Page 4 of 25 FirstFirst 1234567814 ... LastLast
Results 31 to 40 of 243

Thread: NGÀY ẤY ...30 THÁNG TƯ , 1975

  1. #31
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI LÍNH TỬ THỦ AN LỘC




    Ngày 7.7.1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đáp xuống An Lộc tuyên dương công trạng và đặc cách thăng cấp tất cả chiến sĩ tử thủ An Lộc sau gần ba tháng ác chiến với bốn sư đoàn cộng quân 5, 7, 9 và B́nh Long.

    Trong lúc t́nh h́nh mặt trận vẫn c̣n rất ngột ngạt, tuy rằng các sư đoàn địch đă lùi ra xa, nhưng không có ǵ bảo đảm rằng sự hiện diện của vị Tổng Tư Lệnh là không nguy hiểm cho chính bản thân ông. Tổng Thống Thiệu được đích thân Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh lái xe Jeep chở đi một ṿng thành phố để quan sát những đổ vỡ của chiến tranh.

    Tổng Thống Thiệu đă cảm khái đứng lặng thinh bên những nấm mộ chôn vội của tử sĩ và người dân An Lộc. Chiếc xe Jeep phải chạy ngang khu bến xe An Lộc để ông có thể ngậm ngùi trông thấy được một cái nghĩa trang nhỏ, đơn sơ nhưng rất tươm tất, nơi an táng h́nh hài của 68 anh hùng 81 Biệt Cách Dù, mà đă được đồng đội c̣n sống lập nên thành.

    Chiến thắng An Lộc mang một kích thước quá lớn, không c̣n của riêng dân tộc Việt Nam đánh bại đạo quân tiền phong của khối cộng sản quốc tế là binh đội Bắc Việt, mà nó c̣n là một biểu tượng của thế giới tự do đánh thắng chủ nghĩa cộng sản, là khúc dạo đầu báo hiệu sự hủy diệt cái chủ nghĩa quái thai đó 17 năm sau: Cuộc sụp đổ năm 1989 của Liên Sô và khối cộng sản Đông Âu.

    Tổng Thống Thiệu đă trân trọng trao tặng quân dân tử thủ ở cái thành phố nhỏ bé mà cang cường này một mỹ danh mà sẽ vĩnh viễn đi vào những trang sử dân tộc và cả quân sử thế giới: B̀NH LONG ANH DŨNG – AN LỘC ANH DŨNG. Vị Tổng Thống đă vui vẻ gọi về cho phu nhân của ḿnh, giọng hân hoan của ông có thể được nghe rộng rắp đất nước từ hàng triệu chiếc máy thu thanh:

    - Bà đừng chờ cơm tôi. Tôi ở đây ăn cơm với anh em chiến sĩ An Lộc.

    Người cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đă tươi cười đứng giữa những chiến hữu của ông chụp nhiều bức h́nh, mà ngày hôm sau đă nằm ở trang đầu của những tờ báo Thủ Đô Sài G̣n và cả trên các báo khắp thế giới. Đó há chẳng phải là một vinh dự cực lớn mà quân dân B́nh Long Anh Dũng đă xứng đáng nhận được từ chính máu xương của ḿnh. Há chẳng phải đó là một thách thức ngạo nghễ đối với lũ âm binh què quặt của bốn sư đoàn cộng quân đang lẩn trốn đâu đó trong những cánh rừng già Miền Đông và bên kia biên giới. Há chẳng phải là một cú đấm ngàn cân của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa vào giữa mặt cái khối gọi là “các nước xă hội chủ nghĩa anh em”. Há chẳng phải đó mà một xác nhận cuộc chiến bại nhục nhă mà tướng tá Hà Nội dù có lật lọng đến đâu cũng phải cúi đầu câm nín hay sao.

    Chiếc trực thăng phành phạch đập cánh quạt đưa Tổng Thống Thiệu và phái đoàn hùng hậu quan khách Sài G̣n ra thăm viếng đă xa dần. Nhưng đối với quân dân An Lộc, cuộc chiến đấu vẫn c̣n rất gian nan ở phía trước. Cộng quân đâu đă cam chịu chiến bại, các đơn vị của chúng vẫn c̣n lẫn quẩn bên ngoài An Lộc dội pháo quấy phá ngày đêm.

    Ngày 22.6.1972, các đơn vị tiền phong của Sư Đoàn 18 Bộ Binh đă nhảy xuống thay thế nhiệm vụ trấn thủ An Lộc cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Các đơn vị Sư Đoàn 5 Bộ Binh lục tục được không vận về Căn Cứ Lai Khê, trong khi các đơn vị của Sư Đoàn 18 tiếp tục đổ vào thành phố. Vẫn c̣n một khối lượng công tác chiến đấu ngỗn ngang đang chờ đón đoàn tinh binh tràn đầy nhuệ khí này.

    Đồi Gió, Đồi 169, phi trường Quản Lợi vẫn c̣n đang nằm trong tay quân giặc. Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và chiến sĩ Nỏ Thần Miền Đông của ông sẽ rất bận rộn trong những ngày hành quân trước mặt. Nhưng dù thế nào mặc ḷng, buổi chào cờ sáng và thượng Quốc Kỳ mỗi thứ Hai luôn được Chuẩn Tướng Đảo cho cử hành trang trọng, bất chấp địch đang pháo hay không pháo.

    Trong những ngày ngột ngạt đó, phóng viên chiến trường Lưu Văn Giỏi nhận lệnh của Bộ Tư Lệnh Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa nhảy xuống An Lộc để ghi nhận những đổ nát của chiến tranh, những hoạt động âm thầm của những người lính bay Không Quân và người lính Bộ Binh, cùng quân dân An Lộc đă chiến đấu anh dũng như thế nào, đang và sẽ chiến đấu ra sao, cùng những mất mát năo ḷng.

    Anh Lưu Văn Giỏi từng là Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Toronto, Canada nhiều nhiệm kỳ. Anh đă về hưu từ lâu và vui thú điền viên. Nhưng những thiên bút kư chiến trường ngày xưa của anh và những đóng góp của anh trong công cuộc đấu tranh chống cộng và tôn vinh Lá Cờ Vàng Đại Nghĩa cùng Những Người Lính QLVNCH vẫn luôn ghi khắc sâu trong ḷng mỗi chúng ta. Bài viết Trên Vùng Trời Đất Nước của anh đă nhận được Giải Ba Cuộc Thi Phóng Sự Chiến Trường Năm 1973 của Cục Chính Huấn:

    Tại Sư Đoàn 2 Không Quân, tôi nhận một công điện từ Bộ Tư Lệnh Không Quân gọi về tŕnh diện gấp, v́ nhu cầu công vụ, thời gian công tác và ngày về sẽ cho đơn vị biết sau. Một chiếc phản lực A37 đi công tác đưa tôi từ Nha Trang vào Sài G̣n. Tại Parking văng lai, tôi thót lên “Honda ôm” trực chỉ Bộ Tư Lệnh Không Quân. Và nửa giờ sau tại đây tội nhận một sự vụ lệnh khác, thời gian và nơi đến là 8 ngày tại An Lộc. Tờ mờ sáng hôm sau, tôi có mặt trên băi đậu trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân để đi Lai Khê. Lần đi này ngoài hợp đoàn 18 chiếc trực thăng vơ trang UH, c̣n có 6 chiếc CH 47 (loại trực thăng khổng lồ tải hàng).

    30 phút ở Lai Khê

    Phi trường Lai Khê là một phi trường nhỏ được dùng làm Bộ Chỉ Huy Tiền Phương, tất cả trực thăng yểm trợ cho An Lộc đều đặt ở đây để tiện đường cho quân bạn tải quân, tải hàng đến, và nhất là để thu ngắn đường chim bay đến An Lộc. Tại đây, dưới những gốc cao su già có những hàng cơm, hàng nước kiểu dă chiến, vài hoa tiêu mắc vơng nằm nhai bánh ḿ chờ… thời tiết.

    Tôi gặp Đại Úy Đào Vũ Anh Hùng, nhà văn kiêm hoa tiêu trực thăng. Thấy tôi, Hùng hỏi:

    - Đi làm hay đi chơi? Câu hỏi ngắn và tôi cũng trả lời gọn:

    - Đi làm.

    Hùng moi trong túi áo bay ra một gói xôi bắp đă bẹp:

    - Ăn không? Tôi lắc đầu vỗ nhẹ tay lên bụng, trong khi anh nh́n tôi từ đầu đến chân:

    - Vào Điện Biên Phủ thứ hai mà cứ y như là đi du lịch vậy? Không có áo giáp, nón sắt th́ pḥng không và pháo kích nó không chê bạn đâu.

    Hùng chỉ chiếc máy ảnh tôi đang mang trước ngực:

    - Phải có thêm một nón sắt nhỏ cho ống kính mới an toàn, nếu không th́ bạn có nhiều triển vọng thất nghiệp đấy!

    - Kỳ trước có một ông bạn Báo Chí lên An Lộc, khi ông ta vừa đưa máy lên ngắm th́ một viên AK đă ưu ái chui vào nằm gọn trong ống kính. Cũng may là tầm đạn đă yếu nên không bị chột.

    Có nh́n thấy cái cảnh phi công Việt Nam treo vơng nằm ṭn teng dưới những gốc cao su gậm bánh ḿ, cạp xôi bắp chờ phi vụ ta mới thấy thương họ. Nghỉ ngơi và ăn uống như thế mà bay như điên, bay bất kể giờ giấc và thời tiết. Có khi vừa đáp, chưa kịp nghỉ ngơi mà thấy có tên trong Phi Vụ Lệnh là lại xách nón đi bay. Cứ sáng vác tàu đi, tối vác về…

    Có người đi rồi không bao giờ trở lại. Cũng có người về mà trên thân tàu lổ chổ đầy dấu đạn pḥng không. Cũng có người khi đă đáp an toàn trên băi đậu rồi mới biết người xạ thủ phi hành của ḿnh đă gục đầu trên cây đại liên mà chết tự lúc nào. Cũng có khi người hoa tiêu chánh bị pḥng không ngồi chết ngay ngắn trong ghế lái trong “tư thế c̣n sống”, cái chết thật đẹp như cái chết của một Từ Hải mà người hoa tiêu phụ vẫn cố cắn răng để nước mắt ḿnh lăn dài xuống má, tiếp tục bay thi hành cho xong sứ mạng đă, rồi mới về.

    Cũng có người phải bỏ tàu giữa rừng để về bằng một tàu khác, hoặc băng rừng lội suối, rồi năm bảy ngày sau mới về với một thể xác đói khát và đầy thương tích. Ta có thể so sánh những tiện nghi cùng số giờ bay và thành tích chiến đấu một trời một vực giữa phi công Hoa Kỳ và phi công Giao Chỉ như sau:

    Pilot Hoa Kỳ không biết mắc vơng ở gốc cây nằm gặm bánh ḿ chờ phi vụ như pilot An Nam ta. Hồi tháng 4.1972, ở mặt trận Tây Nguyên, tại Bộ Chỉ Huy của tiền đồn Tân Cảnh, tôi đă thấy một Đại Úy phi công Hoa Kỳ trong bữa cơm. Ông ta đă ăn gần nửa kí thịt với bơ, sữa, hột gà, táo, nho, rồi mới bước lên chiếc trực thăng vơ trang Cobra mà cất cánh, trong khi hoa tiêu Giao Chỉ cũng trước một phi vụ nhưng chỉ… “thổi hết một cái kèn bằng bột”, rồi ngửa cổ ừng ực nước lă trong bi đông, xong… cuốn vơng leo lên ghế lái, bay vù vù, bay như điên. Về số giờ bay và thành tích, ta có thể so sánh thật thà như sau : “Chiến trận Hạ Lào chính thức khai diễn ngày 8.2.1971, trong 29 ngày đầu tại đây, người Mỹ có số giờ bay cao nhất là một Thiếu Tá, 80 giờ. Trong khi đó, phi công có số giờ bay cao nhất là Trung Úy Dương Đức Ngọc, thuộc Không Đoàn 62 Chiến thuật, Sư Đoàn 2 Không Quân, 168 giờ. Người Mỹ đánh nhiều chiến xa nhất, một Trung Úy phi công phản lực, 3 chiếc. Trong khi đó Trung Úy Dương Đức Ngọc đánh 17 chiếc T54.

    Số giờ bay và thành tích đó đă làm vẻ vang về tinh thần chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa bên cạnh quân đội đồng minh tại Hạ Lào. Trong trận này, Ngọc cũng là người lănh đạn pḥng không nhiều nhất. Một lần phi cơ anh đứng một chong chóng, phài đáp ở Đà Nẵng lúc 23 giờ 30, 3 lần khác bị găy cánh trái và cánh đuôi, nhưng lúc bấy giờ thời tiết ở Việt Nam không cho phép, nên anh phải dẫn tàu qua Thái Lan đáp trên phi trường Nakhom – Phakhom. Sự so sánh thật thà trên đă là một chứng minh cụ thể cho ta thấy tinh thần chiến đấu cao độ của người lính Việt Nam trên đất nước nghèo nàn này.

    Đồng hồ tay chỉ 7 giờ 45, trời vẫn c̣n xấu. Các hoa tiêu có vẻ sốt ruột, họ tụm năm tụm ba ngồi đấu láo với nhau, nói chuyện thời tiết, nói chuyện phi vụ hôm qua, chuyện hào hoa, lă lướt đêm rồi và bàn với nhau cho phi vụ sắp tới. Một nhân viên của toán Điều Không đến nói với Hùng:

    - Cứ cất cánh, v́ An Lộc đang chờ. Tôi đứng dậy nhưng không đi với Hùng, v́ anh bay tàu C and C (Hướng dẫn C and C = Command and Control và chỉ huy, không đáp).

    Tôi theo chân một hoa tiêu ra chiếc vơ trang đậu ngoài băi. Tại đây, lương thực, vũ khí, đạn dược và chiến sĩ đổ bộ đă chờ sẵn. Tôi đi chiếc tàu tải đạn. Mười phút sau tất cản những chiếc trực thăng tại đây đă bốc khỏi mặt đất và… trực chỉ An Lộc. Trên đường từ Lai Khê đến An Lộc trần mây thật thấp, sương mù c̣n thật mù, họ phải để đèn báo hiệu cho khỏi đụng nhau trên trời. Ngồi trên trực thăng nh́n chung quanh những chiếc vơ trang đang lù lù bay theo, tôi có cảm tưởng như đây là một đàn ong khổng lồ bị vở tổ và đang di dân. Sau vài phút bay, đến một nơi quang đăng hơn, dưới mắt tôi ruộng đồng xơ xác, những hàng tre cháy xém, những hố đạn, hố bom cày nát trên ruộng đất bỏ hoang…

    Nhảy xuống An Lộc

    Người xạ thủ phi hành ghé váo tai tôi:


    - Anh có xuống không?

    Tôi gật đầu. Anh ta lại nh́n tôi với vẻ ái ngại như thầm hỏi tôi sao không có áo giáp và nón sắt, nhưng… tôi lờ đi. Bỗng anh khom lưng chỉa mũi minigun xuống đất bấm c̣. Những hồi đạn rú dài như… ḅ rống. Tôi thấy… rức tim khi những vệt lửa từ dưới xẹt lên quanh phi cơ. Xung quanh tôi, năm chiến sĩ bộ binh thuộc Sư Đoàn 18 cũng… lên đạn. Tôi cũng nhét vội băng đạn vào khẩu Colt của ḿnh cho vững bụng. Đang bay, tàu bỗng xà xuống đột ngột rồi bất ngờ đáp vội trên Quốc Lộ 13, “càng” chưa chạm đất, mấy quả đạn pháo kích đă ào ào bay tới rớt quanh đó làm găy mấy cây cao su. Tôi nhảy vội theo năm chiến sĩ rời thân tàu và lăn tṛn qua mặt lộ nằm gọn dưới một hố bom.

    Chúng tôi chưa kịp xô hàng xuống, th́ tàu đă bốc vội lên cao bay mất hút, một trái dạn khác rớt ngay chỗ phi cơ vừa đáp làm banh xác cái ba lô vô tội của một chiến sĩ vừa quăng xuống. Mấy bịch gạo xấy tung tóe trắng mặt đường. Tôi nằm dưới hố bom mà thầm nghĩ : “Người Mỹ đă dạy cho người Việt biết đánh giặc bằng trực thăng, nhưng c̣n lâu sự khôn lanh của họ mới bằng sự nhanh nhẹn của người Việt Nam và… có lẽ chừng nào người Mỹ biết ăn trầu, th́ họ mới có đủ được kinh nghiệm của chiến trường Việt Nam. V́ nếu lơ mơ không bốc lên kịp, th́ chiếc trực thăng kia với một núi đạn 81 ly trong đó sẽ lănh đủ trái đạn pháo vừa rồi.

    Tôi nh́n theo chiếc trực thăng đă mất hút ở cuối b́a rừng cao su, như hiểu ư, một người nằm gần nói với tôi :
    - Cứ nằm đây chờ, chút nữa hết pháo họ sẽ đến.
    Tôi hỏi lại:
    - Nhỡ đến mà nó pháo nữa th́ sao?
    Anh ta thản nhiên:
    - Trúng th́ rớt, không trúng th́ bay đi.

    Sau câu nói này, tôi nhớ lại cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Nhàn thuộc Phi Đoàn CH47 của Sư Đoàn 3 Không Quân trước đây một tuần tại mặt trận An Lộc. Trong một phi vụ tiếp tế, tàu của Nhàn bị trúng pḥng không, bạn bè bay theo bảo anh rời ṿng chiến ngay và đáp ép buộc chờ trực thăng vơ trang cứu. Nhưng anh đă trả lời:
    - Biết rồi, để thả hết hàng cho họ đă. Họ bị thiếu tiếp tế từ mấy ngày nay, không lẽ ḿnh vượt bao nhiêu màn lươi pḥng không mới vào được đây, mà bây giờ lại ra sao?

    Anh chỉ trả lời như thế rồi tiếp tục vào ṿng yểm trợ. Khi số hàng c̣n lại trên tàu vừa thả được xong, th́ cũng là lúc chiếc CH47 anh đă nằm gọn trong màn lưới pḥng không. Thiếu Tá Mai là bạn của anh bay gần đó đă nghe được những lời cuối cùng của anh qua hệ thống vô tuyến : “Hàng thả hết rồi, nhưng tất cả hệ thống điều khiển trong pḥng lái đă ngưng hoạt động. Bây giờ tao đáp ép buộc đây, tụi mày hăy theo tao cover thật kỹ và pick-up thật nhanh… “. Nhưng không c̣n kịp nữa, anh vừa nói xong th́ chiếc trực thăng đă như một bó đuốc khổng lồ từ trời cao rơi xuống nổ tung trên mặt đất, và anh đă chết theo tàu…

    Tôi và các chiến sĩ vẫn nằm trốn đạn và chờ trực thăng đến. Quanh đó, vài chiến xa T54 nằm chỏng trơ, vài chiếc khác nằm chúi đầu xuống những hố bom, phía sau tôi là rừng cao su trùng điệp. Trong phút chốc tàu bốc vội lên mây, mất hút ở cuối một khúc quanh của con lộ 13. Vài tràng đạn AK đuổi theo, mấy quả đạn pháo kích khác rớt quanh đó như xé gió phá rừng, những thân cây lại thi nhau găy rôm rốp. Mấy thùng đạn vừa được đem xuống vẫn c̣n nằm trên quốc lộ. Một anh kéo tôi đi nơi khác:

    - Hăy tránh xa đống đạn này, đạn pháo kích mà nó rớt vào đây th́… bỏ bu.

    Từ hướng Xa Cam, một đoàn người gồng gánh, bồng bế nhau chạy loạn về hướng chúng tôi. Tức th́ mấy quả đạn pháo kích được câu đến từ Đồi Gió rớt vào giữa đám dân chạy loạn này, gây vô số người chết, vô số người bị thương. Có những người bị thương cách đây vài giờ lại bị thương nữa. Có những người sắp chết, muốn được chết cho rảnh tay người thân chạy nạn, th́ bây giờ được chết.

    Trong số những người chết này, một cảnh tượng thật thương tâm đă xảy ra ngay trên b́a rừng cao su An Lộc. Một người mẹ bồng đứa con khoảng sáu tháng bị mảnh pháo phá vỡ khuôn ngực và bà ngă ra chết liền tại chỗ. Đứa nhỏ không chết, cũng không bị thương, nó ḅ trên bụng mẹ khóc thét lên trong sự hăi hùng. Khóc mệt, nó lại gục đầu vào ngực mẹ nó mà bú. Một người khác cũng dân chạy loạn đến bế nó ra, th́ mặt mũi của đứa bé bê bết máu của mẹ nó và trong mồm nó cũng có máu, mà có lẽ nó tưởng đó là chất sữa nên đă hút vào. Một lúc sau đứa bé cũng chết luôn trên tay người bế nó.

    Một cảnh tượng khác mà tôi cũng không làm sao quên được. Một đứa bé gái khoảng13 tuổi mù hai mắt, gầy yếu xanh xao, cơng thằng anh nó khoảng 15 tuổi trên lưng, bị cụt một chân. Đứa nhỏ mù mắt cơng đứa lớn cụt chân. Đứa cụt chân ngồi trên lưng đứa mù mắt để chỉ đường mà chạy trốn Việt cộng. Trong xách tay tôi c̣n hai ổ bánh ḿ mua hồi sáng ở Lai Khê, tôi lấy đưa cả cho anh em nó. Trước đây tôi đă được đọc những câu in trên bích chương dán ở thành phố : “… Pháo kích bừa băi, giết hại dân lành, nhà cháy người chết, thù hận này biết đến bao giờ mới nguôi ngoai trong ḷng người dân Việt… “. Dạo đó tôi đă nghĩ rằng những câu này chỉ là về phương diện chính trị thôi. Nghĩa là Việt cộng xuyên tạc ḿnh th́ ḿnh xuyên tạc lại. Nhưng bây giờ th́ tôi đă hiểu đó là sự thật, một sự thật mà không thể đội trời chung với bọn người dă man đó được, và tự nhiên trong ḷng tôi thấy dâng lên những thù hận ngút ngàn. Thật t́nh mà nói, trước khi bước vào An Lộc, tôi đă thầm nghĩ : “Ḿnh chỉ chết khi bị trúng đạn, chứ nếu đối diện gần th́ trên ngực áo tôi có hai chữ Báo Chí “nó” không giết đâu mà sợ, cao lắm th́ chỉ bắt sống là cùng. Nhưng bây giờ th́ tôi không c̣n nghĩ như thế nữa. Trước mặt tôi, chung quanh tôi, những người dân vô tội đang thương vong la liệt. Tôi sờ tay vào hông, khẩu Colt vẫn cồm cộm. Tôi quyết định : “Nếu đêm nay c̣n phải ở đây mà rủi gặp bọn chúng, th́ dù thế nào tôi cũng đẩy về hướng chúng 6 viên và c̣n lại là cho tôi, chứ nhất định không để bị bắt sống. Nghĩ đến đây, h́nh ảnh vợ con tôi tại trại gia binh lại hiện ra, tôi thấy nhói trong ḷng.

    Từ xa có tiếng đập phần phật của trực thăng, rồi trong phút chốc 8 chiếc lượn sát những ngọn cao su và cũng bất thần đáp dài trên quốc lộ, trong khi đạn pháo kích của Việt cộng tiếp tục rải dài theo hai bên b́a đường. Các chiến sĩ đổ bộ thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh lẽ ra khi nhảy xuống th́ họ di tản, nhưng họ đă đến phụ khiêng xác chết và người bị thương lên phi cơ xong mới đi. Tôi ngồi tựa lưng vào xích của một chiếc T54 bỏ hoang nh́n theo mấy chiếc trực thăng đang bốc vút về hướng Lai Khê mà trong đó có gần 100 người dân vô tội vừa chết, vừa bị thương, vừa kinh hoàng… Cộng sản Bắc Việt vừa sát hại xong dân lành vô tội bằng công cụ giết người của chúng, th́ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đến mang những người dân đó về nơi an toàn…

    Từ hướng Chi Khu An Lộc, một chiếc Jeep mui trần chở gần 20 đồng bào tiến về hướng băi đáp trực thăng. Tôi quá giang chiếc Jeep này vào Chi Khu và tại đây tôi được gặp Đại Úy Lê Văn Vẫn, Chi Khu Phó Chi Khu An Lộc. Đại Úy Vẫn cho biết ông là người ở đây lâu nhất (bốn đời Quận Trưởng đă thay phiên nhau) từ năm 1964. Và bây giờ ông nhất định ở đây chiến đấu đến hơi thở cuối cùng chứ không đi đâu hết. Ông kể tiếp:


    - Ngày mặt trận An Lộc mở màn có 6 chiếc trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân đến đáp vào Chi Khu để đưa gia đ́nh của quân nhân tại đây rời An Lộc. Tôi chạy vào hầm trú ẩn nói với vợ tôi : “Có trực thăng đến, em mau đưa các con về Sài G̣n, ở đây nguy hiểm lắm. Khi nào êm, anh sẽ về đưa mẹ con em lên. Nhưng vợ tôi nhứt định không chịu và trả lời : “Mẹ con em về nơi an toàn, ở đây rủi anh chết th́ mẹ con em sống với ai ? Em xin được ở lại đây cùng sống chết với anh”. Trong lúc đó vợ con của anh em quân nhân tại đây đều đă nhất loạt trả lời như thế, nên cuối cùng sáu chiếc trực thăng phải rời Chi Khu mà không có đàn bà trẻ con nào theo… “

    Sau câu nói của Đại Úy Vẫn, tôi chợt nhớ lại gương liệt nữ Phạm Thị Thàng cách đây đă lâu. Chị Thàng là vợ của một chiến sĩ Nghĩa Quân. Chị và các con đều sống chung trong công sự chiến đấu của chồng trong làng. Một đêm nọ Việt cộng công đồn, chồng chị bị trúng đạn, chi thay chồng tung mấy chục trái lựu đạn vào đám Việt cộng khi chúng tấn công bằng biển người. Nhưng đến quả cuối cùng, bọn chúng quá gần nên chị đă chết chung với thêm mấy tên Việt cộng nữa bằng quả lựu đạn đó. Bây giờ vợ lính ở An Lộc cũng đă noi gương chị Thàng không chịu đi Sài G̣n ở lại tử thủ: sống chết với chồng con tại An Lộc. Đại Úy Vẫn tiếp:

    - Sáu chiếc trực thăng vừa bốc lên th́ một chiếc bị trúng đạn và rớt ngay bên ngoài ṿng đai Chi Khu rồi bốc cháy. Chúng tôi nh́n theo mà đă khóc lúc nào không hay. Anh em Không Quân đă v́ sinh mạng gia đ́nh chúng tôi mà phải chết, tôi kính trọng và nhớ ơn nghĩa cử của quí anh em đó lắm. Cuối cùng tôi quyết định cho một trung đội mở đường máu ra cứu phi hành đoàn, nhưng cũng không kịp. Khi trung đội trở vào th́… chỉ c̣n phân nửa quân số, bởi lúc bấy giờ chiến xa Việt cộng quá nhiều. Rồi hai hôm sau, trai gia binh của chúng tôi tại đây cũng bị pháo kích nặng, hơn tám chục phần trăm gia đ́nh của quân nhân chết và bị thương…

    C̣n tiếp...

  2. #32
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Gà trống nuôi con

    Trong khi ngồi tiếp chuyện với tôi tại một căn hầm dă chiến được đào sâu dưới mặt đất, trước mặt tôi là Đại Úy Vẫn, quanh đó khoảng năm, bảy chiến sĩ mà mỗi người đang có vài em bé quấn qúit bên cạnh. Đại Úy Vẫn xoa đầu một bé gái khoảng 4 tuổi:

    - Tôi có năm đứa, bây giờ chỉ c̣n ḿnh nó, anh chị nó chết hết rồi, má nó cũng chết, ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại nó cũng chết trong trận pháo kích đó…

    Ông chỉ những đứa bé đang đứng cạnh mấy chiến sĩ quanh ông:

    - Đấy anh xem, bây giờ ở đây cái cảnh gà trống nuôi con rất nhiều. Cha mẹ và vợ con chúng tôi đă v́ chúng tôi mà chết tại đây, nên chúng tôi đă thề tử thủ tại đây đến hơi thở cuối cùng, dù có được đổi về Sài G̣n cũng không đi. Nếu một ngày nào đó mà anh gặp lại một trong những khuôn mặt của chúng tôi tại đây trên một địa danh an toàn nào đó không phải là An Lộc mà lúc đó chúng tôi c̣n tại ngũ th́… anh có quyền giết chúng tôi, nếu không phải là Lệnh hay Chỉ Thị cho chúng tôi rời An Lộc. Hôm nay anh là người Báo Chí của Không Quân đầu tiên đến đây, tôi xin được đại diện các chiến sĩ tử thủ An Lộc gửi đến anh em Không Quân, nhất là những phi hành đoàn đă lái tàu bay vào Chi Khu với ư định đưa vợ con chúng tôi đến nơi an toàn, những lời thành thật muôn đời nhớ ơn của chúng tôi, mặc dù vợ con chúng tôi không đi và… đă chết.

    Những chiếc ṿng tử thủ

    Nói đến đây Đại Úy Vẫn gỡ trong tay của ông ta ra 3 chiếc ṿng trao cho tôi:

    - Tất cả những chiến sĩ tử thủ tại đây mỗi người đều có mang ba chiếc ṿng này và chúng tôi đă đặt tên là… ṿng AN LỘC TỬ THỦ. Nay tôi xin tặng anh để làm kỷ niệm… Anh là người thứ hai, sau Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa mà chúng tôi tặng ba ṿng này.

    Một Thiếu Úy ngồi gần đó nh́n Đại Úy Vẫn rồi nói với tôi:

    - Anh có viết bài th́ nhớ nói là Thiếu Tá, v́ ổng lên lon gần hai tháng nay, nhưng từ đó đến nay ở đây không ai bán “lon” mà mua nên… ông Vẫn “vẫn” mang “lon cũ”.

    Tôi nh́n Đại Úy Vẫn như thầm hỏi lại: “Có đúng thế không ? “. Thiếu Tá Vẫn gật đầu:

    - Đúng vậy.

    68 Ngày tử thủ An Lộc không lănh lương

    Cũng tại đây, tôi gặp một chiến sĩ c̣n rất trẻ, anh ta tâm sự với tôi như sau:

    - Em là Binh Nhất Lê Nhâm Th́nh, quân nhân Không Quân, thuộc Sư Đoàn 2 Không Quân tại Phù Cát, kỹ thuật phi cơ loại C 7A. Về phép thăm nhà hôm 28.3.1972 rồi bị kẹt lại đây đến bây giờ. Trọn gia đ́nh em bị pháo kích chết hết rồi, chỉ c̣n lại một người anh đang tại ngũ tại An Lộc này thôi. Đă nhiều lần em muốn ra đón tàu để về lại với Không Quân, nhưng c̣n ngại sẽ bị rắc rối về an ninh nên chưa dám. Tính đến nay là 68 ngày, trong suốt thời gian này tại đây em đă chiến đấu như một chiến sĩ Bộ Binh thật sự, nhưng chỉ ăn nhờ cơm gạo sấy của anh em ở đây thôi chứ không có lănh lương. Em có lấy được một AK của tên Việt cộng mà em đă bắn chết nó. Hôm nào về Sài G̣n, nhờ anh tŕnh lên Bộ Tư Lệnh Không Quân, nếu không bị rắc rối, anh viết thư về đây, KBC 6995, lúc đó em sẽ bằng đủ mọi cách về tŕnh diện đơn vị…

    Buổi chiều, tôi có dịp vào thị trấn An Lộc. Phố xá thật tiêu điều, những căn nhà không người trơ vách, những tuyến kẽm gai quanh Chi Khu cháy cong queo. Đó đây một vài xác trực thăng cháy xụm, những chiến xa đứt xích nằm chỏng chơ như quái vật không đầu, vài chiếc khác chúi mũi xuống những hố bom, một chiếc dù màu trắng đỏ phất phơ theo chiều gió trên ngọn cao su. Những chiếc dù tải hàng c̣n vương văi theo hai bên quốc lộ, trên mặt con lộ 13 những hố đạn, hố bom sâu hoắm. Những vỏ đạn đủ cỡ, đủ loại nằm ngỗn ngang, những thân cây cao su cháy đen ngă gục. Trong ṿng đai Chi Khu, một bức tường dầy và cao lổ chổ đầy vết đạn lớn nhỏ mà phía trên c̣n đọc được ba chữ “ QUẬN AN LỘC “.

    Gần đó, một vách tường khác có dấu hồng thập tự với ba chữ “TRẠM CỨU THƯƠNG “, phía sau là một trường tiểu học bị tróc nóc. Xa hơn một chút là trại gia binh An Lộc cũng đă điêu tàn. Bước ra phía ngoài, một xe Honda bốn bánh nằm lật ngang, bên hông có cẩn thận ghi hai chữ thật lớn “XE NHÀ” bằng sơn màu trắng và… một chữ “BINH ” viết bằng đất đỏ An Lộc. Tôi thầm cười, trạm cứu thương, trại gia binh, nhà thờ, chùa chiền và đàn bà trẻ thơ vô tội c̣n phải lănh đạn pháo kích của “quân giải phóng”, th́… “Xe Nhà Binh” sức mấy mà thoát khỏi, sao không đề là… “XE CỦA QUÂN GIẢI PHÓNG“. Tôi đâm ra phục lối chơi chữ hay hay của người nào đó đă viết thêm chữ “ BINH“ sau hai chữ “XE NHÀ “ này.

    Châu chấu đá voi

    Cách cổng vào Chi Khu An Lộc khoảng hai cây số, một chiếc xe cần cẩu của tư nhân màu vàng nằm chắn ngang một nửa mặt con lộ 13, một chiếc khác nằm trơ bánh lên trời dưới mé lộ. Được biết, trong những ngày đầu sôi động của An Lộc, khổ chủ hai chiếc xe trên đă t́nh nguyện đem ra cho “đâu đít lại với nhau” nằm chắn ngang lộ, với ư định không cho chiến xa của Việt cộng vào thị trấn An Lộc thân yêu của họ. V́ họ đă nghĩ rằng, một khi mà chiến xa của Việt cộng vào được trong thị trấn th́ dù cho xe cần cẩu của họ có để trong nhà cũng không c̣n. Nhưng… kết quả T54 của Việt cộng là voi, mà xe cần cẩu của họ là châu chấu!

    Thoát chết nhờ lối tuyên truyền láo của Việt cộng

    Gần ṿng đai Chi Khu vài chục thước, mấy chiếc T54 nằm quay đầu ra bất động. Hỏi, th́ một chiến sĩ cho biết như sau:

    - Dạo đó, khi An Lộc bị thất thủ, hàng chục chiến xa Việt Cộng đă phây phây đi vào và các tay xạ thủ cũng đă phây phây ngồi hẳn phía trên xe. Chúng tôi lúc đó chỉ c̣n hơn đại đội, nấp dưới những hầm hố, không dám bắn trước. Nhưng chúng tôi lấy làm lạ, không hiểu tại sao những chiến xa này không khai hỏa mà chỉ vào đậu đó, xong chạy ṿng ṿng, thật chậm như có ư t́m kiếm rồi quay ra và… khi chúng quay đầu xe ra, bọn tôi xách M72 chạy theo hạ hết. Thứ này mà bắn vào đứt xích là nằm liền. Các trưởng xa và xạ thủ thoát khỏi xe cũng bị chúng tôi hạ luôn, có vài tên bị chúng tôi bắt làm tù binh và chúng cho biết :

    Sở dĩ khi chúng đưa xe vào tận đây mà không khai hỏa, v́ trước khi vào đây, cấp chỉ huy đă cho chúng biết, hiện An Lộc hoàn toàn do quân giải phóng kiểm soát và… làm chủ t́nh h́nh, nên chúng vào và cứ tự nhiên ngồi trên nóc xe như “người quân nhân trở về đơn vị” và chạy ṿng ṿng là có ư đi t́m “đồng chí”. Đến khi t́m mà không gặp được đồng chí nào hết nên mới lừng lững quay ra, và khi quay ra th́ mỗi chiếc bị lănh vài viên M72 từ mặt hậu rồi đứt xích luôn không thể quay đầu lại. Bởi thế mà anh thấy những chiến xa quanh ṿng đai này phần đông đều quay đầu ra. C̣n những chiếc khác xa xa th́ lại quay đầu vào, những chiếc này hầu hết là lănh bom và rocket từ phi cơ.

    Nghe xong câu chuyện, tôi thầm nghĩ: “Bọn cộng sản Bắc Việt ngoài lối thí quân, nướng quân bằng những cuộc tấn công biển người ồ ạt của chúng, mặc cho hỏa lực khủng khiếp từ phi cơ ta “làm cỏ”, nay chúng có thêm một lối “nướng quân” bằng cách tuyên truyền láo với quân sĩ thuộc quyền. Bởi nếu chúng không nói láo với quân sĩ của chúng th́ anh lính này đâu c̣n sống đến ngay nay để kể lại giai thoại “chiến xa Việt cộng phây phây vào sào huyệt ta đi t́m “đồng chí”, để rồi khi quay đầu ra vừa khỏi ṿng đai, th́… nằm đây luôn đến bây giờ. Trong lúc vui miệng anh lại kể cho tôi nghe thêm một vài chuyện khó tin, nhưng tại đây lại… có thật.

    Trong thời gian tử thủ bệnh táo bón rất quí. Có những lúc bên ngoài nó pháo rát quá, hầm trú ẩn th́ nhỏ, mà anh em lại quá đông, đôi khi muốn đi cầu lại ngại lănh đạn, nên chúng tôi cứ… “cố nín, cố nín”. Đến khi không thể nín được mà bên ngoài vẫn c̣n pháo, th́ dùng… lớp trong của nón sắt làm cái “bô”. Xong, đứng ở miệng hầm liệng ra ngoài. Có người chỉ mới hai ngày đă liệng luôn cả hai lớp của nón sắt, nên ở đây mà trong thời gian đó ai có được cái bệnh táo bón là quí như vàng, thảnh thơi lắm. Mà tóm lại trong thời gian đó, người nào có táo bón mấy đi nữa th́ cũng phải có một lần “liệng nón sắt”.

    Một giai thoại khác: “TẮM BẰNG MỒ HÔI“,

    v́ tại đây nước rất quí, quí hơn vàng, có khi phải dùng đến nước tiểu để làm “nở cơm sấy” khi ăn. Có nhiều người chịu không nổi phải bịt cả hai lổ mũi, nhai sơ rồi nuốt vội như cố “tống cơm vào bao tử” cho xong để có sức mà… tử thủ nhưng không dám ăn nhiều, v́ nếu ăn nhiều th́ trời sẽ không cho được cái bệnh táo bón. Bởi nước quí như vàng, nên trong thời gian đó lúc nào thấy êm, ai muốn tắm th́ cứ cử tạ bằng cách bưng một thùng đạn nặng trịch đưa lên, đưa xuống cho đổ mồ hôi. Xong cởi ngay quần áo ra… ung dung ngồi kỳ đất trên da nở ra và rất dễ… “TẮM BẰNG MỒ HÔI“.

    Phạm Phong Dinh

    http://lytuongnguoiviet.com/index.ph...inh-t-th-an-lc
    Last edited by Tigon; 03-04-2013 at 10:52 AM.

  3. #33
    Member Nguyễn Mạnh Quốc's Avatar
    Join Date
    25-03-2011
    Posts
    4,374

    ngày ấy.. tưởng chừng như... mới hôm qua..!!

    Cảm ơn tất cả quí Bạn.. biết bao nhiêu h́nh ảnh, phản ánh tất cả những đau thương mà quân và dân miền Nam phải gánh chịu... nmq xin quí Bạn hăy đến You Tube.. ..

    ; LIên khúc Lưu vong - Tự do Ơi- DVD Asia

    T́nh Ca Cho Nguyễn Thị Saigon - Việt Dzũng

    Một Chút Quà Cho Quê Hương - Khánh Ly - Việt Dzũng

    Xin hăy cố gắng ǵn giữ lấy cái bản chất Việt Nam thuần tuư, .. nmq

  4. #34
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí Kể Về Cuộc Hải Tŕnh Cuối

    (được cung cấp từ Tổng Hội Hải Quân VNCH)


    * Câu chuyện giữa ông Dương Văn Minh và Tư lệnh Hải quân

    Theo lời của cựu trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong hồi kư, vào ngày 29 tháng 4/1975, trước t́nh h́nh bi đát tại Sài G̣n, khoảng 10 giờ sáng, phó đô đốc (3 sao) Chung Tấn Cang, tư lệnh Hải quân, đă báo cho ông Dương Văn Minh biết hiện tàu bè của Hải quân đủ để cho chính phủ và binh sĩ xuống miền Tây (các tỉnh ở Hậu Giang), Phú Quốc, Côn Đảo nhưng ông Minh cho biết chính phủ đang lo thương thuyết.

    Đến 4 giờ 30 chiều ngày 29/4/1975, ông Brochand, cố vấn chính trị ṭa đại sứ Pháp đă báo cho ông Dương Văn Minh biết là Cộng sản Hà Nội không chịu nói chuyện với chính phủ của ông Minh nữa. 5 giờ chiều, ông Minh gọi phó đô đốc Chung Tấn Cang đến gấp. Ông Cang đă cử phó đề đốc (1 sao) Diệp Quang Thủy, tham mưu trưởng Hải quân, gặp ông Dương Văn Minh. Ông Minh nói với vị tham mưu trưởng Hải quân:

    - Tôi trao cho Hải quân toàn quyền hoạt động.

    Ông Minh cũng nhờ phó đề đốc Thủy cho bà Minh và người con rễ là đại tá Nguyễn Hồng Đài, nguyên Trưởng khối Kế Hoạch của Tổng cục Tiếp vận, đi theo tàu Hải quân. Bà Minh nói nếu ông Minh không đi th́ bà ở lại, c̣n đại tá Đài th́ người vợ đă rời Việt Nam sang Pháp trước đó vài ngày nên đă đi theo Hải quân.

    Ông Minh cũng nhờ Hải quân đưa giùm trung tướng Mai Hữu Xuân, chuẩn tướng Nguyễn Thanh Hoàng và con gái ra khỏi Việt Nam. Trung tướng Xuân nguyên tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia kiêm đô trưởng Sài G̣n trong thời ông Minh làm chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách Mạng từ 2/11/1963 đến 30/1/1964, sau đó bị tướng Khánh bắt giam, đến tháng 11/1964 được tướng Khánh bổ nhiệm làm Tổng cục trưởng Chiến tranh chính trị, nhưng chỉ hai tháng sau th́ tướng Khánh cho giải ngũ; chuẩn tướng Nguyễn Thanh Hoàng từng giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 7, tư lệnh phó lănh thổ Quân khu 2, cuối cùng là chánh thanh tra cấp quân đoàn, bị tổng thống Thiệu cho giải ngũ vào tháng 4/1974.

    * Giờ thứ 25 của Hải quân VNCH

    Theo hồi kư của phó đề đốc Nguyễn Hữu Chí, Phụ tá Hành quân Biển của Tư lệnh Hải quân, những giờ cuối cùng của Hải quân VNCH được ghi lại như sau.

    “Tám giờ tối nay, nước bắt đầu lớn, chúng ta sẽ nhổ neo.” Đó là lệnh của thượng cấp, từ một vài ba nhân sự ṇng cốt của bộ Tư lệnh Hải quân. Lúc đó là 10 giờ ngày 29/4. Từ lúc sau 10 giờ cho đến khi phó đề đốc Chí rời văn pḥng của ông ở Tân Cao Ốc, gần 5 tiếng đồng hồ trôi qua trong sự bâng khuâng vô tả của vị phó đề đốc này. Trong tâm trạng chênh vênh đó, chính ông trong cương vị Phụ tá Hành quân Biển cũng chẳng biết phải hành động như thế nào để khi tự chấm dứt nhiệm vụ, những phương tiện đặt thuộc quyền sử dụng của ông sẽ bị phá hủy. Ông nghĩ dến Trung tâm Hành quân, lúc nào cũng có phiên trực mươi người. Trưa ngày này, phiên trực chỉ c̣n thưa thớt vài nhân viên. Phó đề đốc Chí vẫn c̣n 2 sĩ quan, đó là chánh văn pḥng và tùy viên ở bên cạnh ông.

    Vào những giờ phút đó, phó đề đốc Chí nghĩ đến hai bà chị của ông. Ông tự hỏi hai người thân t́nh của đời ông sẽ phải sống thiếu vắng ông đến bao giờ. Hai chị ông ở bên kia Khánh Hội làm sao ông vù được qua đó để giă từ trong giờ thứ 25 này. Ông sực nhớ ông c̣n 50 ngàn đồng giấu trong một ngăn kéo bàn viết. Vội vàng ông móc mớ bạc đó ra, gói kỹ lại, biên mấy chữ nhờ cha Tuyên úy trao hộ về Tân Qui. Xong phần việc t́nh cảm, ông quay về với thực tại.

    Kể lại tâm trạng lúc đó, phó đề đốc Chí viết: “Vẫn là một thứ băn khoăn, bối rối, chứ không phải là một thực tại rơ ràng chi hết. Duy có việc ra đi là khẳng định rồi. Nhưng từ lúc nhận lệnh cho đến khi nhổ neo, nếu phải chờ khi màn đêm phủ xuống th́ quá lâu. Mười tiếng đồng hồ nữa, mười tiếng để triệt tiêu cơ cấu, phá hủy sự sản hay chỉ để trôi qua trong tuyệt vọng" Một lúc nào đó tôi nhất quyết phải làm vỡ đổ trung tâm Hành quân, phương tiện chỉ huy của tôi đó. Tôi nhờ một hạ sĩ quan đi t́m cho tôi một ít lựu đạn lân tinh. Một lát sau người ấy trở lại báo cáo không t́m được. Thế là ư định phá vỡ cơ sở đặt dưới phần nhiệm của tôi không thành...”

    Vào khoảng trước 3 giờ, phó đề đốc Chí rời văn pḥng, ông định làm một ṿng quan sát t́nh h́nh rồi trở lại. Trong thâm tâm ông, giờ khởi hành vẫn đúng như thượng cấp ấn định. Thế rồi khi đến ngang cổng Hải quân Công xưởng, ông thấy rất đông binh sĩ cùng thân nhân tụ tập. Quân nhân không chỉ là Hải quân mà c̣n từ các binh chủng khác nữa. Họ mang theo vũ khí cho ông cảm tưởng đây là một cuộc chuyển binh đang chờ đợi nhập bến tàu. Quả thật họ đang chờ đợi được tháo cổng không phải để từ trong ra mà từ ngoài vào.

    Thay v́ về khu cư xá, phó đề đốc Chí rẽ vào cổng Hải quân Công xưởng. Sĩ quan trực nhận lệnh của ông mở cổng cho đoàn người di tản tuần tự đi vào, tự bỏ vũ khí lại rồi tuần tự xuống tàu. Thấy mọi sự đâu vào đó, phó đề đốc Chí rời khu Công xưởng quay về bến Bạch Đằng. Ông đi ngược lại với ḍng người tuôn vào từ phía đường Tự Do và Hai Bà Trưng. Làn sóng người lúc bấy giờ không xuôi về Hải quân Công xưởng nữa mà lại rẽ vào cầu B có ba chiến hạm lớn cặp tại đó: DER 1, WHEC 3, WHEC 2 tuần tự từ trong ra ngoài.

    Phó đề đốc Chí mang trên người áo giáp, trên đầu đội mũ lưỡi trai, chen vào đám đông đến gần hạm kiều HQ 1. Ông hét to: Khoan cho lên tàu, hăy giữ họ trên tàu. Lúc đó, phó đề đốc Diệp Quang Thủy, tham mưu trưởng Hải quân cũng có mặt ở đó. Ông cũng hét to lên: Khoan cho bất cứ ai lên tàu. Thế nhưng không ai ngăn cản được đám đông lúc này, nên cả hai vị phó đề đốc đành rồi khỏi cầu B. Phó đề đốc Chí hỏi phó đề đốc Thủy bây giờ tính ra sao, có cho gia đ́nh xuống tàu không" Phó đề đốc Thủy lắc đầu bảo không. T́nh thế hỗn độn mỗi lúc một hơn. Hai phó đề đốc chia tay. Phó đề đốc Chí vội vàng rẽ xuống cầu Đô Đốc nơi đang có một vài tiểu đỉnh cặp không rơ để nghỉ ngơi hay chờ lệnh ai. Anh em trên chiến đỉnh nhận diện ra ông. Ông thấy thủy thủ đoàn chiến đỉnh rất b́nh tĩnh, hầu như không tỏ chút ǵ lo âu sợ hăi.

    Phó đề đốc Chí nhờ chiến hạm đưa ông đi quan sát một ṿng trên khoảng sông Sài G̣n. Nước đang c̣n giựt ṛng khá mạnh. Từ mạn sông nh́n lên bờ phía ngoài nút chận Bạch Đằng, người ào tới một lúc một đông. Ông nh́n rơ chiếc WHC 2. Ông nghĩ đến giờ ra đi sẽ nhập hạm ở tả mạn tức là sẽ nhờ tiểu đỉnh này cặp vào và lên tàu bằng thang giây.

    Đêm 29/4, phó đề đốc Chí có mặt trên HQ 2, tàu này xem như tách bến trước tiên và hướng về điểm hẹn ở Côn Đảo. Tiếp đó là các tàu khác. Chiều 30/4/1975, cả hạm đội đă mặt tại điểm hẹn. Các các phó đề đốc, sĩ quan cao cấp của Hải quân trên các chiến hạm di tản được mời sang soái hạm chỉ huy Tư lệnh Hải quân. Tại cuộc họp này, phó đô đốc Chung Tấn Cang cho lệnh toàn Hạm đội phải rời khỏi Côn Sơn càng nhanh càng tốt. Phó đề đốc Chí vẫn đi trên chiến hạm HQ 2 (WHEC 2). Ngay trong ngày đầu tiên của cuộc hải tŕnh, tàu HQ 2 đă phải nhận đến ba lệnh của Tư lệnh Hải quân. Lệnh đầu tiên là quày lại Côn Đảo để bốc vài trăm người trên chiếc xà lan.

    Đến chiều cùng ngày, HQ2 nhận thêm lệnh thứ hai là cứu thủy thủ đoàn và số người tị nạn trên tàu HQ 402 bị liệt máy; lệnh thứ ba đến vào buổi tối, đó là chiến hạm HQ 2 gịng dây kéo chiến hạm HQ 329. Cuộc hải hành vượt trùng dương của cả đoàn tàu bắt đầu sau khi HQ 329 được lôi xểnh chạy ở phía sau. Với vận tốc 7 gút một giờ, đoàn tàu phải mất 7 ngày mới đến Phi Luật Tân.

    Giữa đêm đầu hành tŕnh, vị trung tá Hạm trưởng báo cho phó đề đốc Chí là xin lệnh của soái hạm cho tàu HQ 2 tách khỏi đoàn tàu để chạy nhanh hơn. Lư do rất quan trọng là nước ngọt bị lộn dầu, nên nước uống trở nên khan hiếm. Phó đề đốc Chí do dự măi nhưng sau cùng chính ông thảo công điện sang soái hạm xin Tư lệnh Hải quân giải tỏa vị trí, không chờ hồi âm, ông đồng ư cho hạm trưởng gia tăng vận tốc từ bảy lên 10 gút một giờ. Sau đó, soái hạm hồi đáp công điện là không đồng ư nhưng phó đề đốc Chí lờ đi.

    Ghi lại sự việc này, phó đề đốc Chí viết như sau: “Có lẽ lần đầu tiên tôi bạo gan, không thi hành một mệnh lệnh. Tôi chợt nghĩ đến HQ 802 đă im lặng vô tuyến và trên đó đă có 2 vị phó đề đốc. Chiến hạm này đă rời Vũng Tàu từ sáng 30 trực chỉ Subic, tức là không qua điểm tập trung ở Côn Đảo. Nếu tôi bị ghép vào tội bất tuân thượng lệnh, tôi tự nghĩ giờ thứ 25, thoát được cứ thoát. Chúng tôi đang cơng một thằng bạn trên vai, HQ 329 cũng nặng nề lắm! Mà nặng nề hơn nữa, có lẽ là sự thua bại đang dày ṿ trong tâm trí mọi người buộc tôi im lặng, nhưng vẫn muốn khẩn khoản kêu lên: Hăy tháo gỡ xiềng xích cho nhau khi xiềng xích quân thù đă phủ xuống quê hương dân tộc của chúng ta rồi!”

    Tách khỏi đoàn tàu, HQ 2 lướt nhanh, khoảng trưa thứ hai của cuộc hải tŕnh, th́ có một tiếp liệu hạm của Hải quân Hoa Kỳ hải hành song song. Khi chỉ c̣n cách Subic chỉ một ngày đường, tàu Hoa Kỳ yêu cầu HQ 2 cho họ chuyển sang một sĩ quan liên lạc. Đó là một thiếu tá. Vị sĩ quan này tŕnh diện phó đề đốc Chí, ông ta mang theo đầy đủ lương thực cá nhân và máy truyền tin liên lạc với chiến hạm gốc. Đêm 4 rạng ngày 5/5/1975, khi gần đến Subic, thủy thủ đoàn cùng quân dân tỵ nạn trên tàu phụ lực nhau quăng ném súng đạn xuống biển. Từ dưới hầm sâu, hàng trăm viên đạn đại pháo loại 5 inch được kéo lên boong tàu. Các hầm chứa đạn được bốc dỡ trống trơn trước sự chứng giám của sĩ quan liên lạc Hoa Kỳ. Hoàn tất việc giải giới mới vào điểm neo được.

    Khi trời vừa hững sáng, phó đề đốc Chí được báo cáo là súng đạn đă được quăng trọn xuống biển trừ cổ đại pháo 5 inch. HQ2 từ từ vào điểm neo ấn định. HQ 802 đă có mặt ở đó tự bao giờ, và không c̣n một ai trên đó. Một chiếc LCM-8 thuộc căn cứ Hải quân Hoa Kỳ Vịnh Subic cặp bên tả mạn HQ 2. Phó đề đốc Chí và các tướng lănh quá giang được yêu cầu vận thường phục để rời tàu. Riêng phó đề đốc Chí được Hải quân Hoa Kỳ dành cho một danh dự cuối cùng: Một Hải quân đại tá Hoa Kỳ trong bộ tiểu lễ trắng đón chào ông tại cầu bến và đưa lên một chiếc Sedan đen do một thủy thủ lái. Các tướng lănh khác cùng gia đ́nh lên xe bus rồi cả đoàn tiến về trại tiếp cư.

    Trước đó, khi c̣n ngoài hải phận Phi Luật Tân, tất cả quân dân tỵ nạn đi trên tàu HQ2 đă cùng với thủy thủy đoàn và ban chỉ huy chiến hạm đă làm lễ hạ kỳ Việt Nam Cộng Ḥa. Buổi lễ diễn ra rất đơn giản nhưng cũng rất lịch sử. Lần cuối cùng, những người lính Hải quân VNCH của chiến hạm HQ2, trong nghi thức quân cách, làm lễ hạ quốc kỳ, bỏ lại đằng sau quê hương và quăng đời hải nghiệp. Ghi lại giây phút lịch sử đó, phó đề đốc Nguyễn Hữu Chí viết: Niềm đau ly xứ lẫn mất mát không c̣n ǵ xót xa và bẽ bàng khi nh́n thấy lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ bị ép phải ĺa bỏ vị trí của nó. Quốc dân ly tán. Quốc tịch xóa bôi. Mặc dù không vĩnh viễn nhưng sự việc đă xảy ra ngoài ư muốn của con người.

    http://navygermany.gerussa.com/

  5. #35
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Quote Originally Posted by nguyễn mạnh Quốc View Post
    Cảm ơn tất cả quí Bạn.. biết bao nhiêu h́nh ảnh, phản ánh tất cả những đau thương mà quân và dân miền Nam phải gánh chịu... nmq xin quí Bạn hăy đến You Tube.. ..

    ; LIên khúc Lưu vong - Tự do Ơi- DVD Asia

    T́nh Ca Cho Nguyễn Thị Saigon - Việt Dzũng

    Một Chút Quà Cho Quê Hương - Khánh Ly - Việt Dzũng

    Xin hăy cố gắng ǵn giữ lấy cái bản chất Việt Nam thuần tuư, .. nmq
    Kính BS Nguyễn Mạnh Quốc ,

    Những nhạc phẩm trên nằm trong phần cuối của loạt bài này : Vượt Biên : tự do hay chết

    Chân thành cám ơn những góp ư của Bác Sĩ

  6. #36
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Cuộc Di Tản Của Trường VBQGVN.. Và Người Thương Binh.

    Phan Văn Lộc K30.



    Trong buổi tiệc của Hội Vơ Bị Âu Châu, niên trưởng Nguyễn Thanh Đoàn K21, thuộc Bộ Chỉ Huy trường Vơ Bị, kể cho Phạm Xuân Sơn K30 nghe việc trường Vơ Bị di chuyển khỏi Đà lạt vào những ngày cuối tháng 3/1975. Khi di chuyển về đến B́nh Tuy th́ có một SVSQ khóa 30 bị thương nặng, khó sống được trong hoàn cảnh hỗn độn thiếu thốn trăm bề, nhưng NT Đoàn vẫn cầu nguyện xin ơn trên ban cho người SVSQ đó được tai qua nạn khỏi. Cho đến ngày hôm nay trong ḷng niên trưởng vẫn nghĩ đến người SVSQ bị thương đó và không biết sống chết thế nào? Niên trưởng Đoàn hỏi Sơn có biết tin tức về người bạn đồng khóa đó không? Cảm động trước tấm ḷng của người sĩ quan đàn anh, Sơn đă cho NT Đoàn biết người bị thương đó là Phan Văn Lộc, c̣n sống và hiện đang ở Mỹ.

    Đó là tóm tắt nội dung email của Sơn gửi cho tôi kèm theo số phôn và địa chỉ email của niên trưởng Đoàn. Tôi, Phan Văn Lộc, khóa 30 rất xúc động trước tấm chân t́nh của niên trưởng Nguyễn Thanh Đoàn K21 nên đă tiếp xúc ngay với NT. Chuyện bị thương và tử thương trên chiến trường, trên đường đi tản là quá b́nh thường, hơn nữa sự việc đă xảy ra cách nay ba mươi mấy năm đi vào quên lăng là chuyện thường t́nh. Nhưng một sĩ quan c̣n nhớ tới vết thương của một SVSQ mà ông không biết tên, th́ quả thật không b́nh thường chút nào mà đầy ḷng nhân ái.

    Là em áp út trong một đại gia đ́nh có truyền thống tôn ti, tôi xin cám ơn tấm ḷng của niên trưởng Nguyễn Thanh Đoàn, của các niên trưởng K21, của tất cả quư niên trưởng. Xin cám ơn trường Mẹ, trường VBQGVN đă sản sinh ra những người con đầy “t́nh tự Vơ Bị” và rồi trở thành những cấp chỉ huy đầy ắp t́nh đồng đội, t́nh chiến hữu ngoài chiến trường.

    * * *

    * Câu chuyện xảy ra đă hơn ba mươi mấy năm, giờ đây nhờ những buổi họp mặt, nhờ nhắc lại kỷ niệm cũ, chiến trường xưa của niên trưởng Đoàn khiến dĩ văng trở về như một cuốn phim quay lại trước mắt tôi, xin phép quư huynh đệ cho tôi kể lại chuyện xưa, chuyện những SVSQ bỏ trường mà ra đi vào nơi lửa đạn.

    Sau khi măn mùa quân sự năm thứ hai và bước vào mùa văn hóa, khóa 30 cũng như các khóa khác khi đi học văn hóa vẫn phải trang bị vũ khí đầy đủ để sẵn sàng tác chiến v́ t́nh h́nh chiến sự bên ngoài càng ngày càng trở nên khốc liệt. Ngày 30 tháng 3 năm 1975, lúc 3 giờ chiều Trung Đ̣an SVSQ được lệnh trở về doanh trại để chuẩn bị cuộc di hành xa với đầy đủ hỏa lực tác chiến. Khỏang hơn 4 giờ chiều, liên đội G, H rời khỏi trường Mẹ bằng cổng Nam Quan trên 4 chiếc GMC. Ra đi lần nầy chúng tôi không ngờ đây là lần vĩnh biệt ngôi trường thân yêu mà chúng tôi đă sống một năm 4 tháng 4 ngày 15 giờ.

    Liên đội G, H chúng tôi được đưa xuống bảo vệ Cầu Đất, c̣n các liên đội khác th́ trải dài cho đến đập thủy điện Đa Nhim. Ngày hôm sau dân cư trong thị xă Đà Lạt biết được các SVSQ đă rời trường Vơ Bị nên họ bắt đầu bỏ Đà lạt để ra đi. Đến 7 giờ tối chúng tôi được lệnh của Trung Đoàn di chuyển theo hai bên lề đường để bảo vệ cho dân Đà Lạt di tản, chúng tôi đi bộ suốt đêm măi đến 5 giờ sáng hôm sau chúng tôi mới qua khỏi đèo Sông Pha thuộc quân Đơn Dương và dừng quân tại đây chờ các liên đôi khác tập hợp đầy đủ.



    V́ liên đội G, H đi đầu nên chúng tôi có thời giờ nghỉ chân chờ cho cả Trung Đ̣an tập hợp đầy đủ dưới chân đèo Sông Pha. Tôi nằm đại bên lề đường, đầu gác lên balo đưa mắt nh́n chung quanh, bạn bè trong đại đội nằm rải rác khắp nơi, xa xa từng đoàn người di tản từ Đà Lạt, theo quốc lộ hướng về B́nh Tuy. Cả một đoàn người hỗn độn, nào là tiếng động cơ của GMC, xe dân chính và tiếng người hoà lẫn nhau như một điệu nhạc quay cuồng mặc dù trong tâm tư của tôi trầm lắng và buồn bă về cuộc di tản nầy. Tôi nghĩ là chúng tôi không thể nào trở về ngôi trường thân yêu đựơc nữa, rồi giấc ngủ đă đến với tôi lúc nào tôi không hay, măi cho đến khi bị cái đá của một người bạn đồng khóa vào chân tôi mới chợt tỉnh dậy th́ trời đă sáng. Nh́n đồng hồ tay tôi thấy kim chỉ 7 giờ 30 sáng, cả Trung Đoàn SVSQ được lệnh tập hợp và lần lượt lên xe GMC để tiếp tục cuộc hành tŕnh hướng về B́nh Tuy. Lần nầy cuộc hành tŕnh của Trung đ̣an SVSQ không lẻ loi v́ có thêm vị Chỉ huy trưởng khả kính của chúng tôi là Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ dẫn đầu mặc dù ông có sẳn trực thăng dành riêng cho ông.

    Đ̣an xe của chúng tôi đi đầu, theo sau là cả một đ̣an người di tản, hễ xe của chúng tôi đi đến đâu là dân chúng bỏ nhà đi theo bằng đủ mọi phương tiện mà họ có thể dùng, kể cả xe ḅ tạo nên một làn sóng người khổng lồ di tản xuôi Nam. Xe chúng tôi chạy qua Phan Rí. Tôi nhận thấy nơi đây không c̣n chính quyền kiểm soát nữa, cướp bóc nổi lên khắp nơi. Măi đến chiều ngày hôm đó, chúng tôi được lệnh dừng quân tại Phan Thiết và Trung Đ̣an SVSQ đóng quân pḥng thủ trong trường Tiểu Học cách toà tỉnh trưởng không xa.

    Một đêm an lành trôi qua. Đang đắm ch́m trong giấc ngủ, quên hết cả trời đất sau một cuộc hành tŕnh mệt mỏi th́ chúng tôi bị đánh thức bởi một tiếng nổ long trời lở đất. Bừng tỉnh dậy tôi mới biết Việt Cộng đang pháo kích vào Phan Thiết, một trái đă rơi trúng hầm xăng của toà Hành Chánh tỉnh, tôi thấy một cụm lửa bốc cao hơn 20 thước mặc dù tôi đứng tại trường tiểu học. Ngay lúc đó chúng tôi được lệnh phân tán mỏng, v́ sợ sau khi pháo kích Việt Công sẽ tấn công. Chờ măi không thấy động tỉnh ǵ trung đ̣an được lệnh tập hợp và lên xe tiếp tục cuộc hành tŕnh tiến về B́nh Tuy.

    C̣n tiếp...

  7. #37
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    *Lúc nầy trên quốc lộ về B́nh Tuy chúng tôi di chuyển rất khó khăn v́ làn sóng người di tản quá đông kể cả dân chúng cùng quân đội từ vùng 1 chạy về tạo nên một đoàn người di tản vô trật tự.

    Biết bao nhiêu cảnh thương tâm đă xảy ra trước mắt tôi. Nào cha mẹ lạc mất con, vợ mất chồng, người chết v́ đạn lạc, kẻ chết v́ bị rơi xuống đường bị xe cán, thân xác họ được người đồng hành mang để đại bên lề đường!



    Xế chiều, đ̣an xe của chúng tôi đến ngă ba B́nh Tuy, nơi đây có một chiếc cầu bắc qua con

    kinh nhỏ nhưng mùa nây không có nước chảy qua và cầu đă bị VC giựt ḿn xập từ lâu, được

    công binh sửa chửa tạm bằng những vỉ sắt của phi đạo để cho xe qua tạm. Kế bên cầu có một

    ngọn đồi, địa phương quân đóng giữ để bảo vệ cầu. Khi đ̣an xe của chúng tôi qua cầu th́ bị địa

    phương quân bắn xuống không cho qua nên Tướng Thơ điện vào B́nh Tuy hỏi th́ được Tướng

    Nhật (K10) tư lệnh chiến trường B́nh Tuy cho biết v́ giữ an ninh cho tỉnh ông không cho lệnh

    vào B́nh Tuy khi trời tối nên Tướng Thơ ra lệnh cho Trung Đ̣an SVSQ nghỉ lại qua đêm, chờ

    sáng sẽ tính sau.

    Hôm sau, 5 giờ sáng, được lệnh của Tướng Thơ, Trung Đ̣an SVSQ bắt đầu di chuyển vào B́nh

    tuy, dẫn đầu là thiết giáp M113, một xe jeep, một chi đội Thiết Giáp, một đại đội Biệt Động

    Quân, tất cả đều chịu dưới quyền chỉ huy của Tướng Thơ. Không ngờ khi chiếc xe jeep đă qua

    được bên kia cầu, xe M113 c̣n đang ở giữa cầu th́ bị 2 trái B40 của VC từ trên đồi bắn xuống,

    một trái làm cháy chiếc M113, trái khác làm lật chiếc xe jeep. Tôi đứng trên chiếc xe GMC

    cách xa hơn 200 thước. Trước xe GMC là xe của Tướng Thơ và chiếc thiết giáp của trường do

    Đại Úy Lập chỉ huy.


    Trước sự việc xảy ra như vậy Tướng Thơ mới ra lệnh cho NT Cần, thủ khoa K20 là giáo sư của

    Trường gọi điện vào BT th́ được biết đồn Đia Phương Quân trú đóng trên đồi đă bị mất liên lạc

    hồi 12 giờ đêm hôm qua. Phải diệt chốt để vượt qua, Tướng Thơ ra lệnh phá chốt để vào B́nh

    Tuy, những chiếc thiết giáp

    được dàn hàng ngang và SVSQ cùng Biệt Động Quân từng chiếc tiến lên chiếm đồi.


    VC từ trên đồi bắn xối xả xuống, nào là đại liên, B40, và AK47, cho nên tôi, NT Xù K28 cùng

    NT Hoà K27 (SĐI, từ vùng 1 về, gặp trường di tản nên đi chung luôn) nhảy xuống mô đất gần

    đó để tránh đạn.

    Chúng tôi nghe một tiếng nổ thật lớn, buị cát bay mịt trời, sau đó chúng tôi kiểm soát lại coi có

    ai bị thương không? Nh́n qua NT Xù tôi thấy tay của NT bị một mảnh đạn trúng chảy máu, tôi

    nói:

    _“ Tay của NT bị thương rồi, để tôi băng cho”.

    Tôi lấy băng cá nhân trên nón của NT Xù để băng cho anh. Trong lúc tôi đang băng th́ NT Xù

    nh́n nơi ngực của tôi có vết máu chảy ra, NT la lên:

    _ “Ngực anh Lộc cũng bị thương”.

    Tôi vội vạch aó ra th́ thấy ở ngực bên phải có một lỗ nhỏ và máu đang chảy ra, NT Hoà nghe

    được vội chạy tới bắt tôi nằm xuống và băng vết thương cho tôi, đồng thời NT la lớn lên:

    _ “Lộc đă bị thương nặng, có y tá nào gần đây xin tiếp cưú”.

    May có một anh y tá của trường ở gần đó chạy đến và băng bó cho tôi, có lẽ do kinh nghiệm cứu

    thương, anh thấy tôi bị ở ngực lại thở kḥ-khè nên anh biết t́nh trạng của tôi, anh vội ta la lên:

    “Anh nầy bị thương xuyên qua phổi, cần phải đưa vào bệnh viện gấp, nếu không máu sẽ đông lại

    rất nguy hiểm đến tính mạng”.

    May cho tôi, có một NT K26 (tôi quên tên) mang được một chiếc xe jeep từ trường về, NT vội

    chạy đến d́u tôi lên xe và la to:

    _ “Có anh SV nào theo tôi đưa anh nầy vào bệnh viện không?”.


    Người bạn thân cùng trung đội là Vơ Đ́nh Nhân nhảy lên xe ôm tôi cho NT chạy xe về hướng

    B́nh Tuy.

    Mặc dù nửa người của tôi tê cứng, nhưng đầu óc tôi vẫn c̣n tỉnh táo, tai tôi vẫn con nghe tiếng

    đạn hai bên nổ ḍn …rồi dần dần tôi thiếp trong hôn mê không c̣n biết ǵ nữa….Tôi bừng tỉnh

    dậy khi ai nắm vai lay động và nghe tiếng Vơ Đ́nh Nhân nói:

    _ “Lộc! Lệnh trên không cho lính đi tản lẻ tẻ vào B́nh Tuy nên tao chỉ được đưa mầy đến đây,

    NT K26 và tao sẽ đỡ mầy xuống đây để chờ xe cứu thương đưa mầy vào bệnh viện. Mầy yên

    tâm, NT Nhật đă gọi xe cưú thương rồi tới rồi. Tao phải trở lại chỗ cũ để di chuyển theo

    trường, chúc mầy b́nh an”.

    Tôi nhờ Nhân lấy sợi dây chuyền tôi đang đeo trong cổ ra, sợi dây chuyền có tượng Phật mà bà

    nội tôi đă đeo vào cổ tôi trước khi từ giă gia đ́nh để vào trường Vơ Bị. Cầm tay Nhân tôi nói:

    _ “Nhân, mày giúp tao, đưa sợi dây chuyền nầy cho bà nội tao, nói với bà nếu tao không về là

    tao đă chết, bà đừng ra đây t́m xác tao rất nguy hiểm, tao cảm ơn mầy, tạm biệt..”.

    Chưa nói hết câu “tạm biệt mày và niên trưởng..” th́ tôi thiếp đi, hồn lâng lâng như đi vào

    khoảng không, tất cả những h́nh ảnh từ thời ấu thơ, h́nh ảnh những người thân yêu trong gia

    đ́nh kể cả h́nh ảnh của người yêu lần lượt hiện ra trong trí tôi. Sau nầy khi nghe tôi kể lại,

    những người lớn tuổi cho biết đó là sự việc xảy ra cho người sắp ĺa đời. Thấm nhuần triết lư của

    đạo Phật do ông bà nội tôi thường giảng dạy, tôi nghĩ đời sống con người có sinh th́ phải có tử,

    đó là định luật tự nhiên của tạo hoá cho nên lúc đó ḷng tôi rất b́nh thản, cũng may v́ nửa bên

    người không c̣n cảm giác nên tôi không cảm thấy đau đớn v́ vết thương.

    Tôi bị đánh thức bởi một tiếng nói rất to:

    _ “ Các anh đưa anh SV nầy đến bệnh viện ngay”.

    Tôi vội đưa mắt nh́n về phía phát ra tiếng nói, tôi nh́n thấy một quân nhân đứng trên thiết vận

    xa M113, trên nón sắt của ông có 2 ngôi sao, bảng tên là Trần Văn Nhật. Sau nầy tôi mới biết

    là Tướng Trần văn Nhật K10 xuất thân từ trường VBQGVN, lúc đó ông là Tư Lệnh chiến trường

    B́nh Tuy.

    Người đứng đối diện với Tướng Nhật là một vị Đại Uư Quân y, ông chào đáp lễ Tướng Nhật rồi

    quay qua giúp anh y tá đưa tôi lên xe cứu thương, hối anh tài xế chạy lẹ lên.

    Tôi chợt thấy niên trưởng K26 và Nhân c̣n tần ngần đứng đó, họ chưa đi mà c̣n ở lại với tôi

    cho tới khi xe cứu thương từ trong B́nh Tuy đến. Xúc động biết chừng nào, có lẽ tim tôi bóp

    mạnh và mắt tôi mờ đi, tôi chỉ kịp nhận ra những bàn tay huynh đệ trường mẹ vẫy vẫy khi xe tải

    thương rồ máy, tôi muốn vẫy tay lại “vĩnh biệt” các anh nhưng đưa tay lên không được khiến tôi nấc lên mấy lần. Thấy vậy người bác sĩ ngồi bên cạnh vỗ vỗ nhẹ lên ngực tôi an ủi:

    _ “Trước đây tôi có phục vụ tại Trường Vơ Bị một thời gian nên tôi xem anh như người thân,

    anh đừng lo, tôi sẽ tận t́nh giúp anh”.

    Đến bệnh viện, ông t́m Đại Úy Bác sĩ Trưởng ngay để chữa cho tôi. Lúc đó miệng tôi cứng lại,

    không nói được nhưng đầu óc vẫn c̣n tỉnh táo. Bác sĩ lấy tên và loại máu trên thẻ bài của tôi

    xong gọi 2 y tá đưa tôi vào pḥng cấp cứu và chính tay ông đă giải phẫu thông phổi cho tôi.

    Xong phần giải phẫu và băng bó vết thương, ông nói sẽ tiếp máu cho tôi, v́ tôi bị mất máu nhiều

    quá nhưng rất tiếc loại máu của tôi không c̣n, ông nói sẽ cố gắng t́m kiếm những quân nhân và

    thương binh nhẹ trong bệnh viện có cùng loại máu .

    Nghe BS nói mà tôi ḷng tôi vẫn b́nh thản, tôi nghĩ nếu số tôi c̣n sống th́ ơn trên sẽ giúp cho

    tôi t́m được người cùng máu. Một lúc sau BS trở lại nói:

    _“Mạng anh lớn lắm v́ có một anh lính TQLC bị thương nhẹ có cùng loại máu với anh và chịu

    hiến máu cho anh, tôi cảm ơn dùm anh rồi”

    Tôi đă nhận máu của một người lính mà tôi không biết mặt biết tên, ơn nghĩa nầy tôi không biết

    sao đền đáp chỉ biết cầu Trời Phật cho anh vạn sự an lành. Sau đó tôi đă thiếp đi, khi tôi tỉnh

    dậy th́ trời đă tối, nh́n đồng hồ trên tường, kim chỉ 9 giờ tối, đảo mắt nh́n quanh tôi thấy thương binh nằm chật

    kín cả pḥng, không đủ chỗ phải nằm trên băng ca.

    Một đêm an b́nh trôi qua tại bệnh viện B́nh Tuy, khỏang 10 giờ sáng, một bác sĩ đến thăm tôi

    và kể cho tôi biết ông tốt nghiệp trường Quân Y, mỗi năm khi đến mùa quân sự, khóa của ông

    phải ra Đà Lạt thụ huấn chung với khoá 19 Vơ Bị do đó ông luôn nghĩ ông cũng xúất thân từ

    trường VB nên ông tận t́nh với tôi như đàn em. Tôi và ông tâm sự với nhau, một lúc sau ông

    nói:

    _ “Tôi sẽ t́m một cô y tá có gia đ́nh ở Sá G̣n để cho theo anh về Tổng Y Viện Cộng Hoà nội

    trong chiều nay, 3 giờ chiều sẽ có chuyến bay chở thương binh về bệnh viện Cộng Hoà. Tôi nghĩ

    B́nh Tuy sẽ mất, với t́nh trạng vết thương quan trọng này, anh sẽ gặp nguy hiểm lắm nếu không

    được tiếp tục săn sóc”.

    Nói xong ông cầm tay tôi thật lâu, lắc lắc như muốn nói thêm rồi ra đi.

    C̣n tiếp...

  8. #38
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tôi nhắm mắt ngủ một giấc cho đến khi nghe một giọng nói trong trẻo của một người con gái đánh thức tôi dậy. Trước mắt tôi là bác sĩ và một cô y tá đứng kế bên, ông giới thiệu cô tên là Hồng, cô sẽ săn sóc và theo tôi về Sá G̣n và cô sẽ ở lại Sài G̣n.

    À ra thế, nhất cử lưỡng tiện, chứ mạng sống của một SVSQ chưa một ngày ra trận dễ ǵ được ưu đăi đặc biệt như thế. Nhưng tôi vẫn thấy vui nên nói lời cám ơn vị bác sĩ và cô y tá Hồng .



    Khi về đến Tổng Y viện Cộng Hoà tôi được đưa vào pḥng cấp cứu để BS giải phẫu lại một lần

    nữa.Tôi mê man và khi tỉnh dậy thấy ḿnh đang nằm pḥng khác là pḥng hồi sinh ở tầng hai,

    đó là ngày 5 tháng 4 năm 1975, ngày mà tôi không bao giờ quên được v́ khoảng 9 giờ 30 sáng

    tên phản bội Nguyễn Thành Trung đă dội bom vào dinh Độc Lập.

    Tôi nằm ở đây được một tuần, trong thời gian nầy tôi nhờ người báo tin cho gia đ́nh lên thăm.

    Sau đó tôi được chuyển qua khu phục hồi của sĩ quan. V́ thiếu pḥng nên 3 người ở chung một

    pḥng.

    Trong pḥng tôi gồm có một chuẩn uư Địa Phương Quân bị thương ở bụng, ruột già phải

    cho ra ngang hông, một thiếu uư Lôi Hổ bị đạn xuyên từ cằm lên đầu, anh nằm đây hơn 3 tháng

    để chờ tái giải phẩu. Lúc nào trên môi anh cũng nở nụ cười và luôn miệng hát:

    _ “Trên ṇng súng quê hương…tổ quốc đă nghiêng ḿnh…”.


    Đến hôm nay tôi không biết vị thiếu úy đó c̣n sống hay đă chết v́ ngày 30 tháng 4 khi VC vào

    Ság̣n, chúng đă đuổi tất cả thương bệnh binh VNCH ra khỏi bệnh viện. Những ngày sau đó t́nh

    h́nh Sai G̣n thêm sôi động, gia đ́nh tôi ở Sai G̣n đă đưa tôi về nhà, mời y tá đến săn sóc vết

    thương cho tôi…

    Tôi chỉ là một người lính chưa ra trận mà đă bị trọng thương và đă may mắn được mọi người

    thương, cứu tôi khỏi bàn tay của tử thần trong khi những quân nhân chiến đấu thực sự trên

    chiến trường th́ không được may mắn như tôi, biết bao các anh đă nằm xuống bên vệ đường,

    trong rừng sâu, trên đồi cao để đồng bào được b́nh an. Đă ba mươi mấy năm qua, vết thương

    trên da thịt tôi đă lành nhưng vết thương ḷng vẫn c̣n đang rỉ máu. Tôi không bao giờ quên

    được ngày 30 tháng 4, lúc 9 giờ sáng, tôi chết lặng người khi nghe trên đài phát thanh tiếng

    của Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân nhân các cấp buông súng đầu

    hàng!!!

    Gần đến ngày đau buồn của đất nước, tôi xin chia sẻ niềm đau cùng những người trai trẻ như tôi

    với bầu nhiệt huyết và mộng tang bồng hồ thỉ mang hoài băo lấp biển vá trời phải đành gián đọan

    nửa đường với ḷng uất hận…

    Tôi viết lên những ḍng chữ nầy để gởi lời tri ân đến các niên trưởng, bác sĩ, y tá, bạn cùng

    khóa, những quân nhân các đơn vị bạn đă giúp đở, cứu mạng sống của tôi. Những tấm chân t́nh

    đó đă nói lên t́nh tự Vơ Bị của các cưụ SVSQ cũng như những người đă từng một thời đến với

    Trường Mẹ, của những người cùng chung chiến tuyến. Tôi rất hănh diện là một cưụ SVSQ của

    Trường VBQGVN, là một người lính của QLVNCH, hiện tại cũng như măi măi về sau…


    Phan Văn Lộc K30

  9. #39
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Sao Hôm -Sao Mai :Trận đánh vô cùng ác liệt và đẫm máu xảy ra bên ḍng suối Mé vào giữa Tháng Tư , 1975

    IMG]http://i45.tinypic.com/29dvfrl.gif[/IMG]

    Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đă từ chối tản thương, họ đă đâu lưng cùng nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công. Rồi hai ngày sau, với sự hỗ trợ của một tiểu đoàn bộ binh, Tiểu đoàn 82/BĐQ trừ (-) đă trở lại trận địa để đánh một cú hồi mă cực kỳ dũng mănh…. v́ thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng-Sản bám trụ đă bị đánh bật ra khỏi vị trí cố thủ…”

    Giữa tháng Tư 1974, một trận đánh vô cùng ác liệt và đẫm máu đă xảy ra bên ḍng suối Mé (Ia Mé), cách Pleiku 30 cây số về hướng tây nam. Trong hai ngày 14&15 tháng Tư 1974, Tiểu đoàn 82/BĐQ/QLVNCH bị hai Trung đoàn 48/SĐ320 & 64/SĐ320/CSBV xa luân chiến, tấn công bằng chiến thuật biển người.

    Sau những cơn mưa pháo là những đợt xung phong. Cuối cùng, địch đă dùng tới thủ pháo chứa hơi ngạt để dứt điểm.

    Trưa 15 tháng Tư 1974 Cộng Quân tràn ngập căn cứ hỏa lực 711. Dù bị đánh văng ra khỏi căn cứ, Tiểu đoàn 82/BĐQ vẫn không bỏ chạy khỏi vùng. Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đă từ chối tản thương, họ đă đâu lưng cùng nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công.

    Rồi hai ngày sau, với sự hỗ trợ của một tiểu đoàn bộ binh, Tiểu đoàn 82/ BĐQ trừ (-) đă trở lại trận địa để đánh một cú hồi mă cực kỳ dũng mănh. Dạ chiến là sở trường của Biệt Động Quân Plei-Me, v́ thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng-Sản bám trụ đă bị đánh bật ra khỏi vị trí cố thủ.

    Chiến dịch kết thúc với tổn thất nặng nề của cả đôi bên, ta và địch. Thiệt hại phía ta là trên 50 quân tử trận. Thiệt hại phía địch là trên 200 quân bị giết (trong đó có một thượng tá). Từ đó, căn cứ hỏa lực 711 được gọi kèm thêm cái tên “Đồi Thịt Bằm”. Trận chiến qua nhanh như mưa bóng mây, nhưng mănh liệt như một cơn dông mùa hè.

    Rồi, t́nh h́nh lắng dịu, địch và ta lại gh́m quân, chờ dịp ra tay khi phát giác sơ hở của kẻ thù. Ở Plei-Me, thời gian ấy, đơn vị tôi chịu trách nhiệm một vùng cố định. Tôi có cảm tưởng như ḿnh là một tiểu tướng cầm quân thời Tam-Quốc.

    Tôi đă phải nặn óc, vận dụng hết khả năng, kinh nghiệm, sở trường của ḿnh để đương đầu với một đơn vị địch mạnh gấp năm sáu lần đơn vị ḿnh. Tôi biết rơ Sư đoàn 320 CSBV từ xuất xứ, tổ chức trận liệt, tới thói quen, sở trường, sở đoản. Địch thủ của tôi, những người chỉ huy tác chiến của Sư đoàn 320/ Điện-Biên, cũng là những tay dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Họ rất tinh khôn, và không kém can trường, liều lĩnh.

    Trong thời gian này, có một mẩu điện đàm của địch lọt vào đài kiểm thính của ta, trong đó, chính ủy Sư-Đoàn 320 /Điện-Biên, đă cảnh giác các đơn vị dưới quyền, “Phải tránh né tối đa mọi đụng độ trực tiếp với thằng Hai Nâu”. Pḥng 7 giải mă, cho tôi biết địch gọi TĐ82/BĐQ là “Thằng Hai Nâu”.

    Một ngày, giữa tháng Sáu 1974, trong khi tôi cùng hai đại đội đang lục soát vùng nam núi Chư Gô th́ được thông báo cái điện thứ nh́, “Thằng Hai Nâu đang hoạt động dă ngoại, phải khẩn trương bôn tập, đánh tiêu hao nó…” điện văn này của Bộ Tư Lệnh SĐ320/CSBV ra lệnh cho Trung đoàn 48/SĐ320.

    Sáng sớm hôm sau, từ đỉnh núi cao, qua ống nḥm, tôi thấy rơ những vệt cỏ tranh trên những ngọn đồi hướng bắc Chư Gô rạp xuống như những luống cày. H́nh như trong đêm, cả trăm người đă đạp trên cỏ để tiến về suối Lé (Ia Glaé). Suối Lé chạy dài từ đông bắc xuống tây nam, sát chân núi Chư-Gô. Con suối này cắt ngang trục tiến trên phóng đồ hành quân của tôi.

    Tôi ra lệnh cho Đại úy Quách cơ B́nh (k22 A) đang là tiểu đoàn phó giữ trại, đóng chặt cổng rào, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Suốt ngày hôm đó, tôi đă dội hàng trăm quả cối 4.2 (106 ly) và đại bác 105 ly trên những hàng cây gai xanh bên bờ con suối. Quân dă ngoại của tôi ém trong núi, không lửa khói, chịu đói. Rồi trong đêm, lợi dụng bóng tối, im lặng vô tuyến, theo đường tắt, tôi rút êm.

    Về tới cổng nam trại Plei-Me tôi mới lên máy gọi chú B́nh. Chỉ chừng mười phút sau cú điện đàm giữa tôi và Đại úy B́nh, th́ từ biên giới Miên, địch đă nă khoảng hai trăm trái đại bác vào trại. Từ vài năm nay, hầu như tất cả điện đàm vô tuyến của ta đều bị địch nghe trộm. Âm mưu của địch đă bị ta phát giác, cú đánh tiêu hao không xảy ra. Hụt ăn, địch gỡ gạc! Vụ pháo kích gây cho hai căn nhà tôle bị sập, và một binh nh́ gốc Chợ-Lớn bị tử thương. Rồi t́nh h́nh lại yên…

    Cuối tháng Sáu có tin mật báo, một cấp chỉ huy Cộng-Sản chiều chiều cưỡi ngựa, thám sát khu ngă ba làng Xổm (Plei Xôme). Làng Xổm nằm về hướng bắc, dưới chân ngọn núi lửa, cách Plei-Me chừng bảy cây số. Làng này đă bị bỏ hoang từ lâu. Trên bản đồ hành quân, làng Xổm nằm sát ranh giới hoạt động của Trung đoàn 42/ Bộ Binh trừ (-) và Tiểu Đoàn 82/ Biệt Động Quân. Trung tá Nguyễn thanh Danh (k19 VB) trung đoàn phó Trung đoàn 42/ Bộ Binh đang chỉ huy cánh quân bộ binh.

    Tôi muốn đích thân giăng bẫy hạ thằng Việt-Cộng gộc này. Sợ khi đụng trận, bắn nhầm quân bạn, tôi muốn anh Danh chia cho tôi thêm một cây số trách nhiệm về hướng bắc. Chuyện không thể nói trên vô tuyến, v́ vậy tôi phải lái xe ra căn cứ 711 gặp mặt Trung Tá Danh. Tại căn cứ hỏa lực 711, Trung Tá Danh đi vắng, nhưng may mắn, tôi đă gặp Đại Tá Nguyễn Hữu Thông (k16VB) Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 42 /SĐ22 Bộ Binh đang có mặt. Tiểu đoàn tôi nằm dưới quyền giám sát hành quân của Niên trưởng Thông.

    Niên trưởng Thông hỏi,

    – Danh nó về Pleiku, mai mới vô. Cần ǵ vậy em?

    Đứng trước tấm bản đồ hành quân, tôi kể cho Niên trưởng Thông nghe tin tức địch tôi vừa nhận được, và ư đồ hành động của tôi, rồi đề nghị,

    – Niên trưởng nới thêm cho tôi một click về bắc, để tôi dễ bề xoay trở.

    Đại Tá Thông đồng ư ngay,

    – Okay, Làm đi! Chắc tên Vi-Xi này tới số nên mới gặp chú…

    Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị khựng lại vài ngày v́ chú Quách Cơ B́nh (TĐPhó) được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán. Trong khi chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới bổ sung, tôi đem Đại Úy Bá, sĩ quan chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn vào giữ đồn Plei-Me trong lúc tôi xuất trại.

    Toán viễn thám của Trung Sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ Sĩ Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng. Lực lượng an ninh ban đầu để tôi thiết lập vị trí là Đại Đội 1/82. Khi tôi đă hoàn tất tổ chức địa thế, lực lượng này sẽ rút lui theo đường tắt để về pḥng thủ trại. Lực lượng trừ bị cho tôi là Đại Đội 3/82 của Thiếu Úy Phạm Đại Việt, sẽ án binh trong khu suối đá, bốn cây số hướng Tây Bắc Plei-Me.

    Tôi đă dự trù mọi phản ứng thích nghi nếu có bất cứ trục trặc nào xảy ra bất ngờ. Trừ sáu người đi theo tôi trong chuyến làm ăn này, những quân nhân c̣n lại trong đơn vị hoàn toàn không biết thày tṛ tôi đi đâu. Trên tần số, không ai được phép đả động tới việc tôi xuất trại.


    C̣n tiếp...

  10. #40
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tôi chọn “vùng làm ăn” trên đoạn đường xe be cách ngă ba Tỉnh lộ 6C làng Xổm chừng một trăm mét. Hai bên b́a rừng của đoạn đường này không bị khai quang như hai bên lề Tỉnh lộ 6C. Cây rừng chen chúc nhau, lau lách um tùm, khu này rất thuận lợi cho một cuộc bố quân phục kích. Mờ sáng hai quả Claymore đă gài xong. Hướng nổ của hai quả ḿn đánh chéo nhau thành h́nh chữ “W”. Bụi lau nơi mô đất giữa đường là điểm mốc. Hai lằn đạn ch́ của Claymore sẽ giao nhau chỗ này. Tử địa chỉ dài chừng năm chục mét thôi, nhưng con mồi nào lọt vào tử địa là coi như Diêm-Vương đă gọi. Ngày thứ nhứt trôi qua, vô sự. Ngày thứ nh́ trôi qua, vô sự. Ngày thứ ba, vào lúc mặt trời đứng bóng giữa đỉnh đầu…
    Binh nhứt Y Huynh nói nhỏ vào tai tôi,

    – Thiếu tá! Có tiếng xe!

    – Tao có nghe ǵ đâu?

    Tôi quay sang hỏi chú Chi,

    – Ê! Chi! Có nghe tiếng ǵ không?

    Trung sĩ Chi nghiêng tai lắng nghe một lúc, rồi lắc đầu,

    – Dạ không. Em không nghe ǵ cả! …

    Lúc sau, thằng Y Huynh vừa giựt vạt áo tôi, vừa càu nhàu,

    – Em nghe rơ có tiếng máy xe mà ông Thiếu Tá! Đó! Đó! Nghe rơ chưa?

    – Ừ! Tai thằng này thính thiệt. Có tiếng xe xa lắm…

    Rừng già xanh ŕ trải dài mênh mông. Trong gió, từ hướng tây, phía làng Gà (PLei Bon Ga) có tiếng xe rồ máy. Tôi leo lên một ụ đất cao ngỏng cổ quan sát. Từ xa, từng cụm khói xe phun lên khỏi đọt cây. Chim rừng hoảng hốt vụt lên không mỗi khi đoàn xe sắp tới gần nơi chúng kiếm ăn. Đoàn cơ giới đang tiến về phía chúng tôi, tiếng động cơ rơ dần, gằn từng cơn, như tiếng xe tank, ít nhứt cũng cỡ năm bảy chiếc.

    Tôi ghé tai chú Chi và chú Ba ra lệnh,

    – Chuẩn bị đánh tank! Đánh gục chiếc đầu. Xong là rút liền!

    Chúng tôi cấp tốc chuyển địa bàn phục kích về hướng đầu con dốc ngược trên đoạn đường xẻ ngang một ngọn đồi nhỏ. Con đường độc đạo chạy giữa hai bờ đất cao bốn, năm thước. Bảy Biệt Động Quân, bố trí trên b́a đường, ḍm xuống. Tôi tin tưởng rằng, với hai ống M72 và hơn chục quả lựu đạn vừa miểng, vừa lân tinh, thế nào tụi tôi cũng “thịt” được một chiếc tank đi ngù ngờ dưới kia (!) Chúng tôi nín thở, nép ḿnh trong cỏ, đợi chờ…

    Tiếng động cơ đă gầm gừ dưới chân dốc. “Ỉm! Ỉm!…́…́…́…Ỉm!…” đoàn xe rồ máy lấy đà leo lên. Thời nhảy toán trong Plei-Trap Valley (1972) tôi đă có dịp nghe tank địch chạy sát bên ḿnh vài lần. Ngoài tiếng động cơ gằn từng cơn, tank di chuyển c̣n gây tiếng “két! két!” của xích sắt khi móc xích bám vào guồng quay. Lần này, chiếc tank đang tiến tới không gây ra tiếng “két! két!”

    Cành lá rung rinh, mặt đất cũng rung rinh khi chiếc chiến xa đầu tiên tiến lên đỉnh dốc. Ṿm tre xanh đầu dốc đang bị chẻ đôi bởi chiếc cần cẩu trên xe đang di chuyển. Th́ ra đó chỉ là một chiếc xe be! Cái cần cẩu sơn đỏ của nó cao hơn ngọn tre, nhô lên không. Tôi vội nắm sợi dây ba chạc của chú Chi, ra dấu cho chú đừng phóng viên M72 đi. Dưới đường, chiếc xe be thứ nhứt rồ máy liên tục để lấy đà, kéo chiếc thứ nh́ sau lưng. V́ phải kéo một sức nặng gấp đôi, nên động cơ xe gầm rú dữ dội. Mới nghe, ngỡ tiếng máy xe tank. Chúng tôi thở phào, nhẹ nhơm. Thoáng chốc, đoàn xe be năm chiếc theo nhau qua con dốc. Chú Ba lầm bầm,

    – Đồ phá thối!

    Thấy công việc làm ăn không thuận lợi, tôi cho lệnh cuốn gói. Theo đường tắt, chúng tôi rút về tiền đồn bắc của trại. Khoảng bốn giờ chiều, toán canh gác báo động xa trên Tỉnh lộ 6C cách trại hai cây số báo cáo có mười hai người dân khai thác lâm sản xin vào trại tá túc v́ xe be của họ bị hư không thể chạy về Pleiku. Tôi cho lệnh toán an ninh giữ họ tại chỗ chờ tôi xuống tiếp xúc với họ. Đám dân khai thác gỗ này gồm một phụ nữ, một chú bé và mười đàn ông. Người thiếu phụ tuổi trên dưới ba mươi, nhan sắc dễ coi. Mặt chị ta có một vết chàm trên má. Chị khai là chủ hai chiếc xe be, một chiếc bị Việt-Cộng bắn cháy đầu máy, phải kéo. Qua đoạn đường đèo ngă ba làng Xổm th́ chiếc xe kéo bị “lột dên” không tiếp tục được. Họ biết đường vào Plei-Me dễ đi hơn đường ra căn cứ 711 nên xin vào tá túc. Tôi cho phép đoàn người làm rừng này vào đồn, tạm trú qua đêm trong Câu Lạc Bộ Tiểu Đoàn.

    -Tôi là người quen của Trung Tá Danh… bà chủ xe be khoe với tôi.

    – Tại sao xe của bà bị Việt-Cộng bắn? Bộ bà không đóng thuế cho Cộng-Sản à?

    – Hai tuần nay họ ra lệnh cấm xe be vào khu vực quanh Ia-Drang. Vi phạm lệnh cấm là họ bắn. Tụi tui không rơ lệnh này, nên họ bắn bể két nước chiếc xe đi đầu. Tha cho những chiếc chạy sau, rồi đuổi chúng tôi về.

    – À ra thế!

    Tôi hỏi chuyện những người thợ rừng về tin tức địch, nhưng họ cũng không biết ǵ hơn. Tôi vào máy, gọi Trung Tá Danh, báo cho anh biết tin tức người quen của anh đang tá túc trong trại Plei-Me, sáng mai đoàn xe của họ sẽ dắt d́u nhau về qua căn cứ 711.

    Ngày kế tiếp…

    Mặt trời lặng lẽ nghiêng từ từ xuống rặng Chư Prong sát biên giới Việt Miên.

    “Oách! Oách! Oách!… Quàng! Quàng! Quạc! …Ụt! Ụt! Ụt!…” đàn chim khách rời cành, vụt bay lên không. Hướng tây, tiếng chim rộ từng chập. Chúng tôi nín thở.

    “K’rọc! …K’rọc! …”

    “Hừm! …Hừm!. .”

    Có người đang đi tới! Nhưng tiếng động phát ra nghe lạ quá!

    Con cóc Claymore trên tay tôi đă sẵn sàng.

    Tiếng “K’rọc! …K’rọc! …” -”Hừm! …Hừm! …” gần hơn, tiếp đó là lạo xạo bước chân dẫm trên lá khô. Một bóng người ngả trên đường. Cái bóng dài dần tới gần điểm mốc, ranh giới của tử địa.

    “K’rọc! …K’rọc! …” -”Hừm! …Hừm! …” Trong nắng xế tà, một đàn ông Thượng, cởi trần, đóng khố, vuông khăn xéo quấn trên trán, miệng ph́ phà ống vố, đang vô tư bước trên đường xe be. Tay phải anh ta giữ chuôi con dao quắm vác trên vai. Mỗi khi nuốt xong một đợt khói thuốc, anh chàng này lại hắng giọng, “Hừm!…Hừm!..” C̣n tiếng “K’rọc!… K’rọc!…” đều đều là do con dao ngắn trong bao tre trên mông anh ta, lắc lư theo nhịp bước. Anh dân Thượng đủng đỉnh đi qua tử địa. Bóng anh ta mất hút chỗ khúc quanh nơi con đường ṃn nhập vào Tỉnh lộ 6C.

    Núi rừng lại trở về cảnh cũ, lạnh lùng, vắng lặng. Chớm bóng chiều. Muỗi rừng “O…o…o…” sau gáy. Sợ địch đánh hơi nghi ngờ, dù nằm cuối gió, chúng tôi cũng không dám xoa thuốc chống vắt, chống muỗi. Những con muỗi quái ác, thấy con mồi không phản ứng tự vệ, nên châm chích trên da thịt chúng tôi một cách thoải mái. Có con bị bội thực, ễnh bụng no máu, lăn kềnh ra ḅ, không bay nổi. Chúng tôi cắn răng chịu đựng nỗi ngứa dày ṿ, không dám găi, không dám đuổi xua đàn muỗi đói.

    Chợt rừng chiều xào xạc…

    “Oách! Oách! Oách! …Quàng! Quàng! Quạc! …Ụt! Ụt! Ụt!…” Hướng tây, đàn chim khách lại rời cành, vụt bay lên không. Lần này tiếng chim rộn ră, dồn dập hơn lần trước. Rồi chúng tôi thót tim, khi nghe tiếng vó ngựa nện trên đường, “Lộp cộp!…Lộp cộp!…Lộp cộp!…” Tôi hít một hơi dài cho không khí vào đầy lồng phổi. Tay tôi cầm chắc con cóc Claymore. Tôi liếc mắt ra dấu cho chú Ba. Ba gật đầu, tay chú cũng đang nắm chắc một con cóc Claymore.

    “Lộp cộp! …Lộp cộp! …Lộp cộp! …” một con ngựa đen, cao to, chắc nó thuộc gịng giống ngựa thồ, lững thững tới gần bụi lau có đánh mốc bên đường. Trên lưng ngựa là một người to lớn, y phục đen, có dây súng lục đeo chéo qua vai.
    Tôi nghiến răng, bấm c̣ con cóc,

    “K’rạch!”

    Con cóc đă kích hỏa, nhưng quả ḿn không nổ!

    Con ngựa như nghe được tiếng động lạ, nó đứng dừng lại, hai vó trước dở hổng, quơ quơ lên trời.

    “Hí!… Hí!… Hí!… í!.. .í!… í!…” Con ngựa cất vó, ngửa cổ hí.

    Một cái bóng đen bay ṿng qua đầu con ngựa, rơi trong bụi lau bên kia đường.

    “Oành!” quả Claymore của Hạ Sĩ Ba nổ! Ào ào một cơn lốc bụi đỏ bốc lên, kéo theo cành lá găy. Tiếp đó, “Rẹt! Rẹt! Rẹt!

    …” bảy khẩu M16 bắn chéo nhau, đạn đan sát mặt đất.

    Con chiến mă quằn quại trên mặt đường xe be, miệng ph́ ph́ sùi bọt.

    Tôi và Trung Sĩ Chi tiến ra chặn nút hai đầu đường. Hạ sĩ Ba và bốn tay súng băng nhanh qua đường, kiểm soát kết quả. Ḿnh ngựa bị ghim đầy vết Claymore và vết M16. Nhưng trong ṿng bán kính một trăm mét, chúng tôi không t́m ra dấu tích của chủ nó. Đại Đội 3/82 của Thiếu úy Phạm Đại Việt đang hoạt động vùng Tây Bắc Plei-Me được điều động hỏa tốc tiến về hướng bắc, ngăn chặn con đường về làng Gà.

    Suốt ngày hôm sau, chúng tôi lục soát từng tấc đất quanh vùng tử địa. Nơi con suối hướng bắc con đường, chúng tôi t́m được dấu giày lưu lại của con mồi. Con mồi đă thoát thân thẳng về hướng Bắc.

    Tôi kiểm lại quả Claymore của tôi th́ phát giác ra rằng, sức điện đă làm đứt một trong hai sợi dây ch́ gắn vào đầu ng̣i nổ, khiến ḍng điện bị ngắt, trái ḿn câm. Chú Chi càm ràm,

    – Chắc thằng “cội” này có bùa!…

    Ít lâu sau…

    Trung Đoàn 42/SĐ22 Bộ Binh chuyển vùng hoạt động về B́nh-Định, căn cứ 711 được bàn giao cho Liên Đoàn 24 BĐQ trách nhiệm. Lúc này vùng hành quân của TĐ 82/BĐQ được thu hẹp lại về hướng nam hai cây số. Làng Xổm nằm trong vùng trách nhiệm của TĐ81/BĐQ. Thiếu Tá Nguyễn ngọc Lân đă đặt bản doanh Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 81/BĐQ của ông ngay dưới chân ngọn núi lửa nơi ngă ba làng Xổm.

    Trưa 27 tháng Bảy 1974 chiến dịch tấn công xóa sổ đồn Plei-Me mở màn. Với sự yểm trợ trực tiếp của một tiểu đoàn pháo, Trung Đoàn 64/SĐ320 CSBV hướng Bắc, Trung Đoàn 48/SĐ320 CSBV hướng nam, đồng loạt mở một cuộc bôn tập tập kích hai tiểu đoàn Biệt Động Quân đang hành quân mở đường dọc Tỉnh lộ 6C. Sau ḥa đàm Paris, chiến thuật bôn tập tập kích đă được các đơn vị Cộng-Sản thuộc Mặt Trận B3 áp dụng một cách bài bản và hiệu quả. Chiến thuật này là một sự phối hợp nhịp nhàng giữa pháo kích và di chuyển tập kích.

    Bộ binh địch khẩn cấp di chuyển băng rừng tiến tới mục tiêu, trong khi pháo địch tác xạ tối đa trên vị trí quân ta. Khi pháo địch vừa ngừng th́ bộ binh địch đă ở kế bên ta rồi. Ta chưa kịp chấn chỉnh đội h́nh th́ địch đă xung phong. V́ vậy, ngay đợt xung phong đầu, Việt-Cộng đă chặt đầu Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lân, vị tiểu đoàn trưởng của TĐ81/BĐQ bên chân núi lửa. Cùng ngày, chúng đă bắt làm tù binh ông Tiểu Đoàn Phó TĐ81/BĐQ là Thiếu Tá Trần văn Ngọc (k18 VB).
    Trong khi đó, tại mặt trận phía nam, Trung Đoàn 48/SĐ320 của địch không tiến được bước nào. Suốt ngày 27 tháng Bảy 1974, ba đợt tập kích của địch đều bị chặn đánh từ xa bởi những toán viễn thám. Pháo địch dứt, nhưng tiền quân địch chưa tới mục tiêu. Khi lực lượng tập kích địch tới được mục tiêu th́ khả năng tác chiến đă giảm đi nhiều.

    Mục tiêu của địch là con đường, nhưng trên mặt đường và hai bên đường trống trơn, địch xung phong vào chốn không người. Trước đó, pháo địch nổ dày dặc trên mặt Tỉnh lộ 6C chỉ cày xới đất đá vô tri, v́ quân mở đường của TĐ82/BĐQ không trải dài trên trục lộ như thói quen của các đơn vị khác khi hành quân khai lộ, mà đóng chốt chặn các trục xâm nhập bằng cấp đại đội với hố cá nhân và giao thông hào. Cách bố quân dă ngoại đặc biệt lạ lùng này của TĐ82/BĐQ đă khiến Trung Đoàn 48/SĐ320 CSBV không thi thố được sở trường bôn tập của nó. Lần đầu tiên trên chiến trường Tây-Nguyên, chiến thuật bôn tập, tập kích của Mặt Trận B3 thất bại.


    Những ngày sau đó, tiền đồn Plei-Me bị cô lập, và địch lại tiếp tục cái màn xa luân chiến. Hết Trung Đoàn 48/SĐ320 đến Trung Đoàn 64/SĐ320, rồi tới Trung đoàn 26 Địa Phương/Mặt Trận B3 thay nhau phơi thây trên các lớp rào kẽm gai pḥng thủ Plei-Me. Hai mươi đợt biển người, biển lửa, mưa pháo, mưa truyền đơn của Sư Đoàn Điện-Biên vẫn không hạ nổi lá cờ vàng ba sọc đỏ phần phật tung bay trên ngọn cột gỗ giữa sân tiền đồn biên pḥng này. Trận đánh đă kéo dài ba mươi tư ngày đêm. Sáng mùng 2 tháng Chín 1974 chiến dịch vây hăm Plei-Me chấm dứt. Thêm một lần đụng độ, “Thằng Hai Nâu” đă chứng tỏ cho địch biết rằng, ở Tây-Nguyên, Tiểu Đoàn 82/ Biệt Động Quân là một địch thủ vô cùng lợi hại, một địch thủ chúng không thể đánh bại. Trung Đoàn 48/SĐ320 là đơn vị địch bị thiệt hại nặng nề nhứt trong đợt cao điểm này. Trung đoàn này phải rút về biên giới để bổ sung và tái huấn luyện.

    Tới đầu năm 1975, Trung Đoàn 48/Sư Đoàn 320 được giao nhiệm vụ chủ công trong chiến dịch tấn công Ban-Mê-Thuột. Lúc đó Tiểu Đoàn 82/BĐQ đă chuyển vùng về bảo vệ tỉnh Quảng-Đức. V́ thế “Thằng Hai Nâu” và những đơn vị trực thuộc SĐ320/Điện-Biên CSBV không c̣n dịp nào chạm mặt nhau nữa…


    C̣n tiếp...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Tháng Tư Nghiệt Ngă 1975 - Sài g̣n Thất Thủ
    By alamit in forum Quân Sử Việt Nam Cộng Ḥa
    Replies: 60
    Last Post: 01-03-2013, 10:19 AM
  2. Replies: 16
    Last Post: 03-09-2011, 09:02 AM
  3. Ngày 30 tháng Tư 1975: Một cái nh́n mới
    By Tu_Nhan_Dan_ in forum Tin Việt Nam
    Replies: 0
    Last Post: 27-04-2011, 10:56 PM
  4. Những ngày của tháng 4 – 1975 & trọn bộ DVD phim VƯƠT SÓNG
    By nguoibatcao in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 7
    Last Post: 19-04-2011, 01:50 AM
  5. Replies: 6
    Last Post: 07-12-2010, 12:21 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •