Page 5 of 25 FirstFirst 12345678915 ... LastLast
Results 41 to 50 of 243

Thread: NGÀY ẤY ...30 THÁNG TƯ , 1975

  1. #41
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Sàig̣n, ngày 7/5/1975,

    Hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam ngừng lại nơi đầu hẻm TK9, phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2, Sàig̣n.

    Một người cao lớn, bận quân phục lực lượng vũ trang Cộng-Sản Bắc-Việt bước xuống từ chiếc xe thứ nhứt. Ông ta trạc tuổi trên bốn mươi, đeo kính râm, cặp da, súng ngắn. Ve áo ông ta lấp lánh quân hàm thượng tá của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam, với ba sao, hai gạch vàng, trên nền nỉ đỏ.

    Xe thứ nh́ có máy truyền tin với bốn bộ đội trang bị AK. Người sĩ quan Bắc-Việt cùng hai hộ tống viên đi vào ngơ TK9, t́m địa chỉ.

    Tới căn lầu đúc gần cuối hẻm, họ dừng lại. Người sĩ quan CSBV cất tiếng hỏi,

    – Phải nhà này có Vương Mộng Long không?

    Lúc đó tôi đang ngồi đọc báo nơi pḥng khách. Tôi ở nhà một ḿnh. Mẹ tôi đi vắng. Bà cụ lên Ban-Mê-Thuột để t́m kiếm vợ con tôi.

    – Phải! Các ông cần ǵ?

    – Tôi muốn gặp Vương Mộng Long.

    Thấy có người trang bị súng ống đến tận nhà gọi đích danh ḿnh, tôi liên tưởng ngay tới một vụ bắt bớ. Tuy hơi chột dạ, nhưng tôi vẫn từ tốn trả lời,

    – Tôi đây!

    – À! Anh Long đây hử? Anh Long có mạnh khỏe không?

    – Cám ơn ông, tôi vẫn khỏe.

    Ông Thượng Tá Quân-Đội Bắc-Việt quan sát tôi vài giây rồi nói,

    – Vất vả hai ngày nay tôi mới t́m được địa chỉ của anh. Tôi có chuyện muốn nói với anh, anh có vui ḷng tiếp tôi hay không?

    – Vâng, mời ông vào nhà.

    Để hai cận vệ đứng gác bên cửa ngăn đám trẻ con hàng xóm ṭ ṃ bu quanh, người sĩ quan CSBV bước vào nhà tôi. Ông ta không hề đảo mắt quan sát căn pḥng khách. Ít người có thái độ thế này khi vào nhà người lạ. Ông gỡ cặp kính đen, bỏ mũ xuống mặt bàn, ch́a tay ra cho tôi bắt. Bàn tay to lớn, sần sùi, rắn chắc, nhưng rất ấm. Rồi ngồi ngay xuống ghế, với giọng oang oang tiếng Bắc pha chút âm sắc lơ lớ Thượng-Du Bắc-Việt, ông ta mở lời,

    – Anh Long có nhận ra tôi không?

    – Xin lỗi! Ông là ai? Tôi không nhớ đă gặp ông lúc nào.

    – Tôi là người bị anh giết hụt ở Tây-Nguyên cách đây một năm.

    – À…

    – Tháng Sáu năm ngoái, anh đă phục kích tôi ở làng Xổm. Con ngựa của tôi bị bắn chết, nhưng tôi thoát. Tôi muốn gặp anh, xem mặt anh, nói chuyện với anh vài phút. Thế nào, có được không?

    – Ư…ư.. ông cứ tự nhiên…

    Đôi mắt ông khách sáng quắc, giọng nói của ông oang oang, cung cách của ông thật là chất phác thực thà. Lần lượt, ông thượng tá hỏi qua quê quán của tôi nơi nào ngoài Bắc? Năm nào gia đ́nh tôi vào Nam? Gia cảnh tôi thế nào? Vợ con tôi ra sao? Tôi t́nh nguyện đi lính Ngụy hay đă bị bắt lính, động viên? Bao nhiêu lần thương tật? Bao nhiêu lần được tặng thưởng huân chương?

    Qua thái độ và giọng nói của ông ta, tôi thấy người địch thủ cũ của ḿnh không có ư tầm thù. V́ thế, ḷng tôi cũng cảm thấy bớt lo ngại. Người sĩ quan Bắc-Việt ôn lại chuyện xảy ra trong những ngày tháng khói lửa mịt mù ở Điện-Biên-Phủ, ở Quảng-Trị, ở Tây-Nguyên.

    Ông khách thao thao,

    – Tớ là con quan Lang xứ Cao-Bằng. Mười bẩy tuổi tớ vào bộ đội đánh Tây. Tớ phục vụ Sư Đoàn 320 từ ngày thành lập, cho tới tận bây giờ. Đánh Điện-Biên tớ làm đại đội trưởng. Tới thời đi B, xâm nhập miền Nam, tớ làm trung đoàn trưởng. Mười năm đánh Tây, hai mươi năm chống Mỹ, vào sinh, ra tử. Giờ này mới thấy ḥa b́nh…

    Ông khách kể tự truyện, theo đó, trước 1945 ông học trường Tây ở Hà-Nội. Ông sắp thi “diplôme” th́ Cách Mạng Tháng Tám xảy ra, ông đi theo kháng chiến, giữ chân liên lạc viên, rồi thành bộ đội. Ông kể chuyện đánh thắng Điện-Biên, thời Tây, chuyện giải phóng Tân-Cảnh, thời Ngụy, chuyện hai lần suưt bị máy bay B 52 làm cỏ ở Pơ-Lây Cần (Ben Het), chuyện Sư Đoàn 320/ Điện-Biên CSBV rời địa bàn Kontum, chia đôi, một nửa về chiến trường B́nh-Định, một nửa xuôi Jarai.

    Rồi khách rầu rầu vắn tắt nhắc trận thư hùng tháng Tư 1974 bên bờ Suối Mé (căn cứ 711). Trận này, sau khi dùng hơi ngạt để tấn công tôi, suưt tí nữa ông ta đă bắt sống được tôi, nhưng cuối cùng, ông ta đă thua tôi (TĐ82/BĐQ).
    Khi kể tới trận vây đồn Plei-Me 34 ngày đêm (tháng 7&8 năm 1974) ông ta la lớn,

    – Đúng là kỳ phùng địch thủ! Tớ không ngờ trên đời lại có thằng ĺ như cậu! Hết xung phong tới pháo, hết pháo tới truyền đơn, hết truyền đơn lại pháo. Vậy mà cậu vẫn không chịu đầu hàng! Cuối cùng tụi tớ phải bỏ cuộc! Gớm thật!

    Sau câu, “Gớm thật!” ông ta vỗ đùi đánh “độp!” một cái, rồi nh́n tôi, tán dương,

    – Ĺ thật! Tớ khen cậu đó!

    Tiếp theo, khách thao thao về chiến tích của trung đoàn chủ công giải phóng Buôn Ma Thuột tháng Ba 1975 và màn bôn tập Quân Đoàn 2 Ngụy trên đường rút chạy. Với chiến công này, ông Trung Tá Trung Đoàn Trưởng CSBV đă được thăng cấp Thượng Tá. Khách nói nhiều hơn chủ nhà. Khách nói say mê, miên man, trong lúc chủ nhà chỉ ậm ừ. Ông ta là kẻ chiến thắng, có thế để nói. Tôi là người thua trận, mở miệng mắc quai. Trên môi khách là nụ cười tự hào. Trên môi tôi, nụ cười như mếu.

    Trong dịp gặp mặt ngày hôm ấy, ít nhất, đă ba lần, ông ta thắc mắc,

    – Động cơ nào khiến cậu chiến đấu một cách ngoan cường, ĺ lợm như thế?

    Tôi chỉ trả lời thật gọn,

    – V́ chữ hiếu!

    Nghe vậy, ông ta có vẻ không thỏa măn với câu trả lời của tôi, nhưng ông ta cũng không gặng hỏi thêm.

    Cuộc thăm viếng chấm dứt, tôi tiễn người khách không hẹn gặp ra về. Nơi bực cửa, khách nh́n vào mặt tôi, dịu giọng như thông cảm,

    – Tôi c̣n ở Sàig̣n ít lâu nữa. Tôi được đề cử vào đây dự lễ nhận huân chương do Bác Tôn trao tặng. Trước lúc chia tay, tôi muốn nói với anh rằng, chúng ta đă đánh nhau hai lần trên Tây-Nguyên, hai lần bất phân thắng bại. Cuối cùng, anh là người thua trận. Dù rằng anh là lính Ngụy, tôi vẫn coi trọng anh, v́ anh là một ngôi sao sáng hiếm hoi. Tôi với anh như Sao Hôm với Sao Mai, anh sáng th́ tôi tối, anh tối th́ tôi sáng. Hôm nay tôi đến thăm anh, an ủi đôi lời. Thương cho anh, một v́ sao rụng.

    – Cám ơn ông.

    Vào lúc người sĩ quan Cộng-Sản cất bước, tôi cố với theo,

    – Ở suối Mé ông giết hụt tôi. Ở làng Xổm tôi giết hụt ông. Thế là ḥa. C̣n trận Plei-Me ba mươi tư ngày đêm, th́ ông thua tôi rành rành. Về cái vụ Ban-Mê-Thuột, tôi công nhận, ông đă chiến thắng. Nhưng người đánh nhau với ông ở Ban-Mê-Thuột không phải là tôi.

    – Anh nói đúng. Trong trận Buôn-Ma-Thuột không có “Thằng Hai Nâu”. Và trong số những người bị tôi bắt, không có anh…

    Khi thốt ra những lời cuối cùng này, mặt ông ta hơi sầm lại, ngượng ngùng.

    Vài phút sau, hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam và người khách không mời rời con hẻm.

    Đầu năm 1988 tôi được tha từ trại cải tạo Z30D Hàm-Tân, Thuận-Hải.

    Tháng 11 năm 1988, tôi nộp đơn xin xuất cảnh sang Hoa-Kỳ tỵ nạn.

    Từ tháng giêng 1990, những người bạn nộp đơn xin xuất cảnh cùng thời với tôi như Phan Trần Bảo (Cảnh Sát), Đỗ Dũng (KQ), Lư ngọc Châu (BĐQ) vân vân, đều đă lên danh sách, chờ ngày phỏng vấn. Riêng hồ sơ của tôi và hai anh bạn Nguyễn thanh Danh (k19VB) và Lê văn Để (BĐQ) vẫn bặt vô âm tín.

    Tháng 8 năm 1990 tôi tới sở Công-An Quận 1 Thành phố để hỏi hồ sơ của ḿnh th́ được biết, cô Huyền, người nữ Công-An phụ trách hồ sơ của tôi đang nghỉ phép đẻ. Sau khi đẻ, cô ta lại chuẩn bị theo học một lớp Anh-Văn kéo dài nửa năm.

    Một anh bạn gốc Không-Quân đă giúp tôi rút hồ sơ ra để chuyển lên Sở Ngoại-Vụ. Anh Danh và anh Để cũng vừa lấy được hồ sơ ra, họ rủ tôi đi Hà-Nội làm thủ tục xuất cảnh để được cứu xét nhanh hơn. Người ta nói rằng, nếu đem hồ sơ ra Hà-Nội nộp cho Pḥng Xuất Cảnh Bộ Ngoại-Giao, sẽ lướt qua ít nhứt vài ba danh sách.

    Hà-Nội, với tôi, cũng có chút kỷ niệm riêng tư thuở ấu thơ. Tôi vẫn mong một dịp nào đó trong đời, về lại chốn này, t́m dư hương ngày cũ. Tôi đạp xe một ṿng quanh Sàig̣n, gặp người quen, xin viện trợ. Trung Tá Bùi Văn Huấn, cựu Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 22/ Biệt Động Quân giúp tôi 100 ngh́n đồng. Bạn tôi, (TQLC) Mai Văn Tấn (k21VB) cho tôi 100 ngh́n đồng. Và anh Vũ Văn Ích, một người anh con d́ con già của tôi cũng giúp tôi 100 ngh́n đồng nữa. Thế là tôi có đủ lộ phí lên đường về Hà-Nội.


    C̣n tiếp...

  2. #42
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Hà Nội, một ngày tháng 8 năm 1990…

    Tôi xuống ga Hàng-Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường và trên cổng vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời chiến tranh chống Mỹ. Tôi bước vội qua đường, v́ nh́n thấy bên phải con đường đâm thẳng vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn b́nh dân. Tôi vừa đặt chân trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn tuổi đă đứng chờ, dơ tay ngoắc,

    – T́m nhà trọ phải không?

    – Phải…

    – Pḥng ngủ quốc doanh bẩy ngh́n một đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà tôi, năm ngh́n một đêm, nước nôi thả cửa…

    Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào pḥng ngủ quốc doanh.

    – Một người, bẩy ngh́n một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba ngh́n…

    Tiếp viên pḥng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát. Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đă chờ sẵn,

    – Bên kia đường… theo tôi…

    Tôi theo chân người chủ nhà vào khu cư ngụ của công chức về hưu, đối diện với khách sạn quốc doanh. Khu cư xá này có khoảng trên dưới chục căn pḥng. Ông chủ nhà trọ dẫn tôi vào căn pḥng bên trái cư xá,

    – Nhà tôi đây…

    Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ,

    – Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho chú, ch́a khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại. Tắm giặt th́ ra đằng sau nhà, có mười pḥng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách sạn quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai chục lít. Bên này, chú tắm chán th́ thôi…

    Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dăy mười pḥng tắm có ṿi hoa sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm chuẩn bị đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi. Tôi tắm giặt xong, quay về buồng th́ ông chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nh́ của chiếc tủ đứng thuộc quyền cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả giàn, năm ngh́n một đêm, rẻ chán! Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường, cách đầu giường tôi và đầu giường cô gái một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê thành h́nh chữ “U”. Ba người nằm trong một căn pḥng hẹp, một người phát ngôn, hai người kia đều nghe rơ…

    - Này! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về? ông chủ nhà gợi chuyện.

    – Hải-Dương

    – Hải-Dương xe chạy cả đêm, sao không về?

    – Tôi có việc phải ở Hà-Nội vài ngày…

    – Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề ǵ?

    – Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam…

    – Có thường ghé Sàig̣n không?

    – Chuyến nào mà chẳng ghé…

    – Ba, bốn năm nay anh không ghé Sàig̣n, bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ?

    – Vâng, đông lắm, vui lắm…vậy chứ bác đă ở Sàig̣n hở? Bác làm ǵ trong đó?

    – Tớ dậy học. Tớ dậy Đại-Học Khoa-Học…

    – Ủa! Vậy ra bác là giáo sư…

    – Tớ dậy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm th́ tớ về hiu…

    – Tám nhăm, bác c̣n trẻ, sao về hưu sớm thế?

    – Về vườn th́ đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần ḿnh. Sau…chúng nó thải ḿnh, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng nó thay ḿnh, kiếm ăn…

    – Bác dạy môn ǵ trong thời gian đó? Chắc bác có bằng cao học, hay tiến sĩ?

    – Bằng cấp con khỉ mốc! Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ-Học Yếu-Lược (thời Tây) th́ xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Đảng, vốn liếng của tớ chỉ có mớ lư thuyết Cộng-Sản thuộc nằm ḷng. Giải phóng Miền Nam xong, Đảng ủy yêu cầu tớ dậy Lư Thuyết Đảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều. Mà quả thật, có ai biết ḿnh là thằng dốt đâu? Mười năm, nhờ ơn Đảng, tiếng nói của một thằng i tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng… học sinh nghe theo răm rắp…

    – Rồi sau đó…

    – Rồi sau đó ư? Tụi nhỏ du học Liên-Xô, Tiệp-Khắc trở về. Chúng nó thay chân những tên i tờ như tớ… tớ về hiu, xin được căn hộ này để ở. Già rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho họ trọ qua đêm, kiếm cơm…

    – Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá?

    – Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió ḥa th́ có đồng ra, đồng vào. Giông băo vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng ǵ đâu em ơi!

    Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà-Nội trên sạp, ḍ t́m con phố Hàng Bài. Cô khách trọ cùng pḥng ṭ ṃ rướn cổ sang theo dơi,

    – T́m cái ǵ đấy hở?…

    – Phố Hàng Bài…

    – Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! T́m làm ǵ cho mệt xác!

    Ông chủ nhà nằm ngửa, mắt lim dim nh́n trần nhà, miệng cười kh́ kh́,

    – Chú em đi buôn đường Sàig̣n, Hà-Nội mà không biết phố Hàng Bài ở đâu th́ có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ-Tướng…

    Tôi đành nhỏ giọng, thú thật,

    – Tôi là sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa, cựu tù cải tạo. Tôi ra Hà-Nội để nộp đơn đi Mỹ…

    – Tôi cũng đă nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không c̣n thuần túy Hải-Dương. Chỉ v́ tôi cũng là dân Hải-Dương. Trước chú, đă có đôi người của chế độ Sàig̣n cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ ngày ra đi. Mỹ quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận. Đời chú như thế là may mắn lắm rồi…

    Ông giáo sư đại học về hưu thở dài,

    Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại sai

    Đêm xuống đă lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát thanh Hà-Nội, Tô-Lan-Phương c̣n đang biểu diễn bài “Cô Gái Vót Chông”. Giọng cô Ca Sĩ Nhân Dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre. Những ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông chủ nhà thắp ngọn đèn dầu đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn pḥng chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại, cài then. Gỗ cửa khá dày, những ngọn chông Tô-Lan-Phương bị chặn lại ngoài hiên.

    Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt ḿnh như đang mềm đi, đang giăn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu, “Anh ở đầu sông, em cuối sông…” Giọng cô ta không cao vút, không nhọn hoắt, nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca, hai mi mắt tôi đă sụp xuống rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị.

    Mười giờ sáng hôm sau, tôi rời phố Hàng Bài khi vừa hoàn tất việc nộp hồ sơ xin xuất cảnh. Một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang trên ba mươi sáu phố phường Hà-Nội. Ở đây chỉ có những con đường nhỏ hẹp như đường phố cổ Hội-An trong Nam. Tiếng chuông xe điện “leng keng…leng keng…” làm cho thành phố này già nua thêm. Mặt trời đứng bóng, nắng hanh, tôi tạt về hướng hồ Hoàn-Kiếm. Xung quanh một gốc si cổ thụ, khách quây quần bên những gánh quà vặt, chè, thạch, óc đậu, kem quay, bánh tôm, bún chả, cháo ḷng, thịt ḅ khô, khoai ngô nướng, nước chè tươi…

    – Chè đỗ đen đi chú em…

    – Cho tôi một bát.

    Bà bán hàng đang múc chè vào bát, chợt ngừng tay, reo lên,

    – Ông đại tá tới rồi, chè đỗ đen nhá?

    Tôi giựt ḿnh, “Chẳng lẽ bà này quen ḿnh, gọi đùa ḿnh là đại tá?”

    Nhưng tôi lầm, bà bán chè vừa nói với một phu xích lô mới ngừng bên lề. Trả lời bà, một giọng đàn ông oang oang,

    – Bát to đấy nhá! Để lấy sức cuốc một ngày.

    – Vâng, bát to. Mỗi ngày một bát chè to cho ông đại tá Điện-Biên, Tây-Nguyên lấy sức đánh… xích lô.

    Ông phu xích lô ghé đít xuống chiếc ghế con, chiếc ghế quá nhỏ, so với cái mông đồ sộ của ông. Đưa tay quẹt mồ hôi trên trán, người phu xe già than thở,

    – Hôm nay ế ẩm, từ sáng tới giờ chưa được cuốc nào. Chán bỏ sừ…

    – Đại tá mua gạo tháng này chưa? Dạo này tem phiếu giá chui cao quá..

    – Nhà này ăn đong từng ngày. Tiền đâu mà mua tem, mua phiếu… Mẹ kiếp! Hồi xưa đánh Tây đánh Mỹ, nó cần ḿnh. Bây giờ ḥa b́nh, nó duỗi ḿnh ra, nó ăn cả, đồ chó má! Thấy tôi trố mắt theo dơi câu chuyện đổi trao giữa hai người, bà bán chè giải thích,

    – Ông đại tá một đời theo Đảng. Anh hùng Điện-Biên, Tây-Nguyên đấy! Đáng nhẽ ra, những người có công với tổ quốc, với cách mạng như ông phải được chiếu cố đặc biệt mới đúng. Ai đời! Anh hùng quân đội nhân dân mà sáu chục tuổi đầu c̣n phải đi đạp xích lô để kiếm sống th́ quả là tội nghiệp quá!

    Người phu xe già thở dài,

    – Chúng nó vắt chanh bỏ vỏ. Lớp chúng tớ hết thời rồi. Bây giờ, thân tớ ví như… một v́ sao rụng.

    Tôi giật ḿnh, bốn tiếng “một v́ sao rụng” h́nh như tôi đă nghe một lần ở đâu đó, lâu rồi…

    Tôi vừa nhướng mắt quan sát, vừa moi trí nhớ, xem ông già này có nét ǵ quen không, th́ bên bờ hồ có tiếng gọi,

    – Xích lô! Xích lô!

    Người phu xe chống hai tay lên đùi lấy đà, nhổm dậy thật nhanh,

    – Mai tôi giả tiền nhớ! Có khách, không lẹ cẳng, thằng khác nẫng tay trên…

    – Được mà! Khách quen, mai giả cũng được mà…

    Tôi đang tính bắt chuyện với ông đại tá th́ ông đă nhanh chân đẩy xe sang bên kia đường rước khách. Tiếc rằng cuộc hội ngộ mười lăm năm trước (tháng 5/1975) quá ngắn ngủi, tôi không nhớ rơ nét mặt của người khách lạ đă tới căn lầu đúc trong hẻm TK9, phường Nguyễn cảnh Chân, Quận 2 thăm tôi, một tuần lễ sau ngày Sàig̣n thất thủ. Tôi cố ôn chuyện cũ trong óc, gợi lại h́nh dáng năm xưa của ông thượng tá. Ông Thượng Tá Điện-Biên, anh hùng Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam có đôi vai ngang, người phu xe già… cũng có đôi vai ngang. Thêm vào đó, thân h́nh người phu xe già cũng vạm vỡ, cao lớn, tiếng nói cũng oang oang, lơ lớ như ông thượng tá con quan Lang xứ Cao-Bằng.

    Khi chiếc xích lô lẫn trong ḍng xe nườm nượp giữa thủ đô, tôi cũng đứng dậy tiếp tục lang thang quanh bờ hồ.
    Suốt ngày hôm ấy, trong óc tôi cứ lởn vởn h́nh ảnh người phu xe già, với câu than thở, “Bây giờ, thân tớ ví như…một v́ sao rụng”

    Đêm thứ nh́, cũng là đêm cuối cùng trên đất Thăng-Long, tôi đứng bên này đường, trong ánh điện mờ. Bên kia đường là ga Hàng-Cỏ. Nơi này, bố tôi đă đưa tiễn mẹ con tôi lên tàu hỏa xuôi Hải-Dương, ngày tôi tṛn bốn tuổi. Hôm ấy bố tôi bế tôi trên tay, tôi bập bẹ bài hát trẻ con đương thời hay hát, “Ai yêu Bác hơn chúng em…”

    Bố bịt mồm tôi lại,

    – Con ơi! Đừng hát bài này, bài hát không hay… Con hăy hứa với Bố, con sẽ không hát bài này nữa nhá!

    Mẹ tôi gạt nước mắt, bế tôi lên tàu. Đứng bên đường, cạnh chiếc xe đạp, bố vẫy tay.

    Bố con tôi, từ đó, cho tới suốt đời tôi, không c̣n gặp nhau nữa. V́ hai năm sau, bố tôi đă bị giết. Những người mê say “bài hát không hay” đă giết bố tôi…

    Mới đó, mà hơn bốn mươi năm qua! Đêm nay, trước ga Hàng-Cỏ, đứng bên cái cột đèn, nơi ngày xưa bố tôi đă đứng vẫy tay, tôi gọi thầm trong nước mắt,

    – Bố ơi! Bố ơi!… Con nhớ Bố! Con thương Bố! Bố ơi! …

    Năm giờ sáng hôm sau tôi phải vào ga để lên tàu về lại Sàig̣n. Ông chủ nhà dậy sớm khui gói chè móc câu Thái-Nguyên pha tiễn khách. Tôi bắt tay, nói lời cám ơn người chủ nhà trọ, rồi bước ra đường.
    Sáng mùa Thu Hà-Nội, buồn hắt hiu. Heo may nhè nhẹ. Điện đường lập ḷe. Quán hàng c̣n đóng cửa. Vài chiếc xích lô vội vàng đưa khách vào ga. C̣i tàu rúc từng hồi. Loa phóng thanh trên cột đèn và trên cổng ga c̣n im tiếng v́ chưa tới giờ phát đi những “bài hát không hay”.

    Đứng trên sân ga Hàng-Cỏ, ḷng tôi man mác bâng khuâng. Vừng dương đang lên. Sao Mai mờ dần. Chân trời hừng đông mầu tím nhạt. Có đôi v́ sao đang rơi trong không trung mờ ảo mênh mông…

    *Khoá 20 Trường Vơ bị Quốc gia Đà lạt (VBĐL)

    (*)Nay họ ở vào khoảng trên dưới 70.

    Ghi chú thêm: trong truyện “C̣n nụ cười nào cho anh” của Sầu Đông trên Blog này, Sầu Đông đă viết “…họ đă t́m cách lừa nhau, họ t́m mọi cách làm tiêu hao sinh lực của nhau trên một vùng núi rừng trùng điệp…” (Truyện viết vào năm 1999)


    http://monglongvu.blogspot.com/

  3. #43
    Member philong51's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    161
    V́ có nhiều tài liệu không chính xác PL51 xin post bài củ đă đăng trên Việt Báo.


    Thiếu Tá Trương Phùng

    Người Anh hùng Vị Quốc Vong Thân ngày 29 tháng Tư Năm 1975







    Saigon có thể đă tan nát hơn, chết chóc bi thảm hơn, và sẽ không có những chuyến bay di tản ngày cuối cùng, nếu như không có người anh hùng này.

    * * *
    Sau hơn 33 năm hoàn toàn mất dấu tích, nhờ sự hiển linh và ngoại cảm, t́m thấy di cốt của Thiếu Tá Không Quân VNCH Trương Phùng bị cộng quân xử bắn ngày 29 Tháng Tư 1975, tức ngày 19-3 Ât Mẹo. Di cốt hiện được thờ tại chùa Bửu Quang.
    Ngày 29/4/75, cộng quân khai hoả trận địa pháo lớn nhất cuộc chiến nhắm uy hiếp Saigon. Hàng chục dàn đại pháo, mỗi dàn 4 khẩu, từ Phú Lâm liên tục nhả đạn. Đích nhắm đầu: phi trường Tân Sơn Nhứt, nơi hàng ngàn người đang chờ di tản.
    Bốn giờ sáng, dưới mưa pháo, 2 khu trục A-1 của Phi Đoàn 518 Phi Long, Không quân VNCH vẫn dũng cảm cất cánh và mau chóng đánh tan trận địa pháo. Nhờ vậy, Saigon đă tránh được thảm hoạ. Nhưng đi hai, về một. Chiếc A1 do Đại Uư Trần Văn Phúc đáp xuống phi trường TSN. Chiếc thứ hai, loại AD-5 Skyraider của phi tuần trưởng Thiếu Tá Trương Phùng th́ biến mất, hơn 33 năm không t́m thấy dấu tích.
    Sau cùng, nhờ sự hiển linh của một vị sư già và chính Thiếu tá Phùng, nhờ ngoại cảm, và nhờ t́nh đồng đội, di cốt người anh hùng vị quốc vong thân bị VC xử bắn trong một vườn xoài đă được trở về với gia đ́nh (Nguyễn Viêt Tân).

    Thiếu tá Trương Phùng sanh năm 1943 tại Thừa Thiên-Huế, gia nhập Không Quân vào đầu năm 1964, khóa 64B SVSQ/TTHLKQ Nha-Trang, tốt nghiệp khóa L-5 Quan Sát, sau đó được tuyển chọn xuyên huấn T28 và A-1 Skyraider tại Hoa Kỳ. Trở về nước, anh phục vụ tại Phi Đoàn 110 Quan Sát-Đà Nẵng, sau cùng là Phi Đoàn 518 Phi Long- Khu Trục A-1 Skyraider, KĐ23CT, SĐ3KQ Biên Ḥa. Trong những ngày sau cùng, PĐ 518 dọn về Tân Sơn Nhứt.
    ... Anh là mẫu người hùng KQ từng tham dự hầu hết các chiến trường: Cam bốt, Quảng Trị, An Lộc. Là một người đầy nhiệt huyết, không bao giờ từ chối bất cứ một phi vụ nào dù là nguy hiểm, anh là một Phi tuần trưởng gương mẫu, lấy phương châm: Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm làm điều tâm niệm.
    Trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, khi Phi đoàn Khu Trục 518 từ Biên Hoà tăng phái cho mặt trận Quảng Trị, Th/tá Trương Phùng chính là một trong ba Pilot diệt nhiều xe tăng nhất. Người đứng đầu là Đ/uư Trần Thế Vinh, 20 chiếc, Th/tá Nguyễn Ngọc Lành 17 chiếc và Th/tá Trương Phùng diệt 15 chiếc.
    Tôi được hân hạnh cùng bay chung với anh hai lần...
    * Phi vụ đầu tiên: Thả bom CBU-25
    Vào tháng 8/1974 VC vi phạm Hiệp Định Ba Lê, pháo kích vào phi trường Biên Ḥa. Để trả đũa hành động nầy, Đại Tá Hoàng Thanh Nhă, KĐT KĐ23CT,SĐ3KQ chỉ thị 2 phi tuần Khu Trục A-1 dùng bom CBU-25 để thi hành một nhiệm vụ oanh tạc Tổng Hành Dinh của MTGPMN ở đồn điền cao su khoảng 6 dặm Tây Nam Lộc Ninh.
    Phi tuần số 1 do Th/tá Phùng và Tr/u Đinh văn Đức, phi tuần thứ 2 do tôi và Tr/u Nguyễn Tứ Đức. Sau khi nghiên cứu kế hoạch hành quân, tính toán giờ bay, hướng bay một cách rất cẩn thận và để giảm thiểu sự nguy hiểm, Th/tá Phùng đề nghị nhập 2 phi tuần thành 1 hợp đoàn 4 chiếc, dùng chiến thuật truy kích, với yếu tố bất ngờ, chớp nhoáng, bay thấp trên ngọn cây. Với chiến thuật nầy đ̣i hỏi người Leader một khả năng, kinh nghiệm, b́nh tĩnh, sáng suốt cũng như gan dạ v́ thỉnh thoảng Leader phải lặn hụp lên cao 5 hay 3 trăm bộ để nhận dạng những "check point"(điểm chuẩn) tránh bị bay lạc.
    Lợi dụng mặt trời sắp lặn, chúng tôi lấy Lai Khê làm điểm xuất phát, bay về hướng Bắc cặp theo bên phải Quốc Lộ 13, qua khỏi An Lộc 5 dặm, đổi sang hướng Tây, khi thấy Lộc Ninh th́ chuyển hướng Đông Nam để oanh tạc vào bên hông địch. Chúng tôi phải vượt qua nhiều hàng rào pḥng không dày đặc, trên đường đi cả đường về. Rất nhiều lần chúng tôi lướt trên những dàn cao xạ, nh́n thấy bọn chúng quay ṿng những họng súng và bắn vói theo. Nhờ vào sự can đảm phi thường của Th/tá Phùng nên chúng tôi đă hoàn thành sứ mạng và trở về đáp an toàn lúc 8 giờ tối. Một điều tôi ghi nhận thêm là lần đó, Th/tá Phùng thà ngậm đèn bấm soi sáng những phi cụ để bay (v́ phi cơ của anh bị hỏng đèn phi cụ) nhưng nhứt định không chịu hủy bỏ phi vụ dù rằng trong phiên họp buổi trưa Đ/Tá Nhă đă lưu ư 2 lần: "Nếu có ǵ bất trắc các bạn ráng chịu đựng qua đêm, sáng mai mới có trực thăng rescue".
    * Lần thứ hai cũng là "Phi vụ cuối cùng"
    Bốn giờ sáng ngày 29/4/75 VC pháo kích hàng loạt vào phi trường Tân Sơn Nhứt. Tôi nhận điện thoại từ Pḥng Hành Quân Chiến Cuộc SĐ5KQ rồi chuyển lịnh cất cánh khẩn cấp đến Th/tá Lê Văn Sang, Trưởng Pḥng Hành Quân PĐ 518. Sẵn đó ông kêu tôi đi bay, nhưng v́ thấy tôi thiếu wingman nên Th/tá Phùng t́nh nguyện và thách thức:
    - Trâu đạp cũng chết, chó đạp cũng chết! Tao bay với mầy coi có chết thằng tây nào không?
    Trên đường ra băi đậu với tiếng rít, tiếng pháo nổ liên tục nghe rợn người nhưng không làm sờn ḷng Th/tá Phùng mà ngược lại anh đă nung đúc tinh thần tôi qua lời nói cùa anh lẫn trong tiêng pháo :
    - Đ... tụi nó pháo bằng loại súng ǵ mà liên tục, kinh người chưa từng thấy! tụi nó định dứt điểm ḿnh hôm nay ?... Bằng mọi giá, tụi ḿnh phải lên (cất cánh) cho bằng được, dù phải hy sinh!... Hy vọng ḿnh có thể bảo vệ được bao nhiêu người, trong đó có vợ con ḿnh đang ở đây, chẳng lẽ ḿnh nằm ở đây chờ pháo chết cả đám hay sao?
    Đến băi đậu phi cơ, dù trong mưa pháo, các anh em phi đạo đă chờ sẵn từ lúc nào (xin lổi không nhớ có phải là Lợi, Hùng, Ban...?.. Th/tá Phùng dơng dạc ra lịnh:
    - Quay máy xong các bạn choke out ngay ( lấy 4 khúc gổ chận bánh phi cơ ) chạy t́m chỗ núp, mặc kệ chúng tôi. đừng để chết chùm cả đám nghe chưa!
    Tiếng rít, đạn pháo nổ trúng băi đậu phi cơ A37 kế bên bốc cháy, đất đá bay lên lộp độp trên mái hangar, sau khi nổ máy tôi di chuyển (taxi) ra khỏi ụ, Th/tá Phùng vẫn c̣n đứng dưới đất và ra dấu b́nh điện bị hư không quay máy được, buộc ḷng tôi phải cất cánh một ḿnh. Đến Phú Lâm, theo sự hướng dẫn của Tr/u Trần Văn Bảo, trưởng phi cơ AC-119K-Tinh Long 06, tôi thả lần lượt 2 trái bom xuống nơi có 2 làn khói trắng đang bốc lên, cách Đài Tiếp Sóng Phú Lâm hơn 500 thước về hướng Tây Bắc.
    Xin nói thêm là AC119 là loại vận tải hai đuôi to lớn dềnh dàng, chuyên đi thả trái sáng và yểm trợ Bộ Binh bằng những ổ súng đại bác 20 ly, 6 ṇng bắn kêu ̣ ̣ như ḅ rống.
    Sau đó tôi ngưng lại, tiếp tục bao vùng, quan sát và nh́n thấy vài ba chiếc trực thăng đang quây quần ở hướng Đông. Độ 15 phút sau, có lẽ bọn VC nghĩ rằng phi cơ của tôi đă hết bom nên pháo trở lại ào ạt, liên tục. Quá nhiều dàn pháo! bấy giờ tôi mới nh́n rơ và đây là lần đầu tiên trên chiến trường tôi gặp phải, mỗi dàn 4 khẩu, đạn pháo không ngớt bay lên. Nh́n về hướng Sàig̣n, những cột lửa bốc cao, ḷng đau như cắt, thương cho dân lành vô tội! Không do dự, tôi nhào xuống thả từng trái bom nhắm vào một trong những làn khói đang bay lên. Hơn bao giờ hết, tôi thấy cần sự trợ giúp, tôi thầm gọi:
    - Anh Phùng ơi, anh ở đâu, sao không lên đây giúp tôi một tay, chúng tôi đang cần anh, anh có biết không ?
    Chừng 5,7 phút sau, khi tôi sắp sửa nhào xuống để thả bom, tôi thấy những đám nổ ở dưới đất, tôi nghĩ lầm là do một chiếc trực thăng vơ trang nào đó vừa bắn rocket xuống mục tiêu nên cự nự:
    -Tinh Long 06, bạn đă cho tôi đánh random attack, sao lại cho trực thăng vơ trang vào "ăn có"? Nó bay cao độ thấp, nhỡ tôi không thấy mà nện trên đầu nó th́ sao!
    - Phi Long 51, tôi đă đuổi tụi nó bay sang hướng Đông của Quốc Lộ 4 rồi, chỉ có một ḿnh bạn làm việc mà thôi, nhưng để tôi quan sát kỹ lại xem có phải là tiếng nổ phụ không? Anh Bảo trả lời.
    Ṿng kế tiếp, tôi vứa thấy đám nổ phụ và nghe trong vô tuyến:
    - Dường như có thêm một chiếc A-1 nào nữa vào đánh phụ bạn đó Phi Long 51! Tôi không thấy rơ và không liên lạc được trong vô tuyến, chắc chắn không phải là trực thăng đâu bạn!
    Tôi nghĩ ngay tới Th/Tá Phùng.
    -OK! Th/Tá Phùng lên giúp chúng ta, có thể ổng hư vô tuyến. Bạn đừng lo "monkey see monkey do". ( thấy bom của tôi rớt ở đâu, anh ấy sẽ thả bom ở đó,chuyện hư vô tuyến đối với chúng tôi thường xảy ra).
    Chúng tôi quần thảo và cày nát khu vườn đó và cũng nhờ hàng chục hỏa châu soi sáng như ban ngày nên rất dễ dàng "lượm" những dàn pháo nầy.
    Hết 10 trái bom, tôi bay thêm mấy ṿng trước khi trở về bảo vệ Tân Sơn Nhứt lúc 05 giờ 30 phút. Sang tần số đài Saigon Tower, tôi hỏi sau tôi có chiếc A-1 nào cất cánh không và được trả lời:
    - Không biết nữa bạn ơi, nó pháo quá, chúng tôi phải chạy xuống hầm và vừa mới trở lên trên đây!
    Tuy nghe vậy nhưng tôi tin chắc với bản tánh can trường, không khuất phục trước mọi khó khăn hay nguy hiểm, Th/Tá Phùng không bao giờ hủy bỏ phi vụ, nhất định là anh đă bay lên cùng tôi chiến đấu bên nhau. Chúng tôi tiếp tục bao vùng trên TSN và vùng phụ cận. Sau đó chiếc chiếc AC-119K Tinh Long 07 do Tr/u Trang Văn Thành, Trưởng phi cơ lên thay thế cho Tinh Long 06 về đáp.
    Chiếc ACK 119, Tinh Long 6 đă mặt trên không phận Sài G̣n nên kịp thời xạ kích những dàn pháo làm giảm bớt thiệt hại nhân mạng do cuộc pháo kích bừa băi của Cộng Quân. Tr/úy Bảo tự Bảo Lồi đă bay "chuyến bay vĩnh biệt" anh em tại thành phố New Orleans! từ nhiều năm rồi.
    Đến 6 giờ, trời mờ mờ sáng, tôi thấy anh Phùng bay bên cánh phải với 2 trái bom, đồng thời nghe trên tần số, một phi tuần 2 chiếc A-1 của PĐ 514 cất cánh từ Cần Thơ do Th/tá Hồ Ngọc Ấn và Đ/U Nguyễn Tiến Thụy đang trên đường tiến về Thủ Đô.
    Lúc 6 giờ 25 phút, Tr/U Thành t́nh nghi một đám CSBV định cắt hàng rào pḥng thủ ở hướng Bắc của phi trường, nơi có băi đắt trống h́nh tam giác và hướng dẩn Th/tá Phùng thả 2 trái bom c̣n lại.
    Sau khi nhập vào phi tuần của tôi, vô tuyến của Th/Tá Phùng bắt đầu hoạt động tốt và anh gọi tôi đáp xuống TSN.
    V́ vô tuyến của Th/tá Phùng bất thường nên tôi nhường anh đáp trước. Nhưng trước khi chạm bánh, đột nhiên anh tống ga bay lên và bảo tôi đáp trước rồi chờ anh về ( v́ t́nh h́nh quá khẩn cấp anh dùng xe Jeep dân sự của anh để đi ra băi đậu) Lẽ ra tôi nên bay theo anh nhưng v́ lo lắng an nguy của vợ con đang tạm trú gần sát nơi bị pháo ( kế bên là cư xá Nữ QN đă cháy rụi ) nên tôi đáp xuống TSN lúc 6 giờ 50 phút.
    ... Khoảng 5 hay 3 phút sau, tôi đứng ngoài phi đạo vừa theo dơi chiếc Tinh Long 07 đang xạ kích dọc theo phía Bắc ṿng rào,vừa giải thích với anh em cơ trưởng đó chỉ là target t́nh nghi chớ phi trường vẫn an toàn nên tôi mới đáp xuống đây .
    Th́nh ĺnh cánh bên phải phi cơ bị hoả tiễn tầm nhiệt SA7 bắn trúng, chiếc đuôi phải rồi động cơ phát hoả và cùng cánh phải đứt ĺa, phi cơ cắm đầu, quay như con vụ và rơi xuống bên trong ṿng đai phi trường trong sự sững sờ, thương tiếc Phi Hành Đoàn của hàng vạn người trong và ngoài TSN. Sau nầy được biết .chín nguời trong PHĐ hy sinh ngoại trừ Th/Sĩ Chín nhăy dù thoát nạn trong gang tầc..
    Từ giờ phút nầy phi trường không c̣n an toàn nữa v́ sự uy hiếp của SA7, khắc tinh của tất cả các loại phi cơ.
    Chờ Th/tá Phùng thêm 15 phút nữa mà không thấy anh trở về đáp, tôi quá giang xe xăng để vào biệt đội, trong ḷng thầm nghĩ có thể thấy chiếc Tinh Long 07 bị bắn nên anh Phùng đă bay đi Cần Thơ?
    Xế chiều hôm đó ở Cần Thơ, tôi không thấy Th/tá Phùng! Coi như anh đă mất tích kể từ đó, không ai biết ǵ ngoài những tin đồn mù mờ, nhưng tôi biết chắc 1 điều chiếc phi cơ thứ nh́ mà anh bay, vô tuyến bị hư, không liên lạc với các Đài như Ground Control (Kiểm Soát Diện Địa ) Saigon Tower ( Kiểm Soát Không Lưu SG ) và Paris ( Kiểm Báo SG) nhưng anh vẫn cất cánh lên để diệt pháo và cứu bao nhiêu nhân mạng ờ TSN và SG.
    Hơn 30 năm, lúc nào tôi cũng ưu tư về sự mất tích của Th/tá Phùng. Thông cảm nỗi niềm của tôi, Nguyễn Toại Chí (hiện ở SG) một người em KQ đă hết ḷng truy t́m suốt nhiều tháng và cuối cùng T. Chí đă t́m được nhân chứng thấy phi cơ anh Phùng lâm nạn buộc phải đáp khẩn cấp dọc theo QL 4 gần cầu B́nh Điền khoảng 7 giờ sáng ngày 29/4/75 và sau đó anh bị xử bắn bởi bọn khát máu VC tối ngày 29/4/75.
    Và sau cùng T. Chí đă t́m được hài cốt của Th/tá Phùng, mang về cho gia đ́nh anh ấy ngày 2/12/2008.
    Tôi kính cẩn nghiêng ḿnh trước Anh Linh Người Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân Thiếu Tá Trương Phùng, nguyện hương hồn anh an nhàn nơi miền cực lạc.

    Phi Long Trần Văn Phúc.
    12/20/2008

  4. #44
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Thiếu Tá Trương Phùng

    Người Anh hùng Vị Quốc Vong Thân ngày 29 tháng Tư Năm 1975
    Cám ơn anh Phi Long 51 . Tigon đang t́m tài liệu này th́ anh đă post lên

    Anh có thêm tin về các vị đă tử trận hay tuẫn tiết vào ngày cuối của cuộc chiến không ? Kể cả Hải-Lục-Không quân .

  5. #45
    Member philong51's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    161
    Quote Originally Posted by Tigon View Post
    Cám ơn anh Phi Long 51 . Tigon đang t́m tài liệu này th́ anh đă post lên

    Anh có thêm tin về các vị đă tử trận hay tuẫn tiết vào ngày cuối của cuộc chiến không ? Kể cả Hải-Lục-Không quân .
    Kính chị Tigon,
    PL51 mượn bài nầy do anh Hùng Kiệt post trên VL từ những năm trước.Xin trích đoạn cuối


    » Tác giả: t́nhhoàihương
    » Dịch giả:
    » Thể lọai: Hồi kư
    »
    Xin Phép Anh Phi Long 51 được post bài này lên , V́ Anh đă trở thành một nhật vật Lịch sử : Người Hùng Giờ thứ 25 của QLVNCH

    Phi vụ Oanh Liệt Cuối Cùng

    thh chân thành cám ơn Đại úy Không Quân Trần Văn Phúc (Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51) hiện ở Cali đă chuyển tải:..sự thật trung thực chính xác nóng bỏng về ngày 28 & 29 tháng Tư năm 1975 vô cùng đen tối hắc ám của lịch sử... Việt Nam.

    * * * *
    :
    * ... đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải găy ĺa. Có một vật màu đen đen rớt xuống(*)... Măi đến năm 2010, khi vừa mới an vị PHĐ TL07 xong, chúng tôi mới liên lạc được với Th/Sĩ I Nguyễn Văn Chín tự “Chín Dơi“, Gunner của TL07, là người duy nhất nhảy dù ra sống sót, anh chính là “vật” (hi hi hi) màu đen rơi xuống từ chiếc TL 07, mà anh em c̣n ở đó trong phi trường TSN đều thấy.

    .*- V́ Phi Hành Đoàn TL07 có rất nhiều người t́nh nguyện đi bay trong lúc khẩn cấp, nên hầu hết nhân viên trong PHĐ không ghi đúng tên trong phi lệnh. Tôi chỉ biết có: Trung-uư Trang Văn Thành (Trưởng phi cơ), xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhập ngũ ngày 12/9/1967 khoá 68A TTHLKQ Nha Trang. Anh Thành là cháu rể của Cố Thiếu-Tướng Vơ Xuân Lành, TLP KQ. Anh Thành có 2 biệt danh: ở quân trường Nha Trang anh có tên “Thành Thụt”, v́ đôi mắt sâu thẩm, tánh t́nh anh rất cương trực, hăng say, năng nổ trong mọi công việc. Khi về PĐ C119 anh Thành có thêm một biệt danh là: “Thành Kampuchia” (v́ màu da ngâm ngâm của anh). Đêm 28/4/75 anh Trung uư Trang Văn Thành t́nh nguyện bay thêm phi vụ Extra TL 07, mặc dù trước đó anh đă bay phi vụ TL01 hồi đầu hôm rồi.
    - Trung uư Tào Thuận, hoa tiêu phụ.
    - Thiếu uư Phạm Tấn Đức.
    Họ vĩnh viễn ra đi... nhưng để lại sự thương tiếc kính phục vô vàn của hàng vạn người trong và ngoài Tân Sơn Nhứt.

    Để nhớ ơn người anh hùng vị quốc vong thân: Cố Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng, có nhiều thân hữu quân dân góp sức truy t́m tung tích anh Phùng. Sau bao năm lặn lội t́m kiếm...
    Trong cơ duyên và nhờ anh linh của cố Thiếu-tá Trương Phùng dẫn dắt, ngày 2 tháng 12 năm 2008, cựu KQ Nguyễn Toại Chí đă mang hài cốt Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng (vùi sâu dưới 5 thước đất, gần cầu B́nh Điền, Long An; trở về với gia đ́nh). Hài cốt của cố Thiếu-tá Trương Phùng được hoả táng và đem về thờ phượng tại chùa Bữu Quang.
    Theo nhân chứng là cụ H. (cụ c̣n ở Việt Nam, 90 tuổi, xin tạm dấu tên) kể rơ rằng: “Động cơ của chiếc máy bay bị ra khói, buộc ḷng anh Phùng phải đáp khẩn cấp xuống ruộng, gần cầu B́nh Điền. Anh Phùng bị bắt khoảng 7 giờ sáng ngày 29/4/75. Ngay tối hôm đó bọn Cộng Phỉ khát máu đă hành quyết anh Phùng cạnh giao thông hào”.

    Cũng sau nhiều năm tháng vất vă ngược xuôi t́m kiếm, ngày 21-7- 2010 có một nhóm thân hữu Dân Quân Chánh, đại diện gia đ́nh Thiếu-uư Phạm Tấn Đức chị Nguyệt Điểu, cùng cựu Không-quân Nguyễn Toại Chí đă t́m được 8 (Tám) hài cốt của PHĐ 07 trong ṿng đai của căn cứ Tân Sơn Nhứt. Hài cốt của PHĐ Tinh Long 07 được an vị tại nghĩa trang An Khánh - Thủ Thiêm.
    Last edited by philong51; 05-04-2013 at 09:49 AM.

  6. #46
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Những ngày của tháng 4 – 1975


    1-4-1975 :mặt trận Khánh Dương :

    * Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tử chiến với CQ tại mặt trận Khánh Dương, tỉnh Khánh Ḥa.

    Trong ngày 1/4/1975, cùng với cuộc tấn công cường tập pḥng tuyến tiền phương của Quân đoàn 2, tại Phú Yên, Cộng quân đă mở nhiều cuộc tấn công vào vị trí pḥng thủ của các đơn vị Quân lực VNCH tại Khánh Ḥa bị tấn công.

    Tại Khánh Dương, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù do Trung tá Lê Văn Phát chỉ huy đă kịch chiến với 4 trung đoàn của 2 sư đoàn Cộng quân.

    Lực lượng của lữ đoàn này đă giao tranh quyết liệt với các đơn vị thuộc Sư đoàn F-10 và F-320 của CQ. Các tiểu đoàn Dù đă đánh trả quyết liệt và bất chấp đạn pháo binh của Cộng quân bắn phá khá chính xác. Nhiều vị trí mất rồi được chiếm lại, rồi lại bị mất, nhiều lần như vậy nhưng các tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 3 Dù vẫn cố giữ vững vị trí chiến đấu.

    -Theo nhật kư của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2, trong t́nh h́nh sôi động và trước áp lực nặng của Cộng quân, vào lúc 8 giờ 10 phút ngày 1/4/1975, Trung tá Lê Văn Phát tŕnh với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2, rằng nếu không có tăng viện và không được cấp phát thêm hỏa tiễn Tow chống chiến xa th́ tuyến Khánh Dương sẽ bị Cộng quân tràn ngập.

    Tướng Phú yêu cầu Lữ đoàn 3 Nhảy Dù cố gắng để chờ quân của Sư đoàn 22 Bộ binh từ Qui Nhơn rút vào cùng với 1 trung đoàn của sư đoàn 23 BB được tái chỉnh trang. Đến 2 giờ 10 chiều ngày 1/4/1975, khi đang bay trên không phận Khánh Dương th́ Tướng Phú chỉ liên lạc được với một sĩ quan của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù. Tướng Phú được báo vắn tắt là Cộng quân đă tràn ngập nhiều vị trí của các đơn vị Nhảy Dù, tuyến pḥng ngự đă bị cắt nhỏ. Sau đó phía dưới đất tắt máy.

    *Sư đoàn 23 Bộ binh lập tuyến pḥng thủ Động Ba Th́n, Cam Ranh

    2 giờ 50 chiều ngày 1 tháng 4/1975, khi đang bay từ Khánh Dương về Phan Rang, Thiếu tướng Phạm Văn Phú chỉ thị cho Đại tá Lê Hữu Đức, quyền Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh gom lực lượng về cố thủ Động Ba Th́, Cam Ranh.

    2-4-1975 Ngày cuối cùng QĐ 2 :

    * Ngày cuối cùng trên chiến trường của Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 Phạm Văn Phú

    Ngày 2 tháng 4/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu nhận được lệnh bàn giao phần lănh thổ cuối cùng của Quân khu 2 cho Quân đoàn 3/Quân khu 3. Đó cũng là ngày cuối cùng củaThiếu tướng Phạm Văn Phú trên chiến trường trong chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2.

    Những giờ cuối cùng của vị tướng này tại Nha Trang và tại Phan Thiết đầy bi tráng. Trong nhật kư hành quân mang sang Mỹ được và được phổ biến trong cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Thiếu tá Phạm Huấn-sĩ quan Báo chí-đă ghi lại một số sự kiện xảy ra cho vị tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 trong hai ngày 1 và 2/4/1975 với nội dung được tóm lược như sau:

    * 5 giờ 50 chiều ngày 1/4/1975, Thiếu tướng Phú vào bộ Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân ở Nha Trang, nhưng vị Tư lệnh Sư đoàn này đi vắng. Ông phải ngồi ngồi đợi, 20 phút sau th́ Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Oánh-chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân và Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Lượng, Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân, bước vào.

    Lúc bấy giờ Tướng Phú ngồi ở chiếc ghế sát bàn của Tư lệnh của Sư đoàn 2 Không quân. Tướng Lượng và Tướng Oánh thấy Tướng Phú không chào hỏi và tới ngồi ở bàn khác đối diện.

    Thấy thái độ và cách xử sự khác thường của vị Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân,một trong 2 sư đoàn Không quân thống thuộc quyền điều động của bộ tư lệnh Quânđoàn 2, Tướng Phú hơi ngạc nhiên nhưng rồi ông chợt hiểu. Ông hỏi Chuẩn tướng Lượng:

    -Có chuyện ǵ xảy ra?

    Chuẩn tướng Lượng không trả lời, mặt lầm ĺ. C̣n Chuẩn Tướng Oánh, với giọng từ tốn, lễ độ nói với Thiếu tướng Phú:

    -Tôi muốn thưa với Thiếu Tướng tôi được chỉ định làm Tư lệnh Mặt trận Nha Trang, v́ Quân đoàn 2 không c̣n nữa.

    Tướng Phú mặt biến sắc, hỏi dồn:

    -Lệnh ai? Anh nhận lệnh ai?

    Tướng Oánh vẫn điềm đạm, chậm răi nói: Thưa Thiếu Tướng, lệnh của Bộ Tổng Tham mưu, của Trung tướng Đồng Văn Khuyên (Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu) từ Sài G̣n.

    Nghe Chuẩn tướng Oánh tŕnh bày, Thiếu tướng Phú cảm thấy danh dự bị tổn thương, v́ theo tổ chức quân đội, người có quyền ra lệnh cho ông là Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng, c̣n Trung tướng Khuyên là tham mưu trưởng, không có quyền ra lệnh cho các tư lệnh Quân đoàn, về vai vế và quyền hạn th́ Tư lệnh quân đoàn và Tư lệnh quân chủng chỉ xếp sau Tổng tham mưu trưởng.

    * 18 giờ 40 TướngPhú dùng điện thoại tại văn pḥng Tướng Lượng để gọi về Sài G̣n gặp Trung tướng Khuyên. Ngay từ câu đầu tiên, Thiếu tướng Phú đă hét lên trong ống liên hợp:

    -Trung tướng hỏi tôi đi đâu à? Tôi bay chỉ huy.

    Sau một hồi tranh cải, Thiếu tướng Phú nói lớn:

    -Tôi là Tư lệnh Quân đoàn. Đi đâu, đó là quyền của tôi. Trung tướng Thuần (Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan) cùng đi trên máy bay chỉ huy của tôi mấy tiếng đồng hồ, nhưng tôi không cần Trung tướng phải tin. Và tôi cũng không phải tŕnh Trung tướng.

    *19 giờ 45 phút cùng ngày, Thiếu tướng Phú ra trực thăng bay về PhanRang. Khi ông vừa ngồi lên xe Jeep để ra băi đậu trực thăng, th́ một sự việc bất ngờ xảy ra. Một xe chở đầy lính và vũ khí phóng tới, một Thiếu tá Không quân nhẩy xuống nói lớn:

    -Tại sao, tại sao, các ông là Tướng lại bỏ lính chạy. Ai pḥng thủ căn cứ này.

    Khi đó, Thiếu tá Phạm Huấn cùng đi với Thiếu tướng Phú, đă ngồi đè lên người Thiếu tướng Phú, và chĩa khẩu AR 18 về phía người sĩ quan này và nói:”Anh không được vô lễ, ông Tướng Tư lệnh Quân đoàn không có nhiệm vụ phải pḥng thủ căn cứ Không quân”.

    Cuối cùng th́ mọi việc êm xuôi, Thiếu tướng Phú hiểu được sự phẫn nộ của vị sĩ quan Không quân và những người lính đi cùng.

    * Quân đoàn 2 bàn giao phần lănh thổ c̣n lại cho Quân đoàn 3.

    Đêm 1 tháng 4/1975, Thiếu tướng Phú nằm dưới chân núi, trên một cái giường bố, tại ban chỉ huy của một tiểu đoàn Địa phương quân NinhThuận, pḥng thủ căn cứ Phan Rang. 1 giờ 45 trưa ngày 2 tháng1/1975, Tướng Phú bay đến ngọn đồi “Lầu Ông Hoàng” ở Phan Thiết chờ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó Quân đoàn 3, để thảo luận về việc bàn giao phần lănh thổ c̣n lại của Quân đoàn 2 &Quân khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân đoàn 3.

    Theo kế hoạch,Quân đoàn 3 chính thức phụ trách tuyến Ninh Thuận-B́nh Thuận từngày 3/4/1975. Vào giờ này, Bộ Tham mưu của Tướng Phú chỉ c̣n lạiThiếu tá Vinh, chánh văn pḥng; Thiếu tá Hóa tùy viên, Thiếu tá Huấn, sĩ quan báo chí và Đại tá Lê Hữu Đức, Quyền Tư lệnh Sư đoàn 23BB.

    Đúng 2 giờ 12 phút chiều cùng ngày, Thiếu tá Hóa tŕnh với Thiếu tướngPhú là trực thăng của Thiếu tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi Thiếu tá Hóa vừa quay gót, Thiếu tướng Phú rút khẩu súng ngắn ra khỏi vỏ,nhưng tiếng hét thất thanh của Đại tá Đức vang lên: “ThiếuTướng!”, ngay sau đó, khẩu súng trên tay Tướng Phú bị đại tá Đức gạt bắn xuống đất. Tướng Phú không chết trong ngày 2 tháng 4/1975, nhưng 28 ngày sau ông đă tự sát tại Sài G̣n.*

    Cuộc hội ngộ cuối cùng của hai vị Tư lệnh Quân đoàn

    Cũng theo nhật kư của Thiếu tá Huấn, trước đó vào 5 giờ chiều ngày 30 tháng 3/1975, Tướng Phú đă bay ra Cam Ranh, để cùng với Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh, Tư lệnh Hải quân Vùng hai duyên hải, đitrên một soái hạm chỉ huy ra vùng biển ngoài Cam Ranh để đón Trung tướng Trưởng đang bị bệnh nằm trên tàu HQ 404 từ Cam Ranhvào (Tướng Trưởng đă phải bơi từ bờ để ra tàu hải quân đậu ngoàibiển).

    Trên tàu lúc này có rất đông chiến binh Thủy quân Lục chiến từ Quân khu 1 vào. Tướng Phú và Phó Đề đốc Minh phải khó lắm mới lách xuống được chỗ Trung tướng Trưởng nằm dưỡng bệnh. Theo ghi nhận của Thiếu tá Phạm Huấn, có mặt vào giờ phút đó, th́ lúc này Trung tướng Trưởng thở thoi thóp nhờ b́nh nước biển.

    Quanh Trung tướng Trưởng có Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân (ĐàNẵng), Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh trưởng Thừa Thiên. Thiếu tướng Phú ghé sát tai Trung tướng Trưởng hỏi hai lần, nhưng sắc diện Trung tướng Trưởng không thay đổi. Nhưng rồi có một giây Tướng Trưởng ngước nh́n lên. Đôi mắt như muốn bật máu v́ uất ức.

    Chi tiết về cuộc gặp gở này cũng đă được Hải quân Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, hạm trưởng HQ 404 kể lại trong một bài viết phổ biến vào năm 1995. Có một điểmkhác biệt về mốc thời gian là tài liệu của Trung tá Nhơn th́ lạighi là cuộc gặp gở giữa Tướng Phú và Tướng Trưởng diễn ra vào tốingày 1/4/1975, (nhật kư của Thiếu tá Huấn ghi là 5 giờ chiều30/3/1975, như đă tŕnh bày ở trên).

    Trong khi đó theo lời kể của một số sĩ quan đi theo Tướng Trưởng, HQ 404 rời Đà Nẵng ngày29/3/1975 và đến chiều ngày 30/3/1975 th́ đă vào vùng biển ở ngoài Cam Ranh.

    Theo lời của Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404, tốingày 1/4/1975, Tướng Phú đă đi tàu nhỏ cập vào chiến hạm để lên tàu thăm và nói chuyện với Tướng Trưởng. T́nh cờ khi vào pḥng lấy hồ sơ, Trung tá Nhơn đă nghe câu nói của Thiếu tướng Phú: “Dù sao đi nữa tôi cũng c̣n vài tiểu khu ở đây với tôi chiến đấu”.

    Cũng cần ghi nhận rằng Tướng Phú đă có một thời gian làm việc chung với Tướng Trưởng: năm 1967, khi c̣n là đại tá, ông là Tư lệnh phó Sư đoàn 1 Bộ binh do Tướng Trưởng làm tư lệnh; năm 1972, khi Tướng Trưởng là Tưlệnh Quân đoàn 1 th́ Tướng Phú là Tư lệnh Sư đoàn 1 thuộc Quânđoàn này). Cuộc gặp gỡ của hai vị tư lệnh Quân đoàn diễn ra đúng10 phút.

    Sau đó, Thiếu tướng Phú đứng nghiêm chào từ biệt Trung tướng Trưởng.Rồi ông bước nhanh ra khỏi căn pḥng nhỏ của chiến hạm, những sự kiện bi tráng chờ đợi ông, người hùng Điện Biên Phủ năm nào.

    C̣n tiếp...

  7. #47
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    3-4-1975 Phan Rang hổn độn:


    *T́nh h́nh Phan Rang

    Sau khi các đơn vị VNCH triệt thoái khỏi Nha Trang ngày 2/4/1975, theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, t́nh h́nh tỉnh Ninh Thuận trở nên hỗn loạn, nhốn nháo, công chức bỏ nhiệm sở, quân nhân các đơn vị Địa phương quân bỏ đơn vị đi t́m gia đ́nh. Gần một nửa số tiểu đoàn Địa phương quân tỉnh NinhThuận bảo vệ Căn cứ Phan Rang đă bỏ vị trí pḥng thủ. Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Ninh Thuận bỏ Phan Rang sau khi ra lệnh thiêu hủy một số dụng cụ và phương tiện thiết yếu.

    * Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến giữ chức Tổng trấn Vũng Tàu

    Ngày 3 tháng 4/1975, sau cuộc triệt thoái khỏi Đà Nẵng bằng tàu Hải quân vào ngày 29/3/197, lực lượng c̣n lại của Sư đoàn 3 Bộ binh do Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh chỉ huy đă cập bến Vũng Tàu. Vào ngày này, lực lượng Thủy quân Lục chiến đă phối trí lực lượng bảo vệ pḥng tuyến Vũng Tàu.

    Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, kiêm nhiệm chức vụ Tổng trấn Vũng Tàu.

    * Sư đoàn 3 Bộ binh tái chỉnh trang tại Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp


    Theo kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH, lực lượng Sư đoàn 3 Bộ binh tập trung về Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp. Sư đoàn 2 Bộ binh lên B́nh Tuy. Tất cả sẽ phải chỉnh trang và sẵn sàng chiến đấu.

    Sau khi liên lạc với Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 3 duyên hải và Đặc khu Vũng Tàu, vào 15 giờ chiều ngày 3 tháng 4/1975, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh và các đơn vị của Sư đoàn này về đến Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp.


    4-4-1975 Mặt trận Ninh Thuận :

    *Quân đoàn 3 lập pḥng tuyến Ninh Thuận

    Sau khi 6 tỉnh Cao nguyên và 8 miền tỉnh miền Trung bị lọt vàotay CSBV, để ngăn chận địch quân tràn chiếm hai tỉnh Ninh Thuận,B́nh Thuận, thành lủy cuối cùng của Quân khu 2, Bộ Tổng Tham MưuQuân lực VNCH đă quyết định giao cho Quân đoàn 3 lập tuyến pḥngthủ bảo vệ hai tỉnh này.

    Để có sự chỉ huy thống nhất, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă chỉ thị cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 & QuânKhu 3,thành lập Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 tại Phan Rang,và Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được Tổng thống Thiệu cử làm Tư lệnh phó Quân đoàn 3, trực tiếp chỉ huy Bộ Tư lệnh Tiền phươngcủa Quân đoàn này.

    Vào thời gian đó, Trung tướng Nghi là chỉ huy trưởng trường Bộ Binh, ông cũng đă từng giữ chức tư lệnh Quânđoàn 4 & Quân khu 4 từ tháng 5/1972 đến 11/1974 sau khi đă giư ơchức vụ tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh gần 4 năm (từ tháng 6/1968 đếntháng 5/1972).

    * T́nh h́nh tỉnh Ninh Thuận

    Ngay sau khi Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được thành lậptại Phan Rang (tỉnh lỵ Ninh Thuận), trật tự an ninh tại tỉnh nàyđă được văn hồi ngay. Vị Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Ninh Thuận bỏ đi trong ngày 2/4/1975 được lệnh trở về tái lập việc pḥng thủ quanh thị xă và điều hành công việc hành chínhtrong tỉnh.

    Theo kế hoạch, lực lượng Địa phương quân được phối trí pḥng thủ gần thị xă, bảo vệ cầu, các cơ sở và tham gia lực lượng giữ ǵn an ninh tại thị xă và các vùng phụ cận. Lực lượng ṇng cốt để bảo vệ Phan Rang vẫn trông cậy vào các tiểu đoàn Nhảy Dù.

    Với lực lượng mới được tăng cường, với sự yểm trợ không quân hữu hiệu, với sự chỉ huy thống nhất, an ninh được tái lập và t́nh h́nh tại Phan Rang lắng dịu lại sau những ngày hỗn loạn.

    5-4-1975 Thủ Tướng Khiêm từ chức:

    *Thủ tướng Trần Thiện Khiêm từ chức

    Ngày 5 tháng 4/1975, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ tướng Chính phủ kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng đă nộp đơn lên Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu xin từ chức. Tổng thống đă chấp thuận và cử ông Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch Hạ Viện, thành lập nội các (Ngày 14/4/1975, nội các của ông Nguyễn Bá Cẩn mới hoàn tất thành phần nhân sự và tŕnh diện Tổng thống). Trong thời gian chờ chính phủ mới h́nh thành, nội các của Đại tướng Trần Thiện Khiêm tiếp tục hoạt động dưới h́nh thức xử lư thường vụ. (Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, và hồi kư của Trung tướng Trần Văn Đôn)

    * Phối trí lực lượng tại mặt trận Ninh Thuận.

    Theo kế hoạch của bộ Tổng Tham Mưu và sự phân nhiệm của bộ Tư lênh Quân đoàn 3 & Quân khu 3, th́ Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 (Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi giữ chức Tư lệnh Tiền phương), đặt tại căn cứ Không quân Phan Rang cùng với bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân. Trách nhiệm của Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 là chỉ huy các lực lượng pḥng thủ và bảo vệ hai tỉnh Ninh Thuận và B́nh Thuận.

    *Lực lượng chính để bảo vệ pḥng tuyến Phan Rang là Lữ đoàn 3 Nhảy Dù (Lữ đoàn này về Sài G̣n vào ngày 7/4/1975, sau khi có Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ra thay thế).

    Về hỏa lực không pháo là các phi đoàn thuộc Sư đoàn 6 Không quân. Yểm trợ hỏa lực pháo binh có 1 tiểu đoàn Pháo binh của Sư đoàn Dù và một số pháo đội do Quân đoàn 3 điều động đến.

    6-4-1975 :Trận chiến B́nh Thuận :

    * 1 sư đoàn CSBV tiến về gần Phan Thiết, tỉnh lỵ tỉnh B́nh Thuận.

    Theo phân tích của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH, vào thượng tuần tháng 4/1975, sau khi đă chiếm Nha Trang, Cam Ranh và các quận tỉnh Khánh Ḥa, do bị thiệt hại nặng tại mặt trận Khánh Dương, Cộng quân cần phải bổ sung quân số, chưa đủ lực lượng để mở đợt tấn công lớn vào Ninh Thuận.

    Các tin tức t́nh báo nhận được cho biết sư đoàn 7 CSBV sau khi mở các cuộc tấn công vào Cao nguyên đă được điều động về hoạt động tỉnh B́nh Thuận. Ngày 6 tháng 4/2005, sư đoàn 7 CSBV này đă khai triển lực lượng hoạt động tại phiá Tây Phan Thiết. Trong khi đó sư đoàn 3 CSBV và một vài đơn vị của sư đoàn 10 CSBV đóng cách Cam Ranh khoảng 50 km về hướng Tây Bắc.

    *Lữ đoàn 2 Nhảy Dù thay thế Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tại pḥng tuyến Phan Rang.

    Ngày 6 tháng 4/1975, Bộ Tổng Tham Mưu điều động Lư đoàn 2 Nhảy Dù ra Phan Rang bằng không vận để thay thế cho Lữ đoàn 3 Nhảy Dù. (Một ngày sau, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù trở về Sài G̣n sau khi Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ra Phan Rang). Cùng với cuộc chuyển quân của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù, c̣n có các toán thám sát của Nha Kỹ Thuật đến hoạt động tại khu vực Đông Bắc và Tây Bắc Phan Rang.

    7-4-1975:Trận chiến Miền Đông

    * Cộng quân gia tăng áp lực tại B́nh Dương, Long Khánh

    Tại miền Đông Nam phần, thuộc vùng trách nhiệm của Quân đoàn 3/ Quân khu 3, áp lực của CQ đă gia tăng tại B́nh Dương, thuộc khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 5 Bộ binh do Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ làm tư lệnh; tại Long Khánh, thuộc khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 18 Bộ binh mà vị Tư lệnh là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo.

    * 2 sư đoàn CSBV khai triển lực lượng gần Dầu Giây

    Ngày 7/4/1975, 2 sư đoàn Cộng quân 341 và 3 CSBV đă khai triển lực lượng tiến về gần Dầu Giây. (2 sư đoàn CQ này đă cùng với sư đoàn 7 CSBV mở cuộc tấn công vào Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh vào ngày 9 tháng 4/1975).

    *Lữ đoàn 2 Nhảy Dù bảo vệ pḥng tuyến Phan Rang

    -Ngày 7 tháng 4/1975, pḥng tuyến Phan Rang được bảo vệ với nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 ,11 Nhảy Dù, Đại đội Trinh sát 2 và các toán thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xă Phan Rang.

    Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù là Đại tá Nguyễn Thu Lương. Ngoài 3 tiểu đoàn Nhảy Dù nói trên, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù c̣n được tăng cường Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù (đă tham chiến tại mặt trận Khánh Dương trong đội h́nh của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù), và Tiểu đoàn 1 Pháo binh Nhảy Dù.

    QĐ 3 Pḥng tuyến Phan Rang :

    * Tổng lược t́nh h́nh 7 tỉnh Cao nguyên của Quân khu 2 trước khi Quân đoàn 3 thành lập pḥng tuyến Phan Rang
    Như đă tŕnh bày, kể từ ngày 10/3/1975 ,ngày Cộng quân (CQ) mở trận tấn công cường tập vào thị xă Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đắc Lắc, cho đến ngày 3 tháng 4/1975, trong ṿng 23 ngày, CQ đă chiếm vùng Cao nguyên sau khi lực lượng VNCH triệt thoái, theo tŕnh tự sau đây :

    -Ban Mê Thuột (tỉnh lỵ tỉnh Darlac) thất thủ ngày 11/3/1975; ngày 16-18/4/1975, lực lượng Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi hai tỉnh Pleiku và Kontum, và CQ đă chiếm 2 tỉnh này mà không qua các cuộc giao chiến. Ngày 19/3/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 nhận được báo cáo Phú Bổn thất thủ. Ngày 22/3/1975, trên địa bàn tỉnh Quảng Đức, Cộng quân đă mở nhiều cuộc tấn công và pháo kích. Tỉnh Quảng Đức được ghi nhận là thất thủ vào ngày này.

    -Ngày 29/3/1975, Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng và 1 đơn vị Địa phương quân, do vị Trung tá Tham mưu trưởng chỉ huy đă triệt thoái về đến Phan Rang vào 20 giờ tối ngày 29/3/1975.

    Theo nhật kư hành quân của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2 ghi theo báo cáo của Trung tâm Hành quân Quân đoàn 2 đặt tại Nha Trang th́ diễn tiến t́nh h́nh chiến sự tại Lâm Đồng như sau:

    “Vào 3 giờ sáng ngày 28-3-1975, Cộng quân đă tấn công quận Bờ Sa, tỉnh Lâm Đồng. Đến 7 giờ 15 sáng cùng ngày, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào thị xă tỉnh lỵ Lâm Đồng. Đến 10 giờ 45, tỉnh lỵ bị tràn ngập.” Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thế Viên, nguyên trưởng ty Thông tin-Chiêu Hồi tỉnh Lâm Đồng, người đă rời Bảo Lộc vào 12 giờ trưa ngày 29/3/1975, th́ ” không hề có vấn đề thị xă Bảo Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng) bị tràn ngập, ít ra là tính tới 12 giờ trưa ngày này, mà chỉ có việc quân ta tự ư rút lui và đồng bào di tản theo mà thôi.


    C̣n tiếp...

  8. #48
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    *Quân đoàn 3 phối trí lực lượng giữ pḥng tuyến Phan Rang

    Nhằm ngăn chận địch quân tràn chiếm hai tỉnh NinhThuận,B́nh Thuận, thành lủy cuối cùng của Quân khu 2, Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực VNCH đă quyết định giao cho Quân đoàn 3 lập tuyến pḥng thủ bảo vệ hai tỉnh này.

    Để có sự chỉ huy thống nhất, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă chỉ thị cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 & QuânKhu 3, thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 tại Phan Rang. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được Tổng thống Thiệu cử làm Tưlệnh phó Quân đoàn 3, trực tiếp chỉ huy Bộ Tư lệnh Tiền phương của Quân đoàn này. Vào thời gian đó, Trung tướng Nghi là Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, ông cũng đă từng giữ chức Tư lệnh Quânđoàn 4 & Quân khu 4 từ tháng 5/1972 đến 11/1974 sau khi đă giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh gần 4 năm (từ tháng 6/1968 đến tháng 5/1972).

    Trở lại với việc phối trí hoạt động tại Ninh Thuận và B́nh Thuận,theo kế hoạch của bộ Tổng Tham Mưu và sự phân nhiệm của bộ Tư lênh Quân đoàn 3 & Quân khu 3, th́ Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 đặt tại căn cứ Không quân Phan Rang cùng với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân mà Tư lệnh là Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang.

    Trách nhiệm của Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 là chỉ huy cáclực lượng pḥng thủ và bảo vệ hai tỉnh Ninh Thuận và B́nh Thuận.Trong những ngày đầu của tháng 4/1975, lực lượng chính để bảo vệpḥng tuyến Phan Rang là Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến mặt trận Khánh Dương và tiểu đoàn 3 Nhảy Dù được không vận từ Sài G̣n ra ngày 2/4/1975. Về hỏa lực không pháo là các phi đoàn thuộc Sư đoàn 6 Không quân.Yểm trợ hỏa lực pháo binh có 1 tiểu đoàn Pháo binh của Sư đoàn Dù và một số pháo đội do Quân đoàn 3 điều động đến.

    Ngày 8 tháng 3/1975, sau khi Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đến Phan Rang để thay thế Lữ đoàn 3, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 đă khởi sự phối trí lực lượng để bảo vệ pḥng tuyến Phan Rang như sau.

    Nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 ,11 Nhảy Dù, Đại đội Trinh sát 2 và các toán thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xă Phan Rang. Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù là Đại tá Nguyễn Thu Lương. Ngoài 3 tiểu đoàn Nhảy Dù nói trên, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù c̣n được tăng cường Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù (đă tham chiến tại mặt trận Khánh Dương trong đội h́nh của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù), và Tiểu đoàn 1 Pháo binh Nhảy Dù.

    * T́nh h́nh Phan Rang trong thượng tuần tháng 4/1975:

    Ngay sau khi Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được thành lập tại Phan Rang (tỉnh lỵ Ninh Thuận), trật tự an ninh tại tỉnh nàyđă được văn hồi ngay.

    Vị Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởngNinh Thuận bỏ đi trong ngày 2/4/1975 được lệnh trở về tái lậpviệc pḥng thủ quanh thị xă và điều hành công việc hành chínhtrong tỉnh.

    Tuy nhiên lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân tại Ninh Thuận chỉ c̣n một phần ba quân số tại hàng. Một số lớn binh sĩ và hạ sĩ quan đă bỏ đơn vị vào Nam t́m gia đ́nh

    Theo kế hoạch, lực lượng Địa phương quân được phối trí pḥng thủ gần thị xă, bảo vệ cầu, các cơ sở và tham gia lực lượng giữ ǵnan ninh tại thị xă và các vùng phụ cận. Lực lượng ṇng cốt để bảovệ Phan Rang vẫn trông cậy vào các tiểu đoàn Nhảy Dù.

    Với lực lượng mới được tăng cường, với sự yểm trợ không quân hữuhiệu, với sự chỉ huy thống nhất, an ninh được tái lập và t́nhh́nh tại Phan Rang lắng dịu lại sau những ngày hỗn loạn.

    * Phần bổ sung về cuộc hành tŕnh của Trung tướng Ngô Quang Trưởng trên đường vào Nam

    Trong khi Cộng quân tiến chiếm các tỉnh B́nh Định, Phú Yên, Khánh Ḥa th́ một số tàu Hải quân đang chở hàng ngàn quân sĩ của các đơn vị Quân khu 1 và một số tiểu đoàn của Sư đoàn Thủy quân Lụcchiến từ Đà Nẵng vào Nam. Như đă tŕnh bày, chỉ có một ít đơn vịcủa Sư đoàn 1 và Sư đoàn 3 Bộ binh lên được tàu cùng với một sốsĩ quan. Riêng Trung tướng Trưởng được tàu Hải quân HQ 404 vớtsau khi ông phải bơi từ bờ.

    Trong cuộc hải tŕnh vào Nam trên tàu HQ 404, Tướng Trưởng đă nhận được mật điện của Tổng thống Thiệu yêu cầu ông chuyển qua HQ5 hay các chiến hạm lớn có đầy đủ tiện nghi và sạch sẽ hơn v́ HQ 404 quá chật chội, không có máy lạnh và chở toàn binh sĩ. Theo lời kể của Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404, th́ lúc đótàu này dơ bẩn và hôi hám v́ có nhiều người chết. Dù được yêu cầu chuyển qua một tàu lớn hơn nhưng Trung tướng Trưởng không đồng ư , Ông yêu cầu Trung tá Nhơn báo về Sài G̣n là ông xin ở lại trêntàu với anh em Thủy quân Lục chiến chứ không đi đâu cả. Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận.

    Khi HQ 404 đến Cam Ranh, Hạm trưởng của tàu này nhận được lệnh bỏ hết anh em Thủy quân lục chiến xuống Cam Ranh và chỉ chở một ḿnh Trung tướng Trưởng vào Sài G̣n. Để thực hiện lệnh này, HQ 404 được phép ủi băi Tân Cảng để đổ Thủy quân lục chiến xuống. Ngay khi cuộc đổ quân bắt đầu, Trung tướng Trưởng lặng lẽ đứng dậy đi xuống tàu. Trung tá Nhơn thấy vậy tiến đến tŕnh bày: “Lệnh Sài G̣n yêu cầu tôi chở Trung tướng về Sài G̣n. Xin Trung tướng ở lại tàu cho”. Với nét mặt cương quyết, Trung tướng Trưởng nói rơ từng tiếng yêu cầu Hạm trưởng HQ 404 xin phép Sài G̣n cho Thủy quân Lục chiến về Sài G̣n để dưỡng quân và chỉnh đốn đội ngũ. Tướng Trưởng nói tiếp: Nếu anh em Thủy quân Lục chiến xuống Cam Ranh th́ tôi cũng xuống đây luôn.

    Liền ngay sau đó, Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404 báo về Sài G̣n và chờ đợi kết quả. Cuối cùng công điện trả lời: “Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận”.

    Quân nhân Thủy quân Lục chiến đă xuống bờ được gọi trở lên tàu. Khi tất cả quân nhân Thủy quân Lục chiến đă có mặt đầy đủ, với khuôn mặt khắc khổ, Tướng Trưởng lặng lẽ trở vào pḥng của ông.

    C̣n tiếp...

  9. #49
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    8-4-1975:Trận chiến Quốc lộ 20:

    * 3 sư đoàn CSBV áp lực nặng pḥng tuyến Long Khánh

    Sau khi đă điều động 3 sư đoàn chính quy vào mặt trận Long Khánh, ngày 8 tháng 4/1975, Cộng quân tung lực lượng tiến hiếm một đoạn đường dài trên Quốc lộ 20 và đặt chướng ngại vậttại ngă ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20.

    Ngày 8/4/1975, để ngăn chận các đợt tấn công của Cộng quân, Không quân VNCH đă thựchiện nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của Cộng quân, tuy nhiên, các phi tuần này đă gặp khó khăn do màn lưới pḥng không dày dặc của các trung đoàn pháo binh pḥng không của Cộng quân.

    *Dinh Độc Lập bị dội bom

    Cũng trong ngày 8 tháng 4/1975, 1 trung úy Không quân tên là Nguyễn Thành Trung, nội tuyến của VC, đă lái 1 phản lực cơ chiến đấu F5 thả bom xuống dinh Độc Lập. Vụ ném bom này chỉ gây hư hại 1 phần của đại sảnh đường. Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng “tin đồn được truyền đi cho rằng số phận miền Nam đă được định đoạt bởi những thế lực lớn”.

    9-4-1975:Trận chiến Long An :

    *Cộng quân đột kích vào thị xă Tân An, tỉnh lỵ tỉnh Long An

    -Ngày 9/4/1975, cùng lúc CQ mở cuộc tấn công vào thị xă Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh, th́ tại tỉnh Long An thuộc phạm vi trách nhiệm của Sư đoàn 25 Bộ binh, vào lúc 6 giờ 30 sáng ngày 9/4/1975, 1 tiểu đoàn đặc công Cộng quân đă đột nhập vào thị xă Tân An (tỉnh lỵ Long An), 1 biệt đội đặc công đă tấn công vào một phi trường cách thị xă Tân An 1.5 km. Lực lượng pḥng thủ thị xă và đơn vị Địa phương quân pḥng thủ phi trường đă đẩy lùi được cuộc tấn công của Cộng quân vào lúc 2 giờ chiều cùng ngày, hạ tại chỗ 25 CQ, tịch thu một số vũ khí đủ loại.

    *Mặt trận Long Khánh bùng nổ

    Rạng sáng ngày ngày 9 tháng 4/1975, sau khi đă đặt các chướng ngại vật tại ngă ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20, CQ mở cuộc tấn công cường tập vào pḥng tuyến Xuân Lộc, tỉnh lỵ Long Khánh. Cùng thời gian, CQ đă pháo kích dữ dội vào căn cứ Không quân Biên Ḥa, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, căn cứ Tiếp vận Long B́nh.

    9-4-1975:Long Khánh bùng nổ:

    *Tổng lược về trận chiến Long Khánh ngày 9/4/1975


    Theo tài liệu ghi trong hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên, sau khi đă điều động 3 sư đoàn chính quy vào mặt trận Long Khánh, ngày ngày 9 tháng 4/1975, Cộng quân tung lực lượng tiến chiếm một đoạn đường dài trên Quốc lộ 20 và đặt chướng ngại vật tại ngă ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20. Cùngthời gian khai triển lực lượng tại khu vực nói trên, rạng sángngày 9/4/1975, Cộng quân đă pháo kích như mưa vào Căn cứ Khôngquân Biên Ḥa, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Căn cứ Tiếp vận Long B́nh.

    Tại tỉnh lỵ Xuân Lộc, từ 6 giờ sáng 30 cùng ngày (9/4/1975), Cộng quân đă đồng loạt pháo kích khoảng vào nhiều vị trí quanh tỉnh lỵXuân Lộc. Khoảng 1 giờ sau, Cộng quân tung trung đoàn 266 thuộcsư đoàn 341 chính quy Bắc Việt, và 1 tiểu đoàn chiến xa T54, 2tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn đặc công tấn công vào ngay thị xă.

    Cũng với trận tấn công vào vào thời gian đó, CQ tấn công vào khu vực ngă ba Dầu Giây. Kế hoạch của Cộng quân là muốn chiếm Dầu Giây để từ đây tấn công vào tuyến pḥng thủ của Trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh.

    Ngay trước khi trận chiến xảy ra, để ngăn chận các đợt tấn công của Cộng quân, Không quân VNCH đă thựchiện nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của Cộngquân, tuy nhiên, các phi tuần này đă gặp khó khăn do màn lưới pḥng không dày dặc của các trung đoàn pháo binh pḥng không của Cộng quân được bố trí quanh ṿng đai pḥng tuyến của Sư đoàn 18Bộ binh.

    *Lực lượng VNCH tại mặt trận Long Khánh

    Về lực lượng tác chiến của Quân lực VNCH tại mặt trận Long Khánh, theo tài liệu của Pḥng 3/Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH được Đại tướng Cao Văn Viên ghi lại trong hồi kư, th́ tính đến sáng ngày 9/4/1975, các đơn vị pḥng ngự gồm có toàn bộ lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh, được tăng cường thêmTrung đoàn 8 Bộ binh thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh, Thiết đoàn 3 , hai tiểu đoàn Biệt động quân, hai tiểu đoàn Pháo binh.

    Các đơn vị này được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm 316, 318 và 322 được phối trí án ngữ quanh ṿng đai thị xăXuân Lộc. Tư lệnh mặt trận Long Khánh là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo,Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh, chỉ huy lực lượng diện địa là Đại táPhạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Long Khánh.

    * Diễn tiến các trận giao tranh trong ngày 9/4/1975.

    Theo bản tin chiến sự do phát ngôn viên Quân sự QL.VNCH phổ biến và được báo Chính Luận số ra ngày 10/4/1975 phổ biến, diễn tiến các trận giao tranh tại Xuân Lộc trong ngày 9/4/1975 được ghi nhận như sau.

    Tại pḥng tuyến quanh thị xă Xuân Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh), 7 giờ 30 sáng, Cộng quân đă mở nhiều đợt tấn công vào vị trípḥng ngự của các chiến đoàn 316, 318 và 320. Tại trung tâm tỉnhlỵ Long Khánh, trận chiến xảy ra ngay tại nhà thờ Chánh ṭa vàgiữa chợ Xuân Lộc. Đối phương sử dụng thiết giáp có bộ binh tùngthiết tấn công vào khu vực trung tâm tỉnh lỵ Long Khánh.

    Để đẩy lùi địch quân ra khỏi thị xă, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đă điều động thêm lực lượng đến tăng viện, trận chiến trở nên dữ dội hơn.

    Lực lượng tăng viện và trú pḥng đă quyết chiến và đẩy lùi đượccác đợt tấn công của Cộng quân. 4 chiến xa của địch đă bị bắncháy gần chợ Xuân Lộc. Đến 6 giờ chiều ngày 10/4/1975, các chốtcầm cự của Cộng quân trong tại thị xă Xuân Lộc, nhà thờ Chánh Ṭađă hoàn toàn bị đẩy lui, 300 Cộng quân bị bỏ xác tại trận địa vớitrên 100 vũ khí đủ loại, 2 binh sĩ Cộng quân bị bắt sống. Tại cáckhu vực kế cận thị xă, trận chiến vẫn kéo dài đến 10 giờ đêm mớitạm lắng sau khi lực lượng tăng viện giải tỏa được áp lực của Cộng quân.

    * Cuộc chuẩn bị của Cộng quân tại mặt trận Long Khánh

    heo lời khai của 2 tù binh Cộng quân, những binh sĩ này thuộcmột trung đoàn mới từ miền Bắc xâm nhập vào Nam từ đầu năm 1975.Trước khi tấn công vào thị xă Xuân Lộc, đơn vị của hai tù binhnày đă được tập dượt trước với sự tham gia của một tiểu đoàn thiết giáp.

    Theo tài liệu trong Tạp chí “Lịch sử Quân đội” CSVN số 3/1998 ( do tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh Hứa Yến Lến trích dẫn phổ biến trong KBC số 22, th́ kế hoạch chuẩn bị cuộc tấn công vào Xuân Lộc được Lê Đức Thọ, ủy viên Bộ chính trị CSVN, kể lại diễn tiến như sau: ” Sau 2 lần B 2 xin quân th́ tôi (Lê Đức Thọ) vào chiến trường gặp lúc hội nghị miềm Bắc vưà kết thúc. Lúc đó, tôi cũng được biết trước đó, anh em (CSBV) đă đánh Thủ Thừa, đường số 4, nhưng bị thiệt hại nặng nề, không giải quyết được chiến trường.

    Ngoài ra địch c̣n chống cự như trận đánh vào Đồng Dù, Nước Trong là những trận đánh ác liệt tại miền Đông, thương vong của ta (CSBV) không phải là ít, tôi có ư định toan bàn với các đồng chí (Bộ Tham mưu trung ương của CQ tại miền Nam, nhưng nghe anh Dũng (Văn Tiến Dũng, đại tướng Tổng tham mưu trưởng quân đội CSBV, tôi cũng nghĩ có thể ḿnh mới vào chưa rơ t́nh h́nh; cứ để các đồng chí đánh vậy. Kết cục là an hem (CSBV) không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra.

    Cũng theo tài liệu nói trên, lực lượng CQ tại mặt trận Long Khánh trong những ngày đầu là quân đoàn 4 CSBV do tướng CSBV Hoàng Cầm làm tư lệnh, chính uỷ là tướng CSBV Hoàng Đ́nh Hiệp. Các đại đơn vị thống thuộc quân đoàn này gồm có: sư đoàn 6 sư đoàn 7 và sư đoàn 341, sư đoàn này vưà di chuyển từ Thanh Hóa vào với thành phần Pháo binh cơ hữu. (Tài liệu phổ biến trong hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên có phần khác biệt về danh hiệu các sư đoàn CSBV, theo đó 2 sư đoàn 3 và 341 là những đại đơn vị đầu tiên của CSBV tại mặt trận Long Khánh, sau đó được tăng cường thêm sư đoàn 7 CSBV).

    C̣n tiếp..

  10. #50
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    10-4-1975:Trận chiến Xuân Lộc:

    *Trận chiến Xuân Lộc ngày N+ 1

    Ngày 10 tháng 4/1975, trận chiến tại mặt trận Long Khánh đă bước vào ngày thứ hai. Sau khi bị đẩy lùi khỏi trung tâm thị xă Xuân Lộc trong buổi chiều ngày 9 tháng 4/1975, 7 giờ sáng ngày 10 tháng 4/1975, CQ lại mở đợt tấn công thứ hai. Khởi đầu là CQ pháo kích khoảng 1 ngàn quả đạn đủ loại vào thị xă Xuân Lộc, tỉnh lỵ Long Khánh, và vào các vị trí trọng điểm dọc theo các pḥng tuyến ṿng đai tỉnh lỵ, trận mưa pháo kéo dài trong ṿng 1 giờ. Sau đó, các đơn vị bộ binh và thiết giáp của Cộng quân đă đồng loạt tấn công vào thị xă này từ hai hướng Đông Bắc và Tây Bắc. Đợt tấn công này đă bị quân trú pḥng chận đứng từ các ngă ba dẫn vào tỉnh lỵ.

    * Kịch chiến tại ngă ba Dầu Giây

    Tại ngă ba Dầu Giây, trận chiến đă xảy ra quyết liệt. Cộng quân áp dụng chiến thuật “xa luân chiến”, các đơn vị Cộng quân thay nhau liên tục mở các đợt tấn công vào hệ thống công sự pḥng thủ của quân trú pḥng. Để triệt tiêu lối đánh của đối phương, các đơn vị trú pḥng VNCH đợi Cộng quân đến gần mới khai hỏa đồng loạt, mỗi đợt tấn công có ít nhất một trung đội Cộng quân đi đầu bị loại khỏi ṿng chiến. Để yểm trợ cho các đơn vị pḥng ngự, các pháo đội Pháo binh VNCH đă bắn trực xạ chận đứng các đợt tấn công biển người của Cộng quân.

    11-4-1975:Trận chiến Dầu giây:

    -Tại Xuân Lộc, đến sáng ngày 11/4/1975, trận chiến đă bước vào ngày thứ ba. Sau hai ngày giao tranh 9 và 10/4/1975, hơn 500 CQ bỏ xác tại trận, 8 chiến xa T54 bị bắn cháy, lực lượng pḥng ngự VNCH thu được gần 200 vũ khí đủ loại. 7 giờ sáng ngày 11/4/1975, hai trung đoàn CQ từ hướng đông bắc và tây nam tấn công vào trung tâm thị xă, đây là đợt tấn công thứ ba. Quân trú pḥng từ những công sự chiến đấu quanh các khu vực đă giao tranh quyết liệt với Cộng quân.

    -Tại ngă ba Dầu Giây, liên tục trong 3 ngày từ 9 đến 11/4/1975, CQ đă tung 2 trung đoàn có thiết giáp yểm trợ quyết chiếm khu vực này, để từ đây mở những cuộc tấn công lớn vào pḥng tuyến của Trung đoàn 52 BB đang án ngữ hướng tây bắc của thị xă tỉnh lỵ. Tính từ 6 giờ sáng ngày 11/4/1975 đến 18 giờ ngày 11/4/1975, CQ đă mở đến 6 đợt xung phong biển người vào các vị trí ở mặt trận Dầu Giây, và đều bị đẩy lùi.

    12-4-1975 :Kịch chiến ở Xuân Lộc

    * CQ tung 4 sư đoàn vào mặt trận Long Khánh-

    Trong ngày 12/4/1975, trận chiến tại Long Khanh đă trở nên quyết liệt khi Cộng quân tung thêm 1 sư đoàn có bí số CT 7 (công trường 7) vào mặt trận tại ngă ba Dầu Giây, 1 trung đoàn biệt lập và 1 trung đoàn thiết giáp thuộc khu miền Đông tấn công vào trung tâm thị xă.Kịch chiến đă diễn ra tại nhiều pḥng tuyến ṿng đai tỉnh lỵ Xuân Lộc của tỉnh Long Khánh.

    -Tính đến ngày 12/4/ 1975, lực lượng Cộng quân tại mặt trận Xuân Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh) và khu vực phụ cận có 4 sư đoàn chính quy: 431, CT 6 và CT 7, thuộc Quân đoàn 4, F3 tân lập (trong số các sư đoàn chính quy của Cộng quân, có 1 sư đoàn mang tên là CT3-Sao Vàng) ; lực lượng yểm trợ có 1 sư đoàn pháo binh, 2 trung đoàn thiết giáp và khoảng 3 tiểu đoàn đặc công.

    * Lữ đoàn 1 Dù nhảy vào mặt trận Xuân Lộc

    - Trước áp lực nặng của CQ, để đối đầu với 3 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn pháo, 2 trung đoàn thiết giáp của CSBV, ngày 12 tháng 4/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 tung lực lượng trừ bị cuối cùng vào trận chiến: đó là Lữ đoàn 1 Dù với 4 tiểu đoàn và tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù.

    13-4-1975:Trận chiến Bảo Định :

    *Cộng quân áp lực pḥng tuyến Dầu Giây

    -Trong ngày 13/4/1975, tại tỉnh Long Khánh, trận chiến đă diễn ra quyết liệt khi Cộng quân tung thêm 1 sư đoàn có bí số CT 7 (công trường7) vào mặt trận tại ngă ba Dầu Giây, 1 trung đoàn biệt lập và 1 trung đoàn thiết giáp thuộc khu miền Đông tấn công vào trung tâm thị xă.

    * Lữ đoàn 1 Dù tái chiếm Bảo Định, tỉnh Long Khánh

    -Sau khi di chuyển từ Biên Ḥa đến Trảng Bom, lực lượng Lữ đoàn 1Nhảy Dù được phối trí như sau: hai tiểu đoàn Dù đầu tiên hành quân trực thăng vận xuống ấp Bảo B́nh, cách tỉnh lỵ Long Khánh 5km về hướng Nam, và cách Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18BB ba cây số về hướng Đông.

    -Theo phân nhiệm của Bộ Tư lệnh chiến trường Xuân Lộc, 2 tiểu đoàn Nhảy Dù được lệnh tái chiếm xă Bảo Định, cách ấp Bảo B́nh 2 km vềhướng Bắc. Xă này đă bị Cộng quân chiếm giữ từ ngày 10 tháng4/1975 khi trận chiến Xuân Lộc mới bước vào ngày thứ hai.

    -Một tiểu đoàn Nhảy Dù thứ ba được đổ xuống một khu vườn cao su, bênsuối Gia Cốp, cách xă Bảo Định 1 km về phía Bắc để đánh đuổi mộttiểu đoàn đặc công của Cộng quân đang chiếm giữ vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ, cựu Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH từ 1955 đến tháng 8/1963.

    Tiểu đoàn thứ 4 được đổ xuống ngay Xuân Lộc để giải tỏa áp lực Cộng quân đang bao vây bộ Chỉ huy Tiểu khu và pḥng tuyến của 1 tiểu đoàn Địa phương quân.

    14-4-1975:Nội các mới trỉnh diện :

    *Tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn tŕnh diện thành phần nội các


    Sau 9 ngày tiến hành tuyển chọn nhân sự để thành lập chính phủ, vào ngày 14/4/1975, tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn tŕnh diện thành phần nội các lên Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Tân chính phủ có 3 phó thủ tướng, 4 quốc vụ khanh, 15 tổng trưởng, 1 bộ trưởng (Phủ Thủ tướng), 6 thứ trưởng. Trong chính phủ mới, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, nguyên Phó thủ tướng của nội các Trần Thiện Khiêm, giữ chức vụ phó thủ tướng đặc trách Tổng thanh tra kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng; Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng đặc trách sản xuất kiêm Tổng trưởng Canh Nông và Kỹ Nghệ; Kỹ sư Dương Kích Nhưỡng, phó thủ tướng đặc trách Chương tŕnh cứu trợ và định cư; Chuẩn tướng Phan Ḥa Hiệp giữ chức Tổng trưởng Thông tin-Chiêu Hồi; Luật sư Vương Văn Bắc giữ chức Tổng trưởng Ngoại giao.

    * Trận chiến khốc liệt tại ngă ba Dầu Giây

    Ngày 14/41975, tại ngă ba Dầu Giây, Cộng quân đồng loạt tấn công vào vị trí pḥng thủ của Trung đoàn 52 Bộ binh từ Kiệm Tân đến ấp Phan Bội Châu trên Quốc lộ 20. Trước t́nh h́nh mới, Bộ Tư lệnh chiến trường Xuân Lộc đă điềuđộng lực lượng tăng viện lên mặt trận ngă ba Dầu Giây để cùng với Trung đoàn 52 BB giữ pḥng tuyến tại ngay ngă ba Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20.

    15-4-1975:Mặt trận Long Khánh :

    * Kịch chiến tại ngă ba Dầu Giây, tỉnh Long Khánh

    Tại pḥng tuyến ngă ba Dầu Giây, đến ngày 15/4/1975, trận chiến tại đây bước vào ngày thứ 7. Lực lượng bảo vệ pḥng tuyến này là Trung đoàn 52 Bộ binh với sự yểm trợ của Thiết giáp và Pháo binh.

    Từ chiều ngày 14/4/1975 đến sáng ngày 15/4/1975, các tiền đồn, công sự pḥng thủ của các tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 52 từ Kiệm Tân về đến ấp Phan Bội Châu đă bị Cộng quân tràn ngập. Chiều ngày 15/4/1975, trận chiến đă xảy ra quyết liệt ngay tại xă Dầu Giây, ở ngă ba Quốc lộ 1 và 20, giữa lực lượng trú pḥng và 2 sư đoàn chính quy và 1 trung đoàn thiết giáp của Cộng quân.

    Thế trận và tương quan lực lượng vô cùng chênh lệch. Lực lượng trú pḥng c̣n khoảng 2 ngàn quân sĩ (kể cả các tiểu đoàn Địa phương quân của Tiểu khu Long Khánh từ Định Quán rút về hợp cùng với các đơn vị Trung đoàn 52 Bộ binh), trong khi đó lực lượng củaCộng quân đông gấp 10 lần. Những người lính VNCH tại pḥng tuyến ngă ba Dầu Giây đă phải chiến đấu với thế trận 1 chống 10. Trận chiến đă diễn khốc liệt ngay từ những phút đầu. Cộng quân pháo kích như mưa xuống các vị trí công sự của quân trú pḥng, sau đó là đợt tấn công biển người.

    Sau 3 giờ kịch chiến, Cộng quân đă tràn ngập chia cắt các lực lượng của quân lực VNCH án ngữ trên quốc lộ 1 và quốc lộ 20. Do trời tối, và 4 chiến xa M-48 của Lữ đoàn 3 Thiết kỵ bị trúng đạn

    Pháo của Cộng quân ngay từ đầu nên việc yểm trợ của Thiết giáp đă không thực hiện được. Khoảng 8 giờ tối ngày 15/4/1975 th́ toàn pḥng tuyến ngă ba Dầu Giây vị vỡ. Tất cả chiến xa và đại bác của quân trú pḥng VNCH bị hủy diệt. Về lực lượng Bộ binh và Địa phương quân, chỉ c̣n khoảng 200 người rút về tuyến sau.

    Chiếm được ngă ba Dầu Giây, 2 sư đoàn Cộng quân tiến về Xuân Lộc. Tuy nhiên đại quân của Cộng sản Bắc Việt đă không thể tiến ngay như Văn Tiến Dũng mong muốn, v́ rằng ngay sau khi pḥng tuyến Dầu Giây thất thủ, hai quả bom khổng lồ “Daisy Cutter” (do Mỹ cung cấp vào trung tuần tháng 4/1975) đă được Không quânVNCH thả xuống khu vực tập trung quân của Cộng quân, và một đoàn xe dài chở quân lính và đại bác Cộng quân trên quốc lộ 20.

    heo các tài liệu t́nh báo, hơn 7 ngàn Cộng quân và hàng trăm vũ khí nặng, quân xa CSVN bị tiêu diệt bởi hai trái bom này.

    Theo hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên, trong cuộc tiếp xúc với vị Phụ tá Bộ trưởng Quốc pḥng Hoa Kỳ vào cuối tháng 2/1975, Đại tướng Cao Văn Viên đă yêu cầu Bộ Quốc pḥng Mỹ đặc biệt cung cấp vũ khí nào mà Không quân Việt Nam có thể sử dụng được. Đó là loại bom 15 ngàn cân Anh có tên là bom bạch cúc (Daisy Cutter) mà Không quân Hoa Kỳ thường dùng thả bằng phi cơ C-130 để khai quang dọn băi đáp trong các khu vực rừng già.

    Thế nhưng, gần đến cuối cuộc chiến, Hoa Kỳ mới đáp ứng yêu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, sau chuyến viếng thăm của Đại tướng Weyand. Vào giữa tháng 4/1975, ba trái chuyển đến trước và sau đó ba trái nữa chuyển đến chỉ hai ngày trước khi cuộc chiến kết thúc.

    Một chuyên viên Mỹ đi theo chuyến này để hướng dẫn cho chuyên viên VN cách gắn ng̣i nổ và cách gắn bom lên phi cơ. Thế nhưng chuyên viên Mỹ này không đến kịp. Trước t́nh h́nh khẩn cấp và v́ mức độ nguy hiểm nếu tồn trữ thứ bom này tại Tân Sơn Nhất hay tại Long B́nh nên Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Tư lệnh Không quân VNCH phải chọn một phi công VNCH kinh nghiệm để bay thả thử trái đầu tiên.

    *Lữ đoàn 1 Nhảy Dù tại mặt trận Long Khánh

    Như đă tŕnh bày trong phần trước, để tăng viện cho lực lượng pḥng thủ tại mặt trận Long Khánh, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 đă điều động Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, lực lượng trừ bị cuối cùng, nhảy vào mặt trận Xuân Lộc.

    Theo kế hoạch, hai tiểu đoàn Nhảy Dù được trực thăng vận xuống ấp Bảo B́nh, cách Xuân Lộc 5 km về hướng Nam. Theo lệnh hành quân của Bộ Tư lệnh Chiến trường Long Khánh, sau khi nhảy xuống ấp Bảo B́nh, 2 tiểu đoàn Nhảy Dù mở cuộc tấn công tái chiếm xă Bảo Định, một xă nhỏ bé giữa rừng cao su, cách ấp này 2 km về hướng Bắc. Tin từ Trung tâm hành quân của bộ Tư lệnh chiến trường Long Khánh cho biết xă này đă bị một tiểu đoàn Cộng quân chiếm giữ từ
    ngày 10 tháng 4/1975 khi địch tung đợt tấn công thứ hai vào khu vực quanh tỉnh lỵ Long Khánh.

    Tiểu đoàn Nhảy Dù thứ ba được trực thăng vận xuống khu vườn cao su, cách xă Bảo Định 1 km về phía Bắc. Từ vị trí này tiểu đoàn được lệnh tiến đánh một tiểu đoàn đặc công Cộng quân đang chiếm giữ vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ. Theo sự phối nhiệm tác chiến, tiểu đoàn phải thanh toán thật nhanh mục tiêu nói trên để giải tỏa áp lực cho 1 tiểu đoàn Địa phương quân đang bị Cộng quân bao vây.

    Cùng thời gian này, tiểu đoàn thứ 4 được trực thăng vận xuống ngay trung tâm thị xă Xuân Lộc để đánh bật các đơn vị Cộng quân đang bao vây bộ Chỉ huy Tiểu khu, để bộ chỉ huy này có thể rút về phía sau, hoạt động chung với bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh. Cuộc tiến quân tái chiếm xă Bảo Định đă có những sự kiện bất ngờ, lạ lùng. Khi 2 đại đội đầu tiên của Tiểu đoàn 9 Dù tiến đến gần trụ sở xă Bảo Định th́ trời đă về chiều. Điều làm cho các đại đội trưởng ngạc nhiên là tại pḥng Thông tin xă, giáo đường Bảo Định, cờ Việt Nam Cộng Ḥa vẫn bay phất phới, trong khi cả xă im vắng, không một bóng người, một sinh vật nào ở ngoài đường.

    Trung đội đi đầu của đại đội 2 được lệnh khai hỏa. Ngay khi đó, các loạt đạn từ bên trong bắn ra. Lại một bất ngờ nữa là tiếng súng từ trong xă bắn ra không phải là từ loại súng AK 47 của Cộngquân mà lại là tiếng súng M 16 và đại liên 30 của Quân lực VNCH. Vị tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9 Dù cho lệnh các đại đội ngưng tấn công và bố trí chờ đợi.

    Vị tiểu đoàn trưởng gọi về Trung tâm Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh xin xác nhận lần chót về t́nh h́nh trước khi tiểu đoàn 9 Dù tấn công. Một sĩ quan có thẩm quyền của trung tâm hành quân quả quyết là xă Bảo Định đă bị Cộng quân chiếm trước đó vài ngày và yêu cầu tiểu đoàn 9 Dù thanh toán mục tiêu thật nhanh.

    Khi tiểu đoàn Dù sắp tấn công th́ chuông nhà thờ Bảo Định kéo lên, một sĩ quan Địa phương quân chạy ra hô lớn là lực lượng trong xă không phải là Việt Cộng. Thế là lệnh tấn công được hủy bỏ, các đại đội Dù tiến hành cuộc lục soát quanh khu vực đề pḥng Cộng quân ẩn núp. Sau khi kiểm soát xă Bảo Định, các đơn vị Dù tiến nhanh về phía suối Gia Cốp, cũng nằm trong rừng cao su, gần vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ.

    Lại thêm một bất ngờ là khi lực lượng Dù vừa rời khỏi xă Bảo Định khoảng 200 mét, khi đó trời đă tối, th́ “đụng đầu” một tiểu đoàn vũ khí nặng của Cộng quân. Trận tao ngộ chiến diễn ra hơn một giờ trong rừng cao su, những người lính Nhảy Dù với kinh nghiệm đánh đêm và cận chiến đă tiêu diệt gần trọn cả tiểu đoàn này. Theo tài liệu t́nh báo, tiểu đoàn vũ khí nặng của Cộng quân từ Định Quán được lệnh băng rừng di chuyển theo tỉnh lộ 332, bọc xuống phía nam Xuân Lộc để chiếm đóng xă Bảo Định, sau đó sẽ yểm trợ hỏa lực cho các đơn vị của sư đoàn có bí số CT6 đang tập trung tại đồn điền Xuân Lộc. Tuy nhiên vừa đến gần xă Bảo Định th́ tiểu đoàn
    Cộng quân đă bị Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù tiêu diệt.

    15-4-197 Dầu Giây thất thủ :

    *Pḥng tuyến Dầy Giây của Trung đoàn 52 Bộ binh bị tràn ngập

    -Từ chiều 14/4/1975 đến sáng ngày 15/4/1975, Cộng quân đă mở các trận tấn cường tập vào tuyến pḥng thủ của Trung đoàn 52 Bộ binh từ Kiệm Tân về đến ấp Phan Bội Châu.

    -Chiều ngày 15/4/1975, kịch chiến đă ra quyết liệt ngay tại xă Dầu Giây, ở ngă ba Quốc lộ 1 và 20, giữa lực lượng của lực lượng trú pḥng VNCH Bộ binh và 2 sư đoàn Cộng quân. Lực lượng Pháo binh và Chiến xa yểm trợ cho Trung đoàn 52 Bộ binh và các đơn vị của trung đoàn này đă bị thiệt hại nặng.

    -Trận chiến tại Dầu Giây đă diễn ra vô cùng khốc liệt khi Cộng quân mở các đợt pháo kích dồn dập vào công sự của lực lượng trú pḥng, tiếp đó là đợt tấn công cường tập. Đến tối, hầm chỉ huy của Trung đoàn trưởng Trung đoàn 52 Bộ binh bị bắn sập. Vị Trung đoàn trưởng cho lệnh rút quân.

    -Tối ngày 15/4/1975, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh nhận được báo cáo tuyến pḥng tuyến ngă ba Dầu Giây do Trung đoàn 52 Bộ binh bị tràn ngập

    C̣n tiếp...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Tháng Tư Nghiệt Ngă 1975 - Sài g̣n Thất Thủ
    By alamit in forum Quân Sử Việt Nam Cộng Ḥa
    Replies: 60
    Last Post: 01-03-2013, 10:19 AM
  2. Replies: 16
    Last Post: 03-09-2011, 09:02 AM
  3. Ngày 30 tháng Tư 1975: Một cái nh́n mới
    By Tu_Nhan_Dan_ in forum Tin Việt Nam
    Replies: 0
    Last Post: 27-04-2011, 10:56 PM
  4. Những ngày của tháng 4 – 1975 & trọn bộ DVD phim VƯƠT SÓNG
    By nguoibatcao in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 7
    Last Post: 19-04-2011, 01:50 AM
  5. Replies: 6
    Last Post: 07-12-2010, 12:21 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •