Page 1 of 4 1234 LastLast
Results 1 to 10 of 32

Thread: TưỚng Huyền thoại Vơ Nguyên Giáp

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TưỚng Huyền thoại Vơ Nguyên Giáp

    TưỚng Vơ Nguyên Giáp và tiẾn tŕnh bí Ẩn cỦa kẾ hoẠch tẤn công TẾt MẬu Thân (1968)
    General Vơ Nguyên Giáp and the Mysterious Evolution of the Plan for the 1968 Tết Offensive
    Merle L. Pribbenow II
    Nguyễn Việt dịch



    Cuộc tấn công Tết Mậu Thân, mà người Việt Nam gọi là “Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa” có lẽ là sự kiện có sức nảy nở lớn trong lịch sử cuộc chiến tranh dài dặc của Mỹ tại Việt Nam. Như người Việt Nam vẫn thích tuyên bố, cuộc tấn công Tết “đă làm biến đổi cục diện”, thay đổi toàn bộ tính chất của cuộc chiến, và phần lớn sách vở lịch sử về chiến tranh có thể chia một cách rơ ràng thành hai giai đoạn “trước Tết” và “sau Tết”.

    Câu chuyện Tết Mậu Thân của phía Mỹ được kể lại vô cùng tỉ mỉ, từ cấp độ chiến lược tới cấp độ chiến thuật, nhưng thật đáng kinh ngạc v́ người ta biết được rất ít về nguồn gốc kế hoạch cuộc tấn công Tết bên phía Việt Nam. Các sử gia từng bàn nhiều về việc thành viên hay các thành viên nào của giới lănh đạo cộng sản Việt Nam đă có ư tưởng về cuộc tấn công Tết, những ai ủng hộ ư tưởng này và những ai phản đối, nhưng các bàn luận thường chỉ dựa trên rất ít bằng cứ. Một số xác định đạo diễn của cuộc tấn công Tết Mậu Thân là tướng Vơ Nguyên Giáp, tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, người từng được cả thế giới vinh danh ở tư cách một chiến lược gia quân sự hơn một thập niên trước đó với chiến thắng trước người Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954. Những người khác lại cho rằng ư tưởng về cuộc tấn công Tết bắt nguồn từ vị tướng đă quá cố Nguyễn Chí Thanh, người cho tới khi chết vào tháng Bảy năm 1967 vẫn lănh đạo nỗ lực của cộng sản chống lại các lực lượng Mỹ tại Việt Nam Cộng ḥa. Một vài người khẳng định cuộc tấn công là một nỗ lực tuyệt vọng của những người cộng sản nhằm lật ngược một t́nh thế khi họ đang phải đối mặt với thất bại không thể tránh khỏi, c̣n những người khác tuyên bố cuộc tấn công là kết quả của một nhận định quá mức lạc quan của giới lănh đạo cộng sản về t́nh h́nh Việt Nam Cộng ḥa. Một số học giả đă kết nối quyết định tung ra cuộc tấn công Tết với cuộc đấu tranh chia rẽ bên trong khối chóp bu chính trị về các khác biệt ư hệ liên quan đến sự đối đầu của phe cộng sản giữa Trung Quốc và Liên Xô (vào quăng thời gian ấy Liên Xô đang ép Việt Nam điều đ́nh một thỏa thuận với Mỹ trong khi Trung Quốc bắt Việt Nam phải tiếp tục chiến đấu và từ chối đối thoại với Mỹ).[1]

    Chỉ tới khi, hoặc trừ phi, người Việt Nam công khai hóa các hồ sơ nội bộ của Bộ Chính trị và Bộ Tư lệnh tại Hà Nội, bằng không sẽ không thể có lời đáp cuối cùng, tối hậu cho những câu hỏi trên. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đă có một số sách vở, tài liệu của người Việt Nam, chiếu một ánh sáng mới vào sự bí ẩn và cho phép chúng ta có được nhiều kết luận đầy đủ thông tin hơn. Thông tin mới cho thấy tướng Vơ Nguyên Giáp và tướng Nguyễn Chí Thanh đều không phải là người nghĩ ra ư tưởng về cuộc tấn công Tết; bản thân Hồ Chí Minh cũng phản đối cuộc tấn công; cái kế hoạch sau này được thực hiện như đă xảy ra là kết quả của một thỏa thuận ngầm giữa tướng Văn Tiến Dũng, thuộc cấp ở cấp cao nhất của tướng Vơ Nguyên Giáp, và tổng bí thư đảng cộng sản Lê Duẩn, đối thủ của tướng Vơ Nguyên Giáp trong một quăng thời gian rất dài; Vơ Nguyên Giáp phản đối cuộc tấn công Tết mạnh mẽ đến mức sau đó ông bị mất quyền, không chỉ không được tham dự vào tiến tŕnh lập kế hoạch mà c̣n phải rời Việt Nam sang Đông Âu và không trở về cho tới khi cuộc tấn công Tết đă thực sự mở màn. Mặc dù vẫn c̣n lại vấn đề về tầm quan trọng của vai tṛ của những khác biệt về ư hệ trong cuộc đấu đá chia rẽ nội bộ nổ ra bên trong Bộ Chính trị Việt Nam ở quá tŕnh ra quyết định, có vẻ như là các khác biệt ư thức hệ, được tưởng tượng ra hoặc có thật, thực tế đă được phe chiến thắng sử dụng nhằm gia cố và bảo vệ vị thế của ḿnh.



    Các tiền đề của kế hoạch

    Nguồn gốc ư tưởng cuộc “Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa” Tết có thể được t́m thấy ngay từ đầu những năm 1960. Tháng Mười hai năm 1963, chỉ một tháng sau khi tổng thống Việt Nam Cộng ḥa Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đă họp tại Hà Nội để bàn luận và thông qua Nghị quyết hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành. Nghị quyết này nhận định rằng “tổng công kích, tổng khởi nghĩa sẽ là hướng phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam để đạt tới toàn thắng”.[2] Trung ương Đảng dự tính khả năng chiến thắng cuộc chiến một cách nhanh chóng, trước khi Mỹ quyết định có nên điều các đội quân Mỹ tới cứu chế độ Việt Nam Cộng ḥa hay không. Vẫn duy tŕ đường hướng chung về việc tiến hành một cuộc “chiến đấu lâu dài” ở miền Nam, Nghị quyết 9 kêu gọi một nỗ lực đến mức tối đa nhằm “tranh thủ thời cơ thuận lợi, tập trung lực lượng, quyết tâm giành cho được những thắng lợi có tính chất quyết định trong mấy năm tới”.[3] Tuy nhiên, theo nghị quyết, “tổng công kích, tổng khởi nghĩa”, cái có thể rốt cuộc sẽ lật đổ chế độ miền Nam chỉ có thể được tung ra sau khi quân đội Việt Nam Cộng ḥa đă bị “tiêu hao” và trở nên kiệt quệ tới mức không c̣n đủ sức đàn áp những cuộc nổi dậy của quần chúng nằm ở trung tâm cuộc nổi dậy chung thuộc kế hoạch lớn về tổng tiến công và nổi dậy nữa. Nghị quyết nhận định nhiệm vụ chiến lược của các lực lượng vũ trang cộng sản tại miền Nam sẽ là “làm tan ră quân đội tay sai, công cụ chủ yếu của chế độ địch, tạo điều kiện để thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, lật đổ chính quyền phản động ở miền Nam”.[4]

    Tháng Chín năm 1964, Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản họp tại Hà Nội để đánh giá t́nh h́nh và xem xét quá tŕnh thực hiện Nghị quyết hội nghị IX của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Bộ Chính trị quyết định tiến hành một đ̣n mạnh mẽ nhằm nhanh chóng tiêu diệt quân đội Việt Nam Cộng ḥa để “giành thắng lợi quyết định”. Ngoài việc điều các đơn vị chính quy lớn đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam (cấp trung đoàn) vào miền Nam để chiến đấu và ra lệnh mở một loạt chiến dịch cấp trung đoàn và sư đoàn với mục đích đè bẹp Quân lực Việt Nam Cộng ḥa,[5] Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam cũng chỉ thị phải chuẩn bị tung ra cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa. Chiến dịch sẽ được bắt đầu sau khi quân đội Việt Nam Cộng ḥa đă bị nghiền nát, và sẽ hướng thẳng vào thành phố thủ phủ miền Nam, Sài G̣n.

    Một cuốn sách của cộng sản thời kỳ hậu chiến tranh miêu tả kế hoạch mang bí số “Kế hoạch X” như sau:

    “Trong mùa thu năm 1964… Trung ương Cục miền Nam lập một kế hoạch nhằm chuẩn bị nắm thời cơ tiến hành một cuộc tổng công kích và khởi nghĩa với mục tiêu nhắm đến một thắng lợi quyết định. Kế hoạch được đặt bí số “Kế hoạch X”… Khu vực trung tâm mà Kế hoạch X hướng tới là Sài G̣n-Gia Định… Trong quư ba năm 1964, một cơ quan đặc chủng, được tạo nên từ các thành viên của Quân ủy Trung ương thuộc Trung ương Cục miền Nam và các chỉ huy quân sự của Vùng Quân sự Sài G̣n-Gia Định được tạo nên để thực thi kế hoạch… Theo Kế hoạch X, Vùng Quân sự Sài G̣n-Gia định phải nhanh chóng lập ra các đơn vị đặc công thành đủ sức mạnh để tiến công và chiếm lấy những mục tiêu quan trọng trong thành phố, đồng thời lập ra các đơn vị chiến đấu có vũ trang và các đơn vị tự vệ cho mỗi nhánh nhằm cung cấp xương sống cho phong trào nổi dậy chung. Vùng Quân sự cũng sẽ lập ra năm tiểu đoàn mũi nhọn có thể được sử dụng tại năm khu vực bao quanh vùng ngoại ô của thành phố, đủ sức tiến sâu vào thành phố từ năm hướng. Những tiểu đoàn này có thể nhanh chóng hỗ trợ các đơn vị đặc công thành để giúp họ nắm giữ những mục tiêu riêng lẻ trong khi chờ quân chủ lực của chúng ta và hỗ trợ từ phong trào nổi dậy chung của người dân.”[6]

    Ư tưởng chia thành phố thành năm khu vực và ư tưởng điều các tiểu đoàn mũi nhọn vào mỗi khu vực nhằm hỗ trợ các nhóm đặc công và “nổi dậy chung” trong khi chờ các đơn vị lớn hơn từ bên ngoài tới nơi sau này sẽ được sử dụng trong kế hoạch về các cuộc tấn công Tết Mậu Thân vào Sài G̣n.

    Trong một lá thư đề tháng Hai năm 1965, tổng bí thư Lê Duẩn, một người trung thành với các ư tưởng “tổng khởi nghĩa” và “chiến đấu trong thành phố” và có vẻ như là người ủng hộ Kế hoạch X mạnh mẽ nhất, giải thích kế hoạch cho tư lệnh cộng sản ở miền Nam Việt Nam, tướng Nguyễn Chí Thanh, như sau: “Vấn đề hiện nay của chúng ta là tiếp tục mở rộng sự kiểm soát tại vùng nông thôn và chuẩn bị thực hiện một cuộc tổng khởi nghĩa. Các đô thị sẽ trở thành điểm trọng tâm cho cuộc tổng khởi nghĩa sắp tới.”[7]

    Lê Duẩn nói điều kiện tiên quyết là các lực lượng cộng sản phải chuẩn bị cho t́nh h́nh “bằng cách tiến công và tiêu diệt ba hoặc bốn sư đoàn chính quy ngụy trên chiến trường trong các đợt sóng liên tiếp những cuộc tiến công của lực lượng chúng ta.” Khi điều này đă được hoàn thành, Lê Duẩn nói với tướng Nguyễn Chí Thanh, “Chúng ta sẽ tiến hành một cuộc tổng khởi nghĩa phối hợp với một cuộc tiến công quân sự chung hướng thẳng vào trái tim quân địch để nắm kiểm soát chính quyền. Điều này sẽ hạ gục tinh thần quân đội ngụy. Chiếm ưu thế từ cơ hội ấy, chúng ta sẽ tiến hành những cuộc tiến công quân sự mạnh mẽ đi đôi với những tấn công lớn về chính trị và quân đội của nhân dân, gây tiêu hao cho quân địch và bằng cách đó tạo ra khả năng làm sụp đổ những đơn vị c̣n lại của quân đội ngụy.”[8]

    Các yếu tố khác của kế hoạch được Lê Duẩn tŕnh bày trong lá thư, bao gồm việc tạo ra một tổ chức chính trị “mặt trận thứ hai” kiên quyết mang tính trung lập nhằm lập một chính phủ mới và điều đ́nh việc rút quân của Mỹ, sau này sẽ được lặp lại trong kế hoạch cuộc tấn công Tết Mậu Thân.[9] Cuối cùng, cũng như thái độ ông sẽ có trong khi lên kế hoạch cho cuộc tấn công Tết Mậu Thân, Lê Duẩn kiên quyết phủ nhận lập luận cho rằng cuộc tổng nổi dậy của các thành phố chỉ được tiến hành khi nào chiến thắng là chắc chắn, cho rằng nếu những cuộc tấn công tại các thành phố thất bại, các lực lượng cộng sản có thể sẽ chỉ đơn giản là rút lui, tập hợp lại, rồi sau đó sẽ thử lại lần nữa. Lê Duẩn viết:

    “Tuy nhiên, nếu v́ lư do nào đó mà những cuộc nổi dậy tại các đô thị gặp khó khăn và chúng ta buộc phải rút lui lực lượng, th́ cũng không vấn đề ǵ. Đó sẽ chỉ là một dịp cho chúng ta diễn tập và rút ra các bài học kinh nghiệm nhằm chuẩn bị cho sau này. Lực lượng của đồng chí Fidel Castro đă tấn công các đô thị ba lần mới thành công. Nếu chúng ta tiến vào được các đô thị nhưng sau đó phải rút lui, th́ vẫn không phải lo lắng ǵ, bởi toàn bộ vùng nông thôn và rừng núi đều thuộc về chúng ta – vị thế và lực lượng của chúng ta đều rất mạnh tại các vùng đó.”[10]

    Trong một bức thư khác gửi Nguyễn Chí Thanh vào tháng Năm 1965, sau khi rất nhiều đội quân chiến đấu lớn của Mỹ đă bắt đầu đổ bộ vào Việt Nam Cộng ḥa và viễn cảnh tung ra một cuộc tổng khởi nghĩa tại các thành phố rơ ràng là đă bị thổi bay, Lê Duẩn vẫn tiếp tục bảo vệ ư tưởng của ḿnh. Ông nói với tướng Nguyễn Chí Thanh, “Khi nào có cơ hội, ngay cả khi các yếu tố chỉ cho phép chúng ta 70 hay 80 phần trăm cơ may chiến thắng, th́ chúng ta cũng phải nắm lấy cơ hội và tiến hành các cuộc khởi nghĩa thay v́ cứ bướng bỉnh đ̣i hỏi sự hoàn hảo và đợi cho tới khi cơ hội đạt tới 100 phần trăm.”[11]

    Rốt cuộc, sự triển khai rộng lớn của các lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam Cộng ḥa bắt đầu vào mùa hè 1965 đă ngăn chặn mọi khả năng về tung ra cuộc tổng tiến công và nổi dậy, nhưng Lê Duẩn không bao giờ thực sự rời bỏ ước mơ của ḿnh.



    Vai tṛ của tướng Vơ Nguyên Giáp trong cuộc chiến tranh chống Mỹ

    Khoảng giữa những năm 1960, vị trí của tướng Vơ Nguyên Giáp trong hệ thống thứ bậc chính trị và quân sự của cộng sản đă có thay đổi lớn, và vai tṛ của ông trong việc chỉ huy cuộc chiến tranh nói chung đă bị suy yếu. Mặc dù vẫn giữ các trọng trách như Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang Việt Nam, bộ trưởng quốc pḥng, và bí thư Quân ủy Trung ương, các quyết định chiến lược về cuộc chiến tranh ở miền Nam đă không c̣n chỉ duy nhất nằm trong tay của vị tướng nữa. Thay vào đó, những quyết định ấy được thực hiện bởi một tiểu ban đặc biệt gồm năm người của Bộ Chính trị, trong đó Vơ Nguyên Giáp chỉ là một thành viên. [12] Một sĩ quan cao cấp của quân đội Việt Nam, từng nhiều năm phục vụ trong Bộ Tổng Tham mưu của Quân đội Nhân dân Việt Nam và là tác giả một cuốn sách xuất bản gần đây về vị tướng với tư cách tư lệnh quân sự viết như sau về thẩm quyền ra quyết định của ông trong “cuộc chiến tranh chống Mỹ”: “Ngoài việc tham gia các thảo luận và quyết định của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, và Quân ủy Trung ương ở các bước riêng biệt ở cấp chiến lược chung, sự dẫn dắt và chỉ huy đối với các tư lệnh ngoài chiến trường ở tướng Vơ Nguyên Giáp không ở mức độ trực tiếp như đă từng như vậy trong cuộc kháng chiến chín năm [chiến tranh chống Pháp].”[13]

    Trong một lần phỏng vấn tại Hà Nội, vẫn vị sĩ quan này công nhận rằng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, không giống như trong cuộc chiến tranh chống Pháp, đă xảy ra nhiều bất đồng bên trong Bộ Chính trị về chiến lược và chiến thuật. Vị sĩ quan nói rằng tướng Vơ Nguyên Giáp đứng về bên thua cuộc trong rất nhiều cuộc tranh căi ấy, nhưng “để giữ toàn cục” ông vẫn đi theo đa số sau khi không được ủng hộ.[14]

    Bản chất chính xác của những tranh căi bên trong Bộ Chính trị – các thành viên Bộ Chính trị thuộc về phái nào, vân vân – từng là chủ đề t́m hiểu của vô số tác giả trong nhiều năm. Giờ đây một số sử gia xếp Lê Duẩn và các “quân nhân miền Nam” hay các “tư lệnh miền Nam” về một bên và nhân tố “lănh đạo miền Bắc”, với Vơ Nguyên Giáp là một trong các nhân tố chỉ huy, ở phe bên kia.[15] Tôi tin rằng đây là một sự đơn giản hóa quá mức bởi v́ rất rơ rằng những bất đồng chỉ là về phương tiện chứ không phải về mục đích. Bất kỳ ai có liên quan cũng chia sẻ cùng một mục tiêu cuối cùng, đó là “giải phóng” miền Nam và thống nhất Bắc-Nam thành một quốc gia Việt Nam duy nhất nằm dưới sự cầm quyền của Đảng Cộng sản. Nhưng điều này không làm cho các bất đồng trở nên kém gay gắt hơn.

    Nguồn gốc xung đột Lê Duẩn-Vơ Nguyên Giáp rất mù mờ, nhưng có khả năng là đă bắt đầu ngay từ hồi cuối những năm 1950. Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Trường Chinh bị mất chức lănh đạo đảng vào tháng Mười năm 1956 v́ những “sai lầm” trong khi tiến hành chương tŕnh cải cách ruộng đất thảm khốc, có vẻ như tướng Vơ Nguyên Giáp là ứng cử viên một cách tự nhiên ở cương vị lănh đạo đảng.[16] Tuy nhiên, mặc dù Vơ Nguyên Giáp từng một thời là trợ lư thân cận của Hồ Chí Minh trong việc điều hành đảng, ông đă nhanh chóng đánh mất vai tṛ lănh đạo của ḿnh vào tay Lê Duẩn. Tháng Tư năm 1957, Lê Duẩn được gọi ra miền Bắc khi đang ở cương vị lănh đạo của bộ máy cộng sản hoạt động ngầm ở Việt Nam Cộng ḥa. Tháng Mười hai cùng năm, Lê Duẩn chính thức giữ chức lănh đạo đảng khi được bầu vào Ban Bí thư tại Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng.[17]

    Một phần nguyên nhân của sự gay gắt trong cuộc đối đầu trong hàng ngũ lănh đạo giữa Lê Duẩn và Vơ Nguyên Giáp có thể t́m thấy ở vai tṛ của Vơ Nguyên Giáp trong việc lên dự thảo cho Nghị quyết hội nghị lần thứ mười lăm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản, tài liệu rốt cuộc cũng cho phép sử dụng “đấu tranh vũ trang” ở miền Nam và khiến Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa có trách nhiệm hỗ trợ nhằm “giải phóng” miền Nam. Đầu năm 1957, trước khi Lê Duẩn được gọi từ miền Nam ra, Hồ Chí Minh đă giao cho Vơ Nguyên Giáp nhiệm vụ lên dự thảo nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược của đảng trong cuộc cách mạng ở miền Nam.

    Hoàng Tùng, một lư thuyết gia và nhà tuyên truyền thuộc hàng lănh đạo của đảng, một trong hai người được chỉ định giúp tướng Vơ Nguyên Giáp lên dự thảo nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương, cho rằng vị tướng đă nhanh chóng nhất trí với ư tưởng về sử dụng “bạo lực cách mạng” nhằm “giải phóng” miền Nam. Tuy nhiên, Hoàng Tùng công nhận Vơ Nguyên Giáp cũng là một người biện hộ nhiệt thành cho một giải pháp “ḥa b́nh” đối với t́nh h́nh Việt Nam Cộng ḥa. Theo Hoàng Tùng, bản dự thảo nghị quyết đă có rất nhiều sửa chữa và liên tục bị tŕ hoăn. Bản dự thảo cuối cùng của tướng Vơ Nguyên Giáp chỉ được gửi cho Lê Duẩn khi nó đă được hoàn thành vào cuối năm 1958. Hoàng Tùng cho biết khi đó Lê Duẩn đă ngồi lại cùng hai người trợ tá viết bản nghị quyết (nhưng không phải là với tướng Vơ Nguyên Giáp) nhằm thêm vào nhiều điểm và thực hiện nhiều thay đổi đối với bản dự thảo cuối cùng của vị tướng trước khi tŕnh lên Trung ương Đảng để thông qua vào đầu năm 1959.[18]

    Những tŕ hoăn liên tiếp và sự coi thường mà dường như Vơ Nguyên Giáp thể hiện đối với những lời kêu gọi của Lê Duẩn nhằm hành động ngay lập tức để hỗ trợ cách mạng miền Nam hẳn đă làm Lê Duẩn phật ư. Sự giận dữ của ông lại càng tăng thêm bởi việc ông bị buộc phải thân chinh trả lời các chất vấn lặp đi lặp lại về các vấn đề liên quan tới nghị quyết từ hai phái viên thuộc bộ phận đảng ở miền Nam. Các phái viên này được cử ra Hà Nội vào mùa hè năm 1957 với mục đích thúc giục Lê Duẩn và giới lănh đạo đảng của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa trong việc hỗ trợ và tham gia cuộc “cách mạng” tại miền Nam. Hai người đó, Phan Văn Đáng và Phạm Văn Xô, phải chờ đợi, bị giam lỏng trong một nhà thờ ở Hà Nội, trong suốt mười tám tháng trong khi Vơ Nguyên Giáp và các trợ tá của ông bàn thảo về câu từ của bản dự thảo nghị quyết. Lê Duẩn gặp hai phái viên miền Nam mỗi tháng một lần, và lần nào ông cũng phải thông báo với họ rằng “bản dự thảo nghị quyết vẫn chưa xong.”[19] T́nh huống này chắc hẳn đă đóng một vai tṛ quan yếu trong việc làm cho mối quan hệ giữa tướng Vơ Nguyên Giáp và Lê Duẩn xấu đi.



    Đe dọa và thách thức – đ̣i hỏi về một thắng lợi mang tính quyết định

    Vào khoảng mùa hè năm 1966, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ở vào t́nh thế một cuộc pḥng thủ chiến lược trong ít nhất là một năm khi nó phải nỗ lực một cách tuyệt vọng để cung cấp quân lính và quân trang vào miền Nam nhằm không bị thua kém với cuộc đổ quân ồ ạt của các lực lượng chiến đấu Mỹ vào Việt Nam Cộng ḥa. Đây không phải là một t́nh h́nh dễ chịu cho những người cộng sản Việt Nam, những người, cũng giống như tất cả các nhà Mác xít chân chính, tin rằng điều cốt yếu là phải giữ vững được lập trường ban đầu và luôn không ngừng tấn công. Điều không tránh khỏi là họ sẽ phải cố gắng giành lại thế tấn công ban đầu.

    Giữa tháng Sáu năm 1966, tiểu ban của Bộ Chính trị chuyên trách cuộc chiến tranh ở miền Nam do Lê Duẩn đứng đầu và có thêm Nguyễn Chí Thanh (người có mặt ở Hà Nội cho công việc tham vấn), gặp Quân ủy Trung ương tại Hà Nội để bàn bạc về kế hoạch Bộ Tổng Tham mưu cho chiến dịch “đông-xuân” 1966-1967. Mục đích của chiến dịch ghi trên kế hoạch là “giành một thắng lợi mang tính quyết định” trước Việt Nam Cộng ḥa trong năm 1967. Một cuốn sách của Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu tóm tắt kế hoạch như sau: “[Chúng ta sẽ] sử dụng 4 khối chủ lực tiến công địch trên 4 chiến trường: Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Khu 5, Trị Thiên; kết hợp với tiến công và khởi nghĩa ở 3 thành phố lớn Sài G̣n, Đà Nẵng, Huế, tiêu diệt và đánh tan ră chủ lực quân ngụy, đánh thiệt hại nặng quân Mỹ, giành thắng lợi quyết định trên chiến trường miền Nam trong năm 1967.”[20]

    Theo các ghi chép từ cuộc gặp, Nguyễn Chí Thanh ủng hộ ư tưởng t́m kiếm một “thắng lợi mang tính quyết định” trong năm 1967 nhưng thận trọng v́ trong dịp đông-xuân sắp tới các lực lượng Trung ương Cục miền Nam tại miền Nam sẽ phải tập trung vào các hoạt động pḥng thủ nhằm đánh thắng “cuộc phản công chiến lược” mùa khô 1966-1967 của Mỹ. Điều đó có nghĩa là các lực lượng cộng sản sẽ phải tiếp tục chiến đấu trong mùa hè thay v́ có đợt ngưng như thường lệ để nghỉ ngơi và củng cố lực lượng. Trong cuộc gặp, tướng Vơ Nguyên Giáp bày tỏ sự ủng hộ của ông đối với việc tiến hành “những trận đánh lớn” nhằm giành một thắng lợi, nhưng nhấn mạnh rằng những cuộc tấn công vào các thành phố cần được khởi đầu bằng những tấn công quân sự nhỏ và chỉ dần dần tiến tới bước “nổi dậy” tại một số vùng và thành phố đặc thù, khi mà các lực lượng cộng sản đă chiếm được quyền kiểm soát ở những vùng đó.[21]

    Cuộc thảo luận tháng Sáu năm 1966 về kế hoạch cho một “thắng lợi mang tính quyết định” hẳn đă chịu ảnh hưởng từ các cuộc nổi dậy của Phật giáo và biến động miền Trung nửa đầu của năm 1966, những ǵ mà phe cộng sản hẳn đă coi như là các dấu hiệu cho thấy quân đội Việt Nam Cộng ḥa và chính phủ miền Nam bắt đầu sụp đổ. Tuy nhiên, có vẻ như là sẽ đúng hơn nếu nói nó phản ánh một quyết định về chính sách ban đầu của Bộ Chính trị cuối cùng được chính thức hóa vào tháng Giêng 1967, khi Trung ương Đảng Cộng sản thông qua Nghị quyết hội nghị mười ba, kêu gọi việc thực hiện một chiến lược “vừa đánh vừa đàm” và khởi đầu các cuộc thương thuyết với Mỹ.

    Trong các tŕnh bày riêng biệt trong cuộc tranh luận về Nghị quyết 13, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh và Tổng Tham mưu trưởng, tướng Văn Tiến Dũng, nói với các đại biểu của Trung ương rằng v́ hai phía trong cuộc chiến tranh đều đang rất bế tắc, người Mỹ đang phải đối diện với một lựa chọn giữa ba chiến lược có thể có cho tương lai: (1) mở rộng chiến tranh thông qua mở rộng ném bom và xâm lấn Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, (2) gửi thêm rất nhiều quân và quân trang để chiến đấu và t́m cách chiến thắng trong một cuộc chiến kéo dài tại miền Nam, hoặc (3) nỗ lực để giành một thắng lợi quân sự quan trọng trong năm 1968 rồi sử dụng thắng lợi đó thương thuyết một giải pháp chính trị từ một vị thế có sức mạnh, một giải pháp có thể vẫn cho phép giữ lại chính quyền “tân thực dân” ở Việt Nam Cộng ḥa.

    Những lựa chọn đó mang lại cho người cộng sản Việt Nam không chỉ một mối đe dọa nguy hiểm mà cả một cơ hội nữa. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh nói với Trung ương rằng bởi có bất ổn ngay trong ḷng nước Mỹ, và đặc biệt là bởi có tác động mà cuộc chiến hẳn sẽ có lên kỳ tranh cử tổng thống năm 1968, một cuộc tranh luận nảy lửa đang nổ ra bên trong giới chức Mỹ giữa phe “diều hâu”, những kẻ ủng hộ hành động mạnh mẽ hơn chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, và phe “bồ câu”, những người ủng hộ thương thuyết để chấm dứt chiến tranh nhưng vẫn giữ lại một miền Nam Việt Nam độc lập. Vị bộ trưởng ngoại giao nói rằng Tổng thống Lyndon B. Johnson đang không chắc sẽ phải làm ǵ nhưng nghiêng về giải pháp thứ ba, t́m kiếm một dạng thành công nhanh chóng về quân sự với liền tiếp theo là một thỏa thuận thông qua thương thuyết trước khi diễn ra bầu cử, nhằm được tiếp tục tại vị.[22]

    Nguyễn Duy Trinh khuyên Trung ương thông qua chiến lược do Bộ Chính trị đề ra, sử dụng “củ cà rốt” thương thuyết và một “chiến lược vừa đánh vừa đàm” nhằm khai thác mong muốn của Johnson trong việc thực hiện được một thỏa thuận thông qua thương thuyết trước kỳ bầu cử 1968. Nguyễn Duy Trinh nói rằng Bộ Chính trị đă đặt ra hai mục tiêu chính cho các thương thuyết. Mục tiêu thứ nhất là làm cho nước Mỹ ngừng ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, và mục tiêu thứ hai là buộc Mỹ rút quân khỏi miền Nam.

    Ư tưởng sử dụng chiến lược vừa đánh vừa đàm không phải là điều ǵ mới mẻ. Tổng bí thư Lê Duẩn từng bàn về ư tưởng này trong một bài phát biểu vào dịp Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng Mười hai 1965. Trong bài phát biểu, ông nói rơ rằng có nhiều ư kiến khác nhau ngay trong phe xă hội chủ nghĩa về việc sử dụng “vừa đánh vừa đàm”, và ông đă chỉ ra các điều kiện cần thiết trước khi một chiến lược như vậy có thể được sử dụng: trước hết Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa phải giành được “những thắng lợi to lớn và gịn giă hơn nữa” và phải đạt được sự nhất trí ở mức độ nào đó “trong các đảng, các nước xă hội chủ nghĩa anh em… về ư tưởng vừa đánh vừa đàm.”[23]

    Nhiệm vụ có được một sự nhất trí nào đó với “các nước xă hội chủ nghĩa anh em” trong việc sử dụng ư tưởng vừa đánh vừa đàm thuộc về các nhà ngoại giao và lănh tụ chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa; Liên Xô đang mạnh mẽ thúc đẩy giới lănh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa bước vào đàm phán, trong khi Trung Quốc kịch liệt phản đối mọi thương thuyết với Mỹ.[24] Tuy nhiên, trước khi các đàm phán có thể bắt đầu, trước hết Quân đội Nhân dân Việt Nam cần giành được một thắng lợi quan trọng ở mặt trận nhằm cung cấp cho các nhà ngoại giao của họ thế mạnh đối với người Mỹ tại bàn đàm phán. Như Nguyễn Duy Trinh tŕnh bày trong báo cáo của ông tại hội nghị Trung ương, “khi chưa giành được thắng lợi đó th́ trên bàn hội nghị cũng chưa giành được thắng lợi.”[25]

    Để hỗ trợ cho chiến lược vừa đánh vừa đàm, Nghị quyết 13 của Trung ương kêu gọi một “cố gắng cao độ… giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn”. Một “thắng lợi quyết định” được định nghĩa như là thắng lợi gây ra tổn thất nặng nề cho quân Mỹ, tiêu diệt một lực lượng lớn của quân đội Việt Nam Cộng ḥa nhằm làm cho quân đội đó trở nên tê liệt, và tạo ra một cuộc “tổng công kích-tổng khởi nghĩa” tại các thành phố và các vùng nông thôn. Mục đích tối hậu là làm cho chính quyền Việt Nam Cộng ḥa sụp đổ và thay thế nó bằng một chính quyền liên hiệp không cộng sản rộng răi, sẽ kiên quyết đàm phán một thỏa thuận cho phép Mỹ rời khỏi Việt Nam mà không bị mất mặt.[26] Tuy nhiên, nghị quyết cũng rất rơ ràng ở điểm cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa sẽ chỉ được tiến hành vào thời điểm cuối của một tiến tŕnh dần dần, từng bước một: “Kết hợp với đấu tranh chính trị, [chúng ta phải] xây dựng thực lực, từng bước giành quyền làm chủ của ta ở các đô thị, làm yếu sự kiểm soát của địch, đẩy mạnh phong trào đô thị, tạo điều kiện tiến lên tổng công kích và tổng khởi nghĩa.”[27] Chưa hề có một ư nghĩ nào về việc tung ra một cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa một mất một c̣n tại các thành phố trước khi các lực lượng quân sự của kẻ thù đă bị nghiền nát.

    Trong ṿng hơn một năm, trọn vẹn năm 1966 và tới nửa đầu năm 1967, Nguyễn Chí Thanh và Vơ Nguyên Giáp tiến hành một “cuộc chiến lời lẽ” trên các tờ báo và tạp chí lư luận cộng sản về tương quan đúng đắn giữa “những trận đánh lớn” và chiến tranh du kích. Rất nhiều điều đă được viết ra về những lư lẽ ấy, và ở đây cũng sẽ không có ǵ nhiều để thêm vào.[28] Tôi tin rằng việc những lư lẽ hết sức công khai đó nghiêm túc đến mức độ nào xứng đáng là chủ đề của một tranh luận. Trong Bộ Chính trị của Việt Nam thời chiến, cũng như trong phần lớn các tổ chức độc tài, lư lẽ càng nghiêm túc th́ nó càng được giữ bí mật hơn – Bộ Chính trị không thích vạch áo cho người xem lưng.

    Dẫu cho tầm quan trọng thực thụ của cuộc đối đầu tay đôi của các bài báo Nguyễn Chí Thanh-Vơ Nguyên Giáp có là như thế nào, th́ Nghị quyết 13 cũng rất rơ ràng về việc lănh đạo đảng đă quyết định áp dụng một chiến lược hỗn hợp quân sự-chính trị-ngoại giao hướng tới đạt được một thỏa thuận qua đàm phán với các điều khoản thuận lợi cho người cộng sản nhưng điều này không gây ra một thất bại rơ ràng và làm người Mỹ bị nhục nhă. Quyết định này có nghĩa là lư lẽ “những cuộc chiến lớn” đă chiến thắng, bởi chiến lược mới đ̣i hỏi một thành công quân sự nhanh chóng và có tầm vóc lớn theo một cách nào đó nhằm mang lại cho các nhà ngoại giao phe cộng sản lợi thế mà họ cần để đàm phán một giải pháp chấp nhận được.
    Last edited by alamit; 28-02-2013 at 06:39 AM.

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    TưỚng Vơ Nguyên Giáp và tiẾn tŕnh bí Ẩn cỦa kẾ hoẠch tẤn công TẾt MẬu Thân
    General Vơ Nguyên Giáp and the Mysterious Evolution of the Plan for the 1968 Tết Offensive
    Merle L. Pribbenow II
    Nguyễn Việt dịch
    P2



    Quyết định của đảng có thể dự đoán theo hai nhận định sau đây: (1) Các đánh giá về mặt chính trị trước kỳ bầu cử tổng thống Mỹ năm 1968 có thể khiến cho người Mỹ hướng theo một thỏa thuận như vậy, và (2) nếu người cộng sản không nhanh chóng có động thái, người Mỹ có thể tự có quyết định trước trong việc sử dụng một dạng hành động quân sự lớn nào đó (chẳng hạn tấn công ồ ạt miền Bắc Việt Nam hoặc tấn công sang Lào để cắt đứt đường ṃn Hồ Chí Minh) nhằm phá vỡ thế bế tắc và kết thúc chiến tranh với lợi thế thuộc về Mỹ trước kỳ bầu cử.

    Tháng Tư năm 1967, lănh đạo cấp cao của Bộ Tổng Tham mưu gặp nhau để thảo luận về các đường hướng cho một kế hoạch nhằm giành một “thắng lợi quyết định” trong chiến dịch “đông-xuân” 1967-1968. Các lănh đạo nhấn mạnh mối đe dọa, cho rằng các lực lượng cộng sản phải thọc sâu thật nhanh, trong khi Mỹ vẫn đang xem xét việc thay đổi chiến lược. (Chính vào lúc này tướng William Westmoreland vừa mới gửi một yêu cầu tới Washington đ̣i tăng thêm hai trăm ngh́n quân, các lực lượng có thể được sử dụng cho các cuộc tấn công trên bộ vào Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa hoặc Lào).[29] Lănh đạo Bộ Tổng Tham mưu miêu tả t́nh thế như sau: “Nếu mùa hè 1967 ta không tạo được chuyển biến để giành thắng lợi th́ cả hai miền Nam-Bắc sẽ gặp nhiều khó khăn trong năm 1968.”[30]

    Các sĩ quan cao cấp của Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho những người chịu trách nhiệm lên kế hoạch là trong khi làm dự thảo kế hoạch, họ cần tính đến các “yếu tố chính trị” – cuộc bầu cử tổng thống tại Việt Nam Cộng ḥa vào tháng Chín năm 1967 và cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng Mười một năm 1968. Ban lănh đạo đặt ra các mục tiêu cần đạt được nhằm giành thắng lợi mong muốn: (1) “tiêu diệt” 150.000 lính Mỹ, bao gồm cả việc tiêu diệt ba trên năm lữ đoàn Mỹ, (2) “tiêu diệt” 300.000 quân Việt Nam Cộng ḥa, bao gồm cả việc tiêu diệt từ sáu đến bảy sư đoàn, (3) “giải phóng” từ 5 đến 8 triệu người dân miền Nam và (4) “giải phóng” các thành phố Đông Hà và Quảng Trị, tiêu diệt các căn cứ địch tại Ban Mê Thuột và Kon Tum, và tiến hành các đợt tấn công vào Huế, Sài G̣n, cũng như thủ phủ của nhiều tỉnh.[31]

    Tiểu ban của Bộ Chính trị chuyên trách chiến tranh tại miền Nam gặp nhau nhiều lần trong khoảng thời gian từ cuối tháng Tư tới tháng Sáu năm 1967 nhằm xem xét kế hoạch do Bộ Tổng Tham mưu vạch ra. Ngay cả Tổng Tham mưu trưởng, tướng Văn Tiến Dũng, cũng không hài ḷng với kế hoạch. Nhiều năm sau Văn Tiến Dũng sẽ nhớ lại:

    “Kế hoạch đă được tŕnh lên Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, nhưng càng nghĩ về nó, chúng tôi càng cảm thấy bất an. Kế hoạch giống như kế hoạch của chúng ta cho chiến dịch đông-xuân trước đó, khác biệt duy nhất là các mục đích cao hơn. Các mục tiêu và các chiến thuật, phương pháp đánh trận, đều vẫn giống như những ǵ chúng ta đă thực hiện năm trước đó, nhưng thực tế mặt trận cho thấy chúng ta sẽ không thể đạt được các mục tiêu ấy.”[32]

    Theo một bộ sách của Cục Tác chiến thuộc Bộ Tổng Tham mưu, khi những mối quan ngại được tŕnh bày về các khiếm khuyết của kế hoạch, tướng Nguyễn Chí Thanh, người ở Hà Nội từ đầu năm 1967, chỉ trả lời rất đơn giản bằng cách yêu cầu Cục Tác chiến tiếp tục nghiên cứu các ư đồ chiến lược với mục đích sao cho các lực lượng cộng sản có thể được đưa tới điểm nơi có thể hoàn thành các mục tiêu đă định.[33]

    Vấn đề có vẻ như là không thể giải quyết. Một cuốn sách của bên cộng sản Việt Nam cho biết vào thời điểm kết luận của cuộc họp Bộ Chính trị tháng Sáu năm 1967 nhằm xem xét kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu cho cuộc tấn công 1968, “Bộ Chính trị không thể h́nh dung được là một thắng lợi mang tính quyết định có thể đạt được trong năm 1968 thông qua các trận đánh quy mô lớn… Sau hai năm trực tiếp chiến đấu chống lại quân đội Mỹ… Việt Nam nhận ra rằng việc tiêu diệt hoàn toàn một đơn vị cấp đại đội hoặc tiểu đoàn… là rất khó.”[34] Trong các cuộc họp của Bộ Chính trị, Lê Duẩn nhấn mạnh mối nguy của hành động quân sự mang tính quyết định có thể có từ phía Mỹ nếu không t́m ra được một giải pháp cho vấn đề giành được một thắng lợi quân sự mạnh mẽ nhanh chóng. Lê Duẩn nói, “Mỹ không c̣n con đường nào khác là phát huy sức mạnh quân sự. Đối phó với âm mưu này của Mỹ, ta phải đưa hoạt động quân sự lên một bước mới, đến mức Mỹ không chịu nổi và phải chấp nhận thất bại về quân sự, cô lập về chính trị. Nếu ta thực hiện được, Mỹ sẽ phải rút khỏi miền Nam.”[35]



    Một cái chết và một cuộc soán đổi

    Vào buổi sáng sớm ngày 6 tháng Bảy năm 1967, tiếp theo một ngày dành riêng cho tiệc tùng thuộc một loạt bữa tiệc tạm biệt trước khi ông lên đường quay về mặt trận miền Nam, tướng Nguyễn Chí Thanh lên cơn nhồi máu tại nhà ḿnh ở Hà Nội. Ông được đưa ngay vào Bệnh viện Quân đội 108, bệnh viện tốt nhất trên toàn miền Bắc, nhưng vào lúc chín giờ sáng, trái tim ông đă ngừng đập và ông được tuyên bố là đă qua đời.[36]

    Cái chết của tướng Nguyễn Chí Thanh đặt chính sách cộng sản Việt Nam tại miền Nam vào một sự lúng túng to lớn. Không chỉ đảng phải gánh lên vai ḿnh một kế hoạch có vẻ như không hứa hẹn nhiều triển vọng thành công, mà giờ đây vị lănh đạo lên kế hoạch ấy đă chết. Ngày hôm sau hai sĩ quan cộng sản cao cấp, tướng Chu Huy Mân và thượng tướng Nguyễn Văn Vịnh, được cử vào Nam (qua đường Trung Quốc và Cambodia) để truyền đạt cho bộ tư lệnh miền Nam những dự tính mới nhất của đảng về chiến dịch đông-xuân 1967-1968,[37] nhưng các truyền đạt của họ không thể nào bù đắp được khoảng trống do cái chết của Nguyễn Chí Thanh để lại. Cần phải chọn một nhà lănh đạo mới cho miền Nam, và gần như không thể tránh khỏi việc chỉnh sửa kế hoạch. Con đường đă rộng mở cho một con người đầy tham vọng đang hăng hái tiến về phía trước nhằm nắm lấy quyền chỉ huy – và con người đó đă sẵn sàng. Tên ông là Văn Tiến Dũng.

    Tướng Văn Tiến Dũng từng là thuộc cấp của tướng Vơ Nguyên Giáp trong ṿng một thập niên rưỡi. Văn Tiến Dũng từng là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam khi Vơ Nguyên Giáp là tư lệnh tối cao Các Lực lượng Vũ trang và bí thư Quân ủy Trung ương. Có khả năng là hai người không có nhiều điểm chung với nhau. Vơ Nguyên Giáp là người gốc miền Trung, xuất thân từ một gia đ́nh quan lại, từng học đại học và làm thầy giáo tại một trường trung học (một nghề được kính trọng tại Đông Dương thời thuộc Pháp). Tướng Văn Tiến Dũng sinh ra ngay tại ngoại thành Hà Nội, xuất thân từ giai cấp nông dân, chỉ học tới lớp sáu, và từng làm công nhân b́nh thường trong một xưởng dệt.[38] Tâm tính nóng nảy của Vơ Nguyên Giáp được cả bạn bè lẫn kẻ thù của ông biết rơ, nên làm việc cho ông trong một quăng thời gian dài đến vậy hẳn không luôn luôn là một việc dễ dàng. Mặc dù chúng ta không thể biết liệu hành động mà Văn Tiến Dũng thực hiện có phải là để chủ ư thay thế Vơ Nguyên Giáp và chuyển lên nắm giữ vị trí của người thủ trưởng hay không, hành động của Văn Tiến Dũng rơ ràng là bước đi đầu tiên trong việc đưa tiến tŕnh ấy vào thực tế.

    Trong một bài phỏng vấn với tờ báo Quân đội Nhân dân vào năm 2004, Văn Tiến Dũng miêu tả những ǵ xảy ra sau đó: “Càng nghĩ về t́nh h́nh, tôi lại càng tin rằng chúng ta phải có những mục đích mới, những mục tiêu mới, và những phương pháp tiến công mới. Chúng ta cần rà soát lại toàn bộ kế hoạch đông-xuân 1967-1968. Tôi xin được gặp đồng chí Lê Duẩn để thảo luận về vấn đề này.”[39] Nói một cách khác, Văn Tiến Dũng đă vượt cấp tướng Vơ Nguyên Giáp để gặp riêng kẻ thù lớn của thủ trưởng ḿnh, Lê Duẩn. Ư nghĩa của hành động này hẳn không lọt qua được mặt Lê Duẩn.

    Sau khi Văn Tiến Dũng tŕnh bày các mối lo ngại về tính chất không thích hợp của kế hoạch hiện có, Lê Duẩn trả lời bằng một đề nghị rất đáng kinh ngạc: Tại sao chúng ta lại không thể đẩy cuộc tấn công chiến lược của chúng ta tới giai đoạn cuối cùng, cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa?[40]

    Về thực chất, Lê Duẩn gợi ư rằng, v́ các lực lượng cộng sản ở miền Nam không có khả năng hoàn thành các mục tiêu tức thời được cho là cốt yếu trong việc tạo ra những điều kiện cho phép “các lực lượng cách mạng” tiến đến giai đoạn gần kết của cuộc chiến, cho nên các bước tức thời cần được bỏ qua. Trước đây ai cũng nhất trí về các điều kiện cần có trước khi một cuộc tổng khởi nghĩa được tiến hành – quân đội Việt Nam Cộng ḥa và bộ máy an ninh Việt Nam Cộng ḥa bị nghiền nát và các lực lượng Mỹ bị tê liệt và/hoặc vô hiệu hóa – bởi v́ nếu các điều kiện đó không được đảm bảo th́ quân đội Việt Nam Cộng ḥa và lực lượng Mỹ sẽ chỉ đơn giản là đàn áp “những người cách mạng” thường dân không có vũ trang đưa dân chúng xuống đường trong cuộc tổng khởi nghĩa. Giờ đây Lê Duẩn gợi ư rằng, khi thiếu vắng dù chỉ một lựa chọn khả dĩ nào khác về việc đạt được mục tiêu tức thời, những người cộng sản phải xem xét đến việc đánh liều mọi thứ vào một canh bạc. Văn Tiến Dũng đồng ư ngay với Lê Duẩn, và Lê Duẩn sai Văn Tiến Dũng điều hành Quân ủy Trung ương chuẩn bị một báo cáo theo hướng này để Bộ Chính trị xem xét.[41] Vơ Nguyên Giáp có thể vẫn là bí thư của Quân ủy Trung ương, nhưng mệnh lệnh trên thực tế đă trao quyền hạn cho Văn Tiến Dũng, v́ tướng Văn Tiến Dũng nhận lệnh trực tiếp từ đích thân Lê Duẩn.

    Tại sao Văn Tiến Dũng lại đồng ư với một gợi ư như thế? Với tư cách một quân nhân chuyên nghiệp, hẳn ông phải nhận ngay ra những nguy cơ tiềm tàng trong lời gợi ư của Lê Duẩn. Chắc chắn một trong các lư do nằm ở tham vọng cá nhân của chính Văn Tiến Dũng. Một lư do khác có thể là kế hoạch ban đầu đă đặt thẳng lên vai quân đội trách nhiệm tiên quyết về thắng lợi hay thất bại. Gợi ư của Lê Duẩn có nghĩa là giờ đây quân đội có thể chia sẻ trách nhiệm về thắng lợi hay thất bại với bộ phận chính trị và tuyên truyền của đảng, bộ phận có trách nhiệm thúc đẩy và lănh đạo cuộc tổng khởi nghĩa. Nếu kế hoạch ban đầu thất bại, Văn Tiến Dũng có thể mất chức Tổng Tham mưu trưởng, nhưng một liên minh với Lê Duẩn ở kế hoạch mới này có thể bảo vệ Văn Tiến Dũng và giúp ông thăng tiến trong sự nghiệp. Ngay cả khi kế hoạch này thất bại, th́ mọi người sẽ chỉ coi Lê Duẩn, chứ không phải Văn Tiến Dũng, như là kiến trúc sư của kế hoạch. Chắc chắn đây không phải lần đầu tiên một vị tướng nhắm mắt làm theo một kế hoạch đầy nguy cơ được đẩy sang cho ông từ các thượng cấp về chính trị, một kế hoạch lờ đi các hậu quả của những quyết định về quân sự. Chỉ cần nghĩ tới các thành viên của Bộ Tổng Tham mưu Liên quân Hoa Kỳ trong những giai đoạn khởi đầu của Chiến tranh Việt Nam[42] hoặc của tướng Tommy Franks trong Chiến dịch Iraq Tự do là đủ.



    Một cuộc tranh luận dai dẳng và sự biến mất của Vơ Nguyên Giáp

    Ngày 18-19 tháng Bảy năm 1967, Bộ Chính trị gặp để xem xét kế hoạch mới về giành một thắng lợi mang tính quyết định. Kế hoạch mới mà Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng nhất trí với nhau vẫn chưa được đưa ra, nhưng ư tưởng chung về kế hoạch có vẻ như đă được tŕnh bày lần đầu tiên ở cuộc gặp này: một cuộc tấn công chính trị-quân sự một mất một c̣n hướng vào các thành phố trong khi các lực lượng lớn của cộng sản tập trung nỗ lực vào việc lừa quân địch xa khỏi các thành phố và ḱm chân đủ lâu để cho phép các cuộc tấn công thành phố thành công trong việc lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng ḥa. Các ghi chép của Văn Tiến Dũng tại cuộc gặp cho thấy lănh tụ đáng kính của Bắc Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đă nêu nhiều câu hỏi về tính khôn ngoan của kế hoạch. Các ghi chép của Văn Tiến Dũng cho biết Hồ Chí Minh đă nêu lên những điểm sau:

    1. Dự thảo báo cáo tốt, toàn diện, lạc quan, nhưng cần xem báo cáo của Quân ủy có chủ quan [phi thực tế] không?

    2. Tranh thủ giành thắng lợi sớm, nhưng phải chú ư đánh lâu dài.

    3. Thuận lợi có nhiều nhưng phải thấy những khó khăn như mặt hậu cần bảo đảm.

    4. Nói giành thắng lợi quân sự, nhưng phải chú ư đến việc giữ sức dân, nếu người và của kiệt, th́ quân nhiều cũng không đánh được.

    5. Phải chú ư mở rộng chiến tranh du kích, tăng cường trang bị cho du kích.

    6. Phải làm sao ta càng đánh càng mạnh, đánh liên tục đánh được lâu dài [nghĩa là có khả năng thực hiện một cuộc chiến tranh lâu dài].[43]

    Tài liệu đă công bố của cộng sản không cho biết phản ứng của tướng Vơ Nguyên Giáp trước kế hoạch, cũng như việc liệu vị tướng có mặt ở cuộc họp hay không. Từ thời điểm này trở đi không có tài liệu đă công bố nào cho thấy Vơ Nguyên Giáp hiện diện ở bất kỳ cuộc họp lên kế hoạch nào, và một sĩ quan cao cấp của quân đội Việt Nam đă công nhận rằng

    “trong giai đoạn kế hoạch chiến lược đang thành h́nh, cũng như trong những ngày khởi đầu làn sóng đầu tiên của cuộc tổng tiến công chiến lược Tết Mậu Thân, Tổng Tư lệnh Vơ Nguyên Giáp thường xuyên vắng mặt khỏi Bộ Tổng Hành dinh và không dự nhiều cuộc họp quan trọng của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, hay các cuộc gặp chung của tiểu ban năm người trong Bộ Chính trị tổ chức với Quân ủy Trung ương.”[44]

    Tuy nhiên, các nguồn thông tin của Việt Nam nói tướng Vơ Nguyên Giáp phản đối nhiều chi tiết quan trọng trong kế hoạch ngay từ đầu bởi v́, ông nói, một cuộc tổng khởi nghĩa là không thể thực hiện trừ khi các lực lượng đối phương, quân đội Việt Nam Cộng ḥa và lực lượng Mỹ, đă bị làm cho tê liệt.[45]

    Mặc cho những phản đối của Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp và nhiều người khác, tiến tŕnh lập kế hoạch vẫn được thực hiện với một nhịp điệu gấp gáp, với Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng ở vị trí chỉ huy, và đến cuối tháng Tám kế hoạch đă thành h́nh. Thành viên Bộ Chính trị Phạm Hùng, người đă được cử vào Nam hồi tháng Tám để thay chỗ Nguyễn Chí Thanh làm bí thư Trung ương Cục miền Nam và lănh đạo miền Nam, mang theo cùng với ḿnh bản dự thảo đầu tiên của kế hoạch mới “tấn công các đô thị”. Các nhà lănh đạo cao cấp từ tất cả các vùng miền Nam được gọi ra Bắc để được thông báo về ư tưởng mới trước khi quay trở về xây dựng kế hoạch riêng của ḿnh nhằm thực hiện ư tưởng trong sự bí mật tuyệt đối.[46]

    Kế hoạch mới đặc biệt tập trung vào việc tấn công các thành phố và gây nên một “cuộc tổng khởi nghĩa”, nhưng kế hoạch trước đó muốn các lực lượng chính chiến đấu “các trận đánh lớn” vẫn không hoàn toàn bị loại bỏ. Trên thực tế, có vẻ như là ở một số khía cạnh của cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa, nghĩa là những cuộc tấn công vào mọi đô thị và thủ phủ các tỉnh, chỉ đơn giản là dựa vào kế hoạch cũ, nhờ cậy tới lực lượng chính, những cuộc tấn công và những “trận đánh lớn” đối với một số đô thị được lựa chọn nhằm tạo cơ sở cho những cuộc nổi dậy trong tương lai. Yếu tố “trận đánh lớn” chủ yếu của kế hoạch mới giờ đây được tập trung vào Chiến trường B5, tức nửa phía Bắc tỉnh Quảng Trị, ngay phía Nam của Vùng Phi quân sự và giới tuyến Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và trải dài từ Khe Sanh trên biên giới với Lào sang tới vùng Đông Hà, bờ biển phía Đông. Bốn sư đoàn chính quy của Quân đội Nhân dân Việt Nam và các đơn vị hỗ trợ ở khu vực này chịu trách nhiệm “tiêu diệt khoảng từ hai mươi tới ba mươi ngh́n quân địch, tiêu diệt tổng cộng từ năm tới bảy tiểu đoàn lính Mỹ và từ hai tới ba trung đoàn quân ngụy, và dụ từ hai đến ba sư đoàn địch (ít nhất là hai trong số đó là lính Mỹ) ra khỏi các vùng khác nhằm tham chiến dọc theo Đường 9.”[47]

    Cuối tháng Mười, Bộ Chính trị họp trong năm ngày (từ 20 đến 24 tháng Mười) để xem xét và thông qua kế hoạch mới được tŕnh lên. Thật đáng ngạc nhiên, cả Lê Duẩn lẫn Vơ Nguyên Giáp đều không dự cuộc họp này, và Trường Chinh là người chủ tŕ hội nghị Bộ Chính trị đó. Một cuốn sách thời hậu chiến của Việt Nam cho biết cả Lê Duẩn lẫn Vơ Nguyên Giáp đều “ở nước ngoài” để điều trị sức khỏe.[48] Các “vấn đề sức khỏe” rất có thể chỉ là một cái cớ, và người ta có thể hữu lư khi cho rằng cuộc tranh căi giữa hai người đă trở nên gay gắt đến mức nhằm giữ được “ḥa khí” cả hai đều không được dự hội nghị.

    Quả thực, vào quăng thời gian Bộ Chính trị họp, Vơ Nguyên Giáp, nhận ra lư lẽ của ḿnh có khả năng bị thua, đă ở Hungary, nơi ông “nghỉ ngơi” và điều trị bệnh thận. Vị tướng cố t́nh tŕ hoăn việc trở về Việt Nam và măi đầu tháng Hai 1968 mới về tới Hà Nội, sau khi Cuộc Tấn công Tết đă bắt đầu.[49] Vơ Nguyên Giáp không công khai phản đối cuộc tấn công, nhưng ông đă để cho sự vắng mặt của ḿnh ngầm chỉ ra sự bất đồng đối với kế hoạch mới.

    Vào cuối cuộc hội nghị tháng Mười, Bộ Chính trị thông qua phần quân sự của kế hoạch chiến dịch đông-xuân 1967-1968. Tuy nhiên, Bộ Chính trị nhất quyết hoăn việc thông qua khía cạnh tổng khởi nghĩa của kế hoạch, cho rằng cần phải “nghiên cứu thêm”. Các thành viên của Bộ Chính trị nhận định rằng quyết định về phần cuộc tổng khởi nghĩa của kế hoạch cần được thực hiện sau này, sau khi đă tham khảo ư kiến “của các đồng chí lănh đạo khác”. Rơ ràng điều này muốn ám chỉ sự vắng mặt của Vơ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, và Hồ Chí Minh, người đang “hồi phục sức khỏe” tại Trung Quốc.[50] Nhưng tướng Vơ Nguyên Giáp sẽ không cố gắng biện hộ cho lư lẽ của ḿnh nữa, và “Bác Hồ”, người tỏ ra phản đối trong các thảo luận của Bộ Chính trị hồi tháng Bảy, đă không c̣n đủ sức lực hoặc uy quyền để lấn lướt Lê Duẩn được nữa.

    Sau thêm nhiều bàn luận và xem xét hăng hái về kế hoạch, Bộ Chính trị lại họp vào tháng Mười hai, thông qua kế hoạch dưới h́nh thức một nghị quyết sẽ được tŕnh lên Trung ương Đảng Cộng sản để được thông qua lần cuối cùng. Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở về một thời gian rất ngắn để dự cuộc họp này nhưng sau đó lại ngay lập tức quay lại Trung Quốc để tiếp tục “điều trị”.[51]

    Vào tháng giêng, Trung ương họp để xem xét và thông qua nghị quyết của Bộ Chính trị cho phép tiến hành tổng công kích-tổng khởi nghĩa. Để giữ “bí mật”, thay v́ họp ở Hà Nội các đại biểu Trung ương được chuyển đi cách thành phố năm mươi km tới một huyện lỵ ở tỉnh Ḥa B́nh.[52] Lê Duẩn đọc diễn văn khai mạc phiên họp của Trung ương. Trong bài diễn văn Lê Duẩn cho biết “trong Bộ Chính trị cũng có đồng chí bận việc không đến được” và nói tướng Văn Tiến Dũng (chứ không phải Vơ Nguyên Giáp) sẽ thay mặt Quân ủy Trung ương báo cáo cho hội nghị.[53] Thành công của tướng Văn Tiến Dũng, ít nhất tạm thời, là hoàn toàn.

    Sau một số tranh luận, Trung ương thông qua kế hoạch, gọi tên là Nghị quyết hội nghị mười bốn Ban Chấp hành Trung ương. Theo một nguồn tin của Việt Nam, Hồ Chí Minh từ chối bỏ phiếu thông qua nghị quyết như một cách thể hiện những dè dặt của ông về tính chất khôn ngoan của kế hoạch.[54]

    Không chỉ có một chi tiết cuối cùng c̣n chưa được rơ ràng. Thật đáng ngạc nhiên, có lẽ là v́ những xung đột nội bộ gay gắt và các tranh căi đi liền với việc h́nh thành kế hoạch, ngày giờ chính xác của cuộc tấn công chưa được ấn định. Quyết định cuối cùng theo đó cuộc tấn công sẽ được tiến hành vào đêm 30-31 tháng Giêng, đêm Nguyên đán, măi 15 tháng Giêng mới được đưa ra, chỉ hai tuần trước khi khởi đầu cuộc tấn công.[55] Sự chậm trễ này gây ra bối rối đáng kể trong các tổng hành dinh cấp vùng, tiểu vùng, và cấp tỉnh tại miền Nam. Ở một số vùng, bức điện phút cuối của Bộ Tổng Tham mưu ra lệnh mở cuộc tấn công vào đêm cuối cùng của năm âm lịch c̣n bị hiểu nhầm v́ giữa Bắc và Nam Việt Nam có khác biệt một ngày về khởi đầu của năm âm lịch. Chính v́ vậy, một số tỉnh miền Trung tiến hành tấn công sớm hơn một ngày, đây là một phần nguyên nhân làm mất đi tính chất bất ngờ của cuộc tấn công chính.[56] Thêm vào đó, nhiều tổng hành dinh nhận được thông báo về ngày giờ cuộc tấn công quá muộn thành thử không thể điều lực lượng đúng lúc để tấn công theo đúng kế hoạch.[57]



    Âm mưu hay trùng hợp?

    Cuối tháng Bảy năm 1967, ngay tiếp theo sau sau phiên họp Bộ Chính trị căng thẳng khi ư tưởng mới về cuộc tấn công 1968 của Lê Duẩn-Văn Tiến Dũng được đem ra bàn luận, đợt đầu tiên trong nhiều đợt bắt các nhóm những người bị gọi là chống đảng được thực hiện tại Hà Nội. “Nhóm chống đảng” được cho là nằm dưới sự cầm đầu của Hoàng Minh Chính, trước đây là viện trưởng Viện Triết học Marx-Lenin, và bị nghi ngờ là âm mưu chống đảng và cung cấp thông tin cho một thế lực nước ngoài không được nêu tên. Một đợt bắt bớ thứ hai những kẻ bị coi là đồng mưu được tiến hành có tường thuật vào ngày 18 tháng Mười, hai ngày trước khi diễn ra cuộc họp thứ hai của Bộ Chính trị bàn về kế hoạch cuộc tấn công 1968, và đợt bắt bớ thứ ba được tiến hành vào tháng Mười hai năm 1967, đồng thời với cuộc họp của Bộ Chính trị với mục đích thông qua kế hoạch.[58]

    “Vụ án Chống Đảng” có nguồn gốc từ xung đột Trung Quốc-Liên Xô hồi đầu những năm 1960. Cuối năm 1963, tiếp theo những thảo luận mở rộng và tranh căi nội bộ, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản, dưới sự lănh đạo của tổng bí thư Lê Duẩn, đă thông qua một nghị quyết chống lại “xét lại hiện đại”, một thuật ngữ được người Trung Quốc dùng để miêu tả các chính sách của lănh tụ Liên Xô Nikita Khrushchev về “cùng tồn tại ḥa b́nh” và tránh đối đầu quân sự trực tiếp với phương Tây.[59] Nghị quyết này và một nghị quyết đi kèm kêu gọi một nỗ lực quân sự một mất một c̣n để đánh bại chế độ Ngô Đ́nh Diệm tại Việt Nam Cộng ḥa chính là nguồn cơn cho sự chia rẽ bên trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều cán bộ cao cấp, trong đó có Hoàng Minh Chính, khi ấy là viện trưởng Viện Triết học Marx-Lenin, và thiếu tướng Đặng Kim Giang, bị giáng chức hoặc mất chức, như là hậu quả của việc họ phản đối các nghị quyết đó, những nghị quyết đă đặt người cộng sản Việt Nam (ít nhất là trong thời điểm này) hẳn về phe Trung Quốc trong cuộc xung đột Nga-Trung đang mở rộng. Sự phản đối trước các nghị quyết mạnh mẽ đến mức một số cán bộ cao cấp Việt Nam đă trốn sang Liên Xô.[60]

    Những rạn nứt nội bộ của đảng thể hiện qua các tranh luận tại Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiếp tục dai dẳng. Các rạn nứt nghiêm trọng đến mức vào tháng Mười hai năm 1965, tổng bí thư Lê Duẩn buộc phải nói tới chúng trong một bài diễn văn tại Hội nghị lần thứ mười hai Ban Chấp hành Trung ương. Trong bài diễn văn này Lê Duẩn công nhận: “Từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 về các vấn đề quốc tế, Trung ương Đảng ta vẫn giữ vững và làm đúng đường lối đă đề ra. Nhưng sở dĩ có một số đồng chí hiểu lầm rằng h́nh như đường lối của Đảng ta đă thay đổi là v́ các đồng chí ấy không hiểu đúng tinh thần cơ bản của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Trung ương, do sự phổ biến nghị quyết ở một số nơi không được đầy đủ và nghiêm túc.”[61] Lê Duẩn tiếp tục bằng cách tuyên bố sẽ là sai lầm nếu nghĩ nghị quyết của Hội nghị lần thứ 9 cho thấy đảng đă chọn phe trong cuộc tranh căi Trung Quốc-Liên Xô. Ông cho biết “đường lối của Đảng ta khác về chiến lược với đường lối của Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc.”[62]

    Một cuốn sách chính thức của Công an Việt Nam xuất bản vào cuối những năm 1970 công nhận rằng chế độ coi sự phản đối trước nghị quyết “chống xét lại” năm 1963 của Trung ương Đảng Cộng sản là một mối đe dọa về an ninh và cho biết sự phản đối này đă trực tiếp dẫn tới các sự kiện của Vụ Chống Đảng năm 1967:

    “Bè lũ xét lại hiện đại t́m cách tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lê nin. Một số phần tử trong nước ta đă sao chép các luận điểm của chúng, sử dụng các khái niệm xét lại để tuyên truyền chống lại các chính sách của đảng ta. Bọn họ đă vứt bỏ nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào năm 1963, đường lối cơ bản của nghị quyết là phê phán và phủ nhận chủ nghĩa xét lại hiện đại. Mặc dù các hoạt động của bè lũ này không gây ra tổn thất nghiêm trọng, chủ nghĩa xét lại đă bắt đầu gây ảnh hưởng tới hàng ngũ cán bộ tại một số cơ quan chính quyền, đặc biệt là trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, khoa học, và luật pháp. Cần ghi nhận rằng bè lũ này đă tập hợp các cá nhân bất măn, ghen tị và đồi trụy bên trong đảng để lập ra một “tổ chức chính trị phản động để làm một tổ chức ngụy cho người nước ngoài.”[63]

    Một chú thích cho đoạn trên nói, “Vụ Chống Đảng đă được giật dây bởi các phần tử chịu ảnh hưởng của ư thức hệ xét lại và do Hoàng Minh Chính cầm đầu.”[64]

    Một số cá nhân bị bắt trong đợt bắt bớ năm 1967 là sĩ quan cao cấp của quân đội, gồm cả thượng tướng Đặng Kim Giang, người vào quăng thời gian ấy đă bị điều sang Bộ Nông trường, Thứ trưởng và Phó Tổng Tham mưu trưởng trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, và cục trưởng Cục Quân báo của Bộ Tổng Tham mưu, đại tá Lê Trọng Nghĩa. Hai trong số những sĩ quan ấy, trung tướng Nguyễn Văn Vịnh và đại tá Lê Trọng Nghĩa, từng có dính líu rất sâu vào công việc chuẩn bị các kế hoạch cuộc tấn công của Bộ Tổng Tham mưu, và cả hai đều tham gia trong các báo cáo cho Bộ Chính trị trong cuộc thảo luận về kế hoạch vào tháng Mười.[65] Nhiều sĩ quan trong số đó rơ ràng là có liên hệ mật thiết với tướng Vơ Nguyên Giáp, và một số người bị bắt tuyên bố rằng các sĩ quan an ninh thẩm vấn họ đă t́m kiếm sự liên kết giữa vị tướng họ Vơ và âm mưu Chống Đảng.[66] Trong hồi kư của ḿnh, tướng Cao Phá, Phó Cục trưởng Cục Quân báo cho tới 1968, công nhận ông đă bị rối trí trước việc đảng bắt đầu “sắp xếp lại các cấp bậc sĩ quan của… Bộ Chỉ huy Tối cao” vào quăng thời gian diễn ra Cuộc Tấn công Tết.[67] V́ “Chỉ huy Tối cao” là tên chính thức của bộ tổng hành dinh Vơ Nguyên Giáp, lời b́nh luận này dường như đă xác nhận rằng quả thực đă từng có một nhóm sĩ quan làm việc chung với tướng Vơ Nguyên Giáp.

    Thông tin về vụ việc tuyệt mật này vẫn quá sơ sài, không đủ để rút ra được kết luận cuối cùng nào về sự thật của những liên kết nước ngoài như cáo buộc, nhưng các tài liệu do Ilya Gaiduk phát hiện tại lưu trữ chính thức của Liên Xô trước đây cho thấy trong quăng thời gian này các nhân viên Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội, có khả năng là có cả một số sĩ quan t́nh báo, quả thực đă liên lạc với một nhóm “chống đối” nhỏ gồm các nhân vật chính trị Bắc Việt từng bị cắt chức từ nhiều năm trước đó. Những người ly khai này đă yêu cầu người Liên Xô giúp đỡ nhằm làm giảm tầm ảnh hưởng của Trung Quốc trong các quyết định về chính sách tại Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.[68] Miêu tả của nhóm này có vẻ rất khớp với Hoàng Minh Chính và các bạn của ông. Những liên hệ với người Liên Xô có vẻ đă là quá đủ để biện minh cho các cuộc bắt bớ và tra hỏi, và một khi một “mối nguy về gián điệp” và khe hở về an ninh đă lộ diện, một đợt bắt bố lớn gần như là không thể tránh khỏi, đặc biệt là tại một nhà nước cảnh sát như Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
    Trong khi c̣n chưa thể tiếp cận tài liệu lưu trữ của Đảng Cộng sản và An ninh Việt Nam, không thể nào xác định tuyệt đối liệu việc lên kế hoạch các vụ bắt bớ có liên quan tới những suy tư của Bộ Chính trị về kế hoạch Tấn công Tết hay không, và liệu Vơ Nguyên Giáp có quả thực là một trong các mục tiêu của cuộc điều tra hay không. Tuy nhiên, có vẻ như là khi quyết định về thực hiện Tấn công Tết được đưa ra, một cuộc tấn công hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố bất ngờ, một mệnh lệnh đă được ban xuống ở mức độ cao nhất, “thắt chặt an ninh”. Ban đầu mệnh lệnh này có thể không hướng tới các mục tiêu cụ thể, nhưng chắc chắn là các lực lượng an ninh của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă diễn giải nó như là một mệnh lệnh nhằm, nói như những lời bất hủ của Claude Raines trong bộ phim Casablanca, “Tóm hết những kẻ t́nh nghi!”

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    TưỚng Vơ Nguyên Giáp và tiẾn tŕnh bí Ẩn cỦa kẾ hoẠch tẤn công TẾt MẬu Thân
    General Vơ Nguyên Giáp and the Mysterious Evolution of the Plan for the 1968 Tết Offensive
    Merle L. Pribbenow II
    Nguyễn Việt dịch
    P3


    Tuy cơ quan an ninh của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thoạt đầu có thể chỉ làm một việc là kiểm soát một cách thụ động các đường dây liên kết với cán bộ Liên Xô của nhóm Hoàng Minh Chính, nhưng giờ đây đă rơ ràng rằng các thành viên của nhóm bị bắt là để loại trừ mọi khả năng bí mật về cuộc Tấn công Tết sắp diễn ra bị lọt ra bên ngoài. Sau đợt bắt bớ đầu tiên, bất kỳ ai có liên hệ thậm chí là vô hại nhất với những người âm mưu kia, bất kỳ ai từng biểu hiện bất kỳ sự dè dặt nào đối với Nghị quyết 9 của Trung ương Đảng, và bất kỳ ai có t́ vết dù là nhỏ nhất trong lư lịch hoặc xuất thân gia đ́nh đều phải đối mặt với các điều tra viên hăng hái đáp ứng yêu cầu của thượng cấp trong việc t́m ra những “mối đe dọa an ninh” tiềm ẩn. Có bằng chứng cho thấy rằng quả thực điều này đă xảy ra. Chẳng hạn, theo một hồi kư viết bởi một sĩ quan cao cấp của t́nh báo và an ninh cộng sản Việt Nam, sự suy sụp của tướng Nguyễn Văn Vịnh chính là kết quả của những nghi ngờ không có căn cứ theo đó con trai của vị tướng có liên hệ với t́nh báo Pháp. Phải mười năm sau, ngay trước khi qua đời, tướng Nguyễn Văn Vịnh rốt cuộc mới minh oan được cho ḿnh.[69] Mặt khác, việc liệu các nghi ngờ về con trai vị tướng có được sử dụng để chống lại ông bởi ông có quan hệ mật thiết với tướng Vơ Nguyên Giáp (Nguyễn Văn Vịnh là thứ trưởng quốc pḥng và đă làm việc rất gần gũi với tướng Vơ Nguyên Giáp) hoàn toàn là một vấn đề khác.

    Mặc dù không có bằng chứng chính xác nào cho thấy các vụ bắt bớ là cố t́nh nhắm vào tướng Vơ Nguyên Giáp và các đồng minh của ông, th́ cũng rơ ràng rằng quả thực chúng đă gây tổn hại tới vị tướng, cả về mặt nghề nghiệp lẫn mặt cá nhân. Năm 2004, trong một cuộc phỏng vấn với phóng viên một tờ báo Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 50 năm Điện Biên Phủ sụp đổ, Vơ Nguyên Giáp đă nhờ người phóng viên gọi điện cho một thuộc cấp trung thành của ông, một người mà vị tướng nói đă rất gần gũi với ông từ trận Điện Biên Phủ cho tới ngay trước cuộc Tấn công Tết nhưng vị tướng nói là chỉ biết ông ta “tách rời” khỏi ông v́ những lư do “bất khả kháng” (tác giả nhấn mạnh). Vơ Nguyên Giáp yêu cầu người phóng viên nói với người thuộc cấp trước kia là trong cuộc phỏng vấn này vị tướng đă không “quên” nhắc tới đóng góp của người thuộc cấp trong chiến thắng Điện Biên Phủ. Người thuộc cấp ngày xưa là người phụ trách bộ phận t́nh báo tại Điện Biên Phủ, đại tá Lê Trọng Nghĩa, người từng là một trong các nạn nhân của đợt bắt bớ năm 1967.[70] Hành động này không chỉ cho thấy Vơ Nguyên Giáp vẫn c̣n một số t́nh cảm đối với đại tá Lê Trọng Nghĩa và tin Lê Trọng Nghĩa đă bị đối xử bất công, mà c̣n cho thấy vị tướng vẫn không thể trực tiếp liên lạc với Lê Trọng Nghĩa, v́ các lư do chính trị.



    Kết luận

    Sau khi từ Đông Âu trở về tiếp sau khi cuộc Tấn công Tết Mậu Thân đă bắt đầu, Vơ Nguyên Giáp quay lại giữ chức tổng tư lệnh tối cao của Các Lực lượng Vũ trang và bộ trưởng Bộ Quốc pḥng, nơi ông chỉ đạo đợt Tấn công Tết thứ hai và thứ ba. Tướng Vơ Nguyên Giáp vẫn giữ các cương vị lănh đạo trong Bộ Chính trị và các lực lượng vũ trang cho tới khi chiến tranh kết thúc năm 1975, và ông đóng một vai tṛ quan trọng trong việc lên kế hoạch và tiến hành cuộc tấn công cuối cùng của cộng sản dẫn đến sự sụp đổ của Việt Nam Cộng ḥa và chiếm được Sài G̣n tháng Tư năm 1975.[71] Rơ ràng là quyền lực của ông bị giảm sút, nhưng ông vẫn là người lính trung thành và “giữ đoàn kết” với các nhân vật c̣n lại của ban lănh đạo đảng.

    Bốn mươi năm sau cuộc Tấn công Tết, giờ đây chúng ta vẫn chưa có được kết luận về việc liệu quyết định của Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng tung một cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa một mất một c̣n ngay lập tức là đúng, hay liệu Vơ Nguyên Giáp đă đúng khi phản đối quyết định ấy. Tôi tin rằng đây là một việc tế nhị và câu chuyện quá phức tạp, với quá nhiều biến số được đưa vào, nên không thể nói dù là ở mức độ chắc chắn như thế nào về việc một t́nh huống cụ thể có thể xảy ra như thế nào nếu lựa chọn một con đường khác.

    Tuy nhiên, lợi thế về thời điểm cũng cho phép chúng ta có được một số kết luận về cuộc Tấn công Tết. Nhận định t́nh h́nh của cộng sản theo đó chiến lược Tấn công Tết đă sinh ra rơ ràng là không chính xác ở nhiều khía cạnh: Nhận định đó đă đánh giá quá cao số lượng thương vong mà các lực lượng cộng sản gây ra cho Mỹ và các đồng minh; nó đă đánh giá quá cao sự ủng hộ mà lư tưởng cộng sản nhận được trong dân chúng miền Nam; và nó đă đánh giá thấp đến nực cười sức mạnh và khả năng của quân đội Việt Nam Cộng ḥa. Tuy nhiên, quả thực người cộng sản đă làm đúng được nhiều điều quan trọng: Họ đă kết luận một cách đúng đắn rằng mức độ sẵn sàng can dự của Mỹ vào Chiến tranh Việt Nam là một điểm yếu chính có thể khai thác trong nỗ lực chiến tranh liên minh ở miền Nam; nhận định của họ cho rằng mùa chiến dịch bầu cử tổng thống Mỹ năm 1968 sẽ là giai đoạn trọng yếu trong việc xác định con đường tương lai của chiến tranh Việt Nam từ phía Mỹ là vô cùng chính xác; và kết luận của họ rằng chỉ thông qua việc sử dụng các biện pháp đặc biệt họ mới có thể khai thác thời điểm của “điểm bùng phát” này nhằm biến chuyển t́nh thế có lợi cho họ, xét cho cùng, cũng là đúng. Chiến lược “các trận đánh lớn” đă từng có khả năng gây tổn thất cho các lực lượng Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng ḥa, nhưng Văn Tiến Dũng đă tuyệt đối đúng khi ông kết luận rằng các lực lượng cộng sản chỉ đơn giản là không đủ khả năng dùng các trận đánh lớn để tạo ra được các tổn thất hàng loạt lên kẻ thù mà quyết định của Bộ Chính trị về t́m kiếm một “chiến thắng nhanh chóng” đ̣i hỏi.

    Rốt cuộc, với tất cả những thất bại của cuộc Tấn công Tết Mậu Thân của cộng sản, ở số lượng rất nhiều, có một điều lộ ra: cuộc Tấn công Tết đă thuyết phục cử tri Mỹ và vị lănh đạo người Mỹ, tổng thống Johnson, rằng không thể giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh và đă đến lúc bắt đầu đàm phán t́m ra một giải pháp và người Mỹ phải rút đi. Đây là một thời điểm bước ngoặt trong cuộc chiến, một thời điểm kể từ đó không có đường lùi nữa. Ư tưởng của Lê Duẩn-Văn Tiến Dũng đă hoàn thành một trong những mục tiêu được đề ra: “đè bẹp ư chí xâm lược [của kẻ thù]… nó phải đi đến ngồi với ta, thương lượng với ta.”[72] Trong khảo luận về binh pháp của ḿnh, chiến lược gia quân sự Trung Quốc cổ đại Tôn Tử viết:

    “Phàm việc tác chiến, dùng chính binh đối địch, kỳ binh thủ thắng.”.[73]

    Tôn Tử cũng viết:

    “Nước lũ chảy xiết cuốn trôi cả đá gạch, đó là nhờ thế nước lũ.

    Chim ưng vồ mồi chỉ một cú có thể xé nát con mồi, đó là dựa vào thế tiết nhanh như chớp nhoáng.”[74]

    Trong quyết định tung cuộc Tổng tiến công Tết, người cộng sản đă làm theo lời chỉ dạy của Tôn Tử. Họ đă sử dụng sự “biến hóa”, và “thế tiết” của họ là hoàn hảo.



    Merle L. Pribbenow II là cựu sĩ quan tác chiến CIA và chuyên gia tiếng Việt, về hưu vào năm 1995. Một phần tiểu luận này được tŕnh bày tại Sixth Triennial Vietnam Symposium, Vietnam Center, Texas Tech University, tháng Ba năm 2008. Tác giả muốn bày tỏ ḷng biết ơn với giáo sư A. J. Langguth và Annenberg Institute for Justice and Journalism của Đại học Southern California v́ đă tài trợ cho chuyến đi của tác giả tới Hà Nội mùa hè năm 2007 để thực hiện các cuộc phỏng vấn tại chỗ, một trong số những cuộc phỏng vấn đó đă làm nảy ra ư tưởng về bài viết này. Tác giả cũng muốn cám ơn một người bạn không nêu tên, người đă, nhiều năm trước đây, giảng qua cho tác giả về cách tiến hành công việc nội bộ của giới lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Tóm tắt: Cuộc Tấn công Tết Mậu Thân là phát minh của tổng bí thư Đảng Cộng sản và tướng Văn Tiến Dũng. Chính quyền Hà Nội muốn khai thác cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 1968 để mở ra các đàm phán với Mỹ. Khi tướng Vơ Nguyên Giáp thất bại trong việc đề ra một kế hoạch khả dĩ nhằm giành được một chiến thắng quân sự để mang về cho người cộng sản lợi thế trong các đàm phán đă được lên kế hoạch, Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng đă thúc đẩy một kế hoạch đầy nguy cơ về “tổng tấn công” trên phạm vi toàn quốc thông qua một Bộ Chính trị đang lưỡng lự, bất chấp sự phản đối của tướng Vơ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh.

    Ghi chú của người dịch: Một số trích dẫn của tác giả do nằm ở các trang web trên Internet không c̣n hoạt động hoặc ở những cuốn sách rất khó t́m nên được dịch sát nghĩa chứ chưa được truy nguyên; cách gọi “Đảng Cộng sản” được thống nhất trong bài, mặc dù tên chính thức hồi đó là Đảng Lao động Việt Nam; cách viết tên riêng người Việt Nam của tác giả được giữ nguyên, kể cả các trường hợp như “Hồ Kháng” hoặc “Cao Phá”.



    Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Volume 3, Number 2, Summer 2008

    Bản tiếng Việt © 2010 talawas





    [1] Stanley Karnow, tướng Phillip Davidson, và một người viết tiểu sử Vơ Nguyên Giáp cho rằng tướng Vơ Nguyên Giáp là đạo diễn của cuộc Tấn công Tết. Xem Karnow, Vietnam: A History (New York: Penguin Books, 1987), 548-549; Davidson, Vietnam at War: The History 1946-1975 (New York: Oxford University Press, 1988), 441-446; và Peter Macdonald, Giap: The Victor in Vietnam (New York: W.W. Norton & Company, 1993), 262-263. Những người khác viết tiểu sử Vơ Nguyên Giáp lại nhận định tướng Nguyễn Chí Thanh là người đầu tiên đưa ra kế hoạch Tấn công Tết, lúc đầu tướng Vơ Nguyên Giáp phản đối ư tưởng này nhưng đă đồng ư khi Bộ Chính trị bỏ phiếu thông qua kế hoạch. Xem Cecil B. Currey, Victory at Any Cost: The Genius of Vietnam’s Gen. Vo Nguyen Giap (Virginia: Potomac Books, 2005), 261-265; và A. J. Langguth, Our Vietnam: The War 1954-1975 (New York: Simon & Schuster, 2000), 439-440. Lien Hang T. Nguyen viết về các tranh căi về ư hệ trong “The War Politburo: North Vietnam’s Diplomatic and Political Road to the Tết Offensive,” Journal of Vietnamese Studies 1, số 1-2 (2006): 4-58. Sophie Quinn-Judge cũng có cùng chủ đề trong “The Ideological Debate in the DRV and the Significance of the Anti-Party Affair, 1967-1968,” Cold War History 5, số 4 (11/2006): 479-500. Tiến tŕnh phát triển của kế hoạch Tấn công Tết Mậu Thân cũng tiếp tục là chủ đề trao đổi và tranh luận của các sử gia Việt Nam. Xem đại tá Hồ Kháng, “Mục tiêu chiến lược của đ̣n Tết Mậu Thân 1968,” Nhân Dân, 21/1/2008, http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?to...article=114233 (truy cập 21/1/2008); và đại tá Trần Trọng Trung, phần đầu của bài báo “Kế hoạch tổng tiến công chiến lược xuân 1968 ra đời như thế nào?”, Quân Đội Nhân Dân, 9/1/2008, http://www.qdnd.vn/qdnd/baongay.quoc...nsu.27876.qdnd (truy cập 17/1/2008).

    [2] “Nghị quyết của hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương Đảng”, in trong Văn kiện đảng toàn tập, Tập 24, 1963, bs. Trần T́nh (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2003), 822. Cũng xem “The

    Political Bureau’s Resolution on South Vietnam, November 1963,” bản dịch một tài liệu Việt Cộng do quân lực Mỹ thu được vào 29/4/1969, số hiệu 2320109002, bộ sưu tập Douglas Pike, Unit 6, Virtual Archive, The Vietnam Center and Archive, Texas Tech University, http://www.virtualarchive.vietnam.tt...va/virtual.web. Rơ ràng nghị quyết Bộ Chính trị này là tiền thân của Nghị quyết 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

    [3] Trần T́nh, bs., Văn kiện đảng 1963, 839.

    [4] Sđd., 840.

    [5] Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Victory in Vietnam: The Official History of the People’s Army of Vietnam, 1954-1975 (Lawrence: University Press of Kansas, 2002), 137-138.

    [6] Hồ Sơn Đài và Trần Phán Chấn, Lịch sử Sài G̣n-Chợ Lớn-Gia Định kháng chiến (1945-1975) (TP. Hồ Chí Minh, 1994), 391, 393.

    [7] Lê Duẩn, Thư vào Nam (Hà Nội: Sự Thật, 1986), 79.

    [8] Sđd., 88.

    [9] Sđd., 90-91.

    [10] Sđd., 95.

    [11] Sđd., 115.

    [12] Cục Tác chiến thuộc Bộ Tổng Tham mưu, Lịch sử cục tác chiến 1945-2000 (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2005), www.quansuvn.net/index.php?topic=82.105 (truy cập 20/12/2007). Theo phần 7 của cuốn sách này (www.quansuvn.net/index.php?topic=82.90), các thành viên của tiểu ban Bộ Chính trị trong khoảng giữa những năm 1960 là Lê Duẩn, Vơ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, và Phạm Hùng (tiếp theo sự bổ nhiệm tướng Nguyễn Chí Thanh vào tổng hành dinh Trung ương Cục miền Nam ở miền Nam).

    [13] Đại tá Trần Trọng Trung, Tổng tư lệnh Vơ Nguyên Giáp (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2006), 34 (tác giả nhấn mạnh).

    [14] Đại tá Trần Trọng Trung, phỏng vấn với tác giả, 19/6/2007, Hà Nội.

    [15] Để có một phân tích tuyệt vời về xung đột bên trong Bộ Chính trị, xem Nguyễn, “The War Politburo”.

    [16] William J. Duiker, Ho Chi Minh: A Life (New York: Hyperion, 2000), 484-485.

    [17] Sđd., 503.

    [18] Hoàng Tùng, “Nghị quyết T.Ư. về giải phóng miền Nam ra đời thế nào?”, Tien Phong Online, 29/4/2007, http://www.tienphongonline.com.vn/Ti...19&ChannelID=2 (truy cập 4/5/2007).

    [19] Trịnh Nhu, bs., Lịch sử biên niên xứ ủy Nam Bộ và Trung ương cục miền Nam (1954-1975) (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2002), 140.

    [20] Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến 1945-2000 (xem chú thích số 12).

    [21] Sđd.

    [22] Trần T́nh, bs., Văn kiện đảng toàn tập Tập 28, 1967 (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2003), 112, 119-120.

    [23] Phạm Thị Vinh, bs., Văn kiện đảng toàn tập Tập 26, 1965 (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2003), 594-595.

    [24] Đại tá Hồ Kháng, “Mục tiêu chiến lược của đ̣n Tết Mậu Thân 1968” (xem chú thích số 1). Cũng xem Qiang Zhai, Beijing and the Vietnam Peace Talks, 1965-1968: New Evidence from Chinese Sources (Washington, DC: Cold War History International Project, Woodrow Wilson Center, 1997), 19-22.

    [25] Trần T́nh, bs., Văn kiện đảng 1967, 125.

    [26] Sđd., 147.

    [27] Sđd., 153-154.

    [28] Có thể xem tóm tắt về những tranh luận giữa Nguyễn Chí Thanh và Vơ Nguyên Giáp trên báo chí trong tướng Phillip Davidson, Vietnam at War, 418-422, và Nguyễn, “The War Politburo,” 22.

    [29] Tướng William Westmoreland, A Soldier Reports (New York: Dell Publishing, 1980), 298-299.

    [30] Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến 1945-2000, phần 8.

    [31] Sđd.

    [32] Tướng Văn Tiến Dũng, trích từ “Tạo một bước ngoặt trong kháng chiến chống Mỹ,” Quân Đội Nhân Dân, 3/12/2004, http://www.quandoinhandan.org.vn/skn...1108&subject=7, (truy cập 2/1/2005), hiện nay có ở http://202.151.160.173/webqdndcu/skn...1587&subject=8. Trong bài báo này Văn Tiến Dũng cho biết các mục tiêu của kế hoạch ban đầu của Bộ Tổng Tham mưu là tiêu diệt từ ba đến năm lữ đoàn lĩnh Mỹ và từ ba đến năm sư đoàn quân đội Việt Nam Cộng ḥa, giải phóng từ tám đến mười triệu người, và “tăng cường” đấu tranh chính trị tại các khu vực thành thị.

    [33] Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến 1945-2000, phần 8.

    [34] Hồ Kháng, The Tet Mau Than 1968 Event in South Vietnam (Hà Nội: Thế Giới Publishers, 2001), 28-29.

    [35] Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến 1945-2000.

    [36] Tiến sĩ Nguyễn Thị Bảo, “Những ngày cuối cùng của anh Nguyễn Chí Thanh,” trong Đại tướng Nguyễn Chí Thanh: Nhà chính trị quân sự lỗi lạc (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 1997), 350-360. Nhiều báo cáo từ cả nguồn Mỹ và Việt Nam Cộng ḥa, một số trong đó vẫn được các tác giả ngày nay sử dụng, theo đó Nguyễn Chí Thanh bị giết ở miền Nam bởi một cuộc ném bom rải thảm B-52 rơ ràng là đă nhầm lẫn. Phiên bản bên cộng sản về cái chết của ông mới đúng và rơ ràng là không hề bị bịa ra. Rơ ràng là người cộng sản Việt Nam thích được tuyên bố Nguyễn Chí Thanh qua đời như một anh hùng ở mặt trận, bị một cuộc thả bom dă man của Mỹ giết chết, hơn là chấp nhận cái chết tầm thường không lấy ǵ làm cao đẹp mà họ miêu tả – một cơn nhồi máu v́ stress, làm việc quá sức, và ăn uống quá độ trong những bữa tiệc khi ông quay về nhà ở Hà Nội.

    [37] Tướng Chu Huy Mân và đại tá Lê Hải Triều, Thời sôi động (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2004), 463.

    [38] Currey, Victory at Any Cost, 231.

    [39] “Tạo một bước ngoặt trong kháng chiến chống Mỹ” (xem chú thích số 32). Mặc dù bài báo không cung cấp ngày tháng chính xác về cuộc gặp Văn Tiến Dũng-Lê Duẩn, bối cảnh và sự so sánh với thông tin từ các nguồn khác cho thấy cuộc gặp có khả năng đă diễn ra trong những ngày đầu tiên sau khi Nguyễn Chí Thanh chết. Một bài báo mới đây của Việt Nam có thể xem là đă chỉ ra rằng cuộc gặp diễn ra không lâu trước khi Nguyễn Chí Thanh chết, nhưng từ ngữ trong bài báo đó rất mơ hồ. Trong phần thứ ba của một bài báo mang tên “Kế hoạch tổng tiến công chiến lược xuân 1968 ra đời như thế nào (Quân Đội Nhân Dân, 11/1/2008, xem chú thích số 1), đại tá Trần Trọng Trung viết rằng một cuộc gặp giữa Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đă được tiến hành vào ngày 30 tháng Sáu và 1 tháng Bảy năm 1967, nó được “quyết định đưa cuộc cách mạng miền Nam tiến về phía trước tới một bước phát triển mới. Cuộc hội nghị này khẳng định khả năng giành một thắng lợi mang tính quyết định thông qua một cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa. Cơ hội lớn nhất là Đông-Xuân 1967-1968, Hè 1968, hoặc sớm hơn.” Tuy nhiên, từ ngữ ở đây không rơ ràng và tương hợp với ư tưởng trong kế hoạch ban đầu của Bộ Tổng Tham mưu về một cuộc tấn công nhằm mục đích tạo ra điều kiện cần thiết cho việc tung ra một cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa vào một thời điểm c̣n chưa biết trong tương lai, bên cạnh các mục đích khác. Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến 1945-2000, phần 8 cho biết vào ngày 20 tháng Sáu năm 1967, Quân ủy Trung ương thông qua một “giải pháp chiến lược”, nói, “Chúng ta cần thực hiện những cuộc tấn công mạnh mẽ, cả về quân sự và chính trị, vào các thành phố, thị trấn, và trung tâm chính trị nằm dưới quyền kiểm soát của chính quyền ngụy và tạo ra các cơ hội và điều kiện để tung ra một cuộc tổng tiến công và nổi dậy” (tác giả nhấn mạnh). Cuộc họp giữa Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ngày 30 tháng Sáu và 1 tháng Bảy năm 1967 có khả năng được tổ chức để xem xét và thông qua “giải pháp chiến lược” ngày 20 tháng Sáu của Quân ủy Trung ương, rơ ràng là vẫn phản ánh kế hoạch cũ trong việc “tạo điều kiện” để tung ra một cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa chứ không phải là kế hoạch mới do Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng nói tới trong cuộc họp. Tuy nhiên, một bài báo gần đây của một sử gia quân sự Việt Nam kỳ cựu, lại ủng hộ giả thuyết cho rằng ư tưởng chuyển sang một cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa một mất một c̣n đối với các thành phố chỉ xuất hiện vào tháng Bảy năm 1967, sau khi Nguyễn Chí Thanh chết. Xem đại tá Hồ Kháng, “Mục tiêu chiến lược của đ̣n Tết Mậu Thân 1968” (xem chú thích số 1). Cân nhắc các dữ kiện, nhiều khả năng cuộc gặp Lê Duẩn-Văn Tiến Dũng đă diễn ra không lâu sau cái chết của Nguyễn Chí Thanh

    [40] “Tạo một bước ngoặt trong kháng chiến chống Mỹ” (xem chú thích số 32).

    [41] Để có một ư kiến ủng hộ việc ư tưởng của Văn Tiến Dũng theo đó ư tưởng chung về Cuộc Tấn công Tết Mậu Thân xuất phát từ một gợi ư của Lê Duẩn rồi được Văn Tiến Dũng phát triển, xem đại tá Nguyễn Văn Minh, bs., Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, 1954-1975, Tập V: Tổng tiến công và nổi dậy 1968 (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2001), 30-31.

    [42] Xem H. R. McMaster, Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs of Staff, and the Lies that Led to Vietnam (New York: Harper Collins, 1997).

    [43] Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến 1945-2000 (tác giả nhấn mạnh). Trong phần thứ hai của bài báo mang tên “Kế hoạch tổng tiến công chiến lược ra đời như thế nào?” (xem chú thích số 1), đại tá Trần Trọng Trung cũng đưa ra cùng câu trích dẫn đó của Hồ Chí Minh nhưng lại nói rằng nó xuất hiện trong các thảo luận của Bộ Chính trị ngày 18 và 19 tháng Bảy năm 1966 (khác với ngày 18 và 19 tháng Bảy năm 1967 theo tài liệu của Cục Tác chiến). Xem xét kỹ các vấn đề, tôi tin rằng 18 và 19 tháng Bảy năm 1967 mới đúng, nhưng dù cho ngày tháng nào mới chính xác, câu trích dẫn rơ ràng đă cho thấy Hồ Chí Minh phản đối mọi kế hoạch liều lĩnh nhằm giành một chiến thắng nhanh chóng.

    [44] Đại tá Trần Trọng Trung, “Kế hoạch tổng tiến công chiến lược xuân 1968 ra đời như thế nào?” (xem chú thích số 20).

    [45] Đại tá Trần Trọng Trung, phỏng vấn với tác giả, 19/6/2007, Hà Nội. Cũng xem Lưu Đoàn Huỳnh, “The Perspective of a Vietnamese Witness,” trong The War That Never Ends: New Perspectives on the Vietnam War, David L. Anderson và John Ernst bs. (Lexington: University Press of Kentucky, 2007), 91-92.

    [46] Đại tá Nguyễn Văn Minh, Lịch sử kháng chiến, 1968, 29-32; Thượng tướng Trần Văn Quang bs., Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thắng lợi và bài học (Lưu hành nội bộ) (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 1995), 68 và 314, các chú thích 27-28.

    [47] Hoàng Đan và Hưng Đạt, Chiến dịch tiến công đường số 9-Khe Sanh xuân hè 1968 (Lưu hành nội bộ) (Hà Nội: Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam, 1987), 14. Vẫn những mục tiêu cho Tết Mậu Thân ấy đối với chiến trường B5 được t́m thấy trong Kiều Tam Nguyên, bs., Chiến trường Trị-Thiên-Huế trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước toàn thắng (Huế: Thuận Hóa, 1985), 136.

    [48] Nguyễn Văn Minh, Lịch sử kháng chiến, 1968, 32.

    [49] Sophie Quinn-Judge, “The Ideological Debate in the DRV,” 482; đại tá Trần Trọng Trung, trong lần phỏng vấn với tác giả, 19 tháng Sáu năm 2007 tại Hà Nội. Theo tướng Cao Phá, tướng Vơ Nguyên Giáp vẫn ở Hungary cho tới cuối tháng Mười hai năm 1967. Xem Những kư ức không bao giờ quên (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2006), 166. Theo tướng Philip Davidson, người ta không thấy tướng Vơ Nguyên Giáp ở Hà Nội từ 2 tháng Chín năm 1967 cho tới 5 tháng Hai năm 1968. Xem Davidson, Vietnam at War (New York: Oxford University Press, 1988), 563.

    [50] Duiker, Hồ Chí Minh, 556.

    [51] Sđd., 557.

    [52] Đại tá Nguyễn Văn Minh, Lịch sử kháng chiến, 1968, 40.

    [53] Đào Trọng Cảnh, bs., Văn kiện đảng toàn tập, Tập 29, 1968 (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2004), 1, 32.

    [54] Lưu Đoàn Huỳnh, được trích dẫn trong Anderson và Ernst, The War That Never Ends, 92.

    [55] Thượng tướng Trần Văn Quang, Tổng kết cuộc kháng chiến, 314, chú thích 28.

    [56] Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến, phần 8; đại tá Nguyễn Văn Minh, Lịch sử kháng chiến, 1968, 74-75.

    [57] Tướng Huỳnh Công Thân và Nguyễn Hữu Nguyên, Ở chiến trường Long An: hồi ức (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 1994), 131-132; đại tá Trần Dương, bs., Lịch sử quân khu 6 (cực Nam Trung Bộ-Tây Nguyên) kháng chiến chống Mỹ, 1954-1975 (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 1995), 221.

    [58] Nguyễn, The War Politburo, 25-26; Quinn-Judge, “The Ideological Debate in the DRV,” 481-482. Cũng xem “Alleged Coup d’Etat Plot in Hanoi: 1967,” trích dịch từ cuốn sổ tay lính cộng sản bị quân đội Mỹ thu được vào năm 1970, số hiệu 2320120032, Douglas Pike Collection, Unit 06, Virtual Archive, The Vietnam Center and Archive, Texas Tech University, http://www.virtualarchive.vietnam.tt...va/virtual.web (truy cập 10/1/2008). Để biết một trong số rất ít dẫn chiếu tới các vụ bắt bớ năm 1967 trong các ấn phẩm công khai của cộng sản Việt Nam, xem “Hoàng Minh Chính: ông là ai?”, Hà Nội Mới, 20/10/2005, http://www/hanoimoi.com.vn/41/62857 (truy cập 11/7/2007).

    [59] Xem “Nghị quyết của hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về t́nh h́nh thế giới và nhiệm vụ quốc tế của đảng ta, tháng 12 1963”, Trần T́nh, bs., Văn kiện đảng 1963, 716-800.

    [60] Nguyễn, “The War Politburo,” 15-19; Quinn-Judge, “The Ideological Debate in the DRV,” 483. Để có một dẫn chiếu ngắn tới sự phản đối của tướng Đặng Kim Giang trước nghị quyết 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, xem một bài diễn văn đọc năm 1969 của Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hoàn: “Kết luận của đồng chí Bộ trưởng về công tác sưu tra và xác minh hiểm nghi (1969)”, trong Một số vấn đề về đấu tranh chống phản cách mạng (Tối mật: chỉ lưu hành nội bộ ngành công an) (Hà Nội: Viện Nghiên Cứu Khoa Học Công An, 1975), 352.

    [61] Phạm Thị Vịnh, Văn kiện đảng 1965, 609.

    [62] Sđd., 610.

    [63] Viện Nghiên Cứu Khoa Học Công An, Công an nhân dân Tập II, 1954-1965 (Dự thảo: chỉ lưu hành nội bộ) (TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên Cứu Khoa Học Công An, 1978), 206.

    [64] Sđd., 206.

    [65] Nguyễn Văn Minh, Lịch sử kháng chiến, 1968, 32. Theo Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến, phần 8, tướng Nguyễn Văn Vịnh tham gia các cuộc bàn luận lên kế hoạch về Tấn công Tết cho đến tận 11/11/1967, cho nên có vẻ như là ông chưa bị bắt cho tới đợt giam giữ/bắt bớ cuối cùng vào tháng Mười hai.

    [66] Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, chương 18, truy cập vào trang Đặc Trưng tại http://dactrung.net/truyen/noidung.a...aT6QufqQ%3d%3d (truy cập 15/12/2007); đại tá Bùi Tín (dưới bút danh Thành Tín), Mặt thật: Hồi kư chính trị của Bùi Tín (Garden Grove, CA: Turpin Press, 1994), 189-190.

    [67] Tướng Cao Pha, Những kư ức không bao giờ quên (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2006), 140.

    [68] Ilya V. Gaiduk, The Soviet Union and the Vietnam War (Chicago: Ivan R. Dee Publishers, 1996), 67-68.

    [69] Trần Quốc Hương và Nguyễn Thị Ngọc Hải, Trần Quốc Hương: Người thầy của những nhà t́nh báo huyền thoại (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2004), 200; tướng Trần Văn Trà, Những chặng đường lịch sử của B2 Thành Đồng, Tập I: Ḥa b́nh hay chiến tranh (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 1992), 36.

    [70] Dương Trung Quốc, “Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, 7/5/2004,” Vietnam Net, 8/5/2004, www.vnn.vn/thuhanoi/2004/05/108102/ (truy cập 22/12/2007).

    [71] Xem Merle Pribbenow, “North Vietnam’s Final Offensive,” Parameters 29, số 4 (mùa xuân 1999-2000): 60.

    [72] Bản gỡ băng diễn văn của Lê Duẩn tại Hội nghị mười bốn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong Văn kiện đảng 1968, Đào Trọng Cảnh bs. (xem chú thích số 53), 23.

    [73] Nhóm dịch Denma, The Art of War: A New Translation (Boston: Shambhala Publishing, 2001), 16.

    [74] Samuel B. Griffith, d., Tôn Tử: Binh pháp (New York: Oxford University Press, 1963), 92.

    Journal of VIETNAMESE sTUDIES
    Summer 2008
    Last edited by alamit; 28-02-2013 at 06:41 AM.

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    TƯỚNG GIÁP QUA 2 CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
    Tác giả: Peter Macdonald
    Người dịch: Nguyễn Viết Quyền-Nguyễn Đ́nh Cao
    Dịch theo bản tiếng Pháp của Jean Clem và Frank Strachitz




    Chương 1: Tuổi trẻ

    Nhờ có đấu tranh bền bỉ, anh hùng, thông minh và giàu tưởng tượng để chống chọi với thiên nhiên, để thay đổi xă hội và để chiến thắng những kẻ xâm lược nước ngoài, Tổ quốc ta đă trở thành một lực lượng lớn lao và đă xây dựng nên một xă hội đầy sức sống mănh liệt.
    Vơ Nguyên Giáp


    Việt Nam không phải là một đất nước rộng lớn. Từ bắc chí nam, chiều dài bờ biển chạy dọc theo biển Đông khoảng 3.260 km. Chiều rộng lớn nhất ở phía bắc gần 560 km, đoạn hẹp nhất ở giữa chỉ 50 km, c̣n ở phía Nam đi sâu vào đất liền trên 240 km. Diện tích toàn bộ khoảng 300.000 km2. Nước Pháp lớn hơn 2 lần và dân số đông hơn 2 lần vào khoảng những năm năm mươi.


    Bản đồ Việt Nam

    Tỉnh Quảng B́nh ở đoạn hẹp nhất của đất nước mà người xưa gọi là xứ An Nam. Ba năm trước lúc xảy ra chiến tranh thế giới, một cậu bé ra đời ngày 28 tháng 8 năm 1911 ở làng An Xá gần vĩ tuyến 17; số người xoay chuyển ḍng lịch sử quả thật hiếm, nhưng cậu bé này là một trong số họ. Hiện nay trên thế giới vẫn c̣n một vị tướng của một đội quân nguyên thủy mà đă đánh thắng hai thế lực phương Tây: đó là Vơ Nguyên Giáp.

    Năm 1954, Giáp giành thắng lợi vẻ vang trong chiến dịch Điện Biên Phủ, dẫn đến người Pháp rút khỏi Đông Dương, và tác động mạnh đến sự sụp đổ của những đế quốc châu Âu trước chiến tranh. Trong năm 1960, hàng chục quốc gia được thành lập ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh, làm thay đổi cơ bản liên minh chính trị thế giới. Cũng trong thời kỳ này, vị Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa Vơ Nguyên Giáp đă dùng vũ lực làm thất bại chiến lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam: quốc gia mạnh nhất thế giới đă chịu thua về chính trị, quân sự và kinh tế. Mỹ phải từ bỏ một cuộc can thiệp kéo dài hơn 20 năm. Trong những năm 70, là Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng, Giáp đă tạo cơ sở cho việc thống nhất đất nước.

    Nếu người ta ngạc nhiên rằng quân đội của một nước nghèo và công nghiệp chưa phát triển, có thể đánh thắng hai lực lượng quân sự hùng mạnh của thế giới, th́ bản thân con người đă tạo nên phần lớn chiến công đó quả chẳng kém phần xuất sắc. Chẳng những lúc c̣n trẻ, ông đă tỏ ra có trí thông minh lớn và sức sống mạnh, mà sau đó ông c̣n thể hiện biết bao nhiêu phẩm chất đặc biệt về chỉ huy và tổ chức.

    Trong nửa sau của thế kỷ 20, ông là Tổng tư lệnh suốt 30 năm liên tục trong quân đội. Xuất phát với 34 chiến sĩ, cuối cùng ông đă chỉ huy gần một triệu quân. Rơ ràng ông là một nhân vật không có ai địch nổi. Vơ Nguyên Giáp đă xuất sắc trong việc kết hợp hoạt động chính trị với trách nhiệm quân sự. Ông đă chiến đấu tích cực trong hàng ngũ Đảng Cộng sản trước khi trở thành chiến sĩ. Ông là Bộ trưởng Bộ nội vụ trong Chính phủ Hồ Chí Minh đầu tiên năm 1946. Trong những năm 60 và 70 ông đảm nhiệm nhiều chức vụ Bộ trưởng, vừa là Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng, vừa thực hiện những nhiệm vụ khác trong Trung ương Đảng.

    Cho đến ngày nay mặc dầu đă 80 tuổi, ông vẫn c̣n là Phó thủ tướng, được tôn kính như một nhân vật cao tuổi của Nhà nước, như một chiến sĩ lăo thành trong quân đội, đối với người nước ngoài, về phương diện cá nhân ông là vị chỉ huy chính trị quân sự đạt được đỉnh cao nhất trong sự nghiệp.

    Có bao nhiêu đổi thay từ đầu những năm 20 khó có thể h́nh dung c̣n cái ǵ của An Xá năm 1911, tuy về cơ bản làng này không có ǵ chuyển động trong nhiều thế kỷ. Ngoài những thành phố lớn như Sài G̣n, Hà Nội và các tỉnh lỵ địa phương, tất cả độ vài chục triệu người, Việt Nam gồm khoảng 5.000 làng nhỏ, phần lớn ở những vùng đồng bằng cày cấy dọc hai bên con sông lớn, sông Hồng ở phía Bắc và sông Cửu Long ở phía Nam.

    Những làng mạc mọc lên xung quanh một nhóm trang trại xây dựng lên gần một nguồn nước: sông, suối hoặc giếng. Đồng ruộng từ trung tâm tản ra trên cánh đồng. Sống chung quanh trang trại là những người làm công theo yêu cầu của chủ trang trại hoặc quản lư của họ và làm các dịch vụ khác của dân chúng. Người có thế lực nhất là quan: đứng đầu về tinh thần và dân sự (đôi khi một ông quan thuộc hạng hai có ít quyền lực và uy tín hơn những người điều hành các khu vực quan trọng). Đồng thời ở đó cũng có người buôn bán, thợ thủ công và nông dân làm nông nghiệp. Dân làng thường ở trong các túp lều nhỏ bằng đất và tre, lợp lá cọ hoặc cỏ. Họ ngủ trên những chiếc chiếu rải trên nền đất.

    Mỗi làng được bao bọc bởi một lũy tre dày có cổng đóng kín, khi mặt trời lặn, không ai có thể đột nhập vào làng trong đêm. Người ta thường nói: “Mệnh lệnh đức vua cũng dừng lại ở lũy tre làng”, v́ trong làng quyền hành thuộc các bậc tiên chỉ, một tổ chức được dân làng bầu lên, gồm những người được kính trọng nhất. Làng có đền thờ, miếu mạo và nghĩa trang. Chó, mèo, trâu, ḅ, lợn, chuột, ruồi muỗi, gà vịt, ngỗng đều sống chung với người, kể cả những con chim nuôi trong lồng. Không có điện, chỉ có ánh sáng của đèn dầu hỏa. Không có nước máy, chỉ có gàu múc nước từ dưới suối hoặc giếng. Đường đi lại đều bằng đất nện. Các chất thải của con người hoặc động vật đều được chất đống để làm phân bón ruộng. Lao động liên tục, đói nghèo triền miên, tầm vóc gầy g̣. Nhưng có trật tự, có tổ chức, có giúp đỡ người già, cứu tế người nghèo, có cuộc sống gia đ́nh, có những ngày hội hè, có niềm vui và tiếng cười. An Xá là một nơi b́nh yên: không ai có thể h́nh dung được cái làng nhỏ ấy lại bị người Pháp đốt cháy và bom Mỹ phá hoại khi cậu bé ra đời và lớn lên.

    Bố Vơ Nguyên Giáp, một học giả có tiếng ở địa phương là một viên quan chức hạng hai nhưng nghèo. Ông Giáp kể: “Tôi xuất thân từ một gia đ́nh nông dân nghèo”. Nhà của gia đ́nh ông không phải là tồi, nhưng mọi người trong làng sống ở mức tối thiểu”. Ngày nay thu nhập b́nh quyền của một người Việt Nam tương đương 1.000Fr/năm. 80 năm sau có lẽ quy ra sức mua th́ cũng gần như vậy. Mọi thứ đều không có nhiều để mua bán. Người ta ăn chủ yếu bằng gạo, thức ăn có tí ớt, thỉnh thoảng có cá (An Xá không xa biển bao nhiều) hầu như không bao giờ có thịt, kể cả thịt lợn và thịt gà. Mỗi năm một lần Tết-năm mới theo lịch mặt trăng là những ngày hội ăn uống kéo dài nhiều ngày. Hay nói khác đi trừ những dịp cưới hỏi, suốt năm người ta chờ đến Tết để ăn uống dồn dập, thức ăn, bia và rượu gạo.

    Quan chức không phải là cha truyền con nối mà họ được tuyển chọn sau những kỳ thi viết và vấn đáp kéo dài khoảng 3 tháng ở kinh đô. Hệ thống cai trị vay mượn hệ thống của Trung Quốc hoặc của tổ tiên để lại. Các quan chức Việt Nam được tuyển chọn trong số những người trẻ tuổi ở thành phố hoặc thôn quê, có khả năng thông thuộc những điều kinh điển của Khổng Tử về tôn giáo, lịch sử, toán học và âm nhạc. Bất kỳ ai cũng có thể trở thành quan chức, nhưng con trai nhà có học được học hành nhiều hơn con cái nông dân thất học, họ đỗ đạt nhiều hơn và củng cố thêm địa vị của gia đ́nh họ trong xă hội. Từ năm 1945, phần lớn những người lănh đạo Việt Nam đều xuất thân từ thiểu số có học đó.

    Phật giáo là tôn giáo chính của gia đ́nh cậu bé Giáp. Nhưng cũng như phần lớn các quốc gia ở châu Á người ta ḥa trộn dễ dàng những giáo lư của ba ngành tôn giáo phương Đông: Khổng giáo, Lăo giáo và Phật giáo và thực hiện những điều thuận tiện nhất. Cuộc sống hàng ngày ở An Xá thể hiện rơ những đạo lư của Khổng Tử, chấp hành nghiêm chỉnh trật tự xă hội, và ứng xử đúng đắn, tôn trọng tuổi tác và kinh nghiệm, thờ cúng tổ tiên.

    Bố Giáp đă đấu tranh lâu dài trong những tổ chức cách mạng dân tộc, tham gia những cuộc nổi dậy 1885 và 1888 chống lại người Pháp (Trong bài: “Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, quê hương, gia đ́nh và tuổi thơ” của trung tướng Hồng Cư đăng báo tiền phong chủ nhật số 32 ra ngày 12-8-2001 đă viết: …”Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bắt đầu (1946) gia đ́nh đi tản cư, ông (Bố Vơ Nguyên Giáp) c̣n đang thu xếp vài việc, chưa kịp đi theo, th́ giặc Pháp ập tới: Chúng càn quét lùng bắt ông, đưa ông về giam ở Huế. Ông bị giặc tra tấn. Có người trông thấy ông bị buộc tay vào đằng sau xe Gip. Gia đ́nh không biết ông sống chết ra sao. Măi về sau, gia đ́nh mới có tin là ông đă mất trong nhà tù ở Huế (tháng 11-1947)). Không bao giờ từ bỏ hận thù chống chế độ thực dân Pháp, sớm gieo hạt giống cách mạng vào cậu con trai c̣n trẻ tuổi, ông bị bắt v́ hoạt động nổi dậy năm 1919. Sau vài tuần lễ ông chết ở trong tù.

    Vơ Nguyên Giáp có hai chị gái và một cậu em trai. Sau cái chết của cha, một trong hai chị cũng bị bắt. Chị không bị tù lâu, nhưng v́ thiếu thốn kéo dài trong tù, chị đổ bệnh và chết sau vài tuần được trả tự do. Gia đ́nh phải chịu hai cái tang tàn khốc trước lúc cậu Giáp được 10 tuổi.

    Lúc c̣n nhỏ, Giáp được cha dạy học từ khi đến trường làng. Sau đó nhờ trí thông minh xuất chúng, cậu được gửi đến trường miền. Đạt nhiều tiến bộ trên bước đường học tập, năm 1924, 13 tuổi, cậu rời gia đ́nh vào trường quốc học Huế. Cậu tạm biệt mẹ, nước mắt lưng tṛng, và thi đỗ vào trường quốc họ do người Pháp điều hành. Lúc bấy giờ, tiếng Pháp là ngôn ngữ thứ hai (do đó đến năm 1954 Pháp ngữ là tiếng phổ thông, ai đó muốn có một chức danh nào đó đều phải đọc và viết tiếng Pháp). Mặc dù có hận thù sâu sắc với chế độ thực dân, càng ngày cậu càng ca ngợi văn hóa Pháp và các tác gia người Pháp.

    Huế thành phố của nhân dân trên bờ sông Hương là cố đô của Việt Nam. Đó là một thành phố pháo đài và chung cư, một trung tâm hành chính và thương mai năng động. Năm 1802, vua Gia Long đă xây dựng một thành tŕ có hào sâu bao quanh với những cổng to lớn, tạo thành trái tim của Kinh đô, ở giữa các cấm thành. Cầu sắt do Gustave Eiffel vẽ, vài chục năm sau bắc qua sông.

    Trong những năm 1924 và 1925, Giáp bắt đầu đấu tranh cho lư tưởng trong hàng ngũ những người yêu nước. Nhờ nghị lực và tài tổ chức, anh được chọn để tập hợp những học sinh hoạt động cách mạng cùng học trường quốc học và các trường khác ở Huế. Trong mọi trường hợp, hoạt động của anh cũng không thể giữ bí mật được, nên mới 13 tuổi anh đă có tên trong hồ sơ của mật thám Pháp, của cảnh sát hồi bấy giờ. Sở mật thám đă kiên nhẫn theo dơi những hoạt động bí mật chống thực dân xuất hiện từ khi người Pháp đến Đông Dương, lập danh sách những người tham gia biểu t́nh công khai hoặc trả tiền cho những ai đưa tin về những người hoạt động bí mật.

    Sau 2 năm, trường quốc học không cho phép Giáp hoạt động nữa. Anh bị buộc thôi học sau khi tham gia một cuộc băi khóa. Anh trở về An Xá và không bao giờ chịu từ bỏ đấu tranh cho tự do của Tổ quốc; được một người hoạt động chính trị địa phương Nguyễn Chí Diểu giới thợi, anh đă gặp những nhà yêu nước trong Tân Việt cách mạng đảng, một tổ chức yêu nước thành lập ở Trung kỳ năm 1924.

    Theo chủ nghĩa dân tộc nhưng Tân Việt cũng có màu sắc cộng sản: trong số những tài liệu chuyển đến Giáp, một tài liệu có đầu đề “Tố cáo những tội ác của chế độ thực dân” do một người tên là Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Con người ấy đă gần gũi với anh từ những năm 13 tuổi, hồi ở Huế, trong dịp anh được gặp nhà chí sĩ cao tuổi Phan Bội Châu đang bị quản thúc v́ hoạt động bạo loạn. Giáp đă phải t́m chỗ vắng người và trèo lên cành cây để đọc tài liệu. Những lư luận mác xít do ông Quốc tŕnh bày đă thay đổi cuộc đời Giáp: đó là một xă hội không gc, công bằng và trung thực. Anh nói: “Đây là khả năng đem lại hạnh phúc cho toàn nhân loại”. Lúc đầu là người yêu nước về sau trở thành cộng sản.

    An Xá, một làng quê nhỏ xa vắng và yên ả không phải là nơi của anh; anh lại được nhà cầm quyền cho trở lại học tập ở Huế. Đă có điều kiện hoạt động tốt hơn, anh tiếp tục tổ chức đấu tranh. Lần này, anh đă vượt qua những giới hạn cho phép, anh bị bắt khi đang điều hành những cuộc biểu t́nh của sinh viên, học sinh và bị cầm tù 2 năm. Nhưng anh đă được thả ra sau 3 tháng ở tù, v́ không đủ chứng cứ buộc tội anh.

    Năm sau, tuy vẫn hoạt động tích cực, nhưng nhờ sự giúp đỡ của một viên quan cai trị thực dân cũ, anh được nhận vào học ở trường Albert Sarraut. Trường có một lớp triết học học trong một năm. Với thái độ dễ mến và lịch lăm, anh đă được một giáo sư của anh viết về anh: “một con người vui tính, hết sức nhiệt t́nh t́m ra chân lư”. Cuối năm anh đỗ tú tài. Cánh cửa trường đại học đă rộng mở.


    Vơ Nguyên Giáp thời trẻ


    Đối với thanh niên châu Âu hoặc châu Mỹ có bằng tú tài là một bước quan trọng, th́ đối với một người Việt Nam, việc đó quan trọng gấp 1.000 lần. Chỉ có 10% trẻ em được đến trường dưới dạng này hoặc dạng khác, và chỉ có 4% trong số đó vượt qua bậc tiểu học. Từ năm 1883, năm Pháp xâm lược Việt Nam, đến năm 1945 trong toàn cơi Đông Dương (bao gồm Việt Nam, Lào, Campuchia) chỉ có 14.393 thí sinh tốt nghiệp tiểu học. Một số ít người Việt Nam hiếm hoi được phép đến một trong ba trường quốc học của đất nước để đào tạo thành những viên quan lại Pháp. Từ năm 1919 đến 1938, 827 trong số họ đỗ tú tài. Trong 25 năm trước 1945, 3.000 sinh viên theo học ở trường đại học duy nhất của Việt Nam ở Hà Nội. Trong số họ có 229 tốt nghiệp bác sĩ, 160 giáo viên và 408 luật sư. Giáp học ở ngành luật, tốt nghiệp luật và kinh tế chính trị năm 1937. Cũng năm ấy, anh vào Đảng Cộng sản Đông Dương do một người đại biểu của Đảng Cộng sản Pháp được giới thiệu về Sài G̣n để làm nhiệm vụ tổ chức thành lập Đảng giới thiệu.

    Trong những năm học đại học, anh ở trọ nhà giáo sư Đặng Thái Minh, giáo sư có một người con gái Nguyễn Thị Minh Giang (Sách: “Chiến thắng bằng mọi giá” của Cecil B Curey trang 29 viết: … Ở nhà trong một thời gian, ông Giáp lại một lần nữa quyết định đi Vinh… Ông cần việc làm và hy vọng t́m được một việc làm ở đó. Giáo sư Đặng Thai Mai, thầy cũ của ông lúc đó cũng được phóng thích khỏi nhà tù Lao Bảo, sống ở Vinh và có thể giúp ông. Quan trọng hơn, Vinh là quê hương của Nguyễn Hữu B́nh, cha của người bạn tù của ông là Nguyễn Thị Quang Thái (sinh năm 1915)). Trang 46 viết: … Năm 1939 đă 28 tuổi, Vơ Nguyên Giáp làm một chuyến đi Vinh và dạm hỏi Quang Thái làm vợ… Một thời gian, trước tháng 4-1939, Giáp và Quang Thái tổ chức lễ cưới…) là người quen biết từ hồi ở Trường Quốc học Huế. Lúc bấy giờ cô là một trong những nữ chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi nhất. Cô đă tiếp thu được tinh thần yêu nước của cha cô và cũng như của Giáp, cô tin tưởng rằng chủ nghĩa cộng sản là phương tiện chắc chắn nhất để đạt được lư tưởng của họ. Họ cưới nhau tháng 6-1938. Thật vậy, Giáp công tác với nhiều tờ báo cách mạng: Tin tức (Les Nou Velles), Nhân dân (Le Peuple), tiếng nói của chúng ta (Notrevoix) và lao động, Le Travail. (Sau này anh mới biết rằng những bài đăng trong các báo ấy kư tên P.Lin là Hồ Chí Minh viết). Anh cũng xuất bản với Trường Chinh - sau này cũng trở thành nhà lănh đạo cộng sản Việt Nam - một tác phẩm nhỏ “vấn đề dân cày”. Các hoạt động của Giáp đă phải trả giá: anh trượt thi cử nhân luật hành chính, không được hành nghề và cần tiền giúp gia đ́nh - một đứa con gái Hồng Anh sinh 5-1939-anh đă nhận làm giáo sư sử học ở trường tư thục Thăng Long Hà Nội.



    Tướng Giáp với người vợ đầu - Nguyễn Thị Quang Thái

    Chị vợ của Giáp cũng là một chiến sĩ cách mạng, chị học chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô vào cuối những năm 30. Về đến Sài G̣n, chị bị bắt giam và bị bắn. Giáp suy nghĩ như vậy trong gia đ́nh anh, người ta đă thấy được 3 cái chết dă man tàn bạo do chế độ thực dân Pháp gây nên.

    Là người yêu nước vững tin, Giáp dành một bài giảng riêng về những cuộc kháng chiến lâu dài chống Trung Quốc, quốc gia đă nhiều lần xâm lược Việt Nam hàng thế kỷ. Ca ngợi những hành động ah, anh diễn đạt đầy sức thuyết phục những trận đánh và thắng lợi của Napoléon. Anh đă nghiên cứu những chi tiết nhỏ nhất của các trận đánh và truyền đạt đầy nhiệt huyết bằng h́nh vẽ những tổ chức lực lượng của Napoléon trên trận địa. Học sinh của thầy Giáp đều nhớ rất kỹ những bài giảng trong sáng và giọng nói hấp dẫn của thầy.

    Giáp cũng rất chú ư nghiên cứu những tác phẩm của Lênin, Mác-Ăngghen và Mao Trạch Đông. Từ những tác phẩm của ba nhân vật trên, Giáp t́m ra những cơ sở tư tưởng của hệ thống xă hội tương lai và anh tin rằng một chế độ xă hội công bằng hoàn toàn mới sẽ thay thế những bất công cũ. Từ các nguyên lư của Mao Trạch Đông, Giáp khai thác những nội dung quân sự để xây dựng lực lượng vũ trang. Ngoài ra Giáp đă nhiều năm nghiên cứu tướng Raoul Salon, anh đọc tác phẩm của T.E Lawrence, Lawrence Arập. Người lính của chiến tranh thế giới ấy bằng những thí dụ chính xác đă dạy anh làm sao có hiệu quả tối ưu trong kế hoạch chiến thuật và chiến lược mà chỉ sử dụng lực lượng tối thiểu. Anh cũng rất quan tâm đến điều Lawrence nhấn mạnh: giá trị con người.

    Giáp say mê học tập. Cũng như nhiều nhân vật cùng thời ở phương Đông và phương Tây, khi đi t́m một phương thuốc cho những nỗi đau của thế giới. Anh thấy rằng chủ nghĩa cộng sản là một phương sách giải thoát. Chủ nghĩa cộng sản rơ ràng có tác động sâu sắc: nó chấm dứt chế độ bóc lột công nhân của chủ nghĩa tư bản. Và cuối cùng khẳng định cách mạng Nga là tấm gương đi tới, như một người đi thăm Liên Xô đă nói: “Tôi đă thấy tương lai, và cứ như vậy tiến lên!”. Lư luận cộng sản đề cao tính cao thượng của con người; nên làm điều ǵ tốt cho con người, mà không phải làm điều ǵ xấu nhất. Đối với nhiều người, một thời đại mới đang thức dậy trong toàn nhân loại.

    Chân dung nổi bật của Giáp lúc đă gần 30 tuổi: một người trẻ tuổi dễ mến rất thông minh năng động và quyết đoán, bằng nhân cách và hoạt động tinh thần đă hoàn toàn chinh phục những người xung quanh. Các đặc điểm ấy không thay đổi theo năm tháng mà không ngừng tăng trưởng theo thời gian: anh hưởng thụ ít nhất và sẵn sàng đè bẹp mọi tư tưởng chống đối. Mặc dù vậy đó là một con người cần mẫn, tư duy cho đến giờ phút cuối cùng, sẵn sàng chờ đợi hơn là hành động vội vàng. Anh sẵn sàng nghe mọi ư kiến trái ngược được tŕnh bày logic và có sức thuyết phục để tránh được một phản ứng mạnh ngăn cản anh đạt mục đích, anh cảm giác với những trường hợp lạm dụng lư lẽ: như người ta thường nói một nét đặc trưng thuận lợi cho một cuộc đời chính trị vĩ đại.

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    TƯỚNG GIÁP QUA 2 CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
    Tác giả: Peter Macdonald
    Người dịch: Nguyễn Viết Quyền-Nguyễn Đ́nh Cao
    Dịch theo bản tiếng Pháp của Jean Clem và Frank Strachitz
    Chương 2: Xây dựng lực lượng


    Mục đích của chúng tôi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xă hội-dân cày có ruộng. Trước đây đă có những người lănh đạo của chúng tôi nói đến độc lập nhưng họ không đem lại ruộng đất cho dân cày, do đó họ không thành công. Tôi tin chức chủ nghĩa xă hội là lư do đấu tranh của nông dân và công nhân.
    Vơ Nguyên Giáp
    (nói với tác giả)


    Ở Pháp năm 1939 sau khi kư kết hiệp ước Xô-Đức, Đảng Cộng sản bị cấm hoạt động. Ở Việt Nam, chế độ cai trị cũng phụ thuộc chính phủ mẫu quốc, bắt đầu bắt bớ những đảng viên của Đảng hoạt động công khai. Giáp có thể bị bắt, Trung ương Đảng quyết định chuyển Giáp khỏi Việt Nam. Mồng 3 tháng 5 năm 1940, Giáp chia tay vợ-“đồng chí Thái” như ông thường gọi và con gái nhỏ bên bờ Hồ Tây-ở Hà Nội. Ông rời Hà Nội trên một chiếc xe kéo tay do một đảng viên tin cậy kéo. Sau đó Giáp đi cùng Phạm Văn Đồng lớn hơn Giáp 4 tuổi, là một nhân vật quan trọng khác của Đảng. Được vài kilômét, Giáp và Đồng lên xe lửa đi về phía tỉnh Cao Bằng (Lào Cai: Sđd, trang 16) rồi vượt qua biên giới sang Trung Quốc. Họ phải trốn vào pḥng vệ sinh để tránh cảnh sát tuần tra trên hành lang. (Hai con đường sắt do người Pháp xây dựng, một từ Hà Nội vào Sài G̣n, và một từ Hải Pḥng sang Côn Minh qua Hà Nội. Đường sắt đi qua đồng bằng sông Hồng năm 1903 và đến biên giới Trung Quốc năm 1906, nhưng phải mất hơn 4 năm nữa và tốn thêm nhiều sinh mạng mới vượt qua vùng rừng núi khắc nghiệt để đến Côn Minh). Cũng như Giáp và Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng đă bị tù 20 năm v́ hoạt động cách mạng. Ba con người để điều hành đất nước Việt Nam trong 30 năm sau này đang đến với nhau. Hai người trong số họ đang tiến lên phía Bắc đến Trung Quốc, nơi Hồ Chí Minh đang hoạt động cùng những người cộng sản của Mao Trạch Đông. Vợ Giáp trở về gia đ́nh ở Vinh, thuộc tỉnh Nghệ An miền Trung Việt Nam. Chị bị bắt và xử 15 năm tù rồi chuyển ra trại giam Hỏa Ḷ Hà Nội.



    Vơ Nguyên Giáp chụp với bố mẹ, con gái Hồng Anh (áo trắng) và các cháu năm 1946.

    Tháng 6 năm 1940 ở Côn Minh Trung Quốc, Giáp gặp Hồ Chí Minh lần đầu tiên lúc 29 tuổi. Phạm Văn Đồng và Giáp cùng với những người tạm trú đang chờ đợi đến tiếp xúc với một con người. Giáp nhớ lại khi nh́n thấy Hồ Chí Minh b́nh tĩnh, thái độ khiêm tốn và trang phục giản dị. Ông biết Nguyễn Ái Quốc, người có những bài viết ảnh hưởng sâu sắc đến ḿnh trước đây.

    Trong trí nhớ của Giáp cũng như những người khác, h́nh như không ai có chút nghi ngờ về năng lực điều hành phong trào độc lập của con người ấy. Cụ Hồ suốt đời chiến đấu cho lư tưởng cộng sản. V́ những tư tưởng ấy ông đă bị người Anh bắt giam ở Hồng Kông và người Trung Quốc bắt nhiều lần. Tác phẩm của ông được lưu truyền rộng răi, tên tuổi của ông được nhiều người nhắc đến trong tất cả các phong trào cách mạng ở phương Đông. Nhưng tự bản thân ông đă có một đức tin tiềm tàng-Giáp nói: “một con người nhân văn rất riêng”. Một niềm tin mạnh mẽ khiến cho mọi người đối thoại đều bị thuyết phục. Giáp rất xúc động trước cách sống giản dị và ḷng trung thực của ông và cũng chính phong cách “cụ thể và khôn ngoan” trong tư duy và công tác, một tác phong tự Giáp phải cố gắng rèn luyện (kiềm chế tính dữ dội của Giáp) đă giúp Giáp thích ứng với chính trị cũng như hoạt động quân sự trong những năm sau này. Một trong những nguyên tắc đầu tiên của Cụ Hồ là hành động chính trị đi trước hành động quân sự, v́ nhân dân là ưu tiên tuyệt đối đó là nguyên nhân của mọi thắng lợi về chính trị và quân sự. Giáp đă áp dụng hoàn toàn đầy đủ những nguyên tắc ấy trong những năm sau này.

    Để khắc phục những mặt yếu về lư luận của Giáp, Hồ Chí Minh đă gửi Giáp đến học viện Mác-Lênin ở Diên An Trung Quốc, nhưng hai tuần sau khi ra đi, tháng 6 năm 1940, quân Đức chiếm Paris, Hồ Chí Minh biết rằng sẽ có những thay đổi chính trị lớn ở Việt Nam, ông gọi Giáp trở lại. Cùng với Phạm Văn Đồng, Giáp đến Quảng Tây Trung Quốc. Tại đây, với cái tên Dương Hải Nam, Giáp học nói và viết tiếng Trung Quốc, sau đó ông đă cho ra đời một tiểu luận về nội dung mới này với đầu đề: “Những vấn đề quân sự Trung Quốc”.

    Sau khi Paris thất thủ, chính quyền thực dân Pháp bị bọn bành trướng Nhật Bản khiêu khích, bị cô lập đối với phía bên kia thế giới và chỉ c̣n 10.000 binh lính dưới quyền, chấp nhận để cho quân Nhật xâm chiếm miền Bắc Việt Nam và rồi năm sau chúng chiếm luôn cả miền Nam.

    Nhật Bản đă liên minh với Đức Quốc xă và Italia tạo thành phe trục. Trước Pháp bị quân Đức xâm chiếm, các thuộc địa cũng cùng chung số phận cho đến khi thành lập chế độ Vichy. Khi đă nắm chính quyền, chế độ này thực hiện chế độ chính trị hợp tác để cho quân Nhật “Bảo hộ” Đông Dương. Dù thế nào th́ chính quyền Hà Nội cũng tiếp tục điều hành đất nước theo chỉ thị của Vichy xa xôi. Mặc dù nhân vật đă chiếm mất một số vị trí, đô đốc Decoux toàn quyền Đông Dương cũng c̣n giữ được cho nước Pháp một số vùng cai quản trên đất nước này.

    Tháng 5 năm 1941, ở hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 ở Pắc Bó Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh và cộng sự của ông quyết định thành lập một tổ chức của những người yêu nước-“nông dân, công nhân, thương gia và binh lính”-chiến đấu cho nền độc lập của Việt Nam. Tổ chức này có tên là Việt Nam độc lập đồng minh hội của những người đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam, bộ phận quân sự, gọi tắt là Việt Minh.

    Sau nhiều giờ thảo luận, Giáp đă làm Hồ Chí Minh khâm phục v́ những hiểu biết sâu sắc về lịch sử quân sự của ḿnh. Cụ Hồ thấy được nghị lực và nhân cách bao quát của Giáp, hy vọng người thanh niên này có thể mang lại sức cho phong trào cách mạng. Nhưng luôn tỉnh táo, Cụ Hồ quyết định để Giáp được thử thách trên thực địa. V́ vậy Giáp đă trải qua một phần thời gian tốt đẹp của năm 1941 để thành lập một mạng lưới huấn luyện và xây dựng những cơ sở chính trị trong tỉnh Cao Bằng, ở cực Bắc của Việt Nam. Đến cuối năm ấy, Giáp đă thành lập được 2 cơ sở, một ở Bắc Sơn và một ở Vơ Nhai. Tờ tạp chí thông tin Việt Nam độc lập (gọi tắt là Việt Lập) đă ra đời để giữ vững liên lạc và tuyên truyền rộng răi trong nhân dân. Giáp rất tích cực công tác, nhưng Hồ Chí Minh từ chối những bài viết dài ḍng của Giáp, yêu cầu cắt bớt đi một nửa và diễn đạt giản dị hơn. Giáp đă thử nhiều lần, nhưng Giáp có khuynh hướng khuếch trương những dự định của ḿnh nên chẳng bao giờ đáp ứng được yêu cầu (có lẽ chăng bao giờ thuộc ḷng các bài viết nên có rất nhiều chỗ lặp; dù sao Giáp cũng thành công trong việc mô tả và có khi mơ mộng).

    Năm 1942, Giáp đi một chuyến đến một trường của Diên An dự các lớp với chiến tranh du kích và chính trị. Rồi đến Quảng Tây, lần này Giáp bị bọn dân tộc khiêu khích, và hoàn toàn ngược lại với t́nh trạng năm 1940, Giáp phải vượt biên giới để trở về Việt Nam. Đến giữa năm 1942, Giáp đến làng Pắc Bó ở Việt Bắc, cách biên giới 2 km (chỉ là một biên giới chính trị v́ nhân dân ở hai phía bên này hoặc bên kia đều là dân tộc Nùng). Ở đó, trong một làng có tên là Vũ Nhai, gần thị xă Cao Bằng, phía Bắc Hà Nội có một cơ quan 40 người quan trọng đang sống trong hang động dưới sự bảo vệ của các dân tộc miền núi. Đó chính là những tổ chức đầu tiên của lực lượng quân sự trong phong trào giành độc lập Việt Nam.

    Việt Minh gồm những chi bộ của Đảng Cộng sản đang ra sức vận động nhân dân vùng phụ cận theo chủ nghĩa cộng sản. Rất hiếm người biết tiếng Việt, Giáp và các đồng chí phải tập nói tiếng địa phương và dùng h́nh vẽ hướng dẫn họ hiểu được ư định của ḿnh. Khi các toán bảo an Pháp đến gần nơi ẩn náu, họ tạm thời di chuyển đi nơi khác và thỉnh thoảng ẩn nấp trong một cái hang phía sau một con suối rất khó ra vào, hoặc trong vùng dân tộc Mán Trắng, họ chỉ uống nước suối, ăn ngô và quả chuối rừng để sống. Có lần họ đến Lạng Sơn và sống trong một nhà sàn trên sườn núi.

    Ở hội nghị Liễu Châu tháng 10 năm 1942, mặt trận thống nhất Việt Nam cách mệnh đồng minh hội được thành lập để tập hợp các khuynh hướng dân tộc khác nhau, đang thảo luận về gây ảnh hưởng ở miền Bắc Việt Nam. Đó là dẫn chứng đầu tiên của chiến thuật Hồ Chí Minh khi đối mặt với sự chống đối, ông không tốn nhiều sức lực, không đẩy họ sang phía thù để thủ tiêu họ, ông liên minh với họ.

    Hồ Chí Minh là vị lănh tụ tinh thần của phong trào, một nhà duy mỹ, một vị thánh (h́nh như ông có một số thuộc tính của một vị thánh-theo Giáp: “Ông là mẫu mực về kiên nhẫn, về tiết kiệm, về liêm khiết và t́nh thường yêu”, tất cả những đặc điểm khiến mọi người Việt Nam phải tôn kính). Giáp là con người hành động. Có lẽ sau khi đọc Mao Trạch Đông, Giáp hiểu rằng “nhân dân có thể là tất cả”, động cơ là ch́a khóa của thắng lợi về chính trị cũng như trong lĩnh vực quân sự. Trong những năm sau, Giáp đă dựa vào nhân dân, sức lực và số đông của họ để làm người thợ cả trong những trận thắng kỳ diệu. Giáp có thể đưa đông đảo nhân dân đi đè bẹp quân thù, dùng số lượng đông đảo cánh tay vào công việc xây dựng những con đường, trong những trận tấn công của số đông thay thế cho những số lượng to lớn phương tiện vật chất, Giáp yêu cầu hàng triệu và hàng triệu giờ đồng hồ dùng sức khỏe cơ bắp của đàn ông và đàn bà để đào giao thông hào, hầm hố và sửa chữa những nơi bị thiệt hại.

    Giáp hoàn toàn tán thành sự giác ngộ quần chúng. Phải xoay chuyển quần chúng, đưa nhân dân đi theo đúng hướng. Sau khi đă trang bị đầy đủ về tinh thần và vật chất cho quần chúng, giao cho quần chúng đánh đổ trật tự cũ xây dựng trên cơ sở những phong tục tập quán lạc hậu của các dân tộc, trên cơ sở chủ nghĩa thực dân hoặc cơ sở của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Mọi người đều phải là chiến sĩ. Mọi người, đàn ông, đàn bà, con gái, con trai, người già: đều góp phần khiêm tốn của ḿnh vào cuộc đấu tranh. Đó là một khái niệm đơn giản và dễ hiểu. Giáp hoàn toàn thích ứng với chủ nghĩa yêu nước sâu sắc của người Việt Nam. Không phải là một ư tưởng mới, mà đó đă có từ thế kỷ 13 và những lần sau đó, càng ngày càng được tăng cường ở Việt Nam, nhân dân đặc biệt gắn bó với quá khứ và truyền thống.

    Nhưng trước hết là bản chất. Muốn tiến tới tương lai: cần phải có những con người quyết đoán, cương nghị và nhiệt t́nh. Nếu họ là cộng sản th́ tốt nhất. Nếu họ được giác ngộ dân tộc và chống thực dân th́ không có ǵ đáng phàn nàn: hy vọng có thể chuyển biến họ theo chủ nghĩa cộng sản. Mỗi khi đă chấp nhận như vậy, tổ chức sẽ gửi họ đến các lớp học ở cơ sở để họ giác ngộ. Giáp xây dựng xung quanh ḿnh những người tin cẩn-những cán bộ cốt cán-tùy theo tŕnh độ hiểu biết về chủ nghĩa cộng sản: trung tâm vững chắc này đă tập họp nhiều hội viên khác. Với phương pháp hoàn toàn tự tin, Hồ Chí Minh đă đặt ra một mức cao. Những cốt cán phải là những người không thể chê trách về tinh thần, không bị cuộc sống đồi trụy của đế quốc cám dỗ. Ông bắt buộc họ phải dám làm, trung thành, tiết kiệm, thẳng thắn, công bằng, khiêm tốn và giản dị, họ phải sống chung với những người nông dân giản dị. Giáp rất thận trọng và cẩn mật trong việc chọn lựa, v́ những người cộng tác với Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và cả với Giáp phải cùng làm việc hằng mấy năm trời, họ sẽ trở thành những người lănh đạo phong trào ngày càng mở rộng trong toàn quốc, phát triển dần dần từ phạm vi hẹp đến rộng.

    Về nguyên tắc yêu cầu các cán bộ cốt cán họp lại trong một vùng ít nguy hiểm để trở thành những tổ nhóm hội viên trên khắp địa bàn. Các nhóm này phát triển để trở thành những nhóm quan trọng giữ vững lấy địa bàn và mở rộng thành vùng tự do. Những vùng này là cơ sở để nhân dân chuẩn bị và nổi dậy đấu tranh tiến công quân địch. Như sau này, Giáp đă viết: “Cuộc đấu tranh phải mạnh dần lên. Ta chiến thắng từ những thất bại nhỏ, từ trận này đến trận khác cho đến khi thời cơ đến”. Khái niệm nội bộ ấy cho phép chờ đợi đến thời cơ thuận lợi. Ngược lại với phương Tây, họ thấy cần thiết phải có hiệu quả tức thời, hiệu quả thường ám ảnh họ măi. Đó là đức tính quan trọng của Giáp trong những thập kỷ tới. Có nhiều người bước vào cuộc chiến đấu và không hề nghĩ tới khả năng rút ra càng nhanh càng tốt, Giáp vẫn không lay chuyển những quyết định ban đầu. Do đó, chỉ hơn một năm, Giáp đă xây dựng được những cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa.

    Dưới sự chỉ đạo của Giáp, các cán bộ học tập chiến lược quân sự và chuẩn bị những chiến khu tương lai (Trong thời kỳ này, mọi người ở cơ quan đều phải tham gia công việc chung, Giáp phải rửa bát, v́ công việc bếp núc của Giáp quá vụng về). Ban đêm, rét quá không ngủ được, mọi người thức dậy và ngồi quanh bếp lửa cho đến sáng. Các pḥng học-lều bằng tre lợp lá-và những khu dân cư được xây dựng để tiếp nhận đông đảo người vào hội. Giáp tuyển lựa những binh sĩ đang phục vụ trong các binh đoàn Đông Dương của người Pháp để mua bán ở địa phương và canh pḥng khu vực. Đến nửa năm 1943, ba trăm người trong số họ được đưa sang Liễu Châu và Quảng Tây Trung Quốc tập luyện. Ở Việt Bắc khoảng dăm chục binh sĩ mới tuyển cũng được tổ chức lại. Những binh sĩ ưu tú được giữ lại làm giáo viên. Cuối năm 1943, hàng trăm đàn ông, đàn bà gia nhập quân đội quốc gia. Đến đầu năm 1944, hai mươi nhóm khác nhau được tập họp lại.

    Vào mùa hè năm 1943, Giáp được tin vợ chết trong nhà giam Hỏa Ḷ Hà Nội. Cái nhà giam rất nổi tiếng mà ở Hoa Kỳ gọi dưới cái tên khách sạn Hinlton Hà Nội, v́ nhiều tù binh chiến tranh Mỹ bị giam giữ ở đó. Những người cùng công tác với Giáp thời kỳ đó khẳng định Giáp nhận tin này rất b́nh tĩnh, nỗi đau của Giáp chỉ biểu hiện bên ngoài bằng mảnh băng đeo trên người nhiều ngày. Tuy vậy Giáp đă tuyên bố với một nhà báo vài năm sau: “cuộc đời tan nát”, hơn tất cả những điều khác, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, cái chết của người phụ nữ trẻ mà Giáp tôn thờ đă dẫn đến những tư duy sâu sắc và tin tưởng mănh liệt của Giáp. (Người con gái của họ được đưa về An Xá để bà nội nuôi dạy. Cô ta thừa hưởng trí thông minh của bố mẹ, học tập ở Hà Nội, đỗ tiến sĩ toán lư. Năm 1987, cô nhận giải thưởng khoa học Liên Xô Kowolepxkia).

    Nhiều người Việt Nam tin tưởng rằng sự hội tụ của các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân ḥa có tác dụng điều chỉnh các hoạt động của con người. Thời cơ tốt nhất phải chuyển sang hành động “Thời cơ tốt, một con tốt cũng thắng. Thời cơ chưa đến mà hành động không thích đáng có thể mất hai con ngựa”. Tháng 7 năm 1944, Giáp nhận định “t́nh h́nh thế giới và hoạt động cách mạng ở tỉnh Cao Bằng có nhiều thuận lợi và cho rằng điều kiện để phát động chiến tranh du kích đă đến”. Hồ Chí Minh biết tin này đă không đồng ư. Tháng 8, Cụ Hồ vội trở về Cao Bằng càng sớm càng tốt, và đă được Giáp đón tiếp long trọng.

    Hội nghị quân sự lần thứ nhất của Đảng khai mạc tháng 9 năm 1944 (Trường Chinh điều khiển hội nghị, bốn ủy viên Trung ương là Vơ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị và Trần Đăng Ninh). Hội nghị quyết định thời cơ đă đến, bây giờ phải chuyển sang hành động. Quân giải phóng Việt Nam được tổ chức, Giáp được đề cả làm Tổng chỉ huy. Theo chỉ thị viết nguệch ngoạc trên bao thuốc lá của Hồ Chí Minh-một thói quen cũ-hội nghị cũng quyết định thành lập những đội vũ trang tuyên truyền được trang bị vũ khí. Nếu nhiệm vụ hàng đầu là tuyên truyền giác ngộ th́ các đội viên cũng phải có vũ khí để chiến đấu tự vệ.

    Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Vơ Nguyên Giáp thành lập đội vơ trang tuyên truyền đầu tiên: đội quân gồm ba tiểu đội và 34 chiến sĩ tất cả-31 đàn ông và 3 đàn bà. Ra quân ở chiến khu Trần Hưng Đạo, tên một vị anh hùng dân tộc Việt Nam, đội được trang bị 2 súng lục, 17 súng trường và 14 súng kíp có từ thời chiến tranh Nga-Nhật và một súng máy. Họ chụp ảnh để kỷ niệm sự kiện vinh quang này. Ở một trong những bức ảnh này, người ta thấy Giáp chân đất, mặc một bộ âu phục, đầu đội mũ phớt đen, một quả lựu đạn dắt ngang lưng, vai đeo túi bản đồ, trước một đám đông lộn xộn đang giương cao cờ hiệu và vũ trang. Ở một tấm khác, Giáp ngồi giữa đội quân và một chiến sĩ đứng gác ở cuối hàng.



    Ngày 22/12/1944, tại Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ thành lập với 34 chiến sĩ, do Vơ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy.

    Chính Hồ Chí Minh đă tuyển lựa những thành viên của đội quân này và giao nhiệm vụ cho Giáp tổ chức và lănh đạo chỉ huy. Với bí danh quan tư Nam, Giáp chỉ huy một đội, một người chỉ huy khác là Văn Tiến Dũng, người sau này trở thành Tổng tham mưu trưởng ở Điện Biên Phủ và kế tục sự nghiệp của Giáp ở cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng trong những năm bẩy mươi. Người chỉ huy thứ ba là Chu Văn Tấn, một người nhă nhặn, dân tộc Nùng sau này trở thành một vị tướng quan trọng trong quân đội nhân dân. “Trung đội” gồm những người chỉ huy chiến khu, người chỉ huy các nhóm và các chiến sĩ thuộc quân du kích địa phương.

    Sau khi tuyên bố nhiệm vụ chính trị của đội không phải là đánh giặc, Hồ Chí Minh chỉ thị tiếp: Chính v́ mục đích tuyên truyền mà đơn vị đầu tiên này phải giàn được một thắng lợi quân sự trong tháng mới thành lập. Ngày 25 tháng 12 năm 1944, Giáp đă chỉ huy đội tấn công hai đồn quân Pháp ở Phai Khắt và Nà Ngần thắng lợi. Hai sĩ quan Pháp bị giết. Quân lính của các đôn này đều trở về quê hương. Nhờ công bác binh vận vận động được quân lính của người Pháp chỉ huy, các lực lượng tấn công không bị tổn thất ǵ. Giáp đă viết: “Chúng tôi đă quên rằng chúng tôi chỉ có 34 con người, nhưng chúng tôi là một đội quân gang thép, không một lực lượng nào thắng nổi. Ḷng tin và ư chí đă có hiệu quả”. Vài tuần sau, đầu năm 1945, Vơ Nguyên Giáp bị thương ở chân trong cuộc tấn công ở Đồng Mu.

    Tháng 4 năm 1945, Đội tuyên truyền giải phóng quân thu nhận Đội cứu quốc quân của Chu Văn Tấn, một đội quân chân trần, chủ yếu là những người dân tộc Thái và chưa có đủ chỉ huy từ khi nhận được sáp nhập với Giáp và Văn Tiến Dũng. Sự ḥa nhập đă đạt đến tŕnh độ cao. Những đội vơ trang tuyên truyền khác được thành lập và đi sâu vào quần chúng. Họ bảo đảm kiểm soát được vùng đất được mở rộng hàng ngày. Sau vài tháng, cả ba loại quân xuất hiện: lực lượng chủ lực, lực lượng địa phương và dân quân tự vệ của cơ sở làng xă. Ba thứ quân này tạo thành cơ sở tổ chức các lực lượng cách mạng Việt Nam trong những năm sau này.

    Bây giờ những đội quân của Giáp thực hiện Nam tiến (Giáp thỉnh thoảng đi ngựa) về đồng bằng sông Hồng, nhiều đơn vị khác được thành lập. Chỉ ở Nước Hai, ba ngh́n đội viên nhận nhiệm vụ; tháng 3 năm 1945 Việt Nam đă có cơ sở du kích ở sáu tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Tuyên Quang, Lai Châu và Hà Giang.

    Ngày 9 tháng 3, Nhật đảo chính Pháp Vichy. Như chúng vẫn thường tiến hành một cách xảo trá và tàn nhẫn, chúng bắt các sỹ quan cao cấp người Pháp ở nơi đồn trú, trong đó có người chỉ huy tiểu đoàn bộ binh lê dương thứ 5, tước vũ khí của họ sau khi đă mời họ dự tiệc ở khách sạn Metrophobe. Chúng yêu cầu tất cả quân Pháp đầu hàng. Họ từ chối, chúng chuyển sang tấn công. Ngày 12 tháng 3 chúng chém đầu viên chỉ huy quân sự Sài G̣n, tướng Lemonnic, cùng với viên công sứ Camille Auphelle, sau khi bắt buộc họ đào lấy hố chôn ḿnh. Được tin này, trung đoàn bộ binh lê dương “REI” thứ 5 phải rút sang Trung Quốc, sau khi đă chiến đấu đẫm máu với quân Nhật. Những người Pháp không đi sang Trung Quốc, trong đó có đô đốc Decoux đều bị bắt vào trại tập trung tù binh (quân Nhật phá hủy không thương tiếc những ǵ c̣n sót lại của lực lượng bảo an Pháp và để lại khu tự do của người dân tộc và cộng sản ở vung nông thôn; bọn Pháp, bọn bảo an c̣n kiểm soát được một ít, c̣n bọn Nhật không kiểm soát).

    Ngày 15 tháng 4 năm 1945, Giáp quyết định thành lập những vùng chiến tranh du kích trong 6 tỉnh trên để rồi đến ngày 4 tháng 6 tập trung thành một vùng tự do. Nhiều đơn vị quân đội đă có tập trung thành giải phóng quân dưới sự chỉ huy của Giáp với quân hàm Đại tướng. Thời kỳ này Việt Minh đă có đến 5.000 hội viên. Cũng như cán bộ cốt cán, nam nữ hội viên Việt Minh tự nguyện và có quan hệ với nhân dân nơi họ sinh sống. Họ long trọng thề; hết ḷng tôn trọng nhân dân, bảo vệ nhân dân, được dân tin yêu và thật sự đoàn kết giữa quân đội với nhân dân. Giáp nhấn mạnh đoàn kết giữa chiến sĩ và cộng đồng nhân dân là rất cần thiết: “Một cuộc kháng chiến lâu dài yêu cầu tất cả phải được giáo dục giác ngộ, đấu tranh cho lư tưởng, trong đó nhân dân là trung tâm. Không có dân chúng ta không có tin tức, chúng ta không giữ được bí mật, không phát động được những trận tấn công bất ngờ. Nhân dân bày ra mưu kế và chúng ta giúp họ thực hiện. Nhân dân t́m kiếm cho chúng ta những chiến sĩ giao liên, che giấu chúng ta, bảo vệ những hoạt động bí mật của chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta và săn sóc các thương binh của chúng ta”.

    Tháng 5, trên đèo Chan, bộ đội của Giáp tấn công vào đồn quân Nhật và giết hết bọn người đó. Sâu hơn về phía Nam, làng Tân Trào của tỉnh Tuyên Quang được tổ chức khu căn cứ của Trung ương, là nơi quyết định kế hoạch tương lai. Chính ở đó giữa tháng 5 và tháng 8 năm 1945, một đơn vị lính Mỹ “Deer Team” thuộc OSS, tiền thân của CIA đến để giải giáp quân đội Nhật, gặp Giáp mà họ gọi bằn tên M.Nam. Sau đó, một đơn vị khác do sỹ quan tham mưu Allison Thomas chỉ huy nhảy dù xuống vùng này, trước khi tiếp tế vũ khí và đạn dược cho Việt Minh. Ba trăm năm mươi chiến sĩ quân đội Giáp phục vụ cho OSS (Quan năm Peter Dewey của OSS là sỹ quan bị thương đầu tiên trong số 60 ngh́n binh sĩ Mỹ bị thương ở Việt Nam: Một chiến sĩ bảo vệ Việt Minh bắn nhầm vào xe của ông ta).

    Một nghịch lư trớ trêu của lịch sử: người Mỹ đă cung cấp vũ khí hiện địa cho Việt Minh đầu tiên và dạy cho quân đội Việt Minh sử dụng vũ khí đó. Theo viên sỹ quan tham mưu Archimedes Patti phụ trách Deer Team: “Sau khi được người Mỹ hướng dẫn sử dụng tên lửa, phóng lựu, súng trường, súng máy… Giáp đă tiến công nhiều tiền đồn của quân Nhật cùng với người của chúng ta. Thật đúng là chúng ta đă liên minh với Việt Minh để chống lại quân Nhật”. Chỉ trong ṿng một tháng người Mỹ đă huấn luyện được hại trăm cán bộ chỉ huy tương lai của Việt Minh. Họ được lựa chọn bất kỳ và họ đă tạo nên cái t́nh trạng sẽ gặp trong những năm 60. Mặc dầu việc cung cấp chỉ khiêm tốn ít ỏi, nhưng vũ khí đó cũng bảo đảm lợi thế hơn hẳn của Việt Minh trong thời kỳ khó khăn đó. Có lẽ sai lầm nếu khẳng định rằng Giáp được OSS huấn luyện như một vài câu chuyện huyền thoại được truyền đi ở một số nơi.

    Ngày 17 tháng 7 năm 1945, Giáp chỉ huy 500 chiến sĩ Việt Minh tấn công một đồn lính Nhật ở Tam Đảo có khoảng dăm chục tên: bộ đội của Giáp đă giết 8 tên và bắt số c̣n lại, chúng thuộc sư đoàn bộ binh Nhật bản số 21.
    Ngày 16 tháng 8, hơn sáu chục đại biểu dự Đại hội quốc dân Việt Minh ở đ́nh Tân Trào. Một Chính phủ lâm thời được thành lập, Hồ Chí Minh là Chủ tịch. Ngày 17 tháng, bộ đội của Giáp tiến công và giải phóng thành phố Thái Nguyên. Các đội quân bắt đầu hoạt động vũ trang có tổ chức, Giáp vừa là sỹ quan chỉ huy vừa là huấn luyện viên. Đến nửa tháng 8, Giáp được tin bộ đội đă đến gần Hà Nội. Ngày 28, ông dẫn đầu đoàn quân tiến về giải phóng Hà Nội.

    Chặng đầu lịch sử đấu tranh giải phóng của Việt Nam đă khép lại. Trong thời điểm phấn đấu này, không ai có thể đoán biết được thời gian phải chờ đợi cho đến khi kết thúc chiến tranh. Một cuộc chiến tranh kết thúc. Rồi một cuộc chiến tranh khác nữa kết thúc.

    Chiến sĩ Giáp là ai? Tầm cỡ nào? Phải chăng như một số người Giáp chỉ là một sỹ quan có tầm hiểu biết của một Tổng chỉ huy được phong hàm đại tướng một hai ngày. Hoặc phải chăng là một người đă từng nghiên cứu sâu sắc khoa học quân sự trước khi hành nghề mới và có thể nhanh chóng vận dụng kết quả nghiên cứu vào thực hành có hiệu quả như ta đă biết. Thành công đó trước hết của ông, hoặc ông không phải là một ngôi sao đích thực trong những thắng lợi bị quên lăng trong các phẩm vô danh? Ông ở vị trí nào trong các khái niệm của chiến sĩ của ông? Ông đă là nhà tư duy quân sự đến độ nào?

    Chỉ có nhân dân Việt Nam giúp cho chúng tôi trả lời được câu hỏi này, bởi v́ không có một vị tướng nào, dù xuất sắc hoặc may mắn đến mấy cũng không thể một ḿnh thu được thắng lợi. Chính là bản chất nhân dân được quân đội tuyển chọn, và động cơ mănh liệt giành chiến thắng của quân đội.

    Làm sao giải thích được người Việt Nam có thể chiến đấu dai dẳng trong một thời gian dài với bấy nhiêu sức lực? Tại sao cuối cùng họ đă thắng hai nước lớn?

    Hiểu được nhân dân, người ta hiểu được quân đội, người ta giải thích được thắng lợi.

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    TƯỚNG GIÁP QUA 2 CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
    Tác giả: Peter Macdonald
    Người dịch: Nguyễn Viết Quyền-Nguyễn Đ́nh Cao
    Dịch theo bản tiếng Pháp của Jean Clem và Frank Strachitz
    Chương 3: Nước Việt Nam ra đời




    Lịch sử của chúng tôi bao giờ cũng chỉ biết đấu tranh. Đấu tranh chống quân xâm lược nước ngoài, hầu như lúc nào cũng mạnh hơn chúng tôi, đấu tranh chống chọi với thiên nhiên. V́ không đi đâu được nữa, chúng tôi đă tự tạo cho ḿnh một hệ thống thần kinh cực kỳ ổn định. Chúng tôi không bao giờ hoảng sợ. Mỗi khi có t́nh thế mới chợt đến, nhân dân lại tuyên bố: “Ḱa, mọi chuyện lại bắt đầu!”.
    Phạm Văn Đồng

    Đặc điểm h́nh thể nước Việt Nam là những dăy núi cao rừng rậm khó vượt qua chiếm giữ biên giới phía tây. Ở phía Bắc cũng núi cao rừng rậm bao quanh lấy châu thổ sông Hồng để tạo thành biên giới với Trung Quốc và Lào; ở giữa những dăy núi ấy uốn cong về phía đông: sườn núi kéo ra tận biển ở nhiều nơi. Cuối cùng chúng ṿng về phía tây và thấp dần xuống phía nam vẽ nên đường biên giới Campuchia. Dọc theo chiều dài biên giới, rất nhiều động vật hoang dă sống dày đặc trên những ngọn đồi nóng và ẩm có tán lá cây dày che khuất ánh sáng: nào hổ, nào voi, nào báo, nào gấu và cả muỗi rừng mang vi trùng sốt rét. Chính những chướng ngại núi non ấy ở giữa đă ngăn cách con người miền Bắc và miền Nam không gần gũi nhau được.

    Con sông Hồng bắt nguồn từ Trung Hoa. Nó chảy qua mười ba trăm kilômét trước khi đổ ra Vịnh Bắc Bộ. Hà Nội ở hai bên bờ sông. Hải Pḥng là bến cảng ở cửa sông. Lưu lượng nước sông đổ ra biển khoảng bốn ngh́n mét khối nước trong một giây, đến mùa mưa khối lượng tăng lên bốn mươi lần. Hai bên bờ sông có đê cao nên trước có những chỗ cao hơn Hà Nội vài ba chục centimét: hằng năm, đê thường bị vỡ và dẫn đến lũ lụt khủng khiếp kèm theo đói kém mất mùa từ thế kỷ này sang thế kỷ khác.

    Ở phía Nam biển Đông là một vịnh rộng nhưng không sâu ở giữa những dăy núi. Trải qua hàng thế kỷ, phù sa sông Mêkông bắt nguồn từ Tây Tạng chảy dài bốn ngh́n năm trăm kilômét, lấp dần vịnh tạo nên một vùng châu thổ rộng lớn và màu mỡ với những ḍng kênh cắt ngang, có khả năng cho thuyền bè đi lại trên bốn ngh́n tám trăm kilômét (Hiện nay đất liền vẫn lấn ra biển mỗi năm dăm chục mét). Theo ḍng chảy, sông Mêkông vẽ nên biên giới Thái Lan và Lào, chảy qua Campuchia rồi chia thành hai nhánh chính và nhiều nhánh phụ vào một hồ lớn ở Campuchia và tràn vào đất Việt Nam. Sông Mêkông ít nguy hiểm hơn sông Hồng: hiếm thấy lụt lội và đói rét ở miền Nam.

    Trải dài theo sườn Đông của châu Á, khí hậu Việt Nam chịu ảnh hưởng của gió màu, gió đầy mây mang đến theo mưa băo tàn phá dọc ven biển. Về mùa hè, khí hậu miền Bắc và miền Nam gần giống C, nhưng mùa đông°C, ở Sài G̣n là 32°nhau, nhiệt độ trung b́nh ở Hà Nội là 30 C. Trên những°C trong khi ở Sài G̣n là 27°nhiệt độ trung b́nh ở Hà Nội là 16 vùng cao ở miền Bắc hiếm khi có tuyết, mùa khô hoàn toàn không có tuyết, ngay cả sườn núi Phăng Xi Păng, đỉnh cao nhất của Việt Nam cao 3.150 mét. Trong những tháng mưa của mùa hè, lượng mưa trung b́nh ở Sài G̣n và Hà Nội là 178 milimét nước, gần gấp 3 lần lượng mưa hàng năm ở Parí và gấp 2 lần ở New York.

    Trước khi người Việt giành độc lập, hệ thống xă hội thuộc chế độ phong kiến phương Bắc: những quan thái thú và con cháu họ thu tóm quyền lực toàn bộ trên các lĩnh vực: tôn giáo, quân sự và hành chính: họ chiếm giữ ruộng đất và biến nông dân thành nông nô của họ. Đứng đầu thiên triều là một vị vua, người đă chiến thắng tất cả các đối thủ. Vua chia đất nước thành vùng lănh thổ quân sự có các quan thái thú đứng đầu, duy tŕ một chế độ bảo hộ rộng răi của Trung Quốc mà không can dự vào phong tục địa phương.

    Cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân chống lại người Trung Quốc là cuộc nổi dậy của chị em Bà Trưng năm 39 sau Công Nguyên. Trưng Trắc là một phụ nữ quư tộc có chồng bị quân Trung Quốc giết v́ nổi loạn. Em là Trưng Nhị dẫn đầu nhiều lănh chúa và quân của họ tấn công quân Trung Quốc. Sau khi đánh dẹp được quân Trung Quốc, hai chị em cưỡi voi dẫn đầu đoàn người Việt Nam reo ḥ, tuyên bố làm Vua nước Việt Nam độc lập. Nhưng vương quốc của hai bà chỉ tồn tại ba năm: Vua nhà Hán đă phái một đội quân đi lập lại trật tự cho Trung Quốc. Hai bà đă nhảy xuống một ḍng sông ở Hà Nội tự tử. Ở đó c̣n đền thờ để ghi nhớ công ơn hai Bà.

    Đầu thế kỷ thứ X, trận thất bại năm 939 đă kết liễu nền đô hộ của Trung Quốc, nhân dân Việt Nam đă chọn năm đó là năm mở đầu nền độc lập của ḿnh. Nhưng chủ quyền của Việt Nam phải trả giá bằng máu. Quân Trung Quốc quay trở lại năm 1057, phải bốn năm chiến đấu oanh liệt mới đẩy lùi được bọn chúng. Năm 1257, một đạo quân Mông Cổ tiến vào Hà Nội, nhưng cũng phải rút quân. Một đạo quân khác đánh chiếm châu thổ sông Hồng năm 1284 và ba năm tiếp theo một đạo quân nữa. Nhưng tất cả quân Nguyên xâm lược đều bị quân đội Việt Nam đánh bại.

    Đến thế kỷ XX, Vơ Nguyên Giáp viết: “Sự kết hợp giữa bộ đội chủ lực và các lực lượng địa phương bắt nguồn từ chiến lược hai mặt trận phía trước và phía sau cùng tấn công quân địch của cha ông ta để lại. Thọ binh là quân chủ lực, thương binh là các đội quân chủ làng xă do các lănh chúa phong kiến tổ chức ra để duy tŕ chế độ phong kiến là một nội dung cơ bản để thực hiện các trận tiến công của quân đội Việt Nam với quân Pháp và quân Mỹ.

    Tướng chỉ huy cuộc nổi dậy trong các thời kỳ trung cổ khó khăn trên là Trần Hưng Đạo, ngày nay được tôn thờ như một trong những vị anh hùng kiệt xuất của lịch sử Việt Nam. Giáp viết: “Đó là một vị anh hùng dân tộc đă dạy bảo về sự thống nhất của dân tộc: “giặc vào nhà, đàn bà cũng đánh”. Đó là một sự thật xúc động nhưng rất gần gũi trong cuộc sống và đấu tranh của đất nước và những cuộc đấu tranh yêu nước đă từ lâu là những cuộc nổi dậy của nhân dân, những cuộc đấu tranh của nhân dân”.

    Năm 1407, quân Trung Quốc đời nhà Minh xâm lược Việt Nam một lần nữa. Những ông chủ mới ra sức khai thác đến cạn kiệt các nguồn lợi của đất nước, lại định ra những phép tắc khắc nghiệt để ḥng phá hoại tinh thần dân tộc Việt Nam: giấy căn cước được cấp phát cho mọi công dân để tăng cường kiểm soát; các trường học chỉ có thể dạy tiếng Trung Hoa; việc thờ cúng tổ tiên bị băi bỏ; các nhà văn không được viết sách; phần lớn các tác phẩm bị thu về Trung Quốc hoặc bị đốt; phụ nữ phải ăn mặc như trang phục phụ nữ Trung Quốc và đàn ông phải để tóc dài. Đúng là các phép tắc trên tỏ ra không có tác dụng và c̣n tăng thêm các khuynh hướng dân tộc. Cuối cùng quân Minh cũng phải rút lui về, để lại trong nhân dân Việt Nam một mối căm thù trong thời gian dài. Nhưng ḥa b́nh-như đă chứng minh trong các thời kỳ-chỉ là một khoảng cách giữa hai cuộc chiến tranh: đất nước phải chịu đựng những thời kỳ xung đột nội bộ của thủ lĩnh các bộ lạc chống đối nhau. Thời cơ thuận lợi các thủ lĩnh thành lập nên những triều đại trên cả hai vùng châu thổ và miền Trung nối liền Nam Bắc.

    Đến thế kỷ XVII, các nước châu Âu bắt đầu bành trướng chủ nghĩa thực dân. Đông Nam châu Á là vùng đất rất thèm khát của chủ nghĩa đế quốc, nhưng lại khó khăn trong việc buôn bán với Việt Nam. V́ ở đó đang tồn tại ba học tộc: Tây Sơn, Trịnh và Nguyễn. Tất cả ba đều muốn có vũ khí hiện đại để đánh bại lẫn nhau và đều muốn buốn bán với châu Âu. Họ đă cho phép những người truyền đạo kèm theo các nhà buôn. Năm 1672 các cuộc chiến tranh nội bộ tạm châm dứt, t́nh thế đă thay đổi.

    Những quan hệ với phương Tây bị kịch liệt phản đối: một chi nhánh của Hà Lan thành lập năm 1637 ở Hà Nội đến năm 1700 bị đóng cửa; người Anh đến năm 1762 phải cuốn gói sau 25 năm. Chi nhánh của người Pháp mở ra 1680 cũng cùng chung số phận. Sau năm 1700, chỉ có người Bồ Đào Nha là có thể đứng chân ở một điểm. Về phía ḿnh, các quan lại thấy quyền lực bị vi phạm v́ sự truyền bá đạo cơ đốc, bắt đầu giết các tu sĩ và con chiên Việt Nam lúc bấy giờ có khoảng 10% dân số. Trong khoảng 400 năm, ảnh hưởng của người ngoại quốc đối với Việt Nam rất hạn chế.

    Đối với Vơ Nguyên Giáp “nước Việt Nam là một trong những cái nôi của nhân loại. Các dân tộc Việt Nam có tiếng nói riêng, họ đă tổ chức được một nền kinh tế theo hệ thống chính trị xă hội, tạo lập được những phong tục đạo đức và văn hóa và phát triển như một ư thức hệ dân tộc”. Một điều chắc chắn là nhân dân Việt Nam đặc biệt đoàn kết thống nhất. V́ hai lư do cơ bản: phần lớn đất nước có đến hàng triệu gia đ́nh đă tiến hóa qua các thế kỷ và đă biết di dân, ở Việt Nam chỉ có vài trăm ḍng học kết hợp với những dân tộc khác nhau như họ Ngô và họ Nguyễn: con người luôn là thành viên của một đại gia đ́nh thuộc cùng một ḍng họ. Mặt khác những truyền thống đạo Nho đă đưa vào đây 2.500 năm, thái độ với quan chức và sự chia sẻ trách nhiệm cùng theo một mẫu mực giống nhau. Quyền hành thuộc về người đứng đầ bộ lạc, ông ta giao quyền cho các quan chức, các quan giao quyền cho hội đồng làng xă, và hội đồng truyền đạt đến gia đ́nh. Đạo đức của mọi người là bắt buộc phải tuân theo quyền hành của người chủ gia đ́nh.

    Đất nước có đến hàng triệu làng xă, một số làng gồm nhiều xóm. Hội đồng làng xă gồm những công dân quan trọng nhất như các địa chủ và quan lại nghỉ hưu, chỉ giải quyết những công việc xảy ra ở địa phương: xử lư tội phạm, thành lập sổ thuế và thu thuế, và các công việc lao động công ích. Hầu như làng nào cũng có quỹ hội tự cấp mà người dân đóng góp để thanh toán các chi phí tang ma. Cũng có những hội bách nghệ: thợ rèn, thợ mộc, thợ nề lập nên những quy tắc nghề nghiệp, cũng như hội phật tử của phụ nữ già cả tuổi quá 50 hoặc những phụ nữ quá chồng 40 tuổi.

    Mỗi làng c̣n có một tổ chức nghĩa hương giúp đỡ các gia đ́nh cô đơn, nghèo túng ở châu thổ sông Hồng. Nông dân trồng trọt tạo thành một quỹ dự pḥng. Số dôi ra được án đi, tiền lăi cứu tế người nghèo. Mùa màng thất bại, gạo được phân phát đồng đều cho người dân làng. Cũng có những hội chơi như chọi gà, đánh cá. Làng xă là một thực tế tồn tại về tổ chức xă hội và kinh tế.

    Gia đ́nh là đơn vị quan trọng, đơn vị hành chính cơ bản. Chính gia đ́nh chứ không phải cá nhân đóng thuế. Chính gia đ́nh chứ không phải thành viên trong gia đ́nh là đối tượng thống kê. Họ là một nhóm người cùng lao động tạo thành một đơn vị kinh tế “1 bếp, 1 đèn”. Là nơi thờ cúng tổ tiên. Là nơi phân xử mọi tranh chấp. Họ tôn trọng lệ làng (luật lệ quốc gia hiếm thấy được đi vào cuộc sống, một vài trường hợp luật lệ cũng phụ thuộc vào t́nh hiếu thảo trong gia đ́nh: Khi cha mẹ già yêu cầu có mặt con ở nhà th́ một người con bị giam giữ cũng có thể được trả tự do).

    Về phương diện lịch sử, người Việt Nam biết tôn trọng tín ngưỡng của người khác. Hệt hống xă hội của họ dựa trên cơ sở đạo đức chứ không phải tôn giáo. Họ ưa chuộng công bằng trong xử thế. Họ cố gắng phấn đấu cho hạnh phục trên trần thế mà không quan tâm mơ tưởng ở thiên đường cao xa. Họ đă không phải hoàn toàn là tín đồ của Phật giáp, Nho giá hoặc Đạo giáo. Họ thực hiện những nguyên tắc chung của cả 3 tôn giáo: ḷng tin ở tính thiện của con người, tin ở sự giải thoát của chính ḿnh nhờ tự biết ḿnh và nhờ t́m kiếm sự hài ḥa trong bản thân ḿnh để đạt được “3 con đường đều dẫn đến một mục đích”. Không có mệnh lệnh của giáo hội, không có giáo sĩ, họ tôn thờ trí tuệ của tổ tiên theo những tục lệ do già làng điều khiển. Ở vùng nông thôn, người ta chôn người chết bên bờ ruộng để cho linh hồn của người chết ḥa nhập vào cơ thể muôn đời con cháu mai sau qua hạt gạo củ khoai. Đối với chùa chiền miếu mạo, mỗi làng thường có một đ́nh thờ thần thành hoàng, đồng thời là nơi trung tâm sinh hoạt của nhân dân.

    Cũng có phong tục c̣n bí ẩn. Người Việt Nam quan niệm rằng trong xă hội có những phần tử chống đối cần phải tránh xa c̣n hơn là kiểm soát chúng. Khi một tổ chức không c̣n lư do để tồn tại công khai th́ phải rút vào bí mật: hoạt động bí mật không những cần thiết cho tổ chức mà cả đối với hội viện, ít ai biết được ban lănh đạo hội.

    Người Việt Nam thường dùng nhiều tên gọi trong cả đời ḿnh (khai sinh có 3 tên: tên thứ nhất là họ ví dụ Nguyễn, tên thứ hai chỉ giới của con người: văn có nghĩa là đàn ông. Ba là một phụ nữ đă có chồng. Cô là phụ nữa chưa chồng. Tên thứ hai là tên chính thức của mỗi cá nhân: Yên, Đồng, Giáp, Thục một phụ nữ có thể đổi tên khi cưới chồng, có người vẫn dùng tên cũ. V́ sự dễ dăi về tên họ như vậy, cho nên có những người dấu tên và do đó có khi c̣n lẫn lộn về họ tên. Hồ Chí Minh có không ít hơn 23 bí danh là trường hợp đặc biệt. V́ vậy hàng chục năm trong cuộc đời của Người vẫn c̣n bí ẩn.

    Bí ẩn và bí mật càng được kính trọng hơn. Quyền lực khó đạt được nhưng dễ mất đi, tốt hơn hết là tránh xa những truyện bí mật. Càng ít t́m ṭi càng có nhiều dịp thành công. Những người khác không cần phải biết rơ vị trí của ḿnh. Không có câu truyện nào thực sự chuẩn xác (ở Việt Nam không ai ngăn cấm việc thay đổi lập trường, miễn là phải có 1 thời hạn nhất định). Một con người nhiều mưu mẹo, giả dối, thích những hoạt động bí mật có khi lại được kính nể.

    Năm 1788 quân Trung Quốc định sang xâm lược nhân cơ hội một cuộc khủng hoảng nội bộ mới. Nhưng họ bị quân Tây Sơn đánh bại ở miền Bắc đất nước, miền mà người Việt Nam gọi là Pắc Bó. Trong khi quân Tây Sơn đang phải chống chọi với quân Trung Quốc ở miền Bắc để bảo vệ nền độc lập của Việt Nam, th́ ở miền Nam quân của chúa Nguyễn Ánh nhờ sự giúp đỡ của người Pháp đă kiểm soát được Sài G̣n và châu thổ sông Mêkông Nam bộ. Nhiều thủy thủ Pháp và nhân viên quản lư hành chính người Pháp đă được một cố đạo cố vấn hàng đầu của Nguyễn Ánh tuyển mộ. Nguyễn Ánh lên làm vua ở Huế năm 1802 gọi là vua Gia Long và thống nhất Bắc Trung Năm dưới cái tên cũ Việt Nam. Các vua đời sau trị v́ đến năm 1954 đời vua cuối cùng là vua Bảo Đại.

    Đầu thế kỷ 19, người Pháp đang mải lo cuộc chiến tranh của Napoléon ở châu Âu. Trước năm 1985 họ vẫn chưa t́m được một thị trường cho nền kỹ nghệ phát triển của họ. Đến mùa hè năm đó, 2.500 quân Pháp dùng mười bốn tàu thủy nhỏ cập cảng Đà Nẵng, ở miền Trung Việt Nam. Tất nhiên một sự chống đối kịch liệt ngăn cản họ tiến sâu vào hơn nữa.

    Muốn cưỡng bức nhà vua chấp nhận một cơ sở mới của người Pháp ở Đà Nẵng; phải chiếm được thành phố Huế, nhưng họ không dùng đường biển được. Không có tàu đáy phẳng để ngược ḍng sông Hương, người Pháp đành dùng biện pháp phong tỏa. Các cơn băo nhiệt đới nhanh chóng tàn sát hàng loạt quân lính Pháp, người nhiễm bệnh vượt qua số người bị thương trong chiến đấu: đă đến lúc phải có phương án giải quyết. Tháng 2 năm 1860 họ để lại một đồn canh nhỏ rồi lên tàu tiến về phía Nam chiếm Sài G̣n. Chưa đứng chân được một năm họ lại buộc phải ra đi. Năm sau họ mới trở lại thành phố. Tháng 6 năm 1861 quân viện từ Trung Quốc giúp họ kiểm soát được 3 tỉnh lân cận.

    Chủ nghĩa bảo thủ truyền thống của vua quan cản trở việc đất nước sử dụng vũ khí hiện đại để chống lại quân xâm lược nước ngoài. Tháng 6 năm 1862 thua trận, nhà vua phải bỏ Sài G̣n và 3 tỉnh. Một năm sau, người Pháp đặt chế độ bảo hộ ở Campuchia, và thành lập cái gọi là liên bang Đông Dương, do một đoàn thuyền đóng ở Sài G̣n điều khiển.

    Bốn năm sau, tất cả miền Nam Việt Nam gọi là Nam kỳ thuộc về tay người Pháp, họ thiết lập chế độ thuộc địa ở đó.

    Tháng 4 năm 1882, Sài G̣n đưa một lực lượng quân sự ra Hà Nội. Mười sáu tháng sau, một hiệp ước kư kết quy định quyền lực của người Pháp trên toàn bộ Việt Nam, Bắc kỳ ở miền Bắc, Trung kỳ ở miền Trung đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp. Trên giấy tờ, Việt Nam đă bị chiếm nhưng phải mười bốn năm sau người Pháp mới có thể kiểm soát toàn bộ đất nước.



    Khu vực Nhà Hát Lớn thời kỳ Pháp thuộc.

    Năm 1893 họ chiếm nước Lào và bổ sung vào Liên bang Đông Dương (họ chiếm Campuchia và Lào với danh nghĩa ngày xưa hai nước này chịu sự kiểm soát của Việt Nam-chỉ thời kỳ trung cổ xa xưa nước Lào mới bị vua Xiêm cai trị).

    Như vậy, người Pháp đă có một vương quốc ở phương Đông.

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    TƯỚNG GIÁP QUA 2 CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
    Tác giả: Peter Macdonald
    Người dịch: Nguyễn Viết Quyền-Nguyễn Đ́nh Cao
    Dịch theo bản tiếng Pháp của Jean Clem và Frank Strachitz
    Chương 4: Thế kỷ thứ XX



    Chúng tôi đánh thắng, không phải da chúng tôi bằng thép, xương chúng tôi bằng đồng mà chính v́ chúng tôi là những con người công bằng, trung trực, kiên nhẫn, mạnh mẽ, không chịu khuất phục và đầy ḷng tự ái.
    Lê Duẩn


    Quá tŕnh xâm lược của bọn thực dân đă diễn ra không có ǵ khó khăn, v́ dân cuhngs không đông lắm, 80% sống trong những làng mạc hẻo lánh, mà hầu như dân chưa bao giờ ra khỏi làng. Việc giao thông đi lại rất khó khăn, đường sá không được rải nhựa (thường không thể đi lại trong thời gian có gió mùa); hơn nữa ra ngoài đường để làm ǵ khi làng đă cung cấp đủ mọi thứ cần thiết trong cuộc sống? Quyền lực trung ương th́ ở xa, c̣n ḷng tồn tại ngay trong bản thân ḿnh: sau khi đánh chiếm ba thành phố lớn bọn thực dân buộc dân chúng hàng tháng trời không được thay đổi ǵ, dù họ có muốn. Và khi dân chúng đă nhận biết, họ có thể làm ǵ được? Cuộc sống cứ trôi đi theo thể thức truyền thống. Những cuộc nổi dậy chậm chạp và khó nhận thấy.

    Song đă có nhiều thay đổi: ví dụ như hạt muối mọi người cần dùng phải đóng thuế, ai phản đối bị bắt giam. Kết quả là thiếu thốn và giá cả tăng gấp 10 lần thời kỳ tiền thuộc địa. Nông dân được khuyến khích trồng cây nha phiến để chế biến thuốc phiện. Quốc gia độc quyền bán cho người tiêu dùng Việt Nam và nước ngoài.

    Sau một thế hệ, bọn thực dân Pháp ở Nam kỳ đă làm cho miền Nam giàu có thịnh vương so với nền kinh tế nghèo nàn của trung ương. Nhưng đến năm 1897, một quan toàn quyền mới làm thay đổi căn bản mọi thứ. Muốn biến Việt Nam thành một thị trường có kiểm soát để giao lưu hàng hóa Pháp và một nguồn cung cấp quư về gạo, than và cao su, Paul Doumer đă phớt lờ quy chế bảo hộ đối với Bắc kỳ và Trung kỳ, thiết lập quyền lực trực tiếp của người Pháp trên toàn bộ đất nước Việt Nam, áp đặt nền chính trị lao động công ích: đường sắt, cảng, đường bộ, kênh đào, cầu cống… và cải thiện một bước hạ tầng cơ sở của đất nước. Ông tuyển dụng hàng ngh́n người Pháp để thực hiện quyền cai trị, trả công cho số công chức ít ỏi của Việt Nam số tiền phụ cấp quá thấp so với người Pháp cùng làm một công việc.



    Tù nhân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc (1902)

    Trong chín trăm năm độc lập trước khi Pháp đô hộ, nền kinh tế Việt Nam hầu như dựa hẳn vào nông nghiệp. Cũng có những người thợ, người đánh cá và thợ mỏ nhưng phần lớn nhân dân làm nghề nông cày lúa để nuôi sống gia đ́nh. Việc trao đổi buôn bán trong nước cũng như ngoài nước là không đáng kể. Rơ ràng những ngành nghề là không cần thiết v́ phần lớn làng mạc và cả đất nước có thể sinh sống tự cấp tự túc trừ những lúc xảy ra đói kém. Giai cấp địa chủ không phát triển để có thể cạnh tranh quyền lực với vua quan. Khi người Pháp đưa vào cách khai thác các nguồn lợi của Việt Nam, có thể làm xuất hiện một giai cấp nào đó, th́ các vua quan hiểu rằng những cải cách kinh tế có thể đe dọa quyền lực của họ và họ quyết bám lấy trật tự cũ.

    Về phần ḿnh, người Pháp không muốn làm đảo lộn xă hội vốn có, dù có phương án có thể được chấp nhận, do đó nền kinh tế ở nông thôn cứ giữ nguyên như vậy hàng thế kỷ mà không có thay đổi ǵ. Các nhà buôn muốn giữ giá nhân công bản xứ ngang mức nền kinh tế nông thôn nhưng bán sản phẩm ngang mức kinh tế thành thị. Họ rất ít chịu kỹ nghệ hóa đất nước trong khi hàng trăm người Việt Nam được đưa sang mẫu quốc để xuống dưới hầm ḷ. (Và có đến hàng chục ngh́n người trong đó đă đến làm việc ở nước Pháp trong chiến tranh thế giới).

    Từ khi người Pháp đến xâm chiếm Việt Nam, cuộc sống của phần lớn người Việt Nam càng khó khăn hơn. Trong nửa thế kỷ từ năm 1880 đến năm 1930, diện tích ruộng đất tăng gấp bội lần. Vụ lúa thu hoạch hàng năm vượt qua 284 triệu tấn đến gần một triệu tấn rưỡi, nhưng người nông dân được ăn ít gạo hơn chưa kể đến thức ăn chẳng có ǵ. Các công tŕnh thủy lợi lớn chủ yếu ở châu thổ sông Mêkông nơi yêu cầu diệntích đất đai rộng lớn. Ruộng đất không được phân phối cho những địa chủ nhỏ hoặc bần cố nông. Cuối cùng ruộng đất lại vào tay những kẻ đầu cơ người Pháp, họ bán lại với giá cắt cổ cho những người Pháp hoặc người Việt Nam lắm tiền. Hậu quả là nông dân không có ruộng phải cày cấy thuê cho địa chủ Việt Nam.

    Những cố nông này phải trả cho địa chủ sáu mười phần trăm thu hoạch mùa màng. Họ không có khả năng nuôi gia đ́nh, phải chịu lao động cật lực hơn để có được ít cơm vào bát và tăng thêm phần lợi cho chủ.



    Lính Đông Dương thời Pháp thuộc

    Số nông dân có ít ruộng cũng không khá hơn, họ phải trả cho địa chủ bốn mươi phần trăm thu hoạch mùa màng và sau khi trả nợ cho bọn thương lái Trung Quốc và bọn Pháp bóc lột, họ chỉ c̣n lại mười lăm phần trăm tiền đi chợ. Họ phải đi vay nợ thường xuyên và khi họ không trả được nợ th́ ruộng đất của họ lại bị chiếm mất. Do đó số địa chủ nhỏ càng ngày càng thu hẹp lại. Đến cuối kỷ nguyên thuộc địa, số đại địa chủ ở Nam kỳ khoảng 2,5% dân số, chiếm giữ hơn 45% ruộng đất.

    Khi người ra nghĩ rằng chế độ thuộc địa chỉ đem lại lợi ích duy nhất cho người Pháp, th́ hận thù của lịch sử lại tập trung vào những chủ kinh doanh tư nhân người Pháp và một số ít địa chủ Việt Nam được lợi nhiều từ chế độ thuộc địa: Không phải nhà nước Pháp, cũng không phải nhân dân Pháp được chia phần vào cai bánh ngọt ấy.

    Trong khi phần lớn nhập khẩu của Đông Dương (nghĩa là Việt Nam, Campuchia và Lào) từ năm 1920 đến năm 1939 đều từ Pháp sang, th́ chế độ thuộc địa không bao giờ chịu tổ chức một thị trường quan trọng cho công nghiệp Pháp, lư do đơn giản v́ đông đảo nông dân quá nghèo không thể tiêu thụ sản phẩm của họ. Chế độ thuộc địa chỉ đem lại lợi ích cho một số ít người, đại diện cho không đến một nửa phần trăm dân số: chỉ có 6 hoặc 7 ngh́n người Việt Nam có đất ruộng quan trọng, vài ngh́n viên chức Việt Nam và tất nhoên bọn thực dân làm đủ cách để nhận lấy những ǵ đến từ nước Pháp.

    Bắc kỳ chấp nhận qui chế bảo hộ từ thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Một vị công sứ cao cấp ở Hà Nội thực hiện quyền hành dưới danh nghĩa phó vua Việt Nam. Trung kỳ dưới chế độ bảo hộ gián tiếp: ở Huế có ngai vàng của nhà vua là kinh đô, nhưng mọi quyền hành được phân định bởi người Pháp. Nam kỳ thuộc sở hữu của người Pháp, có một quan cai trị thuộc địa.

    Ở Nam kỳ người dân phụ thuộc vào các cấp chính quyền của người Pháp nhiều hơn hệ thống quan lại nên càng chịu ảnh hưởng nước Pháp nhiều hơn. Qua nhiều năm, Nam kỳ trở nên giàu có hơn miền Bắc: ở Trung kỳ và Bắc kỳ, những địa chủ chiếm ít hơn một nửa hecta đại diện cho 68,5% dân số, c̣n ở miền Nam, chỉ có 33,6% dân số chiếm ít hơn một nửa hecta; năm 1930 trên toàn Đông Dương, có 6.530 địa chủ chiếm hơn 600 hécta th́ tất cả đều ở miền Nam; có 8.600 dân giàu có (những người có thu nhập hơn 5.500 đôla mỗi năm) th́ 8.200 ở miền Nam. Nước Pháp theo đuổi một chính sách giáo dục để đồng hóa người Việt Nam ḥng gắn chặt với nước Pháp, nhưng trong số 50% dân số miền Nam th́ hơn một nửa có quốc tịch Pháp.

    Dù sao cái hàng rào ngăn cách miền Bắc và miền Nam là thiên tạo, nhưng truyền thống và phong tục miền Bắc cũng rất giống với phong tục tập quán miền Nam. Có lúc nào đó, người dân miền Nam tỏ ra nông nổi ấu trĩ đối với những người láng giềng phía cho rằng họ hung hăng, khiêu khích, hằn thù, xảo quyệt và thích chính trị nhưng trước hết và trên hết vẫn c̣n đó những người Việt Nam kiên nhẫn chia sẻ chung với miền Bắc một cái di sản và một quá khứ, cùng dùng chung một ngôn ngữ và cùng một hận thù chống bọn can thiệp và đô hộ nước ngoài. V́ bỏ qua cái thực tế quan trọng đó nên đă dẫn đến cái chết và niềm thất vọng của hàng triệu con người.

    Nước Pháp cũng như mọi thế lực thực dân khác đều kèm theo chế độ thuộc địa những khái niệm mới về tôn giáo, văn hóa và hành chính cho nd bị đô hộ. Đối với người Việt Nam tín ngưỡng là một sự xúc phạm, văn hóa khác là một thứ không cần thiết, họ vốn có tất cả từ xa xưa trước cả chính nước Pháp. Trái lại một số hiểu biết cần thiết không được nước Pháp coi trọng như tiếp xúc với y học, pháp luật, kinh tế, ngoại giao và kỹ thuật công nghiệp.

    Nước Pháp đă xây dựng một nhà thờ lớn neogothique ở Hà Nội và một nhà hát lớn-một đáp lại-một đáp lại nhỏ nhoi của lâu đài Garnier có thể biểu diễn vở Berling và Biget. Họ xây dựng một nhà hát ở sg để biểu diễn các vở của Racine và Moilere. Họ khai thông những đường phố lớn để cải tạo hai thành phố lớn này như phố phường ở Paris. Họ mang đến rượu và điện, những tṛ trụy lạc và tiêm chủng, những thư viện, những bếp lớn, bẫy chuột, xe hơi và báo chí, cũng như những dụng cụ của hàng ngh́n, hàng ngh́n người Việt Nam làm thợ nề, thợ mộc, đầu bếp, làm vườn, người giúp việc, vú em, rửa bát để cung cấp cho những người trông nom biệt thự của họ xây dựng nên.

    Khốn nỗi, nước Pháp lại mang theo họ cái tầm nh́n cấp trên, tính ngạo mạn đối với người bản xứ. Họ tin rằng đă làm đúng khi đưa đến đây một lối sống châu Âu và coi như đó là một phần thưởng không cần tổng kết. Nếu họ thấy được những chuyện họ đă làm gây nên nợ nần chồng chất trong chính cuộc sống của họ mà không phải trong người dân thuộc địa, th́ chắc hẳn họ có thể tránh được những hậu quả tiếp theo sau này.

    Thời đại và chân giá trị đă thay đổi. Ngày nay thật dễ dàng lên án bọn thực dân, nhưng cũng cần hiểu rằng họ đă thể hiện một đầu óc lớn lao về kinh doanh. Khi bỏ nước Pháp ra đi với hai bàn tay trắng đến một đất nước xa xôi. Nhiều người đă lao động cật lực.

    Họ phải cố gắng thích ứng với một khí hậu khắc nghiệt làm hao tổn sức khỏe của họ. Họ có nguy cơ nhiễm các bệnh nhiệt đới vô cùng đa dạng. Họ đă chấp nhận xa gia đ́nh trong nhiều năm và trải qua hai năm trên biển cả để đến được Việt Nam.

    Mặc dù vậy, họ đă làm được nhiều việc. Ví dụ người ta chưa thấy hết lợi ích của việc đào tạo chuyên gia: nước Việt Nam thuộc địa chỉ có hai bác sĩ cho một trăm ngh́n dân, so với Philippin là 25, Nhật Bản là 16. Hơn nữa, mẫu quốc đă tỏ ra dè xẻn trong việc chi tiêu ngân sách để cai trị thuộc địa, do vậy, tiến bộ thật sự chậm chạp và hầu như không nh́n thấy.

    Nhân dân Việt Nam nhận biết nhiều tất xấu của chế độ thuộc địa Pháp đối với bản xứ, v́ họ đâu phải ngớ ngẩn mặc dù nghèo và thất học. Sự chống đối ắt là không tránh khỏi.

    Năm 1908 sau khi các nhà hoạt động yêu nước bị bắt giam hàng loạt, hội Phục quốc Việt Nam ra đời. Đó là một tổ chức vô chính phủ, quá tập trung chẳng có tác động lâu dài. Năm 1927, một đảng dân tộc của Việt Nam, Việt Nam Quốc dân đảng được thành lập ở Bắc kỳ do một thầy giáo 23 tuổi Nguyễn Thái Học lănh đạo. Đảng tổ chức một cuộc bạo động vũ trang trong các đồn lính Pháp hy vọng đuổi được bọn Pháp đi, nhưng đến ngày thực hiện lời kêu gọi, binh lính Việt Nam giết sỹ quan Pháp rồi lại bị họ giết hết ngày hôm sau. Trong vụ khủng bố tiếp theo hàng trăm người bị giết, hàng ngh́n người khác bị bắt giam, c̣n Nguyễn Thái Học và mười hai nhà lănh đạo khác bị bắt và xử tù. Việt Nam Quốc dân đảng thực tế đă bị phá vỡ ở Việt Nam, nhưng c̣n tiếp tục tồn tại 15 năm ở Trung Quốc hoạt động lưu vong dưới sự yểm trợ của những nhà cách mạng dân tộc ở Quảng Đông Trung Quốc.

    Năm 1929 có 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Một do Trần Văn Cung sáng lập gọi là An Nam cộng sản liên đoàn. Một đảng khác được thành lập năm 1925 gọi là Thanh niên cách mệnh đồng chí hội. Đảng này tập họp ngay được một nhóm ở Trung kỳ. Tháng 5-1930, để chống lại nạn đói đang hoành hành ở miền Trung, những người cộng sản tổ chức một cuộc nổi dậy của nông thông trên diện rộng, “Xô viết” được thành lập trong nhiều tỉnh ở Trung kỳ, các địa chủ và quan chức Việt Nam làm việc cho Pháp đều bị giết. Pháp nắm lại quyền kiểm soát Trung kỳ mùa xuân năm 1931. Trong hai năm 1930 và 1931, 699 người Việt Nam bị bắt không xử án, 83 người bị xử tử, 546 bị giam tại chỗ và khoảng 3.000 người bị bắt đến các trại tập trung.

    Quan toàn quyền công bố với nhân dân Pháp với giọng lạc quan: “Chủ nghĩa cộng sản có đủ lực lượng chống lại trật tự công cộng đă biến khỏi Việt Nam”. Đến cuối năm, đảng phải lúc thoái trào, trong đảng có khuynh hướng lầm lẫn địch ta: hoạt động có lúc nhằm vào dân, có lúc nhằm vào bọn thực dân. Mặc dù phong trào yêu nước đang trong t́nh trạng khó khăn, những người cộng sản vẫn giữ thế tấn công, v́ họ càng đoàn kết và được tổ chức tốt hơn để chuẩn bị tiếp tục đấu tranh.

    Ở Hồng Kông năm 1930, do mật thám Pháp đưa tin, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) bị người Anh bắt giam hai năm, nhưng đă quá muộn. Tháng Giêng, ông đă tổ chức được một hội nghị thống nhất ba nhóm cộng sản và thành lập một đảng mới Đảng Cộng sản Đông Dương (?) ở Côn Minh đồng thời có chân ở Thái Lan và Malaysia. Ông xuất bản một tờ báo mới của Đảng tờ Tiến lên. Tờ báo trở thành tiếng gọi đoàn kết binh lính ở Việt Nam. Đảng cộng sản Đông Dương được tổ chức ở trong nước và ngoài nước. Đảng chia đất nước thành 3 miền Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, rồi đến các khu, tỉnh và huyện. Đảng tập hợp những người có cùng lợi ích chung: nông dân, công nhân, sinh viên, phụ nữ, người già; ở nước ngoài có đại diện ở Côn Minh và ở phía Đông đến Thượng Hải. Sự trong sạch của chủ nghĩa, sự gắn bó với tổ chức, kỷ luật sắt và lời thề danh dự không phản bội, tạo thành một mẫu mực của Đảng để thử thách với thời gian mà không có thay đổi lớn.

    Cuối năm 1931 có khoảng một ngh́n năm trăm đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng có đến hàng chục ngh́n người cảm t́nh đảng. Người Pháp rất dè chừng những người yêu nước Việt Nam, v́ người Việt Nam rất căm thù bọn thực dân Pháp, trong khi những người cộng sản được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh và hứa hẹn với nhân dân sẽ có những biện pháp hữu hiệu để khắc phục bất công. Năm 1932 ḥng thoa dịu phong trào, người Pháp cho ra đời một đảng chính trị đầu tiên tổ chức ở Sài G̣n, đảng mới xây dựng đă chịu ảnh hưởng của một tổ chức tôn giáo nhỏ-giáo phái Cao Đài-giáo phái này từ chối hoạt động chính trị và đảng cũng biến mất. Trong những năm trước chiến tranh thế giới II, Đảng cộng sản Đông Dương là tổ chức cách mạng duy nhất ở Việt Nam, mà đảng viên có kỷ luật và lư tưởng nghiêm chỉnh. Họ đại diện cho lực lượng mạnh nhất của phong trào đấu tranh đ̣i độc lập.

    Năm 1936, sau khi Chính phủ Mặt trận b́nh dân ở Pháp chấp nhận một số quyền dân chủ cho nhân dân thuộc địa, bộ máy của Đảng cộng sản hoàn toàn được xây dựng lại, tuyên truyền rộng răi ảnh hưởng trong tầng lớp trí thức, giai cấp cônn nhân, nông dân và tổ chức ra mặt trận. Ở Bắc kỳ, đảng hoạt động dưới danh nghĩa Mặt trận dân chủ Đông Dương do hai nhân vật chưa ai biết lúc bấy giờ: Phạm Văn Đồng - Thủ tướng tương lai và Vơ Nguyên Giáp - Đại tướng tương lai, lănh đạo.

    Du nhập vào Việt Nam chiến tranh và tính chất dân tộc, nhân dân Việt Nam là một dân tộc có tác phong công nghiệp, thông minh và dũng cảm, nhưng thể h́nh bé nhỏ: đàn ông cao trung b́nh 1,55 mét và cân nặng 54 đến 58 kilô; đàn bà nhỏ nhắn hơn, ít người cao quá 1,45 mét và cân nặng không quá 45 kilô.

    Nhân dân gần 90% dân tộc người Việt cũng như người miền Nam Trung Quốc, đó là người Mông Cổ. C̣n lại 10% là những dân tộc bị người Việt đẩy ra khỏi vùng châu thổ và bắt buộc sống trên vùng rừng núi. Các dân tộc này c̣n bé nhỏ hơn người Việt-người Pháp gọi là dân miền núi-Những năm ba mươi, có khoảng một triệu người gồm khoảng 33 họ tộc như Giơrai, Ê đê, Nùng, Mèo, Thái (người Thái có Thái trắng, Thái đen ngày xưa phân biệt bằng màu sắc váy của phụ nữ Thái).

    Miền Nam có 12 đến 13 triệu dân, trong số đó một triệu là người Trung Quốc, 350.000 người Campuchia và từ 500.000 đến 750.000 người miền núi. Miền Bắc cũng phân bố dân số tương tự như miền Nam, với tỷ lệ người Trung Quốc và người miền núi tương đương.

    Những bộ tộc người miền núi sống hoang sơ. Người Việt Nam cho rằng họ thuộc thời kỳ đồ đá. Ở phía Bắc họ nói tiếng gốc Trung Quốc, trong khi ở phía đông nam họ nói tiếng gốc Mon-Khmer, với một số từ vay mượn của Trung Quốc. Các tộc họ này gắn với linh hồn đồ vật họ thờ cúng.

    Lúc ban đầu, tiếng Việt rất lạ tai đối với người phương Tây, một loại ngôn ngữ nghe như tiếng chim ríu rít, âm họng, mũi, khàn, viết cùng một dạng chữ với người Trung Quốc có đến hàng nghĩ từ. Năm 1627, một vị giáo mục, cha Alexansde Rhodes đă đến Việt Nam trong một phái đoàn tôn giáo ở Nam kỳ hay đúng hơn ở Faifo một chi nhánh của Bồ Đào Nha. Ông học tiếng Việt vài tháng và sau hơn 1 hoặc 2 năm, ông đă chuyển chữ nôm thành chữ quốc ngữ thành công bằng cách dùng chữ latinh. Ngày nay người phương Tây có thể đọc tiếng Việt được nhưng phát âm khá phức tạp. Hơn nữa một số từ có đến bảy nghĩa tùy theo lúc sử dụng vào lúc cần nhấn mạnh.

    Về tổng thể Việt Nam có một số vấn đề đặc hữu cần dùng nhiều dự án lớn: 90% lao động phải làm việc để nuôi sống c̣n lại của dân số. Về địa lư hai phần ba đất nước là rừng núi, chỉ c̣n 5% đất đai trồng trọt được, gần như ít ruộng đất cày cấy được nhất trong các nước trên thế giới. C̣n 75% dân số ở châu thổ sông Hồng; dưới thời thuộc Pháp, châu thổ cũng là nơi có nhiều địa chủ nhất châu Á: 98% nông dân cày cấy ruộng của họ, nhưng 60% tá điền không có đến nửa hécta. Trong nửa thứ hai của thế kỷ XX hàng ngh́n người bị đàn áp và giết v́ đấu tranh chống bất công này.

    Trong những năm 30, tôn giáo có vai tṛ quan trọng trong cuộc sống của nhân dân Việt Nam. Tuy vậy, thiên chúa giáo là một sản phẩm nhập cảng, nhân dân không tin tưởng (đến 1850 các con chiều đều bị khắc chữ “tà đạo” vào má trái bằng sắt nung đỏ). Gần 10% dân số theo đạo thiên chúa phần lớn là dân miền Bắc. Trong những năm50, khi Ngô Đ́nh Diệm chiếm quyền tổng thống miền Nam, mới làm đảo lộn vị trí đạo thiên chúa ở miền Nam. Đạo Phật tự thân có mâu thuẫn: một mặt đối với chính trị không có ǵ quan trọng, nhưng mặt khác đối với thân phận con người lại rất quan trọng, đó là quan hệ chính trị. Trong những năm tiếp theo, chính sách của tổng thống nên Phật giáo mới xâm nhập vào đời sống chính trị ở miền Nam.

    Đó là nơi chàng trai Vơ Nguyên Giáp trưởng thành. Nh́n chung, mỗi người đều lo công việc của ḿnh theo phong tục truyền thống-vâng lời, trật tự, tự lập, gia đ́nh, tươi cười và lễ phép. Nhưng trong dân chúng tiềm ẩn một ḷng căm thù sâu sắc, yêu cầu dùng cách mạng bạo lực để đấu tranh đ̣i hỏi một nền độc lập mà nhân dân được hưởng đầy đủ các quyền lợi hợp pháp.

    Đối với người Việt Nam, lịch sử không phải là cơn ác mộng làm cho họ phải thức giấc; mà đó là món quà dâng lên tổ tiên, đó là sự hiện diện của tổ tiên. Tổ tiên đă đấu tranh cho độc lập, con cháu sau này cũng phải tiếp tục chiến đấu như vậy để khỏi phục ḷng tin của tổ tiên.

    Niềm tin ấy cộng với ḷng yêu nước, sự tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản đă h́nh thành một quyết tâm lạ kỳ, một trí tuệ chiến thắng trong một tổ hợp không thể dập tắt được.

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    TƯỚNG GIÁP QUA 2 CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
    Tác giả: Peter Macdonald
    Người dịch: Nguyễn Viết Quyền-Nguyễn Đ́nh Cao
    Dịch theo bản tiếng Pháp của Jean Clem và Frank Strachitz
    Chương 5: Người Pháp quay trở lại



    Nếu nổi dậy là một nghệ thuật, th́ nghệ thuật ấy có mục đích tạo cho cuộc đấu tranh một h́nh thức phù hợp với địa vị chính trị.
    Vơ Nguyên Giáp

    Lịch sử Việt Nam chỉ là một dăy dài những cuộc náo động. Quân đội tiến và lùi. Những đợt sóng binh sĩ vấy máu nối tiếp nhau vỗ vào lũy tre làng, đập vào ḥn đá tảng của giai cấp nông dân, hôm nay, ngày mai và ngày kia nữa, để lại phía sau những xác người và động vật, những bát cơm vơi đi; binh sĩ ngă xuống như một giấc mơ và chỉ xuất hiện lại ở thế hệ mai sau: một cơn ác mộng tái diễn và mờ mờ ảo ảo bất ngờ xuất hiện trong một đêm sâu. Theo ḍng tuổi tác, người Việt Nam đă biết giáo, gươmg, mút kê, súng trường, súng máy và lựu đạn; trong ṿng 30 năm lại đây họ có thể bị giết hoặc bị thương v́ ḿn nhảy, lựu đạn có cánh, bom sát thương, napalm, tên lửa và tên lửa điều khiển bằng lade, và họ cũng có thể bị tiêu diệt v́ loại ḿn mặt đất có thể di chuyển cả những quả núi và đẩy đi ở độ cao mười ngh́n mét trong bầu trời xanh, sáng sủa và im lặng.

    Ba trăm năm trước, nước Việt Nam bị chia thành hai hoặc ba phần: chia thành hai khoảng năm 1600 và thành ba trong thời kỳ các triều Vua Tây Sơn (1788-1802), được thống nhất đầu thế kỷ XIX để rồi lại bị người Pháp xâm chiếm Nam kỳ trước tiên và những năm sau họ áp đặt cho các tỉnh giàu có này một chế độ đô hộ khác với Trung kỳ và Bắc kỳ. Khi đề cập đến tương lai của Đông Dương cũng như của Việt Nam, Đồng minh quyết định cắt từ vĩ tuyến 16 trở lên, trong kế hoạch chờ đơi những quyết định tiếp theo. Những người họp hội nghị Potsdam tháng 7 năm 1945 hy vọng các vùng bị bảo hộ sẽ nhanh chóng giành được độc lập, c̣n miền Nam trước mắt vẫn giữ nguyên chế độ thuộc địa và sẽ giành độc lập sau.

    Những quyết định của hội nghị Potsdam bắt nguồn từ ác cảm sâu sắc của Tổng thống Roosevelt đối với chế độ thuộc địa. Niềm tin này không phải căn cứ vào thực tế sinh động của thế giới trong những năm 40 mà v́ một nguyên tắc cơ bản của chính sách ngoại giao xuất phát từ cuộc nổi dậy chống quân Anh trước đây một trăm năm mươi năm. Không hiểu hết sự bất b́nh đối với quyết định của ông, Roosevelt đă biếu Việt Nam cho Tưởng Giới Thạch người lănh đạo phong trào dân tộc Trung Quốc. Quà tặng bị từ chối một cách nhă nhặn: Tưởng nói rằng: “Người Việt Nam không phải là người Trung Quốc; họ luôn luôn khác hẳn chúng tôi; họ luôn nuôi chí căm thù lịch sử; họ không bao giờ ḥa nhập vào Trung Quốc và sẽ khó khăn cho việc cai trị họ”.

    Về phía ḿnh, sau khi quân Đức rút đi, tướng De Gaulle đă thành lập được một Chính phủ lâm thời ở Paris. Miễn cương ông chấp nhận ư tưởng chia cắt Đông Dương, nhưng không nghi ngờ ǵ về tương lai của Đông Dương: người Pháp sẽ quay lại ngay sau khi người Nhật rút đi.

    Trong thời gian Đức xâm chiếm châu Âu, những thuộc địa của Pháp là mồi ngon cho quân Nhật. Sau những trận đánh dồn dập ở Thái B́nh Dương, quân đồn trú Nhật Bản được nhiều năm sung sướng, nhàn nhă. Nhưng chiến tranh ở châu Âu kết thúc, các quân đồn trú này phải chịu đựng toàn bộ sức nặng của một cuộc tấn công tổng lực của quân đội Đồng minh (quân Pháp không được tiết lộ về vũ khí nguyên tử cầu viện). Một khi người Nhật bị bại trận, các đội quân Nhật rút đi, nước Pháp tuyên bố quyền sở hữu đối với các thuộc địa trước chiến tranh. Biết rằng quân Trung Quốc không dễ dàng chấp nhận sự có mặt của quân Pháp ở Đông Dương như người Mỹ, De Gaulle đành chịu để cho quân Tưởng vào Bắc kỳ, Trung kỳ và quân Anh vào Nam kỳ để giám sát quân Nhật rút lui.

    Vào lúc này, ngày 28 tháng 8 năm 1945, Vơ Nguyên Giáp cùng binh sĩ của ông vượt cầu Doumer (Long Biên) cái cầu nhô lên trên mặt nước đỏ nâu của sông Hồng Hà và tiến vào Hà Nội. Ba mươi ngh́n lính Nhật đang đóng quân trong thành phố và vùng ven đô không cản trở. Họ biết rằng cuộc trở về của đoàn quân sẽ có thể làm tăng thêm t́nh trạng hỗn độn của thành phố, v́ đoàn quân sẽ kích động và hướng dẫn toàn thể nhân dân nổi dậy chống lại các lực lượng nước ngoài: bọn chiếm đóng Nhật Bản cũng như các quan chức mất tinh thần cuối cùng của chính quyền Pháp. Trước hết, v́ nhân dân muốn được làm chủ đất nước.

    Hàng ngh́n người xuất hiện trên các đường phố lân cận và phá tan hàng rào của Bắc Bộ phủ, chỗ ở cũ của công sứ Bắc kỳ. Giáp kể: “Cuộc nổi dậy được nhanh chóng mở rộng và trong khoảng mười ngày chính quyền của thuộc địa và phong kiến không c̣n nữa. Các đội quân trở thành những đơn vị của giải phóng quân, của các lực lượng tự vệ và vô số đội du kích. Cách mạng đến như một luồng gió xoáy. Nỗi nhục nhă và nỗi đau của cuộc đời nô lệ hầu như bị quét sạch hoàn toàn trong ba ngày, chính quyền cách mạng thật kỳ lạ: nó làm cho nhân dân sống lại. Đêm qua, thành phối c̣n bị tê liệt v́ đói, v́ dịch bệnh và sợ hăi. Giờ đây, mỗi đường phố, mỗi ngơ chật ních người. Hàng ngh́n, hàng ngh́n người biểu t́nh trên các đường phố cách mạng được thành lập. Chính quyền nhân dân cách mạng được thành lập. Trộm cắp biến mất, không t́m thấy người ăn xin. Rất nhiều lá cờ đỏ sao vàng tô thắm màu hồng sáng chói nhà cửa và đường phố. Cách mạng thật sự là ngày hội của những người bị áp bức. Đó là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin trong một nước thuộc địa và nửa phong kiến” (Những chặn đường lịch sử, trang 233. Nhà xuất bản chính trị quốc gia).

    Sự náo động say sưa ấy không chỉ v́ việc giải phóng khỏi ách bóc lột dai dẳng của chính quyền Pháp và sự chiếm đóng ngu xuẩn của quân Nhật mà c̣n bắt nguồn tự sự hoảng sợ. V́ miền Bắc, đang khổ sở v́ nạn đói khủng khiếp. Quân Nhật quyết định tống giam các viên chức người Pháp chịu trách về công tác thủy lợi, đặc biệt dọc theo bờ sông phía Nam Hà Nội, để việc trông coi mực nước vào tay những công dân Việt Nam thiếu kinh nghiệm. Những trận mưa lớn đến, họ mở cống rộng quá, hàng núi nước vượt qua đê không được củng cố giữ ǵn chu đáo, phá hoại hết ruộng đất, hủy hoại hết mùa màng của tám tỉnh trong mười bốn tỉnh ở miền Bắc bị ngập lụt.

    Nạn đói đă cướp đi mạng sống của năm, sáu trăm ngh́n người. Giá gạo tăng quá mức, đặc biệt ở Hà Nội và nhân dân không bao giờ được ăn no, nằm chết đói trên đường. Giáp viết: “Nước lên cao trên tất cả các sông ng̣i. Các con đê do chính quyền thuộc địa bỏ mặc đă bị ḍng nước phá hủy, sáu tỉnh của vùng châu thổ, vựa lúa của miền Bắc Việt Nam bị ngập lụt” (Sđd, trang 222).

    T́nh trạng hỗn độn là không tránh khỏi: một mặt những viên chức người Pháp đang tiếp tục bị giết trong các trại giam, c̣n mặt khác người Nhật coi như người điều hành đất nước lại đang trong trạng thái mơ hồ, không có sự lănh đạo của Tokyo, hai quả bom nguyên tử ngày 6 và 9 tháng 8 đă kết liễu chính quyền ở đó. Điều phải làm ngay hiện nay là đưa Việt Minh lên nắm chính quyền hợp pháp để lấp chỗ trống, trước khi bọn Nhật hoặc quân Đồng minh có thời gian hoạt động.

    Về đến Hà Nội, sau khi bố trí xong các quân đội, Giáp đến ở nhà một người cảm t́nh ở phố Hàng Ngang, ở đó Giáp được tin Hồ Chí Minh đang trên đường về Hà Nội, do một phân đội biệt động Quang Trung của Giải phóng quân hộ tống, nhưng phải nằm trên cáng v́ t́nh trạng sức khỏe kém. Trước đây ít lâu, Giáp đă có một đêm thức bên cạnh Hồ Chí Minh nằm trên giường bệnh bằng tre trong một lán nhỏ ở Tân Trào, và bây giờ ông đang trở về Hà Nội. Giáp kể: “Hồ Chí Minh đă một ḿnh bôn ba khắp các miền của trái đất, sau khi rời khỏi cái nhà tranh nhỏ ở Kim Liên, cách Hà Nội 300 kilômét, ông phải mất hơn ba mươi năm mới đến được Hà Nội (Sđd, trang 221). Vài ngày trước đây, Hà Nội chỉ có chợ đen, cuộc sống rất bấp bênh, không có đủ xe ḅ để chở người chết đói đi chôn chung vào những hố ở vùng ngoại ô. Ngoài các cửa ô, từng đoàn người bị đói từ nông thôn kéo vào. Họ không đứng vững trên đôi chân, cuộc sống như chiếc lá vàng trên cây mùa đông. Chỉ cần người cảnh sát đẩy nhẹ là họ đổ xuống và không bao giờ đứng dậy được nữa” (Sđd, trang 222).

    Hôm sau ngày 29 tháng 8 năm 1945, trong khi các quan Nhật vênh váo lượn quanh khách sạn Metropole vừa đi vừa gơ roi ngựa vào đôi dày da, hết hy vọng về mệnh lệnh từ Tokyo, và binh sĩ của họ vừa hút thuốc lá vừa chờ đợi trong các trai lính gần thành nội-nơi đồn trú của lính Pháo trước đây-th́ Cụ Hồ Chí Minh nắm quyền kiểm soát Việt Nam và thành lập Chính phủ đầu tiên của Cụ.

    Hy vọng người Pháp chấp nhận một sự đă rồi, và có thể tập hợp những nhóm yêu nước khác nhau dưới sự lănh đạo của Cụ, Cụ Hồ Chí Minh đă mời vào Chính phủ những thành viên không mác xít, độc lập và thiên chúa giáo. Vơ Nguyên Giáp được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ, bộ quan trọng nhất chịu trách nhiệm phát hiện nguyên nhân của những vụ lộn xộn và bắt đầu cải tạo xă hội theo những nguyên lư của chủ nghĩa cộng sản: hết chiến tranh, Cụ Hồ muốn đưa Giáp vào con đường hoạt động chính trị. Chu Văn Tấn người chỉ huy đội cứu quốc quân, đang chỉ huy một phân đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng.



    Lễ đài tại Quảng trường Ba Đ́nh ngày 2/9/1945

    Ngày 2 tháng 9, trước vài trăm ngh́n người gồm một nửa dân số thành phố ồn ào và náo nhiệt, tập hợp ở Quảng trường Ba Đ́nh, trên lễ đài Cụ Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, nhắc lại những câu nói lịch sử của tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ: “Mọi người có quyền được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Cụ đă yêu cầu một người lính Mỹ của OSS viết vào một mảnh giấy cho Cụ. Vơ Nguyên Giáp đọc một bài diễn văn dài về những vấn đề chính trị, kinh tế và những vấn đề khác, đề cập cả đến những chính sách đối ngoại nhấn mạnh đến quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc và Liên Hiệp Quốc. Giáp c̣n nói thêm: Mỹ là người bạn tốt của Việt Nam.

    Sau này, Giáp đă tả cảnh này:

    “Hà Nội tưng bừng máu đỏ. Một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa. Cờ bay đỏ những mái nhà, đỏ những rặng cây, đỏ những mặt hồ. Biểu ngữ bằng các thứ tiếng Việt-Pháp-Anh, hoa chăng khắp các đường phố: “Nước Việt Nam của… người Việt Nam”, ”Độc lập hay là chết”, “ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Các nhà máy, các hiệu buôn to nhỏ đều nghỉ việc. Chợ búa không họp. Mọi hoạt động buôn bán, sản xuất của thành phố tạm ngưng. Đồng bào thủ đô già, trẻ, gái, trai đều xuống đường. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị chủ tịch của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă ra mắt đồng bào như một lănh tụ đầu tiên xuất hiện trước đông đảo quần chúng. Đó là một cụ già gầy g̣, trán cao, mắt sáng, râu thưa. Cụ đội chiếc mũ đă cũ, mặc áo kaki cao cổ, đi dép cao su trắng. Hai mươi bốn năm làm chủ tịch nước, trong những ngày lễ lớn của dân tộc, trong những cuộc đi thăm nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ cũng xuất hiện với một h́nh ảnh giản dị không thay đổi. Vẫn bộ quần áo vải trên ngực không một tấm huy chương, y như lần đầu Bác đă ra mắt đồng bào”.



    Quang cảnh Lễ Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đ́nh, Hà Nội ngày 2-9-1945

    Ngày 7 tháng 9, sau nhiều cuộc thảo luận với Giáp xung quanh một ngọn lửa trại, Cụ Hồ đổi tên giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn-quân đội nhân dân-và tuyên bố thành lập một Bộ Tổng tư lệnh gồm những sỹ quan ưu tú và phụ trách việc điều hành toàn bộ quân đội. Bộ Tổng tham mưu này phải: “thống nhất, bí mật, linh hoạt, chính xác và nhanh chóng, đủ sức đánh bại mọi kẻ thù”. Có 3 bộ phận riêng biệt:

    - Một Tổng cục Chính trị thực hiện sự lănh đạo trực tiếp chặt chẽ mọi mặt đời sống quân sự của Đảng, tổ chức hệ thống chính trị viên ở mọi cấp chỉ huy cho đến trung đội.

    - Một Bộ Tổng tham mưu bao gồm các cơ quan huấn luyện, kế hoạch tác chiến và thông tin liên lạc.

    - Một Tổng cục Hậu cần bao gồm vận tải (lúc đầu chưa có xe th́ dùng phương tiện bằng tay) và cung cấp thực phẩm, vũ khí và trang bị (kể cả sửa chữa) cùng công tác quân y.

    Ngày 8 tháng 9, một hệ thống giáo dục quần áo (b́nh dân học vụ) ưu tiên 2, được thành lập để chuẩn bị cho nhân dân đi vào cuộc sống mới. Nhiệm vụ là giáo dục cho đại đa số quần chúng cơ sở tinh thần yêu nước. Từ trước đến bây giờ, mục đích chính của tuyên truyền là làm cho quần chúng nổi dậy đồng loạt, c̣n hiện nay là thấm nhuần việc thành lập một quốc gia cộng sản. Mao Trạch Đông đă công bố lư luận cơ bản: “Phải thuyết phục dần dần quần chúng bằng kết hợp với khủng bố tinh thần, vừa hăm dọa, vừa thuyết phục và dùng áp lực số đông. Việc lănh đạo không có ǵ quan trọng như những giải quyết đầu tiên ấy”. Người Việt Nam cũng có những giải quyết ấy, nhưng không thiếu sự lănh đạo mạnh mẽ trong những năm tiếp theo.

    Phải nghĩ đến bao nhiêu việc phải lo đến bao nhiêu vấn đề cẩn trọng, những tuần lễ đầu tiên hết sức bận rộn. Nói cách khác, Cụ Hồ Chí Minh hết sức lợi dụng những điều kiện đó; c̣n quân Nhật hết sức sung sướng, được rời bỏ mảnh đất này. Giáp nói rằng: “Bọn chỉ huy Nhật không muốn dùng quân của họ để lập lại trật tự” và họ không đủ khả năng quan tâm đến chỗ trống mà quân Pháp để lại khi ra đi v́ chính bọn họ gây nên. Nắm lấy thời cơ, Chính phủ Hồ Chí Minh tổ chức ấn định các qui tắc, thành lập cảnh sát đầu tiên, áp dụng các luật lệ và xây dựng cơ sở của xă hội, Cụ Hồ giành cho dân tộc miền núi một số đại biểu trong đại hội quốc dân. Sau đó khoảng chục ngh́n người trong số họ được gọi về Hà Nội để nhận một tổ chức: họ sẽ trở thành thầy giáo, bác sĩ và chuyên gia chính trị.

    Mồng 9 tháng 9 năm 1945, thực hiện quyết định của hội nghị Potsdam, 152.000 binh sĩ của quân đội quốc gia Trung Quốc thuộc các quân đoàn 53, 60, 62 và 93 cùng với các sư đoàn độc lập 23, 39 và 93 do tướng Lư Hán chỉ huy vược bg, tiến sâu về phương nam để cuối cùng đóng lại quanh Hà Nội. Có rất nhiều lính Trung Quốc, họ xuất hiện như nạn châu chấu phá hoại đồng ruộng, chỉ làm tăng thêm sự thiếu hụt lương thực. Ở miền Nam, quân Anh cũng không thể mất thời gian tiến vào với những bước dài: ngày 12 một bộ phận sư đoàn Ân Độ số 20 do tướng Donglad Gracey chỉ huy tiến vào Sài G̣n (trong tổ chức quân đội Anh, có một số đơn vị người Anh và một số đơn vị người Ấn Độ do sỹ quan Anh chỉ huy lănh đạo).

    Đáng tiếc là người Anh đă cử đến đây một vị tướng của quân đội Ấn Độ, mặc dù lúc này đang có một vị đô đốc chỉ huy tối cao của tất cả lực lượng Anh quốc ở Đông Nam Á Loris Mountbattes có đủ thẩm quyền và được đánh giá cao đang ở trong t́nh huống thuận lợi đ̣i hỏi phải đối xử tế nhị. Vị tướng này đă quen đối xử với nhân dân thuộc địa nên có thể bị thành kiến: những t́nh cảm của ông dẫn đến việc nâng đỡ người Pháp và giúp họ thiết lập lại vương triều ở đây. Nếu sự việc rơ ràng và khách quan hơn, có thể sự kiện sẽ xảy ra khác đi. V́ vậy khi một phái bộ Việt Nam đại diện Chính phủ Hà Nội đến gặp ông, ông khinh khỉnh chỉ cửa vào, tỏ ra rất khó chịu về cuộc tiếp xúc nhỏ này và ông nhanh chóng mời họ ra ngoài.

    Với thái độ khách quan Mountbattes đă ra lệnh cho Gracey tước vũ khí quân Nhật, giữ ǵn trật tự; không phải thiết lập lại “vương triều của người Pháp”. Nhưng v́ sức ép của quan năm Cédile, cao ủy Pháp ở Đông Dương, Gracey không hoàn thành nhiệm vụ. Ông ban hành luật quân sự, và lính Nhật đang bị giam giữ, sử dụng họ để kiểm soát nhân dân một đất nước không thể kiểm soát nổi.

    Giáp kể:

    “Đồng minh đă quyết định chia Đông Dương thành hai khu vực để tiến vào tước vũ khí quân đội Nhật Bản khi Nhật đầu hàng. Việc giải quyết quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào do quân đội Anh phụ trách; từ vĩ tuyến 16 trở ra sẽ do quân đội Tưởng Giới Thạch chịu trách nhiệm. Đương nhiên, trong việc hệ trọng đó, dân ta không được hỏi ư kiến. Do áp lực của Mỹ, Pháp đă bị gạt ra ngoài…

    Trong nửa đầu tháng 9, gần 20 vạn quân Tưởng đă tràn vào hầu khắp các tỉnh miền Bắc như một bệnh dịch…

    Phái bộ Anh do tướng Gracey cầm đầu đến Sài G̣n, những đơn vị quân Anh, Ấn đầu tiên thuộc sư đoàn 20 theo đường biển lần lượt cập bến Sài G̣n. Chúng ra lệnh cho bọn Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát trong thành phố và đ̣i các lực lượng của ta phải nộp vũ khí. Ngay từ ngày đầu, quân Anh đă lộ rơ bộ mặt can thiệp.
    Ngày 20 tháng 9, tướng Gracey ra bản Thông báo số 1. Y khẳng định quyền duy tŕ trật tự của quân Anh, y ra lệnh cấm mang vũ khí và tuyên bố những ai vi phạm các quy định của y sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, kể cả xử bắn.

    Bọn Anh tới chiếm trại giam, thả tất cả những tên Pháp, nhảy dù xuống nb sau này khởi nghĩa bị ta bắt và giữ lại đó. Một ngàn rưỡi lính lê dương Pháp của trung đoàn bộ binh thuộc địa số 11 đă được bọn Anh đưa ra khỏi trại tù binh Nhật và trang bị lại. Sáng sớm ngày 23 tháng 9 bọn binh lính Pháp của trung đoàn 11 cùng một đơn vị lê dương mới từ Pháp sang được quân Anh, quân Nhật yểm trợ đổ xô ra các ngả đường. Chúng đánh chiếm các đồn cảnh sát của ta và bắn giết đồng bào. Những tên lính lê dương ở thuộc địa và những tên thực dân Pháp trước đây mấy tháng, ngon ngoăn đầu hàng quân Nhật đă tỏ ra vô cùng dă man trong việc tàn sát ngược đăi những người dân tay không… Trong không khí căm thù sôi sục, các chiến sĩ tự vệ và đồng bào Sài G̣n lập tức chiếm các vị trí chiến đấu, kiên quyết đánh trả bọn xâm lược…” (Sđd, trang 254,255).

    Hai tuần sau, đầu tháng mười, hai đại đội bộ binh Pháp, một đơn vị Commando và một trung đoàn xe bọc thép do tướng Leclerc chỉ huy đến Sài G̣n. Vài ngày sau, Chính phủ Anh cho rằng người Pháp phải nắm lại quyền lực ngày càng tốt: ở Luân Đôn và NewDelli người ta vừa được tin lực lượng bé nhỏ của tướng Gracey không thể làm chủ được t́nh thế. Vấn đề là sức bật của người Pháp, c̣n người Anh càng rút lui sớm càng tốt. Gracey chuyển tiếp tin tức đến tướng Leclerc. Và đầu tháng mười một, đô đốc d’Argenlieu đến Sài G̣n với nhiệm vụ cao ủy Đông Dương.

    Vài tháng sau, tháng 2 năm 1946, trung đoàn bộ binh lê dương ngoại quốc số 2 (2.REI) đổ bộ vào Sài G̣n và đưa ngay vào Trung kỳ. Và trong 3 tháng hành quân khốc liệt chống bộ đội Việt Minh, trung đoàn mất hai trăm ba mươi người chết hoặc bị thương. Đến tháng tư, những đơn vị c̣n lại là trung đoàn bộ binh lê dương ngoại quốc số 5 (5.REI)-trung đoàn thoát khỏi tay quân Nhật khi chúng bắt giam người Pháp-từ Trung Quốc trở về được thành lập lại ở Sài G̣n. Cùng tháng ấy, những sĩ quan Anh cuối cùng cuốn gói: họ được thay thế bằng quân Pháp mang vũ khí và quần áo Anh quốc lượn khắp Sài G̣n với những đội h́nh mà người ta gọi là: “Do Chính phủ Hoa Kỳ cung cấp”.

    Tướng Philippe Marie Leclerc vốn là một nhà quư phái, ông đă đổi tên (trước là Jean de Hantecloque) năm 1940 để đến gặp De Gaulle ở Luân Đôn tránh cho gia đ́nh ở Pháp khỏi bị bọn quốc xă trả thù. Ông đă xây dựng được một đội quân (một quân đoàn) bổ sung vào lực lượng quân Pháp tự do ở Tachd, là vị chỉ huy đặc biệt trên cánh đồng Tunisie và dứng đầu sư đoàn xe bọc thép số 2 vào Paris tháng 8 năm 1944. Thieny d’Argenlieu đă phục vụ trong hải quân Pháp trong hai cuộc chiến tranh thế giới. Thời gian ở giữa hai cuộc chiến tranh đó, ông ở trong một tu viện thuộc ḍng Carmel. Giáp gọi ông là “Linh mục hoàn tục”. Đó là một con người khô khan, thiếu nhiệt t́nh, bè phái, với con mắt nh́n cuộc đời cứng nhắc. Một trong những ủy viên hội đồng của ông ta đă mỉa mai nói đó là một trong những người tinh anh xuất sắc nhất của thế kỷ XX. Việc nhanh chóng bổ nhiệm ông ta tỏ ra là một sai lầm đau xót.

    Leclerc và d’Argenlieu bắt đầu tăng cường các đội quân Pháp và vội vàng gọi các viên chức ở các thuộc địa khác ở Viễn Đông đến, họ địnhh lập lại trật tự ở Nam kỳ trước khi xảy ra chiến tranh. Trong bốn tháng tiếp quân đội Pháp giao chiến nhiều trận với quân khởi nghĩa, ổn định được Sài G̣n và một số vùng châu thổ sông Mêkông. Tháng 2 năm 1946 d’Argenlieu tuyên bố rằng miền Nam đă được dẹp yên. Người Việt Nam lănh đạo quân khởi nghĩa ở miền Nam Trần Văn Giàu dẫn vài ngh́n người đi gặp các lực lượng của Giáp ở phía Bắc, để lại một số cán bộ vững vàng để thành lập trung tâm của cuộc nổi dậy sắp tới trong các làng mạc.

    Cuộc hành quân về phương Bắc không phải dễ dàng. Việc di chuyển ở Việt Nam lúc bấy giờ cũng rất giống như ngày nay. Đi từ Hà Nội lên Điện Biên Phủ cách nhau hơn năm trăm kilômét ngày nay phải đi mất hai ngày rưỡi, phải ṿng qua những đoạn đường cái sụt hỏng, phải khai thông một số lối đi giữa những đàn trâu ḅ ́ ạch do trẻ em dẫn dắt, phải ṿng vèo qua các phụ nữ hốc hác, chân trần gồng gánh với chiếc đ̣n gánh trên vai vừa đi vừa bóp c̣i vược các xe đạp, xe ḅ kéo và xe tải của thời đại cũ. Năm 1945 dẫn hàng ngh́n binh sĩ từ Nam ra Bắc cách nhau tám trăm kilômét phải mất nhiều tuần lễ. Cuối cùng đoàn người của ông Giáp cũng nhập vào quân đội lớn mạnh của Giáp.

    Đến tháng mười, Giáp cùng với nhà ngoại giao Pháp Jean Sainteny từ Pháp qua làm nhiệm vụ cao ủy Bắc kỳ đến Sài G̣n để gặp Leclerc. Hai con người không hiểu nhau, suốt buổi nói chuyện, ông Leclerc luôn tỏ thái độ coi thường, nh́n lơ láo và không tỏ chút chân thành mà lại hoàn toàn bất lịch sự khi ông ta phải đàm phán với một con người nhỏ nhắn buồn cười mặc một chiếc quần rộng thùnh th́nh, đầu đội mũ quá khổ. Đó là một cách đánh giá sai lầm thô lỗ đi đến hậu quả nặng nề: Leclerc không thể ở lại Đông Dương lâu nữa, người Pháp vừa chuốc lấy thất bại khi chống đối con người thứ ba của Chính phủ Hồ Chí Minh.

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    TƯỚNG GIÁP QUA 2 CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
    Tác giả: Peter Macdonald
    Người dịch: Nguyễn Viết Quyền-Nguyễn Đ́nh Cao
    Dịch theo bản tiếng Pháp của Jean Clem và Frank Strachitz
    Chương 6: Cuộc chiến tranh bắt đầu



    Không phải một cuộc chiến tranh chống một đội quân, mà đó là một cuộc chiến tranh chống toàn bộ một dân tộc.
    Tướng Philippe Leclerc



    Thực tế Việt Nam hiện nay vẫn bị chia cắt làm hai. Điều đó không phải được quyết định v́ những giải pháp tạm thời trong khi chờ đợi việc đàm phán cho tương lai của Việt Nam như hội nghị Potsdam đă quyết định, mà v́ việc ra đi vội vàng của quân Anh, trước khi đàm phán bắt đầu khiến cho quân Pháp quay trở về Nam kỳ, và kiếm được các cương vị cũ của họ ở đó. Không phụ thuộc những ǵ xảy ra ở miền Bắc, miền Nam vẫn bị chia cắt trong gần ba mươi năm.

    Ở miền Bắc, Chính phủ Hồ Chí Minh đang suy nghĩ thực thi quyền lực và nhân dân tỏ ra ủng hộ Cụ, c̣n những người Pháp th́ có ư kiến khác. Dưới con mắy họ, quyết định của hội nghị Potsdam dựa trên giả thiết có một sự thỏa thuận chung về tương lai của Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc: họ không hiểu nổi một dân tộc thuộc địa lại có thể chiếm lấy quyền lực để làm chuyện đă rồi như dân tộc Việt Nam. Ở Paris chính phủ nổi giận về hoàn cảnh của học lúc bấy giờ-quyết tấm khôi phục cương vị trước chiến tranh của họ ở Việt Nam bị Cụ Hồ Chí Minh chống lại c̣n ở Hà Nội các viên chức người Pháp vừa được giải phóng khỏi trại giam cảm thấy nhục nhă trước cảnh tưởng người Việt Nam thực hiện nhiệm vụ hành chính một cách vụng về, v́ họ chẳng có kinh nghiệm mà cũng chẳng biết yêu cầu của công việc. Người Việt Nam rất nghi ngờ ư định của người Pháp, nhưng không dùng vũ lực đuổi chúng đi được, họ bí mật tăng cường quân đội bằng cách đưa giấu vũ khí qua các cảng hoặc chế tạo lấy trong các công binh xưởng.

    Tháng 11 năm 1945, hy vọng người Pháp công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh là chính quyền hợp pháp ở Bắc kỳ và Trung kỳ, cũng như muốn dẹp bớt bọn nổi loạn-nhất là bọn quốc dân đảng được quân Tưởng yểm trợ, Cụ tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương. Cụ khẳng định đất nước Cụ có đảng của Cụ. Cụ xóa bỏ thuế muối, thuế thân đáng ghét, cấm sử dụng thuốc phiện, quốc gia độc quyền sản xuất rượu. Cụ lôi kéo cả giới giáo sĩ đạo thiên chúa và để chứng tỏ dân chủ có thể thực hiện ở Việt Nam. Cụ kêu gọi tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc.

    Ngày 6 tháng Giêng năm 1946 gần 90 phần trăm cử tri đi bỏ phiếu-các ứng cử viên Việt Minh được số phiếu tuyệt đối. Ông Giáp về tỉnh nhà để tham gia ứng cử và bầu cử, ông đă trúng cử với tỷ lệ 90% số phiếu. Cụ Hồ đă bảo đảm cho Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam cách mạng đồng minh hội 67 ghế ở Quốc hội, cuối cùng họ chỉ đạt được 48. Và muốn chứng minh ḷng chân thành của ḿnh, Cụ chỉ giữ lại 3 Bộ trưởng của Đảng Cộng sản Sài G̣n cũ trong số 12 bộ trưởng của Chính phủ của Cụ. Ông Giáp bị đánh giá quá cứng nhắc và không mềm dẻo với bọn quân Tưởng nên không c̣n giữ ghế Bộ trưởng nội vụ và được cử làm chủ tịch hội đồng quân sự.

    Không phải là một chức vụ tầm thường. Tháng 3 năm 1945, Việt Minh có khoảng 1.000 người có vũ khí đă kiểm soát được tám trăm ngh́n dân trong vùng tự do và một phần ba Bắc kỳ với ba chục ngh́n kilômét vuông đất đai. Tháng 6, Giáp đă thành lập được đơn vị tiểu đoàn đầu tiên; tháng 8 Giáp chỉ huy năm ngh́n binh sĩ vào Hà Nội, vào cuối 1945 hơn năm chục ngh́n người khác đă được tuyển chọn.

    Nhiệm vụ đầu tiên của ông Giáp là trang bị vũ khí cho các binh sĩ mới. Ông đă dùng tiền quyên góp trong “tuần lễ vàng” do Cụ Hồ đề xướng khi Cụ về Hà Nội để mua ba chục ngh́n súng trường và hai ngh́n súng máy của Hồng quân Trung Quốc. (Cụ Hồ yêu cầu đồng bào đóng góp tiền bạc và của cải cho Chính phủ, v́ ngân khố đang trống không. Phần lớn tiền quyên góp được-khoảng hai mươi triệu đồng bạc-phải cung cấp cho tướng Lư Hán để quân Tưởng không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam và để cho Cụ Hồ được rảnh tay hoạt động). Ông Giáp đă phái Nguyễn Văn Cam và Trần Văn Giàu-sau này là lănh đạo miền Nam-đến Hồng Kông và Bang Kok để đổi vàng, thuốc phiện và gạo lấy vũ khí đưa bí mật qua các cảng nhỏ ở miền Nam.

    Ông Giáp c̣n tổ chức sản xuất vũ khí trong những “nhà máy” nguyên thủy và các xưởng rèn. Ở Thái Nguyên, một ngh́n năm trăm chiến sĩ Việt Nam cùng làm việc với hàng trăm tù binh chiến tranh Nhật Bản thuộc số vài ngh́n lính đào ngũ của quân đội hoàng gia đă đi theo Việt Minh: nỗi nhục đầu hàng là tội lỗi không thể tha thứ trong đạo luật của Vơ sĩ đạo của các chiến binh Nhật Bản. Có lẽ v́ vậy họ không muốn trở về đất nước họ. Ở Thái Nguyên mỗi ngày có thể sản xuất được 50 súng trường và 10 súng ngắn, mỗi tháng sản xuất được 3-4 súng máy phỏng theo kiểu các vũ khí hiện có trong kho.

    Nhà máy thứ hai ở Quảng Ngăi. Ba trăm đàn ông và đàn bà làm việc ở đó dưới sự điều hành của một sĩ quan tham mưu Nhật Bản đào ngũ tên là Saito. C̣n một xưởng ở Phú Thọ và một ở Tháp Mười, năm trăm công nhân làm việc với những người Nhật Bản và có cả vài người Đức thuộc quân lê dương ngoại quốc đào ngũ. Có một dăy núi ở Trung kỳ và miền Nam. Một vài công nhân Trung Quốc sản xuất vũ khí ở Trà Lĩnh trên biên giới Việt Trung. Ngoài ra c̣n có nhiều xưởng thợ thủ công của làng xă cũng sản xuất các phụ tùng của vũ khí mà không thể thực hiện sản xuất hàng loạt được. Giáp đă dùng mọi nơi lớn hoặc nhỏ thuận lợi để sản xuất vũ khí. Đó là một dẫn chứng về tài năng kỳ lạ của ông Giáp trong việc tổ chức, sử dụng và tuyển chọn những người dưới quyền.

    Ở các tỉnh, các cán bộ tuyển chọn thanh niên để thành lập bộ đội địa phương. Bộ đội địa phương cũng tổ chức thành đơn vị thông thường nhưng không phải trả lương? (Cho đến năm 1950, dân thường không có ai phải tái ngũ, sau đó th́ sĩ quan phải tái ngũ). Mặc dù Cụ Hồ đang hết sức cố gắng để thành lập một Chính phủ được người Pháp công nhận dù cho tương lai sắp tới sẽ như thế nào ông Giáp cũng muốn: “động viên, tổ chức và trang bị cho nhân dân để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh nhân dân”. Dù sao ngày ngày 26 tháng 3 Giáp cũng đă đọc một bài diễn văn ca ngợi quân đội Pháp: người ta có thể nghĩ rằng khi có điều kiện ông Giáp có thể trở thành nhà ngoại giao.

    Đầu năm 1946 đại diện của Chính phủ Pháp đồng ư với đề nghị của Cụ Hồ, chấp nhận từ bỏ quyền cai trị Đông Dương trước chiến tranh để đổi lấy việc quân đội Tưởng rút khỏi Bắc kỳ và Trung kỳ. Quân Tưởng ra đi dọn đường cho quân Pháp tự do vào miền Bắc. Cùng lúc đó ngày 6 tháng 3, Sainteny thỏa thuận với Cụ Hồ Chí Minh kư kết một hiệp định cho phép hai mươi lăm ngh́n quân Pháp được đóng ở miền Bắc chỉ trong 5 năm. Đổi lại Việt Nam trở thành một quốc gia tự do-một bộ phận của “Liên bang Đông Dương” trong khối liên hiệp Pháp-có chính phủ riêng, tài chính và quân đội riêng. Chỉ sau hai tuần lễ, để tăng tăng cường sự có mặt nhanh chóng của quân Pháp ở Đông Dương, một nửa lữ đoàn quân lê dương số 13 nổi tiếng vào miền Nam, ngay sau đó lữ đoàn lê dương số 3 và những quân tăng viện từ Pháp, châu Phi vào miền Bắc.

    Quân lê dương đến Đông Dương từ 1883, họ rất bất măn đối với người Việt Nam và rất kiêu ngạo khi làm việc với người Việt Nam. Chúng tung ra một chương tŕnh can dự và phát triển. Bọn lê dương cũng đối xử rất nghiêm khắc đối với lính lê dương lọt vào tay Việt Minh: thiến, mổ bụng, đóng đinh, đó là những từ thông thường trong lịch sử của quân đội lê dương.

    Chiến lược của người chỉ huy quân sự ở Việt Nam tướng Salan là giữ các thành phố bằng đội quân đồn trú và lấn chiếm vùng nông thôn bằng các đội tuần tiễu. Quân đội Pháp càng tiến sâu vào vùng nông thôn càng đ̣i hỏi quân số phải tăng lên từng ngày, tốt nhất là tuyển mộ người Việt Nam không được hưởng toàn bộ chế độ của lê dương ngoại quốc và phải đội cái mũ mềm trắng thay cho cái kêpi trắng truyền thống; họ được phân tán trong các đại đội khác nhau của các đơn vị Bắc Phi để chứng tỏ ḷng trung thành của họ. Quân lê dương c̣n thành lập những lính dù Việt Nam để sử dụng linh hoạt trong chiến thuật. Tháng 11, từ Bắc Phi, tiểu đoàn dù lê dương nước ngoài mới nhất (1BEP) đến, tiếp theo tháng 2 năm 1947 là tiểu đoàn thứ hai.

    Đối với Hồ Chí Minh, hiệp định mồng 6 tháng 3 là một bước tiến về phía trước. Cụ đă giải thích cho bọn ngoại quốc gia theo Trung Quốc và cho người Pháp rằng người Trung Quốc đă vào Việt Nam và ở lại một ngh́n năm, không nên tạo cho họ một cơ hội mới nữa-nhưng sự hiện diện của quân đội Pháp cản trở nghiêm trọng nền độ clập sau này. Nhân dân đă phản ứng mạnh mẽ khi họ biết tin này. Ngày hôm sau, trước nhà hát, nơi hội họp truyền thống của thành phố, Cụ Hồ đă khẳng định tính đúng đắn của hiệp định trước vài trăm ngh́n người. “Tôi xin thề tôi không lừa dối nhân dân, nhưng cách tốt nhất để tránh khỏi chiến tranh là đàm phán”.

    Ông Giáp nghĩ rằng chỉ có dùng vũ lực mới có thể giành được độc lập, nhưng vẫn ủng hộ Cụ Hồ và đến lượt ḿnh phải làm cho quần chúng bớt căng thẳng. Trong một bài diễn văn cảm động, ông khẳng định hiệp định cũng có mục đích như lúc Lênin yêu cầu quân Đức ngừn tiến công Nga trong chiến tranh thế giới thứ nhất; do đó mà những người cộng sản củng cố được quyền lực; ngày nay Việt Minh cũng củng cố được vị trí của ḿnh nếu quân Pháp định ở lại đây lâu dài. Hiện nay chúng ta chưa sẵn sàng, phải có thời gian để chuẩn bị quân đội kháng chiến mới thắng lợi. Cuối cùng quần chúng giải tán mà chưa hẳn đă được thuyết phục hoàn toàn.

    Thật ra quần chúng cũng có lư của họ. Sau khi quân Tưởng và quân Anh đă rút lui, Việt Nam trở thành vấn đề nội bộ của nước Pháp không liên quan đến quốc tế. Người Pháp tự do rảnh tay hành động, kể cả khi người Mỹ đang chú ư theo dơi các sự kiện xảy ra ở đây. V́ từ khi Liên Xô tăng cường ảnh hưởng ở phía Đông châu Âu, người Mỹ rất sợ sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản thế giới.

    Ngày 18 tháng 4, ông Giáp dẫn đầu phái đoàn Việt Minh đến hội nghị Đà Lạt để bàn định những điều chi tiết cụ thể cho hiệp định mồng 6 tháng 3. Đà Lạt là vùng rừng núi có nhiều biệt thự rất thích hợp cho người Pháp nghỉ mát trong những tháng hè oi bức. Cuộc đàm phán không đi đến thỏa thuận, v́ trái ngược với ư kiến của người Việt Nam về hiệp định Sơ bộ, người Pháp tuyên bố nhiều hạn chế nghiêm ngặt về quyền kiểm soát của người Việt Nam. H́nh như người Việt Nam chẳng c̣n có quyền lực ǵ nữa ví dụ luật pháp, kế hoạch kinh tế và giao thông. V́ sự phản bội của người Pháp, Giáp về Hà Nội hai bàn tay trắng. Đến tháng 5, quân Tưởng bắt đầu rút về nước, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng.

    Theo một sĩ quan Pháp tham dự hội nghị Đà Lạt, ông Giáp bỏ mặc chuyện đàm phán. Người hơi nghiêng, miệng mỉm cười, ông kể cho chúng tôi nghe về thời trai trẻ của ông, vợ ông bị bắt và giết thế nào. Cuộc đời ông tàn tạ đến thế nào. Và ông tiếp tục: nhưng ông sẵn sàng quên hết mọi chuyện, đưa thẳng bàn tay ra, nuốt hết đau thương để dành hận thù cho những kẻ gây nên tội ác và không thể thống nhất với nước Pháp.

    Ngày 31 tháng 5, Cụ Hồ Chí Minh cùng Phạm Văn Đồng đáp tàu đi Hải Pḥng, hy vọng một cuộc đàm phán ở Pháp sẽ gặp được thái độ hợp lư hơn. Ngay ngày hôm sau, d’Argenlieu tuyên bố thành lập nước “Cộng ḥa Nam kỳ tự trị”, như vậy quyền lực của miền Nam sẽ ở trong tay cao ủy Pháp. D’Argenlieu chắc rằng chia đôi được đất nước th́ có thể áp đặt quyền đô hộ của người Pháp trên toàn cơi Việt Nam.

    Ở Nam kỳ, người Pháp tiếp tục tăng cường lực lượng quân sự và tuyển mộ người Việt Nam để chống lại phong trào nổi dậy liên tục của nhân dân và đối phó với việc quân khởi nghĩa thanh chừng hơn ba trăm xă trưởng. Hiện nay quân Pháp đă có ba mươi ngh́n lính Pháp và hơn sáu ngh́n lính mới bản xứ. Một số lính mới này đă được phục vụ trong quân lực Pháp tự do ở châu Âu.

    Ngày 12 tháng 9 ở Fontainebloau đă có một số thỏa hiệp nhượng bộ đối với Việt Nam, nhưng là những điều vô nghĩa, về thực chất không đạt được tiến bộ nào đáng kể. Ngày 13 phần lớn phái đoàn Cụ Hồ Chí Minh lên tàu thủy về Hải Pḥng; nhưng cụ không muốn trở về tay không.

    Ngày 14, Cụ gặp Thủ tuớng Chính phủ lâm thời Georges Bidault và yêu cầu ông ta có điều ǵ đó để tŕnh bày với nhân dân Việt Nam. Ông Bidault đă hứa sẽ tổ chức trưng cầu dân ư ở Nam kỳ và tiếp tục những cuộc đàm phán năm sau.



    Bí thư Tổng Quân ủy Vơ Nguyên Giáp tuyên đọc Nhật lệnh của Quân ủy hội ngày 2/9/1946

    Trở lại Hà Nội, ông Giáp không được nghỉ, ông đă đọc một bài diễn văn nhân dịp kỷ niệm một năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa trước quần chúng và một số đại biểu Pháp. Bên ngoài t́nh thế xem có vẻ b́nh thường, yên tĩnh, nhưng bên trong có rất nhiều chuyện nổi cộm.

    Ngày 10 tháng 10 năm 1946, D’Argenlieu cho rằng cắt đứt con đường cung cấp là có thể chặn đứng việc vận chuyển vũ khí bí mật vào. Y ra lệnh cho cao ủy Pháp ở Bắc kỳ giành lấy quyền kiểm soát hải quan ở Hải Pḥng. Ngày 15 khi người Pháp công bố quyết định này mà không giải thích, lập tức bị quần chúng phản ứng. Người Việt Nam phản đối việc người Pháp cướp quyền kiểm soát hải quan, nhưng người Pháp lại hành động cứ như chính phủ của họ lầm lỡ bỏ qua. Ở Hải Pḥng, nhân dân xuống đường c̣n ở Hà Nội Giáp rất tức giận.

    Ngày 20, một thuyền chở hàng cấm bị quân Pháp tuần tiễu bắt giữ. Trên bờ biển chiến sĩ Việt Minh bắn vào lính thủy Pháp. Quân Pháp bắn trả, trên hai mặt trận, quân lính vào chiến tranh chiến đấu và bắn vào nhau. Ngày 23 D’Argenlieu cho người chỉ huy hải quân Pháp sử dụng những biện pháp hữu hiệu để chấp hành mệnh lệnh của ông. Do vậy, tuần dương hạm Suffren sử dụng pháo binh hải quân và không quân bắn phá Hải Pḥng. Phần lớn bom đạn rơi vào khu phố Trung Quốc. Có khoảng 6 ngh́n người chết và mười bốn ngh́n người bị thương. Một lần nữa phía Việt Nam không ai biết rơ số người thương vong.

    T́nh trạng ngày càng căng thẳng. Cụ Hồ Chí Minh đang trên con đường về Việt Nam. Ông Giáp là người thay thế chủ tịch, muốn can thiệp để giảm bớt căng thẳng nhưng không có hiệu quả. Tháng 11, Cụ Hồ về nước. Cả hai mặt trận đă sẵn sàng vào cuộc chiến, tiếng súng đă lan đến Hà Nội.

    Ông Giáp kể:

    “Quân Pháp bắt đầu đẩy mạnh những hoạt động khiêu khích tại Hà Nội. Bọn lính lê dương mũ đỏ kéo đi hàng bầy trên phố Tràng Tiền. Chúng xông vào các hiệu buôn, cướp hàng hóa. Chúng xé báo, xé ảnh trưng bày tại nhà thông tin. Có lần chúng giật cả một lá cờ Việt Nam treo trên đường. Lính tuần cảnh Pháp phóng mô tô bừa băi giữa các phố đông. Chúng cố t́nh gây ra tai nạn và khiêu khích công an giao cảnh của ta… Có tên lính Pháp c̣n đứng trên nhà gác, chĩa súng xuống, bắn vào tàu điện đang chạy qua. Ṿng xích xe bọc thép của Pháp ngày đêm nghiến mặt đường.

    Ngày 7 tháng 12 quân Pháp ở Hải Pḥng tiến hành một cuộc tiến công mới… quân ta chặn đánh kịch liệt. Cuộc tấn công thất bại.

    Ngày 9 Pháp đổ bộ trái phép 800 lính lê dương vào Đà Nẵng một tuần dương hạm đến đó ngày 13. Ngày 14 Pháp đưa thêm 400 lính lê dương vào Hải Pḥng…

    Trên cả nước, đă dấy lên một phong trào phản đối bọn phản động Pháp. Tổng bộ Việt Minh thay mặt chín triệu hội viên, gửi thư ngỏ tới Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, yêu cầu Chính phủ kiên quyết bảo vệ chủ quyền, và tuyên bố sẵn sàng đem xương máu để giữ ǵn từng tấc đất của ông cha. Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, giáo viên… đều ra hiệu triệu kêu gọi các hội viên hăng hái góp phần cùng toàn dân phá tan âm mưu xâm lược của quân đội Pháp.

    Đảng ta giữ vững quyền lănh đạo tuyệt đối các lực lượng vũ trang và thực hiện sự lănh đạo trực tiếp đối với quân đội… Hàng ngũ dân quân du kích lúc này đă phát triển khá đông, tới gần một triệu người. Công việc xây dựng làng kháng chiến được tiến hành khẩn trương. Bộ đội và dân quân du kích luyện tập ngày đêm, ra sức nâng cao tŕnh độ chiến đấu, sẵn sàng ứng phó với t́nh thế chiến tranh nổ ra.

    Nhiều nhà máy, xưởng cơ khí của thực dân Pháp trước đây được chuyển thành xưởng quân giới. Với tinh thần của những người chủ mới, anh em công nhân cùng với những cán bộ kỹ thuật phần lớn xuất thân từ các trường kỹ nghệ thực hành của Pháp hăng say làm việc sửa chữa các loại súng và pháp hư hỏng. Chúng ta cũng bắt đầu sản xuất một số vũ khí cần thiết cho bộ binh, đạn, lựu đạn, ḿn, bom ba càng…

    Một hôm, sau cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, khi mọi người đă ra về, Bác hỏi tôi:
    -Nếu địch mở rộng chiến tranh trên miền Bắc, Hà Nội có thể giữ được bao lâu?
    Tôi thưa với Bác:
    -Có thể giữ được một tháng.
    Bác lại hỏi:
    -Các thành phố khác th́ sao?
    -Các thành phố khác th́ ít khó khăn hơn.
    -C̣n vùng nông thôn?
    -Vùng nông thôn nhất định ta giữ được.
    Người suy nghĩ giây láy rồi nói:
    -Ta lại trở về Việt Bắc.

    Một kế hoạch chiến đấu bảo vệ Hà Nội đă được vạch ra khá cụ thể… Hằng ngày, đồng bào kéo đến ủy ban khu phố đông nghịt, xin ghi tên vào các đội bảo vệ, cứuy thương, hỏa lực (nấu ăn). Phụ nữ cắt bỏ những chiếc áo dài tha thướt, cắt tóc ngắn, mặc quân phục vác súng, đeo gươm tham gia các cuộc tuần tra canh gác. Những người công nhân chuẩn bị khi cần thiết đánh đổ các tàu điện lên đường phố cản trở hoạt động chuyển quân của quân Pháp. Họ đào lỗ trên các gốc cây dọc đường để đặt ḿn và khi cần cho đổ cây cản trở sự tiến quân của quân Pháp.

    Từ trung tuần tháng 12, sự khiêu khích của quân Pháp ở Hà Nội chuyển sang một bước mới. Ngày 15 tháng 12, quân Pháp nổ súng ở nhiều nơi trong thành phố. Chúng bắn vào các chiến sĩ công an quận tám tại vườn hoa Hàng Đậu. Chúng ném lựu đạn làm bị thương hai chiến sĩ vệ quốc ở phố Hàm Long… sáng ngày 17 máy bay thám thính của Pháp lượn suốt buổi trên bầu trời Hà Nội. Mười giờ sáng, lần đầu, quân Pháp cho xe bọc thép tới phá những công sự của ta tại phố Ḷ Đúc. Bọn lính lê dương bắn nhiều phát súng cối vào phố Hàng Bún, có nhiều xe tăng và xe bọc thép đi kèm, kéo ra nhiều khu phố gần khu thành. Cùng ngày Bác Hồ đă nhận định… “Chúng ta đă nhân nhượng, nhưng càng nhân nhượng th́ kẻ địch càng lấn tới. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta sẽ trường kỳ và gian khổ song nhất định sẽ thắng lợi”.

    Chiều ngày 19, tôi đi thăm bộ đội. Dọc phố nhiều nhà cửa đóng kín. Một số cụ già và em nhỏ tiếp tục rời Hà Nội bằng xe tay. Trên xe những gói quần áo, chăn màn chất đầy trước, sau… từ trong ngơ những chiếc xe ḅ chở đất đang tiếp tục được đẩy ra. Thanh niên trai, gái vừa đẩy xe vừa vui vẻ la hét mọi người tránh đường. Thành đất đắp cao. Các chiến sĩ tự vệ đóng những cục gỗ và tiếp tục đắp đất vào chiến lũy. Một tổ úy lạo đang hát để động viên họ. Lớp người trẻ tuổi này đang khẩn trương chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu quyết liệt với kẻ thù, c̣n rất xa lạ với chiến tranh. Nhưng qua câu chuyện với anh em, tôi đă thấy mọi người đang đón nó với nhiều lạc quan tin tưởng. Họ chưa biết điều ǵ xảy ra với họ ngày mai. Nhưng nh́n vẻ mặt của họ, ta biết rồi đây họ sẽ vượt qua mọi thử thách.

    Từ đêm 19 tháng 12 chiến tranh đă lan rộng ra cả nước ta. Huế, Đà Nẵng, Nam Định… cũng đă vùng dậy chiến đấu cứu nước diệt thù.

    Ngày 20 thán chạp, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đài tiếng nói Việt Nam truyền đi từ một địa điểm cách Hà Nội không xa. “…Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi: Đồng bào, chúng ta phải đứng lên!”.

    Mùa đông năm ấy, 56 tuổi, với cây gậy trúc và đôi dép cao su, Người lên đường đi kháng chiến. “Cố rán sức qua khỏi mùa đông lănh lẽo, th́ ta sẽ gặp mùa xuân”, Người nói với tôi như vậy. Đó là một con người yêu nước vĩ đại. T́nh thương yêu đối với đất nước, sự ân cần sâu sắc đối với nhân dân của Người thật không có biên giới. Người đă hy sinh suốt đời cho sự sống của dân tộc và sự giải phóng của nhân dân…

    Đọc những ḍng này và tính đến sự tôn thờ chủ nghĩa cộng sản gắn liền với nhân cách của con người th́ có thể giải thích được tại sao những người khởi nghĩa lại chiến đấu cho nền độc lập của họ nhiệt t́nh đến như vậy.

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    TƯỚNG GIÁP QUA 2 CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
    Tác giả: Peter Macdonald
    Người dịch: Nguyễn Viết Quyền-Nguyễn Đ́nh Cao
    Dịch theo bản tiếng Pháp của Jean Clem và Frank Strachitz
    Chương 7: Những trận chiến đấu đầu tiên



    Yếu tố quyết định thắng lợi trên chiến trường là làm cho quần chúng cách mạng sẵn sàng xông lên phía trước, sẵn sàng đổ máu, sẵn sàng hy sinh tất cả khi cần thiết, và sẵn sàng chiến đấu v́ quyền lợi cơ bản của giai cấp và sự sống c̣n của đất nước.
    Vơ Nguyên Giáp



    Việt Minh rời Hà Nội ngày 27 tháng 11 năm 1946 và trở lại Việt Bắc hay chính xác hơn vùng Bắc Cạn cách 130 km về phía Bắc. Ở đó họ tạo lập một vùng tự do cho biên giới không rơ ràng cho nên quân Pháp không thể đánh vào vùng biên giới Trung Quốc, và quá rộng lớn khiến quân Pháp không thể chia cắt được. Ngày 19 tháng 12 Việt Minh tuyên chiến với nước Pháp.

    Ông Giáp có nhiều việc phải làm, ông lao vào công tác tràn ngập ư tưởng, nghị lực và nhiệt t́nh. Trước hết ông phải tuyển mộ thêm nhiều binh sĩ, trang bị và huấn luyện cho họ.

    Việc tuyển mộ không thành vấn đề. Ở Việt Bắc, nhiệt t́nh cách mạng đă được tuyên truyền giáo dục cách đây hai năm vẫn c̣n nóng bỏng; một số cán bộ ở nguyên vị trí, họ tiếp tục hoạt động; chẳng bao lâu số người tuyển mộ được vượt quá con số vũ khí hiện có. Tất nhiên vùng căn cứ là vùng rừng núi, vùng của người miền núi và việc tuyển mộ trước hết trong các dân tộc thiểu số. Những người biết tiếng dân tộc được cử đến những vùng dân tộc đó để tổ chức vận động quần chúng, có thể cưới một cô vợ người dân tộc, để tuyển mộ tân binh ở trong làng và những vùng lân cận.

    C̣n vũ khí th́ Việt Minh có thể tự sản xuất được một phần ba trong số 83 ngh́n vũ khí đủ cho họ chiến đấu đến năm 1949. Một phần ba lấy của quân Nhật đầu hàng hoặc của OSS cung cấp và một phần ba c̣n lại mang được ở Thái Lan, Hồng Kông hoặc của quân Anh: sáu ngh́n súng trường, bốn trăm súng máy, năm cao xạ nhỏ, hai trăm ḿn và một ngh́n lựu đạn. Ông Giáp có thể bổ sung vào kho vũ khí bằng các trận đánh thắng, thu được vũ khí từ tay quân Pháp. Năm 1946, ông cũng đi mua được mười hai ngh́n đồng tiền phương tiện thông tin của Hồng quân Trung Quốc: như vậy rơ ràng ông đă có trong tay phương tiện, tuy c̣n hạn chế để kiểm soát và chỉ huy lực lượng vũ trang.

    Về vấn đề huấn luyện, năm 1946 Việt Minh đă thành lập những trường sĩ quan và hạ sĩ quan ở Tổng, trên một cơ sở cũ của quân Pháp phía Tây Bắc Hà Nội, và ở Quảng Ngăi miền Trung Việt Nam. Cả hai cơ sở đều có giáo viên Nhật Bản người của tổ chức đoàn kết và ủng hộ nền độc lập của Việt Nam do trung tá Mukaiyaman thành lập. Cuối năm 1946 một ngh́n năm trăm hạ sĩ quan ra trường, nhưng chỉ có vài trăm sĩ quan trong khi yêu cầu đến hàng nghĩ. Thật lạ lùng, theo tư tưởng chỉ đạo mác xít của Đảng, các sĩ quan không phải thi tốt nghiệp mà họ được lựa chọn trong số học sinh giỏi và tích cực nhất, động cơ tích cực luôn luôn được thuận lợi hơn khi đánh giá về năng lực hành động.

    Sau khi lùi về chiến khu, nhiều sĩ quan và hạ sĩ quan khác được thành lập theo kiểu trường huấn luyện đầu tiên ở Pác Bó với những lán lợp lá cọ và sạp ngủ bằng tre thêm một cái bếp và một văn pḥng. Các sĩ quan và hạ sĩ quan ra trường đều đến trung tâm thực tập rồi phân phối về đơn vị. Số đơn vị quân đội ngày càng tăng lên không ngừng. Mỗi khi việc sản xuất vũ khí đă đáp ứng yêu cầu tuyển mộ tân binh, một số người Nhật Bản rời xưởng máy của họ và theo bộ đội Việt Minh đi chiến đấu, thường phụ trách các loại vũ khí nặng: súng cối, súng máy và vài cỗ pháo binh hạng nặng do quân đội Việt Nam lấy được của quân Nhật đầu hàng.

    Tất nhiên trong các nhà trường, đều có giảng dạy về những lư luận cơ bản của chủ nghĩa cộng sản và đường lối lănh đạo của Đảng cùng với sử dụng vũ khí và luyện tập chiến thuật. Nhiều khẩu hiệu dễ hiểu và dễ nhớ có thể làm cho những trí óc chậm hiểu nhất vẫn có thể nắm được những nội dung cơ bản.

    Vơ Nguyên Giáp nhà nghiên cứu và vận dụng lư luận chủ nghĩa cộng sản vào điều kiện Việt Nam đă viết:

    “Cuộc chiến tranh giải phóng là một cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt trong đó chúng ta phải tự lực cánh sinh là chính, v́ chúng ta rất mạnh về chính trị nhưng yếu về vật chất kỹ thuật, c̣n kẻ địch rất yếi về chính trị nhưng mạnh hơn về vật chất kỹ thuật.

    Chiến tranh du kích là cách đánh của một cuộc chiến tranh cách mạng dựa trên chủ nghĩa anh hùng để chiến thắng vũ khí hiện địa. Đó là cách nhân dân của một đất nước yếu và trang bị kém có thể đứng lên chống lại một quân đội tấn công được trang bị mạnh hơn với kỹ thuật hiện đại hơn.

    Trong cuộc chiến tranh cách mạng th́ chiến thuật đúng đắn là tiến hành chiến tranh du kích, rồi chuyển từ chiến tranh du kích sang chiến tranh thông thường và kết hợp chặt hcẽ hai loại chiến tranh này; chuyển từ chiến tranh du kích sang chiến tranh cơ động rồi chiến tranh vây hăm”.

    Tích tụ hàng ngh́n chiến thắng nhỏ để làm một thắng lợi lớn… Trong thế giới cộng sản, mọi hành động thực tiễn đều cần có lư luận và cần có lư luận trong mọi hành động thực tiễn. Cách mạng và phục hưng là đề tài của phần lớn lư luận và thực tiễn: làm sao đánh đổ trật tự cũ và thiết lập một trật tự mới ưu việt hơn. Nhưng ông Giáp không tự bằng ḷng với việc lặp lại các ư tưởng, ông trau dồi thêm tư duy của ḿnh, và sáng tạo những tư tưởng mới. Ông đem những đóng góp của ḿnh vào nền văn học đang phát triển mà đă có một số nội dung khó tiêu hóa; tên ông có trong danh sách những danh nhân văn học của ư thức hệ cộng sản. Các tín đồ và sinh viên toàn thế giới đang nghiên cứu tác phẩm của họ. Trong những năm tới nhiều người cũng tin tưởng chủ nghĩa cộng sản như ông, t́m ṭi trong những tác phẩm của ông con đường đi đến không tưởng. Chắc chắn trong số họ có những người bước tiếp con đường đó và làm sụp đổ thế giới cũ: vấn đề đă trùng hợp với việc thiết lập nên một thế giới khác ưu việt hơn.

    Dựa theo những tư tưởng tiến bộ của Mác và Engels trong tuyên ngôn cộng sản, Mao Trạch Đông đă nhiều năm nghiền ngẫm những tư tưởng sâu sắc đặt ra một số câu hỏi và t́m ṭi giải đáp rồi ghi vào bài viết cho in ấn để lại cho hậu thế. Suốt mấy năm đă soạn thảo như vậy được nhiều tiểu luận và sách nhỏ, nhưng lại là tác phẩm quan trọng nhất của ông. Năm 1928 ông viết cuốn đấu tranh trong rừng núi Chi Kan Shan, năm 1937 chiến tranh du kích, năm 1938 những vấn đề chiến lược trong chiến tranh chống Nhật. Ông đă nêu lên những điểm tiên quyết của chiến tranh du kích. Đó là:

    - “Có nước sâu th́ cá mới bơi lội được, nói cách khác cán bộ khởi nghĩa phải là bí mật ở cùng nhân dân mới giúp họ nổi dậy được.

    - Không vừa ḷng mọi người để họ đáp lại bằng lật đổ. Làm cho họ không vừa ḷng nếu họ chẳng c̣n ǵ nữa.

    - Những người khởi nghĩa có thể dấu ḿnh trong những mảnh đất không có lối vào nếu họ bị lực lượng an ninh truy đuổi vây ráp.

    - Cần mùa màng tốt cho những người cảm t́nh nuôi ḿnh. Cần một biên giới với người láng giềng hoàn toàn theo ḿnh”.

    Từ sau năm 1949 Trung Quốc cộng sản cung cấp cho Việt Nam mọi thứ cần thiết. Bảy giai đoạn để giành thắng lợi trong chiến tranh du kích là:

    “- Vận động quần chúng nổi dậy và tổ chức quần chúng.
    - Thực hiện đoàn kết nội bộ.
    - Xây dựng cơ sở.
    - Phát triển cơ sở.
    - Tạo nên một tiềm lực dân tộc.
    - Phá hoại tiềm lực của địch.
    - Giành lại những đất đai bị địch chiếm”.

    Cụ Hồ Chí Minh và ông Vơ Nguyên Giáp đă lần lượt qua các Đông Dương này theo đúng thứ tự như trên.

    Ông Giáp c̣n thêm vào bảy giai đoạn của Mao những nguyên tắc của ông:

    “- Nếu kẻ địch tiến, chúng ta lùi
    - Nếu chúng dừng lại, chúng ta quấy rối
    - Nếu chúng tránh giao chiến, chúng ta tấn công
    - Nếu chúng rút lui, chúng ta đuổi theo”.

    Rơ ràng chúng ta có một ông Giáp hăng hái và sẵn sàng xông tới, ông thẳng thắn, tự tin, quyết đoán và kiên nhẫn. Người Pháp và người Mỹ đă hứng chịu những hậu quả tai hại của những nguyên tắc của ông khi ứng dụng vào thực tiễn.

    Cụ Hồ Chí Minh, ông Giáp và ông Phạm Văn Đồng đă soạn thảo ra những luật tổ chức của Việt Nam:

    - Chia cắt bọn phản động (nước ngoài hoặc chống cộng sản).
    - Không phá tan bọn phản động mà kiểm soát được chúng.
    - Không loại bỏ hoàn toàn hệ thống xă hội hiện hành.
    - Không tham việc quá.
    - Phải có lư lẽ đồng thời hành động chống bọn phản động.
    - Sử dụng những tổ chức bí mật, không để họ tiếp xúc với nhau.
    - Không khơi dậy những sự nới khéo, không có lợi, để tránh tạo nên những đối thủ nguy hiểm.
    - Lao động từ nhỏ đến lớn, từ riêng đến chung.
    - Hăy giành lấy những thắng lợi nhỏ cho chủ nghĩa cộng sản và thắng lợi lớn cho dân tộc.

    Mao đă định nghĩa 3 loại hành động chính trị: Những hành động hướng tới kẻ thù (địch vận); những hành động đối với nhân dân (dân vận); những hành động dùng cho các lực lượng du kích và đảng viên (cương lĩnh và tổ chức). Ông Giáp suy nghĩ về ba dạng hành động phụ trước khi sử dụng các dạng trên:

    Tạo lập cơ sở tâm lư trong nhân dân; một hoạt động tổ chức mức thấp (t́m kiếm những cuộc tiếp xúc vững chắc, lập nên ở đó một hệ thống liên lạc) bao gồm việc thành lập những vấn đề vũ trang tuyên truyền. Những hoạt động khác nhau của cán bộ cốt cán đều có tên khác nhau: dân vận là hoạt động trong nhân dân do đảng trực tiếp kiểm tra, binh vận là hành động trong binh lính địch, địch vận là hành đông trong dân chúng địch. Mỗi lần được học tập hết những nguyên tắc trên, các chiến sĩ sẽ sẵn sàng đi chiến đấu.

    Năm 1946 D’Argenlieu đă tính sai những kế hoạch tấn công ở miền Bắc. Ở Hà Nội, những người cộng sản quan tâm chủ yếu đến các nhóm phản động cần thanh toán (trước hết bọn Việt Nam quốc dân đảng) và củng cố chính quyền của họ. Họ không chống đối quyết liệt quân Pháp mà c̣n t́m kiếm một cách thỏa hiệp với chúng. Trong khi D’Argenlieu t́m cách tăng cường ảnh hưởng của Pháp, tăng cường lực lượng quân sự Pháp ở Nam Kỳ, có thể ông ta đă không ưu tiên cho việc ngăn cản Việt Minh trước khi họ rút về chiến khu. Phong trào chống chủ nghĩa thực dân được thời cơ thuận lợi để cuối cùng họ có thể quét sạch quân Pháp, tuy lúc bấy giờ quân Pháp có thể làm chậm trễ việc rút lui về Việt Bắc, và thời gian sau có thể ra đi ngẩng cao đầu. Cụ Hồ Chí Minh và quân đội của Cụ đă ra đi, miền Bắc mở rộng cửa để người Pháp có thể dùng hiệu lực quân sự để tăng cường nhanh chóng vị trí của họ ở Bắc kỳ và Trung kỳ. Nhưng thật bất hạnh đối với các tướng tá Pháp ở Đông Dương, năm 1947 người Pháp đă qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế và cả t́nh trạng lộn xộn về chính trị.

    Hoa Kỳ rót vào châu Âu một khoản viện trợ kinh tế hào hiệp đáng ngạc nhiên để giúp châu Âu hàn gắn vết thương chiến tranh. V́ bị mất thăng bằng trước những hoạt động của chủ nghĩa cộng sản, nước Pháp được hưởng một khoản viện trợ ưu tiên. Đáng lẽ dùng khoản viện trợ này vào việc xây dựng kiến thiết đất nước hưng thịnh và ổn định, nước Pháp dùng tiền của kế hoạch Marshall vào ngân sách chiến tranh ở Đông Dương, không giành khoản nào cho kiến thiết kinh tế. Phản ứng của dư luận dăn đến không ổn định chính trị và thường xuyên thay đổi chính phủ. Các vị thủ tướng chính phủ lần lượt ra đi cùng với các sĩ quan chỉ huy quân sự ở Đông Dương mà họ cử ra. Ở Sài G̣n không c̣n tư duy chiến lược lâu dài, mà thường xuyên phải chịu những tin tức thất bại của Đông Dương không gây nên một cuộc khủng hoảng chính trị mới ở mẫu quốc và sự thay đổi chính phủ không biết là lần thứ mấy.

    Ông Giáp đă phân tích một cách sáng suốt t́nh trạng này bằng hai chương sau:

    “Các chính phủ Pháp đều khẳng định mọi cố gắng phải đạt được một lối ra danh dự, nghĩa là một kết cục thắng lợi. Để đạt được mục đích đó, họ đều nhanh chóng tăng cường chiến tranh và họ đă thu được một số thắng lợi nhất định, nhưng chủ yếu đế quốc Pháp đă yếu đi sau chiến tranh thế giới thứ hai, các lực lượng của họ, con người cũng như vật chất kỹ thuật đều có hạn. Hơn nữa ở nước Pháp, nhiều người Pháp phản đối cuộc chiến tranh thuộc địa của họ. Họ đành bất lực trong việc động viên một lực lượng vật chất khổng lồ để chống lại chúng ta, phương thuốc cứu họ là sử dụng ngày càng nhiều quân phản động (thông thường ông Giáp và những người cộng sản gọi bọn người làm việc và chiến đấu cho người Pháp và sau này cho người Mỹ. Về bản chất bọn phản động không kiểm soát được hành vi của họ và tuân theo quan thầy của họ. Từ thế kỷ XIX người Pháp đă tuyển mộ quân thuộc địa vào quân đội của họ và bây giờ vẫn tiếp tục con đường đó).

    Nguyên nhân chính của những khó khăn của họ bắt nguồn từ bản chất không công bằng của chiến tranh xâm lược. Mục đích cuối cùng của bọn thực dân Pháp là chiếm lấy đất đai của chúng tôi; so với cuộc kháng chiến của chúng tôi, họ phải phân tán lực lượng và dựng nên hàng ngh́n đồn bốt quân sự, nhỏ và lớn để bảo vệ những ǵ mà họ đă thu được. Họ phải thường xuyên phân tán quân đội của họ. Càng phân tán, chúng tôi càng có thời cơ để đánh phá từng miếng, từng miếng một. Càng tăng tỷ lệ quân phản động, tinh thần quân địch càng sa sút”.

    Cả hai mặt trận của hai bên đều sử dụng những tháng đầu năm 1947 để chuẩn bị lực lượng. Quân Pháp giành quyền kiềm soát một số thành phố chính của Việt Nam để tăng cường lực lượng quân sự. Ông Giáp thành lập ba thứ quân cần thiết cho cuộc kháng chiến: lực lượng chủ lực, lực lượng quân địa phương và lực lượng dân quân tự vệ.

    Ở cấp thứ nhất, mọi người trong làng-già trẻ, gái trai-phải ủng hộ các đọi quân ở cấp cao hơn, có khi trực tiếp tham gia tác chiến du kích hoặc pḥng ngự, có khi gián tiếp làm chông bẫy, đào hầm, hoặc cung cấp lương thực và sẵn sàng bảo vệ pḥng ngự xóm làng.

    Các đơn vị địa phương tổ chức và trang bị không chặt chẽ như bộ đội chủ lực, chỉ tập trung huấn luyện hai ba lần trong một năm, thường đóng tại quê hương, có thể hành động hợp đồng tác chiến với sức cơ động hạn chế để yểm hộ cho bộ đội chủ lực.

    Theo ư Mao, những đơn vị địa phương thường rất có ích: về chiến lược là quấy rối phía sau địch, và về chiến thuật được sử dụng làm nghi binh và chiến đấu bên cạnh lực lượng chủ lực trong tác chiến. Các đơn vị tự vệ phụ trách thông tin, dẫn đường và chăm sóc thương binh.

    Lực lượng chủ lực của ông Giáp nhanh chóng trưởng thành về số lượng và chiến đấu hiệp đồng trong thời gian, tổ chức của quân đội đều chia ba: ba trung đội thành một đại đội, ba đại đội thành một tiểu đoàn, ba tiểu đoàn thành một trung đoàn, ba trung đoàn thành một sư đoàn. Các đội dân quân tự vệ thường hoạt động chiến tranh du kích và khi đă có ít kinh nghiệm đủ sức vững vàng th́ có thể trở thành bộ đội chủ lực. Đó là một sơ đồ tổng hợp, mà những nguồn lực của đất nước ở cấp thấp nhất về con người có thể được động viên, được huấn luyện, được hướng dẫn để có thể chiến đấu ác liệt hơn trong cuộc nổi dậy.

    Đầu tháng 10 năm 1947 sau một thời gian dài chuẩn bị, quân Pháp dùng 17 tiểu đoàn tổ chức một cuộc tiến công quân sự với quy mô lớn hy vọng tiêu diệt lực lượng chính của Việt Minh và cơ quan lănh đạo của họ. Trong cuộc hành quân “Léa”, mười hai ngh́n lính dù Pháp sau khi đổ bộ xuống chỉ lùng sục trên mặt đất. C̣n Cụ Hồ Chí Minh và ông Giáp đă ẩn nấp vào hang để tránh quân địch phát hiện. Khi bọn lính dù đi khỏi, họ rời khỏi nơi ẩn náu và biến vào rừng rậm. “Ở rừng rậm mọi thứ đều thối rữa, thịt người thối rữa, trước hết”. Người Việt Nam có thể chịu đựng được một mức độ nào đó, c̣n người Pháp th́ không. Quân Pháp bị thối rữa: họ bị sốt rét và chết v́ thối rữa. Quân vm vẫn qua lại những vùng mà quân Pháp tưởng đă quét sạch địch, để rồi đêm đến lại đánh vào quân Pháp.

    Ngày 16 tháng 10 quân du kích của ông Giáp phá những chiếc cầu phía sau quân nhảy dù. Quân Pháp muốn quay về phải sửa chữa bắc lại cầu. Sâu hơn về về phía Nam, trong vùng châu thổ sông Hồng, hai tiểu đoàn dù người dân tộc Thái do các sĩ quan Pháp chỉ huy đánh đuổi quân Việt Minh khỏi vùng giữa sông Hồng và sông Chảy (trong vùng quân Pháp nhảy dù, quân Việt Minh chống cự đặc biệt hiệu quả như chúng ta sẽ thường chứng kiên sau này). Những đội quân dù khác thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trên hai bờ sông Lô. Mọi việc trông có vẻ trôi chảy, nhưng mùa mưa đến, người chỉ huy quân Pháp hiểu ra rằng quân của ông ta đă tiến quá sâu và dễ bị thương vong trong vùng cơ sở kháng chiến của Việt Minh. Ông ra lệnh cho binh lính lui về trong các đồn trại.

    Thông thường khi gió mùa vềm cả hai phía mặt trận đều tạm dừng hành quân chiến đấu v́ cơ động chuyển quân rất khó khăn. Nhưng trường hợp lần này th́ khác. Ông Giáp không muốn cho quân địch rút lui: “phân tán lực lượng chủ lực thành đại đội độc lập và tập trung cỡ tiểu đoàn, tôi có một lực lượng yểm trợ mạnh cho dân quân tự vệ và du kích chiến đấu sau lưng địch. Đồng thời tôi xây dựng những đơn vị cơ động tiến lên đánh cơ động được. Lực lượng vũ trang của nhân dân với ba thứ quân đă h́nh thành.

    Phân tích cuộc hành quân Léa, ông Giáp đă viết những ḍng ngắn gọn và sâu sắc như sau:

    “Mùa đông năm 1947 quân địch đă tung vào Việt Bắc ba ngh́n quân thiện chiến ḥng tiêu diệt các cơ quan lănh đạo và bộ đội chủ lực của chúng ta để giành lấy một thắng lợi quyết định và đẩy nhanh việc thành lập một chính quyền phản động trên cả nước.

    Chính sách của tướng Revers (tướng chỉ huy cuối cùng) là tăng số quân trên mặt trận Bắc Bộ, mở rộng vùng chiếm đóng ở đồng bằng sông Hồng, tăng cường pḥng ngự vùng tứ giác Lạng Sơn, Tiên Yên, Hải Pḥng, Hà Nội, khép kín biên giới Trung Quốc-Việt Nam. Kế hoạch của tướng Revers cũng chỉ rơ:

    1. Phát triển đội quân phản động làm lực lượng chiếm đóng.
    2. Tập trung những đội quân châu Âu và châu Phi trong những đơn vị cơ động.
    3. Tăng cường mật độ hành quân càn quét đàn áp các hoạt động của chiến tranh du kích.

    Về phần chúng ta, chúng ta tán thành một cuộc chiến tranh du kích rộng răi trong tất cả các vùng chiếm đóng. Chiến thuật sử dụng đại đội độc lập đă được tham chiến và giành thắng lợi lớn. Một bộ phận chủ lực được chia thành đại đội độc lập luồn sâu vào sau lưng địch và kết hợp tác chiến với đấu tranh chính trị trong ḷng nhân dân. Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị vừa tiêu diệt địch vừa xây dựng và củng cố cơ sở trong nhân dân và hướng dẫn các lực lượng bán vũ trang địa phương, kết hợp với nhân dân chiến đấu với quân địch. Công tác địch vận trong hàng ngũ địch, nhất là binh sĩ phản động là một nhiệm vụ chiến lược cần được đặc biệt quan tâm…”.

    Giữa năm 1948 và 1950, Việt Minh tung ra một loạt chiến dịch quy mô nhỏ với 9 tiểu đoàn (không phải 3 như thường lệ), đặc trưng cho chiến dịch du kích. Năm 1950 quân Pháp rải trên những vùng sâu rộng nhưng thưa của Việt Nam. Phân tán quân trong những lô cốt rải rác như những tháp canh trên một vành đai pháo đài vững chắc, họ tưởng rằng có thể kiểm soát được t́nh h́nh, nhưng đó là ảo tưởng: nói chung quân Việt Minh tự do qua lại giữa các đồn bốt. Hơn nữa, người chỉ huy quân Pháp không thành lập lực lượng cơ động để đuổi theo quân địch mỗi lần họ tấn công vào các lô cốt hoặc họ yểm trợ cứu ứng và không ngừng di chuyển trên các đường cái.

    Dần dần các đội quân của ông Giáp đă khai thông được con đường qua các tỉnh phía Bắc trên đường biên giới Việt Trung: Cao Bằng, Lạng Sơn, Lao Cai, qua Ḥa B́nh trên con đường phía Nam Việt Bắc và phần lớn vùng Tây Bắc từ sông Hồng đến biên giới Việt Lào. Quân Pháp càng tuyển mộ nhiều người Việt Nam hơn bổ sung vào lực lượng thuộc địa: Cuối năm 1947 lực lượng này chiếm hai phần ba quân Pháp hiện có. Nhờ được ưu đăi, sĩ quan và hạ sĩ quan gắn bó với quân Pháp hơn binh sĩ.

    Bấy giờ quân Pháp đă xác định tổ chức trong chiến tranh Đông Dương: có vài đơn vị ưu tú như lính dù (Mũ đỏ, vững chắc nhất trong quân đội) một số đơn vị khác là quân đội thuộc địa từ Bắc Phi (Algériem, Maroc, Sénégal) dưới sự chỉ huy của sĩ quan Pháp và cuối cùng là quân lê dương ngoại quốc, là đơn vị quốc tế ưu tú lần đầu tiên tham gia chiến đấu. Một phần ba trong số họ là người Đức đă rời bỏ châu Âu lộn xộn sau chiến tranh để t́m đến một thế giới khác mà ở đó họ chỉ chiến đấu bằng mọi giá. Cuối cùng bọn Đức quốc xă cũng đến Đông Á.



    Sắc lệnh phong hàm Đại tướng cho ông Vơ Nguyên Giáp

    Tháng 3 năm 1948, ông Giáp thành lập 6 quân khu để thuận tiện cho việc lănh đạo chỉ huy quân đội trong toàn quốc: Quân khu 1 ở vùng châu thổ sông Hồng, quân khu 2 ở Tây Bắc Bắc Bộ, quân khu 3 ở Đông Bắc Bắc Bộ, quân khu 4 ở phía Bắc Trung Bộ, quân khu 5 ở miền Nam Trung Bộ và quân khu 6 ở Nam Bộ. Mỗi quân khu có tổ chức lực lượng vũ trang riêng và sự lănh đạo của Quân khu ủy, trực thuộc sự lănh đạo của Trung ương Đảng và Tổng tư lệnh quân đội.

    Cuộc chiến tranh Đông Dương diễn ra chủ yếu trong các quân khu 1 đến 5. Chỉ có một số hành động ở quân khu 6, xung quanh Huế và dọc đường số 1 theo bờ biển Việt Nam mà người Pháp thường xuyên bị đánh, trên con đường quanh co này.

    Nhưng ưu iên của năm này là giành lấy ḷng tin của nhân dân và tiếp tục cuộc chiến đấu để giải phóng đất nước. Về điểm này, Cụ Hồ Chí Minh và các sĩ quan của Cụ đă hoàn toàn thành công, t́nh cảm gắn bó với đất nước ngày càng trưởng thành trong nửa thế kỷ sau của thế kỷ XX. Sau đây là câu chuyện của cựu trung tá La Văn Cầu hiện đang sống ở Hà Nội kể cho chúng tôi về t́nh cảm gắn bó của ông đối với Việt Minh:

    “Mẹ tôi người dân tộc Thái sống ở vùng biên giới Trung Quốc c̣n cha tôi người dân tộc Nùng. Tôi sinh năm 1932 ở làng Na Sen gần Dinh Phong thuộc tỉnh Cao Bằng. Đó là một vùng đất đẹp có một con sông bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua Việt Nam rồi trở về Trung Quốc. Vùng này có nhiều đặc sản. Trong đó có một loài cá cỏ ở dưới ḷng sông, thịt ăn rất ngon.

    Tôi sống ở đó đến năm ba tuổi th́ cha tôi v́ không đủ tiền trẻ thuế bị thực dân Pháp đánh đập rồi chết. Tôi c̣n quá nhỏ, không thể trông coi được trang trại, mẹ tôi phải trở lại quê hương. Chỉ sau cách mạng tôi mới có thể t́m lại mảnh đất của tôi. Hiện tôi c̣n một mảnh ruộng gần một hecta ở đó. Một bánh xe dẫn nước tưới khắp cánh đồng.

    Khi bố tôi chết, mẹ tôi c̣n quá trẻ nên có nhiều người đến hỏi, và mẹ tôi đă đi bước nữa. Do đó tôi lại sống ở Dung Diêm với ông bố dượng cũng dân tộc Thái. Chúng tôi ở một vùng đất gần như nô lệ của người Trung Quốc: một ngày năm 1943 những tên cướp, đến cướp hết trâu ḅ và cả gia tài của chúng tôi. Bố dượng tôi đă chết khi đánh nhau với bọn cướp.

    Tháng 12 năm 1946 chúng tôi bắt đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Cũng như rất nhiều bạn trẻ cùng lứa tuổi, tôi rất muốn tham gia chiến đấu, nhưng tôi rất ốm yếu v́ tôi bị sốt rét. Chỉ c̣n lại trong con người tôi những t́nh cảm đối với cách mạng. Ngày nào tôi cũng nghe tiếng bom nổ ở cag, rồi ngày 20 tháng 10 năm 1948, tôi nhập ngũ. Tôi được bổ sung vào Đại đội 671, một đơn vị địa phương của tỉnh Cao Bằng có nhiều chiến sĩ người dân tộc thiểu số.

    Trên đường đến trung tâm huấn luyện đóng trong rừng rậm, tôi và các bạn mới nhập ngũ phải vượt qua khu vực bị quân Pháp chiếm đóng. Chúng tôi bị đánh chặn, một người bạn tôi bị giết, nhưng điều đó càng củng cố thêm quyết tâm của chúng tôi. Trong đêm 25 tháng 19 chúng tôi đến một làng bị quân Pháp tàn sát. Nhà cửa đang bị cháy. Điều đó làm cho chúng tôi càng căm thù quân địch.

    Thời đó, nhân dân c̣n rất nghèo, chúng tôi thiếu thuốc men, thiếu lương thực và vũ khí. Tôi chỉ có mỗi một bộ quần áo để thay đổi, bộ quần áo do mẹ tôi chuẩn bị cho ngày lên đường nhập ngũ. V́ máy bay địch luôn quan sát thám thính, quần áo của chúng tôi không được phơi dưới ánh sáng mặt trời nên không mấy khi được hoàn toàn khô ráo. Chúng tôi đều bị bệnh ngoài da và sốt rét v́ điều kiện sinh hoạt thấp kém và thiếu vệ sinh. Chúng tôi thường chưa bệnh bằng lá cây kiếm được trong rừng. Thỉnh thoảng chúng tôi sử dụng loại lá có chất kháng sinh nhưng cách tốt nhất vẫn là dùng nghị lực của ḿnh để giảm bớt đau đớn: chúng tôi lao động cật lực đến toát mồ hôi, mồ hôi đổ ra làm tiêu tan bệnh tật. Khi cơn sốt đến, chúng tôi lại lao động.

    Tôi đă qua ba tháng huấn luyện, tập đi đều, tập bắn súng, tập sử dụng lựu đạn và cả cứu thương lúc ban đầu. Lúc nào chúng tôi cũng lạc quan. Ban ngày chúng tôi tập luyện, tối đến ngồi quanh ngọn lửa hát những bài ca cách mạng yêu nước. Chúng tôi mơ đến một ngày có xe tăng, súng lớn và máy bay. Chúng tôi cho nhau như anh em một gia đ́nh, tuy chiến sĩ và sĩ quan thuộc các dân tộc khác nhau của nước Việt Nam”.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Phim hoạt h́nh 3D về Vơ Nguyên Giáp
    By Gánh Hàng Hoa in forum Tin Việt Nam
    Replies: 5
    Last Post: 15-08-2011, 09:29 PM
  2. Vơ Nguyên Giáp
    By FatDuck in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 6
    Last Post: 30-03-2011, 06:21 PM
  3. Bài Điếu Văn Cho Vơ Nguyên Giáp
    By Nguyên Thạch in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 09-11-2010, 07:42 AM
  4. Replies: 13
    Last Post: 02-11-2010, 12:35 PM
  5. Vơ Nguyên Giáp qua đời ! Thật không đây ?
    By Xuân Nhi in forum Recycle Bin
    Replies: 18
    Last Post: 08-09-2010, 08:58 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •