Page 1 of 3 123 LastLast
Results 1 to 10 of 23

Thread: Hồ sơ mật của CIA

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Hồ sơ mật của CIA

    Hồ sơ mật của CIA:
    1/. Giờ phút định mệnh


    LTS: Tiền Phong trích giới thiệu bộ tài liệu mật do Trung tâm Nghiên cứu T́nh báo Cục T́nh báo Trung ương Mỹ (CIA), giải mật hôm 17/3 vừa qua nói về cơn hấp hối của Chính quyền Sài G̣n và những nỗ lực tuyệt vọng của CIA và Đại sứ Mỹ khi cố ngăn chặn kết cục cay đắng cho nước Mỹ, trong những ngày cuối cùng tại Sài G̣n.


    Ngày 17/3 vừa qua (theo giờ Việt Nam) tại Texas, Trung tâm Nghiên cứu T́nh báo thuộc Cục T́nh báo T.Ư Mỹ (CIA) vừa giải mật thêm sáu phần của bộ tài liệu mật (có số hiệu C01268717, C01268718, C05260525, C05260526, C053603948 và C05303949 với tổng cộng 1.642 trang) cung cấp chi tiết việc nhúng tay vào các lĩnh vực của CIA tại Việt Nam, Campuchia và Lào suốt những năm từ 1960 đến 1975.

    Sử gia Thomas Ahern - cựu sĩ quan CIA trong 35 năm, về hưu năm 1989, từng có năm nhiệm kỳ hoạt động cho CIA tại châu Á, trong đó có Đông Dương và từng giữ chức Trưởng Văn pḥng CIA tại châu Phi, Trung Đông và châu Âu - là tác giả bộ tài liệu mật này.

    Ghi chú rằng “bộ tài liệu sáu phần này chỉ phân tích trên quan điểm cá nhân chứ không đại diện cho quan điểm tổng hành dinh CIA hay bất cứ bộ phận nào của cơ quan t́nh báo này” nhưng, trên cơ sở tài liệu gốc (lưu trữ tại tổng hành dinh CIA) về hoạt động của Văn pḥng CIA ở Sài G̣n trong cuộc chiến tranh Việt Nam và các cuộc phỏng vấn các nhân viên then chốt của CIA từng tham chiến ở Việt Nam, Thomas Ahern tái hiện khá trung thực và đưa ra những phân tích sắc sảo đối với hoạt động của CIA tại Nam Việt Nam.

    Bộ tài liệu được Giám đốc Trung tâm Việt Nam học (thuộc ĐH Công nghệ Texas) đánh giá thuộc loại “lâu nay người ta chỉ được thấy trong tiểu thuyết hoặc phim t́nh báo, song nó hoàn toàn là sự thật sau khi được giải mật”.

    Kỳ I:

    Nhà Trắng úp mở việc thảo luận về “t́nh huống đặc biệt cần thiết” với Liên Xô, đồng nghĩa với việc đánh tiếng cho ông Thiệu phải từ chức.


    Kissinger (phải) và Đại sứ Bunker tháng 4/1973 (Ảnh do Polgar chụp)

    Kissinger điện mật cho Martin nói rằng, Tổng Bí thư Liên Xô Leonid Brezhnev nhắn là “Hà Nội đă t́m được mục tiêu chính trị cuối cùng nên không quan tâm đến việc làm bẽ mặt Mỹ nữa”.

    Đến nước này th́ Thiệu phải ra đi thôi. Nhưng hai ngày 20 và 21/4 ở Sài G̣n lại rơi vào thứ Bảy và Chủ nhật nên Martin rất khổ để gặp được Thiệu.

    Ngày 21/4, tại Sài G̣n, Martin bắn tiếng cho Thiệu rằng nên từ chức, với cách nói như đây chỉ là theo ư riêng cá nhân của ông ta. Martin cho Thiệu xem bản đồ của CIA về t́nh h́nh rất bi đát của VNCH để thuyết phục Thiệu.

    Dàn xếp vừa xong, Martin lại nhận được mật điện rất lạ từ Kissinger, với ư muốn tŕ hoăn việc Thiệu từ chức. Nhưng ông Martin không chịu, lờ đi không thi hành.

    Sáng 21/4, Polgar lại tiếp xúc với Toth, đại tá quân đội Hungary ở Trại Davis (trong sân bay Tân Sơn Nhất) với yêu cầu làm rơ những điều kiện của phía Bắc Việt với Mỹ để cuộc đàm phán ngừng bắn được bắt đầu. Toth bảo Polgar, việc đó ông ta phải hỏi Đại sứ Hungary tại Hà Nội và cam đoan nếu có thông tin sẽ báo ngay cho Polgar.

    Chiều hôm đó, Toth báo lại với Polgar là Đại sứ Hungary không trả lời được, nhưng Polgar vẫn cho rằng việc Thiệu từ chức là điều kiện tiên quyết để Bắc Việt chấp nhận đàm phán ngừng bắn.

    Sau cuộc gặp Đại sứ Martin, Thiệu họp với các tướng lĩnh trong Dinh Độc Lập thông báo nội dung Martin đề cập và nói đại ư, nếu các tướng lĩnh coi Tổng thống là chướng ngại vật cho đàm phán ngừng bắn th́ ông sẽ từ chức.

    Chẳng ai phát biểu ǵ cả! Thiệu buộc phải tuyên bố từ chức để Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay. Chiều 21/4, Thiệu lên truyền h́nh thông báo quyết định từ chức, ḷng đầy cay đắng.

    Sáng 25/4, bốn ngày sau khi tiếp nhận chức Tổng thống, ông Trần Văn Hương gọi điện cho Martin phàn nàn rằng người ta nói ông chỉ điều hành một nội các Thiệu mà không có Thiệu. Ông Hương yêu cầu Đại sứ Martin dàn xếp để Thiệu ra nước ngoài. Sau đó ông Hương tới chỗ ông Thiệu khuyên ông sớm rời khỏi Sài G̣n v́ nếu không, cộng sản sẽ nói “tôi đang điều khiển một chính phủ Thiệu không có Thiệu”.

    Thiệu ngập ngừng nhưng nửa tiếng sau gọi điện cho Martin nói đồng ư và nhờ Martin thu xếp chuyến ra đi lặng lẽ khỏi Nam Việt Nam. Để hợp pháp hóa chuyến đi của Thiệu, ông Hương kư văn bản đề cử Thiệu làm đặc sứ VNCH sang Đài Bắc viếng Tưởng Giới Thạch vừa qua đời ngày 5/4. Martin một mặt nhờ Polgar bố trí, một mặt điều chiếc máy bay C-118 thuộc quyền sử dụng của ông từ Bangkok bay sang Sài G̣n trong đêm 25/4.

    Chiều muộn, Polgar và tướng Timmes đón Thiệu và đoàn tuỳ tùng ở nhà cựu Thủ tướng Khiêm (từng là Đại sứ VNCH tại Đài Bắc) nằm trong Bộ Tổng tham mưu. Polgar chuẩn bị bốn chiếc công xa màu đen của Ṭa Đại sứ Mỹ cắm cờ ngoại giao, chở mọi người ra sân bay Tân Sơn Nhất. Martin yêu cầu tất cả lái xe đều là người Mỹ, nên chiếc Mercedes cũ chở Thiệu do Frank Snepp, nhân viên phân tích t́nh báo của CIA Sài G̣n lái.

    Đoàn xe chạy đến chân cầu thang máy bay, Đại sứ Martin đợi sẵn ở đó để tiễn Thiệu. 14 người, tất cả là đàn ông lặng lẽ lên máy bay. Buồn thảm và cam chịu, Thiệu vẫn cố giữ phong độ, quay lại cám ơn Đại sứ Martin dàn xếp chuyến đi. Polgar điện về tổng hành dinh CIA. “Đúng 21 giờ 20 giờ Sài G̣n, cựu Tổng thống Thiệu, cựu Thủ tướng Khiêm di tản khỏi Nam Việt Nam”.

    Polgar cam đoan Thiệu không thể mang 16 tấn vàng (thời giá lúc đó tương đương 170 triệu dollar) sang Đài Bắc trong chuyến bay đó. Số vàng này thuộc ngân khố dự trữ quốc gia của VNCH và hồi cuối tháng 3/1975, Thiệu có ư định đem nó ra thế chấp để vay tiền từ Arập Xê út để mua vũ khí cho quân đội.

    Đại sứ Martin đă thu xếp giúp để chuyển vàng ra gửi ngân hàng nước ngoài cho an toàn. Ban đầu, Martin thu xếp để chuyển 16 tấn vàng này sang gửi ở ngân hàng Thụy Sĩ có tên Bank of International Settlement nhằm thế chấp cho khoản vay mua vũ khí từ châu Âu, nhưng tin này lộ ra nên không hăng hàng không thương mại nào nhận chở.

    Martin lại thu xếp chuyển nó sang gửi tại ngân hàng Dự trữ Liên bang New York. Nhưng trong khi Mỹ chưa kư được hợp đồng bảo hiểm cho chuyến bay chở số vàng này rời Nam Việt Nam th́ ông Thiệu đă ra đi.

    ---------------------------------------------------

    Kỳ II: Thất thủ cao nguyên, CIA đổ lỗi cho tướng lĩnh Sài G̣n




    Trùm CIA tại Sài G̣n Polgar (trái) vào Trại David (trong sân bay Tân Sơn Nhất) 5/1973

    Trong khi Stephens và cộng sự lên máy bay rời Plâyku th́ Polgar, Trưởng Văn pḥng CIA Sài G̣n, lại soi xét các báo cáo để cố xác minh chính xác ư định của quân đội VNCH đối với vùng cao nguyên.

    Liên lạc với tướng Đặng Văn Quang (cố vấn an ninh của Tổng thống Thiệu) và tướng Lê Nguyên Khang (phụ tá hành quân của Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH), Polgar cùng nhận được câu trả lời: không biết ǵ về quyết định triệt thoái quân đội VNCH khỏi cao nguyên.

    Tướng Khang nói với Polgar rằng vừa gặp tướng Cao Văn Viên buổi sáng, và tướng Viên nói rằng chẳng có vấn đề ǵ cả. Quyền trưởng Phái bộ Mỹ tại Sài G̣n, Wolfgang Lehmann, cũng nói với Polgar là vừa gặp Tổng thống Thiệu lúc 9 giờ sáng - có lẽ lúc ấy báo cáo của Stephens về cuộc họp ở Cam Ranh chưa đến tay Polgar - và ông Thiệu không nhắc ǵ đến chủ đề này.

    Do vậy Polgar suy đoán rằng ông Thiệu có thể đă định chuẩn y về nguyên tắc kế hoạch của tướng Phú là di tản khỏi Plâyku và Kontum để tập trung binh lực nhằm phản công giành lại Ban Mê Thuột. Với cách giải thích này th́ tướng Phú đă hiểu sai và hành động hấp tấp dẫn đến hậu quả thê thảm.

    Về việc Chính quyền Sài G̣n không hề có động tác thông báo cho Phái bộ Mỹ, Polgar cho rằng không thể xảy ra việc rất nhiều đầu mối của Phái bộ Mỹ biết mà lại cố t́nh lờ đi. Nhận định của Polgar là thực sự họ không hề biết điều mà tướng Phú đưa ra trong kế hoạch.

    Nhưng sau đó, ngày 17/3/1975, tướng Cao Văn Viên trả lời cơ quan tùy viên quân sự Mỹ một sự thật rằng việc triệt thoái quân khỏi cao nguyên đă được thực hiện.

    Trưởng cơ quan tùy viên quân sự Mỹ, tướng Homer Smith chất vấn tướng Viên v́ sao nói không có chuyện ǵ khi hai người gặp nhau tại cuộc họp ở Cam Ranh ngày 14/3, th́ ông Viên đáp: “Tôi không có sự lựa chọn nào khác, Tổng thống Thiệu trực tiếp ra lệnh và không cho để lộ quyết định”.

    Cuộc rút chạy khỏi Plâyku của quân lực VNCH buộc CIA tại Sài G̣n lo ngại một cuộc tấn công mở rộng về phía nam của quân đội Bắc Việt. Ngày 14/3, trong khi ông Thiệu họp kín với các tướng lĩnh tại Cam Ranh, Polgar đă đánh giá được chuyện Ban Mê Thuột thất thủ và áp lực của quân đội Bắc Việt đang tăng rất cao ở Tây Ninh.

    Polgar cho rằng cuộc khủng hoảng của VNCH lúc này là tồi tệ nhất kể từ năm 1965 (sau khi quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam), v́ thế ông ta báo cáo về tổng hành dinh CIA ở Langley rằng t́nh h́nh ác liệt hơn cả hồi mùa hè năm 1972.

    Sau đó, tướng Quang báo với Tổng thống Thiệu chuyện chưa từng xảy ra là “quân đội chán nản, thậm chí tuyệt vọng”, c̣n tướng Nguyễn Khắc B́nh, Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia, nhận định, việc mất cao nguyên là sự tàn phá tâm lư ghê gớm đối với binh sĩ VNCH.

    Sự sụp đổ cực kỳ nhanh chóng của quân lực VNCH không chỉ bởi sức mạnh tổng tấn công của quân đội Bắc Việt, mà c̣n v́ lư do VNCH bỏ ngỏ trận địa cho bộ đội Bắc Việt.

    Với việc cả Vùng chiến thuật 1 và 2 đều nằm trọn trong tay quân đội Bắc Việt, Văn pḥng CIA Sài G̣n gửi báo cáo về Mỹ và muốn tổng hành dinh CIA hiểu rằng, thảm họa này hoàn toàn là do ông Thiệu quyết định ngược đời và sự kém cỏi của các tướng lĩnh dưới quyền ông ta.

    Các tướng lĩnh vừa kém năng lực chỉ huy, vừa kém đạo đức, vô kỷ luật, ích kỷ.v.v... và .v.v...Thủ tướng Trần Thiện Khiêm liên đới trong chuyện này chỉ là việc phải t́m bằng được một kẻ giơ đầu chịu báng. Lúc này người Mỹ bắt đầu phàn nàn về VNCH như là “đứa con ngoài giá thú” của Quốc hội Mỹ, gây phiền toái và “phá gia chi tử”!

    C̣n Hà Nội có thể hài ḷng với những ǵ họ đạt được. Với t́nh trạng kiệt quệ của VNCH lúc này, liệu Hà Nội có c̣n quan tâm đến đàm phán với VNCH nữa không?

    Hà Nội giờ đây rất mạnh so với cuối năm 1972-khi B52 rải thảm bom xuống Hà Nội, c̣n Sài G̣n th́ rất yếu. “Chúng ta đă thoát khỏi giai đoạn của Kissinger và đi vào giai đoạn của Quốc hội Mỹ, nhưng chúng ta chẳng thể làm được ǵ nữa rồi” - CIA Sài G̣n viết trong báo cáo gửi Tổng hành dinh như thế.

    Ngày 19/3/1975, tổng hành dinh CIA thông báo cho Polgar về một cuộc họp nhiều bên với nội dung "cả Bộ Quốc pḥng và đại diện Chính phủ Mỹ đều đánh giá cao báo cáo của CIA Sài G̣n... hầu hết những nguồn tin về kế hoạch và hành động của miền Nam Việt Nam chỉ có trong sáu ngày gần nhất mà thôi”.

    Đại sứ Mỹ tại Sài G̣n, ông Graham Martin về Mỹ để chữa bệnh ngắn ngày, và việc giao dịch cấp cao tại Việt Nam với Tổng thống Thiệu được giao cho ông Lehmann, quyền Trưởng Phái bộ Mỹ tại Sài G̣n.

    Báo cáo đáp lại tổng hành dinh CIA, Polgar miêu tả Sứ quán Mỹ ở Sài G̣n lúc ấy cứ như “con tàu không người lái” suốt những ngày Đại sứ Martin vắng mặt. Lehmann th́ không chỉ đạo được. Số nhân viên cao cấp trong sứ quán th́ vừa lơ là vừa sai lầm trong việc nhận định các t́nh huống mới, cũng như hệ lụy của nó.

    Theo CIA Sài G̣n, các quan chức Sứ quan Mỹ chỉ đơn thuần “phản ánh thời tiết ở Washington”, họ vẫn chỉ bận tâm với nhóm đối lập không thân cộng sản chống Chính quyền Sài G̣n mà thôi. Nhưng điều đó không c̣n là vấn đề nữa.

    Tổng thống Thiệu không thích cách điều hành trong áp lực ngoại giao nữa. V́ thế, Sứ quán Mỹ chỉ nắm được chút ít thông tin giá trị từ quan chức cấp thấp hơn mà thôi.

    Cũng trong ngày 20/3, tổng hành dinh CIA có được thông tin về kế hoạch tổng quát của Thiệu, trong đó có việc khởi động một chương tŕnh di tản bằng đường hàng không sang các nước châu Á (đồng minh của Mỹ) trong t́nh huống phải tị nạn. Vậy CIA Sài G̣n có thể nắm được Thiệu, hoặc ít nhất là Khiêm (Thủ tướng Trần Thiện Khiêm) hoặc tướng Đặng Văn Quang không?

    Báo cáo trả lời của Polgar đề cập cuộc gặp giữa Lehmann với Tổng thống Thiệu cùng ngày 20/3, trong đó có lưu ư đến một chiến dịch tái chiếm mới và nói nó được vạch ra một cách sơ sài nên chưa sẵn sàng báo cho người Mỹ theo kênh chính thức.

    Polgar bèn viết trong báo cáo rằng, chúng tôi mong một điều may mắn đối với Chương tŕnh Di tản Châu Á, nhưng nói thẳng ra nó chẳng có ǵ khác biệt.

    Xe tăng của Bắc Việt không thể nào dừng bánh chỉ với sự cảm thông mà phải có súng chống tăng và máy bay mới chặn được xe tăng. Sai lầm của Mỹ là tuân thủ từng điều một của Hiệp định Paris, tức cản trở việc Bắc Việt dốc toàn lực về quân sự th́ lại sẽ bỏ lơi việc kiến tạo một nền độc lập không cộng sản ở Nam Việt Nam.

    Tổng hành dinh CIA xác nhận điều đó nhưng lại viện dẫn trách nhiệm sắp xếp chuyện này là của cấp cao hơn (ám chỉ ông Kissinger và Tổng thống Ford). Và bóng ma thảm họa sụp đổ của chính quyền VNCH ngày càng lộ rơ ở Sài G̣n sau cuộc tháo chạy thê thảm khỏi Plâyku và Kontum vào ngày 21/3.

    Sau đó Tổng thống Thiệu đổ tội thất thủ cao nguyên lên đầu tướng Phú, khiến ông này từ chức và uống thuốc độc tự tử vào ngày 29/4/1975.
    Last edited by alamit; 27-02-2013 at 09:56 AM.

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hồ sơ mật của CIA:
    1/. Giờ phút định mệnh

    Kỳ III: Thủ tiêu phóng viên AFP



    Ngày 10/3/1975, Bắc Việt pháo kích dữ dội vào Ban Mê Thuột và sau đó đặc công của họ xuất hiện trong thị xă. Cùng ngày, người phát ngôn Sứ quán Mỹ tại Sài G̣n xác nhận trong âu lo: Có 14 người Mỹ đang kẹt ở Ban Mê Thuột.

    Nhật báo Utica (New York, Mỹ) ngày 17/3/1975 tiết lộ nguyên nhân cái chết của nhà báo Pháp Paul Leandri

    Đêm 12/3/1975, Ban Mê Thuột thất thủ nhưng không được giới quân sự lộ tin. Tuy nhiên, ngay hôm sau, 13/3, hăng tin Pháp AFP loan tin về việc Ban Mê Thuột thất thủ, trong đó có đoạn:

    “Lúc cuộc tấn công vào Ban Mê Thuột mới bắt đầu, một số quan sát viên cho biết có sự hiện diện và gia tăng hoạt động của nhóm vũ trang người Thượng.

    Dù muốn dù không, trong khi chờ đợi các nhân chứng khác, chắc chắn là toán vũ trang đầu tiên vào thành phố Ban Mê Thuột là người Thượng.

    Đó là những toán vũ trang mở đường cho cộng sản địa phương. C̣n bộ đội Bắc Việt th́, theo nhân chứng này, thật sự không thấy có mặt”. Tác giả bản tin là nhà báo Paul Leandri, phó văn pḥng AFP tại Sài G̣n, và bản tin này trở thành bản tin định mệnh đối với Paul Leandri.

    Chính quyền Sài G̣n bực tức với bản tin v́ hai điểm: Một là, lực lượng tấn công Ban Mê Thuột là dân quân địa phương chứ không phải quân đội chính quy của Bắc Việt.

    Nếu là dân quân địa phương tấn công th́, về mặt chính trị, Sài G̣n có ǵ để mặc cả? Hai là, quân đội VNCH được Mỹ hậu thuẫn đông đảo và trang bị hiện đại đến tận răng lại dễ dàng bị dân quân địa phương đánh bại th́ thực nhục nhă.

    Chính quyền Thiệu phủ nhận tin này và buộc AFP phải nói ra xuất xứ nguồn tin. Paul Leandri chính thức trở thành nhà báo thân cộng sản và là cái gai cần phải nhổ trong mắt chính quyền quân sự Sài G̣n.

    Trưa 14/3/1975, trong khi tàn quân của các đơn vị quân đội VNCH tháo chạy khỏi Ban Mê Thuột và Tổng thống Thiệu phải bay ra Cam Ranh họp kín với các tướng lĩnh quân đội về tương lai của Vùng 2 chiến thuật (Cao nguyên), Tổng nha Cảnh sát Quốc gia cử một sĩ quan đến văn pḥng AFP tại Sài G̣n, gặp Paul Leandri để truy t́m nguồn của bản tin chết người của Paul Leandri được AFP loan đi toàn thế giới.

    Cuộc gặp không có kết quả nên, chiều đó, Tổng nha Cảnh sát tống đạt giấy mời Paul Leandri đến trụ sở Tổng nha để thẩm vấn. Dường như linh cảm thấy sự nguy hiểm, nhá nhem tối hôm ấy, Paul Leandri mới đến trụ sở Tổng nha bằng xe hơi của văn pḥng AFP Sài G̣n, do tài xế người Việt lái.

    Trước khi đi, Paul Leandri cũng cẩn thận thông báo cho Sứ quán Pháp tại Sài G̣n về cuộc thẩm vấn. Rốt cục, Paul Leandri bị hạ sát bằng mấy phát đạn súng ngắn trong trụ sở Tổng nha ngay tối hôm ấy. Người bắn chết Paul Leandri là đại tá Cảnh sát VNCH Phạm Kim Quy.

    Ngay sau đó, Tổng nha cảnh sát dựng hiện trường giả: đặt Paul Leandri lên ô tô của anh rồi cho xe đụng cổng ra vào của Tổng nha, cuối cùng dùng súng - đă được sử dụng - bắn vào xe của Paul Leandri từ phía sau như thể do ô tô của Paul Leandri vượt cổng nên lính gác đă nổ súng.

    Tổng nha Cảnh sát, trực tiếp là đại tá Phạm Kim Quy, ép ông Nguyễn Ngọc Bích, lúc đó là Tổng Giám đốc Việt Tấn xă (hăng thông tấn của chính quyền Sài G̣n) đăng tải bản tường tŕnh và mô tả lại cái chết của nhà báo Pháp Paul Leandri theo cách giải thích mà Tổng nha Cảnh sát soạn sẵn.

    Mô tả như sau:

    “Tại Sở Ngoại kiều (thuộc Tổng nha Cảnh sát Quốc gia), nhà báo Paul Leandri không trả lời về chi tiết bản tin trên mà chỉ la lối, đập phá đồ trong văn pḥng chánh sở. Viên Chánh sở mời Paul Leandri sang Sở Tư pháp nằm ngay trong khuôn viên Tổng nha, Paul Leandri lên xe hơi di chuyển nhưng, khi xuống xe, ông không chịu vào văn pḥng khối tư pháp mà chỉ đứng ngoài sân và tiếp tục lớn tiếng la lối.

    Bất thần, Paul Leandri nhảy lên xe hơi, dùng ch́a khóa riêng nổ máy, đạp hết ga phóng ra cổng. Nhân viên công vụ ngăn xe lại nhưng không được. Buộc ḷng họ phải nổ súng cảnh cáo nhưng xe vẫn lao đi. Tới cổng gác thứ ba, dù bị hô dừng lại, Paul Leandri vẫn phóng xe ra khỏi cổng. Lính gác buộc ḷng phải nổ súng bắn ba phát vào bánh xe và một viên đạn gây tử vong cho Paul Leandri…”.

    Theo tường tŕnh của Tổng nha Cảnh sát, Paul Leandri lẽ ra phải bị trúng đạn từ phía sau. Nhưng hăng tin Mỹ UPI sau đó dẫn nguồn tin ngoại giao lại loan tải rằng Paul Leandri bị bắn từ nhiều phía. Đặc biệt, hăng AFP sau đó đưa tin rằng, theo yêu cầu của vợ nhà báo Paul Leandri - bà Hansi- và Đại sứ Pháp tại Sài G̣n ông Jean Marie Merillon, bác sĩ Rouffi tiến hành giám định pháp y xác Paul Leandri vào ngày 16/3/1975, tại Bệnh viện Grall.

    Kết luận giám định cho thấy, Paul Leandri bị một viên đạn vào dưới tai trái, xuyên qua đầu từ trái sang phải khiến nạn nhân tử vong ngay; đồng thời miệng vết thương có nhiều vệt khói thuốc súng chứng tỏ nạn nhân bị bắn ở cự ly rất gần, không loại trừ khả năng bị kê súng vào đầu…

    Cái chết của nhà báo Pháp Paul Leandri gây nên làn sóng phẫn nộ của báo giới quốc tế thời gian đó, tạo ra sự bất măn càng dữ dội đối với chế độ Sài G̣n đang suy yếu.

    Tại Paris, chiều 18/3/1975, nghiệp đoàn kư giả toàn quốc Pháp tập hợp hơn 300 nhà báo tụ họp trước trụ sở của AFP rồi diễu hành yên lặng đến ṭa đại sứ VNCH. Nghiệp đoàn cũng kêu gọi các phân bộ địa phương tổ chức các cuộc biểu t́nh tương tự đến các ṭa tổng lănh sự VNCH ở Pháp.

    Nhiều hăng thông tấn uy tín trên thế giới chính thức đ̣i Chính quyền Sài G̣n giải thích về cái chết của Paul Leandri. Thậm chí Viện Báo chí Quốc tế (IPI) có công văn gửi thẳng Tổng thống Thiệu phản kháng hành động sát hại nhà báo của Tổng nha Cảnh sát Sài G̣n.

    Mọi chuyện chưa ngă ngũ th́ Plâyku, Kontum rồi Huế, Đà Nẵng, Nha Trang…dồn dập thất thủ và ngày cáo chung của Chính quyền Sài G̣n 30/4/1975 ập đến, khiến cho cái chết của Paul Leandri chẳng c̣n được ai quan tâm nữa.


    --------------------------------------

    kỳ IV: Nỗ lực giữ ḥa khí bất thành



    Trong báo cáo gửi CIA, Polgar chứng minh rằng quân đội VNCH suy sụp mạnh tinh thần và nhuệ khí. Theo Polgar, sự thụ động trong Sứ quán Mỹ tại Sài G̣n buộc ông ta phải ra tay chỉ huy, một cố gắng cuối cùng để đảo ngược t́nh thế đang dẫn Sài G̣n đến thảm họa sụp đổ.

    Tổng thống Ford họp bàn với (từ trái qua) Đại sứ Martin, Tướng Weyan và Ngoại trưởng Kissinger về giải pháp cho VNCH ngày 25/3/1975

    Ông ta đưa ra phương án với cố gắng cao nhất cùng các đối tác của chính quyền Sài G̣n cam kết làm “một nỗ lực tổ chức, tâm lư và chính trị“ may ra mới có thể cứu Sài G̣n ra khỏi t́nh thế lâm nguy.

    Ngày 19/3/1975, Polgar tổ chức tiệc tối mời các quan chức t́nh báo Sài G̣n, trong đó có tướng Quang (cố vấn an ninh của Thiệu) và tướng B́nh (Tư lệnh cảnh sát và t́nh báo).

    Hôm sau, Phó Văn pḥng CIA Sài G̣n LaGueux đưa cho tướng B́nh rồi sau đó chuyển cho tướng Quang phương án với những chỉ dẫn tường tận để Quang đệ tŕnh ngay lên Tổng thống Thiệu. Ngày 21/3, Polgar gặp Thủ tướng Khiêm để trao đổi về vấn đề an nguy của chính quyền Sài G̣n.

    Khiêm tỏ ra nghi ngờ kế hoạch của Polgar. Khiêm chỉ trích tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng, nhưng lại không hiểu rằng chính ông ta cũng là người có ảnh hưởng mạnh trên chính trường hơn hẳn ảnh hưởng của tướng Viên đối với quân đội.

    Polgar thảo luận với Khiêm về việc “đến thời điểm phải đưa ra khái niệm một chính phủ thống nhất quốc gia”, nhưng Polgar nhận ra Khiêm không c̣n nhạy bén với t́nh huống bi đát của chính quyền Sài G̣n.

    Ngày 22/3, Polgar lại gặp Khiêm, ông ta đi cùng với người phiên dịch nội dung những bức ảnh mà CIA Sài G̣n chụp về cảnh tháo chạy của quân đội VNCH, trên chuyến bay từ Plâyku về Phú Bổn.

    Trong khi CIA Sài G̣n phải làm cật lực để đưa tin tức đến cấp cao nhất ở Washington về t́nh trạng nghiêm trọng của Sài G̣n th́ Đại sứ Martin lại về Washington suốt thời gian khủng hoảng này. Polgar phản ánh t́nh h́nh này về tổng hành dinh CIA trong báo cáo ngày 23/3.

    Trước đó Polgar cũng chuyển một bức điện với nội dung cực kỳ thất vọng, trong đó ông ta ghi rơ: Bắc Việt đang thành công, c̣n VNCH sai lầm ngu ngốc trong khi Mỹ không có bất cứ phản ứng nào. “Hà Nội điều thêm năm sư đoàn dự trữ chiến lược của họ vào cuộc” - Polgar viết và kết luận với Ngoại trưởng Mỹ Kissingger và cố vấn an ninh quốc gia rằng “Tôi nh́n thấy Nam Việt Nam đang bị nhấn xuống bùn”.

    Chiều 23/3, tổng hành dinh CIA lựa chọn giải pháp t́nh thế là yêu cầu CIA Sài G̣n cung cấp thông tin về thiệt hại của quân đội VNCH và kế hoạch quân sự của Thiệu, để Washington có thể quyết định loại vũ khí viện trợ ngay cho VNCH. Tổng hành dinh CIA chấp nhận một thực tế là Đà Nẵng có thể thất thủ và phải bỏ ngỏ Tây Ninh, nhưng cần phải nắm được kế hoạch cuối cùng của Thiệu là sẽ tử thủ ở đâu.

    Trả lời trong báo cáo hôm sau, Polgar viết: “Giờ th́ t́nh h́nh của VNCH trở nên tồi tệ đến mức cùng kiệt mà hai tuần trước đó không ai nghĩ đến”. Hiện tuyến pḥng thủ ở Đà Nẵng và dải ven biển từ Qui Nhơn đến Phan Thiết c̣n giữ được nhưng, trong t́nh h́nh biến chuyển này, sẽ không thể giúp thay đổi “chiến lược phản công” của Thiệu, mà chỉ đơn giản là tia hy vọng giữ cho quân đội VNCH khả năng xoay xở trong trận chiến quyết định sau đó.

    Washington tương đối lạc quan nên tại thời điểm này nảy ra cuộc tranh căi với Polgar về kế hoạch di tản. Mặc dù quan điểm riêng của họ bị đảo ngược không lâu sau đó, tổng hành dinh CIA đă thông báo với Polgar vào ngày 25/3 rằng các cơ quan mà CIA tham khảo đều lo ngại có những dấu hiệu tác động xấu đến nền chính trị Mỹ nếu một cuộc di tản của các quan chức, binh lính VNCH và gia đ́nh họ xảy ra.

    Polgar trả lời bằng một bức điện viết trong tâm trạng đau đớn, chỉ rơ rằng Sài G̣n đang náo loạn v́ những người Mỹ di tản một cách không cần thiết từ các tỉnh cao nguyên và duyên hải dồn về.

    Những dấu hiệu chính trị -việc di tản của họ - khiến có thể phải tăng số lượng người di tản so với mức mà Quốc hội Mỹ đă đưa ra khi dấu hiệu xấu nhất của t́nh h́nh VNCH gia tăng. Tổng hành dinh CIA vội vàng thoái lui quyết định.

    Dù chưa dứt khoát gửi yêu cầu hành động đến Polgar, nhưng CIA đă phê duyệt danh sách những người di tản do Polgar đề xuất và cho Polgar quyền được điều tiết quá tŕnh di tản.

    Ngày 23/3 (giờ Việt Nam) Tổng thống Ford gửi cho ông Thiệu một lá thư- sự liên lạc trực tiếp cuối cùng của Tổng thống Mỹ với VNCH - dường như để nâng nhuệ khí cho ông Thiệu.

    Thư có đoạn: “ Sự quyết tâm của Hoa Kỳ để yểm trợ một đồng minh đang bị lực lượng Bắc Việt với vũ khí hùng mạnh tấn công, là một điều hết sức cần thiết...Riêng tôi, tôi chắc chắn rằng Hoa Kỳ sẽ đứng sau lưng VNCH trong giờ phút tối quan trọng này“.

    Ngày 25/3, ông Thiệu viết thư phúc đáp Tổng thống Ford, trong đó kêu gọi Mỹ viện trợ quân sự khẩn cấp (như đă cam kết) để cứu VNCH đang lâm nguy và thậm chí c̣n đề xuất Ford “ra lệnh cho B-52 can thiệp trong một thời gian ngắn nhưng mănh liệt xuống nơi tập trung quân và căn cứ hậu cần của Bắc Việt trong lănh thổ miền Nam Việt Nam”. Nhưng Ford không bao giờ trả lời Thiệu nữa!

    Một báo cáo khác từ CIA Sài G̣n nghi ngờ về sự tồn tại của một ư chí kháng cự nói chung của VNCH. Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng quân đội VNCH, được miêu tả như là người “có ảnh hưởng cá nhân bằng tinh thần chủ bại tràn ngập binh sĩ VNCH”.

    Cuộc chiến được yểm trợ bằng siêu pháo đài bay B-52 đánh bom rải thảm Bắc Việt đă qua, đằng nào cũng đă đến lúc kết thúc. “Nếu chúng tôi không bố trí lại lực lượng th́ chúng tôi sẽ chết. Nhưng bố trí lại quân đội, chúng tôi vẫn chết” - tướng Viên chua chát.

    Ngày 19/3, Quảng Trị thất thủ. Ngày 24/3, Tam Kỳ rơi vào tay quân đội Bắc Việt. Ngày 25/3, Huế thất thủ sau ba ngày bị quân đội Bắc Việt bao vây.

    Ở tầm chiến lược, Polgar vẫn thấy một khoảng trống quyền lực của cả Mỹ và VNCH lúc bấy giờ, nên kêu gọi một chuyến thị sát quân đội VNCH của tướng Fred Weyand, cựu Tư lệnh quân đội Mỹ tại VNCH (MACV), lúc này đang giữ chức Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ.

    Ngày 25/3, tổng hành dinh CIA thông báo cho Polgar rằng, tướng Weyand sẽ dẫn đầu một phái đoàn Mỹ, trong đó có hai quan chức CIA là Ted Shackley và George Carver, sang Sài G̣n thị sát. Tổng hành dinh CIA yêu cầu Polgar cung cấp những tin tức t́nh báo, chủ yếu liên quan đến việc làm thế nào để duy tŕ ư chí kháng cự cho VNCH.

    Báo cáo trả lời ngày 26/3, Polgar viết, tổn thất do bỏ ngỏ cao nguyên đặt ra câu hỏi về khả năng kháng cự hữu hiệu tại bất kỳ điểm nào khác của VNCH nếu bị tấn công, “VNCH, như chúng tôi biết, là không c̣n ǵ”.

    Polgar cũng nhận thấy viễn cảnh đặt dấu chấm hết của chính quyền VNCH sẽ đến sớm “trừ phi có một áp lực quân sự hoặc chính trị nào đó ngăn được Bắc Việt không chớp lấy thời cơ ấy”.

    Cùng ngày, tất cả người Mỹ có mặt ở Tây Ninh được di tản về Sài G̣n bằng trực thăng. Vậy là nỗ lực của Mỹ nhằm lấy lại nhuệ khí cho quân đội và chính quyền VNCH bất thành.
    Last edited by alamit; 27-02-2013 at 09:57 AM.

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hồ sơ mật của CIA:
    1/. Giờ phút định mệnh
    Kỳ V Đà Nẵng: Di tản trước, thất thủ sau



    Hơn ba giờ sáng 28/3/1975, phái đoàn thị sát Mỹ do tướng Fred Weyan (Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ và từng là tư lệnh cuối cùng của bộ chỉ huy quân viễn chinh Mỹ tại VNCH trước Hiệp định Paris) dẫn đầu đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.


    (Từ trái sang) Shackley cựu trùm CIA Sài Gòn, Đại sứ Bunker, Polgar ngày Polgar sang nhậm chức tháng 1/1972

    Đại sứ Mỹ Martin cũng đi chung chuyến bay này sau khi ông về Washington vận động hành lang ở Quốc hội Mỹ về khoản viện trợ quân sự khẩn cấp cho Sài Gòn bất thành (Martin sang Sài Gòn trễ hơn dự định vì ở Mỹ ông buộc phải phẫu thuật nha khoa).

    Trong phái đoàn của tướng Weyan, có Ted Shackley, trưởng phân ban Đông Á của CIA và là tiền nhiệm của Polgar tại CIA Sài Gòn. Ngay sáng 28/3, Shackley thực sự ngán ngẩm khi nhận được bản báo cáo của bộ phận CIA tại Vùng 1 Chiến thuật, trong đó mô tả sự hỗn loạn đến quá nhanh với Đà Nẵng vào ngày 27/3.

    Hàng rào an ninh sân bay Đà Nẵng bị đạp đổ, và chỉ 1/3 số người Mỹ trong danh sách phải di tản - dù phải giẫm đạp lên nhau - len chân vào chiếc máy bay Mỹ đầu tiên đến theo kế hoạch di tản trong ngày hôm đó. Số người còn lại trong danh sách phải di tản lên nốt chiếc máy bay thứ hai nhưng nó phải nằm ở cuối đường băng để đợi người ta chuyển hành lý bằng xe đẩy đến.

    Cùng hôm đó, Polgar gửi báo cáo này tới tướng Quang, kẻ hứa ngay lập tức đệ trình lên ông Thiệu. Polgar cũng cảnh báo Quang rằng không được phép tái diễn chuyện trước. Quang nói ông ta sẽ có hành động cần thiết ngay và thừa nhận thông tin của CIA Sài Gòn về sự náo loạn ở Đà Nẵng là “chi tiết và cập nhật hơn” so với báo cáo lên ông Thiệu qua kênh quân đội.

    Trước đó, ngày 22/3, Thiệu ra lệnh cho tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Vùng 1 Chiến thuật (đóng đại bản doanh tại Đà Nẵng) rút sư đoàn lính dù và sư đoàn thủy quân lục chiến về giữ Nha Trang. Trưởng rất thất vọng vì vừa lên truyền hình tuyên bố tử thủ Đà Nẵng, sau khi bỏ ngỏ Huế vào ngày 19/3.

    Polgar nhận thấy không cần thiết duy trì bộ phận CIA ở Đà Nẵng và thực sự không dám mạo hiểm nữa sau cuộc tháo chạy khỏi Plâyku, nên lệnh cho nhân viên ở đây lập tức di tản về Sài Gòn.

    Lúc 16 giờ 40 ngày 27/3, tướng Quang gọi lại cho Polgar thông báo rằng Tổng thống Thiệu muốn Tổng lãnh sự Mỹ ở Đà Nẵng Albert Francis điện nói chuyện với tướng Trưởng, Tư lệnh Vùng 1 Chiến thuật vì, để tiếp tục duy trì cầu hàng không Đà Nẵng - Sài Gòn, phải phụ thuộc vào khả năng vãn hồi trật tự ở sân bay của tướng Trưởng.

    Một giờ sau, Quang thông báo ông ta đã đích thân liên lạc với tướng Trưởng, nhưng vẫn đề nghị “dù sao thì ông Francis cũng phải trình bày với tướng Trưởng”.

    Sự kiêu ngạo này của quân đội VNCH gây khó chịu cho người Mỹ vì một quân đội có kỷ luật bây giờ đã tan rã thực sự. Một tình trạng hỗn độn, cướp bóc đến man rợ của binh lính tại Đà Nẵng.

    Sáng hôm sau (28/3), Tổng lãnh sự Mỹ quyết định hủy bỏ cầu hàng không từ đây về Sài Gòn. Cuộc di tản khỏi Đà Nẵng bằng đường biển là khả năng duy nhất.

    Lãnh sự quán Mỹ lên danh sách 3.000 người Việt mà Phái bộ Mỹ thấy có trách nhiệm phải đưa họ đi di tản. Tờ mờ sáng 28/3, người ta tập kết lên sà lan tại bến sông trước mặt tòa lãnh sự nhằm tránh sự chú ý của dòng người di tản không được Mỹ bảo trợ.

    Nhưng mẹo ấy không thành công và khoảng 1.000 người di tản tự do leo được lên boong tàu. Đám đông chen chúc xô đẩy khiến nhiều người bị rơi xuống nước và một số chết đuối.

    Chiếc sà lan quá tải ấy cuối cùng cũng được lai dắt ra biển trong khi nhiều người trong danh sách di tản của lãnh sự quán vẫn còn ở trên bờ.

    Bốn nhân viên CIA và vài nhân viên lãnh sự quán Mỹ tại Đà Nẵng chậm chân phải di tản vào rạng sáng hôm sau bằng chiếc tàu nhỏ mang tên Osceola của một người Úc, lênh đênh mất hai đêm, nhưng trước khi lên được tàu khu trục của Hạm đội 7, họ suýt mất mạng vì hải tặc.

    Ngày 29/3, quân đội Bắc Việt mở đầu trận đánh Đà Nẵng với những trận giao tranh nhỏ, nhưng tướng Trưởng vội lên tàu HQ 404 cùng một lữ đoàn thủy quân lục chiến tháo chạy về Sài Gòn.

    Ngày 30/3, Đà Nẵng thất thủ vào tay quân đội Bắc Việt, giáng một đòn chí mạng vào tâm lý binh sĩ VNCH và nhanh chóng đẩy chính quyền Sài Gòn vào cơn hấp hối.

    Trước đó ba ngày, Shackley điện báo cáo việc Bắc Việt đang rất lợi thế ở Đà Nẵng cho Đại sứ Martin ngay trên chiếc máy bay phái đoàn thị sát của tướng Weyan. Nhưng ông Martin không thể hoặc không muốn nhận tin xấu về thảm họa này, nên tướng Weyan lệnh cho Shackley ngừng truyền tin.

    Một ngày trước khi Đà Nẵng thất thủ, Polgar đưa Vince Daly nhân viên CIA ở bộ phận Đà Nẵng đã di tản về Sài Gòn đến gặp Đại sứ Martin. Nhưng Martin không thừa nhận đánh giá của Daly rằng đang có thảm họa, và nói ông ta muốn bay ra Đà Nẵng để tự mình xác minh thực tế.

    Chỉ duy nhất một lý do thuyết phục được Martin ở lại Sài Gòn là ông không thể đáp xuống sân bay mà quân đội Bắc Việt đã kiểm soát.

    Trên thực tế, lực lượng hùng hậu của Bắc Việt tiếp tục tấn công như vũ bão vào dải duyên hải miền Trung. Chỉ hai ngày sau khi Đà Nẵng thất thủ, họ đã bao vây Nha Trang, nơi đặt tổng hành dinh Vùng 2 Chiến thuật, Tổng lãnh sự quán Mỹ, lại rất gần quân cảng Cam Ranh.

    Lúc 10 giờ 30 sáng 1/4, khi nghe tỉnh trưởng Khánh Hòa thông báo qua điện thoại “đã mất quyền kiểm soát thành phố này”, Tổng lãnh sự Mỹ ngay lập tức lên trực thăng di tản. Bộ phận CIA Nha Trang đóng liên lạc vào lúc 11 giờ 17, và Robert Chin, trưởng bộ phận là nhân viên CIA cuối cùng ở đây bay về Sài Gòn ngay trưa hôm đó.

    Tổng lãnh sự thực hiện kế hoạch di tản cho nhân viên địa phương bằng đường biển ngay hôm ấy. Nhưng việc khởi hành tàu của nhân viên người Mỹ làm hỏng kế hoạch này, chỉ một nửa nhân viên được di tản đến Sài Gòn.

    Cùng trong ngày 1/4 Giám đốc CIA Colby gửi mật lệnh giao cho Polgar toàn quyền hành động trong việc di tản những nhân viên người Việt và gia đình họ - theo danh sách mà Polgar đề nghị một tuần trước đó nhưng bị phân ban Đông Á của CIA từ chối.

    Khi Shackley và Polgar gặp Thiệu vào ngày 2/4, Thiệu dường như nghẹn ngào, nước mắt chỉ chực rơi. Shackley nhận ra điều mà dân chúng gọi là “làn sóng thất vọng và lo lắng” bao trùm toàn bộ quân đội VNCH khi cả Vùng 1 và Vùng 2 Chiến thuật đều thất thủ. Tinh thần và nhuệ khí của VNCH xuống đến đáy, cảm giác bị Mỹ bỏ rơi lớn dần trong mọi giai tầng xã hội.

    Tổng thống Thiệu không còn đủ bình tĩnh để nhìn thấy cơ thể chính trị mục ruỗng của VNCH, còn Thủ tướng Khiêm đang mải theo đuổi toan tính vô ích là tái cấu trúc nội các mới.

    Thực ra, Nam Việt Nam lúc ấy chỉ còn có một điểm đồng thuận là: yêu cầu Mỹ mang B-52 rải thảm bom xuống quân đội Bắc Việt đang có mặt ở Nam Việt Nam- một yêu cầu không tưởng! Thiệu lúc đó trong tay chỉ có một kế hoạch rất mập mờ về chiến lược phản công và tử thủ, cũng như nguồn lực tổ chức thực hiện.

    Tại cuộc gặp với CIA ngày 2/4, Thiệu có vẻ không chú ý gì đến sự di chuyển của những sư đoàn quân đội Bắc Việt mà Polgar mô tả với ông ta. Thiệu tỏ ra hiểu vị thế hiện tại của quân đội VNCH, việc báo động về những hàm ý chính trị đã đe dọa nhuệ khí chung.

    Tuy nhiên, Thiệu cho là Shackley đánh giá quá mức thời gian đang có để giải quyết các vấn đề của ông ta. Các bức điện của Shackley gửi tổng hành dinh CIA ngày 31/3 và 2/4 đều đặt ra câu hỏi: Dự định của Bắc Việt tới đây là gì?

    Và ông ta nhìn thấy hai khả năng: Thứ nhất, Hà Nội khai thác lợi thế quân sự để nhấn một chiến thắng tức thời trên chiến trường; Thứ hai, một giải pháp chính trị với một chính phủ liên hiệp mà chính quyền Sài Gòn phải “đầu hàng có điều kiện”.

    Cả hai dự đoán này của Shackley đều không được Hà Nội lựa chọn, như sau này Shackley nhớ lại, phái đoàn thị sát của tướng Weyan hóa ra chỉ là cách đóng kịch giữa Washington và Phái bộ Mỹ ở Sài Gòn.

    Tướng Weyan và cộng sự đều tin chắc một điều rằng Hà Nội sẽ gây sức ép bằng chiến thắng quân sự và không có gì khiến họ phải nghĩ khác. Mặc dù vậy, Đại sứ Martin và Polgar lại vẫn tiếp tục tìm kiếm các dấu hiệu tin cậy về mối quan tâm của Bắc Việt đối với một chính phủ liên hiệp ở Nam Việt Nam.

    Cuối cùng, tướng Weyand vẫn báo cáo với dự đoán rằng nếu Mỹ không viện trợ quân sự khẩn cấp cho VNCH và không cam kết hỗ trợ trực tiếp bằng không quân thì Sài Gòn sẽ sụp đổ chỉ sau một đợt tấn công của quân đội Bắc Việt.

    Ngày 2/4, tổng hành dinh CIA quyết định thay đổi 180 độ kế hoạch di tản, thông báo cho Polgar rằng Mỹ sẽ nhanh chóng yêu cầu di tản toàn bộ gia đình nhân viên và một số lượng nhân viên người Việt trong trường hợp Sài Gòn sụp đổ.

    CIA ước tính lượng người phải di tản lên tới một triệu người. Phúc đáp CIA, Polgar và George Carver đề nghị Mỹ nên thận trọng trong kế hoạch di tản trong lúc tình trạng ở VNCH “di tản hỗn độn như mất trí”.

    Di tản là vấn đề nghiêm trọng, nhưng “những bước khờ khạo sẽ càng đẩy nhanh cuộc khủng hoảng ở VNCH xuống đáy”. Bởi nếu đưa một sư đoàn không quân và một sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ vào Nam Việt Nam để tổ chức di tản chỉ người Mỹ thì sợ quân đội VNCH quay súng bắn ngay vào người Mỹ. Nhưng Giám đốc CIA Colby chỉ trả lời cụt lủn rằng: “Tôi sẽ bàn bạc với Trợ lý của Kissinger là ông Philip Habib”.


    ------------------------------------

    Kỳ VI: Mật tŕnh của tướng Weyand



    TP - Ngày 28/3/1975, Đại tướng Fred Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ đến Sài G̣n để thị sát t́nh h́nh VNCH theo yêu cầu của Tổng thống Mỹ Ford.

    Trở về Mỹ, ông làm một bản phúc tŕnh đặc biệt lên Tổng thống Ford về t́nh h́nh thực tế của VNCH kèm theo những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy cho chính quyền Sài G̣n.

    Trong một bản phúc tŕnh của tướng Weyand lên Tổng thống Ford



    Sau khi thị sát chiến trường Nam Việt Nam và họp với chính quyền VNCH, tướng Weyand soạn một bản báo cáo dài 14 trang để phúc tŕnh cho Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ Schlesinger.

    Ngày 5/4/1975 (tức ngày 6/4 giờ Sài G̣n), đang trên đường bay về Washington, tướng Weyand được lệnh đổi hướng bay thẳng về Palm Springs (bang Nevada) để phúc tŕnh ngay về t́nh h́nh VNCH cho Tổng thống Ford và Ngoại trưởng Kissinger đang đợi tại đó.

    Nghe thuyết tŕnh của Weyand xong, Kissinger đi họp báo. Trên đường tới Trung tâm báo chí, Kissinger buột miệng: “Sao chúng không chết phứt cho rồi? Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống dai dẳng”! (nguyên văn tiếng Anh: Why don’t these people die fast? The worst thing that could happen would be for them to linger on”).

    Trong tóm lược của bản phúc tŕnh về t́nh h́nh Nam Việt Nam và đề nghị những biện pháp hỗ trợ khẩn cấp của Nhà Trắng cho chính quyền Thiệu, tướng Weyand viết:

    Tướng Weyand từng có mặt ở chiến trường Nam Việt Nam với nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh sư đoàn 25 Mỹ, Tư lệnh Bộ Chỉ huy Tiền phương Lực lượng Đặc nhiệm, Tư lệnh phó Bộ Tư lệnh Quân Viễn chinh Mỹ tại VNCH và, sau cùng, là Tư lệnh Bộ Chỉ huy Yểm trợ Mỹ (MACV) tại Việt Nam trước khi về Mỹ sau khi Hiệp định Paris được kư kết (27/1/1973). Tướng Weyand thăm và t́m hiểu t́nh h́nh VNCH từ ngày 28/3 đến 4/4/1975.
    “T́nh h́nh quân sự hiện nay đang nguy ngập… Chính phủ VNCH đang cận kề một thất bại quân sự hoàn toàn. Tuy nhiên, VNCH đang lên kế hoạch tiếp tục chống giữ với những nguồn lực c̣n lại của họ và, nếu có được một thời gian để lấy lại sức, họ sẽ xây dựng lại được khả năng của họ tương xứng với sự hỗ trợ vật chất của Mỹ. Tôi tin rằng chúng ta thiếu họ món nợ hỗ trợ đó… Chúng ta đă giơ tay ra cho Nam Việt Nam và họ đă nắm lấy. Giờ đây, họ đang cần đến bàn tay giúp đỡ ấy nhiều hơn bao giờ hết…

    “Uy tín của Mỹ, trên cương vị là một nước đồng minh của VNCH, đang bị thử thách tại Nam Việt Nam. Để giữ được uy tín đó, ta phải làm một nỗ lực tối đa để hỗ trợ cho miền Nam Việt Nam trong lúc này. (Bản phân tích chi tiết hơn được tŕnh bày trong phúc tŕnh đính kèm). Kính tŕnh. Fred C. Weyand”.

    Mỹ bỏ rơi Thiệu?

    Mở đầu bản phúc tŕnh chi tiết, tướng Weyand viết: “Tôi đă hoàn tất công việc, đă phân tích những dự tính của chính quyền VNCH để có thể phản công Bắc Việt, đă cam kết với Tổng thống Thiệu về sự hậu thuẫn kiên tŕ của Tổng thống trong cơn khủng hoảng này, và đă xem xét cân nhắc các lựa chọn và các cách thức hành động mà Mỹ có thể thực hiện để trợ giúp VNCH.

    T́nh h́nh quân sự của VNCH đang lâm vào t́nh trạng nguy ngập, và sự tồn tại của Nam Việt Nam là rất mong manh. Chính quyền VNCH đang bên bờ vực của một thất bại quân sự hoàn toàn. Tuy nhiên, VNCH dự tính tiếp tục chống cự với phương tiện có trong tay và, nếu có thời gian lấy lại sức, có thể tái tạo khả năng chiến đấu tùy thuộc vào sự viện trợ khẩn cấp về trang bị vũ khí, khí tài của phía Mỹ. Tôi cam đoan là chúng ta có bổn phận phải cống hiến sự hỗ trợ này cho họ”.

    Và tướng Weyand đề xuất, “mức độ hỗ trợ hiện tại của Mỹ chắc chắn dẫn đến sự thất bại của chính quyền VNCH. Nếu muốn đạt một cơ hội thành công, cần có thêm ngay lập tức 722 triệu dollar để giúp VNCH có được thế pḥng thủ tối thiểu chống lại sự tấn công của quân đội Bắc Việt. Sự viện trợ bổ sung này của Mỹ là phù hợp với tinh thần của Hiệp định Paris.

    Việc sử dụng hỏa lực của không quân Mỹ để tăng cường khả năng cho Nam Việt Nam chống lại cuộc tấn công của Bắc Việt sẽ đem lại sự hỗ trợ trên cả hai b́nh diện quân sự và tâm lư đối với VNCH, đồng thời sẽ mang lại một thế ḥa hoăn cần thiết trên chiến trường”.

    Đặc biệt, về các lựa chọn hành động của Mỹ, tướng Weyand phân tích: “Điều mà Mỹ làm hoặc có thể không làm trong những ngày tới đều sẽ định đoạt những biến cố sẽ xảy ra trong vài tuần tới. Một ḿnh Mỹ không thể cứu văn được Nam Việt Nam nhưng Mỹ cũng có thể, cho dù có vô t́nh, đẩy VNCH xuống hố chôn”.

    Weyand đề nghị cụ thể với Nhà Trắng hai loại hành động. Những hành động ngắn hạn- một phần về mặt vật chất nhưng chủ yếu là về mặt tâm lư - cần thiết để nâng tinh thần Nam Việt Nam và, nếu có thể, ép được Bắc Việt tạm ngừng tấn công.

    Điều này chỉ mua được thời giờ, nhưng, trong t́nh thế hiện tại, thời giờ là điều tối cần. Những hành động dài hạn - về mặt vật chất nhưng lại có khía cạnh tâm lư mạnh mẽ- nếu muốn VNCH có hy vọng tồn tại hoặc thương thảo một hiệp ước khác thay v́ đầu hàng.

    Điều kiện tiên quyết và cấp bách theo tướng Weyand là Nam Việt Nam phải cảm thấy được Mỹ ủng hộ. “Cảm giác này rất quan trọng về mọi mặt. Cảm giác người Mỹ giảm thiểu ủng hộ hay nói cách khác, bỏ rơi Nam Việt Nam, sẽ khuyến khích Bắc Việt tiếp tục tấn công. Chính cảm giác này khiến quân đội VNCH bắt đầu triệt thoái một cách lộ liễu tại các tỉnh phía bắc.

    Cảm giác này là do, ngay sau khi kư kết Hiệp định Paris, 1,6 tỷ dollar được đệ tŕnh Quốc hội về viện trợ cho Nam Việt Nam cho năm tài khóa 1974 chỉ được giải ngân có 1 tỷ 126 triệu dollar (bằng 70 phần trăm yêu cầu); 500 triệu dollar c̣n lại bị Quốc hội khước từ.

    Đối với tài khóa năm 1975 này, khoản viện trợ 1,6 tỷ dollar được đề nghị để duy tŕ khả năng tự vệ của quân đội VNCH, nhưng cũng chỉ có 700 triệu dollar được chấp thuận (chỉ bằng 44 phần trăm yêu cầu). Những hành động này đă làm phát sinh khủng hoảng ḷng tin vào Mỹ của VNCH”-Weyand viết.

    Ư định mang B-52 vào lại Nam Việt Nam


    Tướng Weyand - Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ

    Tướng Weyand kết luận, điều then chốt cho sự tồn tại sống c̣n của VNCH nằm trong khả năng của chính quyền Thiệu có ổn định được t́nh thế, và đem các nguồn lực quân sự chống lại sức tấn công của Bắc Việt hay không.

    Song khả năng này lại tùy thuộc phần lớn vào khả năng thuyết phục giới quân sự và dân sự là chưa đến nỗi mất tất cả, và c̣n có thể chặn đứng được Bắc Việt.

    “Tuy đó là trách nhiệm chính của chính phủ VNCH, các hành động của Mỹ lại mang tính quyết định trong việc lấy lại niềm tin. Hành động mà Mỹ có thể làm để gây nên ấn tượng tức khắc cho cuộc chiến Việt Nam là sử dụng không quân Mỹ để chặn đứng thế tấn công hiện tại của Bắc Việt.

    Cho dù chỉ giới hạn trên phần đất Nam Việt Nam và chỉ thực hiện trong một thời gian giới hạn, sự tấn công này sẽ gây tổn thất lớn cho quân đội Bắc Việt và sẽ tạo một chấn động về mặt tâm lư đối với họ. Cuộc không kích này cũng sẽ khiến Hà Nội phải suy nghĩ lại.

    Tướng lĩnh quân đội VNCH mọi cấp bậc đều lặp đi lặp lại mức độ quan trọng của việc Mỹ cho sử dụng pháo đài bay B-52 phản công chống lại quân đội Bắc Việt, và quan điểm này hợp lư về mặt quân sự. Tôi ư thức được các khó khăn về mặt pháp lư và chính trị gây nên bởi việc thi hành biện pháp không kích này”-Tướng Weyand đề xuất với Tổng thống Ford.

    Về kế hoạch di tản, tướng Weyand đề nghị, do có những biến chuyển cực kỳ nhanh chóng từ các biến cố ở Nam Việt Nam, Tổng thống cần phải quan tâm tới một vấn đề khác. Dựa trên các lư do thận trọng, Mỹ phải lập tức có ngay một kế hoạch di tản đại qui mô cho 6.000 người Mỹ đang có mặt ở Nam Việt Nam và hàng vạn người Việt trong chính quyền Thiệu mà chúng ta có bổn phận phải bảo vệ.

    “Bài học tại Đà Nẵng cho thấy việc di tản này đ̣i hỏi tối thiểu một sư đoàn lính Mỹ được yểm trợ bởi không quân tác chiến để đập tan pháo binh và hỏa lực pḥng không của Bắc Việt.

    Khi t́nh thế đ̣i hỏi, một lời xác định công khai về chính sách này phải được công bố và Bắc Việt phải được cảnh cáo một cách rơ ràng về ư định của Mỹ sẽ dùng tới vũ lực để đảm bảo tính mạng cho số người (cả Mỹ và Việt) được di tản.

    Nhà Trắng phải được Quốc hội Mỹ cho toàn quyền sử dụng các h́nh phạt quân sự chống lại Bắc Việt nếu họ cản trở công việc di tản. Thế giới vẫn đánh giá sự trung tín của Mỹ với tư cách là đồng minh của VNCH. Nhưng để duy tŕ sự tin tưởng đó, chúng ta phải thực hiện một nỗ lực tối đa trong việc hỗ trợ cho Nam Việt Nam ngay” - Tướng Weyand viết.

    Nhưng ở thời điểm đó, ông Ford khó mà làm được những điều tướng Weyand đề xuất, ngoại trừ kế hoạch di tản. Ông ta đang phải sửa soạn một chiến dịch để ra tranh cử chức tổng thống vào năm 1976, và các cố vấn của ông Ford tại Nhà Trắng đều khuyên ông: “Hăy đưa nước Mỹ ra khỏi cuộc chiến Việt Nam”.

    Ông Ford chắc phải nghe cố vấn v́ có lẽ ông ta mặc cảm là chưa hề được dân chúng Mỹ bầu lên vị trí người đứng đầu cơ quan hành pháp Mỹ - chức Tổng thống.

    Từ một Hạ nghị sĩ, ông Ford được Nixon cất nhắc lên làm Phó Tổng thống tháng 12/1973, sau khi Phó Tổng thống Agnew từ chức.Sau đó, ông nhảy vọt lên chức Tổng thống khi Nixon phải ra đi do vụ scandal Watergate vào tháng 9/1974.
    Last edited by alamit; 27-02-2013 at 09:58 AM.

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hồ sơ mật của CIA:
    1/. Giờ phút định mệnh
    Kỳ VII: Câu trả lời từ Tây Ninh


    Ngày 2/4/1975, Tổng thống Thiệu miêu tả kế hoạch của ḿnh với Trưởng phân ban Đông Á của CIA Shackley và trùm CIA Sài G̣n Polgar về những nỗ lực tử thủ và ổn định t́nh thế cho VNCH, song nó đă bị "nhốt vào rọ" và bị tŕ hoăn thực hiện bởi các chính trị gia đầy đố kỵ của Nam Việt Nam.


    Bản đồ của CIA về hướng tấn công của quân giải phóng quanh Sài G̣n, tháng 4/1975

    CIA không ủng hộ đảo chính

    Thiệu lập bộ tư lệnh hành quân lưu động nằm trong Bộ Tổng tham mưu của tướng Cao Văn Viên. Nhưng các tướng lĩnh thất trận ở cao nguyên và Huế như Phạm Văn Phú, Lâm Quang Thi, Hồ Văn Kỳ Thoại, Nguyễn Văn Khánh… lại bị phạt giam lỏng tại đây để viết kiểm điểm.

    C̣n các chính trị gia lại khẩn trương xúc tiến thiết lập một chính phủ Nam Việt Nam gồm nhiều thành phần có đủ sức nặng và cùng chung mối quan tâm đến việc đàm phán với Bắc Việt về chuyện ngừng bắn.

    Hôm sau, Polgar báo cáo về tổng hành dinh CIA rằng tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ liên kết với Chủ tịch Thượng viện VNCH Trần Văn Lắm tập hợp một danh sách nhân sự dự kiến cho chính phủ như vậy.

    Đúng lúc Thiệu có thể đàn áp ư định này (tướng Đặng Văn Quang và tướng Nguyễn Khắc B́nh - Tư lệnh cảnh sát quốc gia, thậm chí cho Polgar biết kế hoạch chi tiết đàn áp các phần tử đối lập), th́ Dân biểu ở Thượng viện VNCH lại nhất trí yêu cầu phải có một nhà lănh đạo mới thay thế Thiệu.

    Đề cập bóng gió về chủ đề này với Đại sứ Martin, Polgar cho rằng Thiệu thiếu khôn ngoan và linh hoạt để xử lư những thành phần bất đồng trong chính phủ VNCH. Hơn nữa, nếu Tổng thống Thiệu tiếp tục tại vị, Bắc Việt sẽ đi đến một chiến thắng quân sự. Giám đốc CIA Colby tỏ ra nóng nảy, chỉ thị Polgar không được can dự vào bất kỳ hoạt động nào nhằm lật đổ Thiệu.

    Lúc này, tướng Charles Timmes được CIA giao cho vai tṛ liên lạc viên giữa CIA và nhóm tướng lĩnh trẻ của quân đội VNCH, mà ông Timmes đă kết làm bạn trong những ngày tháng ông là trưởng phái đoàn cố vấn Mỹ chiến trường (năm 1962-1964, tướng Timmes được chọn làm người đứng đầu phái đoàn cố vấn Mỹ ở VNCH).

    Khi biết tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ đang t́m cách đảo chính Thiệu, tướng Timmes chở Đại sứ Martin trên chiếc Volkswagen của ông tới gặp tướng Kỳ tại nhà (trong sân bay Tân Sơn Nhất), và hai người cố làm cho tướng Kỳ tin rằng họ sẽ ủng hộ ông ta làm tổng thống tương lai nếu ông biết kiên nhẫn chờ đợi và đừng chống lại Thiệu. Nhưng có nhiều dấu hiệu khác cho thấy một cuộc đảo chính có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Và Đại sứ Martin lẫn CIA không ủng hộ tướng Kỳ làm đảo chính.

    Sáng 8/4, một máy bay A-37 của viên phi công VNCH đảo ngũ theo Bắc Việt đánh bom Dinh Độc lập. May mắn là bom chỉ làm sập văn pḥng của tướng Quang, cố vấn an ninh của Thiệu. Trước việc quân đội Bắc Việt tiếp tục khai thác lợi thế của họ trên chiến trường, phản ứng yếu ớt của VNCH cũng như Phái bộ Mỹ y như là "một chú hươu ngơ ngác chôn chân khi ngọn đèn pha sáng chói rọi vào mắt".

    Cùng ngày 8/4, bộ phận CIA ở Tây Ninh báo cáo rằng Bắc Việt đă quyết định một chiến dịch tấn công thần tốc để giải phóng miền Nam cho dù chính quyền Thiệu sụp đổ hay là được Mỹ tăng viện. Tức là sẽ không có việc đàm phán cũng chẳng có chuyện thành lập một chính phủ liên hiệp, mà "quân đội Bắc Việt sẽ tấn công Sài G̣n trong thời gian thích hợp".

    Ngày định đoạt

    Trong lúc ấy, Polgar nhận thấy Phái bộ Mỹ vẫn giống như một "con tàu không bánh lái" mặc dù Đại sứ Martin đă trở lại Sài G̣n điều hành. Ngày 9/4, Polgar than phiền về việc quá lăng phí thời gian để tranh căi về tính hợp lệ của những tin xấu đổ về từ các nguồn tin t́nh báo của ḿnh, và lưu ư rằng, gia đ́nh những người Việt làm cho Mỹ và công chức chính quyền VNCH ùn ùn mang theo đồ đạc dồn ứ ở cảng Sài G̣n, trong khi hai tàu Mỹ rời cảng lại rỗng không v́ Ṭa Đại sứ Mỹ không cho lệnh chuyên chở.

    Đại sứ Martin một mặt vẫn cố gắng lái Washington vào việc viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH, mặt khác, t́m cách duy tŕ cảm giác mọi hoạt động vẫn b́nh thường ở Sài G̣n dù trên thực tế t́nh h́nh mỗi ngày một tồi tệ.

    Cùng trong báo cáo này, Polgar nhận định, quân đội Bắc Việt sẽ tấn công nhằm vào các tỉnh lỵ gần Sài G̣n để tạo đ̣n quyết định đánh chiếm Sài G̣n trước tháng sáu. Polgar cũng lưu ư, trong ṿng hai tuần gần nhất, nội các Thiệu chẳng có hoạt động điều hành ǵ cả, thậm chí, suốt một tuần liền, Đại sứ Martin không trông thấy mặt Thiệu.

    Đại sứ Martin đồng ư với nhận định, ông Thiệu đang ngồi ở vị trí quá sức của ông ta nhưng không thể đẩy ông ta đi khi chưa t́m được một "giải pháp thay thế sống c̣n". Polgar kết luận sẽ không có chuyện "tránh được một cuộc đổ máu vô ích chỉ bằng việc Thiệu từ chức và một chính phủ liên hiệp đủ tin cậy đề nghị thực thi điều khoản Hiệp định Paris về sự đầu hàng trong trật tự" sau khi Mỹ rút đi.

    Đúng lúc ấy, mật lệnh của Giám đốc CIA Colby được đánh sang Sài G̣n: Những người Việt làm cho CIA đều phải rời khỏi Nam Việt Nam ngay; nếu thiếu phương tiện tại chỗ, Colby sẽ điều thêm máy bay thương mại sang Sài G̣n. Nhưng chính Polgar lại vẫn hoài nghi về tính khẩn cấp của mệnh lệnh này.

    Tại bữa tiệc tối ở văn pḥng CIA Sài G̣n, Chip Schofield nhân viên Phái bộ Mỹ hỏi Polgar rằng "trong hoàn cảnh nào th́ yêu cầu di tản Phái bộ Mỹ?". Lúc đó (ngày 9/4) quân đội Bắc Việt bắt đầu tấn công Xuân Lộc (nay thuộc tỉnh Đồng Nai). Polgar thừa nhận việc mất Biên Ḥa và con đường cao tốc duy nhất từ Sài G̣n xuống Vũng Tàu đă bị chặn. Kế hoạch di tản trong một kết cục như thế là phi thực tế.

    Ông ta c̣n lo ngại, bất cứ một thông báo nào về cuộc di tản tổng thể đưa ra lúc này đều sẽ gây hoảng loạn cho Phái bộ Mỹ. V́ thế, trong mọi trường hợp Polgar phải ngăn cản một chính phủ liên hiệp dù chỉ để che đậy một cách mong manh kết cục phải đầu hàng sắp ập đến với Nam Việt Nam, có vậy mới ngăn ngừa được những rắc rối xảy đến cho cuộc di tản khẩn cấp của người Mỹ.

    Quan điểm này trái ngược với báo cáo của Polgar ngày 9/4 gửi cho tổng hành dinh dự báo về một cuộc tấn công mang tính quyết định của quân đội Bắc Việt. Sau đó, Polgar nhanh chóng được chỉ định bắt đầu với vai tṛ trọng yếu chính thức trong nỗ lực đàm phán để có một giải pháp cho phép người Mỹ và quân đội VNCH triệt thoái trong trật tự, và có lẽ chỉ cần duy tŕ một bộ phận nhỏ của Phái bộ Mỹ.

    Một lư do gây tâm lư bi quan về sự thành công của kế hoạch di tản là áp lực của quân đội. Phó văn pḥng CIA Sài G̣n LaGueux -người chứng kiến từ trên máy bay cảnh tháo chạy thê thảm khỏi Cao nguyên và Đà Nẵng của quân đội VNCH- thực sự hoảng sợ cho cuộc di tản khẩn cấp của người Mỹ nếu diễn ra trong một t́nh trạng hỗn loạn như vậy.

    Polgar đồng ư với sự nh́n nhận này của LaGueux rằng cuộc di tản khỏi Sài G̣n trong trật tự của tất cả người Mỹ và, mọi thỏa hiệp, dàn xếp của Nam Việt Nam không chắc thành công trong hoàn cảnh đang hỗn loạn tương tự như vậy. Bởi thế Polgar ủy quyền cho LaGueux chuẩn bị một kịch bản di tản trong trường hợp xấu nhất gửi về Washington.

    Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị T.Ư Đảng quyết định: Thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4, không để chậm. Với phương châm "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng". Từ thời khắc này, số phận của chế độ Sài G̣n đă được định đoạt.

    Ngày 8/4/1975, tại Sở Chỉ huy Miền, ông Lê Đức Thọ công bố quyết định ngày 6/4 của Bộ Chính trị thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch Sài G̣n - Gia Định. Đại tướng Văn Tiến Dũng là Tư lệnh; ông Phạm Hùng (Bí thư T.Ư Cục miền Nam) là Chính ủy.

    Các ông Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện là Phó Tư lệnh; ông Lê Quang Ḥa là Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị; ông Lê Ngọc Hiền là quyền Tham mưu trưởng.

    Ông Lê Đức Thọ tham gia T.Ư Cục và Đảng ủy mặt trận. T.Ư Cục phân công ông Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư T.Ư Cục, đặc trách phong trào nổi dậy của quần chúng, nhất là ở Sài G̣n; ông Vơ Văn Kiệt, Ủy viên Thường vụ T.Ư Cục, chỉ đạo việc tiếp quản thành phố.

    (Nguồn: Tổng Hành dinh trong mùa xuân đại thắng của
    Đại tướng Vơ Nguyên Giáp)

    ----------------------------------------------

    Kỳ VIII: Cặp bài trùng Martin-Polgar


    Cuối tháng 1/1972, Polgar được CIA cử sang Sài G̣n thay Ted Shackley làm trưởng văn pḥng CIA Sài G̣n.

    Tham gia CIA từ khi cơ quan t́nh báo này thành lập (1947), sinh ra và lớn lên ở Hungary nên, ngoài tiếng mẹ đẻ, Polgar giỏi tiếng Đức và tiếng Anh. Do vậy ông ta hoạt động cho CIA chủ yếu ở Đức và Đông Âu.


    Đại sứ Mỹ Graham Martin (phải)

    Cuộc gặp gỡ gượng gạo

    Lần đầu tiên hoạt động tại Nam Việt Nam, Polgar kế thừa mạng lưới mà Shackley dày công thiết kế trước khi được tổng hành dinh CIA cất nhắc lên chức Trưởng phân ban Đông Á, trở thành sếp trực tiếp của Polgar. Nhờ khả năng và kinh nghiệm, Polgar dần trở thành nhân vật quan trọng thứ hai trong ṭa Đại sứ Mỹ ở Sài G̣n, chỉ sau Bunker.

    Tháng 4/1973, Đại sứ Bunker cùng Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu bay sang Mỹ trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức của người đứng đầu chính quyền VNCH. Polgar tháp tùng Bunker đến San Clemente (bang California), nơi Tổng thống Mỹ Nixon tiếp Thiệu tại biệt thự riêng bên bờ biển.

    Tại đây, Polgar được Ngoại trưởng Kissinger mời bữa ăn sáng thân mật. Không rơ nội dung bàn luận giữa hai người trong bữa ăn sáng ấy nhưng, ngay buổi chiều, Martin người vừa được Nixon quyết định bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam thay thế Bunker (nhưng chưa chính thức nhậm chức) đột ngột gơ cửa pḥng Polgar.

    Martin xa gần muốn biết nội dung trao đổi của Kissinger với Polgar. Cuộc trao đổi ngắn nhưng Polgar trực tiếp cảm nhận phong cách "lôi cuốn và mưu lược" vẫn được đồn thổi của Martin. Polgar đảm bảo với Martin rằng, với tư cách là Trưởng văn pḥng CIA ở Sài G̣n, sẽ làm việc hết ḿnh cho ngài tân Đại sứ.

    Dù cuộc gặp đầu tiên giữa hai người rất gượng gạo nhưng, sau đó, mối quan hệ giữa họ trở nên tốt đẹp hơn nhiều ở Sài G̣n và như một cặp bài trùng măi cho đến những ngày cuối cùng trước khi Sài G̣n sụp đổ mới nảy sinh bất đồng.

    Trở lại Sài G̣n, Polgar t́nh cờ gặp tướng Szuecs (thành viên trong Ủy ban Liên hiệp Quân sự Quốc tế Giám sát Hiệp định Paris) tại sân bay Tân Sơn Nhất, khi đang được một bác sỹ quân y người Hungary thăm khám.

    Biết rơ CIA đang điều hành một bệnh viện tại Sài G̣n, vị bác sĩ này lại đang loay hoay kiếm biệt dược trị sốt rét cho các thành viên phái đoàn Hungary trong Trại Davis. Viên thư kư thứ nhất của đoàn Hungary đến và, qua giới thiệu, họ nhận nhau là đồng nghiệp v́ đều là t́nh báo.

    Sau đó, gần gũi hơn qua một cuộc nhậu, nhưng Polgar tạm không sử dụng "mối quan hệ Hungary" này măi cho đến khi lâm vào t́nh huống cấp bách giữa tháng 4/1975. Như vậy, vô t́nh, đại diện phe cộng sản trong Ủy ban Liên hiệp Quân sự Quốc tế đem đến cho CIA Sài G̣n cơ hội tuyển mộ một nguồn tin quan trọng mà sau này Polgar coi đó "là sự tuyển mộ giật gân nhất của CIA tại Nam Việt Nam".

    Ông Đại sứ Cà phê


    Tổng thống Nixon và Thiệu tại San Clemente, tháng 4/1973.Ảnh do Polgar chụp

    Tháng 7/1973, thời điểm mà sau này Polgar gọi là "khoảng lặng trước cơn băo", Graham Martin đến Sài G̣n chính thức nhậm chức Đại sứ Mỹ tại VNCH. Lúc đầu Thiệu rất dè dặt v́, với bản tính đa nghi, biết Martin từng chống việc Mỹ mang quân vào Việt Nam (năm 1965), rồi sau đó lại chống việc Mỹ đem không quân vào Thái Lan hồi c̣n làm Đại sứ ở Thái Lan, Thiệu lo ngại ông ta sẽ là một Cabot Lodge thứ hai (Đại sứ Cabot Lodge là người đứng sau cuộc đảo chính Diệm năm 1963).

    Năm 1967, Martin bị Ngoại trưởng Dan Rusk cho về Mỹ ngồi chơi xơi nước v́ quá bướng bỉnh chống việc Mỹ mang không quân vào Thái Lan. Nhưng là bạn của Tổng thống Nixon, Martin được Nixon phục chức, bổ làm Đại sứ Mỹ tại Italia một năm sau khi Nixon thắng cử.

    Tuy nhiên, sau đó Thiệu nhận ra rằng Martin là một người ủng hộ Nam Việt Nam. Lư do chính là Martin muốn bảo vệ uy tín của Mỹ trong cuộc chiến ở Nam Việt Nam. Ông là con một mục sư đạo Tin lành ḍng Baptist khá nghiêm ngặt ở Mars Hill thuộc bang Bắc Carolina.

    Martin có một cháu trai tên là Glenn (phi công trực thăng quân đội Mỹ) tử trận tại cao nguyên Nam Việt Nam. Martin nghiện thuốc lá nặng và làm việc rất khuya, lúc nào cũng trầm lặng, kín đáo. Ông rất ít giao thiệp với các vị đại sứ khác, trừ Đại sứ Pháp Merillon v́ hai ṭa đại sứ nằm sát nhau.

    Nhân viên sứ quán thấy Martin khó gần và cho rằng ông c̣n lạnh lùng hơn cả Bunker có biệt danh là "Đại sứ tủ lạnh". Tổng thống Thiệu gọi Martin là "ông Cà phê" v́ hồi ấy Sài G̣n có cà phê Pháp nhăn hiệu Martin nổi tiếng.

    Martin dường như không thay đổi ǵ cách tiếp cận của Phái bộ Mỹ đối với quyền lợi cơ bản của Mỹ ở Nam Việt Nam. Tiếp tục công việc và bằng tính toán của riêng ḿnh, Polgar trở thành người "gần cận và tâm phúc nhất của Đại sứ Martin".

    Mối quan hệ của hai người ngày càng tốt đẹp mặc dù Polgar quan hệ thân thiết với các nhà báo Mỹ, điều mà Martin vốn không thích (v́ ông từng làm báo địa phương ở Mỹ). Vai tṛ của Polgar lúc đó mở rộng sang việc giúp đỡ Martin trong việc lựa chọn một cấp phó mới, và sau cùng là cân nhắc hộ Martin kế hoạch di tản những quan chức cao cấp của Sứ quán.

    Martin cũng sử dụng CIA Sài G̣n vừa là kênh thông tin vừa là công cụ gây ảnh hưởng lên giới tướng lĩnh chính quyền Sài G̣n, y hệt cách mà ông Bunker - người tiền nhiệm của Martin - đă làm. Như những ǵ LaGueux - cấp phó của Polgar- chứng kiến, một trong những lư do là CIA Sài G̣n biết giữ kín những tính toán bí mật của Đại sứ Martin ngay cả trong các quyết định riêng theo thẩm quyền của văn pḥng này.

    CIA Sài G̣n dùng các mối quan hệ của ḿnh để giám sát và phần nào kiềm chế Tổng thống Thiệu. Các kênh đặc biệt này là Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và cố vấn an ninh cho Thiệu là Tướng Đặng Văn Quang. Thỉnh thoảng CIA cũng sử dụng Tướng Nguyễn Khắc B́nh, Tư lệnh Cảnh sát kiêm Giám đốc Cơ quan T́nh báo quốc gia của chính quyền Thiệu. Vai tṛ của CIA Sài G̣n sau Hiệp định Paris chỉ là tranh thủ t́m một hướng mới khả dĩ cho người Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam trong danh dự.

    Nước cờ di tản mới của Polgar

    Sau khi mất Biên Ḥa, trực giác dẫn dắt Polgar lao vào một cuộc thương lượng cho ngày đầu hàng của VNCH. Trong bản báo cáo đầy thất vọng ngày 10/4, Polgar tiên đoán người Mỹ sẽ thất bại trong việc gây áp lực với Hà Nội.

    Thiệu đă mất hết tín nhiệm, c̣n Thủ tướng Khiêm th́ không có may mắn trong việc tập hợp một chính phủ liên hiệp với ư định thuyết phục Hà Nội chấp thuận việc đầu hàng muộn hơn của VNCH. Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn chẳng may mắn hơn Khiêm khi ông ta được đề nghị thay Khiêm làm Thủ tướng.

    "Thế là cuộc chiến đă kết thúc"-Polgar buồn rầu nghĩ, khác hẳn với nhận thức hồi cuối tháng 2/1975 khi chính ông ta cho rằng "một viễn cảnh khá cho một kết cục tương đối thuận lợi" v́ cho phép người Mỹ rút khỏi cuộc chiến Việt Nam trong danh dự. Nhưng các biến cố trong tháng 3/1975 làm thay đổi tất cả.

    Polgar đề ra bốn việc phải làm ngay là tăng tốc cuộc di tản người Mỹ nhưng phải tránh gây hoảng loạn; phát đi thông điệp mạnh mẽ tới Liên Xô và Pháp để dàn xếp việc Bắc Việt ngừng tấn công; chủ động thay thế Thiệu bằng một chính phủ liên hiệp; và thu xếp một cuộc di tản trong trật tự cho quan chức, sĩ quan VNCH và gia đ́nh họ.

    Theo Polgar, bốn việc này mà thành công th́ ít nhất người Mỹ cũng đă gia ơn cho VNCH, đồng thời khiến Hà Nội hoàn thành việc loại bỏ Thiệu và sự có mặt của Mỹ tại Nam Việt Nam mà không cần phải đưa xe tăng vào Sài G̣n.

    Tổng thống Ford đă có tờ tŕnh về cuộc di tản của người Mỹ và người Việt trong chính quyền VNCH nên, Trưởng phân ban Đông Á của CIA Shackley muốn Polgar hiểu rằng Washington rất quan tâm đến việc di tản của nhân viên CIA và mạng lưới chân rết người Việt ở Nam Việt Nam.

    Polgar đảm bảo với Shackley rằng cho đến ngày 11/4 th́ mọi chuyện vẫn trong ṿng kiểm soát. Nhưng kịch bản bi quan của cuộc di tản do Phó văn pḥng CIA Sài G̣n LaGueux thảo ra đến tay tổng hành dinh CIA vào ngày 12/4, trong đó nhận định cuộc di tản trong trật tự cho tất cả người Mỹ và người Việt làm việc cho Mỹ sẽ khó mà thực hiện được nếu không có sự can thiệp của quân đội Mỹ, bởi v́ bản thân cuộc di tản sẽ gây ra cú sốc về tâm lư và chính trị cực kỳ lớn.

    CIA Sài G̣n cho rằng, nước Mỹ rơ ràng phải có trách nhiệm di tản ít nhất 250 ngàn người, chưa kể hàng ngàn sĩ quan quân đội VNCH và công chức chính quyền Sài G̣n cùng gia đ́nh họ. Nhưng không có cơ sở khẳng định chắc chắn rằng Bắc Việt sẽ để yên cho Mỹ thực hiện cuộc di tản đại quy mô này diễn ra.

    Trong bất kỳ trường hợp nào, sự sụp đổ của VNCH đều làm cho Sài G̣n náo loạn v́ binh lính VNCH thất trận và sự hoảng sợ của dân chúng sẽ không cho phép thực hiện được cuộc di tản quy mô lớn một cách trật tự chỉ trong ṿng hai đến ba ngày.

    Polgar lường trước rằng, sự hoảng loạn là hậu quả lập tức của bất kỳ cố gắng nào để thu xếp một cuộc di tản quy mô lớn cho hơn một triệu người miền Nam Việt Nam, trong đó hơn một nửa phải thỉnh cầu để được di tản.

    Polgar có bằng chứng rằng một bộ phận quân đội VNCH đang phải giữ các nhân viên dân sự người Mỹ ở Nam Việt Nam như là một điều kiện giúp đảm bảo cho sự an toàn và chắc chắn được di tản của chính họ. Sự lo ngại này khiến cho tổng hành dinh CIA và CIA Sài G̣n bắt đầu theo đuổi một chiến lược khác, mà sau này mới biết là không thích hợp.

    Ngày 17/4/1975, Kissinger gửi mật điện thúc giục Đại sứ Martin: "Hăy ra đi cho mau, và ngay lập tức", nhưng Martin cố t́nh câu giờ v́ sợ chính quân đội VNCH sẽ quay súng bắn vào người Mỹ, nếu người Mỹ di tản quá sớm bỏ rơi Nam Việt Nam. Ông ta sốt ruột phái người ra Hà Nội rồi khẩn thiết yêu cầu Kissinger đàm phán với Hà Nội để cố gắng có được 2 tuần thu xếp một cuộc di tản trong trật tự. Trong lúc nước sôi lửa bỏng ấy, Polgar không điều hành được các nhân viên CIA mà chỉ lo đôn đáo gặp kư giả Browne của tờ Time và nguồn tin người Hungary trong Trại Davis, khiến ông Martin nổi đóa dọa "thiến" Polgar.
    Last edited by alamit; 27-02-2013 at 09:59 AM.

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hồ sơ mật của CIA:
    1/. Giờ phút định mệnh
    Kỳ IX: Kênh đàm phán cho di tản bất thành



    TP- Xuân Lộc, tỉnh lỵ ở phía đông nằm gần Sài G̣n nhất là nơi diễn ra trận chiến ác liệt nhất vào ngày 8/4, trong lúc chính trường Sài G̣n vẫn nghiêng ngả mất định hướng.


    Tướng Trần Văn Trà ở Trại Davis tháng 3/1973 (ảnh trong bộ sưu tập của Polgar)

    Lư do buộc Thiệu từ chức

    Ngày 5/4, Thủ tướng Khiêm từ chức v́ bất đồng với Thiệu và Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn được Thiệu chọn thay Khiêm là Thủ tướng.

    Ngày 11/4, trận chiến Xuân Lộc vẫn ác liệt Cẩn lại cùng cố vấn mới của ḿnh tổ chức họp báo quốc tế để t́m cách cải thiện h́nh ảnh của Sài G̣n với ngoại quốc.

    Bộ Tổng tham mưu Quân đội VNCH th́ hoàn toàn thoát ly khỏi thực tế. Đến ngày 14/4, nội các VNCH vẫn tê liệt, CIA Sài G̣n chỉ c̣n đối mặt với một vấn đề chính là di tản.

    Về chuyện di tản, Polgar nhận ra cách nghĩ của Đại sứ Martin có sự xung đột với quan điểm của Washington. Nhận mật lệnh từ Kissinger phải thu xếp giảm số người Mỹ ở Phái bộ Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam chỉ c̣n 1.250 vào ngày 19/4, Martin nói với Polgar rằng giờ đây ông ta có toàn quyền quyết định thiết lập điều ḿnh muốn để duy tŕ t́nh h́nh.

    Martin đề xuất giảm bớt lực lượng quân Mỹ hỗ trợ di tản nhưng đ̣i Nhà Trắng phải miễn cưỡng chấp nhận việc lập kế hoạch di chuyển bất kỳ người Việt nào làm cho Mỹ.

    Polgar cũng không muốn người Việt bị lờ đi trong cuộc di tản, đồng thời lo ngại rằng Văn pḥng Tùy viên Quân sự Mỹ (DAO) với trách nhiệm lập kế hoạch di tản đang bị cuốn vào t́nh huống “rời đi mà hoàn toàn không quan tâm tới yêu cầu di tản của người Việt”.

    Khả năng này bồi thêm sự lo lắng của Polgar về việc di tản. “Càng nghĩ đến vấn đề này tôi càng tin chắc rằng CIA buộc phải đi theo hướng có một giải pháp chính trị cho cuộc di tản, thời gian th́ không c̣n để tŕ hoăn nữa”-Polgar cay đắng.

    Một yếu tố củng cố thêm nhận định của Polgar là việc tiên đoán rằng Quốc hội Mỹ sẽ không chấp nhận khoản viện trợ quân sự khẩn cấp cả gói cho VNCH mà Tổng thống Ford đệ tŕnh vào phiên họp ngày 19/4 (tức 20/4 giờ Sài G̣n).

    Hà Nội có thể tăng thêm sức mạnh và lực lượng nhanh hơn nhiều dự đoán của VNCH. Một thúc ép với Polgar lúc này là vẫn phải loại bỏ Thiệu và thiết lập một chính phủ liên hiệp có thể đàm phán ngừng bắn với Bắc Việt.

    Nhưng Đại sứ Martin kiên quyết chống việc người Mỹ ép buộc Thiệu từ chức, nên Polgar phải dùng tiểu xảo đưa Martin đến việc buộc phải chấp nhận một thực tế phũ phàng.

    Tổng hành dinh CIA gửi lại cho Polgar đầu bài của kế hoạch di tản và Polgar trả lời rằng đang phải đối phó với một áp lực mới từ nhu cầu di tản của một số người Việt là vợ của nhân viên CIA.

    Polgar cũng báo cáo ông ta đă hoàn tất kế hoạch nhằm giảm số nhân viên CIA ở Nam Việt Nam c̣n 270 người, trong khi Kissinger yêu cầu ông Martin phải giảm số người duy tŕ trong Ṭa Đại sứ Mỹ c̣n 1.500.

    Thiệu ngày ăn mừng Hiệp định ngừng bắn 19/6/1973 ở Sài G̣n (ảnh do Polgar chụp)

    Ông Martin không có dấu hiệu sẽ giảm thêm người của CIA. Tuy nhiên, Martin buộc phải chấp nhận một điều là chiến thắng của Hà Nội đang đến rất gần mà ông ta vẫn chưa khuyến cáo Thiệu ra đi. Ngày 15/4, Polgar gửi cho Martin báo cáo của CIA Sài G̣n rằng Thiệu c̣n tại vị th́ không thể có một chính phủ liên hiệp để đàm phán như người Mỹ mong muốn.

    Báo cáo chốt lại với thông điệp tối hậu thư là “nếu không buộc Thiệu ra đi ngay th́ người Mỹ sẽ đối mặt với thảm họa chỉ trong ṿng một tuần nữa”. Nhưng thực tế th́ Phan Rang vừa thất thủ, tư lệnh mới của lực lượng tử thủ ở đây, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, bị quân đội Bắc Việt bắt sống.

    Và nguồn tin t́nh báo của Polgar ngày 16/4 cho biết, Bắc Việt sẽ tổng tấn công Sài G̣n “cho đến thắng lợi cuối cùng mà không quan tâm việc chính quyền Thiệu sụp đổ hay Nhà Trắng quyết định viện trợ quân sự khẩn cấp cho VNCH hay không”.

    Tức là không có đàm phán ngừng bắn và không có chính phủ liên hiệp ba bên nào cả, mà “Bắc Việt hạ quyết tâm kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 19/5 ngay tại Sài G̣n”.

    -------------------------------------------------

    Hồ sơ mật của CIA – Giờ phút định mệnh:
    Kỳ 10


    Bộ Chỉ huy Chiến dịch tổng công kích và nổi dậy giải phóng Sài G̣n đă đề nghị Bộ Chính trị đặt tên chiến dịch là “Chiến dịch Hồ Chí Minh” và 19 giờ ngày 14/4/1975, bằng bức điện số 37/TK, Bộ Chính trị đă “Đồng ư chiến dịch Sài G̣n lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Ngày 22/4/1975, Bộ chỉ huy Chiến dịch duyệt lại lần cuối cùng kế hoạch chính thức của Chiến dịch Hồ Chí Minh. Bản đồ quyết tâm chiến dịch được trải rộng ra trên bàn. Tư lệnh Chiến dịch Văn Tiến Dũng và Chính ủy Phạm Hùng cùng kư vào bản đồ quyết tâm đó.

    (Nguồn: Đại thắng Mùa xuân của Đại tướng Văn Tiến Dũng)

    Mặc dù dấu hiệu việc Hà Nội sắp đập tan chế độ Sài G̣n bằng sức mạnh quân sự đến tay Polgar rất nhiều, Polgar vẫn không từ bỏ hy vọng về một cuộc đàm phán ngừng bắn.

    Ngày 17/4, Polgar phản ứng mạnh đối với tuyên bố chính thức của Nhà Trắng rằng cơ quan ngoại giao quá bận rộn không thể đàm phán một giải pháp chính trị và ngừng bắn ở Nam Việt Nam.

    Polgar t́m được sự ủng hộ của Giám đốc CIA Colby về một cuộc vận động chính sách ngoại giao ở Mỹ để tiếp tục đàm phán với Bắc Việt trong tuyệt vọng.

    Polgar khăng khăng nài nỉ rằng “sự thất bại của Mỹ đă dẫn sang bước thực hiện chiến lược ngoại giao, và chỉ nhờ ngoại giao mới có thể ngăn cản hoặc tŕ hoăn được một kết cục bi thảm sẽ ghim lên nước Mỹ về trách nhiệm chống một cuộc đổ máu không cần thiết”.

    Ngày 18/4, Polgar lại phản ứng với trả lời gây sốc của ông Philip Habib, Trợ lư Ngoại trưởng Mỹ, trên báo chí Mỹ rằng Nhà Trắng lo lắng cho những người Việt làm việc cho Mỹ ở VNCH, và có kế hoạch di tản nhân viên người địa phương.

    Nếu tuyên bố này là đúng và lan tới Sài G̣n th́ đúng là “một đ̣n trời giáng” gây ra cơn hoảng loạn mới ở Nam Việt Nam. Đại sứ Martin có cớ lén lút lên kế hoạch di tản cho 350 nhà báo, và tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn An ninh của Thiệu, nói với Martin một cách thân mật rằng chính quyền VNCH sẽ không phản đối. CIA Sài G̣n tiếp tục giả vờ như họ sẽ di tản những người bản xứ cùng thân nhân.

    Polgar lúc ấy tin rằng, tùy thuộc hoàn cảnh, Nhà Trắng sẽ khuấy lên một sự hoảng loạn nếu cho hoặc không cho di tản người Việt. Nhưng bất kể trường hợp nào, Sứ quán Mỹ cũng đă tính toán với Cơ quan Nhập cư Mỹ là nhân viên làm cho Mỹ cùng thân nhân họ có thể được di tản, và sẽ mất thời gian nhiều giờ.

    Với cách này th́ cộng đồng Mỹ kiều ở Nam Việt Nam được di tản sẽ bị cắt giảm, bởi mỗi ngày đang có hàng trăm người xin thẻ cư trú và hệ thống ở Sứ quán Mỹ đang vận hành êm dịu.

    Polgar không có lư do ǵ để xem xét việc di tản cho nhân viên người Việt ở văn pḥng CIA Sài G̣n với các nhà báo. Báo cáo gửi về tổng hành dinh CIA, Polgar nhận định, với sức tấn công hiện nay, Bắc Việt có thể vào đến Sài G̣n vượt trước dự tính của Washington một vài tuần, nên cần di tản Phái bộ Mỹ nhanh hơn.

    Đồng thời Polgar (dù không được độc lập cung cấp chi tiết) muốn tổng hành dinh CIA biết rằng “Đại sứ Mỹ Martin và Đại sứ Pháp Merillon đă có sáng kiến để Tổng thống Thiệu tự nguyện từ chức”.

    Cùng ngày 18/4, đại tá Janos Toth, thành viên đoàn quân sự Hungary đóng tại Trại Davis đến gặp Polgar. Toth là đại diện cho trưởng đoàn Hungary tại Ủy ban Liên hiệp Quân sự Quốc tế giám sát thực thi Hiệp định Paris nên thường làm việc với phái đoàn quân sự Bắc Việt trong sân bay Tân Sơn Nhất.

    Toth ám chỉ với Polgar rằng việc kết thúc cuộc chiến ở Nam Việt Nam sẽ sớm hơn độ một tuần và, theo phân tích của các sĩ quan Hungary dựa trên “tư duy logic của những người xă hội chủ nghĩa” th́ Bắc Việt chắc phải thu hẹp sức tấn công hơn là mở rộng tổng công kích vào Sài G̣n.
    Những ngày tiếp theo, việc Polgar tiếp xúc với Toth và những người đồng hương Hungary khác được nhận thông tin từ những đồng nghiệp từ Hà Nội của họ, đă dẫn ông ta đến nhiều kết luận. Đầu tiên là việc Bắc Việt thời gian qua quyết định dồn sức tấn công quân sự mà chưa cần giải pháp đàm phán. Thứ hai, Bắc Việt thực sự sẵn sàng nối lại đàm phán nếu Thiệu ra đi khỏi ghế Tổng thống VNCH.

    Một chính phủ kế nhiệm sẽ làm công việc “chấm dứt chiến tranh như trong điều khoản Hiệp định Paris” và Sứ quán Mỹ sẽ được giới hạn hoạt động ngoại giao ở mức “b́nh thường và truyền thống”. Những người Hungary nghĩ chỉ cần một vài ngày để thiết lập kênh đối thoại theo hướng này v́ Bắc Việt chân thật, không muốn làm Mỹ bẽ mặt. Nhưng Toth đă suy đoán ngờ nghệch.

    Dù vậy Martin và Polgar vẫn chia sẻ quan điểm theo đuổi một cuộc đàm phán ngừng bắn. Đại sứ Martin chớp thông tin mà Polgar lấy từ người Hungary với Kissinger. Măi đến 19/4, khi Toth phản ánh rằng “khát khao giải phóng Nam Việt Nam của Hà Nội xác đáng hơn ư định của người Mỹ về đàm phán trong khuôn khổ Hiệp định”, Martin mới thất vọng.

    Ông ta buộc phải đưa ra thảo luận kế hoạch đưa quân đội Mỹ vào yểm trợ cho cuộc di tản người Mỹ bằng trực thăng, và tạm quyết định sẽ thiết lập một cầu hàng không trực thăng một chiều sẽ chở ra tàu khu trục của Hải quân Mỹ khoảng 1.600 người; cầu hàng không trực thăng hai chiều sẽ chở đi 3.200 người.

    Nhưng, để thực hiện được, Mỹ phải đưa vào Sài G̣n một sư đoàn lính thủy đánh bộ và một sư đoàn không quân thuộc Hải quân để hỗ trợ di tản. Martin dự kiến thời gian thực hiện cuộc di tản này là trong ba tuần nữa.

    Đồng thời, để an toàn cho cuộc di tản, Martin cho Polgar dùng đường điện thoại riêng của Đại sứ để báo cáo kế hoạch này với Kissinger, để yêu cầu Kissinger liên lạc với Liên Xô nhờ ra tín hiệu với Bắc Việt để họ dành vài ngày cho người Mỹ di tản.

    Nhưng Kissinger điện trả lời là “không thể” dù sáng đó Kissinger có một cuộc liên lạc với Liên Xô

    TP – Nhà Trắng úp mở việc thảo luận về “t́nh huống đặc biệt cần thiết” với Liên Xô, đồng nghĩa với việc đánh tiếng cho ông Thiệu phải từ chức.


    Kissinger (phải) và Đại sứ Bunker tháng 4/1973 (Ảnh do Polgar chụp)

    Kissinger điện mật cho Martin nói rằng, Tổng Bí thư Liên Xô Leonid Brezhnev nhắn là “Hà Nội đă t́m được mục tiêu chính trị cuối cùng nên không quan tâm đến việc làm bẽ mặt Mỹ nữa”.

    Đến nước này th́ Thiệu phải ra đi thôi. Nhưng hai ngày 20 và 21/4 ở Sài G̣n lại rơi vào thứ Bảy và Chủ nhật nên Martin rất khổ để gặp được Thiệu.

    Ngày 21/4, tại Sài G̣n, Martin bắn tiếng cho Thiệu rằng nên từ chức, với cách nói như đây chỉ là theo ư riêng cá nhân của ông ta. Martin cho Thiệu xem bản đồ của CIA về t́nh h́nh rất bi đát của VNCH để thuyết phục Thiệu.

    Dàn xếp vừa xong, Martin lại nhận được mật điện rất lạ từ Kissinger, với ư muốn tŕ hoăn việc Thiệu từ chức. Nhưng ông Martin không chịu, lờ đi không thi hành.

    Sáng 21/4, Polgar lại tiếp xúc với Toth, đại tá quân đội Hungary ở Trại Davis (trong sân bay Tân Sơn Nhất) với yêu cầu làm rơ những điều kiện của phía Bắc Việt với Mỹ để cuộc đàm phán ngừng bắn được bắt đầu. Toth bảo Polgar, việc đó ông ta phải hỏi Đại sứ Hungary tại Hà Nội và cam đoan nếu có thông tin sẽ báo ngay cho Polgar.

    Chiều hôm đó, Toth báo lại với Polgar là Đại sứ Hungary không trả lời được, nhưng Polgar vẫn cho rằng việc Thiệu từ chức là điều kiện tiên quyết để Bắc Việt chấp nhận đàm phán ngừng bắn.

    Sau cuộc gặp Đại sứ Martin, Thiệu họp với các tướng lĩnh trong Dinh Độc Lập thông báo nội dung Martin đề cập và nói đại ư, nếu các tướng lĩnh coi Tổng thống là chướng ngại vật cho đàm phán ngừng bắn th́ ông sẽ từ chức.

    Chẳng ai phát biểu ǵ cả! Thiệu buộc phải tuyên bố từ chức để Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay. Chiều 21/4, Thiệu lên truyền h́nh thông báo quyết định từ chức, ḷng đầy cay đắng.

    Sáng 25/4, bốn ngày sau khi tiếp nhận chức Tổng thống, ông Trần Văn Hương gọi điện cho Martin phàn nàn rằng người ta nói ông chỉ điều hành một nội các Thiệu mà không có Thiệu. Ông Hương yêu cầu Đại sứ Martin dàn xếp để Thiệu ra nước ngoài. Sau đó ông Hương tới chỗ ông Thiệu khuyên ông sớm rời khỏi Sài G̣n v́ nếu không, cộng sản sẽ nói “tôi đang điều khiển một chính phủ Thiệu không có Thiệu”.

    Thiệu ngập ngừng nhưng nửa tiếng sau gọi điện cho Martin nói đồng ư và nhờ Martin thu xếp chuyến ra đi lặng lẽ khỏi Nam Việt Nam. Để hợp pháp hóa chuyến đi của Thiệu, ông Hương kư văn bản đề cử Thiệu làm đặc sứ VNCH sang Đài Bắc viếng Tưởng Giới Thạch vừa qua đời ngày 5/4. Martin một mặt nhờ Polgar bố trí, một mặt điều chiếc máy bay C-118 thuộc quyền sử dụng của ông từ Bangkok bay sang Sài G̣n trong đêm 25/4.

    Chiều muộn, Polgar và tướng Timmes đón Thiệu và đoàn tuỳ tùng ở nhà cựu Thủ tướng Khiêm (từng là Đại sứ VNCH tại Đài Bắc) nằm trong Bộ Tổng tham mưu. Polgar chuẩn bị bốn chiếc công xa màu đen của Ṭa Đại sứ Mỹ cắm cờ ngoại giao, chở mọi người ra sân bay Tân Sơn Nhất. Martin yêu cầu tất cả lái xe đều là người Mỹ, nên chiếc Mercedes cũ chở Thiệu do Frank Snepp, nhân viên phân tích t́nh báo của CIA Sài G̣n lái.

    Đoàn xe chạy đến chân cầu thang máy bay, Đại sứ Martin đợi sẵn ở đó để tiễn Thiệu. 14 người, tất cả là đàn ông lặng lẽ lên máy bay. Buồn thảm và cam chịu, Thiệu vẫn cố giữ phong độ, quay lại cám ơn Đại sứ Martin dàn xếp chuyến đi. Polgar điện về tổng hành dinh CIA. “Đúng 21 giờ 20 giờ Sài G̣n, cựu Tổng thống Thiệu, cựu Thủ tướng Khiêm di tản khỏi Nam Việt Nam”.

    Polgar cam đoan Thiệu không thể mang 16 tấn vàng (thời giá lúc đó tương đương 170 triệu dollar) sang Đài Bắc trong chuyến bay đó. Số vàng này thuộc ngân khố dự trữ quốc gia của VNCH và hồi cuối tháng 3/1975, Thiệu có ư định đem nó ra thế chấp để vay tiền từ Arập Xê út để mua vũ khí cho quân đội.

    Đại sứ Martin đă thu xếp giúp để chuyển vàng ra gửi ngân hàng nước ngoài cho an toàn. Ban đầu, Martin thu xếp để chuyển 16 tấn vàng này sang gửi ở ngân hàng Thụy Sĩ có tên Bank of International Settlement nhằm thế chấp cho khoản vay mua vũ khí từ châu Âu, nhưng tin này lộ ra nên không hăng hàng không thương mại nào nhận chở.

    Martin lại thu xếp chuyển nó sang gửi tại ngân hàng Dự trữ Liên bang New York. Nhưng trong khi Mỹ chưa kư được hợp đồng bảo hiểm cho chuyến bay chở số vàng này rời Nam Việt Nam th́ ông Thiệu đă ra đi.
    Last edited by alamit; 27-02-2013 at 10:11 AM.

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hồ sơ mật của CIA:
    1/. Giờ phút định mệnh
    Kỳ XI: Kịch bản cứu Nam Việt Nam của Đại sứ Pháp Mérillon


    Kế hoạch di tản người Mỹ khởi động từ ngày 21/4/1975. Liên tục suốt ngày đêm, máy bay C-141 và C-130 chở những người không quan trọng đi trước.


    Tướng Dương Văn Minh lúc quân giải phóng vào Dinh Độc Lập

    Nhưng ngày 23/4, nguồn tin của bộ phận CIA ở Vùng 3 chiến thuật đóng ở Biên Ḥa báo về cho Polgar biết Tỉnh trưởng Lưu Yêm biển thủ tiền từ ngân khố và đưa gia đ́nh chuồn ra nước ngoài. V́ muốn tránh sự hoảng loạn của Sài G̣n có thể dẫn đến thảm họa quân Mỹ đụng độ với binh lính VNCH, Đại sứ Martin phải ra sức làm chậm lại cuộc di tản.

    Trong khi đó, Đại sứ Martin vẫn liên tục điện về cho Kissinger để yêu cầu Nhà Trắng nhờ Liên Xô đám phán với Bắc Việt ngừng bắn hai tuần để Mỹ thực hiện kế hoạch di tản quy mô, sau khi Thiệu từ chức.

    Nhưng Kissinger chưa trả lời mà lại lệnh cho Polgar và Phái bộ Mỹ làm mọi cách để hỗ trợ cho nội các của ông già Trần Văn Hương, lại vừa tập trung thực hiện nhanh chóng cuộc di tản.

    Polgar phản ứng lệnh này là “chẳng ǵ có thể hỗ trợ được ông Hương khi mà Mỹ không c̣n B-52 đem ra bầu trời Hà Nội”.

    Theo Polgar, tất cả tướng lĩnh và nội các VNCH lúc này chẳng ai nghe lời ông già Hương nữa. Và Đại sứ Pháp Mérillon th́ vận động được hầu hết tướng lĩnh ủng hộ tướng Big Minh, tức Dương Văn Minh lên làm Tổng thống VNCH. Thậm chí, lúc này c̣n có tới bốn tướng của Pháp có mặt tại Sài G̣n với tư cách cá nhân để giúp quân đội VNCH lập kế hoạch pḥng thủ Sài G̣n.

    Trong t́nh thế này, muốn thực hiện cuộc di tản an toàn, ṭa đại sứ Mỹ phải duy tŕ sự tồn tại chế độ Sài G̣n càng lâu càng tốt. V́ vậy, Đại sứ Martin đành chấp nhận quan điểm của Đại sứ Pháp Mérillon là ủng hộ Dương Văn Minh thay thế Trần Văn Hương. Thật sự th́ ông Minh chẳng có ảo tưởng ǵ về cái ghế tổng thống VNCH- lúc này chẳng c̣n là quyền lực và địa vị. Dù vậy vẫn c̣n một tia hy vọng góp phần đưa Nam Việt Nam đến một kết thúc bớt được những đổ máu vô ích.

    Đại sứ Pháp Mérillon đến gặp ông Minh tại nhà riêng. Pháp là quốc gia duy nhất lúc đó có ṭa đại sứ đồng thời tại Sài G̣n và Hà Nội, một thế ngoại giao rất thuận lợi để đóng vai tṛ trung gian trong kết thúc chiến tranh Việt Nam. Đại sứ Pháp Mérillon, tin rằng Paris có thể đóng vai tṛ trung gian với Hà Nội để thương thuyết một giải pháp chính trị nếu ông Minh làm Tổng thống VNCH.

    Thời gian c̣n lại không c̣n nhiều nhưng ông Hương vẫn không chịu rời khỏi cái ghế quyền tổng thống của ḿnh bất kể áp lực từ các sứ quán Pháp và Mỹ. Bám vào lập luận ḿnh thay Thiệu đúng theo hiến pháp, ông Hương buộc những người muốn thay ông cũng phải thông qua hiến pháp và quốc hội.

    Là một người ngấm ngầm say mê quyền lực, ông Hương vẫn mơ làm tổng thống và tự coi minh là một De Gaulle-vị cứu tinh của Pháp trong thế chiến thứ hai- mà ông rất ngưỡng mộ. Ông Hương th́ ảo tưởng rằng sứ mạng của ḿnh là cứu Sài G̣n trước “cuộc tấn công của Bắc Việt”.

    Đại sứ Pháp Mérillon và Đại sứ Mỹ Martin tăng cường áp lực với ông Hương nhằm đưa ông Minh vào chức vụ tổng thống với hy vọng “được Hà Nội chấp nhận đối thoại”. Để giành tối đa thời gian ít ỏi c̣n lại, Martin và Mérillon gặp trực tiếp ông Hương và thuyết phục ông rút lui nhường quyền lănh đạo cho ông Minh. Nhưng ông Hương nhất định từ chối, viện lẽ chính ông cũng có thể đứng ra thương thuyết với cộng sản và chắc ǵ ông Minh được cộng sản chấp nhận.

    Thế là Martin và Mérillon quay sang vận động Quốc hội. Lập tức một phiên họp lưỡng viện được triệu tập vào ngày 26/4/1975, có mặt 136 dân biểu nghị sĩ trên tổng số 219 (v́ nhiều dân biểu đă vội di tản ra nước ngoài), để nghe t́nh h́nh quân sự và quyết định người thay thế Trần Văn Hương.

    Tướng Trần Văn Đôn với tư cách Tổng trưởng Quốc pḥng, tướng Cao Văn Viên - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội VNCH, tướng Nguyễn Khắc B́nh - Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia, tướng Nguyễn Văn Minh – Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, thuyết tŕnh cho các nghị sĩ và dân biểu nghe t́nh h́nh quân sự tuyệt vọng của Sài G̣n với những dẫn chứng cụ thể trên bản đồ.

    Quân lực VNCH chỉ có sáu vạn lính để bảo vệ Sài G̣n, trong khi quân đội Bắc Việt tăng lên nhanh chóng từng giờ. Cuối cùng lưỡng viện biểu quyết phế truất ông già 71 tuổi Trần Văn Hương (chỉ sau bốn ngày rưỡi nắm quyền) và bầu tướng Dương Văn Minh lên thay.


    --------------------------------------------------------

    Kỳ XII: Kết cục là quyết định quân sự


    Ngay sau khi tướng Dương Văn Minh thay ông Hương làm Tổng thống, Polgar đề nghị Sài G̣n tiến hành cuộc tiếp xúc với đại tá Vơ Đông Giang, đại diện phái đoàn Bắc Việt trong Ủy ban Quân sự Bốn bên tại Trại Davis trong sân bay Tân Sơn Nhất, để kiểm tra phản ứng của Bắc Việt trước việc thay đổi này.


    Người dân lo sợ đ̣i được di tản trước sứ quán Mỹ cuối tháng 4/1975

    Song chỉ nhận lại thông tin rằng, hy vọng có thể có được b́nh luận nào đó về việc này sau đó nhiều giờ. Cùng hôm đó, Polgar thông báo cho Đại sứ Martin biết rằng một đài phát thanh của quân giải phóng đă loan tin ông Martin kêu gọi cho tàu hải quân Mỹ vào vùng biển nam Việt Nam, nhưng không đề cập ǵ về cuộc di tản của ṭa đại sứ Mỹ.

    CIA Sài G̣n vẫn hy vọng vào một nỗ lực đàm phán ngừng bắn mới có thể bắt đầu, và ông Dương Văn Minh vẫn cố gắng t́m cách gửi một đoàn đàm phán ra Hà Nội.

    C̣n tại Sài G̣n, thậm chí ông Minh t́m cách liên lạc để đàm phán ngừng bắn với đại diện Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam của luật sư Nguyễn Hữu Thọ.

    “Nhưng tất cả các động thái không làm thay đổi được t́nh thế là một quyết định quân sự của Bắc Việt đối với Sài G̣n”-

    Polgar cay đắng khi tin tức t́nh báo đổ về cho thấy, CIA chỉ c̣n cơ hội cuối cùng với viễn cảnh là tổ chức cho nhanh một cuộc di tản hoàn tất “trong ṿng 48 giờ” mà thôi.

    Polgar được Giám đốc CIA Colby ủng hộ (ông Martin phản đối di tản sớm, nên Polgar lúc này có một vài liên lạc về Washington không thông qua Martin), và CIA Sài G̣n lúc này được tổng hành dinh yêu cầu riêng tập trung vào nắm tin về sự tấn công của Bắc Việt quanh Sài G̣n, bên cạnh việc xúc tiến cho cuộc đàm phán của Dương Văn Minh với Bắc Việt, để quyết định thời điểm bắt đầu cho một cuộc di tản bằng trực thăng khỏi Sài G̣n.

    Đại sứ Graham Martin lại lo nghĩ nhất về t́nh huống hỗn loạn ở Sài G̣n có thể làm đổ vỡ việc di tản 6.000 người Mỹ, nên ông cố câu giờ. Sự hoảng loạn có thể trở thành “kẻ giết người“ hoặc “kẻ phá đổ và làm tê liệt mọi việc, vào giờ chót. Kế hoạch để di tản của Mỹ mang mật hiệu Talon Vise với bốn lựa chọn.

    Lựa chọn thứ nhất là di tản bằng những máy bay lớn từ phi trường Tân Sơn Nhất, yểm trợ bằng quân lực Mỹ. Nhưng, mang quân đội Mỹ vào Sài G̣n lại là sai lầm lớn.

    “Nguy hiểm là quân đội Bắc Việt sẽ pháo kích các sân bay. Đặc biệt, khả năng ác liệt khác là quân đội VNCH sẽ quay súng bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất, vào Tân Cảng, hay bắn vào chính băi đáp trực thăng trên nóc ṭa đại sứ Mỹ nữa, nếu chỉ những người Mỹ được di tản - Ông Martin viết trong mật điện rất dài gửi Kissinger.

    Tại Cần Thơ, trực thăng Mỹ phải bay trong đêm tới một khu chung cư của người Mỹ để bốc họ đi, v́ viên sĩ quan chỉ huy sân bay quân sự ở đây nói với ông Lănh sự Mỹ rằng không thể bảo đảm được kỷ luật của quân lính dưới quyền ḿnh nếu người Mỹ cố di tản bất cứ ai ra khỏi phi cảng.

    Và khi Ṭa Lănh sự Mỹ di tản, chỉ có đủ máy bay để chở người Mỹ, những lính gác Mỹ phải chĩa súng vào số nhân viên để họ khỏi tràn ngập máy bay.

    Trước đó, kể từ ngày 22/4, Trưởng phân ban Đông Á của CIA Shackley phải hoạt động gần như kiệt sức ở Thái Lan để thu xếp một cầu hàng không di tản đợt đầu những người nằm trong danh sách 3.000 người Việt cộng tác với CIA Sài G̣n mà Polgar xây dựng.

    Hầu hết di tản từ Sài G̣n, một số tập trung về đảo Phú Quốc, trước khi được đưa sang căn cứ quân sự của Mỹ ở Thái Lan bằng máy bay.

    Mỹ đă tập hợp một đoàn hạm đội ở vùng Biển Đông cho kế hoạch di tản. Đoàn này gồm bốn hàng không mẫu hạm: Hancock, Coral Sea, Midway và Enterprise. Một đơn vị 2.200 lính thủy quân lục chiến được huy động tới bốn mẫu hạm này và những tàu hộ tống khác.

    Măi tới ngày 25/4, trước thời điểm Sài G̣n sụp đổ chỉ năm ngày, Đại sứ Martin mới nhận được ủy quyền từ Nhà Trắng cho phép ṭa đại sứ Mỹ cấp thủ tục nhập cảnh tạm nới rộng cho người Việt di tản tổng cộng 13 vạn người, tức thêm khoảng tám vạn người thuộc đối tượng là bà con, thân nhân của công dân Mỹ cộng với năm vạn người Việt có “mức rủi ro cao độ” được Wasshington đồng ư từ ngày 19/4.

    Kissinger sau đó nói: “Tin rằng, ngay trước mắt, sự hoảng hốt ở Sài G̣n c̣n đáng lo ngại hơn kế hoạch tấn công của Hà Nội, Martin đă cố gắng để cho cuộc di tản chậm hơn ư muốn của Tổng thống Ford và tôi – kẻ diều hâu trong chính phủ - cho là thích hợp”.
    Last edited by alamit; 27-02-2013 at 09:59 AM.

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hồ sơ mật của CIA:
    1/. Giờ phút định mệnh
    Kỳ 14: Kissinger dùng tiểu xảo



    Đối với Nhà Trắng, cuộc chiến Việt Nam thực chất kết thúc từ ngày 23/4/1975 (ngày 24/4 giờ Sài G̣n), khi Tổng thống Ford trước hàng ngàn sinh viên đại học Tulane (New Orleans) chậm răi dằn từng tiếng: “Đối với Mỹ, chiến tranh Việt Nam kết thúc rồi”.


    Tổng thống Ford họp quyết định chấm dứt cuộc chiến Việt Nam, ngày 22/4/1975 (23/4 giờ Sài G̣n), Bộ trưởng Quốc pḥng Schlesinger và Ngoại trưởng Kissinger ngồi ở cuối bàn

    Trong lúc chờ Liên Xô hồi đáp đề nghị của Mỹ từ ngày 20/4 về việc “nhắn Hà Nội ngừng khoảng hai tuần cho người Mỹ di tản“, ngày 25/4, Kissinger gửi mật điện cho Đại sứ Martin “Liên Xô cho biết Hà Nội sẽ không làm trở ngại cuộc di tản”.

    Lúc đó, Đại sứ Martin là người duy nhất ở Sài G̣n nhận được thông tin này, nên ông tiếp tục sinh hoạt hết sức b́nh tĩnh để không đổ thêm dầu vào lửa.

    Ông Martin nhất định không đóng gói đồ đạc, sách vở, hồ sơ, h́nh ảnh... dù Polgar đóng gói xong đồ đạc và dành mọi thời gian c̣n lại để tiếp xúc với Trưởng đoàn Hungary ở Trại Davis với hy vọng có tín hiệu đàm phán nào đó cho tướng Minh và nội các mới, ngơ hầu ngăn hoặc làm chậm lại cuộc tấn công quân sự của Bắc Việt vào Sài G̣n.

    Chủ nhật ngày 27/4/1975, tướng Dương Văn Minh được lưỡng viện VNCH bầu làm tổng thống, song vấn đề xúc tiến “đàm phán ngừng bắn với Bắc Việt” vẫn c̣n nguyên, lại thêm việc tướng Kỳ kiên quyết chống đối ông Minh.

    Nhưng Kissinger lo sợ rằng một “nỗ lực song song có thể làm trật đường ray” viễn cảnh sáng sủa mà ông mong đợi từ Liên Xô, nên ông ta quở mắng Polgar, đồng thời chuyển thông điệp lạc quan đến Đại sứ Martin rằng “Tôi nghĩ Dương Văn Minh là một điều kiện tốt để đàm phán lập một chính phủ ba bên, và tôi đang chờ tin tốt từ Liên Xô”.

    Viễn cảnh thành công của cuộc di tản bị mờ đi bởi một tin xấu: Bắc Việt đă cắt đứt đường bộ từ Sài G̣n xuống Vũng Tàu và Thái Lan từ chối cho Mỹ sử dụng căn cứ Năm Phon là nơi tập kết người di tản.

    Nửa đêm 27/4, trong tiếng pháo kích, Martin vẫn ngoan cố gửi điện cho Kissinger khẳng định “sẽ không có cuộc tổng tấn công trực tiếp của Bắc Việt vào Sài G̣n”.

    Polgar buộc phải cử chuyên viên phân tích của CIA Sài G̣n là Frank Snepp cùng hai người nữa đi khảo sát thực địa về vành đai tử thủ Sài G̣n của quân lực VNCH để thuyết phục Martin. Kết quả cho thấy, t́nh h́nh rất nguy ngập v́ quân đội Bắc Việt đă áp sát Sài G̣n và giao tranh đang rất ác liệt ở Biên Ḥa.

    Trong lúc đó, Đại sứ Martin và Đô đốc Gayler (Tư lệnh quân Mỹ ở Thái B́nh Dương) vẫn chưa thống nhất được các bước cụ thể của kế hoạch di tản mà ṭa đại sứ xây dựng. Quân đội Mỹ sẵn sàng cho bước cuối cùng để di tản, nhưng ông Martin sợ điều đó tạo hoảng loạn cho Sài G̣n, nên ông không cho chặt một cây me cổ thụ trong sân ṭa đại sứ để làm băi đáp cho trực thăng.

    Một tin tốt đến với Sài G̣n, Mỹ được người Thái cho sử dụng căn cứ Năm Phon (rất gần đảo Phú Quốc) để thực hiện cuộc di tản. Đô đốc Gayler chỉ c̣n lo việc Tân Sơn Nhất liệu sử dụng được mấy ngày nữa, v́ đường băng tại đây vừa bị đánh bom, và theo tin t́nh báo nó đang nằm trong tầm pháo của Bắc Việt.

    Những chuyến di tản khẩn trương bằng máy bay C-130 từ Tân Sơn Nhất vẫn tiếp tục trong ngày 28/4, trong đó có chuyến bay chở cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, tướng Nguyễn Khắc B́nh Tư lệnh Cảnh sát cùng các quan chức cảnh sát và gia đ́nh họ.

    Polgar điện về tổng hành dinh CIA rằng, vẫn chưa thấy ư định cụ thể của ông Minh, song ông ta ghi chú rằng “có thể có sự đối thoại theo một điều khoản của Hiệp định Paris” và phỏng đoán việc này nếu có th́ sẽ diễn ra tại thủ đô Paris. Polgar gần như kiệt sức.

    Hồi 17 giờ ngày 26/4/1975, tiếng súng đầu tiên của Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài G̣n đă nổ ở hướng đông. Theo kế hoạch, sáng 27/4, quân giải phóng đồng loạt các hướng đánh vào vùng ven Sài G̣n. Riêng hướng tây nam phải cắt đứt được đường số 4 trên nhiều đoạn từ cầu Bến Lức đến phà Mỹ Thuận. Từ ngày 29/4 sẽ đồng loạt đánh vào nội thành.

    -----------------------------------------------

    Kỳ 15: Bức công hàm cuối cùng của chính quyền Sài G̣n




    Chiều 28/4/1975, lúc 16 giờ 45, buổi lễ bàn giao giữa ông Trần Văn Hương và ông Dương Văn Minh diễn ra tại Dinh Độc Lập.

    Khi ông Dương Văn Minh bắt đầu đọc diễn văn nhậm chức, giông sét đánh ầm ầm. Một trận mưa to chưa từng có ập xuống Sài G̣n, quan khách không nghe được ông Minh nói ǵ. Nhiều người cho đó là điểm gở cho tân chính phủ.

    Tướng Nguyễn Cao Kỳ (đội mũ lưỡi trai) là người di tản đầu tiên lên tàu sân bay Midway

    Sáng 28/4, lúc 8 giờ 25 phút, Mỹ đáp lại lời nhắn với Liên Xô (qua Đại sứ Liên Xô tại Washington) rằng, như phúc đáp của phía Liên Xô, phía Mỹ đang tiến hành cuộc di tản với tin tưởng là điều kiện sẽ tiếp tục thuận lợi.

    Tổng thống Ford hứa “cuộc di tản không bị cản trở trong bao lâu th́ cũng thời gian đó Mỹ cũng sẽ không hành động ǵ khiến t́nh h́nh trầm trọng hơn".

    Kissinger nói rằng, đến ngày 27/4, Mỹ vẫn đầy hy vọng là Hà Nội không định đi tới một chiến thắng hoàn toàn quân sự mà c̣n muốn điều đ́nh với ông Dương Văn Minh. Tại Sài G̣n, Đại sứ Martin cũng không mấy lo về phía Hà Nội.

    Ngoài vợ một nhân viên CIA cao cấp, Đại sứ Martin đă sắp xếp để đưa 2.000 người gồm khá nhiều phi công VNCH và gia đ́nh họ đi di tản sớm sang căn cứ Utapao ở Thái Lan, với mục đích là giảm thiểu khả năng trả thù và đụng độ với lực lượng Mỹ.

    Ông Martin cho rằng phi công là những phần tử uất hận nhất nên có thể phản ứng điên rồ, ngăn chặn cuộc di tản cuối cùng của người Mỹ.

    Ông Minh có hai áp lực lớn lúc đó: Quân đội VNCH dù rất xơ xác nhưng vẫn c̣n điều kiện để phản ứng điên rồ nếu họ thấy ḿnh bị “phản bội”; mặt khác phải chứng minh được với “phía bên kia” đây là một chính phủ không đeo đuổi chiến tranh, mà mong được thương thuyết ḥa b́nh.

    Việc nghiêng hẳn sang bắt tay với quân giải phóng của ông Minh khiến đồn đại về một cuộc đảo chính râm ran khắp nơi, đặc biệt từ phía không quân thuộc ảnh hưởng của tướng Nguyễn Cao Kỳ. Lực lượng không quân ở Tân Sơn Nhất đóng cổng từ chối nhận lệnh điều động của tổng thống Minh.

    Trước đó, tối 27/4/1975 tướng Kỳ điện thoại cho tùy viên quân sự của ông Minh để yêu cầu gặp ông Minh, bàn về sự hợp tác trong cuộc đối đầu với sự tiến quân của Bắc Việt, nhưng được trả lời rằng ông Minh đang bận họp, sẽ gọi điện lại. Sáng 28/4, v́ quá muộn để có thể làm ǵ, tướng Kỳ không gặp ông Minh cho đến lúc ông ta lên trực thăng bay ra tàu sân bay của Hạm đội 7.

    Vừa rời lễ nhậm chức về nhà riêng, ông Minh nghe những tiếng nổ làm rung chuyển cả Sài G̣n. Tất cả đều nghĩ phe tướng Kỳ đảo chính. Sau đó mới hay, tiếng nổ là do máy bay Bắc Việt oanh kích xuống phi trường Tân Sơn Nhất bằng năm chiếc phi cơ A-37 mà quân giải phóng mới chiếm được, xuất phát từ Nha Trang tham gia cuộc tấn công dưới sự dẫn đường của phi công Nguyễn Thành Trung. Điều này khiến cho giới quân sự Sài G̣n và Mỹ kinh ngạc. Ông Minh vẫn không liên lạc với không quân ở Tân Sơn Nhất.

    Tối 28/4 (sáng 27/4 giờ Washington), việc đầu tiên ông Minh làm trên cương vị Tổng thống là viết một công hàm gửi Đại sứ Martin (văn bản được chuyển giao sáng 29/4). Lúc này có lẽ ông Minh biết chuyện thương thuyết với quân giải phóng là vô vọng. Các tin tức từ Đại sứ Pháp Mérillon không có sự tiến triển nào, vai tṛ trung gian của Pháp trở nên vô vọng.

    Ông Minh yêu cầu: “Tất cả người Mỹ rời khỏi Nam Việt Nam trong ṿng 24 giờ kể từ ngày 29/4 (tức 28/4 giờ Washington)“. Công hàm này có tính lịch sử v́ nó là văn kiện cuối cùng của Chính quyền Sài G̣n gửi Nhà Trắng, và thực sự cấp cho người Mỹ một quota "danh chính ngôn thuận" để rời Nam Việt Nam. Kissinger nói rằng "nó thực sự giúp cho chúng tôi thoát ra mà không bị chỉ trích là Mỹ bỏ rơi đồng minh, v́ nó trùng hợp với lịch tŕnh rút lui của Mỹ".

    Đêm 28/4, Polgar điện cho Shackley báo cáo về lễ nhậm chức của tướng Minh kèm nhận định của CIA Sài G̣n. Shackley vẫn lạc quan về việc có được hai tuần trong thời gian ông Dương Văn Minh đàm phán với Bắc Việt, nhưng cũng chỉ rơ khả năng Hà Nội pháo kích vào Tân Sơn Nhất là “bất cứ lúc nào”.

    Vẫn chưa biết chắc chắn về mục tiêu của Hà Nội nên tướng Homer Smith, trưởng văn pḥng tùy viên quân sự Mỹ tại Sài G̣n chưa ra quyết định đ́nh chỉ các chuyến bay di tản người Mỹ bằng phi cơ C-130. Shackley khuyên Polgar nên di tản các nhân viên CIA người Việt, sang căn cứ Năm Pon (Thái Lan) và Đài Bắc (Đài Loan), trong lúc Shackley cố gắng duy tŕ các máy bay C-130 cho CIA Sài G̣n sử dụng.

    ----------------------------------------

    Kỳ cuối: Ngày cuối cùng



    Năm mươi nhân viên CIA Sài G̣n gần như kiệt sức sau hơn một tuần làm việc 14 giờ mỗi ngày. Đêm 28/4, họ ngủ mê mệt, không ai nghĩ đó lại là đêm cuối cùng của cơ quan t́nh báo này tại Sài G̣n.

    Lính thủy đánh bộ Mỹ chờ trực thăng trên nóc ṭa Đại sứ Mỹ (29/4/1975)

    Bốn giờ sáng 29/4 (bốn giờ chiều 28/4 giờ Washington), Polgar và mọi người bị đánh thức bởi tiếng đạn pháo dữ dội.

    Lính thủy quân lục chiến Mỹ gác trên nóc ṭa Đại sứ Mỹ điện thoại sang thông báo Bắc Việt pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất làm hư hại đường băng và phá hủy vài chiếc trực thăng của Mỹ.

    Polgar cho nhân viên chuẩn bị gấp các phong b́ in chữ “khẩn cấp“, mỗi phong b́ có 1.500 dollar cộng thêm một ít tiền Hongkong và Thái Lan, đem phát cho tất cả nhân viên, rồi vội vàng sang ṭa đại sứ Mỹ.

    Trước 8 giờ sáng 30/4, lính thủy quân lục chiến ném những hộp hơi cay xuống chung quanh cao ốc trên đầu số 420 người Việt đứng bàng hoàng ngơ ngác. Đám người này vẫn đứng chờ những chuyến trực thăng không bao giờ tới.

    Đại sứ Martin đang bị viêm phổi nằm ở nhà riêng (rất gần ṭa đại sứ) bị Polgar điện thoại tới đánh thức. Nhưng ông Martin ốm đến mức trước khi được tiêm thuốc vào sáu giờ sáng th́ không nhấc nổi máy điện thoại.

    Polgar phải trực tiếp liên lạc với Nhà Trắng và Đô đốc Gayler (Tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái B́nh Duơng) thông báo về việc ông ta đă kịp sắp đặt cho người Mỹ thuộc văn pḥng tùy viên quân sự di tản bằng máy bay C-130 từ Tân Sơn Nhất.

    Nhưng lúc này lại nổ ra tranh căi giữa tướng Smith (chỉ huy cơ quan tùy viên quân sự Mỹ DAO) đang có mặt ở Tân Sơn Nhất với ông Martin. Ông Martin không tin lời Smith rằng đường băng ở Tân Sơn Nhất bị hư hại đến mức phải ngừng các chuyến bay nên ông lên xe riêng vào thẳng sân bay để kiểm tra thực tế.

    Một máy bay C-130 bị phá hủy, hai lính thủy quân lục chiến Mỹ tử thương, vài chiếc trực thăng bị cháy. Các chuyến bay di tản phải ngừng. Thấy máy bay bị hư hại nhưng vẫn c̣n dùng được, ông Martin lại điện về xin Tổng thống Ford cho tiếp tục các chuyến bay cỡ lớn.

    Martin yêu cầu Polgar tập hợp đủ 50 nhân viên CIA c̣n lại ở Sài G̣n, cùng 140 nhân viên sứ quán và lính thủy đánh bộ Mỹ bảo vệ về ṭa đại sứ, chờ lệnh.

    Tại Tân Sơn Nhất, dân chúng ào ra tận đường băng và máy bay không đáp xuống được. T́nh h́nh không thể kiểm soát nổi! Trong lúc đó, các bồn xăng trúng đạn pháo nổ và bốc cháy rừng rực ở góc văn pḥng Hăng hàng không Air America.

    Tướng Smith điện thoại tới Honolulu cầu cứu Đô đốc Gayler, Tư lệnh Quân đội Mỹ ở Thái B́nh Dương. Ông Gayler gọi Đại sứ Martin thông báo không thể tiếp tục di tản bằng C-130 được nữa.

    Miễn cưỡng, ông Martin đồng ư “Lựa chọn 4” trong kế hoạch di tản, với mật danh “Hành quân gió nhanh” (Operation frequent wind), là chỉ dùng trực thăng bốc đi từ ṭa đại sứ Mỹ. Martin gọi Kissinger yêu cầu ông đề nghị Tổng thống Ford chấp thuận.

    Lúc 10 giờ 51 sáng 29/4 (22 giờ 51 đêm 28/4, giờ Washington), Tổng thống Ford hạ lệnh bắt đầu cuộc “Hành quân gió nhanh”. Đài phát thanh quân đội Mỹ ở đường Hồng Thập Tự cho phát đi phát lại bài hát “Cherry Pink and Apple Blossom White”- mật hiệu cho người Mỹ và một số người Việt liên hệ biết là giờ phút di tản cuối cùng đă tới.

    Khi được lệnh di tản, mă sẽ được đọc trên đài phát thanh quân đội Mỹ bằng tiếng Anh. Mật mă là “nhiệt độ Sài G̣n là 105 độ và đang tăng lên” tiếp theo là ca khúc “I’m dreamming of a white Christmas”.

    Trước toà đại sứ Mỹ, t́nh trạng lộn xộn, xô xát để trèo tường diễn ra. Bên trong, các nhân viên cuống cuồng, vừa lo giữ trật tự an ninh, vừa đốt hủy tài liệu mật, nhưng một số được đựng trong túi nilon vẫn rơi văi.

    Phó văn pḥng CIA Sài G̣n LaGueux chợt phát hiện c̣n vài triệu dollar tiền mặt trong két sứ quán nên huy động người đóng vào bao tải để mang lên nóc ṭa đại sứ chờ trực thăng chở đi.

    Nhưng lúc này chẳng c̣n nhân viên người Việt nào giúp cho việc này. Thế là có chuyện tiền rơi như mưa từ trên nóc sứ quán, những đồng 20 USD, 50 USD và 100 USD, hầu hết bị cháy sém. Những người Việt chờ dưới mặt đất, tranh cướp nhau để kiếm khoản tiền ở trên trời.

    Chiếc trực thăng đầu tiên đáp xuống toà đại sứ Mỹ đúng hai giờ chiều 29/4. Có hai chỗ đáp, trực thăng lớn CH-53 đáp xuống sân băi đỗ ô tô, loại nhỏ CH-46 đáp trên nóc toà đại sứ.

    Trực thăng 50 chỗ nhưng cuối cùng phải cất cánh với 70 người. Tại Washington, Kissinger và Bộ trưởng Quốc pḥng Schlesinger ước tính là c̣n 760 người đang ở trong khuôn viên toà đại sứ, và quyết định gửi thêm 19 trực thăng và chỉ thế thôi.

    Ông Martin sẽ phải đi chuyến thứ 19-chuyến cuối cùng dự kiến kết thúc vào khoảng 4 sáng 30/4/1975. Đúng 4 giờ 45 phút sáng 30/4, viên phi công lái chiếc trực thăng CH-46 mang số hiệu Lady Ace 09 đáp xuống nóc toà đại sứ. Anh gỡ mảnh giấy đưa cho ông Martin: đó là lệnh của Tổng thống buộc ông phải ra đi trên chuyến bay cuối cùng này.

    Nếu không, như tiết lộ của Đô đốc Gayler “Tôi có quyền áp giải trong trường hợp ông Đại sứ không tuân lệnh Tổng thống”. Đại sứ Martin bơ phờ ôm lá cờ Mỹ bước lên chiếc Lay Ace 09 vào lúc 4 giờ 58 phút.

    Viên phi công phát tín hiệu “Tiger, Tiger, Tiger”, mật hiệu là đă đưa được ông Đại sứ lên trực thăng rồi. Hai giờ sau Martin gặp lại Polgar trên tàu sân bay Blue Ridge của Hạm đội 7.

    Vài giờ sau, toán lính thủy quân lục chiến gác toà đại sứ lần vào cao ốc, khoá chặt cửa sau lại, để số người muốn tị nạn không vào được nữa. Chiếc trực thăng cuối cùng, yểm trợ bằng sáu chiếc Cobra gắn đại liên, chở toán này cất cánh.

    11 giờ 30 ngày 30/4/1975, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trên đài phát thanh.

    (Theo Tô Nam lược dịch // Tienphong Online)
    Last edited by alamit; 27-02-2013 at 10:00 AM.

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hồ sơ mật của CIA:
    2/-Hai tài liệu mật của CIA về Các Tướng Lănh VN và gia đ́nh họ Ngô
    Thomas L. Ahern, Jr. / Nguyễn Kỳ Phong lược dịch



    Hai tác phẩm: “CIA and the Generals: Covert Support to the Military Government in South Vietnam” và “CIA and the House of Ngo: Covert Action in South Vietnam, 1954-1963.” Tác Giả: Thomas L. Ahern, Jr. Center for the Study of Intelligence ấn hành.

    Một số tiết lộ về cuộc chiến từ tài liệu CIA Lần đầu tiên trong lịch sử của Trung Ương T́nh Báo Hoa Kỳ (CIA), ban biên tập của cơ quan cho giải mật hai tập tài liệu quan trọng về liên hệ CIA và Việt Nam. “Lần đầu tiên” trong nghĩa này là hai quyển sách trên thuộc lọai (narrative history), có đầu đuôi, chú thích – và quan trọng hơn hết – tác giả là người thật, đọc nhiều tài liệu và viết lại có ngọn ngành cho độc giả.

    Đa số những tài liệu giải mật của CIA trước đây thuộc lọai nặc danh v́ lư do nghề nghiệp, hay là những tường tŕnh do nhân viên báo cáo về để “kính tường.”
    Gia đ́nh họ Ngô, CIA and the House of Ngo: Covert Action in South Vietnam, 1954-1963 (CIA và Những Điệp Vụ Mật ở Miền Nam, 1954-1963) nói về những hoạt động bên trong để giúp đỡ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, từ ngày ông Diệm về làm thủ Tướng cho đến ngày Tổng Thống Diệm bị hạ sát trong cuộc cách mạng 1 tháng 11-1963.
    Qua tài liệu này, lần đầu tiên chúng ta biết được, từ năm 1950 cho đến năm 1956, CIA có hai Sở t́nh báo ở Sài G̣n: một Sở CIA Saigon Station nằm dưới sự điều khiển thông thường từ bản doanh CIA ở Langley, Virginia; Sở kia, có tên là Saigon Military Mission, làm việc trực tiếp, và chỉ trả lời cho Giám Đốc Trung Ương T́nh Báo. Saigon Military Mission, theo Tài Liệu Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers) được giải mật trước đây, do Đại Tá Edward G. Lansdale chỉ huy. Lansdale đến Sài G̣n tháng 6-1954 với hai nhiệm vụ: huấn luyện những toán t́nh báo Việt Nam để gài lại ở miền Bắc trước ngày “di cư và tập kết” hết hạn; và, dùng mọi phương tiện ngầm (covert action) để giúp tân thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm. Nay, theo tác giả Thomas L. Aherns, chính Giám Đốc CIA Allen Dulles chỉ định đại tá Lansdale cho điệp vụ ở Sài G̣n – và cũng ra lệnh Lansdale làm việc trực tiếp cho ông. Tác giả Ahern viết, CIA có mặt từ năm 1950 để giúp đỡ quân đội Pháp xâm nhập và thu thập tin tức t́nh báo.
    Nhưng từ cuối năm 1953, khi thấy t́nh h́nh quân sự nguy ngập của Pháp, Hoa Thịnh Đốn thay đổi nhiệm vụ của CIA Saigon Station: Liên lạc và thu thập t́nh báo những thành phần quốc gia để lập một chánh thể chống cộng trong trường hợp Hoa Kỳ thay thế Pháp. Cùng lúc Hoa Thịnh Đốn gởi thêm một toán CIA để lo về quân sự, Saigon Military Mission. CIA and the House of Ngo tiết lộ một số chi tiết ly kỳ như, CIA liên lạc và làm thân với ông Ngô Đ́nh Nhu từ năm 1951, rất lâu trước khi Hoa Kỳ liên lạc với ông Diệm. Đầu năm 1954, khi có tin Hoa Kỳ chuẩn bị đề nghị quốc trưởng Bảo Đại và chánh phủ Pháp giải nhiệm hoàng thân Bửu Lộc và thay bằng ông Diệm, th́ ông Nhu là người đầu tiên CIA gặp để bàn về liên hệ của Hoa Kỳ đối với thủ Tướng tương lai Ngô Đ́nh Diệm.

    Liên lạc Ngô Đ́nh Nhu Tháng 4-1954, một nữ nhân viên Mỹ làm việc ở CIA Saigon Station, thông thạo tiếng Pháp, quen biết và liên lạc thân thiện với Bà Ngô Đ́nh Nhu. Từ nữ nhân viên Virginia Spence này, Sở CIA Saigon bắt được nhiều liên lạc với hầu hết những người thân trong gia đ́nh, hoặc thân cận với Nhà Ngô.
    Tháng 4-1954, CIA ở Hoa Thịnh Đốn gửi Paul Harwood sang làm cố vấn riêng cho ông Nhu. Tuy là nhân viên CIA, nhưng Harwood đóng vai một nhân viên Bộ Ngoại Giao, làm việc từ Ṭa Đại Sứ. Trong hai năm, Hardwood cố vấn là làm việc với ông Nhu để xâm nhập và ảnh hưởng đường lối ngoại giao quân sự của nền đệ nhất VNCH với Tổng Thống Diệm. Paul Hardwood thân thiện với gia đ́nh ông bà Nhu đến độ ông ta là người đỡ đầu cho Ngô Đ́nh Lệ Thủy, ái nữ của ông bà Nhu.

    Từ tài liệu này chúng ta cũng biết thêm, ông bà Nhu được đưa qua thăm viếng Mỹ trước Tổng Thống Diệm. Để lấy t́nh cảm và ảnh huởng với ông Nhu, đầu tháng 3-1957 ông bà Nhu được CIA mời qua thăm Hoa Thịnh Đốn. Tuy không có một chức vụ ǵ chánh thức với chính phủ nhưng ông Nhu được diện kiến Tổng Thống Dwight Eisenhower, hai Bộ Trưởng Ngoại Giao và Quốc Pḥng, và Giám Đốc CIA Allen Dullles. Tài liệu cho biết, với tài ăn nói và sắc diện, bà Nhu gây được nhiều chú ư với các thẩm quyền Mỹ. … “Bà Nhu là một ngôi sao trong dạ tiệc” do CIA khoản đăi. Hai tháng sau chuyến thăm viếng âm thầm của ông bà Nhu, đầu tháng 5-1957, Tổng Thống Diệm lên đường công du theo lời mời của chánh phủ Hoa Kỳ.

    Trong cuộc tranh chấp – rồi sau đó là giao chiến – giữa chánh phủ Diệm và quân phiến loạn B́nh Xuyên, CIA biết được hầu hết kế hoạch và khả năng của B́nh Xuyên, nhờ một cận thần của Bảy Viễn đang làm việc cho CIA. Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, một đảng chính trị thành lập để hổ trợ chính phủ Diệm, nhận tài chính và cố vấn từ CIA. Nhưng đến đầu năm 1960 th́ CIA cắt ngân khoản v́ cơ cấu nhân sự không c̣n hữu hiệu trong công tác tuyên truyền. CIA đă than phiền nhiều lần về những hoạt động của Đảng Cần Lao và hành vi của ông Ngô Đ́nh Cẩn. Nhưng mỗi lần CIA than phiền với ông Nhu về những hoạt động bí mật – đôi khi trái phép – của ông Cẩn, th́ ông Nhu “đưa hai tay lên trời” với một thái độ buông xuôi v́ ông không thể nào làm ǵ được.

    Ở một tài liệu khác cho biết, khoảng giữa năm 1956, CIA nhận được nguồn tin cho biết ông Cẩn đang bàn kế hoạch để loại trừ Bộ Trưởng Thông Tin Trần Chánh Thành và Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu ra khỏi ṿng ảnh hưởng ở Dinh Tổng Thống. Qua nhiều trang, chúng ta đọc được sự bất lực của chính phủ Sài G̣n đối với “lănh chúa” Ngô Đ́nh Cẩn ở miền Trung.

    Với hai Sở CIA ở Sài G̣n hoạt động độc lập nhau, báo cáo gửi về cho CIA ở Hoa Thịnh Đốn đôi khi trái ngược: Cố vấn Paul Hardwood th́ báo cáo tốt, nhân nhượng cho ông Nhu và có ư chỉ trích ông Diệm; Edward Lansdale ngược lại: bảo vệ ông Diệm và nói xấu ông bà Nhu. Cuối năm 1956, sau khi Lansdale bị triệu hồi về Mỹ, Al Ulmer, Trưởng Vụ Viễn Đông CIA, ra lệnh giải tán những ǵ c̣n lại của Saigon Military Mission – và thái độ của Hoa Kỳ cũng bắt đầu thay đổi với chính phủ Ngô Đ́nh Diệm.

    Liên lạc đối lập

    Đầu năm 1958 Hoa Kỳ cho phép CIA Saigon bắt liên lạc với các đảng chính trị đối lập. Tài liệu nói nhân viên của CIA mua chuộc và thành lập một lực lượng đối lập “ngay sau lưng ông Nhu,” để trong trường hợp phải thay đổi cấp lănh đạo mới. Cuộc đảo chánh 11 tháng 11-1960 là một “hăm dọa” của Hoa Kỳ đối với Tổng Thống Diệm: Nhân viên CIA có mặt ở tại bộ chỉ huy của đại tá Nguyễn Chánh Thi và kế bên ông Hoàng Cơ Thụy để giới hạn bước tiến của quân đảo chính – điệp viên Russ Miller khuyên đại tá Thi nên thượng lượng với ông Diệm, trong khi biết rơ quân ủng hộ chính phủ của đại tá Trần Thiện Khiêm đang trên đường từ Vùng IV về thủ đô tiếp cứu. Khi thấy thái độ trở mặt của CIA, lưới t́nh báo của ông Nhu cũng không hoàn toàn thụ động: Phó Sở CIA Saigon, Douglas Blaufarb, ngỡ ngàng khi ông khám phá ra người tài xế Việt Nam của ông không bị điếc như lúc được giới thiệu vào làm việc (do Trần Kim Tuyến giới thiệu); người tài xế không điếc mà c̣n thông thạo hai ngoại ngữ Anh và Pháp!

    Tài liệu thú nhận vào năm sau cùng của Nhà Ngô, Hoa Kỳ có một phần lớn trách nhiệm trong kế hoạch hạ bệ Tổng Thống Diệm. Nhưng chính gia đ́nh ông Diệm cũng hủy hoại, v́ sự chia rẽ từ anh em trong nhà. Từ mùa xuân năm 1963 ông Nhu yêu cầu CIA đừng nói lại những ǵ ông và CIA trao đổi. Và qua nhiều lần nói chuyện với CIA, ông Nhu tuyên bố ông muốn thay Tổng Thống Diệm! Trong khi đó bà Nhu th́ thường làm hùng làm hổ với Tổng Thống Diệm: trong cuộc bầu cử Hạ Viện năm 1963, bà Nhu muốn ủng hộ 30 ứng cử viên mà ba ta ưng ư. Ông Diệm không đồng ư, nhưng bà Nhu “cằn nhằn, to tiếng” cho đến khi Tổng Thống Diệm nhượng bộ. Bà Nhu cũng thắng thêm một lần nữa, khi đ̣i làm người chủ tọa và đọc diễn văn ngày Lễ Hai Bà Trưng – thay phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ như ông Diệm đă chỉ định. Riêng về ông Ngô Đ́nh Cẩn: ông Cẩn từ chối không ủng hộ hay giúp ông Nhu về Chương Tŕnh Ấp Chiến Lược ở Miền Trung. Ngày Lễ Quốc Khánh Hoa Kỳ, 4 tháng 7-1963, lần đầu tiên Tổng Thống Diệm cho phép các Tướng lĩnh VNCH tham dự tiệc ăn mừng do ṭa đại sứ tổ chức. Sau tiệc rượu ở khuôn viên ṭa đại sứ Hoa Kỳ, một vài Tướng lĩnh VNCH và nhân viên CIA kéo nhau ra quán để uống nữa. Tại quán rượu, Tướng Trần Văn Đôn nói với nhân viên CIA là các Tướng muốn đảo chính Tổng Thống Diệm. Thảm kịch của Nhà Ngô bắt đầu từ đó.

    Các Tướng lĩnh miền Nam
    Tài liệu thứ hai, CIA and the Generals: Covert Support to the Military Government in South Vietnam (CIA và Các Tướng Lĩnh: Những Hỗ Trợ Ngầm Cho Chính Phủ Quân Sự Việt Nam Cộng Ḥa), cũng tương đối “tối mật” so với những tài liệu được CIA công bố trước đây. Tài liệu trong CIA & Generals bắt đầu sau cuộc đảo chính 1 tháng 11-1963. Những ǵ đến từ tài liệu cho thấy ngay sau đảo chính, như một tập thể, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng không được ḥa thuận; và, như những liên hệ cá nhân, các Tướng đă nghi kỵ, ngờ vực lẫn nhau trước khi đảo chính.
    Trước khi đảo chính, Tướng Nguyễn Khánh đă nói xấu về hai Tướng Dương Văn Minh và Trần Thiện Khiêm với Tổng Thống Diệm và một số nhân viên CIA. Qua nhiều chi tiết, chúng ta thấy các Tướng làm việc chung v́ phải tựa vào nhau để mưu cầu lợi quyền lợi riêng, chứ không thật sự có chung một lư tưởng. Trước ngày Tướng Khánh “chỉnh lư” Tướng Minh và bốn Tướng Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, và Trần Văn Đôn, Tướng Khánh thường xuyên rỉ tai với CIA về tin đồn những Tướng nói trên sẽ theo Pháp để biến Việt Nam thành trung lập.

    Tháng 2-1964 Tướng Nguyễn Văn Thiệu đă đưa nhiều sĩ quan thuộc Đảng Đại Việt nằm vào những chức vụ quan trọng trong quân đội. Khi được hỏi để làm ǵ, Tướng Thiệu trả lời để triệt hạ cộng sản và những thành phần thân cộng. Nhưng CIA có nguồn tin cho biết ông Thiệu sẽ dùng sĩ quan Đại Việt để đảo chính ông Khánh. Và chuyện xảy ra đúng như vậy.

    Tướng Khánh rất ngây thơ khi “hù” Tướng Thiệu là Mỹ sẽ “chơi” ông. Nhưng, như chúng ta đă thấy, Mỹ chơi ông Khánh trước ông Thiệu!

    Chân dung một số vị Tướng

    Những chi tiết được giải mật trong CIA & Generals: Trong các Tướng VNCH, CIA kính trọng kiến thức của Tướng Lê Văn Kim nhất. Trong một buổi thuyết tŕnh về các kế hoạch “kín” đang thực hiện trên đất Bắc, trong khi mặt Tướng Dương Văn Minh “ngớ” ra với những chi tiết t́nh báo quân sự, Tướng Kim lấy được sự kính trọng của t́nh báo Hoa Kỳ với những câu hỏi rất chuyên nghiệp. Tướng Nguyễn Đức Thắng được người Mỹ kính nể. Trong một báo cáo, Giám Đốc CIA Richard Helms đề nghị cho Tướng Thắng cùng một lúc giữ hai Bộ Quốc Pḥng và Xây Dựng Nông Thôn,với tất cả cơ cấu và cố vấn Hoa Kỳ “nằm dưới quyền thống thuộc của Tướng Thắng.”

    Về Tướng Nguyễn Ngọc Loan, mặc dù người Mỹ không thích Tướng Loan v́ sự thẳng thắn của ông, nhưng họ nhận định Tướng Nguyễn Ngọc Loan là một người thật thà, can đảm, biết được ẩn ư của người Mỹ. Tướng Loan không sợ khi nói thật ư nghĩ của ông với t́nh báo Mỹ. Đầu năm 1967, khi biết được Hoa Kỳ đang đi sau lưng chính phủ VNCH, liên lạc với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, ông Loan nói với CIA là người Mỹ từ đây sẽ đi sau lưng người quốc gia … và sau cùng người Mỹ sẽ bỏ đi, chỉ c̣n VNCH một ḿnh đơn thân chống lại Bắc Việt.

    Cuối năm 1966 Hoa Kỳ có ư định “bắt liên lạc” với một vài nhân sự của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN). Lư luận của CIA là họ muốn xâm nhập vào nội bộ để gây chia rẽ giữa cấp lănh đạo MTGPMN và Hà Nội. Muốn lấy ḷng tin của MTGPMN, CIA xin chính phủ VNCH phóng thích vài nhân sự quan trọng của MTGPMN đang bị Cảnh Sát Quốc Gia VNCH giam giữ, trong đó có vợ của Trần Bạch Đằng (bà Mai Thị Vàng) và Trần Bửu Kiếm (bà Phạm Thị Yến), và một số cán bộ giao liên. Ban đầu VNCH phản đối, nhưng sau cùng v́ áp lực cũng phải cộng tác với Hoa Kỳ trong kế hoạch liên lạc với MTGPNM. Từ tháng 2-1967 cho đến tháng -1968, VNCH thả bà Vàng và bà Yến, cộng thêm 10 cán bộ giao liên phía bên kia. Đổi lại, phía MTGPMN chỉ thả ba tù binh Hoa Kỳ. Nhưng từ đó VNCH – nhất là Tướng Nguyễn Ngọc Loan – thấy Hoa Kỳ sẵn sàng “xé lẻ” nếu t́nh thế phù hợp với đường lối ngoại giao của họ.
    Qua các tài liệu giải mật sau này, chúng ta thấy CIA có một hồ sơ rất chi tiết về nhân sự và cơ cấu của MTGPMN. Thêm vào đó, CIA cũng có luôn những báo cáo của Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam (là hậu thân của MTGPMN từ tháng 6-1969) gởi về cho Trung Uơng Cục Miền Nam, cập nhật những diễn tiến ở Hội Đàm Paris 1968-1973.

    Nội bộ VNCH
    CIA xâm nhập sâu vào cơ cấu hành chính và nhân sự của VNCH trong khoảng 1967-1975, nhất là sau cuộc bầu cử Tổng Thống đầu tiên của nền Đệ Nhị Cộng Ḥa (1967). V́ kết quả bầu cử phải được Hạ Viện VNCH chứng nhận hợp pháp – nhất là một cuộc bầu cử mà hai ứng viên cùng chung liên danh (Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ), đă cấu xé nhau trước khi ngồi lại với nhau, và hầu hết liên danh thất cử nào cũng phản đối kết quả – Hoa Kỳ chỉ thị cho CIA phải t́m mọi cách bảo đảm Hạ Viện sẽ chứng nhận kết qủa bầu cử. Hạ viện bỏ phiếu thuận 58 trên 43, xác nhận liên danh Thiệu-Kỳ đắc cử.

    Tài liệu trong CIA & Generals nói t́nh báo Mỹ đă khuynh đảo một số dân biểu trong hai bầu cử Tổng Thống 1967 và 1971 (và bầu cử Quốc hội của năm 1970). CIA mua chuộc được 10 dân biểu, “nhưng muốn có thêm 10 tiếng nói” ủng hộ nữa, để chắc ăn về những dự luật đang nghị luận! Tài liệu cho biết CIA đă tốn bao nhiêu tiền để thành lập hay giúp đỡ các đảng phái chính trị với hy vọng các lực lượng này sẽ ủng hộ và xây dựng một thế lực phía sau Tổng Thống Thiệu. Đảng Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc, (của thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn) được CIA tài trợ với hy vọng trên. Nhưng khi biết được người đứng ra tổ chức là Đặng Đức Khôi – một thân tín của ông Kỳ – ông Thiệu từ chối ủng hộ. Để có một tổ chức riêng, ông Thiệu cho ra đời Lực Lượng Dân Chủ. Sau Đảng Dân Chủ, CIA tài trợ một lực lượng chính trị khác, có tên Đảng Liên Minh Cách Mạng Xă Hội, với hy vọng gom lại tất cả lực lượng chính trị thành một mặt trận chung, dưới sự lănh đạo chung của Tổng Thống Thiệu và phó Tổng Thống Kỳ. Nhưng vấn đề là hai ông Thiệu, Kỳ không c̣n muốn xuất hiện chung với nhau ngoài công cộng! Sau cùng, với sự nài nỉ của người Mỹ, và v́ lợi ích quốc gia, Khối Liên Minh được khai mạc ngày 4 tháng 7-1968, với sự chủ tọa của hai ông Thiệu và Kỳ. Khối Liên Minh tập họp hơn 25 đảng phái chính trị lớn nhỏ ở Miền Nam. CIA tài trợ Đảng này cho đến cuối năm 1969. Tuy nghe theo lời cố vấn của Hoa Kỳ, nhưng Tổng Thống Thiệu lúc nào cũng nghi ngờ dụng ư của người Mỹ. Ông nói với nhân viên CIA là không những VNCH phải đương đầu với sự xâm nhập của quân đội Bắc Việt vào Nam, mà c̣n phải đương đầu với sự xâm nhập của CIA vào nhân sự của chính phủ!

    Những tiết lộ khác trong CIA & Generals: T́nh báo của MACV biết rơ ngày giờ Bắc Việt sẽ tấn công qua vùng Phi Quân Sự trong trận tổng công kích Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, nhưng Hoa Kỳ không thông báo cho VNCH, hay tấn công vào các đơn vị Bắc Việt đang tập trung quân. Ngược lại, thái độ của đại Tướng Creighton Abrams và đại sứ Bunker rất lạc quan, hai ông tuyên bố – trong cao điểm của cuộc tấn công – là Bắc Việt sẽ mất hết quân sau trận tổng tấn công. Những chi tiết này làm người đọc không khỏi thắc mắc, là có phải Hoa Kỳ đă cố ư để cho cuộc tấn công xảy ra? Chi tiết này làm cho đọc giả nhớ lại câu đối thọai của Tổng Thống Richard Nixon với Henry Kissinger là “… sau trận này, hai bên phải có một bên hết quân.”

    Từ tháng 8-1972, để chuẩn bị cho những thương lượng sau cùng của Kissinger và Lê Đức Thọ ở Paris, CIA được lệnh phải làm hao ṃn sức chống đối của Tổng Thống Thiệu về một số điều khoản trong bản hiệp định (một trong những điều khoản ông Thiệu cực lực phản đối, là Hoa Kỳ đồng ư cho Bắc Việt để lại quân ở Miền Nam, Lào, Cam Bốt). Một số tài liệu giải mật ở giai đoạn này(tháng 8 1972 cho đến lúc kư Hiệp Định Paris, tháng 1-1972) cho thấy CIA có điệp viên nằm trong Trung Ương Cục, qua những tin tức họ nhận được về cuộc nói chuyện giữa Lê Đức Thọ và Kissinger.

    Tuy là tài liệu được giải mật, nhưng một số lớn chi tiết, tên tuổi của những điệp viên, điềm chỉ viên trong sách vẫn c̣n bị kiểm duyệt. Nhưng nếu độc giả gom những chi tiết trong CIA & Ngo, trong CIA & Generals, và so sánh với một số tài liệu đă được giải mật từ Bộ Ngoại Giao (Foreign Relations of the United States, Vietnam), đọc giả có thể suy luận ai là ai nằm dưới những lằn đen kiểm duyệt.

    Tác Giả: Thomas L. Ahern, Jr. / Nguyễn Kỳ Phong lược dịch

    Muốn tham khảo hai tác phẩm bằng Anh ngữ, xin theo địa chỉ sau:
    1. CIA and The Generals: h*tp://www.saigonecho.com/pdfs/CIA_AND_THE_GENERALS .pdf
    2. CIA and The House of Ngo h*tp://www.saigonecho.com/pdfs/CIA_AND_THE_HOUSE_OF _NGO.pdf

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hồ sơ mật của CIA:
    3/. CIA và gia đ́nh họ Ngô
    Trương Hùng (lược dịch)
    P1



    “CIA and the House of Ngo” (CIA và nhà họ Ngô) là 1 trong 6 quyển sách của nhà sử học Thomas L. Ahern Jr (cựu điệp viên CIA từng nhiều năm hoạt động tại chiến trường miền Nam Việt Nam) về các hoạt động bí mật của Cục T́nh báo trung ương Mỹ (CIA) tại Việt Nam, Lào, Campuchia trong chiến tranh Việt Nam.

    Trong loạt bài đầu tiên này, chúng tôi xin trích dịch một số nội dung liên quan đến những mối quan hệ bí mật giữa CIA với anh em Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu, những khúc mắc, mâu thuẫn giữa anh em họ Ngô với các quan thầy Mỹ, nguyên nhân, âm mưu của cuộc đảo chính ngày 1/11/1963 và sự sụp đổ của chế độ Diệm - Nhu.

    1. "Chọn mặt gửi vàng"

    Năm 1951, CIA bắt đầu các hoạt động tại Việt Nam. Nhiệm vụ ban đầu của cơ quan này là hỗ trợ người Pháp duy tŕ thế trận chống Việt Minh do Chủ tịch Hồ Chí Minh lănh đạo. Tuy nhiên, đến giai đoạn 1953-1954, người Pháp ngày càng thất thế, nhất là sau trận đại bại trong chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 5/1954) dẫn đến việc kư kết Hiệp định Geneva (tháng 7/1954).

    Washington bắt đầu chuẩn bị kế hoạch nhảy vào thay chân Pháp, và nhiệm vụ của CIA là chuyển sang t́m kiếm một nhân vật đủ bản lĩnh để đứng ra xây dựng “thành tŕ chống Việt Minh” ở miền Nam Việt Nam.

    Mối quan hệ giữa anh em Diệm - Nhu với CIA thực ra đă bắt đầu từ khá lâu trước khi ông Diệm lên nắm quyền (tháng 7/1954). Ngay từ khi CIA mới đến Việt Nam, Ngô Đ́nh Nhu là một cầu nối liên hệ cực kỳ quan trọng.

    Trong giai đoạn đầu (từ năm 1950 đến trước tháng 1/1953), ông Nhu là đường dây liên lạc duy nhất của CIA trong các hoạt động chính trị tại Sài G̣n. Và xuyên suốt quá tŕnh 9 năm hợp tác giữa CIA với chính quyền Sài G̣n, ông Nhu luôn đóng vai tṛ cầu nối của mọi liên lạc giữa CIA với người anh trai.

    Anh em Diệm - Nhu.

    Mặc dù chẳng có thành tích ǵ nổi bật, nhưng Ngô Đ́nh Diệm vẫn là chọn lựa số 1 của các quan thầy Mỹ - Pháp, và sau đó trở thành thành tŕ chống Cộng của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, v́ Ngô Đ́nh Diệm có một số đặc điểm hiếm có vào thời đó: tinh thần chống Cộng, theo đạo Thiên Chúa và biết tiếng Anh. Tuy nhiên, sự chọn lựa này cũng đă tạo ra mầm mống chống đối trong hàng ngũ các tướng tá xuất thân từ ḷ đào tạo của Pháp và cả các giáo phái miền Nam, như Cao Đài, Ḥa Hảo và lực lượng B́nh Xuyên của tướng Bảy Viễn...

    Từ cuối năm 1953 đến trước khi Ngô Đ́nh Diệm lên làm Thủ tướng, Ngô Đ́nh Nhu tiếp tục là cầu nối liên lạc giữa CIA với Diệm. Thông qua Nhu, CIA đă t́m hiểu nắm bắt được những ư định của Ngô Đ́nh Diệm cũng như các tham vọng tương lai của Nhu. Nhu đă thẳng thắn tuyên bố với CIA rằng, ông ta có khả năng "cầm lái" anh ḿnh.

    Thực tế, Nhu vừa là người thân, vừa là cố vấn thân cận nhất, luôn luôn ở sát cạnh Diệm để kịp thời đưa ra những quyết sách theo đúng ư đồ của ḿnh. CIA nhận định: muốn điều khiển Diệm tất phải tác động thông qua Nhu. Điều này cộng với tài đa mưu túc trí và ḷng nhiệt t́nh cộng tác đă giúp Nhu trở thành trọng tâm trong mọi kế hoạch hành động bí mật của CIA tại Việt Nam.

    2. Vài nét về trùm t́nh báo Edward Lansdale

    CIA có 2 cơ sở hoạt động tại Sài G̣n, bao gồm: Trạm CIA, thường gọi là trạm chính quy, đảm nhiệm các hoạt động chính của CIA; và trạm thứ hai, c̣n gọi là "trạm Lansdale", bao gồm các cố vấn, nhân viên ngoại giao hoạt động ngầm từ bên trong Ṭa đại sứ Mỹ, dưới quyền chỉ huy của trùm t́nh báo Edward Lansdale.

    Tháng 4/1954, Paul Harwood được điều động từ Manila, Philippines đến Sài G̣n, hoạt động bên trong Trạm CIA, hỗ trợ Trưởng trạm Emmett McCarthy trong việc tiếp cận anh em Diệm - Nhu. Hai tháng sau (6/1954), Đại tá Edward Lansdale cũng xuất hiện tại Ṭa đại sứ Mỹ với chức vụ Tùy viên Không quân. Thực chất vai tṛ của 2 ông này là cố vấn cho anh em Diệm - Nhu, và cả 2 đă hoạt động như một cặp bài trùng cho đến khi Harwood về nước tháng 4/1956.

    Chuyên gia đảo chính Lansdale, năm 1963.

    Trước đây, Lansdale từng đến Việt Nam vào năm 1953 trong thành phần phái bộ quân sự Mỹ do tướng John O'Daniel dẫn đầu hỗ trợ Pháp đang ngày càng thất thế. Một điều thú vị là Lansdale không phải là người của CIA.

    Ông ta xuất thân từ OSS (Văn pḥng phục vụ chiến lược, tiền thân của CIA), nhưng hoạt động t́nh báo khắp nơi theo sự điều động của Chính phủ Mỹ. Ông ta từng được Washington giao 5 triệu USD bay sang Philippines hỗ trợ chính quyền Elpidio Quirino chống lại lực lượng Hukbalahap (quân đội của đảng Cộng sản Philippines thời đó). Sau đó, Lansdale kết thân với Ramon Magsaysay và giúp ông này giành thắng lợi trước Quirino trong cuộc bầu cử cuối năm 1953 và lên làm Tổng thống Philippines.

    Đến Sài G̣n lần này, Lansdale hoạt động dưới vỏ bọc Tùy viên Không quân bên trong Ṭa đại sứ Mỹ. Thực chất, Đại tá Lansdale chính là "trưởng trạm 2" của CIA tại Sài G̣n, có nhiệm vụ giúp Ngô Đ́nh Diệm xây dựng nhà nước "dân chủ" trên vùng lănh thổ từ vĩ tuyến 17 trở vào làm thành tŕ chống Cộng tại Đông Nam Á. Nhờ kinh nghiệm và thành công tại Philippines, Lansdale tự tin rằng ông ta đă nắm trong tay "bí quyết" đánh bại các cuộc nổi dậy của quân cách mạng.

    V́ thế tháng 7/1954, Lansdale mạnh miệng tuyên bố trước Giám đốc CIA Allen Dulles rằng, mục tiêu của ông ta không ǵ khác hơn là xây dựng một "nền tảng chính trị" ở Đông Dương, nếu thành công, sẽ "giúp CIA nắm quyền kiểm soát chính phủ và thay đổi toàn bộ bầu không khí chính trị" tại đây.

    Thực tế sau năm đầu của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm, Lansdale vẫn chưa thể làm được như đă tuyên bố. Mặc dù Lansdale luôn cố gắng tạo ảnh hưởng đối với Diệm để thuận tiện việc triển khai các chương tŕnh, chiến lược của Washington tại miền Nam Việt Nam, nhưng tính thụ động, ngoan cố và chính sách cai trị độc tài, phản dân chủ của Ngô Đ́nh Diệm cộng với sự tham nhũng, lộng quyền của Nhu đă không chỉ làm hỏng nhiều kế hoạch của Lansdale mà rốt cuộc c̣n làm sụp đổ chế độ cộng ḥa mà CIA đă cất công hỗ trợ xây dựng.

    3. CIA và cuộc di dân lịch sử 1954-1955

    T́nh h́nh rối loạn trong những tuần lễ đầu sau khi Diệm lên nắm quyền và nhất là sau khi Hiệp định Geneva được kư kết (tháng 7/1954) đặt chính quyền non trẻ của ông ta trong t́nh trạng bị đe dọa triền miên. Chúng cũng là nỗi ám ảnh thường trực đối với các trạm CIA, cho nên CIA luôn phải t́m cách củng cố nền tảng chính trị cho Diệm - Nhu, cả ở trong và ngoài vĩ tuyến 17.

    Không chỉ lo ngại bị miền Bắc "thôn tính", CIA c̣n lo Diệm có thể dễ dàng bị các thế lực chống đối trong Nam như tướng Nguyễn Văn Hinh, bác sĩ Phan Quang Đán thuộc phe đối lập... lật đổ, trong khi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm vẫn chưa thu phục được ḷng dân, nhất là vùng nông thôn.

    Các điều khoản trong Hiệp định Geneva đưa ra 2 thời hạn để các bên thực thi: thứ nhất là thời hạn 300 ngày để những người Việt muốn theo bên nào th́ di cư theo ư nguyện, lấy vĩ tuyến 17 và ḍng sông Bến Hải làm ranh giới tạm chia đôi đất nước Việt Nam; và thời hạn thứ 2 là vào tháng 7/1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất trên toàn quốc.

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hồ sơ mật của CIA:
    3/. CIA và gia đ́nh họ Ngô
    Trương Hùng (lược dịch)
    P2



    Sự hợp tác t́nh báo giữa CIA với anh em họ Ngô trong hoạt động thu thập thông tin t́nh báo chống phá cách mạng miền Bắc và “Việt Cộng” trong Nam đă manh nha từ những tháng đầu của chế độ Ngô Đ́nh Diệm (11/1954). Tuy vậy, các nỗ lực hợp tác ban đầu không đi đến đâu do CIA c̣n phải lo hỗ trợ anh em Diệm - Nhu đối phó với các thế lực chống đối.

    Kể từ cuối năm 1956, sau khi Paul Harwood (Trạm CIA) và Ed Lansdale (trạm 2 bên trong Ṭa đại sứ) rời Việt Nam, hoạt động của CIA tại Việt Nam cũng thay đổi theo hướng tăng cường thu thập tin t́nh báo chống Cộng. Từ đó, hợp tác t́nh báo giữa CIA và anh em Diệm - Nhu cũng được hâm nóng và đẩy mạnh hơn trước.

    Nỗ lực hợp tác t́nh báo ban đầu giữa CIA và SEPES

    Cho đến cuối năm 1954, các kết quả hợp tác từ mối quan hệ giữa Mỹ với chính quyền Ngô Đ́nh Diệm chủ yếu xoay quanh việc xác lập ảnh hưởng của CIA và giúp Diệm ổn định chính quyền ở miền Nam. Việc thu thập tin t́nh báo về miền Bắc vẫn chưa mang lại kết quả ǵ đáng kể. Hầu như Diệm - Nhu chẳng nắm được mấy thông tin về miền Bắc. Do vậy, Trưởng trạm CIA McCarthy muốn t́m cách giúp Diệm thiết lập một cơ quan t́nh báo đối ngoại nhằm chống phá miền Bắc.

    McCarthy nhận thấy cần phải tiếp cận người Việt Nam thông qua Đại sứ Heath hơn là sử dụng kênh Harwood-Nhu. Heath là một người có tính độc lập cao, từng dự liệu về tương lai hợp tác khó khăn giữa phái bộ Mỹ với anh em Diệm - Nhu. Harwood cố gắng hỗ trợ bằng cách xúi Diệm đến "nhờ vả" Ṭa đại sứ.

    Tháng 11/1954, Diệm đến Ṭa đại sứ, có Lansdale đi kèm. Sau khi "thăm ḍ" ư tứ đối phương, cuối cùng giữa Diệm và Đại sứ Heath cũng nhất trí được kế hoạch hợp tác liên kết t́nh báo. Vấn đề c̣n lại là đặt trụ sở của liên minh t́nh báo này ở đâu, bên trong bản doanh quân đội hay trong Bộ Quốc pḥng.

    Rốt cuộc, Viện Nghiên cứu chính trị xă hội (SEPES) - bộ phận t́nh báo thuộc đảng Cần lao của Nhu do Trần Kim Tuyến lănh đạo - được chọn đứng ra liên kết với CIA. Tuyến không có kinh nghiệm t́nh báo, nhưng người phó của ông ta tên là Hoàng Ngọc Diệp th́ rất rành và sẵn sàng hợp tác trong liên minh với CIA.

    Với sự hỗ trợ của CIA, Diệp bắt đầu rà lại toàn bộ số điệp viên cộng tác với CIA c̣n nằm lại ở miền Bắc và cả những thành phần trong Nam có thể trở về Bắc giả làm "kẻ đào thoát" để cài cắm, nằm vùng.

    Mặc dù có liên minh CIA-SEPES, Diệm vẫn tiếp tục phụ thuộc vào CIA để thu thập tin t́nh báo và CIA vẫn luôn cố gắng giúp chính phủ Diệm xây dựng năng lực t́nh báo quốc gia riêng. Cơ quan T́nh báo an ninh đối nội thời Pháp thuộc là Sureté được đổi tên lại là Cục Cảnh sát đặc biệt (PSB) vẫn c̣n lưu trữ hồ sơ về Việt Minh và thành phần cộng tác trong Nam, v́ thế CIA khai thác PSB để theo dơi, thu thập thông tin về Việt Cộng.

    PSB đă tỏ ra hợp tác rất tích cực. Tuy nhiên, nỗ lực liên kết t́nh báo nhằm xây dựng một cơ quan t́nh báo độc lập cho chính quyền Diệm đă không đi đến đâu, sớm bị lăng quên khi những vấn đề bất ổn với các giáo phái tiếp tục bùng phát vào những tháng đầu năm 1955. Lansdale và Harwood do quá bận rộn giải quyết vấn đề giáo phái nên nỗ lực thu thập tin tức t́nh báo về miền Bắc trong giai đoạn này đành bị gác lại.

    Tṛ hề trưng cầu dân ư đưa Ngô Đ́nh Diệm lên làm Tổng thống miền Nam

    Sử gia Thomas L. Ahern Jr đă viết rằng không có sự trợ giúp của CIA thông qua cặp bài trùng Lansdale-Harwood th́ chế độ Ngô Đ́nh Diệm khó trụ nổi quá 6 tháng đầu tiên. CIA (cụ thể là Lansdale và Harwood) đă giúp Diệm từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, hết thu phục các giáo phái (đặc biệt là Cao Đài Tây Ninh) rồi đến đập tan âm mưu đảo chính của tướng Nguyễn Văn Hinh, chỉ huy quân đội thân Pháp vào cuối năm 1954.


    Ngồi hàng đầu, trái qua: tướng Nguyễn Văn Hinh, tướng Lê Văn Tỵ, Ed Lansdale và phụ tá Joe Redick.

    Nhưng cuộc "tảo thanh" các giáo phái và lực lượng B́nh Xuyên diễn ra cuối tháng 4/1955 mới là vụ căng thẳng nhất trong giai đoạn đầu b́nh ổn chính quyền Ngô Đ́nh Diệm. Đó cũng là cao điểm hợp tác giữa CIA với anh em Diệm - Nhu. Nhờ sự hỗ trợ đắc lực của Lansdale và Harwood, anh em Diệm - Nhu đă dẹp tan được "mối họa" B́nh Xuyên, buộc Bảy Viễn phải rút lực lượng về mật khu Rừng Sác cố thủ.

    Không những thế, cái gương B́nh Xuyên c̣n có tác dụng răn đe, khiến cho lực lượng Ḥa Hảo ở miền Tây phải co ṿi, rụt cổ, trong khi phái Cao Đài đă về theo Diệm từ sau cuộc thương thảo của Lansdale với tướng Trịnh Minh Thế mùa thu năm 1954. Tháng 7/1955, thông qua sự trung gian thương lượng của Lansdale, các lực lượng quân sự c̣n lại của Cao Đài, Ḥa Hảo đă đồng ư sáp nhập vào quân đội quốc gia.

    Sau những biến động đó, Diệm bắt đầu tính đến chuyện phế truất Vua Bảo Đại nhằm hợp thức hóa chế độ cầm quyền của ông ta từ vĩ tuyến 17 trở vào để "né" Hiệp định Geneva (tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 7/1956). Washington không đồng t́nh kế hoạch của Diệm v́ cho rằng thời cơ chưa đến, và không đủ cơ sở pháp lư cho việc đó. Thế nhưng, Lansdale lại là người đă giúp Diệm thực hiện ư đồ bằng cách hiến kế Diệm tiến hành tṛ hề trưng cầu dân ư ngày 23/10/1955, với kết quả có tới 98% phiếu ủng hộ Diệm lên thay cựu hoàng Bảo Đại.

    Sau đó 3 ngày (26/10), Diệm tự phong làm Tổng thống, truất phế Vua Bảo Đại, khai sinh nền Đệ nhất Cộng ḥa. Điều nực cười ở đây là tổng số phiếu đă kiểm lại nhiều hơn tổng số cử tri đăng kư đến 150.000 phiếu (!?). Trạm CIA, Ṭa đại sứ, Tổng hành dinh CIA, Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao, tất cả đều biết việc ǵ đă xảy ra đằng sau màn kịch khôi hài này nhưng đều coi như không hay biết ǵ cả.

    Sau khi tướng Trịnh Minh Thế chết (cuối tháng 4/1955), ảnh hưởng của Lansdale và Harwood đối với anh em Diệm - Nhu cũng suy yếu dần. Mặc dù Lansdale và Harwood vẫn làm cố vấn cho Diệm - Nhu cho đến hết kỳ nhiệm vụ, nhưng quan hệ giữa đôi bên đă có phần lạnh nhạt hơn và không ít lần tranh căi, mâu thuẫn gay gắt.

    Tháng 4/1956, Harwood măn nhiệm vụ rời Sài G̣n. Tháng 12/1956, đến lượt Lansdale cũng măn nhiệm trở về Washington làm việc trong Bộ Quốc pḥng. Trạm CIA do Lansdale chỉ huy bên trong Ṭa đại sứ cũng ngưng hoạt động từ đó, và CIA chỉ c̣n một trạm duy nhất tại Sài G̣n.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 3
    Last Post: 03-01-2013, 04:26 PM
  2. Replies: 5
    Last Post: 18-11-2012, 04:18 PM
  3. Replies: 19
    Last Post: 19-08-2012, 04:26 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 31-08-2011, 05:56 AM
  5. Replies: 1
    Last Post: 23-06-2011, 10:17 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •