuyển vượt qua tuyến Bộ Binh, cùng lúc, 2 Chi Đoàn cùng xung phong vào pḥng tuyến VC... Hai chi đội 4/1/9 và 4/3/9 yểm trợ cùng 6 xe M113 trang bị 106 ly không giật của 2 Chi Đoàn 1 và 3 Thiết kỵ do Thiếu Uư Nguyển Ngọc Dưỡng, Chi Đoàn phó Chi Đoàn 1/9 TK chỉ huy, di chuyển xéo lên bên phải và bố trí để làm căn cứ hoả lực, xử dụng cối 81 ly cùng 106 không giật và đại liên 50 tác xạ cực mạnh xéo ngang hông các đơn vị VC, yểm trợ cho 2 Chi Đoàn xung phong.
    Hai Chi Đoàn trưởng đă phối hợp hàng ngang tuyệt vời, từng đợt từng đợt 6 trái 106 ly không giật bắn bay mất các ụ đất cao, khoá miệng các súng pḥng không 12 ly 8 và 82 ly không giật chống Thiết Giáp. Vết xích xung phong của Thiết Kỵ đă cày nát tuyến phục kích của VC. Tuyến bị vỡ, quân VC số bị d́m chết dưới xích sắt chiến xa, số bung ra khỏi hầm hố thoát chạy và bị bắn gục hết lớp này đến lớp khác.
    Trên thực tế, VC bị yếu tố bất ngờ v́ nghĩ rằng đất lầy nên M 113 không di chuyển được, nhưng địa thế tuy có nước lấp xấp, đất vẫn c̣n cứng và M113 di chuyển rất tốt và dễ dàng, do đó VC không trở tay kịp và làm mồi cho đại bác 106 không giật, súng cối và đại liên 50 + 30 trên xe M113. Một số lớn bị đánh bật khỏi vị trí, rút lui về phía sông th́ lại bị pháo binh và súng cối của ta hủy diệt, xác địch nằm vương văi trên bờ ruộng, trong lùm cây, trên sông lạch...
    Với kinh nghiệm chiến trường, Thiếu Tá Phát và Đại Uư Thọ cùng các Kỵ Binh 2 Chi Đoàn đă phối hợp hỏa lực và di động chuẩn xác đă gây cho VC thiệt hại nặng nề. Trong trận đánh này, Chiến Đoàn chưa nhờ đến sự yễm trợ của không quân.
    Kiểm điểm kết quả sau trận đánh, về phíaViệt Cộng, 1 Tiểu Đoàn của Trung Doàn D2 bị xoá tên hoàn toàn và một số tổn thất khác không rơ. Về phía QLVNCH, số thương vong không đáng kể, gồm 8 người bị thương (6 BB và 1 HSQ xạ thủ ĐL50 và 1 Trung sĩ trưởng xa.) Ta tịch thu 2 đại bác 82 ly không giật chống TG +3 thượng liên 12ly8 pḥng không và trên 50 súng cá nhân và B40, B41.

    Chiến thuật Ngựa ngậm tăm: im lặng vô tuyến, nghi binh, chuyển thế. Lê Đức Anh vứt chiến bào thoát thân trong lửa đạn. (Xem phóng đồ số 2 )
    Sau những lần thất bại nặng nề liên tiếp, tướng Việt Cộng Lê Đức Anh, Tư Lệnh Quân Khu 9 của CSVN rất bực tức, quyết định phục hận, quyết đánh chiếm Toà hành chánh cùng thị xă Vị Thanh của Tỉnh Chương Thiện và san bằng BTL/Hành Quân của SĐ 21 BB nằm sát cạnh ṿng đai Thị Xă Vị Thanh về phía Nam. Cùng lúc, địch dàn quân với ư đồ phục kích chận đánh tiêu diệt Chiến Đoàn 219 xung kích và Chiến Đoàn 32 lưu động từ vùng Kiên Hưng khi các đơn vị này về cứu viện, và theo dự trù, hai Chiến đoàn này di quân dọc theo trục lộ từ Cầu đúc Cái Śnh qua xóm làng Hỏa Lựu về sát phía Nam với BTL/HQ của SĐ21 BB.
    Tướng VC Lê đức Anh, cho lệnh tấn công, pháo kích nặng đồn Vĩnh Chèo và Chi Đoàn 2/9 Thiết Kỵ do Trung Uư Dương Vĩnh Trường, Chi Đoàn Trưởng chỉ huy. Chi Đoàn đang tăng phái hành quân bảo vệ vùng nầy, hành quân xa với Chi Đoàn 1 và 3. Lê đức Anh cùng lúc cho đại quân di chuyển dần ra gần tỉnh và BTL/SĐ21/HQ, chiếm khu vườn C̣ của Ông Hội Đồng Hổ ở xă Tân Thuận Đông, cùng dàn tuyến phục kích dài theo xă Hoả Lựu, chuẩn bị trận địa đồng loạt tấn kích ngày hôm sau.
    Nhận được báo cáo chính xác tin của Pḥng 2 SĐ, Đại Tá TL/SĐ 21BB cho lệnh Chiến Đoàn 219 xung kích phản công, chận đánh VC với quan niệm không chấp nhận bị phục kích từ Cầu đúc Cái Śnh, Hỏa Lựu về BTL/SĐ/HQ. Chiến Đoàn Trưởng tŕnh bày kế hoạch tổng quát như sau :
    Để Chi Đoàn 1/9 Thiết Kỵ ở lại vùng hành quân với Chiến Đoàn 32 Lưu Động. Cho Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ di chuyển về Chương Thiện, phối hợp với Chi Đoàn 2/9 Thiết Kỵ phản công, kế hoạch chi tiết, tôi sẽ tŕnh vào sáng hôm sau. Đại Tá Tư Lệnh đồng ư với kế hoạch trên.
    Ngay sau khi nhận lệnh, Hổ Cáp (biệt danh của Chiến Đoàn Trưởng) đáp trực thăng Chỉ huy xuống Chi Đoàn 1+ 3 Thiết Kỵ và cho lệnh miệng tại chỗ:
    - 36 (biệt danh của Thiếu Tá Nguyển Quí Phát, Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 3/9 Thiết kỵ), chuẩn bị khi trời vừa tối, chi đoàn chở Đại Đội 32 Trinh Sát làm tùng thiết, tắt đèn, im lặng vô tuyến, không liên lạc bằng máy truyền tin (chỉ lên tiếng khi chạm địch), chỉ liên lạc bằng mắt, di chuyển ra lộ cái, đi về Rạch Giá, qua Long Xuyên, về Cần Thơ, xuống ngả 3 Cái Tắc nhận tiếp tế đạn dược, xăng dầu, lương thực. Đúng 3 giờ sáng rời điểm tiếp tế đi vô Chương Thiện, cách Tỉnh Lỵ 2 Cây số, đổi hướng trái và vượt kinh, bố trí sau lưng xóm nhà hướng về hướng Nam, sẳn sàng tấn công mục tiêu trước 6 giờ sáng. Chờ lệnh.
    Trong khi Chi Đoàn di chuyển, Chi Đoàn cho 1 HSQ Ban 3 ở lại với BCH/Chiến Đoàn 32 với máy truyền tin tại ấp Áp Lục, luôn báo cáo về BCH/Chiến Đoàn 219 Xung Kích điểm ngủ đêm của Chi Đoàn, phục kích đêm của Bộ Binh tùng thiết, hỏa tập pháo binh, báo cáo hoạt động trong ngày. Nhiệm vụ là luôn giữ liên lạc và báo cáo y như là Chi Đoàn đang qua đêm tại Vùng hành quân.
    - 18 (biệt danh của Đại Uư Lê Quí Thọ Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 1/9 Thiết Kỵ) bố trí qua đêm tại chỗ. Sáng hôm sau, Chi Đoàn tăng phái cho Chiến Đoàn 32 lưu động, vào tần số và nhận lệnh trực tiếp Chiến Đoàn.
    Ngay chiều hôm đó, Thiếu Tá Hồ Đ́nh Thuận, Thiết Đoàn Phó TĐ9KB theo trực thăng chỉ huy về hậu trạm Chiến Đoàn tại tỉnh lỵ Chương Thiện, phối hợp với 94 ( biệt danh của Đại Úy Đào văn Cung), Sĩ quan Tiếp Vận của Thiết Đoàn lo việc tiếp tế cho Chi Đoàn 3/9 TK tại Ngả 3 Cái Tắc, đoàn xe tiếp tế có mặt trước 1 giờ sáng và Ban truyền tin chuẩn bị máy và rà, t́m kiếm tần số liên lạc truyền tin của VC, theo dơi hoạt động của chúng hầu cập nhật t́nh h́nh, t́m đúng chỗ chúng bố trí để có quan niệm hành quân thích nghi, áp dụng đội h́nh cùng hướng tiến quân thích hợp và chính xác vào sáng hôm sau.
    Đúng 6 giờ sáng, mặt trời sắp mọc, ánh sáng mờ mờ, Chiến Đoàn điều động Chi Đoàn 2/9 TK do 27 (biệt danh của Trung Uư Dương Vĩnh Trường Chi Đoàn Trưởng) rời điểm ngủ đêm, di chuyển lên hướng Bắc vượt kinh Hội Đồng Hổ, bắt tay với Chi Đoàn 3/9 TK cùng thanh toán mục tiêu. Đồng thời cho Chi Đoàn 3/9 TK rời vị trí di chuyển xuống hướng Nam, sẳn sàng bắt tay với Chi Đoàn 2/9 TK. Thiết Kỵ di chuyển rất chậm và đổi hướng luôn luôn theo lệnh Chiến Đoàn để Ban Truyền tin do 96 Thượng Sỉ I Hầu Châu Pâu chỉ huy rà t́m tần số liên lạc của VC.
    Sau hơn 1 giờ t́m kiếm, Ban Truyền Tin Chiến đoàn đă bắt được tần số liên lạc của VC. Và sau nhiều lần thay đổi hướng tiến của Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ, nghe chúng báo cáo, Chiến Đoàn biết chắc chắn là Tướng VC Lê đức Anh đă cho quân bố trí ngoài ruộng trống, trước mặt của Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ chứ không bố trí trong kinh rạch như lệ thường, cốt ư là để tránh phi pháo và gây bất ngờ cho ta. Một lần nữa, Việt cộng lại áp dụng chiến thuật độn thổ phục kích ngoài ruộng trống.
    T́nh h́nh dàn quân của địch đă rơ: Địch ở ngay trước mặt Chi Đoàn 3/9 TK. Chiến Đoàn lệnh cho Chi Đoàn 2/9TK vượt kinh ngay, sau khi vượt kinh xong, Chiến Đoàn lệnh cho Trung uư Diệp Minh Tâm, Chi Đoàn phó Chi Đoàn 3/9 Thiết kỵ chỉ huy căn cứ hoả lực gồm 6 đại bác 106 ly không giật (gồm 3 của Chi Đoàn 3/9 TK và 3 của Chi Đoàn 2/9 TK) cùng 2 Chi Đội yểm trợ súng cối 81 ly của 2 Chi Đoàn cùng toàn bộ phần c̣n lại của Chi Đoàn 2/9 TK, tác xạ từ hướng Đông sang Tây yểm trợ cho chi Đoàn 3/9 TK xung phong từ Bắc xuống Nam.
    Cuộc giao tranh diễn ra ác liệt, trên trực thăng chỉ huy, Hổ Cáp nh́n xuống trận địa thấy rất rơ địa thế và t́nh h́nh bao quát, thấy hỏa lực địch c̣n rất nặng trước mặt bên phải Chi Đoàn 3/9 TK, dàn súng cối của VC đặt ở bờ sông Cái Lớn phía Nam bắn lên. Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ nhận lệnh bố trí lại tại chỗ và tác xạ cầm chân VC chờ lệnh. Trung úy Tâm nhận lệnh dời căn cứ hỏa lực lên thay thế vị trí Chi Đoàn 2/9 TK, và 27 cùng Chi Đoàn di chuyển đi phía sau Chi Đoàn 3/9 từ hướng Đông qua hướng Tây, qua bên phải xong, đổi đội h́nh dàn hàng ngang với Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ.
    Hổ Cáp cho 2 Chi Đoàn dàn hàng ngang, mỗi xe cách nhau khoảng 50 thước, đại liên nối đạn dài 5 hay 10 thùng, tác xạ 15 hay 20 viên / loạt, mănh liệt và liên tục vào mục tiêu địch. 27 và 36 liên lạc hàng ngang phối hợp thật chặt chẽ ào ạt xung phong vào tuyến VC. Cùng lúc, lệnh cho 93, Đại úy Nguyễn Quang Minh, sĩ quan Hành Quân Chiến Đoàn, điều phối hỏa lực Pháo Binh bắn tập trung vào tuyến địch ở Kinh Ông Hội Đồng Hổ, khu vườn C̣ và vị trí súng cối địch ở phía Nam, đồng thời cản đường tiếp viện hay rút lui, tản thương của địch.
    Thiết Kỵ và Bộ Binh đan lưới lửa phủ chụp lên các vị trí địch, và yếu tố bất ngờ mà địch tưởng dành cho đối phương đă bị đảo ngược, họ trở thành mục tiêu tác xạ lộ thiên không nơi chắn che, nương tựa, bị dí chết giữa đồng rộng dưới lưới đạn và xích sắt, hoặc vỡ pḥng tuyến tháo chạy thành những hàng bia di động bị đốn ngả.
    Sau hơn 1 giờ quần nhau từ ruộng lầy trống vào đến sát bờ kinh, Chiến Đoàn đă làm chủ toàn bộ chiến trường và khai thác trận địa. Nắng soi rơ mặt, chiến địa śnh lầy nhầy nhụa máu và xác người, súng và đạn, những mô đất vỡ tung, những nhành cây gẫy cụp. Chiến địa hoang tàn trong nỗi kinh hoàng của những toán quân cộng sản may mắn c̣n sống tháo chạy không dám quay đầu..
    Chiến Đoàn báo cáo chiến lợi phẩm thu được về cho 54 (biệt danh của Đại Tá Lâm Chánh Ngôn, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn) ghi sổ và tính ra tiền để thưởng, và cuối cùng 54 báo quỹ hết tiền, tức không c̣n tiền để thưởng nữa v́ vũ khí quân lính tướng VC Lê Đức Anh bỏ lại quá nhiều (Mỗi khẩu súng cộng đồng được thưởng 50.000đồng). Và phải ghi nợ (Xem phóng đồ số 2)
    Trong trận đấu trí và ác chiến kinh hoàng này, theo tin tức của Đoàn 7X tại Cần Thơ cung cấp th́ Tướng VC Lê Đức Anh đă phải cởi áo, lột sao bỏ lại trận địa, giả dạng ông già câu cá... mới vượt được khỏi trận địa và thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Tư Lệnh Phó Chiến Trường, nhân vật số 2 sau Lê Đức Anh, bị xích sắt M 113 d́m giữa trận địa śnh lầy, trọng thương được quân ta chuyển về rừng U Minh, được chữa trị nhưng ông ta hôn mê và chết sau đó 4 tháng. Cha xứ nhà thờ Vĩnh Chèo cho biết VC đă dùng nhiều xuồng, có trên 30 chiếc, chở xác chết và thương binh trong đêm tối về vùng căn cứ lỏm ở kinh Trực Thăng và Hóc Hỏa...
    Thế nhưng, cuộc chiến thắng nào cũng có cái giá bi thương của nó. Về con số quân bạn thương vong, Bộ Binh tùng thiết có 4 tử thương và 8 bị thương. Chi Đoàn 3/9 TK 1 HSI xạ thủ ĐL50 tử thương và 1 bị thương. Chi Đoàn 2/9 TK bị cháy 1 xe M 113 và 3 kỵ binh bị thương.
    Về vũ khí, tịch thu: 3 Đại bác 82 ly không giật chống Thiết Giáp, 9 thượng liên 12ly 8 pḥng không, 22 khẩu súng B40 và B41 chống xe Thiết Giáp, trên 100 súng tiểu liên Ak 47 của khối Cộng Sản.
    Đặc biệt, HSI xạ thủ đại liên 50 bị tử thương là anh ruột của BI lái xe, và chính BI nầy đă anh dũng dùng 1 tay quăng lựu đạn, 1 tay lái xe cày nát tuyến VC và nhẩy xuống khỏi xe, thu khẩu Thượng liên 12 ly 8 pḥng không đầu tiên, trước cả Trinh sát 32 tùng thiết. Anh đă được đặc cách vinh thăng lên HSI. Hai Anh Em cùng làm việc chung trên 1 xe M.113 ( Anh là 1 xạ thủ đại liên 50, Em th́ lái xe. Hai anh em cùng đầu quân vào Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh và cùng phục vụ chung trên 1 xe M 113.) Tôi rất tiếc và vô cùng ân hận đă quên tên họ của 2 chiến hữu kỵ binh kiêu hùng nầy. Cầu xin 2 anh thứ lỗi cho tôi.
    Nh́n lại trận chiến, tướng VC Lê đức Anh và Ban Tham Mưu của Quân Khu 9 VC đă ước tính sai t́nh h́nh. Họ nghĩ là họ đă khoá chặt Chiến Đoàn 219 và Chiến Đoàn 32 tại vùng Kiên Hưng, không về ứng cứu được trận địa mới nầy. Nếu về th́ phải đi vào đường chết do chúng chọn lựa. Theo dự liệu của Lê Đức Anh và bộ tham mưu VC, toàn bộ Chiến đoàn 219 trên đường về cứu viện sẽ bị phục kích và tiêu diệt, v́ Chiến Đoàn phải vượt sông Cầu Đúc, cầu nầy đă bị VC giật ḿn sập không xử dụng được, muốn qua phải dùng phà do Công Binh chở qua sông và phải đi qua ấp Cái Śnh, xă Hỏa Lựu, tức đi vào vùng trận địa do chúng chọn lựa và tổ chức phục kích. Đây là đoạn đường gần nhất dài khoảng 20 cây số. Duy nhất chỉ có Chi Đoàn 2/9 TK trong vùng và VC đă bố trí độn thổ ngoài trống để phục kích chận đánh Chi Đoàn nầy khi di chuyển về cứu Tỉnh lỵ và BTL/SĐ. Họ không ngờ họ bị đánh lừa. Chiến Đoàn đă nguỵ trang, cho Chi Đoàn 3/9 TK im lặng vô tuyến, không mở đèn, di chuyển suốt đêm, đi một đoạn đường dài trên 260 cây số ngàn, để sáng sớm hôm sau vượt kinh xong và di chuyển về hướng chúng nằm ngoài trống, phía sau tuyến bố trí của chúng. Quân Lê Đức Anh phải chấp nhận giao tranh trong t́nh trạng bất ngờ trên một chiến địa bất lợi trước hỏa lực của Thiết Kỵ và Bộ Binh tùng thiết..
    Trong t́nh h́nh nếu Chi Đoàn 2/9 Thiết Kỵ không được lệnh nghi binh, di chuyển đường xa và đổi chiến thuật lừa địch, th́ khi đang vượt kinh và bị cộng quân khai hỏa, quân ta sẽ rơi vào t́nh thế rất nguy hiểm, mức độ tổn thất sẽ không lường được, thế trận bị kẹt cứng, không khai triển đội h́nh để lui về phía sau, không di quân bên phải, bên trái được, không xử dụng hỏa lực được... v́ dừa nước 2 bên bờ kinh cản trở và chỉ làm mồi ngon cho B40, B41 của địch mà thôi. Chính v́ thế, thay v́ tiêu diệt được Chiến Đoàn 219 xung kích, ngược lại, Quân Khu 9 CSVN đă bị tổn thất rất nặng nề về quân số và vũ khí cũng như cấp chỉ huy, không kể trường hợp Tư Lệnh chiến trường tướng VC Lê Đức Anh đă phải theo "sách Tôn Sĩ Nghị", vứt chiến bào, giả dạng thường dân lội śnh trốn chạy thoát thân...

    Hổ Cáp
    Gia đ́nh 9 Kỵ Binh

  5. #35
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771


    Hải Long, Mặt Trận Miền Đông Phan Thiết
    Những Ngày Cuối Tháng 4-1975
    Tác giả: Mường Giang


    Theo sử liệu, Chưởng Cơ Nguyễn Hửu Cảnh, một tướng lănh tài danh của Đàng Trong, thời Chúa Nguyễn Phúc Chu, đă chỉ huy đạo quân Đại Việt đầu tiên, tiến vào miền Thủy Chân Lạp bằng đường bộ,sau khi Châu Panduranga cuối cùng của Vương Quốc Chiêm Thành mất vào năm 1693. Đoàn quân khi qua sông Mai Nương, thuộc xứ Pan Rang, bắt đầu tiến dọc vào vùng gió cát ven biển lúc đó, hầu như không có bao nhiêu làng xóm, sự sống, mà chỉ có hàng hàng lớp lớp cát đụn, xương rồng mọc suốt bờ biển phía đông B́nh Thuận , từ Cà Ná chạy vào tới Phù My, giáp ranh với Bà Rịa. Cuộc hành quân đường bộ dài trên 150km, đă góp phần tạo nên những thị trấn trù phú sau này như Long Vĩnh trong vịnh Ṛn, Phan Rí ở cửa biển Paric, Phố Hải tại vịnh Ba Giai và Hamulithít (Phan Thiết).
    Tóm lại từ thế kỷ thứ VIII sau TL, người Chàm trong vương triều Panduranga I, đă hoàn thành nhóm đền tháp Pôshanư, thờ cúng các vị thần thánh Ấn Độ Giáo, trên đồi Bà Nài cách Phan Thiết về phía nam chừng 7 km. Từ thế kỷ XVII về sau, các thị trấn miền đông B́nh Thuận , trong đó có Mũi Né và Phú Hài càng lúc càng trở nên trú phú và quan trọng, dù từ đầu thế kỷ XX, tỉnh lỵ dời từ Ḥa Đa về Phan Thiết, nằm trên cửa sông Mường Man, chiếm lĩnh địa vị số 1 của Phố Hải suốt mấy thế kỷ qua.
    Trước năm 1975, Mũi Né là thủ phủ của quận Hải Long, cửa ngơ để Hà Nội tiếp tế mọi thứ bằng đường biển cho bộ đội trú đóng trong mật khu Lê Hồng Phong, từ Ḥn Hồng, Băi Xếp, Ốc, Ghềnh, Dơi thuộc B́nh Nhơn, Ḥa Thắng đối diện với Ḥn Nghệ ngoài biển, về hướng bắc Thạch Long, Khánh Thiện cũng như Vùng Rạng, Thiện Nghiệp. Những ngày cuối cùng cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975), theo các sử gia trong và ngoài nước cận đại, th́ B́nh Thuận là tỉnh duy nhất của miền Trung, từ lính cho tới công chức không bỏ chạy và họ đă chiến đấu với cộng sản Hà Nội tới ngày cuối cùng vào sáng 19-4-1975, cũng như đă thực hiện được các cuộc lui quân về Nam an toàn bằng đường bộ lẫn đường biển.
    Riêng tại mặt trận miền đông Phan Thiết, trong vùng chiến thuật thuộc Chi Khu Hải Long, bao gồm Quận Lỵ Mũi Né, các Phân Chi Khu Thiện Nghiệp, Thiện Khánh, An Hải, Phước Thiệu Xuân và Thanh Hải... theo lời các thẩm quyền lúc đó như Đại Tá Tỉnh Trưởng Ngô Tấn Nghĩa, Đốc sự Phó Tỉnh Phạm Ngọc Cửu, Trung tá Quận Trưởng Hàm Thuận Dụng văn Đối, cùng nhiều sĩ quan khác như Đại Úy Mai Xuân Cúc, Đại Úy Nguyễn Chánh Trúc, Quận Đoàn Trưởng XDNT Lê Ngọc Lan, Khai Trinh.. .kể lại, nhưng quan trọng hơn hết vẫn là lời của Trung Úy Lê Ngữ, Phân Chi Khu Trưởng PCK Thiện Khánh, cấp chỉ huy trực tiếp nút chận chiến thuật trên mặt trận miền đông tại Thiện Khánh và cái loa của VC. B́nh Thuận viết trong Phan Thiết 100 năm,v́ tuyến Phan Rang bị vở ngày 16-4-1975, th́ măi tới 5 giờ sáng ngày 19-4-1975, khi QLVNCH được lệnh di tản chiến thuật khỏi tỉnh B́nh Thuật, th́ một đại đội thuộc C/482 VC, mới bon bon tới tiếp thu Hải Long đă bỏ ngỏ. Sau này nhân có một vài cấp sĩ quan tại B́nh Thuận đă rời chức vụ trước khi giặc tới như Thiếu Tá Thông, quận trưởng Thiện Giáo, hay Trung Tá Đạm, CHT.QYV Đoàn Mạnh Hoạch bỏ chạy về Sài G̣n từ đầu tháng 4-1975, hoặc việc các Chi Khu Trường miền bắc B́nh Thuận khi di tản đă bỏ quên một vài đơn vị ĐPQ-NQ trong khi c̣n đóng chốt dọc theo QL1 và trên hết là lỗi lầm của Đại Tá Nghĩa, không chịu phát lương tháng 3,4/1975 cho các cấp Quân Nhân,Công Chức... cuối cùng để cho cả tiền bạc tại Ty Ngân Khố, đựng trong các thùng đạn đại liên, ch́m theo chiếc M113 tại biển Thương Chánh,tạo cớ cho một vài người chỉ trích về một trận đánh nào đó vào giờ thứ 25 của chiến cuộc, là không có đại bàng, lúc mà các trụ đèn v́ không có chân và những tù nhân đang bi giam nên không thể chạy, c̣n hầu như mọi người kể cả một vài tướng lănh, các sĩ quan cao cấp, công chức, cha thầy, đại trí thức, ca sĩ, đĩ điếm, thương gia cho tới hàng mệnh phụ, tiểu thư đă dám thí cái trinh tiết ngàn vàng cho cả lính Mỹ da đen, chỉ để xin một chổ ra khỏi nước, hầu giữ mạng trước biển giặc. Sự thật th́ tới lúc đó, các đại bàng lớn nhỏ gần như đều có mặt. Nhưng thôi lích sử vẫn là lịch sử và nay th́ hầu như những oan hồn tưởng đă chết trong địa ngục cộng sản, sau mười mấy năm tù như Phó Cửu, Quận Đối, Đại Uư Cúc, Trung úy Ngữ... được sống lại và tới định cư tại Hoa Kỳ. Chính họ mới là nhân chứng thật sự, có tư cách và thẩm quyền để xác nhận trước quân sử VNCH rằng cho tới trọn ngày 19-4-1975, các mặt trận tại B́nh Thuận, gần như có đại bàng và binh sĩ các cấp tham dự, trong biển máu địa ngục, giữa tuyệt vọng v́ phải đối mặt với hằng chục ngàn quân xâm lăng Bắc Việt , có đầy đủ tăng, pháo và sự tiếp tay của lũ ăn chén đá bát, cùng bọn nhân danh đủ thứ để có cớ đâm sau lưng người lính tận tuyệt, khiến cho miền nam VN phải mất, dân tộc VN bị nhuộm đỏ và đất nước măi đắm ch́m trong nhục nhă đói nghèo giữa thiên đàng xă nghĩa, được tạo bởi một phần công quả của một đám người được ưu tiên hậu hỹ suốt 20 năm tại VNCH...

    1. Tổng Quát Về Tiểu Khu B́nh Thuận Trước Tháng 4-1975
    Ngày 20-12-1960 theo tinh thần nghị quyết số 15 của trung ương đảng tại Hà Nội, cái mặt trận ma GPMN ra đời, mở màn cho cuộc xâm lăng của Bắc Việt. Tại B́nh Thuận, bọn nằm vùng như Nguyễn quư Đôn, Nguyễn Như, Năm Trà, Song Mă, Hồ ngọc Lầu..vẫn bám trụ trong nội thành và không ngớt bày binh bố trận, từ khủng bố bằng quân sự cho tới việc xúí dục các học sinh trung học trong tỉnh , nhân danh tôn giáo , tiếp tay với chúng phá hoại đời sống an lành của người dân hiền ḥa miền biển mặn. Sau ngày binh biến 1-11-1963, t́nh h́nh chiến sự tại miền nam VN trở nên tồi tệ v́ ba năm xáo trộn chính trị do bọn kiêu tăng loạn tướng gây ra, tạo diều kiện cho VC hồi sinh và phá hoại dữ dội khắp nơi.
    B́nh Thuận cũng không tránh khỏi nạn kiếp trên, một mặt th́ học sinh biểu t́nh, tuyệt thực, vạch ngực lấy máu... bắt chính quyền phải hoà hợp mời bắc bộ phủ về cầm quyền, mặc khác đêm 25-12-1964, C430VC tấn công dồn cảnh sát cổng chử Y, cùng lúc C480VC tấn công các ấp chiến lược ven biên thị xă Phan Thiết, mở màn cho những bửa tiệc máu người dân vô tội, cho tới khi Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, nguyên Trưởng Pḥng 2/QĐII về nhậm chức tỉnh trưởng vào mùa thu năm 1969, mới văn hồi được an ninh khắp tỉnh và thị xă Phan Thiết, cho tới ngày tàn cuộc 19-4-1975.
    Tại Tiểu Khu B́nh Thuận, năm 1966 tỉnh trưởng là Trung Tá Đinh Văn Đệ, về sau là dân biểu QHVNCH, giữ chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban QP Hạ viện vào năm 1969, nhưng lại là một điệp viên của Hà Nội, lộ mặt sau tháng 5-1975. Về tổ chức, th́ Thiếu Tá Trần Văn Chà làm Tiểu Khu Phó kiêm Phó TT Nội An, về sau Thiếu TáChà lên Trung Tá và làm Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53/SD23BB. Đại Úy Lê Trung Hưng làm Tham Mưu Trưởng TK. Trung Úy Lữ Tây Tựu, người Phan Thiết, một sĩ quan tài giỏi và can trường, từ SĐ23BB được biệt phái về giữ chức Trưởng pḥng 2/TK, có phụ tá là Chuẩn Úy Mai Xuân Cúc, khóa 20 SQTB, người PT, tốt nghiệp khóa SQ Quân báo tại Mă Lai. Chính Cúc trong chức vụ trưởng ban ước tính t́nh h́nh tỉnh, thường phối họp với Pḥng 3/TK bay L.19, quan sát khắp vùng từ cầu Đá Chẹt ở ranh giới Ninh Thuận-B́nh Thuận về phía bắc, cho tới vùng Núi Ông, B́nh Thuận - Lâm Đồng và Núi Tà Cú, B́nh Tuy-B́nh Thuận. Do đó ông đă có một cái nh́n sắc bén và đứng đắn về phối trí quân số ĐPQ-NQ tại TK.BT. Cũng năm đó, trưởng pḥng 3/TK là Trung Úy Nguyễn văn Trị. Riêng đại uư Lê văn Trạch là Quận Trưởng Hàm Thuận, đại Úy Trọng Quận Trưởng Thiện Giáo, Đại Úy Kiều Văn Út Quận Trưởng Hải Long, Thiếu Tá Woàng Sắn Cảnh, Quận Trưởng Hải Ninh, Đại Úy Lương Vặng,Quận Trưởng Phan Lư Chàm, Đại Úy Nguyễn Quang Mẫn,Quận Trưởng Ḥa Đa, Thiếu Tá Bùi Quang Huỳnh Quận Trưởng Tuy Phong. Về quân sự, thuở đó cấp đại đội ĐPQ là đơn vị cao nhất trong tỉnh. Về phía bắc có Trung Tâm HL.ĐPQ-NQ Sông Mao do Trung Tá Thanh làm Chỉ Huy Trưởng, c̣n Thiếu Tá Woàng văn Thông th́ làm CHT/BCH Bắc BT bao gồm 4 Quận HD,TP ,PLC và HN. Riêng CHT/ĐPQ-NQ tỉnh là Thiếu Tá Lê Văn Thông, đóng chung với Quân Vụ Thi Trấn và Đồn Quân Cảnh trong TK cũ đối diện với vườn hoa và Ty Ngân Khố, cạnh Trường Nử TH. Về chủ lực quân biệt phái, chỉ có TĐ2/44/SĐ23 của Thiếu Tá Xứng bao vùng khắp lănh thổ. Cuối năm 1967, Trung Tá Nguyễn Khắc Tuân thuộc Tổng Cục Quân Huấn/BTTM về làm tỉnh trưởng BT thay Trung Tá Đinh Văn Đệ, Trung Tá Tuân ở lại VN đi tù và chết tại Bắc Việt, theo lời kể của dưỡng nử, hiện là chủ nhân nhà hàng Mỷ Cảnh tại Honolulu. Năm 1969, Đại Tá Đàng Thiện Ngôn về làm Tỉnh Trưởng BT thay thế Trung Tá Tuân, c̣n Thiếu Tá Hồ Ứng Phùng làm Tiểu Khu Phó và Đại Úy Lê Văn Anh làm Tham Mưu Trưởng. Trước năm 1970, ĐPQ hoạt động cấp đại đội nhưng nổi danh nhất là ĐĐ/ĐPQ của Thiếu Úy Thô Thêm tại quận Thiện Giáo. Ngoài ra c̣n có ĐĐ445 của Trung úy Nguyễn Thanh Xuân tại Chợ Lầu và Lương Sơn. ĐĐ443 của Trung Úy Nguyễn Thanh Hải, từ năm 1970-1972 Trưởng Pḥng 2/TK và thăng Thiếu Tá giữ chức Quận Trưởng Châu Thành Phan Thiết 1973-1975. ĐĐ 206 Trinh Sát của Đại Úy Lê Văn Tṛ . Trung Đội T́nh Báo TK của Thiếu Úy Nguyễn Văn Thức, sau là TP/2/TK năm 1968-1969. Mùa thu 1969, Đại Tá Nghĩa làm Tỉnh Trưởng thay Đại Tá Ngôn và cơ cấu TK gồm có TK Phó Trung Tá Trí kiêm CHT/ĐPQ-NQ, Trung Tá Mai Lang Luông, nguyên TĐT-TĐ3/44/SĐ23 làm Tham Mưu Trưởng , Trưởng Pḥng 1/TK Thiếu Tá Mừng, Trưởng P2/TK là Đại Úy Ngọc về sau Đại Úy Đặng, Trưởng P3/TK là Thiếu Tá Trị, Trưởng P4/TK Trung Tá Hoạt, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị là Thiếu Tá Hồng, Trung Tâm Trưởng/ Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận là Thiếu Tá Phạm Minh thay Thiếu Tá Chung. Quận Trưởng Hàm Thuận là Trung Tá Dụng Văn Đối, Quận Trưởng Thiện Giáo Thiếu Tá Lê Văn Thông, bỏ chạy từ đầu Tháng 4/1975 và di tản qua Mỹ năm 1975, Thiếu Tá Đặng Chánh Anh,Quận Trưởng Phan Lư Chàm, Trung Tá Diệp Sắng Cảnh Quận Trưởng Hải Ninh, Quận Trưởng Hải Long Thiếu Tá Hàng Phong Cao, Quận Trưởng Tuy Phong là Thiếu Tá Hà Văn Thanh và Trung Tá Kiều Văn Út, Quận Trưởng Ḥa Đa di tản vào Phan Thiết ngày 17- 4-1975 nhưng không thông báo cho các đơn vị trực thuộc đang hành quân, việc này chính Phó Cửu giải thích là lúc đó nhân viên Viễn Thông của các chi khu đă được ông cho phép di tản chiến thuật trước, cho nên mới có t́nh trạng mất liên lạc với các đơn vị. Theo tài liệu của Điệp Mỹ Linh trong HQ.VNCH ra khơi năm 1975, th́ ngay khi Phan Rang thất thủ, nhiều tàu HQ đă được điều động tới yểm trợ và vớt lính ĐPQ tại các quận miền bắc như HQ.07 tới Cà Ná, sau đó dược Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ.11 thay thế, chiến hạm này đă trúng đạn VC bắn từ bờ ra làm chết và bị thương nhiều người. Ngoài ra c̣n có Hải Vận Hạm Ninh Giang HQ.403, HQ 505, HQ 12...đậu đầy ngoài khơi Phan Thiết và họ là nhân chứng v́ đă nghe được những tiếng kêu cứu của các đại bàng qua máy PR25, trong đó có tiếng Đại Tá Nghĩa, khi VC đă tràn ngập trận địa. Từ năm 1970 về sau, trong đà cải tiến QLVNCH, các ĐĐ/ĐPQ được nâng cấp thành liên đội hay tiểu đoàn và t́nh h́nh phối trí ĐPQ-BT như sau, TĐ248/ĐPQ của Thiếu Tá Lê Văn Trung tại Tuy Phong, TĐ212/ĐPQ của Thiếu Tá Quân coi Lương Sơn, Sông Lũy. TĐ249/ĐPQ của Thiếu Tá Phan Sang, BCH đóng tại núi Tà Đôn, hoạt động tại Long Hiệp, Ḥa Vinh, Tuy Ḥa. TĐ202/ĐPQ của Thiếu Tá Lương Văn Bính hoạt động tại Cây Táo, Long Thạnh. Hai TĐ275/ĐPQ của Thiếu Tá Tư và TĐ230/ĐPQ của Thiếu Tá Thổ Thêm, hoạt động tại Thiện Giáo. TĐ274/DPQ của Thiếu Tá B́nh hoạt động tại Bầu Gia, Phú Hội Thiếu Tá B́nh chết tại trại tù ở Bắc Việt. Tại Bắc BT, BCH quân sự băi bỏ nhưng thay vào đó là BCH Liên Đoàn ĐPQ do Đại Tá Lại Văn Khuy, nguyên Trung Đoàn Trưởng TRĐ42/SĐ22BB về làm CHT. BCH Liên Đoàn đóng tại xă Lương Sơn, đối diện với mật khu Lê Hồng Phong, gồm 2 TĐ248 và 212 ĐPQ, hành quân tại 4 quận miền bắc.
    Từ tháng 3/1975, B́nh Thuận không c̣n Trung Đoàn 44/SĐ23 và Chi đoàn 3/8/Thiết kỵ tăng phái, v́ những đơn vị chủ lực quân này đă di chuyển hết lên cao nguyên năm 1972. Để bảo vệ an ninh cho thị xă Phan Thiết, từ năm 1970 lập thêm Yếu Khu Châu Thành hay BCH/LĐ/ĐPQ/PT đóng tại trại Đinh công Tráng, trước sân vận động Quang Trung, kế Trường Trung Học Bạch Vân, do Thiếu Tá Nguyễn Văn Cư làm CHT. Về đơn vị Đồng Minh, quan trọng nhất vẫn là Bộ Chỉ Huy MACV/TKBT đóng tại khách sạn Hồng Hưng, đối diện với trường Tiến Đức, tức là PBC cũ trên đại lộ Trần Hưng Đạo. Để góp phần giải tỏa an ninh cho bốn quận miền bắc, cũng như lộ tŕnh đường bộ trên QL1, từ Ḥa Vinh tới Phan Rí, ngang qua mật khu Lê Hồng Phong đối diện với các xă Long Phú, Lương Sơn, Sông Lủy, Chợ Lầu ,Tịnh Mỹ, Hiệp An, Hiệp Ḥa....cơ quan MACV đă phối hợp với TK B́nh Thuận, thành lập lực lượng Dân Sự Chiến Đấu, BCH đóng tại trại Phi Long ở xă Lương Sơn, trại Phi Mă ở xă Phan Rí Thành cạnh Chi Khu Ḥa Đa, trại Phi Hổ ở ấp Tịnh Mỹ, xă Chợ Lầu, đồn Mara ở Sông Lũy. Tất cả doanh trại Lực lượng DSCĐ đều có băi đáp trực thăng, c̣n các SQ, HSQ chỉ huy đều thuộc các toán A/LLDB/ VN và SQ-HSQ /LLDB Hoa Kỳ làm cố vấn. Chính họ đă vô hiệu hóa cái gọi là mật khu thành cây vách cát Lê Hồng Phong của VC, nơi trú ẩn của các tiểu đoàn địa phương 482 và 840 VC, cũng như Trung Đoàn chính quy 812 Bắc Việt của quân khu 7 VC tăng phái. Năm 1970, các trại LLĐB tại B́nh Thuận đóng cửa nên Biệt kích Mỹ hay LL/DSCĐ cũng giải thể để thành lập các ĐĐ/ĐPQ. Các cấp chỉ huy được mang quân hàm Thiếu úy, c̣n danh hiệu là ĐĐ 700,710,720,730/ĐPQ/BT, sau đó nhập chung thành Liên Đội 2/32/ĐPQ/BT do Thiếu Tá Nguyễn thanh Xuân chỉ huy, trách nhiệm bao vùng từ Lương Sơn, Sông Lũy , tới ngả ba Chợ Lầu - Sông Mao. Sau năm 1972, LĐ2/32/ĐPQ lại cải danh thành tiểu đoàn 2/212 do thiếu tá Quận chỉ huy cho tới lúc tàn cuộc. Về các đơn vị tăng phái, có Duyên Đ̣an 28 Hải Thuyền, hoạt động bảo vệ vùng duyên hải B́nh Thuận, từ mủi Đá Chẹt ở Bắc Tuy Phong, vào tới Mũi Đèn Nam B́nh Thuận, chỉ huy Duyên Đoàn từ đầu có Thiếu Úy HQ Nguyễn Văn Thuận, cựu HS/PBC 1955-1962, đă chết trong lúc di tản. Duyên Đoàn Trưởng cuối cùng là HQ.Thiếu Tá Việt và Duyên Đoàn Phó, Đại Uư HQ.Cát. Ngoài ra c̣n có Biệt Đội Quan Sát L.19, thuộc Phi Đ̣an Quan Sát 215, SĐ2 Không quân từ Nha Trang tăng phái cho TK/BT giúp P2,3/TK bay quan sát bao vùng hành quân, mở đường và hướng dẫn pháo binh tác xạ. Về thiết kỵ, trước năm 1973 có các chi đoàn 2 và 3/8 thuộc SĐ23 tăng phái., Tết Mậu Thân 1968 Trung Úy Hàng Phong Cao làm Chi Đoàn Trưởng 2/8 giải tỏa Phan Thiết, sau biệt phái về làm Quận Trưởng Hàm Thuận từ thời Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, chi đoàn giao lại cho Đại Uư Đệ, nguyên ĐĐT 948 ĐPQ, lúc đó hoạt động tại Tuỳ Ḥa và Phú Long., đại đội này về sau di chuyển ra Ḥa Đa và giao cho Đại uư QB Mai Xuân Cúc, nguyên trưởng ban 2/ Quận Ḥa Đa của Quận Đối làm Đại Đội Trưởng và những ngày cuối cùng là đơn vị đóng trong Thị Xă Phan Thiết cho tới sáng 19-4-1975, B́nh Thuận hoàn toàn thất thủ, mới xuống tàu HQ tại Kim Hải, di tản về Vũng Tàu.

    2. Hải Long, Mặt Trận Miền Đông B́nh Thuận, Những Ngày Hấp Hối Tháng 4/1975
    Mũi Né là nơi mà VC B́nh Thuận thường huênh hoang tự hào là cái nôi của phong trào Xô Viết Nghệ Tỉnh do Hồ Quang Cảnh, con Hồ Sĩ Lâm, sinh tại Nghệ An, cán bộ đảng cộng sản Đông Dương, vạ hoạt động tại Rạng và ngày 1-8-1930 đứng sau lưng giật dây , xúí đồng bào vô tội vào con đường chết trước súng đạn của thực dân Pháp và bọn quan lại Nam Triều tại B́nh Thuận. Ông Hồ Quang Cảnh đă chết trong ngục tù của Tây năm 1933 tại Ban Mê Thuộc. Mũi Né là quê hương của nhà văn, nhà thơ yêu nước Vũ Anh Khanh, tác giả "Tha La Xóm Đạo và Nữa Bồ Xương Khô", trong mặt trận VM suốt chín năm kháng Pháp, năm 1956 trên đường vượt thoát địa ngục trần gian có thật tại Bắc Việt, Ông đă bị bắn chết bằng tên tẩm thuốc độc, khi sắp vói được tay vào bờ nam Bến Hải. Mũi Né c̣n là tuyệt tác phẩm của VC về sự khủng bố, phá hoại, tiêu thổ kháng chiến... mà vết nhơ măi măi thiên thu trong ḍng sử Việt và tâm trí đời đời của người B́nh Thuận trong việc ngày 14-9-1947, tập kích đốt rụi toà biệt thự NID D’AIGLE, c̣n gọi là Tổ Chim Ưng hay Lầu Ông Hoàng, do công tước người Pháp là D’orléans xây dựng trên đồi Bà Nài vào tháng 2/1911, tốn hết 82.000 tiền Đông Dương lúc đó. Lầu Ông Hoàng c̣n là nơi ghi dấu mối t́nh thơ văn bất tuyệt của thi sĩ nổi tiếng Hàn Mạc Tử và Mộng Cầm, người đẹp Phan Thiết, cháu ruột nhà thơ Xứ Quảng Bích Khê.
    Thời nào Mũi Né cũng là một vị trí chiến lược, dồi dào hải sản, con mắt ḍm ngó kiểm soát và uy hiếp mặt biển đường tiếp tế từ Hà Nội vào khu Lê Hồng Phong tại Ḥn Rơm, Thiện Khanh, Thiện Nghiệp... cho nên trong suốt cuộc chiến, VC luôn t́m cách chiếm lĩnh khu vực này nhưng luôn luôn bị thất bại. Mũi Né là một mũi đất nhỏ nhô ra biển, chiều dài 3km, chiều ngang chừng 1,5km, cách Phan Thiết 22 km, phía bắc là động cát trắng, nối tiếp với rừng B́nh Nhơn, cây cồi thưa cằn. Trong thị trấn quận lỵ có hai xă Thạch Long, Khánh Thiện, dân chúng làm rẩy, nhưng đại đa số sống bằng nghề biển và muối mắm. V́ là cái gai cần phải nhổ, nên ngày 14-4-1953 VC dánh chiếm và làm chủ Thạch Long trong 10 ngày, sau đó bị đuổi đánh khỏi Mũi Né cho tới ngày 19-4-1975 mới ṃ vào khi quận lỵ đă bỏ ngỏ.
    Theo VC, từ sau năm 1970 qua chương tŕnh b́nh định của Đại Tá Nghĩa, đă khiến các cơ sở nằm vùng cũng như bộ đội trong tỉnh lâm vào t́nh trạng gần như bế tắc và bị tổn thất nặng nề, trong đó phần lớn do ḿn Claymore gây ra. Từ sau Phước Long thất thủ vào đầu năm 1975, tiếp theo là Ban Mê Thuột mất ngày 14-3-1975, VC B́nh Thuận bắt đầu ngoi lên và phá hoại khắp nơi như đốt các cây xăng số 6,8, tấn công đồn cảnh sát Đức Long. Từ ngày 5-4-1975, Chi Khu Thiện Giáo di tản chiến thuật trên Liên tỉnh lộ 8. Nhân dịp này, Thiếu Tá Quận Trưởng Lê Văn Thông đă trốn về Sài G̣n nhưng binh sĩ dưới quyền vẫn không ră ngũ v́ được Đại Úy Chi Khu Phó Lê Văn Tuấn, chỉ huy cho tới lúc tàn cuộc. Theo tự sự của Trung Úy Lê Ngữ, Phân Chi Khu Trưởng PCK Thiện Khánh, một xă chiến lược, cửa ngỏ phía Nam dẫn vào Thị Trấn Mũi Né, th́ từ năm 1973 về sau, do t́nh h́nh an ninh khả quan, nên đơn vị nồng cốt, hoạt động lâu đời tại đây là ĐĐ290/ĐPQ/BT đă thuyên chuyển về cây số 25, phía nam B́nh Thuận-B́nh Tuy, Quận Hàm Thuận, v́ vậy an ninh nội địa đều do các Liên đội Nghĩa quân của các Phân Chi Khu đăm trách. Lănh thổ chiến thuật của Thiện Khánh(Rạng) có chiều dài trên 7 km, kéo dài từ Đá Ông Địa phiá Nam dốc Lầu Ông Hoàng, tới Cầu Thiện Nghiệp về phía Bắc, với lực lượng pḥng thủ gồm 5 Trung Đội Nghĩa Quân phụ trách, trong đó quan trọng nhất là tuyến chận mũi công tác Hồng Hải của VC, gồm có ba trung đội thường xuyên hành quân tại khu tứ giác từ Triền tới rừng Tà Quang.
    Tại B́nh Thuận, từ đầu tháng 4-1975, gần như tràn ngập người tị nạn khắp miền Trung đổ xô về bằng đủ mọi phương tiện, đường bộ, tàu thuyền ... và được Ty Xă Hội trợ cấp giúp đở tận t́nh. Để giải toả bớt căng thẳng trong thị xă, từ ngày 13-4-1075, Tỉnh cho thành lập tại Thiện Khánh và Thiện Nghiệp các trung tâm tiếp cư tạm thời dưới các rặng dừa và sân vận động, để chờ tàu HQ vào di tản họ tới Vũng Tàu. Do trên t́nh h́nh tại Hải Long thêm phức tạp, một phần từ những phần tử xấu như đào binh, đặc công trà trộn gây rối loạn, cũng như công khai cướp bốc tài sản của dân chúng tại địa phương. Mặt khác, bọn VC nằm vùng thừa cơ hội dậu chưa đổ, nhưng b́m đă leo khắp nơi với sự ra đời của cái gọi là ủy ban khởi nghĩa, may sẳn cờ, khẩu hiệu .. .và các đội tự vệ vơ trang em bé quàng khăn đỏ ...
    Từ ngày 15-4-1975, t́nh h́nh Hải Long càng thêm nặng nề v́ có nhiều đơn vi từ QĐ I và II ngoài Trung đến đây bằng đường biển. V́ không thể để cho họ kéo về Phan Thiết, nên Quận Trưởng là Thiếu Tá Cao đă cho lập tại Thiện Khánh một nút chận chiến lược, thanh lọc và tước bỏ vũ khí các quân nhân di tản. Tóm lại, theo Lê Ngữ, th́ tới ngày 17-4-1975 Chi Khu Hải Long chưa loạn và tất cả các đại bàng kể cả Quận Trưởng Hàng Phong Cao vẫn có mặt trong các vị trí pḥng thủ gần như 24/24. Tại cứ điểm Phú Long trên QL1, VC tung vào D15 và 840 quyết chiếm cho được cầu để đại quân di chuyển nhưng bị sự chống trả rất mảnh liệt của các đơn vị ĐPQ-NQ, trong đó có ĐĐ của Đại Uư Nguyễn Chánh Trúc, người PT, cựu học sinh PBC 1955-1963. Ngày 18-4-1975, Quân Đoàn II Bắc Việt, từ Phan Rang đă vào tới Phú Long, cho lữ đoàn xe tăng và bộ binh tiền phương, hợp lực với VC B́nh Thuận nhổ toán ĐPQ.BT tại Phú Long, Phước Thiện Xuân, Tân Phú Xuân bên tỉnh lộ 8. VC cũng pháo kích vào BCH1 của TKBT tại Lầu Ông Hoàng, cắt đứt đường đi Mủi Né, khiến cho đồng bào tị nạn tại Rạng, lại bồng bế đổ xô về Quận, t́m cách đào sanh. Cũng trong đêm 17-4-1975, nhờ c̣n túc trực tại các công sự pḥng thủ, nên Trung Úy Ngữ đă kịp thời liên lạc được với 1 ĐĐ/ĐPQ của Trung Úy Lợi, rút từ Giếng Triền, qua Bầu Sen về Mũi Né, thoát được băi ḿn của Phân Chi Khu Thiện Khánh. Nữa đêm rạng sáng 18-4-1975, Ngữ liên lạc máy, gặp Đại Uư Vương Thanh, Chi Khu Phó cho biết BCH Chi Khu Hải Long trong đó có Thiếu Tá Hàng Phong Cao đă được Duyên Đoàn vớt, và ban lệnh từ giờ phút đó, v́ t́nh h́nh khắp Tỉnh đă trở nên nguy ngập do sự tràn ngập của các lộ quân Bắc Việt từ Phan Rang, Lâm Đồng tràn về, nên các đơn vị tuỳ tiện di tản sao cho an toàn và bằng mọi cách kiếm tàu thuyền chạy về điểm tập trung quân BT tại Vũng Tàu.
    Lúc này, Đại Tá Nghĩa cùng BCH cũng đă bỏ Lầu Ông Hoàng, theo đường biển rút về Thương Chánh, trong lúc đó ngoài khơi, tàu HQ qua lại đông đảo nhưng mặc dù nghe máy PRC25 kêu cứu của Tỉnh Trưởng cũng vẫn bó tay v́ tàu lớn không thể nào áp sát bờ được, hơn nữa pháo VC từ bờ lại bắn ra tàu như mưa. Tính đến 9 giờ đêm ngày 18-4-1975, VC đă chiếm được TK,Toà HC và các kho trống không v́ Thiếu Tá Phạm Minh,CHT/TTTV/BT trước khi đi đă cho thiêu hủy hết, c̣n các nhà máy điện cũng không hoạt động được v́ Phó Cửu cũng đă cho phá trước khi di. Tuy nhiên ven Phan Thiết, vẫn c̣n nhiều đơn vị ĐPQ chống trả và tại bải Kim Hải, QLVNCH vẫn c̣n làm chủ cho tới hết ngày 19-4-1975. Tại Hải Long, ngày 18-4-1975 VC vẫn chưa dám bén mản tới v́ c̣n nhiều đơn vị VNCH hiện diện, thêm vào c̣n có ĐĐ290/DPQ của Đại Uư Sâm, từ LOH cũng rút về Mũi Né, t́m đường ra biển. Cuối cùng trước khi VC tới Mũi Né ngày 19-4-1975, th́ một chiếc xà lan đă ủi băi tại Thạch Long, vớt hết quân nhân có mặt, đưa ra tàu HQ 505 về Vũng Tàu, cùng lúc với Đại Tá Nghĩa cũng vừa tới bằng tàu HQ khác tại PT. Bắt đầu ngày 20-4-1975, BT coi như đă lọt vào tay Hà Nội, VC lập ra ủy ban quân quản thị xă, do thiếu tá VC Từ quảng Tuyên làm Chủ tịch, khắp nơi lập ra 16 địa điểm để các quân, công, cán, cảnh VNCH tới khai báo tŕnh diện, để cùng nhau vào địa ngục trần gian tại Cà Tót, Huy Khiêm, Sông Mao và mọi nẽo đường tận tuyệt.
    Cuộc chiến đă qua nhưng không bao giờ xoá nḥa nổi vết tích trong tâm trí người Việt. Vinh hay nhục th́ nay đă được lịch sử xác nhận, nên không cần phải ca ngợi hay biện minh về cái thua hay cái thắng, một công việc thừa thải khi mặt thật của cộng sản Hà Nội được phơi bày suốt 27 năm qua, nên :
    "Mai nếu có cuộc đổi đời trở lại
    Ta chỉ xin được đăng báo, phân ưu
    Đồng đội xưa đă chết trận, chết tù
    Thảm thiết quá những hồn ma đói lạnh ..."

    Mường Giang

  6. #36
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771


    SƯ Đ̉AN 18 và NHỮNG NGÀY TỬ CHIẾN TẠI XUÂN LỘC
    Hồ Đinh – KBC4424



    Kính tặng Sư Đ̣an 18BB, riêng Trung Đoàn 43BB Và Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế (TĐT/2/43)

    Qua những tài liệu lịch sử đă bật mí, nên ngày nay ai cũng biết, trong suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1960-1975), người Mỹ gần như cung cấp cho VNCH, tất cả vũ khí, quân trang, tiền bạc và những hệ lụy của cuộc đời mà bi thảm nhất là sự mất nước vào tạy cộng sản quốc tế.

    ... Theo sự chỉ trích gay gắt của Đô đốc Sharp, trong cuốn ‘Strategy for defeat‘, vị tư lệnh đầu tiên của Đồng Minh tại Thái B́nh Dương, th́ sự thất trận tại VN vào ngày 30-4-1975, rơ ràng là cố ư, do những tên đầu nảo dân sự, ngồi tại Hoa Thịnh Đốn, tự trói một tay của quân lực Hoa Kỳ và Nam VN, trong khi họ đang tử chiến với khối cộng sản đệ tam quốc tế, qua tấm b́nh phong, mang tên Bắc Việt. Trên tạp chí Encounter tháng 8-1981, kư giả người Mỹ Robert Elegant, cũng đă hài tội bọn trí thức, khoa bảng và truyền thông Tây phương thiên tả, đă dùng vũng bùn văn, báo, truyền h́nh của ḿnh, để giúp cộng sản đánh bại nước Mỹ. Ông đă chua chát nói thẳng với thế giới rằng: ’Bắc Việt đă thảm bại trên chiến trường nhưng cuối cùng ngày 30-4-1975, người Việt quốc gia, đă phải mất nước tại Hoa Thịnh Đốn, Nữu Ước, Ba Lê, Luân Đôn, Huế và Sài G̣n, v́ trận giặc báo chí, từ những cái miệng thúi vô liêm sỉ, chuyên bẻ cong ng̣i bút, dựng đứng câu chuyện, để hại người. ‘

    Ngày nay ai cũng biết hết những thành tích của QLVNCH, qua thời gian tồn tại suốt 20 năm máu hận (1955-1975) giữa biển thù trời lệ, giặc ngoài, giặc trong, giặc đâm sau lưng chiến sĩ, ngay cả trong lời kinh tiếng kệ và những ngón tay lần hạt đỏ, đen. Cũng nhờ người lính VNCH đă can trường anh dũng, trong suốt cuộc chiến, cho tới giờ phút cuối cùng tháng 4-1975, bị Dương văn Minh quyền tổng tư lệnh, dùng kỷ luật quân đội, bắt mọi người đầu hàng giặc, mới phải buông súng tan hàng. Nhờ vậy, mà một thế hệ sau của VN ngày nay tại hải ngoại, mới có cơ hội ngẩng mặt nh́n trời, lấy lại sự hănh diện của cha anh trong cuộc sống lưu vong uất hận trùng hằng.
    Tóm lại như b́nh luận của Luật sư Lawrence L.O’Brien trên The Wall Street Journal vào ngày 25-1-1983, chứng minh là từ sau ngày kư hiệp định ngưng bắn tháng 1-1973, nước Mỹ và quốc hội Hoa Kỳ, do đảng dân chủ phản chiến cầm chịch, kể cả cái gọi là Liên-Hiệp-Quốc, gần như ra mặt bưng bợ cộng sản. Bởi v́ phần lớn, họ đă bị Nixon, Kissinger và Việt Cộng , dụ gạt, lừa bịp, dễ dàng như lừa con nít, qua cái thủ đoạn xảo quyệt, được tiếp tay công khai bởi bọn nhân danh, khoa bảng, trí thức ăn hại, khôn nhà dại chợ của miền Nam lúc đó . Năm 1944, người Mỹ điều động 5000 quân xa, để chuyển Lộ quân 1 và 2 của Đồng Minh, xuyên nước Pháp, đánh Đức. Lúc đó và về sau, người Mỹ khoe là thành tích vĩ đại, để cho ai cũng biết và khen ngợi.

    Nhưng tại chiến trường Đông Dương, từ 1960-1975, khối cộng sản quốc tế, đă dùng 10.000 xe bộ đội, để đưa 20 sư đoàn từ Bắc Việt vào xâm lăng Miền Nam VN, qua đường rừng Trường Sơn. Rồi nhờ cái loa tuyên truyền của trí thức Miền Nam, đâm mù thế giới, nên rốt cục ai cũng tin và bảo đó là lực lượng của quân cách mạng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tất cả đều là thực chất của một cuộc chiến vừa đánh, vừa đàm hay đúng hơn là hành động con buôn chính trị của siêu cường Mỹ, giờ chót bán đứng Đồng Minh VNCH cho kẻ thù, đổi lấy sự liên kết chiến lược với Trung Cộng, gỡ lại lời vốn đă tiêu phí tại chiến trường nhiều trăm tỷ đô la và ngàn ngàn sinh mạng. Phải biết như vậy, chúng ta mới đánh tan được cái huyền thoại, tại sao Miền Nam sụp đổ chỉ có 55 ngày và cuối cùng, xin thương xót cho thân phận những người đă cầm súng chiến đấu tại miền Nam suốt 20 năm qua, quanh quanh chỉ là kẻ thù và khung cảnh xă hội vô ơn bạc bẽo. Đời sống của lính và vợ con, nhất là khi lính nằm xuống hay bị thương đui, què, tàn phế, có thua ǵ kiếp sống của gia cầm, vậy mà cứ bảo Lính ḿnh đánh thuê cho giặc Mỹ ? Tồi tệ hơn hết khi đi t́m sự thật, là câu chuyện người Mỹ trong lúc bỏ tháo chạy, đă dùng cái thủ đoạn ‘ăn không được phải phá nát bấy’, khi đưa cái bă vật chất an toàn, làm mồi để dụ dỗ một số cấp chỉ huy của QLVNCH, nhất là không quân, đào ngũ bỏ đơn vị, đem máy bay trả lại để được tới Hoa Kỳ. Chính sự tồi tệ trên, đă góp phần phá hủy tinh thần chiến đấu của quân lực VNCH, trong lúc nguy ngập. Sau rốt là việc sử dụng bom CBU đâu có trái với qui ước chiến tranh đă kư kết. Theo hai kư gia người Pháp thân cộng là Jean Lartégui và Pierre Darcourt, đă chứng kiến cảnh quân Bắc Việt bị chết ngạt tại Xuân Lộc, v́ bom này, đă viết: ’Miền Nam sẽ không mất, nếu Mỹ thả tiếp vài chục trái CBU vào đoàn quân xâm lược, đang công khai di chuyển trên các quốc lộ, thế nhưng Hoa Kỳ đă không làm ‘.

    Mới đây, trong tác phẩm ‘55 days of the fall of South Vietnam’, tác giả Alan Dawson, có nhắc tới hai tiểu đoàn c̣n lại của Nam VN, chừng 600 người, giữa trùng vây của Bắc Việt, sau khi QLVNCH được lệnh rút bỏ Xuân Lộc. Chuyện có thật nhưng Alan viết sai dữ kiện, v́ giờ chót rút quân, không có một đơn vị nào, kể cả Nghĩa quân, bị buộc ở lại để bảo vệ Xuân Lộc, lúc đó không c̣n giá trị chiến lược, v́ Bắc Việt đă t́m đường khác để tiến quân về Sài G̣n. Đơn vị bị kẹt lại, đó là Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 43, SD 18BB, do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế làm Tiểu Đoàn Trưởng. Trong suốt những ngày tử chiến tháng 4-1975, TD2/43/18 có nhiệm vụ đóng trên Núi Thị, ngoại ô thị xă Xuân Lộc, để bảo vệ dàn pháo của Sư Đoàn. Khi Tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh Mặt Trận Long Khánh, nhận lệnh của Bộ Tổng Thanm Mưu QLVNCH, qua lệnh trực tiếp của Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn 3, ngay tại mặt trận, ‘BỎ LONG KHÁNH’ và triệt thoái tất cả các đơn vị đang chiến đấu, gồm SD18BB, Tiểu Khu Long Khánh, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, Biệt Động Quân... th́ Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 43/SD18BB là đơn vị cuối cùng, trong cuộc rút quân, v́ c̣n có nhiệm vụ đánh nghi binh, chận đường, để giúp đại quân an toàn trở về cơi sống, nên bị thiệt hại nặng nề. C̣n luật sư Nguyễn văn Chức th́ dựa vào tài liêu của Hoàng Cơ Thụy và Frank Snepp, nên nói trực thăng tới bốc 4 tiểu đoàn c̣n lại của SĐ18BB, trong đó có Tướng Tư Lệnh Lê Minh Đảo, Đại Tá Trung Đoàn Trưởng TrĐ43/18 là Lê Xuân Hiếu, v́ vậy bị 40.000 bộ đội Bắc Việt tràn ngập. Thật sự trong cuộc lui quân, từ tướng xuống tới hàng binh sĩ, không có ai được trực thăng tới bộc về, mà tất cả đều hành quân bộ. Lúc các cánh quân VNCH, hầu hết đă về gân như an toàn tại B́nh Giả, Phước Tuy,th́ TD2/43’18BB, chỉ một ḿnh c̣n trong biển giặc như Alan Dawson mô tả. Sự thật là vậy đó, các nhân chứng như tướng Đảo, các Đại Tá Lược, Lến, Hiếu. Dũng, Công... của SD18), Đại Tá Phạm Văn Phúc-Tỉnh Trưởng Long Khánh, Đại Tá Đính, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, các Tiểu Đoàn Trưởng thuộc SD18BB, có tham dự trận đánh và cuộc lui quân như Nguyễn Phúc Sông Hương, Ư Yên-Phan Tấn Mỹ, Đại Uư Lê Sơn, Chi Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh, các Đại Uư Đặng Phúc (Biệt Đội Quân Báo), Ngô Gia Hậu (Phóng Viên), Nguyễn Hào (Pḥng 3.SD)... và nhất là Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/TrD43/SD18BB, người từ cơi chết trở về, vào tù tại Bắc Việt và tới Mỹ qua diện HO... đều là những nhân chứng sống, có đủ tư cách, để nói và viết những sự thật lịch sử.

    Tóm lại, đến giờ này, sự đau đớn nhất của người Lính Miền Nam, là thấy cái thân phận bọt bèo của chính ḿnh, cứ bị đem ra mổ xẻ rao bán, bởi những người không hề biết ǵ về thực chất của đời lính, dù họ có là lính. Nhưng lịch sử vẫn là lịch sử, câu chuyện sử gia số 1 của nước Mỹ là giáo sư Joseph J.Ellis, tại Đại Học Mount Holyoke, vừa bị nhà báo Walter V. Robinson, lột mặt nạ trong bài báo ‘Professors past in doubt ‘, đăng trên tờ Boston Globe ngày 18-6-2001, về những đề tài có liên quan tới Chiến tranh VN và sự Ellis dù ở trong quân đội Mỹ nhưng chỉ ngồi dạy học ở Hoa Kỳ, nên đă mao tôn cương, khi viết trận đánh không có đại bàng. Mới đây là bài học thất cử của ứng cử viên tổng thống Mỹ, thượng nghị sĩ John Kerry, cũng do chính khẩu nghiệp, đă làm hại thân ḿnh. Việt Cộng và những kẻ lừa đảo ng̣i bút, đă đến lúc phải đối mặt với những tra vấn của lương tâm, trong cuộc chiến VN vừa qua, v́ cuộc chiến đấu thần thánh của QLVNCH, trách nhiệm bảo vệ quê hương, trong đó có SD18BB, LD1 Dù, BDQ, DPQ và NQ Long Khánh.. vào những ngày cuối tháng 4-1975, là câu chuyện lịch sử, trong ḍng sinh mệnh của Dân Tộc Hồng Lạc, miên viễn sẽ không bao giờ bị phủ nhận của bất cứ một ai, qua thời gian hay miệng lưỡi nào, kể cả những lỗ miệng có gan có thép, nhổ ra nuốt vào của bọn văn cộng giặc cộng.

    1-THÂN PHẬN NGƯỜI LÍNH VNCH TRONG 20 NĂM CHINH CHIẾN (1955-1975)

    Sau ngày 30-4-1975, quê hương của người Việt quốc gia bị cộng sản quốc tế dô hộ hoàn toàn từ nam ra bắc, mọi người mới sáng mắt thấy rằng, không có một lănh tụ nào của đảng, từ Hồ Chi Minh xuống tới chàng du kích, biết coi trọng sinh mạng của người dân, bởi v́ nguyên tắc thành công của cộng sản, là chỉ có thẳng tay bắn giết , th́ mới có sự phục tùng. Riêng chuyện dài VN, v́ chính người dân lúc trước tự xiềng xích ḿnh, để chui vào thiên đàng xă nghĩa, cho nên nay, cũng chỉ có người dân, tuy thầm lặng đứng bên vệ đường thời gian, nhưng lại là động lực chính, bẻ găy được khóa cổng thiên đường mù, để trở về cuộc sống tự do no ấm của con người.

    Ngày nay, mỗi lần đọc lại lịch sử, cảm thấy ngùi ngùi và thương xót biết bao cho dân tộc ḿnh, bỗng dưng trở thành nhược tiểu, v́ cả nước mù quáng nên bị Hồ Chí Minh, thắng một vụ lừa bịp bẩn thỉu nhất, trong ḍng sử Việt, từ vụ cướp chính quyền tháng 8-1945, cho tời sự lănh đạo của cộng sản trong chín năm kháng Pháp. Cũng từ đó, người Việt quốc gia coi như đứng trước ngă ba đường sinh mệnh và dù có chọn lối nào chăng nữa, rốt cục cũng chỉ dẫn tới địa ngục mà thôi.

    Năm 1951, thống chế De Lattre de Tassigny sau khi chận đứng Việt Minh tại Vĩnh Yên, Bắc Việt, đă lên lớp người Việt lúc đó thụ động, hèn nhát, không chịu ra chiến trường để bảo vệ quê hương ḿnh. Trong cuộc chiến Đông Dương lần 2 (1955-1975), thế giới bên ngoài, qua tuyên truyền từ báo chí của VC và truyền thông Mỹ, Tây Phương, nên đă đánh lận cuộc xâm lăng của cộng sản quốc tế, thành một tấn tuồng chống ngoại xâm của Hà Nội. Nữ kư già Ư là Oriana Fallaci, trước trận mùa hè đỏ lửa 1972, khi tới Hà Nội phỏng vấn, Vơ Nguyên Giáp, mới biết Bắc Việt đă nướng trên 800.000 sinh mạng bộ đội tại Miền Nam, trong thời gian qua, trước khi tiếp tục nướng trong trận hè đỏ lửa 1972 và địa ngục Xuân Lộc tháng 4-1975. Điều này cho thấy là Cộng Sản không bao giờ thiếu nhân lực, tiếp tế lẫn t́nh báo. Ngược lại th́ mai mỉa biết bao, trong cách đối xử của người dân ta đối với phe ḿnh, nhất là những vùng bị giặc tạm chiếm hay là xôi đậu. Nói chung, Chính phủ VNCH trong suốt 20 năm, cố gắng gần như tuyệt vọng, chỉ mong mang lại cơ hội sống tự do, no ấm cho người dân, nhưng giống như ngày trước, v́ quá khao khát độc lập, nên người dân đă khoán trắng cho họ Hồ và đảng. Lần nữa, trong cuộc chiến, họ cũng bỏ mất cơ hội cuối cùng. Nói như vậy để mọi người thấy rơ thân phận của người Lính Miền Nam, qua tấm ḷng hy sinh cao cả, trong gần một phần tư thế kỷ, phải chiến đấu ở một chiến trường bất hạnh, thù nghịch, dù rằng những người Lính ấy, đă phải đem cái mạng sống cùng với hạnh phúc của cá nhân và gia đ́nh ḿnh, bảo vệ làng xóm, chùa nhà thờ và sinh mạng của người dân miền Nam, trong đó có nhiều kẻ đang chực chờ giết hại Lính. Dù vậy, bao nhiêu xương máu của QLVNCH nói chung, đă hy sinh vô cùng ư nghĩa, phần nào đă mang đến no âm tự do cho mọi người, dù chính quyền quốc gia chưa được toàn hảo trọn vẹn như mong muốn, trong thời gian 1955-1975.

    Ra đời từ năm 1950 nhưng quân đội Quốc Gia VN, coi như chỉ được chính thức nh́n nhận bằng văn kiện hành chánh, trong ngày Quân Lực 19-6-1965. Sự nghịch lư này, phần nào nói lên những bất hạnh chồng chất, đă và sắp tới với một quân đội mang đầy máu lệ, ngay từ ngày thành lập. Sự lộng hành của báo chí và truyền thông Mỹ, gần như trong suốt cuộc chiến, đă trút hết căm hờn lên quân đội VNCH, làm tác hại ghê gớm đến tinh thần chiến đấu của người lính, đến nỗi nhà báo Mỹ là Robert Elegant phải ngao ngán viết rằng, chiến tranh VN trước hết đă thua trong trận giặc miệng và nước bọt tại hậu phương.

    Ngày 17-4-1961, tổng thống Mỹ John F Kenedy, nghe xúi dại của CIA, dưa 1000 quân đổ bộ lên đảo Cuba, lật đổ Trùm Fidel Castro nhưng kế hoạch Bay of Pigs hoàn toàn thất bại, lực lượng đổ bộ bị bắt sống gần hết và Mỹ phải đem máy cầy cùng xe ủi đất, chuộc tù binh về. Thua me gỡ bài cào, Kenedy đem con thiêu thân Nam VN làm vật tế thần, gỡ thể diện. Sứ mệnh này, được giao cho Đại Tá Lansdale, mở cuộc chiến tranh bí mật (The Secret War) tại miền bắc VN và Lào, nói nôm na là màn đem con bỏ chợ. Tiếp tới là sự ngây thơ của Mỹ, dại dột kư thỏa ước trung lập Lào, giúp Bắc Việt mượn đường xăm lăng miền Nam. Cuối cùng là gởi 12.000 cố vấn sang Nam VN, sau khi bị Trùm đỏ Liên Xô là Khrushchev nhục mạ tại bàn hội nghi thượng đỉnh. Tóm lại như Edward Weintal và CharleBarlett viết trong ‘Facing the Brink‘, th́ Kenedy đă nghĩ rằng đưa vài chục ngàn cố vấn vào VN, để buộc Hà Nội từ bỏ mộng cuồng xâm nhưng đó lại là sự điên rồ, để cho giặc có cái cớ, gây chiến tranh xâm lược VNCH mà thôi. Máu VN bắt đầu đổ từ đó, bởi sự ngông cuồng lếu láo của tổng thống Mỹ.

    Với tổng thống Lyndon Johnson, th́ t́nh trạng VN càng thê thảm hơn, v́ rơ ràng khi lên thế chức tổng thống Hoa Kỳ, thay Kenedy bị ám sát, Johnson chỉ v́ rất sợ bị đảng Cộng Ḥa buộc tội quá nhu nhược khi đương đầu với cộng sản, nên đă đưa nước Mỹ và Miền Nam VN vào một cuộc chiến tranh kỳ lạ nhất trong lịch sử , với sách lược ‘không cho thắng‘. Như John Fisher, đô đốc của Anh đă viết: ’thực chất của chiến tranh là tàn bạo, đánh giặc mà cầm chừng là ngu xuẩn, nên muốn đạt chiến thắng, phải đánh mạnh và đánh khắp nơi‘. Theo các nhà quân sử, trong chiến tranh VN, Mỹ chỉ cần phong tỏa đường biển, oanh tạc biên giới Việt-Hoa-Lào và cho lệnh QLVNCH tấn công trả đũa vào Bắc Việt, th́ giặc đă yên từ lâu. Nhưng Johnson th́ làm ngược lại, hạn chế tối đa các mục tiêu trên lănh thổ Bắc Việt, với lư do sợ chọc giận Bắc Kinh. Tại Lào, các căn cứ của Bắc Việt được coi là bất khả xâm phạm, cấm tấn công. Đồng thời Johnson đưa đề nghị viện trợ kinh tế, dụ Việt Cộng chấm dứt xâm lăng Miền Nam, nên đă bị giặc Cộng khinh bỉ xem thường, v́ đă biết được con bài tẩy ‘kém nhất’ trong quân bài Domino, chính là siêu cường Hoa kỳ, mà khối cộng sản lúc đó ngạo là con cọp giấy...

    Với tổng thống đảng cộng ḥa Richard Nixon, ngoài bệnh chủ quan, tự tin, tự tôn của Kennedy, Johnson c̣n là một tổng thống Mỹ liên hệ sâu đậm nhất trong chiến tranh VN, bị kết tội là kẻ xảo quyệt, bội tín, bất nhân, nên dân chúng Mỹ ghét nhất. Do thành tích bán đứng Nam VN cho cộng sản đệ tam quốc tế vào ngày 30-4-1975, cũng như tội đă liên kết với trùm đỏ Mao Trạch Đông năm 1972, v́ lợi lộc của Mỹ mà phản bội thế giới tự do, nhân quyền, nên sau 25 từ chức tổng thống, được các nhà báo Mỹ xếp hạng, chỉ đứng trên tổng thống trốn quân dịch là Bill Clinton.

    Thành tích khôi hài nhất của cặp Nixon-Kissinger là chủ thuyết ‘Nixon’, hay ‘VN hóa chiến tranh’, thực chất là cuộc chạy làng, bỏ bạn, vô liêm sỉ của một siêu cường số 1 lúc đó và ngay cả bây giờ. Nói rơ hơn, Nixon chỉ v́ quyền lợi cá nhân, nên tuyên bố ‘đơn phương’ rút quân, trong lúc đang hợp đồng chiến đấu với nhiều quốc gia khác. Đây là một sự lố bịch và c̣n tàn nhẫn đối với sự sống chết của VNCH. Trước tin này, Hà Nội chỉ cần ngồi chờ để thừa cơ đánh lén. Riêng những màn dội bom và đánh vào mật khu Mỏ Vẹt tại Kampuchia năm 1970, Hạ Lào 719 cũng là những tṛ bịp, dùng máu xương của QLVNCH lót đường cho cặp Nixon-Kissinger, mua thời gian cho quân Mỹ về nước sớm hơn hai năm, trước khi Nixon tái ứng cử vào năm 1972. Trong hồi kư ‘A Sldier’s Report‘ của tư lệnh Mỹ tại VN, tướng Westmoreland đă vô cùng cảm phục và thương xót người lính VNCH, tham dự trong chiến dịch Lam Sơn 719. Ông đánh giá cao QLVNCH, khi cho biết, chính kế hoạch này là của Kissinger, định dùng 60.000 quân Mỹ nhưng rồi thấy không chắc thắng trận, nên đă bỏ ư định và bắt ép tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thi hành. Theo sử liệu, trong trận này, VNCH chỉ có 17.000 quân và dù bị tổn thất nặng, do Mỹ thất hứa không yểm trợ đủ hỏa lực pháo và không yểm, nhưng Sư Đoàn 1 Bộ Binh cũng đă đạt được mục đích cuối cùng, là đặt chân vào cứ điểm Tchepone như Nixon mong muốn.

    Tóm lại suốt cuộc chiến 1960-1975, người Mỹ lúc nào cũng muốn QLVNCH chiến thắng cộng sản quốc tế, trong khi chính ḿnh không làm được. Vô lư hơn là bó buộc người lính Miền Nam phải chiến đấu, trong khi không cung cấp đầy đủ vũ khí, quân dụng, kể cả việc ngăn cấm không cho tấn công giặc. Chưa hết, chỉ vài ngày sau khi Nixon nhậm chức tổng thống lần 2, th́ quốc hội đảng dân chủ Hoa kỳ, đă cắt xén những hứa hẹn mà Nixon hứa với Nam VN trước khi VN hóa. Tồi bại nhất là quốc hội của đảng dân chủ, đ̣i Nixon phải tiết lộ bí mật quốc pḥng, để kịp báo cho Hà Nội, tấn công VNCH. Cuối cùng lư do mà Việt Cộng phải kư với Mỹ tại Ba Lê tháng 1-1973, nói chung là không c̣n chịu nổi những đợt oanh tạc khủng khiếp và hàng rào thủy lôi quanh hải cảng Hải Pḥng nhưng trên hết, theo tố cáo của nhân chứng Stephen Young, v́ cặp Nixon-Kissiger cam kết với VC, là sẽ không đ̣i quân Bắc Việt rút về lại bên kia vỹ tuyến 17 như tinh thần hiệp định Genève 1954, nên Hà Nội mới kư THỎA HIỆP BỊP, c̣n Mỷ th́ kư BẢN KHAI TỬ VNCH.

    Sau này chính Stephen Young đích thân tới hỏi Nixon, có biết Kissinger tự ư sửa ‘Bản đề nghị ngưng bắn của đại sứ Mỹ ở VN là Bunker không‘, Nixon trả lời ‘KHÔNG‘. Một điều bí mật khác, là Kissinger trong thời gian hành sử chức vụ Tổng Trưởng Ngoại Giao và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia cho TT. Mỹ, đă hoàn toàn học theo đúng sách lược của tên điệp viên Pháp thân cộng Jean Saintery (đại diện phe De Gaulle năm 1945 ), một kẻ đă từng hợp tác với Hồ Chi Minh, để thực dân Pháp công khai trở lại Bắc Việt năm 1946. Chính Saintery đă chỉ dậy bài bản, giúp Kissinger bán đứng Nam VN cho Hà Nội, gián tiếp trả thù việc chính phủ VNCH theo Mỹ, hất chân thực dân ra khỏi đất Việt.

    Cũng liên quan tới Người Lính VNCH, qua tài liệu của MACV mới phổ biến, cho biết, suốt cuộc chiến, Nam VN đă có nhiều binh sĩ đào ngũ nhưng đó lại là một điều rất kỳ lạ, v́ Lính đào ngũ không phải để đầu hàng Việt Cộng, mà họ muốn trở về nguyên quán đầu quân vào các đơn vị địa phương, để chiến đấu gần gia đ́nh ḿnh. T́nh yêu quê hương của người Việt là vậy đó, chỉ khi nào không c̣n con đường nào khác để lựa chọn, họ mới đành gạt lệ bỏ xứ mà trong đau khổ. Cho nên đâu lạ, năm 1954, chia đôi đất nước, không riêng ǵ 300.000 binh sĩ và gia đ́nh của Quân đội Quốc Gia, mà c̣n cả triệu người dân b́nh thường khác, đứt ruột, ĺa nơi chôn nhao cắt rún ở miền Bắc, để di cư vào Nam, v́ họ không muốn sống chung với cộng sản bạo tàn. C̣n Dwight Owen cố vấn Mỹ th́ nói QLVNCH không có những thứ tối thiểu mà các quân đội nước khác có, từ lương bổng, khẩu phần hành quân, nghĩ phép... tới t́nh thương làng xóm. Chính những điều này làm giảm sút tinh thần và hiệu năng chiến đấu. Nhưng tất cả cũng đều là phép lạ, khiến cho người lính Miền Nam vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến giờ phút cuối cùng tại Sài G̣n, trong khi Quân Đoàn 4 vẫn an toàn và chờ Chính phủ trung ương di chuyển tới, để lại tiếp tục chiến đấu, th́ có lệnh buông súng đầu hàng giặc.

    Tổng thống Nixon những ngày cuối đời, trong tác phẩm ‘No more Vietnams‘ nói rằng nếu tin vào báo chí Hoa kỳ, th́ VNCH không c̣n tồn tại sau khi Mỹ rút quân hoặc khi Mỹ chưa tới giúp. Điều này cho thấy QLVNCH rất anh dũng, kiêu hùng và qua những bản phân tích quân sự khách quan, th́ lính miền nam giỏi gấp 10 lần bộ đội miền bắc về mọi mặt, kể cả nhân cách và t́nh người. Phân tích gia Allan Goodman, năm 1983 trong cuộc hội thảo đề tài rút kinh nghiệm chiến tranh VN, quy tụ 50 học giả, tại Smithsonian Hoa Kỳ, đă ca tụng tinh thần chiến đấu anh dũng của người lính miền nam, họ đă tử trận trên 200.000 người và hơn nửa triệu thương binh. Nhưng có lẽ mai mỉa nhất là lời của Lewis Walt, tướng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đă viết:

    ‘Không phải ngồi biểu t́nh, ăn chơi, trốn lính đi tu hay làm báo, viết văn, lấy Mỹ tại Sài G̣n-Huế, mà có một con số chết và bị thương như vậy’.

    2-SƯ ĐOÀN 18BB VÀ CÁC ĐƠN VỊ TĂNG VIỆN,

    TỬ CHIẾN VỚI CỘNG SẢN QUỐC TẾ TẠI XUÂN LỘC THÁNG 4-1975:

    Sau ngày Sài G̣n thất thủ, ngày 2-5-1975 Peter Kahn chủ bút Wall Street Journal, giải báo chí Pulitzer, đă viết bài truy điệu Nam VN đăng trên báo này ‘Quả thật sau cùng, quân lực VNCH đă ră ngũ v́ tuân theo lệnh của tổng tư lệnh quân đội lúc đó, là tổng thống hai ngày Dương Văn Minh. Nhưng đó không phải là một quân lực hèn nhát hoặc vô dụng, v́ có một vài phần tử quan quyền đào ngũ chạy theo Mỹ. Sự thật, quân đội VNCH rất vững mạnh và chiến đấu dũng cảm khắp các mặt trận, đặc biệt là từ mùa hè đỏ lửa 1972 tại Quảng Trị, Kon Tum, B́nh Định và An Lộc. Đó là một quân đội xứng đáng được biết ơn, ca tụng v́ đă giữ được từng mảnh đất quê hương, trước cuộc xâm lăng của cộng sản quốc tế, trong nhiều năm qua. Và cuối cùng vào những tuần lễ chót của tháng tư, khi người Mỹ đă chấp nhận đầu hàng giặc, th́ người Lính VNCH vẫn tiếp tục chiến đấu khắp nơi, và mặt trận XUÂN LỘC đă trở thành mồ chôn tập thể của những kẻ xâm lăng, bạo tàn. Nhờ vậy, một số người, VN lẫn Mỹ mới có cơ hội trốn chạy ra ngoại quốc, thoát được cảnh tù đầy địa ngục, chốn nhân gian cùng khốn tận tuyệt của cơi đời, khi rợ Hồ từ miền Bắc vào Nam làm chủ. Một số ít này, hiện nay, dù đă cuối đời nhưng vẫn không giữ nổi khí phách và danh phận của đấng trượng phu, tướng lănh, trí thức, khi đă quay lưng phản bội dân tộc, bôi mặt hợp tác với giặc, đề dầy xéo thêm nỗi đau tận tuyệt của đồng bào ḿnh trong suốt 30 năm quốc hận, đối lấy chút hư danh cặn thừa trong vũng bùn ô uế xă nghĩa. Đây là những h́nh nộm nói tiếng người, hằng ngày được VC bêu xấu trên báo chí, để miệng đời bôi bác rủa trù, chẳng những riêng chúng, mà lây xấu tới con cái ḍng họ.

    Tháng tư ở Long Khánh, trời thường đổ những cơn mưa rào như trút nước, nhiều lúc lính đang hành quân trong rừng, có cảm tưởng như ḿnh đang lênh đênh bơi trong biển khổ của cuộc đời.

    Và tháng tư năm 1975, trời h́nh như biết trước cơn băo táp của miền Nam, nên đổ mưa rất sớm. Trong mưa có gió, nên khiến cho cả thị xă Xuân Lộc, đỏ ối một màu v́ xác hoa phượng vĩ ven đường, bị gió mưa dồn dập.


    ‘... đêm nay Xuân Lộc, vầng trăng khuyết
    như một vành tang trắng đất trời
    chân theo quân rút, hồn ta ở
    nghe nước La Ngà cuồn cuộn trôi

    ...em ơi tiếng tắc kè thê thiết
    gọi giữa đêm dài quá lẽ loi
    chân bước, nửa hồn chinh chiến dục
    nửa hồn Xuân Lộc, gọi quay lui..’.

    (thơ của Nguyễn Phúc Sông Hương).



    Xuân Lộc là chiếc nôi đầu đời, mà người lính Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 43 Biệt Lập, của Đại uư Ngô Văn Diệp, từ miền xa cao nguyên Di Linh, tới hành quân và tru đóng vào giữa tháng 4-1964, coi như là đơn vị tiền phương thành lập Sư Đoàn 10 bộ binh vào ngày 16-5-1965, gồm ba Trung Đoàn biệt lập, kỳ cựu của quân lực VNCH là Trung Đoàn 43, 48 và 52.

    Trung Đoàn 43 bô binh thoát thai từ Trung Đoàn 404 thành lập tại Phan Thiết ngày 1-8-1954, trước khi biệt lập, trực thuộc SD5 khinh chiến, từng tham dự các chiến dịch Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Huệ... tại Nam Phần vào năm 1955. Trung Đoàn 48 bộ binh thoát thai từ Trung Đoàn 203 bộ binh, gồm các tiểu đoàn 47, 702 và 52.

    Sau đó cải thành Trung đoàn 48 bộ binh, thuộc Sư Đoàn 16 khinh chiến, gồm các Trung Đoàn 46, 47 và 48. Năm 1958 qua đợt cải tổ, SD16 khinh chiến bị băi bỏ, các Trung Đoàn 46,47 và 48 trở thành biệt lập. Sau này, Trung Đoàn 47 bô binh cùng với Trung Đoàn 43 qua nhiều lần hoán đổi đơn vị, để trực thuộc SD23 bộ binh, cuối cùng Trung Đoàn 46 thuộc SD25BB, Trung Đoàn 47 thuộc SD22 BB và Trung Đoàn 48 thuộc SD18 BB. Riêng Trung Đoàn 52 được thành lập ngày 1-12-1954 tại Đệ 1 Quân Khu, gồm các Tiểu Đoàn 54 BVN, 704 và 713. Về Trung Đoàn này, ngày 14-2-1968, tướng Wheeler, chủ tịch Liên quân Mỹ, khi trả lời với báo chí, trong cuộc điều trần trước Hạ Viện Mỹ, là sáng nay tướng Westmoreland có báo, là đă tới thăm Trung Đoàn 52 biệt lập, đóng ở phía nam Đà Nẳng, để chúc mừng và tưởng thưởng cho Họ v́ đă chận đứng được Sư Đoàn 2 Bắc Việt, trong mưu toan chiếm Đà Nẳng, vào Tết Mậu Thân. Hai tiểu đoàn nổi tiếng nhất của SD18/BB là TD2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế và TD1/52 của Đại Uư Nguyễn Văn Út, nhiều lần được vinh danh trước quân đội, v́ thiện chiến và là đơn vị bắn cháy nhiều xe tăng của Bắc Việt tại trận địa. Năm 1974, hai chiếc T54 và PT76 của Bắc Việt, bị hai đơn vị trên bắn cháy, được kéo về làm kiểng trước sân Dinh Độc Lập, sau khi mất nước, mới bị VC phi tang.

    Sư Đoàn 10 BB sau đổi thành SD18BB vào ngày 1-1-1967 qua đề nghị của Tư lệnh lúc đó là Chuẩn tướng Đổ Kế Giai. SĐ mang phù hiệu Nỏ Thần, đang lướt trên hai nền màu xanh da trời đậm và lợt, tượng trung cho bước chân của lính trong cơi mông mênh cùng tận, mà Nguyễn Cộng Trứ khi đề cập tới chí nam nhi, đă viết: ‘tang bồng hồ thỉ nam nhi trái, làm cho bách thế lưu phương, trước là sĩ sau là khanh tướng‘.

    Từ năm 1965-1969 qua các tư lệnh như Đại Tá Nguyễn Văn Mạnh (16/5/1965-10-8-1965), Chuẩn Tướng Lữ Lan (10/8/1965-15/9/1966), Đại Tá Đổ Kế Giai (15/9/66-20/8/69), trong giai đoạn này, Sư Đoàn 18BB bao vùng Khu 31 Chiến Thuật, gồm các tỉnh B́nh Tuy, Long Khánh, Biên Ḥa, Phước Tuy và Đặc Khu Vũng Tàu, thuộc Vùng III Chiến Thuật.

    Từ ngày 20-8-1969 tới 4-4-1972, tư lệnh là Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, v́ bị Quân Đoàn III, chia chặt thành từng mănh, tăng phái khắp nơi, dưới quyền của các SD5 và 25 BB, nên binh sĩ có mặc cảm là đơn vị trừng giới, khiến cho SD18 BB, bị xếp hạng chót trong bảng xếp hạng đơn vị thuộc QLVNCH...

    Cá sống nhờ nước, lính chiến đấu giỏi khi gặp được cấp chỉ huy tài ba, can trường, thương lính và trên hết phải biết lội với lính trước súng đạn... Ngày xưa, qua huyền thoại, điển tích và sách vở, ta biết giai nhân cùng danh sĩ, như có duyên nợ với nhau từ tiền kiếp. Dương Chí Hoán đời Đường, nổi danh nhờ một ca kỷ hát bài Lương Châu Từ của ḿnh. Tô Đông Pha làm giúp một bài phú cho ca nhi Triệu Vân, mà lấy được một người vợ tài hoa ư hợp nhưng cảm động hơn hết, có lẽ là Giang Châu Tư Mă-Bạch Cư Dị (772-846), trong một đêm mưa rơi tầm tả, tiễn bạn trên Bến Tầm Dương, t́nh cờ gặp lại người ca kỷ năm nào nổi danh tài sắc chốn Trường An, qua một bản đàn tuyệt diệu, Danh Sĩ đă cảm hứng viết Trường Ca ‘Tỳ Bà Hành’ cổ kim bất hủ.

    Trong đời binh nghiệp cũng vậy, suốt cuộc chiến VN, những nguời lính nhảy dù, biệt kích, thủy quân lúc chiến, biệt động quân... được đồng bào miền nam thân thương quen gọi là các thiên thần, bởi v́ hầu hết các đơn vị trên đă có nhiều cấp chỉ huy tài ba can trường. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa... luôn ḥa ḿnh với thuộc cấp của ḿnh tại các tiền đồn hẻo lánh, bên những đơn vị nghĩa quân, cảnh sát dă chiến, xây dựng nông thôn và địa phương quân tại chiến trường. Nhờ vậy hai tỉnh Chương Thiện-B́nh Thuận, bị cộng sản quậy phá nhiều nhất, lại là hai địa phương an ninh hạnh phúc cho tới 30-4-1975. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu (1967-1975) dù bị lịch sử phán xét thế nào cũng kệ nhưng rơ ràng nhất, ông là một cấp lănh đạo can đảm, biết chia xẻ gian lao, máu lệ với người chiến sĩ đang lăn xả trong bom đạn sa trường nguy hiểm nhất, ngay lúc trận tuyến chưa im tiếng súng, tại Quảng Trị, KonTum, An Lộc, B́nh Định... Tương tự, những người lính Nỏ Thần Miền Đất Đỏ, đă tao phùng-kỳ ngộ với một cấp chỉ huy năng động, thích hợp với những lính biệt lập 43, 48 và 52 đă từng bị đầy ải khắp mọi miền đất nước, đâu có khác ǵ các Đơn Vị Biệt Động Quân Biên Pḥng, Biệt Lập, không biết ai là Cấp Ch́ Huy tối cao của ḿnh. Đây cũng là một trong những yếu tố then chốt, đă vực dậy một Đại Đơn Vị sắp quỵ v́ quá nản phiền. Nhờ đó mà SD18 BB từ đội đít, lần lần dọc ngang và cuối cùng, đứng ưỡn ngực với các Đơn Vị khác của Quân Lực trong bảng xếp hạng cuối đời.

    Ngày 4-4-1972, Đại Tá Lê Minh Đảo làm Tư Lệnh SD18 BB, thế Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ. Gọi là Sư Đoàn Trưởng cho oai, chứ lúc đó quân số c̣n lại của SD18BB vỏn vẹn chỉ có DD18 Trinh Sát, DD48 Trinh Sát và 1 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 48BB. Tất cả lính của Sư Đoàn từ Thiết Đoàn 5 kỵ binh, Trung Đoàn 43, 48, 52 đều bị Quân Đoàn III xử dụng, tận góc biển chân mây, khiến cho Tư Lệnh SD18BB lúc đó, thật ra c̣n thua Tiểu Đoàn Trưởng, v́ trong tay không c̣n một đơn vị nào thuộc về ḿnh., để chỉ huy xử dụng.

    Khởi sự từ con số không, Tướng Đảo, một sĩ quan thường bị cười nhạo là hành chánh v́ quẩn quanh chỉ làm quận trưởng, tỉnh trưởng. Nhưng đó là một nhận xét có ác ư ganh tỵ, v́ qua kinh nghiệm lịch sử cận đại VN, không thiếu ǵ những vị tá, tướng... một đời lăn xả ngoài trận mạc, vẫn không được đời xưng tụng là tài giỏi.



    Để chứng minh người thật việc thật, tri hành phải hợp nhất, qua việc hành sử lúc ban đầu, với số đơn vị ít ỏi trong tay, đă biết khôn khéo, cũng như bỏ cái quan niệm ‘lính chính quy-lính bảo an’, trong việc phối hợp hành quân cùng các Đơn Vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân và B́nh Định Xây Dựng Nông Thôn, kể cả Cảnh Sát Dă Chiến (Lúc đó toàn là chủ lực quân biệt phái hay thuyên chuyển về gần nhà)... tại các Tiểu Khu Long Khánh, Phước Tuy, nên chỉ một thời gian ngắn đă b́nh định xong vùng này. Rồi th́ lần lượt Quân Đoàn III, trả lại các Trung Đoàn cơ hữu của SD18BB cho tướng Đảo. Lúc đó,Trung Đoàn 52BB, đang hành quân tại B́nh Long, Trung Đoàn 48BB trách nhiệm giữ nhà, nên chỉ c̣n Trung Đoàn 43 của Trung Tá Lê Xuân Hiếu, cùng tư lệnh là Đại Tá Đảo, xông pha hầu hết các miền đất dữ của VC lúc bấy giờ, dẹp tan chiến khu Chà Rầy, Trung Lập, Củ Chi để giải vây cho quận Trảng Bàng. Tiếp đến, Trung Đoàn 43 và Tướng Đảo lại vào Bến Súc, Dầu Tiếng, giải vây Đồn Điền Michelin, giữ được con đường huyết mạch từ B́nh Dương-Bến Cát, mà trong trận Mùa hè đỏ lửa 72, quân tiếp viện của ta sử dụng để vào An Lộc.

  7. #37
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771


    SƯ Đ̉AN 18 và NHỮNG NGÀY TỬ CHIẾN TẠI XUÂN LỘC
    Hồ Đinh – KBC4424
    P2


    Tới cuối tháng 6-1972, SD5BB của Tướng Lê Văn Hưng, tuy vẫn giữ vững An Lộc nhưng đă bị tổn thất nặng nề, nên được điều động ra khỏi trận địa. Các đơn vị tăng phái của Vùng 4 CT như SD21BB, Trung Đoàn 15/SĐ9BB..cũng được trả về bản địa. Do trên, Quân Đoàn III, sau khi hoàn lại đủ quân số cho Tướng Đảo, đă điều động toàn bộ SD18BB vào An Lộc, phối hợp với Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân của Trung Tá Ngô Minh Hồng, chiếm lại toàn vẹn lănh thổ B́nh Long. Tháng 12-1972, sắp đến ngày kư Hiệp Định Paris, nên VC lại ồ ạt dành dân chiếm đất, v́ vậy QDIII giao B́nh Long-An Lộc cho Biệt Động Quân và sử dụng SD18BB như một đơn vị Tổng Trừ Bị của Quân Đoàn. Thời Trung Tướng Phạm Quốc Thuần thay Tướng Nguyễn Văn Minh làm Tư Lệnh QDIII, ngày 7-11-1973 đă cho tái lập lại Lực Lượng 3 Xung Kích, trước sau vẫn do Chuẩn Tướng Kỵ Binh Trần Quang Khôi, là một trong những tướng lănh tài ba, anh hùng của QLVNCH chỉ huy. Đại đơn vị này có bảng cấp số tương đương với một sư đoàn bộ binh nhưng về hỏa lực có phần hùng mạnh hơn v́ được phối hợp tác chiến giữa bộ, thiết giáp và pháo binh, gồm 3 Chiến Đoàn Thiết Giáp 315,318 và 322. Các Chiến Đoàn đều tổ chức giống nhau, gồm 1 Tiểu Đoàn BDQ, 2 Chi Đoàn Thiết Vận Xa 113, 1 Chi Đoàn Chiến Xa M48, 1 pháo đội cơ động 105 ly gắn trên xe M548 và 1 Trung Đội Công Binh. Đây là đơn vị trừ bị thứ 2 của QDIII, sau ngày kư hiệp định Ba Lê năm 1973. Từ đó chiến cuộc càng ngày càng tàn khốc, Bắc Việt ngoài số bộ đội có sẵn được Mỹ cho ở lại, c̣n có nhiều sư đoàn khác cũng ào ạt vào Nam, v́ đường ṃn Hồ Chí Minh coi như đă bị bỏ ngơ, tấn công khắp mọi nơi nhưng dữ nhất vẫn là những địa danh sát nách Sài G̣n như Định Quán, Củ Chi, Tam Giác Sắt, Phước Tuy... hầu hết những vùng trên đều thuộc trách nhiệm của SD18BB. Tóm lại, từ năm 1972 tới đầu năm 1975, SD18BB dưới quyền của Tướng Lê Minh Đảo, gần như xông pha trăm trận, nên đă hy sinh rất nhiều quân nhân các cấp. Nhờ vậy mà người lính Nỏ Thần đă trưởng thành trong khói lửa, quân kỳ của Sư Đoàn được gắn nhiều anh dũng bội tinh, mang giây biểu dương màu quân công bội tinh, nhờ niềm hănh diện đó, dân và lính miền đất đỏ, đă đánh một trận cuối cùng với giặc tại Xuân Lộc, vừa rửa hận cho Dân-Nước, vừa lưu danh ngàn đời trong Việt Sử, chống ngoại xâm do Bắc Việt mang từ Nga-Tàu về.

    Tháng 4-1974, Thượng Viện Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ cho Nam VN. Tại chiến trường, Bắc Việt xé bỏ hiệp ước vừa kư tại Ba Lê năm 1973, tấn chiếm Thường Đức và Trại Tống Lê Chân. Ngày 9-8-1974, Nixon từ chức tổng thống v́ vụ Watergate mang theo hẹn hứa giúp VNCH xuống mồ, v́ Ford lên thay không bao giờ đếm xỉa tới., hoặc có muốn giúp miền Nam, th́ nói cũng chẳng ai nghe, v́ ông không phải là vị tổng thống do dân bầu lên theo luật định.

    Trước t́nh h́nh hỗn độn chính trị tại Mỹ, Bắc Việt tấn công và chiếm tỉnh Phước Long nhưng Hoa Kỳ vẫn im lặng, c̣n Ford theo B.Paulmer trong ‘The 25 th year war‘ năm 1984, đă tuyên bố là Hoa Kỳ dứt khoát không can thiệp vào chiến tranh VN. Thế là Hà Nội hồ hởi xâm lăng Miền Nam. Ngày 10-3-1975 đánh thành phố Ban Mê Thuột. Ngày 14-3-1975 rút bỏ cao nguyên bằng Liên tỉnh lộ 7, Pleiku-Phú Bổn-Phú Yên. Ngày 20-3-1975 bỏ Huế, Quảng Trị. Nói chung hai cuộc lui quân, làm hàng trăm ngàn đồng bào vô tội, gia đ́nh binh sĩ, chết và bị thương thảm thiết v́ hỏa lực của cộng sản, bắn nhắm vào những người dân lánh nạn, trong đó phần lớn là người già, đàn bà, trẻ thơ vô tội. Tổng thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên... chỉ một phút quyết định ngắn ngủi tại Cam Ranh đă làm mất 2/3 lănh thổ, hủy diệt một nửa lực lượng quân lực tinh nhuệ của VNCH, trong đó có các Đại đơn vị ưu tú như SD Dù, Thủy Quân Lục Chiến, SD1, 23 BB và các Liên Đoàn BDQ... Như vậy sau ngày 2-4-1975, Quân Đoàn 1 mất hẳn, QD2 chỉ c̣n Ninh Thuận-B́nh Thuận, nên sát nhập vào Quân Đoàn III. Phan Rang-Phan Thiết và Xuân Lộc, trở thành vùng hỏa tuyến, v́ là cửa ngỏ ( quốc lộ 1 – 20), để Bắc Việt vào Sài G̣n.

    Để tấn công Long Khánh –Xuân Lộc, cộng sản quốc tế Bắc Việt, tung vào chiến trường Quân Đoàn 4, gồm 3 Sư Đoàn 6, 7 và 341 và Sư Đoàn 7 Việt Cộng, do tướng Bắc Việt là Hoàng Cầm và Hoàng Thế Thiệp chỉ huy. Về VNCH, ngoài SD 18 BB với các Trung Đoàn 43 của Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Trung Đoàn 48 của Trung Tá Trần Minh Công, Trung Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, Thiết Đoàn 5 của Trung Tá Nguyễn văn Nô, Tiểu Khu Long Khánh của Đại Tá Phạm văn Phúc và các Đơn vị tăng phái như Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù của Đại Ta Nguyễn văn Đỉnh, đặc biệt là Tiểu Đoàn 82 BDQ, thuộc LD24BDQ, của Thiếu Tá Vương Mộng Long, từ Quảng Đức, Lâm Đồng di tản về Xuân Lộc... cùng với các SD 3, 4 và 5 Không Quân, kể luôn các đơn vị Truyền Tin, Công Binh, đă đánh với quân xâm lăng cộng sản quốc tế, một trận để đời, như các trận Chí Lăng, Bạch Đằng, Chương Dương, Xuân Kỷ Dậu, Rạch Gầm Xoài Mút, mà tổ tiên ta đă lưu lại ngh́n đời muôn kiếp cho con cháu sau này, trong ḍng sử Việt...

    Ngày nay đọc những trang sử trong cũng như ngoài nước, từ người thương cho đến kẻ thù Việt Cộng, kể cả bọn ăn cơm quốc gia thờ Hồ tặc, tất cả đều hớn hở hoặc cúi mặt, kính chào và ngưỡng mộ, cuộc chiến đấu thần thánh của người lính VNCH, trong lúc đất nước đă tận tuyệt, gần hết cấp lănh đạo tối cao cơng vợ con và vàng bạc chạy theo Mỹ để cầu sinh, giữ chức. Giữa giờ thứ 25, trong lúc bên ngoài th́ Đồng Minh phản bội, bên trong đầy rẫy bọn trí thức, cha-sư, đầu hàng giặc Cộng, toa rập trù dập và đâm sau lưng người lính trí mạng.

    Trong ‘ Đại thắng mùa xuân’, Văn Tiến Dũng, tổng tư lệnh bộ đội cọng sản Bắc Việt, đă thú nhận rằng ‘ Mặt trận Xuân Lộc vô cùng ác liệt và đẫm máu ngay từ ngày đầu tiên. Các sư đoàn 6,7,341 của ta, dù đă tấn công nhiều lần vào thành phố Xuân Lộc, nhưng nhiều lần đều gặp phải sức kháng cự mănh liệt của Trung Đoàn 43 địch, nên bị tổn thất nặng nề...

    ... Các đơn vị pháo của ta, đă sử dụng nhiều hơn cơ số đạn dược dự trù. Số lớn tăng và xe bọc thép bị bắn cháy, c̣n D.Todd người kư giả Pháp thân cộng, trong tác phẩm ‘ Cruel April, the fall of Sai Gon‘, đă viết ‘ tinh thần binh sĩ tại Xuân Lộc rất cao, hệ thống truyền tin rất tốt, các đơn vị Dù và BDQ đă đến, đường Sài G̣n được thông. Các Sĩ quan QLVNCH đang gọi pháo binh và không yểm rất chính xác và nhanh chóng. T́nh trạng chiến đấu của họ, gần giống như lúc c̣n quân đội Mỹ yểm trợ.

    Như vậy qua hai lời phê phán trên, ta biết mặt trận Xuân Lộc vô cùng ác liệt và tinh thần chiến đấu của người lính VNCH dũng mănh phi thường. Được như vậy, trước hết theo lời của tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh Sư Đoàn 18 BB cũng là Tư lệnh Mặt Trận Long Khánh – Xuân Lộc từ ngày 8-4-1975 tới ngày 20-4-1975, đó là tinh thần của người lính quyết tâm chiến đấu tới cùng v́ từ trên xuống dưới không một ai đào ngũ hay bỏ theo giặc. Thứ hai do ta chủ động trận địa và sau rốt là tinh thần binh sĩ ổn định, khi thấy gia đ́nh ḿnh đă được di tản về hậu phương an toàn tại Biên Ḥa.

    CHIẾN TRƯỜNG XUÂN LỘC

    Chiến trường Xuân Lộc gồm 3 mặt trận chính : Mặt trận Ngă ba Túc Trưng, thành phố Xuân Lộc và Khu vực Núi Chứa Chan-Gia Ray. Do nắm được t́nh h́nh chính sự, biết chắc khi Phan Thiết-Lâm Đồng thất thủ, Bắc Việt sẽ xuyên qua QL1 và 20 để về tấn chiếm Sài G̣n. Do trên Xuân Lộc sẽ là chiến địa đẫm máu. Biết như vậy, cho nên tướng Đảo sớm chuẩn bị trận địa để chờ. Trườc hết, khuyến khích dân chúng có phương tiện, nên về lánh nạn binh lửa ở Biên Hoà hay Sài G̣n. Đồng thời cho di chuyển trại gia binh, bệnh viện, thương bệnh binh cùng các pḥng sở chuyên môn về hậu cứ tại Long B́nh, làm một đầu cầu tiếp vận từ Trung ương tới Chiến trường. Tại Long Khánh, tướng Đảo cho sửa sang tất cả các pḥng tuyến trong cũng như ngoài thị xă, đào giao thông hào khắp nơi, để chuẩn bị chiến đấu lâu dài.

    Chiếm lại tất cả các vị trí cao quanh Xuân Lộc, để quan sát địch từ mọi hướng. Đem tất cả pháo dấu trong các vị trí đào sẵn, một số câu lên núi Thị và giao cho TD2/43 cuả Thiếu Tá Nguyễn Hửu Chế bảo vệ, chỉ để lại 2 khẩu cho Tiểu Khu Long Khánh và 2 khẩu khác cho Chiến Đoàn 43 của Đại Tá Lê Xuân Hiếu, trong thị xă Xuân Lộc sử dụng mà thôi. Lại đặt ba bộ chỉ huy Sư Đoàn, một tại Xuân Lộc, một tại Tân Phong và một trên núi Thị có TD2/43 bảo vệ. Tất cả các Bộ Tư Lệnh Hành Quân, đều giống nhau, được thiết kế đầy đủ máy móc truyền tin kể cả đài siêu tầng số. Trong số này, BTL/HQ trên núi Thị giao cho Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, TDT/TD2/43 trách nhiêm, như một đài liên lạc giữa Tướng Đảo và Quân Đoàn cũng như các cấp tại Trung Ương, nhờ máy móc siêu tần đặt trên núi cao nên rất mạnh. Ngoài ra, nhờ có ba BTL/HQ nên tướng Đảo để di chuyển liên tục, tránh phao địch. Về Truyền Tin của Ta cũng rất tài giỏi, nhờ thế nên đă bắt và giải mă được tần số của giặc, gần như biết trước lệnh tấn công của các đơn vị Bắc Việt, nên đă tránh được rất nhiều tổn thất. Riêng bộ tham mưu của SD18BB lúc đó gồm có : Tướng Lê Minh Đảo là tư lệnh SD, Đại Tá Lê Xuân Mai tư lệnh phó, Đại Tá Huỳnh Thao Lược - tham mưu trường SD, Đại Tá Hứa Yến Lến – tham mưu phó hành quân tiếp vận và Đại Tá Dương Phun Sang – chánh thanh tra SD.



    Theo tất cả các cấp chỉ huy thuộc SD18BB c̣n sống, hiện đang ở Mỹ, hầu hết ai cũng xác nhận một sự thật rất quan trọng, đó là khi quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Xuân Lộc, th́ Tướng Lê Minh Đảo đang có mặt tại Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của SD18BB tại căn cứ Long B́nh và chỉ một vài giờ sau đă bay vào biển máu bom đạn và xác người tại trận địa Xuân Lộc. Trong lúc đó, đại úy Nguyễn Khiêm, trưởng ban ba của TrD43/18 v́ công vụ cũng có mặt tại Long B́nh và chính Tướng Đảo đă ra lệnh cho phi công chiếc C&C của TL, chở ông ta vào BTL/HQ tại Tân Phong.

    Bốn ngày đầu chưa có Lữ Đoàn 1 Dù tăng viện nhưng Chiến Đoàn 43 và các Tiểu Đoàn Địa Phương Quân thiện chiến của TK Long Khánh, cùng TD82 BDQ vẫn giữ được Xuân Lộc. Từ ngày 12/4/75, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù của Đại Tá Đỉnh tăng viện, đảm trách mặt trận Gia Ray-Chứa Chan, nên tướng Đảo đả dùng Trung Đoàn 48 và Thiết Đoàn 5 kỵ binh, làm lực lượng tiếp ứng khắp nơi. Cũng theo tướng Đảo, trong trận Long Khánh, chỉ có cứ điểm Ngă Ba Túc Trưng, do Chiến Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng trấn giữ, là khó khăn và ác hiểm nhất nhưng quân ta dù lực lượng ít ỏi so với quân biển người của Bắc Việt, vẩn anh dũng chống cự. Oanh liệt nhất là trận Đồi Móng Ngựa, chỉ có hai đại đội của TD3/52 do Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ, tức nhà văn nổi tiếng Ư Yên làm Tiểu Đoàn Trưởng, đă giữ vững vị trí từ ngày 10-4 tới 15-4-75, qua nhiều đợt tấn công biển người, cấp Trung Đoàn của SD6 Bắc Việt. Trận tử chiến trên Đồi Móng Ngựa cũng như hai trái bom con heo tại Dầu Giây –Túc Trưng, đều là những huyền thoại đẹp nhất trên những trang cận sử vừa nở hoa vừa loang đỏ máu, mà sau này mỗi khi đọc tới, chắc ai cũng không thể ngăn nổi giọt nước mắt muộn màng, để khóc tủi cho những người lính trận năm nào, đă v́ ai mà xả thân không tiếc hận.


    Đánh măi không lấy được Xuân Lộc, Văn Tiến Dũng điều động Trần văn Trà thay Hoàng Cầm nhưng chiến trường vẫn không thay đổi. Do trên Trà một mặt để SD7 VC ở lại cầm chân SD18 BB và Dù tại Xuân Lộc, mặt khác tấn công biển người vào các vị trí của Chiến Đoàn 52, mở một đường máu từ Túc Trưng xuyên qua Biên Ḥa, đối mặt với các Đơn Vị pḥng thủ của Lực Lượng 3 Xung Kích, của tướng Trần Quang Khôi. Riêng Chiến Đoàn 52 của Đại Tá Dũng, tuy bị tổn thất gần 1/2 quân số, nhưng cuối cùng vẩn mở được đường máu Từ ngă ba Túc Trưng về Biên Ḥa.

    HAI TRÁI BOM DAISY CUTTER VÀ CUỘC LUI QUÂN CỦA SD18

    Trong ‘Đứa con cầu tự ‘, ông Nguyễn Cao Kỳ nguyên Thiếu tướng QLVNCH, cựu tư lệnh Không quân, cựu chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, cựu phó tổng thống VNCH từ 1967-1971, có viết rằng chính ông ta là nhân vật đă ra lệnh sử dụng bom con heo tại mặt trận Xuân Lộc. Ai cũng biết từ sau năm 1972, ông Kỳ đă là một tướng lănh bị phế thải, ngồi chơi xơi nước, trong tay ‘không quân, không đơn vị‘. Cũng từ đó cho tới ngày 29-4-1975 bay trốn ra biển để tới Mỹ hưởng vinh hoa phú quư, tướng Kỳ ngoài việc trồng khoai ḿ tại đồn điền riêng ở Khánh Dương-Khánh Ḥa, th́ gần hết thời gian quư báu c̣n lại của một tướng lănh, chỉ lăn vùi trong rượu chè, mạt chược, đá gà và bar-bung gái vợ. Như vậy, sức nào để ra lệnh cho KQ đánh bom, một sự kiện quan trọng bậc nhất của an ninh quốc pḥng quốc gia VNCH, lúc đó chỉ có chính Tổng Thống, Thủ Tướng và Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH mới có thẩm quyền quyết định.

    Bom Daisy Cutter, c̣n được gọi là bom con heo hay tiểu nguyên tử, có chiều dài và chiều cao gần tương đương với ḷng chiếc vận tải cơ C130, trọng lượng là 7 tấn, gồm vỏ bọc và khối thuốc nổ 15.000 cân Anh TNT. Bom dùng mở băi đáp cho cấp sư đoàn hay lộ quân trong bất cứ địa thế nào. Với con người, bom có tầm sát hại trong ṿng bán kính 5 dặm Anh, hút hết dưỡng khí, làm cho người bị chết ngạt. Những ngày cuối cùng của tháng 4-1975, Mỹ có để lại cho VNCH chừng 10 trái nhưng không có ng̣i nổ. Trong trận Xuân Lộc, truyền tin của Bắc Việt gần như bị ta giải mả hết, nên nhờ đó mà Bộ tư lệnh của SD18BB đều biết trước. Nhờ vậy đă kịp thời xin không quân hay pháo binh, bắn hay giội bom vào các vị trí của địch hay xe tăng một cách vô cùng chính xác. Ngày 15-4-75, khi tướng Đảo nhận tin vị trí của Chiến đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, từ Ngă ba Túc Trưng xuống tới Dầu Giây, bị hai sư đoàn Bắc Việt 6 và 341 tràn ngập, nên đă xin tướng Nguyễn văn Toàn, tư lệnh QD3, tŕnh Bộ TTM, sử dụng bom con heo, để ngăn chận và giải cứu Chiến đoàn 52. Do trên, trong ngày 15-4-1975, Bộ TTM đă dùng vận tải cơ C130A thả 2 trái bom khổng lồ này, xuống vị trí của Bắc Việt, từ Túc Trưng về tới Dầu Giây, khiến cả một quân đoàn Bắc Việt, gồm người, tăng, pháo như rối loạn trong ba ngày liền v́ có quá nhiều thương vong. V́ Hà Nội la làng, Mỹ vi phạm hiệp định ngưng bắn, dùng bom nguyên tử và trở lại VN, nên Hoa Kỳ đă chở số bom con heo c̣n lại về Mỹ.

    Ngày 16-4-1975, pḥng tuyến tại Phan Rang vở, các tướng lănh Nguyễn Vĩnh Nghi, Pham Ngọc Sang, Đại Tá Nguyễn Thu Lương và hầu hết các sĩ quan cao cấp trong Bộ tư lệnh tiền phương của QD3, v́ đi bộ với lính (dù có máy bay), và Đại Tá Lương, lúc đó đă cùng với các tiểu đoàn Dù về tới Cà Ná, nhưng ông cũng đă trở lại t́m hai tướng Nghi-Sang, nên đă bị giặc Cộng bắt giữa chốn ba quân. May mắn nhất vẫn là tướng Trần văn Nhựt, Tư lệnh SD2 BB đang tham chiến tại mặt trận, nhờ lanh lẹ, nên leo L19, chạy kịp xuống tàu hải quân, đậu trong vịnh Ninh Chữ, sau đo cũng là một trong nhiều tướng lănh tới Mỹ sớm. Đêm 19-4-1975, B́nh Thuận-Phan Thiết mất và B́nh Tuy ngày 20-4-1975. Như vậy các tuyến pḥng thủ trên QL1 và 20, dẫn về Long Khánh gần như khai thông. Tướng Nguyễn Văn Toàn v́ không muốn Xuân Lộc, lúc đó lại trở thành một Điện Biên Phủ hay Khe Sanh, giữa trùng vây của hơn mấy vạn quân Bắc Việt như trước. Hơn nữa, khi Trần Văn Trà thế Hoàng Cầm, đă dùng SD7 Bắc Việt cầm chân quân ta, c̣n Lộ quân 4 th́ t́m đường khác tại Ngă ba Túc Trưng về Biên Hoà. Ở đó, chỉ có Lực lượng 3 Xung Kích của tướng Khôi, cùng Trung Đoàn 8 /SD5BB tăng phái, nên không đủ quân chống giữa. Do trên tướng Toàn đă xin Bộ Tổng Tham Mưu, chấp thuận bỏ Xuân Lộc, rút toàn bộ lực lượng đang chiến đấu tại đây gồm SD18BB, TK Long Khánh, Lữ Đoàn Dù, BDQ về Phước Tuy, giữ Biên Ḥa-Sài G̣n, và đă được chấp thuận, dù lúc đó, quân ta c̣n đầy đủ đạn pháo và tinh thần chiến đấu. Tại Gia Ray-Chứa Chan, Lữ Đoàn Dù-BDQ-Thiết Đoàn 5 và Trung Đoàn 48/18 đang gom SD7 Bắc Việt vào rọ, để tiêu diệt.
    Theo tướng Đảo, th́ vào lúc 9 giờ sáng ngày 20-4-1975, tướng Toàn thân hành bay trực thăng vào BTL SD18BB tại chiến trường Xuân Lộc, ban lệnh RÚT QUÂN, BỎ LONG KHÁNH của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, tới Tướng Đảo và CUỘC RÚT QUÂN hoàn toàn bằng đường bộ, không có ai được máy bay tới chở về. Quan trọng hơn hết, tất cả đều đi, không có 600 quân nào của Trung Đoàn 43, do Đại Tá Lê Xuân Hiếu t́nh nguyện ở lại bán mạng, như một vài người đả vin vào tài liệu Mỹ, viết sử. Cảm động vô cùng, là khi Lữ Đoàn 1 Dù của Đại Tá Đỉnh rút quân, đồng bào công giáo ở các xă Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo Ḥa... đă đồng loạt rút theo, làm cho cánh quân này v́ phải bảo vệ đồng nào tị nạn, nên bị thiệt hại nhiều nhất.

    Ngay khi nhận được lệnh, trong ngày 20-4-1975, tướng Đảo ra lệnh cho Lữ Đoàn 1 Dù, tấn công tới tấp SD7 VC để nghi binh. Trên núi Thị, rút hết pháo, chỉ để lại 2 khẩu cho Tiểu Đoàn 2/43 bắn cầm chừng, làm giặc không biết đâu mà ṃ. Cuộc lui quân, bắt đầu, lúc 8 giờ đêm 20-4-1975, bằng Liên Tỉnh lộ 2, Tân Phong-Long Giao-Bà Rịa. Đây cũng là một quyết định táo bạo, đồng thời cũng là một yếu tố bất ngờ mà Bắc Việt không bao giờ đoán nổi. V́ Liên tỉnh lộ 2 dài khỏng 40 km, từ khi quân Đồng Minh rút, đường đă bị bỏ hoang và trở thành căn cứ địa cuả các lực lượng Du kích tỉnh cũng như Trung Đoàn 33 chính quy Bắc Việt. Theo kế hoạch lui quân, Trung Đoàn 48 của Trung Tá Trần Minh Công mở đường. Cánh 2 là đoàn cơ giới, pháo, chiến xa Thiết đoàn 5 của Trung Tá Nô. Đặc biệt tướng Đảo, đă mang trả lại cho QD3 hai khẩu đại pháo 175 ly cho mượn, có tầm bắn xa trên 30 km, đặt trên xe xích. Tất cả lực lượng này do Đại Tá Hứa Yến Lến, tham mưu phó hành quân SD 18BB chỉ huy. Đơn vị kế tiếp là DPQ và NQ Long Khánh của Đại Tá BDQ. Phạm văn Phúc, Tỉnh trưởng Long Khánh. Cánh quân này, trong lúc rút bị đụng nặng, làm Trung Tá Tiểu Khu Phó tử thương. C̣n Đại Tá Phúc bị bắt và giải ngay ra Bắc, chịu nhiều năm tù khôc hận như các cấp Sĩ quan/QLVNCH sau ngày 30-4-1975. Tướng Đảo đi bộ với cánh quân Trung Đoàn 43 của Đại Tá Lê Xuân Hiếu, hiện ở Oregon. Và cuối cùng là Lữ Đoàn 1 Dù đoạn hậu. Theo kế hoạch lui quân, Tiểu đoàn 2/43 của Thiếu tá Chế từ Núi Thị xuống sẽ đi trước Lữ Đoàn Dù, nhưng v́ trục trặc chiến thuật, nên cuối cùng lại trở thành đơn vị cuối khi rời Long Khánh. Tóm lại cuộc lui quân coi như thành công, nhờ có tổ chức, kế hoạch và trên hết, chính tướng Đảo cũng như tất cả các đơn vị trưởng từ Tỉnh Trưởng Phạm văn Phúc, Đại tá Đỉnh, Lữ Đoàn trưởng Dù... đều đi bộ và tác chiến như lính. Thử hỏi sao không đạt được chiến thắng ?

    NGƯỜI VỀ TỪ ĐỊA NGỤC

    Tiểu Đoàn Trưởng TD2/Trung Đoàn 43/SD18BB là Nguyễn Hữu Chế, xuất thân từ khóa 13, sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Từ năm 1972 khi Đại Tá Đảo, về làm tư lệnh SD18BB, thay tướng Thơ, lúc đó Trung Úy Nguyễn Hữu Chế ở TD2/43 nhưng sau những chiến công rền vang khắp các mặt trận từ Chà Rầy-Trung Lập, tới Tam Giác Sắt - An Điềm, chỉ trong 1 năm, đă được vinh thăng ngay tại mặt trận, Đại Uư rồi Thiếu Tá và giữ TDT.TD2/43 là một đơn vị cùng với TD1/52 của Đại Uư Út, là hai đơn vị kiệt hiệt nhất của SD18BB.

    Theo lời Thiếu Tá Chế, th́ trong đêm lui quân 20-4-1975, lệnh hành quân ghi rơ: kể từ 12 giờ đêm, TD2/43 sẽ trở về hệ thống liên lạc của sư đoàn. Tiểu đoàn sẽ di chuyẻn trước, sau đó là Lữ Đoàn 1 Dù, theo lộ tŕnh về hướng Đức Thanh-Bà Rịa. Lệnh là vậy nhưng thực tế vô cùng khó khăn, v́ khi Lữ Đoàn 1 Dù, cho lệnh TD2/43 trở về với hệ thống của sư đoàn 18BB, th́ lúc đó đă 3 giờ sáng. Tiểu đoàn liền cho lệnh gom quân các tiền đồn về, trong đó có Trung Đội Biệt Kích hoạt động tận núi Ma, cho nên tới 5 giờ sáng mơi hoàn tất việc thu quân. V́ vậy khi xuống núi Thị, th́ trời đă rạng đông. Tiểu đoàn tiếp tục di chuyển theo lộ tŕnh rút quân, gần tới Căn cứ Long Giao, lúc đó đă 7 giờ sáng, th́ Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, Trung Đoàn Trưởng TrD52/18, bay trên chiếc C&C của Tư Lệnh, chuyển lệnh của Tướng Đảo, ra lệnh cho TD2/43 phải hủy bỏ lộ tŕnh cũ như lệnh hành quân ban đầu và phải băng rừng, chuyển hướng về Long Thành, v́ Bắc Việt đă phát giác SD18BB lui quân, mà đơn vị cuối cùng là TD2/43 nên ra lệnh cho SD7 VC phải truy sát cho tận tuyệt. Thật ra, lúc đó cũng c̣n một vài toán Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, lạc đàn chạy theo. Nhưng trong t́nh cảnh hiểm nguy đó, làm sao biết được ai là bạn hay thù, hoặc có thể VC đă theo kíp họ, nên TD 2/43 đă t́m cách đổi hương, để giữ mạng.

    Khi rời núi Thị, quân số của TD2/43, kể cả tăng phái trong đó có nhiều SQ, HSQ, và binh sĩ Pháo Binh, hơn 600 người. Ngoài Hậu cứ của TD2/43 đă di chuyển trước với cánh quân của Trung Đoàn, Bộ Chỉ Huy TD ngoài TDT Chế, c̣n có TDP là Đại Uư Nguyễn Tấn Chi (Khóa 12 SQTB/TD), Trung Úy Vơ Kim Thạch (DDT/DDCH), Trung Uư Nguyễn Văn Hào (DDT/DD1), Trung Uư Vơ Văn Mười (DDT/DD2), Trung Uư Nguyễn Văn Hùng (DDT/DD3), Trung Uư Hà Văn Dương (DDT/DD4) cùng các Sĩ quan truyền tin, ban 2, ban 3, quân y, sĩ quan tiền sát viên pháo binh...

    Nhưng sau lần liên lạc được với Đại Tá Dũng, TD2/43 coi như lạc lơng trong rừng sâu từ giây phút đó. Vùng này bốn bề xưa nay đầy rẩy các căn cứ cộng sản trong đó có mật khu Hắc Dịch nổi tiếng, đang có sự hiện diện của SD341 Bắc Việt tân lập. Từ đó, TD2/43 không c̣n ai liên lạc, chẳng có pháo binh, không quân hay thiết kỵ nào yểm trợ, v́ mọi đơn vị bạn đều cách xa. Nhưng cũng may, từ khi được thành lập tại Phan Rí, tỉnh B́nh Thuận vào năm 1955, qua danh xưng TD265, 84 sau đó là TD2/43 biệt lập cho tới ngày nay. Hầu hết các vị Tiểu Đoàn Trưởng như Đại Uư Nguyễn Văn Hai, cố Trung Tá Hắc Long Đỗ văn Tân, cố Trung Tá Hắc Long Nguyễn Văn Thoại và cuối cùng là Thiếu Tá Bảo Đinh Nguyễn Hữu Chế, tất cả đều là những đơn vị trưởng tài giỏi, đầy kinh nghiệm hành quân trong vùng, biết địa thế rơ như ḷng bàn tay, mà không cần phải xem bàn đồ, nhờ vậy mới không bị biển người cộng sản tiêu diệt. Từ 9 giờ sáng, TD2/43 đă bắt đầu chạm địch ở phía tây căn cứ Long Giao, nhưng v́ không có quân bạn yểm trợ, nên Thiếu Tá Chế đă cố gắng đoạn chiến, đổi hướng nhiều lần lộ tŕnh, v́ không muốn gây thương vong cho đơn vị. Đến chiều cùng ngày, khi TD2/43 vào tới b́a của một khu rừng rậm, sau khi nghỉ ngơi, Thiếu Tá Chế chia TD làm hai cánh, một do Đại Uư Chi TDP chỉ huy, để hành quân xuyên rừng về Long Thành. Cũng từ đó, TD chạm địch liên miên, đến đổi cánh quân do Thiếu Tá Chế chỉ huy, chỉ c̣n vỏn vẹn có 28 người. Cũng trong đêm đó, toán người của Thiếu Tá Chế lại bị lọt vào ṿng vây, nhưng nhờ trong số này c̣n có Trung Đội Biệt kích thiện chiến nhất của TD, nên cuối cùng anh em thoát được.
    Đến ngày thứ tư, TD đến gần Long Thành nhưng TT Chế vẫn không dám liên lạc truyền tin v́ sợ lộ mục tiêu, dù lúc đó trên bầu trời lúc nào cũng có phi cơ của SD18BB bay t́m kiếm TD2/43.

    Tại căn cứ Long B́nh, tiền trạm của TD2/43 do Trung Uư Nguyễn Văn Thắng, SQ ban 1 chỉ huy hậu cứ, điều động quân xa vào các b́a rừng ven Long Thành để đón lính TD2/43., đă vượt thoát được ṿng vây, trở về cơi sống. Nói chung, cánh quân do Đại Uư Chi, TDP chỉ huy gần như c̣n nguyên vẹn khi ra tới Long Thành. Nhưng trái lại, cánh quân của Thiếu Tá Chế lại đụng độ rất nặng, nhưng nhiều quân nhân c̣n sống sót, đă t́m được đường về điểm tập trung.

    Dù đă liên lạc được với Đại Tá Hiếu Trung Đoàn Trưởng TrD43 vào buổi chiều ngày 24/4/1975 nhưng tới 9 giờ sáng hôm sau, bốn chiếc trực thăng của SD mới vào bốc người nhưng vẫn bị VC truy sát, không buông tha.

    Tại căn cứ Long B́nh, Tiểu Đoàn tập hợp lại, bổ sung và tiếp tục chiến đấu, sau khi thoát chết, để cùng với SD18BB và tướng Đảo, cũng như tất cả các đơn vị trưởng, chiến đấu cho tới ngày 30-4-1975, mới phải buông súng, ră ngũ v́ lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Riêng Tiểu Đoàn Trưởng TD 1/43 là Đại Uư Chu hiện ở Úc nhưng vào ngày 12-4-1975 được thay thế bởi Thiếu Tá Tùng. Thảm nhất là Tiểu Đoàn Trưởng TD3/43, Đại Uư Du, ngày tan hàng về nhà, th́ bị giặc bất ngay, đem thủ tiêu mất xác.

    Trong ‘Đại thắng mùa xuân’, Văn Tiến Dũng, Tổng tư lệnh bộ đội miền Bắc, đă lấy lư do v́ không kịp vẽ bản đồ Long Khánh, nên đă bị bại trận Xuân Lộc. Thật sự trong 12 ngày ác chiến, Bắc Việt đă tung vào chiến trường sáu Sư Đoàn, gồm 6, 7, 341, 325, 10 và 304 để chọi với SD18BB, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, TD82BDQ và các TD.DPQ, Trung Đội NQ của tỉnh Long Khánh. Kết quả có hơn 6000 cán binh bộ đội bị phơi thây tại chỗ và 37 chiến xa đủ loại bị bắn cháy.

    Để tưởng thưởng những quân nhân có công trong trận Xuân Lộc, quyền Tổng Tham Mưu Trưởng lúc đó là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, ban hành SVVT ân thưởng cho tất cả quân sự đă tham dự, được lên một cấp. Riêng Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Mặt Trận Long Khánh kiêm TL.SD18BB, được chính Tổng Thống Trần Văn Hương, vinh thăng Thiếu Tướng, đặc cách tại Mặt Trận từ ngày 25-4-1975.

    Ba mươi năm qua, cuộc chiến đă tàn theo năm tháng nhưng hơn 80 triệu đồng bào trong nước vẫn không có đủ tự do để thở, cũng như có cơm ăn áo mặc., khiến cho đất nước càng ngày càng thảm thê héo hận.

    Ngày nay ai có dịp được xuôi ngược trên các nẻo đường quê hương lửa khói xa xưa, từ cổng bắc của Thị Trấn Hố Nai, qua Bầu Cá, Trảng Bom, Hưng Lộc, Dầu Giây, lên Kiệm Tân, Túc Trưng, Định Quán... hay về Xuân Lộc, Tân Phong, Long Giao, Gia Ray, không hiểu họ có c̣n nhớ chăng những ngày bi thảm tận tuyệt của đất nước vào cuối tháng 4-1975. Cũng chính tại Xuân Lộc, người dân cũng như lính tráng của miền cao su-đất đỏ, trước cuộc xâm lăng tàn bạo của giặc cộng xâm lăng Bắc Việt, đă phẫn nộ, tử chiến lần cuối cùng với rợ Hồ. Trong lúc tại Sài G̣n người ta t́m đường trốn khỏi nước, th́ tại Xuân Lộc, người lính từ quan cho tới cấp binh nh́, binh sĩ quân dịch, từng giây lội trong hố máu, hầm xương, c̣n trên đầu th́ đội bom hứng đạn, giành nhau từng vách tường cháy, đống gạch vụn, các công sự pḥng thủ để giữ mạng. Tội nhất là những lính của TD2/43 đơn vị cuối cùng, đói khát chết chóc trong rừng sâu, giữa chốn ba quân, để t́m đường về cơi sống.

    Bỗng dưng thấy thật u uất ngậm ngùi, khi vô t́nh đọc được bài cổ thi ‘Lưỡng Tây Hành’ của Trần Đào thời Hậu Hán, nói lên thảm trạng chiến tranh, đến nỗi xác của những người lính tại sa trường, đă trở thành ‘đống xương vô định cao hơn đầu‘, mà tại hậu phương những người thiếu phụ vẫn cứ măi bên án trông chồng ngoài quan tái. Hỡi ơi mới đó mà đă ba mươi năm đoạn trường máu lệ, tóc xanh thành tóc bạc, bạn bè thân thương một c̣n, chín mất, lưu lạc khắp ngàn phương, khiến mất cứ măi ngóng t́m.


    ‘ngày mai rồi có ngày nào,
    theo chân voi trận, để vào Thăng Long...

    ’ Cái mộng năm xưa nay cũng c̣n là mộng, khiến giờ chỉ c̣n biết:
    ‘nghiêng bầu mà hỏi
    thiên hạ mang mang
    ai người tri kỷ
    lại đây cùng ta cạn một hồ trường
    hồ trường, hồ trường
    ta biết rót về đâu ?

    (thơ của Nguyễn Bá Trác)



    Xóm Cồn tháng 3-2005

    HỒ ĐINH
    TD1/43/18BB-kbc 4424

  8. #38
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771


    Về quả BOM thả trong Trận Long Khánh
    Trần Lư


    Xin gửi người đă thi hành phi vụ này để trả lời - Kim Lai, USAF Det #14 Fire Control Center


    Trong Trận Long Khánh (Tháng 4 năm 1975), Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa có thả một quả bom đặc biệt, tiêu diệt cả Sư đoàn (?) quân CSBV, chặn đứng được cuộc tiến quân của chúng. Cho đến nay hăy c̣n nhiều câu hỏi quanh quả bom này và nhiều câu trả lời chưa được chính xác.

    - Đại tá Hùa Yến Lến (Tham mưu trưởng Hành quân SĐ 18 BB) gọi nó là CBU 82 (Daisy Cutter), cho rằng do Tướng Lê Minh Đảo (Tư lệnh SĐ 18 BB) đề nghị, và được Bộ TTM QLVNCH chấp thuận qua trung gian của Tướng Nguyển văn Toàn (Tư lệnh Quân Đoàn 3) để được sử dụng..


    - Tướng Trần Quang Khôi (Tư lệnh Lực lượng Xung Kích QĐ3) ghi lại rằng : chính Ông sử dụng 2 quả bom CBU của KQ Biên Ḥa trên chiến trường Long Khánh để chặn đứng quân địch và giải cứu Chiến đoàn 52 /SĐ 18 BB của ĐT Dũng khỏi bị tiêu diệt..


    - Khi trả lời các câu hỏi của Nhà báo Vũ Mạnh Hùng trong cuộc pḥng vấn dành cho Đài truyền h́nh Little Saigon TV tại Santa Ana và Hệ thống Truyền h́nh VN VBN tại New Jersey, Tướng Lê Minh Đảo cho biết: Ông không cần biết VNCH c̣n mấy quả bom loại này, CQ cứ tấn công th́ Ông sẽ..tiêu diệt chúng; và các cấp chỉ huy CSBV đă nhiều lần đến Trại Tập trung để hỏi Ông về quả bom này..mà họ cho là bom neutrons của Mỹ (?)


    - Nhà báo Mỹ Alan Dawson trong ’55 days-The Fall of South VN’ th́ ghi rẳng đây là các quả bom CBU được đưa từ Utapao đến Biên Ḥa vào đău tháng 4 năm 1975.


    - Tác giả Chính Đạo (Tiến sĩ Sử học), trong tâp sách 55 Ngày đêm, Cuộc xụp đổ của VNCH ghi rằng VNCH đă sử dụng cả CBU lẫn ‘Daisy Cutter’ (nghĩa là 2 loại bom..khác nhau !) tại Mặt trận Long Khánh.



    - Tác giả Nguyển đức Phương trong ‘Những Trận đánh Lịch sử trong Chiến tranh VN 1963-1975 cho rằng : Tướng Toàn đă ra lệnh thả 2 quả Daisy Cutter tại Trận Long Khánh và giải thích lư do chỉ 2 quả được thả (trong số 5 quả c̣n lại) v́ Hà nội phản kháng (!)


    - Tác giả Trọng Đạt trong bài ‘Trận Xuân lộc Chiến thắng cuối cùng’ (Nguyệt San Việt Nam Online) có ghi khá nhiều chi tiết về các quả bom này kể cả tên (viêt tắt) của các phi công đă thả (xin xem phần dưới) các quả bom đặc biệt này..



    - Viện Khoa Học Quân sự của CSVN th́ ghi lại (theo tài liệu của Dawson) là KQ VNCH đă thả 1 quả bom CBU-55 xuống Ngă ba Dầu Giây Long Khánh vào ngày 21 tháng 4 năm 1975.



    - Như vậy..quả bom thả tại Long Khánh là bom ǵ ?..Tác dụng của các quả bom này đă khiến CS phài la hoảng..th́ tại sao lại chỉ thả 1, 2 quả..và ai thả ?


    - Từ CBU..

    Chiến trường Việt Nam đă được xem là nơi Hoa Kỳ thử nghiệm rất nhiều loại vơ khí, từ vơ khí quy ước đến những vơ khí điện tử tối tân. Cũng tại VN, Hoa Kỳ đă tiêu thụ được khá nhiều bom-đạn c̣n tồn trữ từ sau Thế chiến thứ 2. Một trong những vũ khí được KQ HK sử dụng nhiều nhất là bom, và bom c̣n được chia thành 2 nhóm : Bom khôn (Smart bomb) và Bom..ngu (Dumb bomb). Bom ngu, dĩ nhiên là do Phi công thả và do tài của Phi công để bom rơi trúng mục tiêu, c̣n Bom khôn th́ được điều khiển bằng laser, radar..để tự t́m đến mục tiêụ



    Một trong những sáng kiến về Bom mà các kỹ sư vơ khí HK đưa ra áp dụng tại VN là CBU hay Cluster Bomb Unit. Thật ra CBU chỉ là một áp dụng của việc nghiên cứu về loại vơ khí có tên là Rổ bánh ḿ Molotov (Molotov bread basket) dùng năm 1937 trong Trận Nội chiến Tây Ban Nhạ Rổ bánh ḿ, đơn giản, chỉ là một thùng lớn chứa nhiều quả bom nhỏ để khi phi cơ thả xuống, thùng mở ra và rải các quả bom nhỏ trên một diện tích rộng lớn. Như thế Cluster Bomb hày Bom chùm chỉ có mục đích là mở rộng vùng sát thương của Bom khi thả xuống mục tiêụ.



    Tại chiến trường VN, nhiều loại CBU đă được chế tạo : loại chống bộ binh là loại thường được dùng nhất, rồi đến loại chống chiến xa, chống các tiếp liệu quân sự.. có loại chứa đầy ḿn và có loại chứa nhiên liệu đặc gây cháy..



    - CBU chống bộ binh cũng có nhiều loại như CBU-24 chứa 600 quả bom nhỏ cở trái banh golf, mỗi quả golf nhỏ này khi nổ c̣n phóng ra 300 mảnh thép nhỏ chứa bên trong; CBU-46 bom chùm dạng như quả dứa, khi nổ c̣n tung mảnh ra xa hơn, vùng sát thương rộng hơn..Các loại CBU này thường được KQ HK sử dụng khi bay tấn công đường ṃn HCM..



    - Một trong những loại CBU chống chiến xa được dùng tại VN là MK-20 Rockeye, khi nổ sẽ phóng ra những bom nhỏ h́nh mũi tên dài 9 inches, chứa đầu nổ có thể xuyên phá lớp vỏ thép của chiến xa..



    - Về CBU chứa ḿn : 2 loại chính dùng trên chiến trường VN là Dragonteeth và WAAPM (Wide Area Anti Personnel Munition). Dragonteeth chứa những ḿn nhỏ có khả năng gây mất..chân binh sĩ địch khi nổ, nhưng không gây..chết người c̣n WAAPM, được giử rất bí mật trong chiến tranh VN : WAAPM được thả xuống trong các thùng nhựa plastic, khi chạm đất sẽ phóng ra các sợi thép mỏng manh như chân nhện, nếu chạm vào sợi thép, ḿn sẽ nổ.. Bom được dùng thể thả vào các ổ pḥng không của CSBV.



    - Loại CBU thứ tư là là loại Bom chùm gây cháy (Cluster bomb incendiary device). Loại bom này cũng có tên là Fuel Air Explosives CBU-55 là bom thuộc loại này, chứa nhiên liệu propane : CBU-55 nặng 750 pound (khoảng 340 kg) gồm 3 ngăn: một ngăn chứa propane, một ngăn chứa hỗn hợp khí khác và một ngăn chứa ng̣i nổ. CBU-55 dài khoảng 2.3 m, đường kính 0.36 cm. Có 2 loại CBU-55 : Loại thứ nhất CBU-55/B chứa 3 bom BLU-73A/B đặt chung trong Hệ thống chứa SUU-49/B và loại thứ nh́ là CBU-55 A/B chứa 3 BLU-73A/B trong thùng SU-49 A/B. Sự khác biệt là SUU-49B chỉ có thể thả bằng trực thăng hay phi cơ bay chậm, trong khi đó SUU-49A/B có thêm vi đuôi xếp lại nên có thể thả bằng các phi cơ bay nhanh như A-37, OV-10.. Các bom BLU nhỏ nặng khoảng 45 kg chứa ethylen oxyde lỏng. Khi nổ bom sẽ làm văng các giọt ethylen, tạo thành một đám mây nhiên liệu đường kính từ 17-25 m ở độ cao 2-3m. Đám mây này được kích hỏa bằng một ng̣i nổ.. tạo thành một quầng lửa gây ngạt do thiếu oxy cho các sinh vật trong vùng..



    Theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam của Hà nội th́ tại Việt Nam CBU-55 đă được sử dụng tại chiến trường Quảng trị (1972) và tại Bến Tre (tháng8-72) thả xuống ấp 1, xả Tam Phước và giữa tháng 7-1973, thả xuống Giồng Trôm.. Cũng theo CSBV, th́ CBU-55 cũng là quả bom thả xuống Xuân lộc trong tháng 4 năm 1975 ?!..

    Trong bài :’Kỷ niệm nhỏ với Đồng đội Chiến trường xưa’ trên Nguyệt San Việt Nam On-line, Tác gỉa NgyThanh ghi lại như sau : ‘ Khi chiến xa T-54 của Cộng sản từ Tỉnh lộ 8B ở thôn Cam Vơ trên bờ Bắc tràn qua sông Miếu Giang, Bộ TTM QL VNCH bí mật cho phép sử dụng lần đầu tiên trên chiến trường VN loại bom CBU-55. Trưa 1 tháng 5 năm 1972, sau khi ném ‘trái bom nguyên tử bỏ túi’ vào đoàn xe tăng đang vượt cầu Đông Hà và làm cả đoàn xe chết khựng ngay trền cầu, Thiếu úy phi công Nguyễn Hàn mang chiếc A-37 về lại Phi đoàn 528 ở Đà Nẵng b́nh an.. (Thiếu Úy Nguyễn Hàn sau đó đă hy sinh trong một phi vụ yểm trợ cho TĐ 8 TQLC vào đầu tháng 10-1972 tại Chợ Sài (Quảng Trị).



    .. đến Daisy Cutter :

    Chiến trường VN được các Nhà quân sự Mỹ xem là chiến trường của trực thăng, v́ trực thăng giữ nhiều vai tṛ quan trọng như đổ quân, chuyển tiếp liệu, tản thương.. Trực thăng rất cần có được những bải đáp an toàn, đũ rộng để xoay trở tại những vùng rừng rậm nơi chiến trường. Nhu cầu được đaạt ra cho Bộ Chỉ huy QL HK là t́m một loại bom nào có đủ sức công phá để tạo ra một khoảng trống càng rộng càng tốt có thể dùng làm băi đáp cho trực thăng.



    Năm 1968, khi kiểm soát lại các kho tồn trữ vơ khí, một sĩ quan KQ HK đă t́m được một số bom loại 4.5 tấn (10,000 lb) lưu trữ tại Trung Tâm tồn trữ vơ khí của KQ tại Căn cứ Kitland (New Mexico). Đây là những quả bom của thập niên 50, khi Bộ Chỉ huy Không quân Chiến thuật HK c̣n sử dụng các Pháo đài bay B-36 làm lực lượng răn đe chính. B-36 đă được thay thế bằng các B-52 trong thập niên 60. KQ HK đă nghĩ rằng các quả bom 10,000 lb này có thễ sẽ đáp ứng được nhu cầu của Lục quân cho Lực lượng trực thăng ?



    Nhưng vấn đề quan trọng nhất được đặt ra là : làm cách nào để thả những quả bom khổng lồ này ?



    Không quân, trên nguyên tắc, sẽ là quân chủng đảm nhận việc thả bom, nhưng ngay lúc này KQ HK không có loại phi cơ phóng pháo nào để thả được quả bom cỡ này : Bom không thể đưa vào khoang bụng của B-52, c̣n các phi cơ loại phóng pháo- chiến đấu như F-100, F-105.. lại không chở nổi loại bom quá nặng này, và biện pháp sau cùng là dùng các trực thăng hạng nặng hay Phi cơ vận tải để thả chúng..Có thể dùng trực thăng, nhưng với sức nặng của quả bom th́ chỉ một vài loại trực thăng có đủ khả năng để chở nổi chúng : Trực thăng cần cẩu khổng lồ của US Army loại CH-54 Skycrane có thể đeo được 1 quả, nhưng bay quá chậm và mỗi phi vụ chỉ thả đưỡc 1 quả nên chi phí để thả quả bom tăng lên quá cao.



    Biện pháp thứ nh́ là dùng Phi cơ vận tải C-130 : C-130 đă được dùng trong các phi vụ thả dù tiếp tế, khoang bụng đủ lớn để có thể chở một lúc 2 quả bom và hơn nữa tầm hoạt động của phi cơ cũng rất thích hợp.. nhưng v́ Lục quân muốn dùng trực thăng nên họ dành quyền thả trước và không đạt được kết quả mong muốn !



    Đến tháng 6 năm 1968, Chương tŕnh dùng C-130 để thả những quả bom này được giao cho Không đoàn Vận tải Chiến thuật 463 tại Căn cứ KQ Clark (Philippines) nghiên cứu thực hiện. Thiếu tá Robert Archer, thuộc Phi đoàn 29 (KĐ 463) là ngưới đă thử thả những quả bom đầu tiên tại Căn cứ Kirtland.



    Tháng 10 năm 1968, những quả bom đầu tiên được thả thử tại Vùng 1 CT dùng Hệ thống Radar MSQ-77, hướng dẫn mục tiêu, đặt dưới đất tại PleiKu và Huế. Từ tháng 12-1968, bom được thả thử theo sự hướng dẫn của các Hệ thống radar thuộc TQLC HK, và từ mùa Xuân 1969, bom 10,000 lb đă được thả thường xuyên với tên gọi là Hệ thống vơ khí M121



    Ngay từ đầu, việc chọn C-130 để thả bom đă được xem là rất thích hợp. Một phi cơ C-130 có thể cất cánh từ Cam Ranh, chở 2 quả bom, có thể thả tại bất cứ mục tiêu tại Nam VN chỉ sau 1 giờ baỵ Các phi công của KĐ 463 có lẽ là những nhà thả bom chuyên nghiệp nhất, thả theo sự chỉ dẫn của radar MSQ-77 và theo tín hiệu của các nhân viên điều hành dưới đất.



    Để biến đổi một phi cơ vận tải C-130 b́nh thường sang thành phi cơ thả bom 10,000 lb, cần phải sửa đổi hệ thống liên lạc trên phi cơ để chuyên viên kỹ thuật ‘chất và thả hàng’ (loadmaster) ở trong khoang hàng hóa, có thể theo dơi được các làn sóng phát đi từ đài đặt dứới đất.. Mỗi C-130 c̣n được trang bị thêm Hệ thống thả hàng 463L : gồm nhửng đường rầy đôi đặt trong khoang bụng phi cơ để giúp kiểm soát ‘hàng’ đặt sẵn trên một giàn gỗ (pallet), và khi thả th́ sẽ thà cà..giàn. Bom đặt trên giàn và được đưa trực tiếp vào khoang bụng phi cơ.



    Giàn bom được thả bằng dù, khi ra khỏi bụng phi cơ, dàn tự vỡ tung ra và bom được rơi tự động, giữ chậm lại bằng một dù nhỏ h́nh tam giác. Một ng̣i nổ xuyên qua cây cối gắn nơi mũi bom sẽ được khởi động bằng một chong chóng nhỏ : khi bom chạm đến cây sẽ phát nổ, đốn ngă hết cây cối trong vùng như..chém hoa cúc (daisy cutter), và kết quả là tạo ra một khu vực tṛn, trụi cây, có thể rộng đũ để 1 đến 3 trực thăng đáp xuống. Nhưng nếu ng̣i nổ gắn nơi đảu bom bị tịt, th́ ng̣i nổ thứ nh́ gắn nơi đuôi bom sẽ giúp gây nổ. Bom thường được gây nổ ở độ cao khoảng 6 m trên mặt đất và tạo ra một băi đất trống đường kính khoảng 100 feet (33 m).



    Như thế : Daisy Cutter là tên , đầu tiên, đặt cho Hệ thống vơ khí M-121 này



    ..và những quả bom thả tại Long Khánh..
    Đến 1970, loại bom 10,000 lb c̣n lại từ Thập niên 50 đă được sử dụng hết. Trung tâm Vơ khí HK đă chế tạo loại bom mới, khác hơn, dùng nhiên liệu lơng, pha trộn với thuốc nổ TNT, đặt trong những ngăn khác nhau (do đó có thể xem là một loại CBU).



    Loại bom này với kư hiệu BLU-82 nặng đến 15,000 lb, h́nh dạng như một b́nh chứa gaz propane khổng lồ dài 141.6 in, đường kính 54 in và được thả theo cùng phương thức như thả M-121. Đầu đạn của BLU-82 chứa 12,600lb nhiên liệu gây nỗ gồm ammonium nitrate, bột nhôm và nhựa dẻo polystyren.



    BLU-82 được sử dụng lần đầu tiên trên chiến trường VN vào ngày 23 tháng 3 năm 1970 và KQ Chiến thuật HK đặt tên cho chiến dịch thả bom này là Commando Vault BLU-82 đă được dùng trong cuộc hành quân qua Campuchea (70), để tạo các băi đáp cho trực thăng, pháo binh. Trong cuộc hành quân Lam sơn 719 của QL VNCH qua Lào, một số BLU-82 cũng đă được thả. Năm 1971, khi Không đoàn 463 HK giải tán, việc thả BLU được giao cho KĐ 374 Chiến thuật và đây là KĐ C130 sau cùng của HK hoạt động tại Đông Nam Á.



    Khi sử dụng để đánh nơi tập trung quân cũa CQ, BLU-82 được thả, lúc rơi xuống cao độ 30 m, nhiên liệu răi tỏa thành đường dài đến 300m, và đám mây nhiên liệu này được kích nổ, khi cháy nổ sẽ hút hết dưỡng khí trong một vùng, gây ngạt thở và tạo ra một chấn động theo sau..



    .. Ai thả và ai..cho phép thả..?

    Không quân VNCH có 2 chiếc C-130, trang bị hệ thống thả BLU-82. Tổng cộng số BLU được giao cho KQ VN là 17 quả (trong một lớp huấn luyện cấp tốc bên Hot Cargo, thuyết tŕnh viên cho biết sẽ mang từ Thai Lan sang ..15 trái (?).

    Chiếc phi cơ sau cùng của KQHK bị tổn thất tại VN là một chiếc C-130 bay từ Căn cứ Clark đến TSN, chở 2 quả BLU-82 để giao cho VNCH..



    Theo tài liệu của Tác giả Trọng Đạt trong bài ‘Trận Xuân lộc, Chiến thắng cuối cùng’ trên Nguyệt San Việt Nam On-line th́ qua cuộc phỏng vấn Đại Úy NHL , Phi công VN đầu tiên thả Daisy Cutter th́ :

    Đại Úy NHL đă thi hành 3 phi vụ thả 3 trái bom :

    - Trái thứ nhất thả ở Bắc Khánh Ḥa

    - Trái thứ 2 ở phía Tây Nha Trang

    - Trái thứ 3 , không nhớ địa điểm, nhưng nhớ là thuộc phi vụ sáng 24-4-75 (?)



    Đại úy NHL cho biết : Khoảng 10 ngày trước khi Sài g̣n thất thủ, phía M³ yêu cầu Không đoàn 53 Chiến thuật (thuộc SĐ 5 KQ VNCH) cử 2 sĩ quan thả bom cao độ xuất sắc để thả bom Daisy Cutter mục đích lảm chậm lại cuộc tiến quân của CSBV. KĐ 53 CT cử 2 sỉ quan trưởng phi cơ xuất sắc nhất trong việc thả bom cao độ là Đại Úy NHL thuộc PĐ 437 và Thiếu tá ĐQA thuộc PĐ 435..



    Ngoài ra Đ/u cũng cho biết KQVN CH đă thả tổng cộng 10 quả Daisy Cutter, nhưng không nhớ thả lúc nào và thả tại đâụ Các quả bom do Th/t ĐQA và Th/t HN thả.



    Tuy nhiên, một thân hữu KQ qua e-mail riêng có cho biết :

    ‘.. Theo tôi biết, quả thả vào Xuân lộc 90% là do Th/T Nguyễn Tấn Minh PĐ 435. Thiếu tá Nhân , Th/tá Ngô Xuân Nhật PĐ 437 cũng đă thả BLU nhưng không chắc có phải tại Xuân Lộc không ?.



    Một thân hữu khác cho biết Phi công NHL có thể (?) là Đ/u Mạc Hữu Lộc và ngoài ra c̣n các phi công Nguyễn Quế Sơn và Đ/u Của cũng có khả năng thả các BLU-62.



    Về con số bom BLU-62 giao cho VNCH : các tài liệu hiện có vẫn chưa đồng ư với nhau :

    - Tập ‘Quân Sử Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa’ trang 197 viết :

    ‘’..Trận Xuân lộc..Trong trận này các vận tải cơ C-130 Hercules thực hiện 150 phi xuất oanh tạc, sử dụng bom xăng ‘tự chế’ (gồm nhiều thùng xăng 200 lít có gắn ng̣i nổ), bom chùm (gồm 3,4 trái bom nổ liên kết lại), và đặc biệt là bom CBU loại 7 tấn (15,000lb) Daisy Cutter, có sức công phá b́nh địa một vùng đường kính 150 m và sức sát hại trên một quy mô rộng lớn. Trái CBU đầu tiên được thả xuống cách Xuân lộc 4 km, đă khiến cả thành phố bị rúng động và mất điện, đưa tới những tin đồn B-52 oanh tạc trở lại, kết quả trọn Bộ Chỉ huy SĐ 341 của CSBV bị tiêu diệt.. Trước sau đă có 9 trái CBU được thả xuống Xuân lộc và các khu vực phụ cận..’



    - Tác giả Robert Mikesh trong ‘Flying Dragons : The South Vietnamese Air Force’ ghi lại (trang 141) : ‘ Việt Nam được cung cấp tất cả 17 quả Daisy Cutter, .đả thả 15 quả, chỉ c̣n lại 2 quả..’



    .. Ai ra lệnh thả..

    Cho đến nay, sau hơn 30 năm các quả bom được thả..câu hỏi ai ra lệnh thả những quả bom này.. vẫn chưa có câu trả lới chính thức.. !



    Theo hệ thống quân gian thông thường, quyết định thả bom sẽ được Bộ TTM ban hành theo yêu cầu của Vị Tư lệnh chiến trường và KQ sẽ thi hành quyết định nàỵ (Trong Hồi Kư của ĐT Cao văn Viên th́ đây là những yêu cầu b́nh thướng theo Hệ thống Chỉ huy của QL VNCH). nhưng trên thực tế Chiến trường VN vào những ngày cuối cùng của VNCH có nhiều điều phi lư và.. khó giải thích !



    - Tướng Nguyễn văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 cho biết :

    ‘...Sau khi Pḥng tuyến của Chiến đoàn 52BB tại Ngă Ba Dầu Giây Long Khánh.bị vỡ vào đêm 15 tháng 4 năm 1975, Ông đă xin Bộ TTM cho ném bom Daisy Cutter để ngăn sức tiến quân của CSBV. Sáng 16 tháng 4 vào lúc 11 giờ sáng 2 trái bom đă được thả..xuống khu vực đóng quân của CS BV tại khu vực từ Định Quán xuống Ngă Ba Dầu Giây, loại khỏi ṿng chiến hơn 10 ngàn quân CS, phá hủy nhiều Chiến xa và đại pháo của CS..Tôi đă đề nghị thả thêm 5 bom Daisy Cutter nữa.. nhưng được thông báo là tuy c̣n bom nhưng...không c̣n đầu nổ !’.



    - Tường Trần Văn Nhật (Tư lệnh SĐ 2), viết trong Hồi Kư :

    ‘..Chính Tướng Toàn là Tư lệnh Chiến trường đă chấp thuận cho sử dụng 2 trong số 6 trái bom (v́ chỉ c̣n có 2 đầu đạn) Daisy Cutter..thả xuống yểm trợ cho mặt trận Xuân lộc...Đáng lư ra chúng ta có đến 27 trái bom này theo quyết định của ĐT Weyand trong chuyến viếng thăm VN vào tháng 2/75 cùng với Ông Phụ Tá Bộ trưỡng QP Eric Von MarbodẨRất tiếc chỉ có 6 trái đến được VN vào cuối tháng 4/75 và không hiểu tại sao chỉ có 2 ng̣i nổ’



    - Vào những ngày cuối cùng của VNCH, Hệ thống Chỉ huy Quân sự của QL VNCH đă gặp nhiều trắc trở, Tướng Nguyễn Cao Kỳ, tuy không c̣n chức vụ chính thức trong KQ, đă .tự động trở về Quân đội và..vẫn ra lệnh được cho các..phi công !Trong ‘The Buđha’s Child’ (trang 331) Ông ghi lại :
    ‘..v́ quả bom có sức công phá mạnh, nên TT Thiệu sợ rằng .sẽ có kẻ ném quả bom này vào Dinh..do đó chỉ được phép sử dụng bom do chính Ông Ta quyết định (?).. Một hôm Pḥng Hành quân yêu cầu yểm trợ..Tôi không có sẵn vơ khí trong tay, nên yêu cầu Vị Chỉ huy KQ cho thả, ông cho biết không có thẩm quyền. Tôi yêu cầu Vị Tổng Tham mưu trưởng..câu trả lời tương tự.. Tôi gọi nhiều Vị Tưóng khác, tất cả đều cùng câu trả lời. Tôi biết nếu tôi gọi Thiệu, ông ta sẽ..c̣n phải suy nghĩ, do đó tôi gọi Thủ Tướng Khiêm.. Ông trả lời: tùy tôi và sau khi tôi giải thích nhu cầu của t́nh h́nh.. Ông Khiêm cho biết : Đồng ư... Tôi gọi lại cho Vị Chỉ Huy Hành quân và nói: OK, thả các quả bom.’ Ông này..chấp nhận thi hành lệnh cũa tôi.. và các quả bom được thà ‘.



    Trần Lư

    (Tháng 3 năm 2009).
    Last edited by alamit; 24-02-2013 at 07:10 AM.

  9. #39
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771


    Người Lính Cuối Cùng Của Một Trung Đội Chiến Đoàn 52 Bộ Binh

    Trích từ tuyển tập “NHỮNG UẤT HẬN TRONG TRẬN CHIẾN MẤT NƯỚC 1975” của Phạm Huấn

    Trên Pḥng Tuyến Ngă Ba Dầu Giây

    “6 giờ chiều ngày 13-4-1975, sau 15 phút Cộng quân bắc loa kêu gọi đầu hàng tại Ngă Ba Dầu Giây, Long Khánh, Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Chiến đoàn 52 Bộ binh c̣n khoảng 50 tay súng, cùng bố trí sau những gốc cây cao su chờ giặc đến. Tôi liếc nh́n Trung đội 3 của ḿnh c̣n đúng 12 người. Những đạn đại pháo, súng cối đủ loại của Bắc quân rót vào. Tiếng lựu đạn nổ chát chúa, tiếng la thét hăi hùng, tiếng rên siết đau noun và rồi “tiếng hô sóng vỗ” của biển người. Tôi gục xuống trên xác một bạn đồng đội, người đầy máu..."

    Đó là một trận chiến tồi tệ. Một trận đánh bi thảm mà những người lính cuối cùng của Tiểu đoàn 1, Chiến đoàn 52, Sư đoàn 18 Bộ binh phải chấp nhận, gánh chịu. Chiến đấu không yểm trợ, không tản thương, không hy vọng, và trong trạng thái hoang mang, hỗn loạn đến thảm năo. Đứng lên một lần cuối cùng trực diện với quân thù, để rồi ngă xuống như những người khác, hay nếu có một may mắn nào đó, sẽ thoát được bàn tay tử thần ở trong họng súng của những kẻ xâm lăng, khát máu. Đời lính, chết là chuyện thường t́nh. Vấn đề chỉ là bao giờ đến lượt ḿnh? Trong chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến được coi là thảm khốc, dă man nhất của nhân loại từ 30 năm nay, đă có biết bao nhiêu những người lính của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, nếu được chết cách đây 2 năm, trước khi Hiệp định Ba Lê đầu hàng Cộng sản được kư kết, đó là một niềm hănh diện, chết cho Đất Nước, chết cho sự tự do của những người khác. Trong trận chiến cuối cùng năm 1975, với tôi, nếu bị chết, chỉ là một cái chết tức tưởi, oan khiên. Tôi tiếp tục cầm súng chiến đấu v́ cấp chỉ huy của tôi chưa bỏ chạy, và v́ không muốn thấy 12 người lính c̣n lại dưới quyền khinh thường. Do đó, bỗng nhiên tôi trở thành “người lính cuối cùng” của Trung đội 3, Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Chiến đoàn 52, Sư doàn 18 Bộ binh!

    Đó cũng là điều thành thật nhất tôi muốn được nói ra, để giải thích một cách lương thiện rằng tôi không phải là một Trung đội Trưởng anh hùng. Xin hăy dành từ ngữ anh hùng để vinh danh những chiến sĩ can đảm, xứng đáng khác của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.

    Đầu tháng 4, 1975, sau khi các mặt trận Quân đoàn I và Quân đoàn II lần lượt tan vỡ, chiến tuyến Long Khánh được thiết lập ngày 8-4-1975 để chận sức tiến của các Sư đoàn Cộng sản Bắc Việt trên đà đánh chiếm Sài G̣n. Chiến đoàn 52 Bộ binh được lệnh rời bỏ tuyến đầu của Quân đoàn III, vùng Núi Đốt, phía Nam Định Quán, dọc theo Quốc lộ 20, đường đi Đà Lạt, di chuyển về Ngă Ba Dầu Giây. Pḥng tuyến mới của Sư đoàn 18 Bộ binh bây giờ bắt đầu từ Dầu Giây, dọc theo Quốc lộ 1, khoảng 18 cây số chiều dài, và 7 cây số chiều rộng (trên Quốc lộ 20, đoạn Ngă Ba Dầu Giây).

    Trước khi có lệnh co rút về pḥng thủ tuyến Ngă Ba Dầu Giây, Chiến đoàn 52 với những Chi đội Thiết giáp tăng cường trong tuần lễ cuối cùng của tháng 3, 1975 lên thay thế vùng trách nhiệm của Trung đoàn 43 Bộ binh, trấn đóng phía Nam quận Định Quán, dọc theo Quốc lộ 20, “Tuyến đầu Tổ Quốc” trên đường lên Đà Lạt thơ mộng, thành phố của hoa anh đào và những chiếc “Alpha” mầu đỏ, trong những ngày cuối tháng 3, 1975, thật buồn thảm. Từng đoàn người lếch thếch, lũ lượt gồng gánh đi xuống. Ngược lên, kể cả những chiếc quân xa chạy vội vă, không có xe cộ nào vượt khỏi địa điểm đóng quân của Tiểu đoàn 1, Chiến đoàn 52 Bộ binh. Ban đêm từ Núi Đốt, đỉnh cao nhất, phía Tây Nam Định Quán khoảng 15 cây số, có thể quan sát thấy những xe tăng và những đoàn Molotova chở quân của Bắc Việt chạy khơi khơi trên Quốc lộ 20. Bộ Chỉ huy Hành quân Chiến đoàn 52 xin phản lực lên đánh, nhưng chỉ thấy máy bay quan sát gởi tới bay lượn một hồi rồi bay luôn.

    Lần không yểm cuối cùng cho tuyến Núi Đốt, Định Quán, 2 trái bom 500 cân Anh rớt trúng xuống Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 43, khiến gần 200 thương vong. Các Tiểu đoàn 2/43 và 1/52 là những Tiểu đoàn ưu tú, vũ băo nhất của Sư đoàn 18 Bộ binh. Những đơn vị đă nổi danh với những chiến thắng lẫy lừng tại Chiến khu D, và vùng Bến Cát trong năm 1974. Hai chiếc thiết giáp T-54 và PT-76 do Tiểu đoàn 1/52 “bắt sống” cách đây mấy tháng đă được lính Sư đoàn 18 chạy thẳng về Dinh Độc Lập, Sài G̣n để Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chiều chiều ... thưởng lăm. Chính các đơn vị này làm cho những người lính của Sư đoàn 18 ngẩng mặt cao lên, quên đi cái mặc cảm là lính của “Sư đoàn 10 số bù” trước đây, đa số là “lính ma, lính kiểng” và được chỉ huy bởi một ông Tướng tham nhũng nhất quân đội thời đó. Và “rửa mặt” cho Tướng Lê Minh Đảo, vị Tư lệnh cuối cùng và anh hùng của Sư đoàn 18 Bộ binh, dập tắt những lời tố cáo dựng đứng của những con buôn chính trị bất lương, đă nói rằng chức vụ này được mua với giá 20 triệu đồng, qua “đường giây Bà Thiệu”!

    Vị Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 2/43 là một sĩ quan thuộc binh chủng Mũ Nâu trước đây. Ông nổi tiếng với lối đánh ào ạt, thần tốc trong đêm tối. Ban ngày nhẩy vào vùng địch, nhưng chỉ là đánh “nhứ” để quan sát địa thế, và ước lượng t́nh h́nh, khả năng thật sự của địch, tối đến mới là đánh thật. Và đă đánh đêm là phải thắng. Đó cũng là quy luật của đơn vị này! Hai trái bom 500 cân Anh thả lầm xuống Tiểu đoàn 2/43 là một đại bất hạnh, một thiệt hại lớn lao chung cho tất cả các đơn vị thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh. Vị Tiểu đoàn Trưởng tài ba, anh hùng nếu c̣n sống, chắc chắn sẽ điên loạn; v́ ông thương yêu chiến hữu, lo cho những người lính nhiều khi c̣n hơn cả cho bản thân ông!

    Chiến đoàn 52 Bộ binh về tới tuyến mới, Ngă Ba Dầu Giây tối ngày 8-4-1975, th́ ngay sáng hôm sau, mặt trận Long Khánh đồng loạt bùng nổ cả 3 nơi: Xuân Lộc, Ngă Ba Dầu Giây và vùng giáp ranh tỉnh B́nh Tuy.

    Cả hai Sư đoàn 6 và 7 Chủ lực quân, các Trung đoàn Pháo thuộc Sư đoàn 75 Pháo binh Cộng sản Bắc Việt từ An Lộc kéo về, mở những cuộc tấn kích vào các vị trí của quân ta ngay giữa ban ngày. Chiến thuật của chúng tại mỗi nơi vẫn là tiền pháo, hậu xung và phục kích chận viện. Ngày đầu tiên, 10-3-1975, áp lực nặng nề nhất là Bắc Xuân Lộc và vùng núi Chứa Chan, nằm ở phía Đông Xuân Lộc chừng 12 cây số, gần với ranh giới tỉnh B́nh Tuy. Lực lượng bên ta, tại Xuân Lộc trong ngày đầu, ngoài những đơn vị Địa Phương quân của Tiểu khu Long Khánh, có Trung đoàn 43 và Trung đoàn 48 Bộ binh. Trung đoàn 48 Bộ binh đang nghỉ dưỡng quân tại Long B́nh, trước đó đă được lệnh tới tăng cường cho mặt trận Xuân Lộc, và pḥng tuyến phía Đông của thị trấn này.

    Cuộc chuyển quân thần tốc của Trung đoàn 48 Bộ binh cùng với tinh thần chiến đấu cao đọâ cuả đơn vị này, đă làm cho địch quân không thể tràn ngập được pḥng tuyến phía Đông Xuân Lộc, vùng núi Chứa Chan trong ngày đầu như chúng đă dự định.

    Tuyến pḥng thủ của Chiến đoàn 52 Bộ binh dọc theo Quốc lô 20, khoảng 6 cây số về phía Bắc, và 2 cây số về phiá Nam từ Ngă Ba Dầu Giây. Khoảng từ Dầu Giây về Xuân Lộc trên Quốc lộ 1 chừng 10 cây số vẫn c̣n là một trục lộ an toàn. Bộ Chỉ huy Chiến đoàn, các Pháo đội đại bác 155 ly va 105 ly, các Chi đoàn M-41 và Thiết vận xa M-113 trấn đóng tại ấp Nguyễn Thái Học, cách Dầu Giây 3 cây số về phía Bắc. Tiểu đoàn 3/52 đóng chốt trên núi Sóc Lu và những cao điểm khác, làm thành ṿng đai ngoài cùng. Pḥng tuyến của Tiểu đoàn 1/52 ở phía Nam Dầu Giây chừng hơn một cây số. Vùng đóng quân của Chiến đoàn 52 Bộ binh trong những ngày cuối, trừ Tiểu đoàn 3, có nhiệm vụ đóng tiền đồn, đóng chốt trên các đỉnh cao, phía Bắc và Đông Bắc của Dầu Giây, tất cả đều nằm trong những đồn điền cao su bát ngát.

    Chiều ngày 11-4-1975, Tiểu đoàn 2/52 được lệnh về tăng cường cho mặt trận Xuân Lộc. Vị sĩ quan Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 2/52, Đại úy Uùt, với kinh nghiệm chiến trường, và nổi tiếng bén nhậy trong những ước tính đối với sự việc có thể xẩy ra, nên ông đă để lại dọc đường 2 Đại đội “ngủ đêm” trong vườn cao su. Trận phục kích tuyệt vời của Tiểu đoàn 2/52 đêm 11-4-1975, tiêu diệt, đốt cháy cả một đoàn xe chở quân và chở đạn của Việt cộng tại ấùp Cái Răng cách Xuân Lộc 6 cây số về phiá Tây Bắc, đă là chiến thắng cuối cùng của Chiến đoàn 52, Sư đoàn 18 Bộ binh trước khi bị tan hàng!

  10. #40
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771


    Người Lính Cuối Cùng Của Một Trung Đội Chiến Đoàn 52 Bộ Binh
    P2


    NHỮNG NGƯỜI LÍNH BẤT HẠNH

    Đơn vị tôi thuộc Đại đội 2, Tiểu đoàn 1 đóng tại ấp Nguyễn Thái Học, tuyến ngoài cùng của Chiến đoàn, mặt phía Nam Ngă Ba Dầu Giây. Một đại đội, nhưng chỉ c̣n khoảng 50 người, quân số chưa được một nửa theo quân số lư thuyết. Sĩ quan có đúng 2 người, một Trung úy Đại đội Trưởng, và tôi, chỉ huy Trung đội 3 với 12 tay súng. Ngay đêm đầu tiên, sau những trận mưa pháo của Bắc quân, những đơn vị pháo binh của Sư đoàn 75 Pháo Cộng sản Bắc Việt từ An Lộc kéo về, “tuyến đầu” ở phía sau khu vực đóng quân của Chiến đoàn 52 Bộ binh đă co rút lại gần 1 cây số. Chúng tôi lui về pḥng thủ sát xă Dầu Giây và Quốc lộ 1. Vẫn là những rừng cao su dầy đặc.

    Tôi nh́n những chiến hữu trong đơn vị, rồi nghĩ đến ḿnh mà ḷng thấy sót sa, đau đớn. Trận chiến cuối cùng này đă vượt khỏi tầm tay của mọi người. Không c̣n tin tưởng, hy vọng, hay tính toán ǵ được nữa. Bị bao vây, nguy khốn, bị thương chờ chết, bắn hết đạn, hăy tự giải quyết lấy. Những người gục xuống, đó là cách giải quyết tốt đẹp nhất cho chính họ, và cả những người c̣n sống.

    Pháo cuả địch rót vào chiến tuyến của ta giờ này qua giờ khác, ngày cũng như đêm. Những đại đội, trung đội đóng chốt, đóng tiền đồn của Tiểu đoàn 3 trên núi Sóc Lu và những cao điểm phía Bắc Dầu Giây. Khi c̣n sử dụng được máy móc liên lạc, họ gọi kêu cứu liên tục. Các khẩu đại bác từ Bộ Chỉ huy Hành quâïn của Chiến đoàn bắn đi yểm trợ cầm chừng. Cứ điểm nào sắp bị tràn ngập, nghe tiếng phản lực xé không gian bay tới, hay tiếng gầm thét của chiến xa ào ạt đến, đó là cứu tinh, là hy vọng, là mong ước cho sự sống được kéo dài thêm của những người lính bộ binh khốn khổ, bất hạnh. Nhưng khi đă thấy một phản lực cơ nổ trên không trung, một chiến xa bốc cháy rồi th́ niềm hy vọng và cuộc sống của họ tiêu tan, dẫy chết.

    Ngày thứ tư của trận chiến Xuân Lộc, Long Khánh, tuyến ngoài cùng của Chiến đoàn 52 Bộ binh tại mặt trận phía Tây Xuân Lộc, cả Tiểu đoàn 3 với quân số hơn 300 người, đóng trên các cao điểm phía Bắc Dầu Giây chừng 5 cây số, không c̣n liên lạc, vết tích ǵ nữa. Họ đă chết thật tức tưởi, phi lư và trong uất hận, đau đớn.

    Trước khi vào lính, tôi không biết nhiều về đời sống quân đội. Cuộc đời quân ngũ của tôi cũng thật ngắn ngủi, 2 năm, 2 tháng, 20 ngày. Và tôi chỉ phục vụ tại một đơn vị, giữ một chức vụ duy nhất là Trung đội Trưởng Trung đội 3, Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Chiến đoàn 52 Bộ binh.

    Tôi bị động viên theo học khóa Sĩ quan Trừ bị 2-73, dù thời gian đó Hiệp định Paris đă được kư kết. Cũng trong thời gian này, tôi đă mất đi một người bạn thân nhất. Đó là Chuẩn úy Lương Đức Hậu, người bạn học từ thuở nhỏ, cùng khóa 2-73 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, và cùng một đơn vị khi ra trường.

    Cái chết của Lương Đức Hậu đă làm tôi day dứt, đau đớn nhiều ngày, và hận thù những người đang lănh đạo Đất Nước, chỉ huy cuộc chiến này. Tại sao lại bắt chúng tôi, những người không thích đời sống quân đội phải vào lính, để thay thế những người yêu vơ nghiệp, có khả năng chiến đấu, và cuộc đời họ đă gắn liền với trận mạc từ nhiều năm nay? Cuối năm 1974, Tiểu đoàn của tôi toàn những sĩ quan “non choẹt” mới ra trường như tôi, giữ các chức vụ Trung đội Trưởng, Đại đội Phó, trong khi đó quân đội cho giải ngũ một số sĩ quan và hạ sĩ quan có kinh nghiệm chiến đấu, với một lư do rất mơ hồ là “lư do kỷ luậtï”, khiến họ rất căm phẫn, bất măn.

    Tôi nhớ cuối tháng 8 năm 1974, Hậu và tôi được tham dự “một tṛ chơi lớn”. Sau hào quang chiến thắng của Sư đoàn 18 “bắt sống” được xe tăng của Việt cộng tại Bến Cát, vị Tư lệnh Quân đoàn lúc bấy giờ muốn chúng tôi “thừa thắng xông lên”. Oâng ra lệnh thẳng cho Đại tá Chiến đoàn Trưởng Chiến đoàn 52 thả Tiểu đoàn 1/52 vào giữa ḷng Chiến khu D, “lùng và diệt” một Trung đoàn Việt cộng. Rừng rậm và địa thế gai góc, hiểm trở, chỉ một đêm, chúng tôi bị địch pháo, thiệt hại hơn 100 người. Lương Đức Hậu, Trung đội Trưởng Trung đội 1 chết tan xác cùng với hàng chục người lính thuộc trung đội anh, cách tôi chừng 20 thước. Hậu chết khi tuổi lính mới được vừa 1 tuổi, và tuổi đời chưa tới 20.

    Cũng may trận đó vị Đại tá Chiến đoàn Trưởng, dù phải nghe lệnh của ông Tướng Tư lệnh Quân đoàn, nhưng biết trước chúng tôi sẽ “ôm đầu máu”, nên đă tập trung sẵn những thiết giáp M-48 và một tiểu đoàn khác vào giải vây khi trận chiến xẩy ra.

    Những cảm nghĩ chân thành của tôi, có thể không đúng với những người cùng lứa tuổi, đă chọn vơ nghiệp như cái nghề cao quư của ḿnh. Nhưng tôi tin rằng đó là tâm trạng chung của một số lớn sinh viên và học sinh, đă bị ném vào các quân trường, các trung tâm huấn luyện trong những năm sau cùng của chiến tranh Việt Nam.

    Tại một số quốc gia có chiến tranh, nhất là trong cuộc chiến đấu sinh tử với cộng sản để sống c̣n như Việt Nam Cộng Ḥa, luật Tổng Động Viên là một đạo luật cần thiết va hợp lư. Tuy nhiên, đạo luật này đă không đưọc thi hành một cách công bằng như ở các quốc gia khác. Những người lănh đạo Đất Nước, những tướng lănh giữ những chức vụ quan trọng tại Bộ Quốc Pḥng, Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Quân Huấn, Nha Động Viên, v.v... chính là những người đă dung dưỡng, bao che cho con cháu, người thân, tạo ra sự bất công nhiều nhất.

    Thật đau ḷng khi nh́n thấy những sự thật xẩy ra trước mắt. Trước năm 1954, khi người Pháp c̣n chỉ huy cuộc chiến tại Đông Dương, Tướng De Lattre được bổ nhiệm làm Tổng Tư lệnh Quân đội Viễn chinh Pháp, và các lực lượng Việt-Miên-Lào năm 1950, th́ đứa con trai duy nhất của ông là Trung uư Bernard De Lattre, đóng tại đền Non Nước, Ninh B́nh. Khi De Lattre sang Việt Nam, phương vị của Bernard vẫn không thay đổi, tiếp tục chiến đấu ngoài mặt trận, cho đến khi chết tại đó, vào tháng 5 năm 1951.

    Một tấm gương khác, khi Mỹ khởi sự ném bom Bắc Việt năm 1965, con trai của Đô đốc Tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương, Hải quân Thiếu tá McCain, là một trong những phi công Mỹ đầu tiên bị bắn rớt tại Bắc Việt.

    Trong khi đó, suốt cuộc chiến 21 năm sau cùng tại Việt Nam, chắc chắn không thể t́m thấy bất cứ con một ông Tướng nào chiến đấu ngoài mặt trận. Em trai bà Thủ tướng đến tuổi đi lính, ngay lập tức được “tuyển” để đi theo xách bóp cho bà chị. Tất nhiên sự tuyển dụng này không qua một thủ tục nào, v́ ông Thủ tướng c̣n là một đại tướng 4 sao, quyền uy coi như vô địch. Con những ông tướng khác th́ cứ gần đến tuổi động viên, đă bằng cách này, cách khác, được xuất ngoại du học. Chung qui chỉ có những sinh viên, học sinh con nhà nghèo, và không thế lực, sẽ bị thi hành lệnh Tổng Động Viên một cách rất kỹ lưỡng. Ngoài ra, v́ không có tiền bạc để chạy chọt, chắc chắn không bao giờ họ được phục vụ tại những “chỗ ngon, chỗ bở” ở Sài G̣n hay các tỉnh.

    Điều đáng buồn hơn nũa là trước khi được gọi nhập ngũ, và khi học ở các quân trường, các trung tâm huấn luyện quân sự, họ không nhận được các tài liệu, hoặc sự giải thích một cách minh bạch, hợp lư của các cán bộ trong quân đội, đối với nhiệm vụ, quyền lợi và thời gian thi hành lệnh động viên. Với cuộc chiến ác liệt trong những năm sau cùng, nhiều khi sau một trận giao tranh, một tiểu đoàn tác chiến, với quân số hành quân khoảng 400 người, có khi bị thiệt hại 1/3 hay nhiều hơn nữa. Và trong trường hợp ấy, ít nhất 50 phần trăm sĩ quan trung đội trưởng, cấp chuẩn úy, thiếu úy bị hy sinh.

    Một bức h́nh chụp 9 người khi nhập học khóa 2/73 sĩ quan trừ bị Thủ Đức, h́nh như chỉ có tôi và một người nữa sống sót.

    Thật t́nh tôi đă không hiểu nổi, tại sao những người làm việc tại Nha Động Viên thời gian đó đă tiếp tục gọi nhập ngũ chúng tôi sau khi Hiệp định Ba Lê 27-1-1973 được kư kết? Tôi không muốn nói đến cái “văn kiện đầu hàng” không có một chút xíu giá trị này, v́ bọn cộng sản không bao giờ tôn trọng những điều chúng cam kết, và không bao giờ chúng thay đổi chính sách sắt máu, xâm lăng miền Nam bằng vơ lực, nếu chưa nhuộm đỏ được miền Nam Việt Nam.

    Tôi chỉ muốn nói đến sự giải kết, bỏ chạy của người Mỹ khi kư hiệp định này với cộng sản Bắc Việt. V́ vấn đề tù binh Mỹ, chắc chắn Mỹ sẽ ép Việt Nam Cộng Ḥa trên nhiều lănh vực, và tôn trọng những mật ước đối với cộng sản Bắc Việt.

    Sau Hiệp định Ba Lê 1973, viện trợ quân sự bị Mỹ cắt xuống rất nhiều. Do đó, Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa phải giảm bớt quân số, chiến cụ, phi cơ, và đạn dược sử dụng bị hạn chế.

    Để đối phó với vấn đề giảm bớt quân số, những giới chức quân sự cao cấp đă hành động để có biện pháp như thế nào? Họ cho giải ngũ một số sĩ quan và hạ sĩ quan có kinh nghiệm chiến đấu, và cuộc đời họ hầu như đă gắn liền với trận mạc từ nhiều năm nay. Những người này bị cho giải ngũ, v́ lư do kỷ luật, và dù họ không muốn bị giải ngũ. Trong khi đó, chúng tôi, những sĩ quan “non choẹt”, ra trường mới được mấy tháng, nếu sống sót, được “đẩy” lên làm đại đội phó, hay đại đội trưởng, dù kinh nghiệm chỉ huy và chiến đấu chưa có bao nhiêu. Sự làm việc không có kế hoạch, chương tŕnh của những cơ quan phụ trách về động viên và giải ngũ đă gây sựï oán hận cho rất nhiều người, và hủy hoại tiềm năng của Quốc Gia, của quân đội không ít, trong 2 năm chót, trước khi chiến tranh chấm dứt.

    Ngày 8 tháng 4 năm 1975, khi trung đội của tôi lui về pḥng thủ tại xă Dầu Giây, với quân số chiến đấu vỏn vẹn c̣n 12 người, đi nằm tiền đồn, bố trí chờ địch đến, hay tránh pháo kích, chúng tôi đều dàn hàng ngang, sau những gốc cao su. Tôi cũng không c̣n khe khắt bắt anh em binh sĩ đào hố cá nhân như trước kia nữa. Bởi v́, những hố đó cũng sẽ chẳng ích lợi ǵ khi Việt cộng tràn đến. Lúc tôi trúng mảnh pháo của địch, người đầy máu té xuống, tôi đă nghe thấy tiếng rên la trong đêm tối của Trung sĩ Hoan, người Trung đội Phó gan dạ, anh hùng. Hoan người gốc Tầu vùng Chợ Lớn, lầm ĺ, ít nói, nhưng can đảm và tháo vát. Trận đánh tại Bến Cát cách đây mấy tháng, khi tôi chỉ huy 2 khinh binh ḅ lên đánh lựu đạn vào một cái hầm có Việt cộng trú ẩn, một trái B-40 của địch “thổi” trúng, “chém” đứt đôi 2 người lính, Hạ sĩ Lê Sen và Binh nhất Ḥa. Tôi thoát chết trong gang tấc, nhờ Hoan kẹp khẩu đại liên vào đùi, đứng bắn che cho tôi ḅ ngược trở lại.

    Hạ sĩ Sen và Binh nhất Ḥa đều là “những người lính bất hạnh” mà tôi thương mến họ. Tôi gọi Sen là “người lính gương mẫu” và Hoà là “đứa bất hiếu”. Sen là người tằn tiện, mực thước, tiền lương hàng tháng thường dành dụm gởi về cho vợ con. C̣n Ḥa ăn tiêu hoang phí, rượu chè, nhiều khi bà mẹ già chờ đầu tháng lên vùng hành quân xin tiền con, Ḥa không có, phải trốn mẹ, bị tôi rầy la hoài. Trận trước, Hạ sĩ Sen và Ḥa đă ra đi. Hôm nay đến lượt tôi và Hoan! Hoan có người vợ trẻ mới cưới từ 2 tháng trước, định “dù” về Chợ Lớn thăm vợ, nhưng thấy trung đội chỉ c̣n có ḿnh tôi là cấp chỉ huy, nên không nỡ bỏ đi. Tự nhiên tôi mong ước Hoan sẽ thoát được bàn tay tử thần đêm nay để về thăm vợ anh, dù đó là lần cuối cùng!

    Tôi tỉnh dậy sáng hôm sau, một sĩ quan đă cho biết tôi được cứu sống nhờ 3 người lính thay nhau d́u về, những người lính của Trung đội 1, trung đội do cố Thiếu úy Lương Đức Hậu chỉ huy trước đây. C̣n 12 quân nhân trong Trung đội 3 của tôi vĩnh viễn ra đi, không một người nào về được.

    Ngày 14-4-1975, pḥng tuyến của Chiến đoàn 52 Bộ binh co lại thêm nữa. Đồng bào từ Đà Lạt, Lâm Đồng, B́nh Tuy, Long Khánh... khắp nơi đổ tới Ngă Ba Dầu Giây để t́m đường về Sài G̣n. Việt cộng nă pháo vào khắp các vị trí của quân ta ngay từ sáng sớm. Đồng bào chiến nạn trở thành nạn nhân sau những trận mưa pháo của địch. Tiếng kêu khóc thảm thiết. Cảnh chết chóc, hỗn loạn dài hàng cây số trên Quốc lộ 20 và Quốc lộ 1 thật khủng khiếp, đau thương.

    Vị Tư lệnh mặt trận, Đại tá Chiến đoàn Trưởng Chiến đoàn 52 lồng lộn như một con hổ ở trong chuồng, ra lệnh tổ chức pḥng tuyến cuối cùng, không lùi thêm nữa. Nhưng cố gắng của ông và của những người lính Chiến đoàn 52 Bộ binh cũng chỉ giữ được pḥng tuyến này thêm một ngày nữa, rồi tan hàng.

    9 giờ đêm 15-4-1975, đại bác cộng quân bắn sập hầm chỉ huy của Đại tá Chiến đoàn Trưởng, các hệ thống truyền tin, liên lạc bị hủy diệt, ông thoát chết nhờ đang ở bên ngoài. Và lúc đó, ông mới quyết định cho mở đường máu rút lui về hướng Long B́nh. Tổng cộng chỉ có 200 người thoát về được đêm 15-4-1975. Khoảng 1500 quân thuộc Chiến đoàn 52 Bộ binh bị thiệt hại, bị đánh tan tác trong 6 ngày cuối cùng tại mặt trận Dầu Giây, Long Khánh.

    GHI CHÚ: Viết theo lời tường thuật của Thiếu Úy Phạm Văn Trung, Trung đội Trưởng Trung đội 3, Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Chiến đoàn 52, Sư đoàn 18 Bộ binh.


    Chút ít về Phạm Huấn:Trước năm 1975, kư giả Trung tá Phạm Huấn từng ở trong bộ biên tập tạp chí Diều Hâu và là chủ tịch Hội Phóng Viên Chiến Tranh Việt Nam. Ông cũng phục vụ trong tư cách thành viên Ban Liên Hiệp Quân Sự 4 Bên và 2 Bên, đặc trách về báo chí sau khi Hiệp Định Ba-lê được kư kết vào năm 1973, và sau thực hiện chuyến đi Hà Nội về vấn đề trao trả tù binh các bên. Trong cuốn hồi kư “Một Ngày ở Hà Nội”, ông viết về chuyến ra Hà Nội trong đợt giao trả tù binh giữa hai phía Hoa Kỳ và Bắc Việt vào năm 1973.

    Kư giả Phạm Huấn tốt nghiệp Khóa 13 Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt năm 1956 và Trường Đại Học Quân Sự năm 1963. Ông cũng từng theo học các trường quân sự tại Hoa Kỳ như Infantry School ở Fort Benning, Georgia năm 1958, Fort Gordon, Georgia năm 1962, và Special Warfare School tại Fort Braggs, North Carolina năm 1965. Bút kư Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 của Phạm Huấn là một trong những quyển sách được bán chạy nhất tại hải ngoại.

    Kư giả Phạm Huấn, một nhà báo quân đội kỳ cựu thời Việt Nam Cộng Ḥa, đă qua đời ngày 21 tháng 10 năm 2005 tại San José, California, USA, hưởng thọ 68 tuổi, để lại nhiều tiếc thương trong làng báo người Việt hải ngoại.

    Xem h́nh Thiếu uư Trung:
    http://www.sudoan18bobinh.com/#/nguo...g-2/4517946967

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 5
    Last Post: 16-02-2013, 12:19 PM
  2. Replies: 17
    Last Post: 30-05-2012, 03:58 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 16-04-2011, 03:34 PM
  4. Replies: 2
    Last Post: 14-01-2011, 05:29 AM
  5. Bữa Cơm Gây Quỹ Tương Trợ Thương-Phế Binh QLVNCH Tại Quê Nhà.
    By phamthangvu in forum Thông Báo Cộng Đồng
    Replies: 1
    Last Post: 18-10-2010, 07:41 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •