Page 140 of 304 FirstFirst ... 4090130136137138139140141142143144150190240 ... LastLast
Results 1,391 to 1,400 of 3035

Thread: Nghe Chuyện Hà Nội

  1. #1391

    Join Date
    07-11-2011
    Posts
    1,447
    Quote Originally Posted by Vân Nương View Post
    NGUYỄN BÍNH - CÁNH BƯỚM MANG HỒN QUÊ ĐẤT VIỆT
    (Trần Ngọc Tuấn 22.03.2011 07:55)

    Cánh bướm bay qua làng quê nước Việt, ở đó có "nương dâu xanh, chiếc cầu ao, mái rạ - cô gái làng gội tóc nước hương nhu"… Ở đó có "giếng thơi mưa ngập nước tràn – ba gian đầy cả ba gian nắng chiều"… Cánh bướm bay qua sông quê "có chiếc thuyền nằm trên cát mịn – có đàn trâu trắng lội qua sông – có cô thợ nhuộm về ăn tết – sương nắng đường xa rám má hồng… xa xa rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi"…
    Cánh bướm đồng hành cùng con c̣ bay lả trong câu hát – giấc ngủsay dài nhịp vơng ru … đâu đây thong thả dân gian nghỉ việc đồng – lúa th́ congái mượt như nhung – đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng… Cánh bướm bay qua vườn chanh để tự nhận ra ḿnh : hoa chanh nở giữa vườn chanh – thầy u ḿnh với chúng ḿnh chân quê…

    Cánh bướm hơn một lần làm nhân chứng : trên đường cát mịn một đôi cô –yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa – gậy trúc dắt bà già tóc bạc – tay lần tràng hạtmiệng nam mô…Cánh bướm đồng cảm với duyên phận éo le lỡ bước sangngang : đêm qua mưa gió đầy trời – trong hồn chị có một người đi qua – em về thương lấy mẹ già – đừng mong ngóng chị nữa mà uổng công – chị giờ sống cũng bằng không – coi như chị đă sang sông đắm đ̣…

    Cánh bướm hóa thân thành cánh buồm trong cuộc viễn du tưởng chừng bất tận : hôm nay dưới bến xuôi đ̣ – thương nhau qua cửa ṭ ṿ nh́n nhau – anh đi đấy, anh về đâu – cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…

    Cánh bướm phiêu bạt tận rừng xa để cất lời ai oán : đêm dài nghe vượn rucon – ai cha mẹ đó mà non nước này… Dù phải trải qua bao phen gió dập mưa vùi nhưng cánh bướm vẫn nguyên trinh một tấm ḷng chung thủy : sao đặc trời cao sáng suốt đêm – sao đêm chung sáng chẳng chia miền – trời c̣n có bữa sao quên mọc – tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em.

    Cánh bướm là hiện thân của thi sĩ : có ai điên dại như tôi nhỉ ? – nuôi bướmlàm con để nhớ người… Trong nỗi cô đơn tay trắng bạn bè đều lánh mặt – sa cơthân thích cũng coi thường – sông lặng thấy đâu người gọi gió – trăng tà t́m măikẻ mài gươm… thi sĩ vẫn nguyên giọng chân quê mà đầy khí phách : những thằng bất nghĩa xin đừng đến – hăy để thềm ta xanh sắc rêu. Thi sĩ chấp nhận bao nhiêu đau khổ ngần này tuổi – chết cũng không oan uổng nỗi ǵ, nhưng c̣n những bài thơ… Những bài thơ như hồn trinh c̣n ở trần gian – nhập vào cánhbướm mà sang bên này… Từng cánh bướm mang hồn quê đất Việt đă và đang báo tin lành không chỉ riêng cho vườn thơ mang h́nh chữ S .
    Hai bài thơ tương trưng cuả Nguyễn Bính :

    Bài Hành Phương Nam

    Hai ta lưu lạc phương Nam này
    Đă mấy mùa qua én nhạn bay
    Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
    Riêng ta với ngươi buồn vậy thay !
    Ḷng đắng xá chi muôn hớp rượu
    Mà không uống cạn mà không say !
    Lời thề buổi ấy cầu Tư Mă
    Mà áo khinh cừu chưa ai may !
    Ngươi giam chi khí ṿng cơm áo
    Ta trói thân vào lụy nước mây
    Ai biết thương nhau từ buổi trước
    Bây giờ gặp nhau trong phút giây
    Nợ thế, trả chưa tṛn một món
    Ṣng đời, thua đến trắng hai tay
    Quê nhà xa lắc xa lơ đó
    Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

    Tâm giao mấy kẻ th́ phương Bắc
    Ly tán v́ cơn gió bụi này
    Người ơi ! Buồn lắm mà không khóc
    Mà vẫn cười qua chén rượu đầy
    Vẫn dám ăn tiêu cho đến hết
    Ngày mai ra sao rồi sẽ hay
    Ngày mai, có nghĩa ǵ đâu nhỉ?
    Cốt nhất cười vui trọn tối nay
    Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
    Mắt đỏ lên rồi, cứ chết ngay .

    Hỡi ơi ! Nhiếp Chính mà băm mặt
    Giữa chợ ai người khóc nhận thây ?
    Kinh Kha quán lạnh sầu nghiêng chén
    Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay ?
    Mơ ǵ ấp Tiết thiêu văn tự
    Giày cỏ, gươm cùn, ta đi đây

    Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
    Đă dấy phong yên khắp bốn trời
    Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
    Uống say mà gọi thế nhân ơi !

    Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
    Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
    Dằn chén hất cao đầu cỏ dại
    Hát rằng phương Nam ta với ngươi
    Ngươi ơi ! Ngươi ơi ! Hề ngươi ơi !
    Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh
    Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi !

    Nguyễn Bính
    Đa Kao 1943


    Hà Nội 36 Phố Phường

    Hà nội ba mươi sáu phố phường,
    Ḷng chàng có để một tơ vương .
    Chàng qua chiều ấy qua chiều khác,
    Góp lại đường đi, vạn dăm đường .

    Nhà ấy h́nh như có mặt trời,
    Có rừng có suối có hoa tươi;
    Bao nhiêu chim lạ, bao nhiêu bướm ?
    Không! Có ǵ đâu, có một người .

    Chân bước khoan khoan, ḷng hỏi ḷng:
    --Có nên qua đấy nữa hay không ?
    Không nên qua đấy, nên qua đấy ,
    Không: Nhớ làm sao! Qua mất công .

    Có một chiều kia anh chàng si
    Đến đầu phố ấy bỗng ngừng đi:
    --Hai bên hàng phố h́nh như họ ...
    Đi măi đi hoài có ích chi ?

    Đem bao hy vọng lúc ra đi,
    Chuốc lấy buồn thương lúc trở về .
    Ḷng mỗi lần đi lần băo táp,
    Mỗi lần là một cuộc phân ly .

    Chàng đau đớn lắm, môi cắn môi;
    Răng cắn vào răng, lời nghẹn lời:
    --Hờ hững làm sao! Mê đắm quá!
    Trời ơi! Cứu vớt lấy tôi! Trời!

    Chao ơi! Yêu có ông Trời cứu!
    Yêu có ông Trời khóa được chân!
    Chàng lại đi về qua phố ấy,
    Mấy mươi lần nữa và vân vân ...

    Chàng đi măi, đi đi măi,
    Đến một chiều kia, đến một chiều
    Phố ấy đỏ bừng lên: Xác Pháo,
    Yêu là như thế ? Thế là yêu ?

    Hà Nội ba mươi sáu phố phường,
    Ḷng chàng đă dứt một tơ vương .
    Chàng qua chiều ấy qua chiều khác ....
    Ô! Một người đi giữa đám tang .

    Nguyễn Bính



    Anh Về Quê Cũ

    Anh về quê cũ: thôn Vân
    Sau khi đă biết phong trần ra sao?
    Từ nay lại tắm ao đào,
    Rượu đâu mà cất, thuốc lào nào phơi.
    Giang hồ sót lại t́nh tôi,
    Quê người đắng khói, quê người cay men.
    Nam kỳ giàu lắm bạc tiền,
    Tắm trong một cái biển tiền người ta ...
    Biển tiền, ôi biển bao la,
    Ḿnh không bần được vẫn là tay không ...
    Thôn Vân có biếc có hồng,
    Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều.
    Đê cao có đất thả diều,
    Trời cao lắm lắm có nhiều chim bay.
    Quả lành nặng trĩu từng cây,
    Sen đầy ao cá, cá đầy ao sen.
    Hiu hiu gió quạt trăng đèn,
    Với dăm trẻ nhỏ thả thuyền ra chơi.
    Ăn gỏi cá, đánh cờ người,
    Thần tiên riêng một góc trời thôn Vân.
    Ơi thôn Vân, hỡi thôn Vân!
    Phương nao kết dăi mây Tần cho ta.
    Từ nay khi nhớ quê nhà,
    Thấy mây Tần biết đó là thôn Vân.
    Ơi thôn Vân, hỡi thôn Vân!
    Anh em ly tán, lâu dần thành ra
    Không c̣n ai ở lại nhà.
    Hỏi c̣n ai nữa? Để hoa đầy vườn.
    Trăng đầy ngơ, gió đầy thôn,
    Anh về quê cũ có buồn không anh?

    1942
    --------------------------------------------------------------------------------
    Bài thơ Hanoi ba muơi sáu phố phường thật là một tuyệt tác. Thơ làm tư năm 1942 mà đến nay khó có ai qua mặt được. Cái mộc mạc đơn sơ, sự chân thành và giản dị cuả thơ Nguyễn Bính thật sự lôi cuốn người đọc một cách sau mê. Không khách sáo, không cường điệu, chải chuốt như thờ Xuân Diệu. Thờ Nguyễn Bính thật sự đi vào ḷng người lúc nào không hay!!

  2. #1392
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    Hai ta cùng thích 36 phố phường Hà Nội xưa

    Quote Originally Posted by ForexNews View Post
    Bài thơ Hanoi ba muơi sáu phố phường thật là một tuyệt tác. Thơ làm tư năm 1942 mà đến nay khó có ai qua mặt được. Cái mộc mạc đơn sơ, sự chân thành và giản dị cuả thơ Nguyễn Bính thật sự lôi cuốn người đọc một cách sau mê. Không khách sáo, không cường điệu, chải chuốt như thờ Xuân Diệu. Thờ Nguyễn Bính thật sự đi vào ḷng người lúc nào không hay!!
    Cám ơn bác ForexNews. Thế là hai ta cùng thích 36 phố phương HàNôi ưa.
    Vì Hà Ni xưa mới có Hàng Mật, Hàng Đường, Hàng Muối trắng tinh. Rồi nhà hơ Nguyễn Anh Tuấn thì khen giọng nói gái Hà Nội :
    Em Hà Nội Hàng Đường trong giọng nói.....
    Để Vân chép bài thơ khác cuả Nguyễn Bính để các bác nghe nha.
    Bài CÁI QUẠT, cam đoan không phải "cái quạt" của Hồ Xuân Hương đâu.

    CÁI QUẠT

    Cái quạt mười tám cái nan
    Anh phất vào đấy muôn vàn nhớ nhung
    Gió sông, gió núi, gió rừng
    Anh niệm thần chú th́ ngừng lại đây

    Gió Nam Bắc, gió Đông Tây
    Hăy hầu công chúa thâu ngày, thâu đêm
    Em ơi công chúa là em
    Anh là quan trạng đi xem hoa về

    Trên giời có vẩy tê tê
    Đôi bên ước thề duyên hăy tṛn duyên
    Quạt này trạng để làm tin
    Đêm ngày khép mở t́nh duyên với nàng....

    Nguyễn Bính
    Last edited by Vân Nương; 15-01-2013 at 12:00 PM.

  3. #1393
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    Thơ xuân Vũ Hoàng Chương

    Mời quý vị thưởng thức bài văn của Đặng Tiến nói về
    THƠ XUÂN CUẢ VŨ HOÀNG CHƯƠNG

    Gửi chị Thục Oanh

    Xuân đă đem mong nhớ trở về

    Câu thơ Nguyễn Bính, ư thường thôi. Lời e cũng thường thôi. Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không có ngày về. Xuân đă ... đau ḷng một chữ đă. Xuân đă. Người chưa. Những lỡ làng và những bẽ bàng.
    Lần này, ở đây, Xuân đă đem mong nhớ trở về Vũ Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang Ngang.

    Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân.

    Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đă tự giam thơ giam đời trong mươi chữ :

    Xuân đời chưa kịp hưởng
    Mây mùa thu đă sang ?

    Nhà thơ đă tự t́nh như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập thơ Mây. Người c̣n giăng tơ tâm sự

    Xuân có sang mà hoa không tươi
    ư ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi
    Nằm say ngơ lạnh
    Buồn nghe mưa rơi
    Tuôn châu oà bật lên cười
    Ta có là ta chăng hề Ai chớ là Ngươi
    Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ
    Hoạ điệu chiều nay xác ră rời

    Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa Xuân đều là :

    Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay

    Đă có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian ; và thơ Đường, thơ Tống, người đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Điều đó có thật, nhưng con người dù là người thơ, vẫn c̣n xương c̣n thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương.

    Tác phẩm đầu ḷng Thơ Say in năm 1940 gồm những sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân.

    Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về
    Cỏ chen màu liễu biếc chân đê
    T́nh Xuân ai chở đầy khoang ấy
    Hương sắc thanh b́nh ngập lối quê.
    Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi
    Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời
    Dây đàn chầm chậm hôn lên phím
    Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi

    Thơ Say gồm có nhiều phần : Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng ... Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹ tả cảnh mùa xuân trên đây, bài sau là Mùa Thu Đă Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’, người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, v́ không nằm trong thi hứng Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như măi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đă nhuốm màu Thiền. Bài Thoát H́nh gồm 7 đoạn, một vần :

    Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
    Đă nghe dồn cả tới đài xuân
    Đă nghe rào rạt từng cơn gió
    Về mách tin hương với cơi trần
    Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
    Vâng theo ư lớn nhịp xoay vần ...
    ... Ta mở trang ḷng nguyên vẹn măi,
    Chưa từng hoen ố vết trầm luân
    Đêm nay xuống một bài thơ trắng
    Cầu nguyện cho đời nở ái Ân

    Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Đạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Đạo đă róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát H́nh c̣n mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.


    * * *

    Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay ... là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân.
    Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955 ; mùa xuân đầu tiên xa xứ :

    Mười năm qua, đến bây giờ
    Nh́n nhau thấy cả giấc mơ thưở nào ..
    (...)
    Xuân về nhớ thưở ngát chiêm bao
    Gịng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào
    Lạc lơng vàng son màu lữ thứ
    Cành mai gượng ánh mặt hoa đào
    Mười phần xuân có gầy hao
    Tấm ḷng xuân vẫn dạt dào như xưa
    Mấy phen biếc đón hồng đưa
    Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền

    Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, chĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đă bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng " cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này :

    Có nghĩa ǵ đâu một chữ " về "
    Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
    Nếu không ngược cả mười năm ấy
    Về tận kinh đô của ước thề

    Theo Chế Lan Viên, chữ" Về " là " cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa ǵ cả, th́ trong tâm hồn nhà thơ này không c̣n ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa "
    Đây là lối viết vu oan giáng hoạ, v́ chữ " về ", trong bài thơ, không có ngụ ư chính trị, chỉ là một ước vọng t́nh cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đă là một lối t́m về :

    Lang thang từ độ luân hồi
    U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
    Nguyện Cầu, 1950

    C̣n mấy chữ " có nghĩa ǵ đâu ", là phỏng theo Xuân Diệu :

    Làm sao cắt nghĩa được t́nh yêu
    Có nghĩa ǵ đâu một buổi chiều

    Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ư thời sự th́ nên hiểu : việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ư nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu đầu một t́nh cảm riêng tư - phần nào đó hoang tưởng - " có nghĩa ǵ đâu " . C̣n về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đă nhiều lần nói đến : " Mười năm thôi nhé mộng tan tành " ... ,
    " T́nh mười năm c̣n lại mấy tờ thư "…. Thận trọng, chúng tôi đă hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và c̣n cho biết thêm : ‘ước thề’ ở đây không phải là chị ấy.

    Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương c̣n có Bài Ca B́nh Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung :

    Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
    Sầu xuân vời vợi
    Xuân tứ nao nao
    Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
    Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
    Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao

    Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc " hát ngao " hơn là một anh hùng ca.
    Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng

    Chín giao thừa, tám năm dư
    Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
    (...)
    Khói đâu mờ tím căn buồng
    Thời gian ai đốt trên luồng thần giao
    Cố đô lửa cháy gan nào
    Sài đô son sắt như bào, như nung

    Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hăi hùng cay đắng. Bài Đục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt :

    Chợ Tết mai lan cúc
    Đắm ḿnh trong bụi đục
    Từng phiên nép mặt hoa
    Thẹn không bằng khóm trúc
    (...)
    Liên miên khói lửa này,
    Dám đâu mơ hạnh phúc
    Lần lượt tre rồi măng
    Đă tơi bời cốt nhục
    Đoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận :
    Thân càng xót cho thân
    Uổng gây h́nh ngọc đúc

    Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao năo nuột :

    Miệng héo dần theo ḷng khắc khoải
    Năm nay rồi sắp thành năm ngoái
    E khi chiều xế, tuyết thay tơ
    Không cả chút t́nh thương nắng quái
    Kẻ vô-hạn-hận không là gió
    Xuân đến trà mi đời tự bỏ
    Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang
    Cùng ai gửi chút hương ṿ vơ ?

    Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với h́nh ảnh của Tết Mậu Thân : thiều quang ngập máu đổ quyên hồng...
    Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương :

    Ma sợ cung vôi chạy vọt lên
    Người thơ giữa lúc mở bầu men,
    Khai xuân chưa kịp vui cùng khách
    Đạn rót trời cao đă nổ rền

    Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài : " loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân " (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc) :

    Lăng miếu gần kề lưng chó sói
    Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu
    (...)
    Đạn réo vang vang lửa bốn bề
    Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê
    Sốt dâng mạch loạn càng u uất
    Máu chảy ruồi bâu thật năo nề

    Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện :

    Mong người một nước soi gương cũ
    Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...
    (Huế Cảm)

    Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, t́nh h́nh chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi :

    Tin Xuân gà gáy rách trời đêm
    Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm
    Đủ thấy điềm lành hai nửa nước
    Một nhà trong ấm với ngoài êm
    (Mở Bút ghi Điềm)

    Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên :

    Chữ lựa vần gieo đắc ư rồi
    Đèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi
    Nhựa say trà ngát thơ cao giọng
    Hỏi chúa xuân rằng : ai có ngôi ?
    (Hạnh phúc nào hơn)

    Vũ Hoàng Chương thi sĩ c̣n là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 120 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán :

    Kỷ Dậu hồi thanh
    Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên
    Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền
    Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ
    Hoà âm xuân thảo nhiễu b́nh nguyên

    Ông tự dịch :

    Tiếng vang lịch sử
    Đất xưa gà gáy mặt trời lên
    Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền
    Hoa mở cánh chào ngang dọc núi
    Hoà âm cỏ ngát xuống b́nh nguyên

    Đặng Tiến dịch ké :

    Gà thúc b́nh minh sông núi xưa
    Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa
    Sườn non lưng núi lời hoa mở
    Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa

    Vũ Hoàng Chương sinh năm ất Măo-1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn ... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời ḿnh, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc :

    Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
    Bến nằm dư biết đục hay trong
    (...)
    Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
    Để ngấn vàng gieo chợt rối ṿng

    Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài " Xúc Động Cuối Năm " thật buồn :

    Chơi xuân đất này không cỏ non
    Thơ không vàng nữa, ấn không son
    Hỡi ơi ḷng chợt đau như cắt
    Một nụ cười xuân cũng chẳng c̣n

    Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Đông Hồ : câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành : " xuân du thử địa vô phương thảo ", câu sau lấy ư từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa :

    Mùa vàng hoa mai hoa cúc
    Mùa son hoa phượng hoa vông
    (...)
    Mùa vàng giàu thật giàu
    Mùa son sang rất sang
    (Đông Hồ)

    " Một nụ cười xuân cũng chẳng c̣n ", là nhắc tên tập thơ " Cô Gái Xuân " (1935) của Đông Hồ.
    Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc :

    Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây
    Thương xuân ĺa cội, Tết sa lầy
    Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch
    Phá vỡ ṿng sao tự giải vây
    Mách cho Lă Vọng về đây
    Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi

    Tuư Ông ngồi rũ cánh Lan buồn
    Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn
    Thà đợi một mùa Xuân Đích Thực
    Âm thanh Cuồng sát tự d́m luôn
    (Xuân Đối Diện)

    Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời :

    Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
    Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
    Nh́n nhau chuột nhỏ tung tăng dạo
    Vừa uống sông xuân một bụng đầy
    (Nhâm Tư khai bút)

    Tác giả tự dịch ra Hán Văn :

    Trường chinh mộng hậu tức phong yên
    Thiên lư long câu vạn lư thuyền
    Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử
    ẩm hà măn phúc tuư xuân thiên

    Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy c̣n u ám lắm qua bài " Xuân Quạnh " :

    Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện
    Ngơ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu
    Lầu Vọng-giai-nhân măi quạnh nằm
    Ngày xưa Kim ốc chỉ mười năm
    Đắng cay thế vị ḷng vương giả
    Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm


    Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B 52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rơ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài " Đón Xuân Mười Chín " làm trước Tết Quư Sửu (nhằm ngày 3.2.1973) :

    Bấm đốt từ di cư đến nay
    Đón xuân vừa vặn hết bàn tay,
    Sang sông Ngựa đă hai lần hí
    Vạch đất Trâu thêm một luống cày
    Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
    Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
    Bút toan chạy ngược đau ḷng chữ
    Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây
    Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác
    Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say
    Hằng nga bỏ địa cầu đi măi
    Tết đến buồn không chịu vẽ mày
    Xưa rồi lửa phóng tên bay
    Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn
    Bóng ai trên đá ngồi gan
    Có nghe rung một giây đàn lẻ loi
    Trời xuân chẳng én đưa thoi
    Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua
    Nghé kêu đầy bến vàng hoa

    (dẫn trọn bài)


    Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quư Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi kư hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm :

    Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
    Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây

    Câu thơ ngụ ư : lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Đây là một câu thơ nặng t́nh dân tộc, nhưng không mấy người để ư, như một thứ cung đàn lẻ loi. Ngược lại, người ta bới móc những câu thơ " chống cộng " để lên án và hạ ngục Vũ Hoàng Chương khi có cơ hội.
    Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đă có những tính toán chi ly, chính xác : bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đă hai lần hư là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quư Sửu (1973). Hai vần mây và say nhắc tên hai tập thơ đầu tay ; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ư bài thơ làm tại Sài G̣n, tên cũ là Bến Nghé.

    Sau đó, hiệp định Paris kư ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quư Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu :

    Ma là Người ... kiếp khác
    Người là Trời ... đêm nay
    Nghe chừng lửa đă tắt
    Hai bờ Con-Sông này
    ờ nhỉ ! đâu c̣n Vết Cắt
    Sao ḷng ai vẫn chưa hay ?
    Nằm kia, người nín bặt
    Ṿng luân hồi đă ngược chiều quay
    Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày
    (Tin Xuân)

    Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh b́nh cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế : đất nước sẽ thanh b́nh và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân.
    Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuư Vũ Đoản Từ, trích toàn văn, v́ ít người c̣n lưu giữ :

    Cỏ Bồ ôm đá ngủ
    Trong tranh từ bao giờ
    Cho đến bây giờ
    C̣n say trong thơ
    Vườn bỗng hót vang chim Thuư Vũ
    Đèn xanh nến biếc đêm giao thừa
    Nét bút gầy theo mực úa
    Bao năm rồi tiêu sơ
    Có phải xuân đang từ đáy lụa
    Một chiều sâu không ai ngờ
    Truyền tin về giấc mơ
    ánh nguyệt mung lung cành lăng đăng
    Nghe ḷng trời đất ươm tơ
    Nguyệt vẽ mày cong dĩ văng
    Cành đơn hoa trắng tương tư
    Ôi thôi áo vải đă màu nâu thuyền đă hư
    Mối manh ǵ nữa c̣n ai nữa
    Đành kết vào hương Thuư vũ từ

    Tác giả giải thích : Thuư Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa : hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai . Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quư ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết " ta đành mất hết để c̣n nhau " (Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).
    * * *

    Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn, làm vào ngày Tết Bính Th́n, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu. Nhưng cũng v́ truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đă than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn :

    Vịnh tranh Gà Lợn

    Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
    Gà lợn, om ṣm rối bức tranh
    Rằng vách có tai, thơ có hoạ
    Biết ḷng ai đỏ, mắt ai xanh
    Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
    Ḷng lợn âm dương một tấc thành
    Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
    Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh

    Bà Vũ Hoàng Chương ghi chú : Thơ có hoạ có ba nghĩa : thơ có xướng th́ phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ : thơ phản nghịch là tai hoạ ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác : thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Đặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trăi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ư đến những tục ngữ : " dừng có mạch, vách có tai " ; " xanh vỏ đỏ ḷng ". Nhưng c̣n nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : " tranh tối tranh sáng ", " mắt xanh ", " mắt quáng gà ", " gà cùng một mẹ ", " lợn âm dương ", " con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi ". " Khúc tân thanh " ngụ ư " đoạn trường " . C̣n ư nghĩa, ngụ ư dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ th́ chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ.
    Chỉ mong văn giới ghi nhận : đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Th́n 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, " tam sao ", được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, giam ở ngục Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm th́ mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm B́nh Th́n, lúc 23 giờ.

    * * *

    Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm v́ yêu cầu của báo giới ; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để kư hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu.
    Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quư vị nào biết xin vui ḷng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này.

    Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong ḷng người đọc thường là :

    Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay.

    Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao h́nh thành trên mất mát.
    Cao quư và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.


    Đặng Tiến
    Paris, Tết dương lịch, 1/1/2001
    ____________________ ____________________

  4. #1394
    Member Nguyễn Mạnh Quốc's Avatar
    Join Date
    25-03-2011
    Posts
    4,374

    Hà nội Băm sáu phố phường và những vần thơ....

    Nói đến những vần thơ t́nh tự của người dân Hà nội đầu thế kỷ 20.. xin mạn phép mà nói ; thật là phong phú.. từ một Tương Phố với giọt lệ thu đến cô em gái Song khê; rau sắng chùa Hương... và nhà thơ Tản Đà.. T́nh lớn.. t́nh Con.. hay lá đào rơi rắc lối Thiên thai, với Phan Khôi; t́nh già.. qua đến Lưu trọng Lư, Thế Lữ ; nhớ rừng..Nguyễn đ́nh Liên.. Hoàng Cầm.. và biết bao nhiêu văn nhân thi sĩ khác nữa...
    Quư Bạn hăy t́m.. đóng góp thêm.. vực dậy con đường phong hoá đặc thù của đất Bắc, hay nói chung của VN để cho con cháu của chúng ta.. hiểu được cái phong hoá.. của người dân Việt từ ngàn xưa để lại và cho đến ngàn sau .. Mong mỏi lắm thay.. nmq

  5. #1395
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    TẢN ĐÀ

    Cám ơn BS NGuyễn Mạnh Quuốc nhiêu lắm.
    Vâng, chúng ta lại tiếp tục với Thi Sỹ TẢN ĐẢ.

    Tản Đà (chữ Hán: 傘沱, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1889 - mất ngày 7 tháng 6 năm 1939[1]) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông.

    Trong văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tác. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực. Đi khắp miền đất nước, ông đă để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đă từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Với những ḍng thơ lăng mạn và ư tưởng ngông nghênh, đậm cá tính, ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại".
    Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà c̣n giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát và được biết đến như một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt hay nhất.

    Thuả thiếu niên

    Thời niên thiếu của Tản Đà trải nhiều giai đoạn khóc cười. Năm lên 3 tuổi, bố mất, cuộc sống gia đ́nh trở nên cùng túng. Năm sau, v́ bất hoà với nhà chồng, bà Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. 8 năm sau, xảy ra chuyện chị ruột ông cũng theo mẹ làm nghề đó (năm Tản Đà 13 tuổi). Những sự kiện đă để lại nhiều dấu ấn khó phai trong tâm hồn.

    Tản Đà hấp thụ nền Nho giáo từ nhỏ, được ông Tích nhiệt t́nh hướng vào con đường cử nghiệp. Theo hồi kư trong 1 bài thơ th́ 5 tuổi ông học Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi, Dương tiết,... 6 tuổi học Luận ngữ, kinh, truyện và chữ quốc ngữ, 10 tuổi biết làm câu đối, 11 tuổi làm thơ văn. Ông rất thích làm văn, lại được anh hết ḷng chỉ dẫn, nên 14 tuổi đă thạo các lối từ, chương, thi, phú. Lúc c̣n học ở trường Quy thức - một trường học thực nghiệm cải cách của Pháp mở ở Hà Nội- , ông viết bài "Âu Á nhị châu hiện thế" bằng Hán văn, được các báo ở Hồng Kông đăng trong mục xă thuyết. Năm 15 tuổi, ông đă nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây.

    Giai đoạn niên thiếu của Tản Đà phần lớn giành cho chuyện thi cử, đến năm 19 tuổi, ông mới có những rung cảm t́nh ái đầu đời. Đó là mối t́nh với con gái nhà tư sản Đỗ Thận. Năm sau ông lại yêu con gái ông tri huyện phủ Vĩnh Tường. Nhưng 2 mối t́nh này đều không được trả lời.

    Năm 1909 (Kỷ Dậu), ông tham dự kỳ thi hương ở Nam Định, rồi trượt trong lần đi thi đầu tiên này. Ông về lại nhà ở Phủ Vĩnh Tường ôn tập. Trong thời gian này, ông say mê một cô gái bán tạp hoá ở phố hàng Bồ. V́ nhà nghèo, không có tiền hỏi cưới, ông đành nuôi hy vọng bằng cách tiếp tục đường khoa cử. Kỳ thi xảy đến, ông dùng bằng Ấm sinh để thi hậu bổ, nhưng bị rớt v́ môn vấn đáp bằng tiếng Pháp. Mùa thu năm ấy, ông lại đi thi hương, nhưng lại trượt. Chuyện t́nh với cô bán sách tan vỡ, cô đi lấy chồng. Ông chán nản bỏ về Ḥa B́nh t́m khuây lăng. Tại đây nhờ sự giới thiệu của anh rể là nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện Kế, Tản Đà kết giao với nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Hai người bạn mới gặp đă như quen, cùng vào dăy Hương Sơn, ngọn Chùa Tiên, đêm ngày uống rượu, làm thơ, đọc sách, thưởng trăng, sống theo lối "tịch cốc". Lúc này lần đầu tiên ông đọc Tân thư, sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, t́m hiểu về cách mạng Tân Hợi. Nhiều bài thơ và tư tưởng đặc biệt của ông ra đời trong giai đoạn này.

    Năm 1913, anh cả Nguyễn Tài Tích mất. Tản Đà về Vĩnh Yên làm nghề báo, tờ báo ông cộng tác đầu tiên là "Đông Dương tạp chí" của Nguyễn Văn Vĩnh, phụ trách mục "Một lối văn nôm".
    Đến năm 1915, ông lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái ông Nguyễn Mạnh Hương tri huyện ở tỉnh Hà Đông, trở thành anh em cột chèo với nhà văn Phan Khôi. Ông Hương là thân sinh của nhà văn Nguyễn Tiến Lăng. Cũng năm này ông có tác phẩm hay, đăng trên "Đông dương tạp chí", nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên ghép giữa núi Tản, sông Đà, và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp.


    Thời kỳ vinh hiển

    Từ 1915 đến 1926 là những năm tháng đắc ư nhất của Tản Đà. Năm 1915, cuốn sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ "Khối t́nh con I".
    Sau thành công đó, ông viết liền cuốn "Giấc mộng con" (cho in năm 1917) và một số vở tuồng: "Người cá", "Tây Thi", "Dương Quư Phi", "Thiên Thai" (diễn lần đầu năm 1916 tại Hải Pḥng).
    Năm 1917, Phạm Quỳnh sáng lập ra "Nam Phong tạp chí" , và bài của Tản Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi cuốn "Khối t́nh con I" và phê phán cuốn "Giấc mộng con I", cả khen lẫn chê đều dùng những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Sau bài phê phán tư tưởng của "Giấc mộng con", Tản Đà thôi cộng tác với Nam Phong tạp chí và mở một số cuộc hội đàm để chống lại những lời phê phán đó, sự kiện này cũng được nhiều giới quan tâm.

    Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách; truyện th́ có "Thần tiền", "Đàn bà Tàu" (1919); sách giáo khoa, luân lư th́ có "Đài gương", "Lên sáu" (1919), "Lên tám" (1920), thơ th́ có tập "C̣n chơi" (1921). Thời kỳ này ông quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín, cùng nhau du lịch khắp Bắc, Trung kỳ và làm chủ bút "Hữu thanh tạp chí" một thời gian.

    Năm 1922, Tản Đà thành lập "Tản Đà thư điếm" (sau đổi thành "Tản Đà thư cục"), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Tại đây đă xuất và tái bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà; "Tản Đà tùng văn" (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện "Thề Non Nước", 1922); "Truyện thế gian" tập I và II (1922), "Trần ai tri kỷ" (1924), "Quốc sử huấn nông (1924), và tập "Thơ Tản Đà" (1925). Ngoài ra thư cục này c̣n cho xuất bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật.
    Năm 38 tuổi (1926), Hữu Thanh tạp chí đ́nh bản, Tản Đà cho ra đời "An Nam tạp chí" số đầu tiên với ṭa soạn ở phố Hàng Lọng. Sự ra đời của "An Nam tạp chí", tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đă bắt đầu quăng đời lận đận của ông.

    Cuối đời lận đận

    Tranh biếm của Hoàng Đạo vẽ Tản Đà vừa dạy học vừa uống rượu, với lời thuyết minh "Tản Đà: Các ngài muốn hỏi tôi cách làm thơ ru? Khó ǵ đâu: tửu nhập thi xuất!)" - đăng trên Phong Hoá.
    Thời kỳ đầu làm chủ "An Nam tạp chí", Tản Đà chưa thiếu thốn nhiều, ông thường đi du lịch: khi th́ lên đề thơ ở núi Non Nước - Ninh B́nh (bài Vịnh ḥn đá), khi th́ vào trung kỳ thăm Phan Sào Nam, khi th́ ở Sài G̣n gặp Diệp Văn Kỳ, ra B́nh Định thăm mộ cũ nhà Tây Sơn, về Hải Pḥng sống với con tướng Cần Vương đô thống Thuật. Ông vừa làm báo vừa đi chơi do đó tạp chí "An Nam" cũng ra rải rác, thất thường. Dần dần, ông túng quẫn, những cuộc đi là để trốn nợ hoặc giải sầu, hoặc là t́m người tài trợ cho báo.

    Thời kỳ này ông viết cũng nhiều, các tập "Nhàn tưởng" (bút kư triết học, 1929), "Giấc mộng lớn" (tự truyện, 1929), "Khối t́nh con III" (in lại thơ cũ), "Thề non nước" (truyện), "Giấc mộng con II" (truyện), lần lượt ra đời.
    Năm 1931-1932, Tản Đà có cuộc bút chiến nổi tiếng với Phan Khôi về luân lư và Tống Nho. Ông có câu nói đi vào lịch sử khi kết án Phan Khôi: "vu hăm tiên hiền, loạn ngôn hoặc chúng, bại hoại phong quá" và đ̣i đem Phan Khôi ra Văn Miếu quất roi vào đít.

    Năm 1933, khi phong trào Thơ Mới đang nổi lên, th́ "An Nam tạp chí" của Tản Đà chính thức đ́nh bản sau 3 lần đ́nh bản và 3 lần tái bản. Sự kiện này khi đó bị nhiều người thuộc phe "thơ mới" đem ra cười cợt, trong đó có Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, đă viết một bài "văn tế An Nam tạp chí" với lời lẽ xỏ lá. Thời kỳ đầu của phong trào thơ mới, Tản Đà im lặng. Măi đến năm 1934, ông mới có một vài lời khuyên nhẹ nhàng gửi các nhà thơ Mới.

    Tuy vậy, với vai tṛ là nhà thơ nổi tiếng nhất trong làng thơ cũ đương thời, Tản Đà vẫn là một đối tượng chính để những người thuộc phe thơ mới t́m cách đánh đổ. Tờ Phong hóa của Tự Lực văn đoàn rất hăng hái chê ông, chê mọi thứ, từ tính nghiện rượu, nói nhiều lúc say, hay say, cho đến cái mũi ửng đỏ của Tản Đà cũng bị chê nốt.

    Do ảnh hưởng của phong trào Thơ Mới và phong trào theo Tân học, Tản Đà, con người thuộc phe cựu học, làm thơ cũ đă dần dần trở nên cô độc. Tên tuổi ông gần như bị đẩy lui vào dĩ văng, nhường chỗ cho các nhà thơ mới: Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư... Cộng với việc "An Nam tạp chí" đ́nh bản vĩnh viễn, cuộc sống của Tản Đà vốn nghèo túng lại càng trở nên thiếu thốn hơn, phải chạy ngược chạy xuôi để kiếm sống. Có khi người ta thấy ông ở khu Bạch Mai dạy chữ Nho. Có lúc ở Hà Đông, đăng quảng cáo lên mấy tờ báo: "Nhận làm thuê các thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xă hội - Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu". Năm 1938, ông c̣n mở cả một pḥng đoán số Hà Lạc để xem bói.

    Được tôn vinh và qua đời

    Những năm cuối đời trải qua hắt hiu, buồn thảm như thế, nhưng Tản Đà c̣n được an ủi là ông bỗng được mọi người quan tâm trở lại. Phe "thơ mới" sau chiến thắng, đă không c̣n đả kích Tản Đà. Họ bắt đầu lật lại những ǵ Tản Đà đă cống hiến xưa nay, họ ca ngợi Tản Đà, xem ông như một ông Thánh của làng thơ... Tờ Ngày nay của Tự Lực văn đoàn, trước kia chê ông tới không c̣n chỗ chê, th́ nay lại mời ông cộng tác, hết lời ca ngợi những bài thơ Đường do ông dịch.

    Lúc này sức khỏe của Tản Đà suy yếu, ông giành hết tâm sức cho việc dịch thuật và biên tập: "Liêu Trai chí dị" của Bồ Tùng Linh (Tân Dân xuất bản, 1937), "Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện" (in năm 1940, sau khi ông mất), "Thời hiền thi tập", "Khổng Tử lược truyện" (đă thất lạc)...

    Ngày 7 tháng 6 năm 1939 (tức 20 tháng 4 năm Kỷ Măo), ông mất (50 tuổi) sau một thời gian chống chọi với bệnh gan, trên cái giường nát tại nhà riêng số 71 ngă tư Sở, Hà Nội, để lại vợ và tám đứa con. Di thể của ông được an táng tại nghĩa trang Quảng Thiện, Hà Nội.

    Nghe tin Tản Đà mất, làng văn nghệ trong nước vừa yên ắng sau vụ "thơ mới - cũ" lại trở nên xôn xao. Một loạt các bài báo tưởng niệm Tản Đà được ra mắt ngay sau đó: Khái Hưng có "Cái duyên của Tản Đà", "Vài chuyện vui về thi sĩ Tản Đà", Xuân Diệu có "Công của thi sĩ Tản Đà", ông Lâm Tuyền Khách có "Một tháng với Tản Đà: đời làm báo của Tản Đà", Lưu Trọng Lư có "Bây giờ, khi nắp quan tài đă đậy lại", Phan Khôi có "Tôi với Tản Đà thi sỹ", Nguyễn Tuân có "Tản Đà, một kiếm khách"..v..v. Những bài viết này thể hiện sự kính trọng, quư mến đối với con người Tản Đà, người mà cách đây vài năm c̣n bị họ đả kích, chế giễu.

    Năm 1941, Hoài Thanh và Hoài Chân cho in tác phẩm "Thi nhân Việt Nam" nổi tiếng, đă cung kính đặt Tản Đà lên ngồi ghế "chủ suư" của hội tao đàn, ở những trang đầu tiên, như một người mở lối cho thi ca Việt Nam bước vào một giai đoạn tươi đẹp mới.
    Năm 1963, di hài của Tản Đà đă được cải táng về cánh đồng Cửa Quán, thôn Hội Xá (quê vợ), xă Hương Sơn, tỉnh Hà Tây.

    Con người Tản Đà

    Ngoài tài làm thơ, nhân cách của Tản Đà cũng rất được nhiều nhà nghiên cứu. Khái Hưng, lúc đầu khi chưa hiểu thơ Tản Đà, cũng rất thích ông nhờ vào tính cách, hay là thi sĩ Bùi Giáng trong "Đi vào cơi thơ": chê thơ Tản Đà "không có ǵ đặc sắc", song lại muốn Tản Đà sống lại để "nhậu một trận lu bù", và Trương Tửu ngay sau khi Tản Đà mất, cho ra một cuốn sách viết về Tản Đà là "Uống rượu với Tản Đà", trong đó kể lại nhiều câu chuyện làm nổi lên những phẩm chất của ông, ông gọi Tản Đà là Epicurien của Việt Nam. Nguyễn Tuân, một người lập dị không kém và cũng rất khâm phục Tản Đà, trong bài "Tản đà - một kiếm khách" phác họa ra một người sống cô độc ngoài hải đảo, cách xa trần thế, tưởng như một vị trích tiên.

    Bên cạnh đó cũng có nhiều người tỏ ư "kính nhi viễn chi", thậm chí không chịu nổi tính cách của Tản Đà. Vũ Bằng nói: "Người như Tản Đà để ở xa mà kính trọng cảm phục th́ được, chứ ở gần th́ không thể nào chịu nổi!". Lưu Trọng Lư nhận xét: "Gặp Tản Đà một bận th́ thật là một điều khoái trá vô cùng, gặp ông ấy lần thứ hai th́ vẫn c̣n là một cái vui thích đă bắt đầu gượng gạo, và gặp đến lần thứ ba th́ là một điều khó chịu. Và lần thứ tư, thứ năm, v.v... th́ xin thú thực là một... tai nạn". Phan Khôi, được xem là khắc tinh với Tản Đà trên văn đàn, trong "Tôi với Tản Đà thi sỹ" viết: Cái lối đánh chén của ông Hiếu kề cà mất th́ giờ lắm, tôi không chịu được, nên ít khi tôi ngồi trọn bữa rượu với ông. Ông đem hỏa ḷ để ở bàn mà tự làm lấy món ăn, có khi măn một tiệc ăn người nhà phải thay than trong hỏa ḷ đến năm sáu bận. Thường thường một ḿnh ông vừa ăn uống lại vừa viết nữa. Ông cho có thế mới là thú..

    Chính Tản Đà cũng thường tự coi ḿnh là "Khổng tử chi đồ", "trích tiên", một thế ngoại cao nhân, tỏ ra khác biệt với người dương thế. Ông thường làm những chuyện xưa nay hiếm: theo lời Ngô Tất Tố, lần vào Sài G̣n viết báo, Tản Đà đem theo vợ con nhưng cả lúc đến lẫn lúc đi, vợ con ông gửi cho Ngô Tất Tố thu xếp cả. Ngô Tất Tố là bạn thân của Tản Đà, có lần phác họa về con người ông: "Không có tiền th́ rầu rĩ, oán trách, rũ người ra như con cú, thế mà một khi có tiền th́ lại không muốn làm việc ǵ hết, chỉ uống và ăn, hết ăn lại uống. Chưa uống th́ bảo không có rượu như cái máy không xăng nhớt không chạy được, uống vào say rồi th́ nằm khoèo ra ngủ và lư luận một ḿnh rằng say mà làm việc th́ hỏi đời c̣n có cái ǵ thú nữa?". Tản Đà c̣n có tính tự phụ, không biết sửa sai, lại thích nghe nịnh nọt, Ngô Tất Tố kể: "không biết nghe lời anh em khuyên bảo. Cái số anh em thành thực khuyên ông rất hiếm, c̣n cái số nâng ông lên, sợ cái tài ông mà không dám làm mích ḷng ông th́ cả đống. V́ có nhiều kẻ nịnh ông một cách mù quáng như thế, ông bị hại mà không biết, mỗi ngày mỗi tự phụ thêm lên...".

    Đa phần những người thân với Tản Đà, thường cho rằng ông rất khó gần. Điển h́nh là Ngô Tất Tố, người bạn thân nhưng đă tuyệt giao với ông trong suốt 10 năm cuối đời.

    "Thi sĩ tửu đồ"
    Chuyện t́nh cảm

    Trong cuộc đời của Tản Đà, người ta đếm được có bốn mối t́nh đă mang lại cho ông nhiều cảm xúc. Đầu tiên là mối t́nh tuyệt vọng với cô gái họ Đỗ ở phố hàng Bồ. Đây là mối t́nh trong trắng và say đắm, nhưng không có kết cuộc tốt đẹp. Mối t́nh này đă làm ông đau khổ và tạo nên nhiều thi hứng, để làm nên những câu thơ đặc sắc:

    "V́ ai cho tớ phải lênh đênh
    Nặng lắm ai ơi, một gánh t́nh"

    Trong cuốn "Giấc mộng con", ông đă viết một bài văn để tả mối t́nh này. Ông mô tả: "ở phố Hàng Bồ số nhà hơn hai mươi về dăy bên lẻ có một người con gái ngồi bán hàng tạp hoá, không biết có phải là tuyệt sắc hay không mà tự con mắt ḿnh khi bấy giờ th́ như ngoài người ấy không có ai là con gái...".

    Tuy nhiên, do không có tiền cưới hỏi mà chuyện thi cử lại bất thành, Tản Đà đành chấm dứt cuộc t́nh thơ mộng. Cô gái xuất giá, Tản Đà viết: "thời đời đáng chán hay không đáng chán cũng chẳng đợi cất chén quỳnh mà hỏi bạn tri âm". Theo các nhà nghiên cứu th́ đây là chuyện t́nh đă gây ảnh hưởng nhiều nhất tới Tản Đà. Sau khi chia tay với mối duyên đầu, ông trở nên chán nản, buồn bă. Để t́m khuây khoả, ông đi nhiều nơi: Việt Tŕ, Ḥa B́nh... Những câu thơ làm trong giai đoạn đau khổ này của Tản Đà đă vô t́nh mở đầu cho một trào lưu về văn học lăng mạn ở Việt Nam. Trước đó ít ai tả những nỗi buồn sâu kín, những nỗi chán đời rất trần tục như:

    "Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
    Trần thế em nay chán nửa rồi..."
    "Trận gió thu phong rụng lá vàng
    Lá rơi hàng xóm, lá bay sang
    Vàng bay mấy lá năm già nửa
    Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng?"

    Nhưng ngoài cô gái hàng Bồ mà người ta thường nhắc tới ra, theo Nguyễn Khắc Xương, c̣n có ít nhất ba mối t́nh thực nữa mà Tản Đà đă ghi lại trong thơ. Đó là mối t́nh với cô con gái út ông tri phủ Vĩnh Tường, cô nữ sinh 13 tuổi ở Nam Định, và cả cô đào Liên, người sắm vai Tây Thi trong vở kịch "Cô Tô tàn phá" do ông soạn giả kiêm đạo diễn. Những người t́nh này đều được ghi lại trong tập văn xuôi "Giấc mộng con".
    Trên là t́nh thực, c̣n t́nh "mộng", Tản Đà có rất nhiều. Đó là những mối t́nh với Tây Thi, với Chiêu Quân, với Ngọc Nữ... mà người ta thường thấy trong "Khối t́nh con". Đặc biệt, c̣n có những cuộc t́nh nửa thực, nửa mộng, với những "t́nh nhân không quen biết".

    Khoảng năm Nhâm Tuất (1922), vào hội chùa Hương, Tản Đà do không có chi phí để đi hội, ông nhớ hội chùa, nhớ rau sắng, làm ra mấy câu thơ:

    Muốn ăn rau sắng chùa Hương
    Tiền đ̣ ngại tốn, con đường ngại xa
    Ḿnh đi, ta ở lại nhà
    Cái dưa th́ khú, cái cà th́ thâm
    "

    Bài thơ phổ biến trên báo. Đến cuối tháng, ông nhận một bưu kiện là một bó rau sắng và một bài thơ, nhưng không ghi địa chỉ người gửi. Ông cảm kích, gọi người gửi ấy là "T́nh nhân không quen biết" và làm thơ gửi tặng bằng cách đăng báo. Trước đó, ông đă viết nhiều bài thơ gửi "T́nh nhân không quen biết", với ư muốn t́m kiếm một bạn tri âm tri kỷ trên khắp nước Việt Nam.

    Xem những câu chuyện trên, người ta tin Tản Đà không nói ngoa khi ông thường nhận ḿnh là "giống đa t́nh". Những mối t́nh đa dạng đă chắp cánh cho thi tài của ông, khiến ông trở thành một nhà thơ mở màn cho trào lưu lăng mạn sau này (phong trào thơ mới), với những bài thơ ghi dấu sự chuyển giao giữa hai thời đại.

    Thơ

    Từ thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1930, văn đàn Việt Nam không có một nhà thơ nào nổi tiếng và được yêu mến như Tản Đà. Kể cả khi phong trào thơ mới xảy ra, th́ Tản Đà, sau khi "phái thơ mới" bị đả kích kịch liệt lại được chính những người đả kích mời về ngồi chiếu trên. Trong cuốn "Thi nhân Việt Nam", cuốn sách b́nh luận thơ mới rất giá trị, Hoài Thanh và Hoài Chân đă đặt bài tưởng niệm Tản Đà lên những trang đầu, với lời lẽ tôn kính.

    Thơ cũng là lĩnh vực quan trọng nhất trong sự nghiệp phong phú của Tản Đà. Ông được coi là một thi sĩ, hơn hết các nghề khác. Ông sáng tác rất nhiều thơ, nhiều thể loại - cả về nội dung lẫn h́nh thức. Thơ ông hay diễn tả cảm giác say sưa, chán ngán đời thực, đắm ch́m trong cơi mộng, những mối t́nh với người tri kỷ xa xôi, song cũng có những bài mang tính ẩn dụ, ngầm phê phán hiện thực.

    Thơ Tản Đà thường làm theo thể cổ phong, cũng có khi làm bằng Đường luật, đường luật phá thể, lục bát, song thất lục bát. Ông c̣n có tài sáng tác thơ dựa trên từ khúc, một h́nh thức âm nhạc của Trung Hoa, những bài "Tống biệt", "Cảm thu tiễn thu" nhờ sự phá cách, phối hợp nhiều thể loại thơ, có thể coi là cách tân về h́nh thức khá táo bạo. Một kiểu văn vần đặc biệt nữa mà ở đó, Tản Đà được sánh ngang với Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Cao Bá Quát..., là hát nói hay ca trù (nay được xem như một thể loại thơ). Hát nói của Tản Đà thể hiện một triết lư sống phóng khoáng, một tâm hồn hay mơ mộng, hoài cổ nhưng man mác nỗi sầu nhân thế.

    Ngoài thơ tự sáng tác, thơ dịch của Tản Đà cũng được đánh giá rất cao. Những bài thơ lục bát dịch từ thơ Đường của Tản Đà thường được cho là hay hơn các bản dịch khác, có bài hay hơn cả nguyên tác, v́ sự tự nhiên, không bị g̣ bó mà chuyển tải cả tâm hồn ḿnh vào đó. Ngoài thơ Đường, ông c̣n dịch những bài thơ dài như Trường Hận ca, dịch ra thể Song thất lục bát, được đánh giá rất cao, Bùi Giáng trong cuốn "Đi vào cơi thơ" tuy không đề cao thơ Tản Đà nhưng gọi bản dịch này là "vô tiền khoáng hậu".

    Còn tiếp...
    Last edited by Vân Nương; 18-01-2013 at 05:41 PM.

  6. #1396
    Member Nguyễn Mạnh Quốc's Avatar
    Join Date
    25-03-2011
    Posts
    4,374

    lăng mạn văn chương; đè nén áp bức của phong kiến...

    .. cảm ơn T/v Vân Nương...
    nmq e ngại trí nhớ già nua.. nên vội gơ cắt ngang..
    ... ở cái thời đó.. gia huấn nghiêm khắc. cổ hủ.... lúc nào cũng chỉ nghĩ đến cái danh giá.. của danh gia vọng tộc.. chèn ép... mà quên đi quyền sống của con người. Trào lưu thơ mới đem lại nguồn hy vọng cải cách cho xă hội bớt phần " chua sót.. đau khổ ", nhất là trong việc hôn nhân của phụ nữ.
    nmq xin phép nhắc đến TTKH.. và TCHYA( tôi chưa/chẳng yêu ai !! )..
    TTKH.. những vần thơ... hai sắc hoa Tigon... ./. nmq

  7. #1397
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    Đúng quá

    Quote Originally Posted by nguyễn mạnh Quốc View Post
    .. cảm ơn T/v Vân Nương...
    nmq e ngại trí nhớ già nua.. nên vội gơ cắt ngang..
    ... ở cái thời đó.. gia huấn nghiêm khắc. cổ hủ.... lúc nào cũng chỉ nghĩ đến cái danh giá.. của danh gia vọng tộc.. chèn ép... mà quên đi quyền sống của con người. Trào lưu thơ mới đem lại nguồn hy vọng cải cách cho xă hội bớt phần " chua sót.. đau khổ ", nhất là trong việc hôn nhân của phụ nữ.
    nmq xin phép nhắc đến TTKH.. và TCHYA( tôi chưa/chẳng yêu ai !! )..
    TTKH.. những vần thơ... hai sắc hoa Tigon... ./. nmq
    BS nói đúng quá.
    Bởi vậy mới có Nửa Chừng Xuân và Đoạn Tuyệt ra đời.
    Nửa Chừng Xuân đã được đăng trên mục này năm ngoái.
    Vì có khách nên VN bận rộn ít ngày. Vn xin cáo lỗi cùng quí vi.
    Sẽ tiếp tục đăng THơ Tản Đà sau.

  8. #1398
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    BS nmq và Thím Vân Nương đă giúp cho mục này thêm phong phú . tigon tôi chưa đủ công lực để xen vào chuyện của hai vị .

    Xin cứ tự nhiên đàm luân văn học , chúng tôi nghe và nhận lănh những áng văn hay và lời phê lịch lăm của 2 vị

    tigon

  9. #1399
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Nghĩ vụn bên cốc cà phê sáng

    Một bạn có vẻ thú vị về chuyện "cái cốc vô Nam biến thành cái ly ", lôi tuột tôi vào bếp yêu cầu giải thích lung tung. Thôi th́ cũng bàn hươu tán vượn một lúc cho vui.

    Bạn hỏi, dân Nam uống cà phê theo kiểu “cái nồi ngồi trên cái cốc”, trên có cái phin lọc, dưới có cái ly đựng, nên tôi “nghĩ vụn bên cốc cà phê” là phải rồi, nhưng sao lại uống cà phê bằng cốc, bằng ly, mà không uống bằng tách?

    Ừ nhỉ. Dân tây toàn uống cà phê và trà bằng tách (Pháp: tasse à café, tasse à thé; Anh: coffee cup, teacup). Tách có quai cầm và đi kèm cái đĩa.

    Tôi uống cà phê bằng cái ca, do chữ tây là cái “quart”, tiếnh Anh gọi là cái “mug”.

    Th́ cốc, ly, tách, ca chả có ǵ quan trọng, cái đáng kể là phẩm chất của cái ǵ nó chứa trong đó và không khí chung quanh chỗ đang ngồi.

    Cụ Nguyễn Khắc Hiếu nói “Đồ ăn ngon, chỗ ngồi ăn không ngon, người ngồi ăn không ngon, không ngon! Đồ ăn ngon, chỗ ngồi ăn ngon, người ngồi ăn không ngon, không ngon! Đồ ăn ngon, người ngồi ăn ngon, chỗ ngồi ăn không ngon, không ngon!”

    Cà phê cũng cũng vậy. Cà phê cứt chồn, cà phê Java Arabica, cà phê Harrar của Ethiopia hay Monsooned Malabar, Mysore của Ấn Độ, pha đúng cách, mà ngồi cùng người ḿnh không mấy ưa, trong tiệm cà phê đèn mờ với tiếng nhạc xập x́nh th́ có mà tộng vô ừng ực cho xong để xách đít đi về chứ ngon ǵ nổi!..

    Bạn hỏi có phải cái nồi miền Bắc là cái soong miền Nam? Thật ra, “soong” là tiếng ngoại nhập, biến âm từ “casserole” của Pháp, cả hai miền Nam Bắc đều dùng, có người gọi là “cát-xôn”. Nồi có hai quai cầm ngắn trong khi soong giống như niêu, chỉ có một chuôi cầm. Soong bao giờ cũng bằng kim loại và niêu làm bằng đất.

    Trong bộ tư nồi-niêu-soong-chảo, người Bắc thường dùng niêu (tục ngữ: Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm). Người miền Nam xưa cũng dùng niêu (theo Hùinh Tịnh Của: “niêu” là nồi nhỏ, “niêu rưởi” trộng hơn, to gấp rưởi). Bà cố tôi là người miền Nam nhưng c̣n dùng khá nhiều tiếng Bắc cổ do các thế hệ di dân thời nhà Nguyễn mang vào. Trong bếp của cụ ngoài nồi, niêu, soong, chảo, các thứ nồi nhỏ dùng để kho hay om, có ơ, trách, tră (nồi nhỏ bằng đất nung, trẹt, có hai tai cầm) và tộ sành (tráng men xấu).

    Bạn hỏi có phải người Bắc gọi là canh chua cá quả, người Nam gọi là canh chua cá bông lau? Không phải. Canh chua là món Nam thuần tuư. Cá quả và cá bông lau thuộc hai giống khác nhau.

    Cá quả (cá chuối – tục ngữ: cá chuối đắm đuối v́ con), c̣n gọi là cá sộp, cá đô; người miền Nam gọi là cá tràu (cá lóc nhỏ) hay cá lóc, cá lóc bông (lớn) là loại cá có vảy, tên khoa học là channa chia ra ba giống maculata, argus và striata.

    Cá bông lau là loại cá không vảy, tên khoa học là pangasuis krempfi thuộc chi cá tra (pangasius), sống ở vùng nước lợ, khi sinh sản th́ vào vùng nước ngọt.

    Bạn lại hỏi, cái vại ở ngoài Bắc có phải là ly cối trong Nam. Cái vại rất lớn làm bằng sành, h́nh trụ tựa như cái lu trong Nam, có thể chứa được khoảng 20 tới 40 lít nước; sau này ở ngoài Bắc, chữ “vại” c̣n được dùng để chỉ ly lớn, như ly cối trong Nam, ban đầu là chỉ là cách nói đùa (cái cốc to như cái vại; cái ly lớn như cái cối) lâu dần thông dụng như một tiếng mới.

    Bạn hỏi “thằng cu cái hĩm” có phải là tiếng tục tĩu không. Tôi nghĩ là không. “Cu” là tiếng gọi tránh một tiếng tục, chỉ dương vật; và “hĩm” là tiếng gọi tránh một tiếng tục khác, chỉ âm hộ. “Cu, hĩm” chỉ là hai tiếng ở nhà quê miền Bắc dùng gọi bé trai và bé gái c̣n nhỏ. Bỡn ông mà lại dứ thằng cu (Nguyễn Khuyến).


    Tản mạn của : nxb.langvan@yahoo.ca

  10. #1400
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    TẢN ĐÀ - tiếp theo.

    Thề Non Nước

    Nước non nặng một lời thề
    Nước đi đi măi không về cùng non
    Nhớ lời nguyện nước thề non
    Nước đi chưa lại non c̣n đứng không
    Non cao những ngóng cùng trông
    Suối khô ḍng lệ chờ mong tháng ngày
    Xương mai một nắm hao gầy
    Tóc mây một mái hăy c̣n tuyết sương
    Trời tây nổi bóng tà dương
    Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
    Non cao tuổi vẫn chưa già
    Non thời nhớ nước, nước mà quên non
    Dù cho sông cạn đá ṃn
    C̣n non, c̣n nước, hăy c̣n thề xưa
    Non xanh đă biết hay chưa
    Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
    Nước non hội ngộ c̣n luôn
    Bảo cho non chớ có buồn làm chi
    Nước kia dù hăy c̣n đi
    Ngàn dâu xanh tốt non th́ cứ vui
    Ngh́n năm giao ước kết đôi
    Non non nước nước không nguôi lời thề

    Gió thu

    Trận gió thu phong rụng lá vàng
    Lá rơi hàng xóm, lá bay sang
    Vàng bay mấy lá năm già nửa
    Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng!
    Trận gió thu phong rụng lá hồng
    Lá bay tường bắc, lá sang đông
    Hồng bay mấy lá năm hồ hết
    Thơ thẩn ḱa ai vẫn đứng không!

    Tống biệt

    Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
    Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi
    Nửa năm tiên cảnh
    Một bước trần ai
    Ước cũ, duyên thừa, có thế thôi!
    Đá ṃn, rêu nhạt
    Nước chảy, huê trôi
    Cái hạc bay vút tận trời
    Trời đất từ đây xa cách măi
    Cửa động
    Đầu non
    Đường lối cũ
    Ngh́n năm thơ thẩn bóng trăng chơi
    ---
    Last edited by Vân Nương; 24-01-2013 at 09:56 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 7 users browsing this thread. (0 members and 7 guests)

Similar Threads

  1. Chuyện nghe được từ ngướ không quen
    By Dac Trung in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 10-10-2012, 12:25 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-05-2012, 10:37 PM
  3. Bắt Buộc Phải Nghe
    By Dean Nguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 19-01-2012, 08:34 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 31-07-2011, 05:33 PM
  5. Tưởng Niệm Tháng 4 Đen Nghe Nhạc Lính VNCH
    By Camlydalat in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 18
    Last Post: 25-04-2011, 06:28 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •