Page 239 of 304 FirstFirst ... 139189229235236237238239240241242243249289 ... LastLast
Results 2,381 to 2,390 of 3035

Thread: Nghe Chuyện Hà Nội

  1. #2381
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 13

    ● Văn Cao họa sĩ

    Phạm Duy học Mỹ thuật Đông Dương một năm (1940-1941) với các thày Nam Sơn, Georges Khánh, Tô Ngọc Vân ... và cùng lớp với Vơ Lăng, Đinh Minh, Mai Văn Hiến, Bùi Xuân Phái, Phan Kế An, Quang Pḥng, Phan Tại, Nguyễn Thanh Đức, Tạ Thúc B́nh, Trần Phúc Duyên ... Phạm Duy viết:

    "Học trước chúng tôi vài năm là Tạ Tỵ, Phạm Văn Đôn, Trần Văn Lắm, Nguyễn Thị Kim... (...) Tạ Tỵ vẽ dessin hoặc vẽ tranh sơn dầu theo lối cổ điển hay ấn tượng (impressionisme) rất thành công, nhưng anh lại chọn con đường lập thể (cubisme) của Picasso. Ngoài Tạ Tỵ ra tôi không thấy có họa sĩ Việt Nam nào dám đi vào loại tranh đó cả. Tạ Tỵ c̣n đi xa hơn nữa khi anh đi vào loại tranh vị lai (futurisme)"[36].

    Sự cách tân hội họa của Văn Cao, sẽ được Tạ Tỵ[37] nhận định trong bối cảnh chung của hội họa Việt Nam thập niên bốn mươi:

    "Vào những năm 40-41, tôi học chung với nhiều bạn nhưng chỉ có vài người có tinh thần tiến bộ như Nguyễn Đăng Trí, Bùi Xuân Phái và Nguyễn Sáng. Cả ba đều học dưới tôi vài lớp. (...) Bùi Xuân Phái người Hà Nội, có đôi mắt to sáng, vầng trán cao với bộ râu đỏ hoe và nụ cười khinh bạc (...) Anh thích vẽ phố v́ nhà anh ở gần phố Hàng Thiếc, Hàng Điếu, Hàng Ḥm là những con phố cổ của Hà Nội ngày xưa (...)
    Do vậy, về sau anh em thường gọi đùa là "Phái Phố"! Tôi và Bùi Xuân Phái sau này c̣n rất nhiều dịp sống gần nhau để tạo nên kỷ niệm (...) C̣n Nguyễn Sáng, người miền Nam, t́nh t́nh nóng nẩy. Sáng cũng có vầng trán thật cao, thân xác khỏe mạnh như lực sĩ (...) Nguyễn Sáng khéo tay lắm, nhất là tranh thiếu nữ vẽ trên lụa (...)

    "Phạm Duy và Văn Cao cũng có một thời gian theo học Mỹ Thuật cũng như Phan Tại, nhà đạo diễn kịch sau này, nhưng cả ba đều bỏ ngang, có lẽ v́ không thích hợp. Chỉ riêng Văn Cao vẫn vẽ, có vài tác phẩm được trưng bày tại Salon Unique năm 1943 do chính phủ Pháp tổ chức. Tác phẩm mang tựa đề "Những kẻ tự sát" (Les suicidés) với bút pháp phong phú gây được nhiều thiện cảm của giới yêu mỹ thuật lúc ấy. Qua tác phẩm này, ư thức cách mạng đă có ở Văn Cao nhưng chưa ai biết (...)

    Văn Cao khi ở Hải Pḥng, khi lên Hà Nội, mỗi lần có mặt ở thành phố, Văn Cao thường đến t́m tôi mời lại căn nhà ở trong con ngơ nhỏ đường Hàm Long để khoe tranh mới. Trong khoảng thời gian từ 42 đến 45, tôi đâu biết Văn Cao đă dấn thân vào cách mạng, hoạt động bí mật cho Mặt Trận Việt Minh. Quả thật tôi không để ư đến cách mạng và chính trị nên thường có những lập luận đối nghịch với Văn Cao về sáng tác. Văn Cao cho rằng nghệ thuật chỉ có ư nghĩa khi nó phục vụ cho số đông và một bức tranh đẹp phải truyền cảm, gây được ấn tượng tốt cho người xem tranh.

    C̣n tôi cho rằng nghệ thuật, bất cứ ở bộ môn nào, trước hết, phải có bản sắc cũng như đặc tính của nghệ phẩm. Một bức tranh đẹp không cần sự giải thích, chỉ cần sự cảm thông giữa người xem tranh và tác phẩm (...) Nhưng tuy miệng nói vậy, chứ Văn Cao vẽ cũng mới lắm; những bản nhạc như Buồn Tàn Thu, Suối Mơ, Thiên Thai, Trương Chi, v.v... được in ra đều do Văn Cao tŕnh bày b́a đi rất gần với trường họa lập thể, mà hồi đó chưa có một bản nhạc nào, cuốn sách nào tŕnh bày dưới h́nh thức đó"[38].

    Tạ Tỵ c̣n gặp lại Văn Cao nhiều lần trong kháng chiến và cũng chính ông là người sẽ thuật lại sinh hoạt hội họa trong kháng chiến. Bây giờ hăy t́m hiểu về giai đoạn cách mạng tháng Tám, giai đoạn Tiến Quân Ca và những ngày lịch sử.


    Còn tiếp ...

  2. #2382
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 13

    ● Tiến quân ca và những ngày lịch sử

    1945, là thời điểm bản lề, phát xuất sự phân chia Quốc-Cộng, phân chia Nam-Bắc, phân chia chiến tuyến. Theo Lại Nguyên Ân th́ người nghiên cứu ngoài Bắc có rất ít tư liệu văn học về thời kỳ này, phải nhờ đến những bài báo của Vũ Bằng trên Trung Bắc chủ nhật, mà ông vừa t́m lại, mới biết được những sự việc như: "Học giả Trần Trọng Kim trong vai tṛ thủ tướng; việc khôi phục Hà Nội trong quy chế một thành phố của nước Việt Nam độc lập; việc Hà Nội khôi phục đền Trung Liệt thờ những bậc quản thủ đă tử tiết v́ thành phố..."[39]

    1945, là năm sôi động nhất của lịch sử cận đại và Tiến Quân Ca lần đầu tiên đến với quần chúng.

    Để giúp bạn đọc dễ theo dơi tiến tŕnh hành động và sáng tác của Văn Cao và các văn nghệ sĩ thời đó, chúng tôi xin nhắc lại một số mốc lịch sử sau:

    ▪ 04/2/1945, Hội nghị tối cao Đồng Minh họp tại Yalta, chia thế giới làm hai khu vực: vùng ảnh hưởng Nga và vùng ảnh hưởng Anh Mỹ.

    ▪ Tháng 3/1945 (Ất Dậu), nhiều ngàn người chết đói ở Bắc.

    ▪ 09/3/45, Pháp đầu hàng Nhật.

    ▪ 10/3/45, Nhật tuyên bố: ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Đông Dương.

    ▪ 11/3/45, Viện Cơ Mật Huế thông báo: hủy bỏ hiệp ước bảo hộ 1884. Việt Nam khôi phục chủ quyền.

    ▪ 17/3/45, vua Bảo Đại tuyên chiếu: đích thân cầm quyền theo nguyên tắc Dân Vi Quư.


    ▪ 17/4/45, Bảo Đại ủy Trần Trọng Kim lập chính phủ, thành phần: Hoàng Xuân Hăn, Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Trịnh Đ́nh Thảo, Trần Đ́nh Nam, Hồ Tá Khanh, Lưu Văn Lang, Trần Văn Chương, Nguyễn Hữu Thi.

    Dùng cờ quẻ LY làm quốc kỳ và tiếp tục lấy Đăng đàn cung làm quốc ca. Trần Trọng Kim giải thích:

    "Nước Việt Nam đă là một nước tự chủ th́ phải có quốc kỳ và quốc ca. Bài quốc ca th́ từ trước vẫn dùng bài "Đăng Đàn" là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ: trước khi có bài nào hay hơn và có nghĩa lư hơn th́ hăy cứ dùng bài ấy.

    C̣n lá quốc kỳ, mỗi người bàn một cách, chúng tôi định đem hỏi mọi người trong nước và ai có ư kiến ǵ, th́ vẽ kiểu gửi về. Có kiểu lá cờ vàng có quẻ Ly ở giữa là có ư nghĩa hơn cả. Chúng tôi định lấy kiểu ấy làm quốc kỳ.

    Lá cờ vàng là từ xưa nước ta vẫn dùng. Trong sách Quốc Sử Diễn Ca nói khi bà Triệu Ẩu nổi lên đánh quân Tàu, đă dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có câu rằng "Đầu voi phất ngọn cờ vàng". Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với cái ư cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ Ly là v́ trong lối chữ tối cổ của ta có tám chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám quẻ, chỉ bốn phương chính và bốn phương bàng, nói ở trong kinh dịch, mà quẻ Ly chủ phương nam. Chữ Ly c̣n có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn phương.

    Lấy sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ Ly là hợp với vị trí nước nhà lại có nghĩa chỉ một nước văn hiến như ta thường tự xưng. Như thế là lá cờ vàng quẻ Ly có đủ các ư nghĩa"[40].


    ▪ 20/7/45, Nhật trả chính phủ Việt Nam các cựu nhượng địa Pháp: Hà Nội, Hải Pḥng Đà Nẵng.

    ▪ 01/8/45, Đốc lư Trần Văn Lai cho phá các tượng Pháp ở Hà Nội: tượng Paul Bert, Jean Dupuis, Đầm Xoè ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm lính Khố Xanh, Khố Đỏ.

    ▪ 09/8/45, Nagasaki bị ném bom nguyên tử.

    ▪ 13/8/45, Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tuyên Quang, quyết định: Tổng khởi nghiă, đoạt khí giới quân Nhật, chiếm chính quyền trước khi quân Đồng Minh đến Đông Dương, lập chế độ Dân Chủ Cộng Ḥa.

    ▪ 14/8/45, Nhật trả Nam Bộ cho triều đ́nh Huế.

    ▪ 15/8/45, Nhật Hoàng kêu gọi quân đội đầu hàng. De Gaulle cử Leclerc làm tư lệnh Lục quân Pháp tại Đông Dương.

    ▪ 17/8/45, công chức Hà Nội biểu t́nh biểu dương ư chí bảo vệ đất nước, cuộc biểu t́nh biến thành biểu t́nh ủng hộ Mặt Trận Việt Minh. Phạm Duy cướp micro hát Tiến Quân Ca "lần đầu tiên và duy nhất" tại nhà Hát Lớn Hà Nội.

    ▪ 19/8/45, biểu t́nh lớn trước nhà Hát Lớn để nghe tuyên bố của Mặt trận Việt Minh. Bài Tiến Quân Ca được đoàn Thanh Niên đồng ca.

    ▪ 22/8/45, vua Bảo Đại thoái vị.

    ▪ 23/8/45, thành lập chính phủ lâm thời với Hồ Chí Minh, chủ tịch.

    ▪ 02/9/45, chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố Độc Lập tại Ba Đ́nh. Vũ Hoàng Chương làm bài thơ Ngày Độc Lập, đăng trên Tiên Phong số 24, ngày 1/12/46.

    ▪ 09/9/45, quân đội Trung Hoa bắt đầu tới Hà Nội để giải giới quân Nhật.

    ▪ 05/10/45, tướng Leclerc tới Sàig̣n, tuyên bố sẽ b́nh định Nam Bộ.

    ▪ 22/12/45, Hồ Chí Minh kư thỏa ước với Việt Quốc và Việt Cách (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt) lập chính phủ liên hiệp.

    ▪ 13/1/46, Vệ Quốc Quân tấn công bộ đội Việt Quốc tại Việt Tŕ.


    Quân Pháp chiếm xong Nam Bộ, tiếp tục đánh ra Bắc.

    ▪ 2/3/46, thành lập chính phủ liên hiệp với Hồ Chí Minh, chủ tịch; Nguyễn Hải Thần, phó chủ tịch; Huỳnh Thúc Kháng, bộ trưởng Nội Vụ; Nguyễn Tường Tam, bộ trưởng Ngoại Giao...

    ▪ 6/3/46, Hồ Chí Minh kư hiệp định Sơ bộ, thừa nhận Việt Nam là quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp.

    ▪ 16/3/46, cố vấn Vĩnh Thụy sang Trùng Khánh.

    ▪ 17/4/46, khai mạc hội nghị Việt Pháp tại Đà Lạt, Nguyễn Tường Tam làm trưởng phái đoàn. Hội nghị thất bại.

    ▪ Từ tháng 4/46 trở đi, t́nh h́nh rối loạn: quân Tưởng đánh nhau với quân Pháp. Bộ đội Việt Minh đánh nhau với bộ đội Việt Quốc. Nguyễn Tường Tam sang Tàu.

    ▪ 6/7/46 Khai mạc hội nghị Fontainebleau, Phạm Văn Đồng làm trưởng phái đoàn. Chương tŕnh nghị sự: Việt Nam và liên bang Đông Dương.

    ▪ 10/9/46, Hội nghị Fontainebleau thất bại.

    ▪ 14/9/46, đang đêm, chủ tịch Hồ Chí Minh thân hành đến nhà riêng của bộ trưởng Marius Moutet kư thoả ước tạm thời.

    ▪ 2/11/46, Hồ Chí Minh lập chính phủ mới, không c̣n tính cách liên hiệp.

    ▪ 19/12/46, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ[41]


    Còn tiếp ...

  3. #2383
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 13

    Tóm tắt công việc của chính phủ Trần Trọng Kim trong hơn ba tháng cầm quyền, từ 17/4 đến đầu tháng 8/45:

    • Bỏ Bộ Quốc Pḥng, lập Bộ Thanh Niên do Phan Anh đảm nhiệm: Bỏ chiến tranh, rèn luyện tuổi trẻ.

    • Hoàng Xuân Hăn, bộ trưởng Giáo Dục và Mỹ Thuật soạn thảo một chương tŕnh giáo dục mới.

    • Tiếp nhận các phần lănh thổ bị Pháp chiếm: Nam Bộ và các thành phố Đà Nẵng, Hải Pḥng, Hà Nội - Theo Phan Anh, việc này không dễ dàng, v́ Nhật chưa muốn trả.

    • Tổ chức đại lễ kỷ niệm Nguyễn Thái Học và các liệt sĩ Yên Bái tại vườn Bách Thảo.

    • Phá những tượng đài của thực dân Pháp tại Hà Nội. Đặt lại tên Việt cho các đường phố Hà Nội.

    • v.v...

    Về phía các đảng phái, sự đoạn tuyệt đă rơ ràng từ khi bộ đội Việt Minh và Việt Quốc đánh nhau ở Việt Tŕ. Phe quốc gia, gồm những đảng đối lập với cộng sản, có khuynh hướng khác nhau: thân Tàu Tưởng Giới Thạch, thân Nhật hoặc thân Pháp. Phe cộng sản: thân Nga, thân Tàu Mao Trạch Đông. Nhưng Việt Minh đă thành công trong việc cổ động toàn dân theo Cách Mạng Tháng Tám.

    Riêng về phía văn nghệ sĩ, gần như hầu hết những người không cộng sản cũng tham gia kháng chiến: Tạ Tỵ viết khẩu hiệu cho Việt Minh. Phạm Duy cướp micro hát Tiến quân ca. Vũ Hoàng Chương sáng tác Ngày độc lập với những câu thơ:

    "... Hai cuộc tang thương tủi đọa đầy

    Núi sông c̣n có buổi hôm nay

    Kinh kỳ tám mặt reo đoàn kết

    Sóng đỏ gầm quanh ngọn bút này (...)

    Ngoài kia dừng chén mà coi

    Núi lay xiềng khoá, sông đ̣i tự do

    Lắng nghe dân tộc reo ḥ

    Bốn phương thét lớn gào to: dân quyền..."


    Tạ Tỵ thuật lại việc viết khẩu hiệu cho Việt Minh và Nguyễn Sáng vẽ giấy bạc cụ Hồ: "Trước ngày 19/8/1945 là ngày Việt Minh cướp chính quyền, Lê Quốc Lộc đến t́m tôi nói về t́nh h́nh chính trị: "Chúng ḿnh không thể ngồi chờ được nữa, phải hành động!" Tôi hỏi: "Hành động cái ǵ?" Anh nh́n thẳng vào mắt tôi như ḍ xét: "Tôi nói hành động tức là phải tham gia cách mạng". - "Cách mạng nào?" Lộc trả lời với một giọng rắn chắc: "Tôi nói thực với cậu, tôi đang hoạt động cho Mặt Trận Việt Minh; t́nh thế đă chín mùi rồi. Nếu cậu bằng ḷng, tôi mời cậu tham gia Mặt Trận".

    Tôi đang phân vân chưa biết trả lời ra sao, Lộc nói tiếp: "Công tác cũng nằm trong khả năng của tụi ḿnh thôi, nghiă là chuyên môn". Tôi ậm ừ trả lời: "Nếu cậu làm được tôi cũng làm được". Lộc cười, cặp mắt một mí của anh hơi nheo trông giống như hai sợi chỉ kéo thẳng: "Vậy chúng ta bắt tay vào việc nhé!" (...) Chừng nửa giờ sau, Lộc mang vải, sơn đến với một tờ giấy nhỏ: "Cậu viết giùm mấy khẩu hiệu này". Nói xong Lộc đi ngay. Tôi mở tờ giấy ra coi, thấy mấy tiếng: "Hoan hô Mặt Trận Việt Minh. Chào mừng Cách Mạng thành công".

    (...) Sáng sớm hôm sau Lộc đến nhà tôi thật sớm. Hai tấm khẩu hiệu, Lộc cho vào chiếc bao bột ḿ, buộc gọn vào yên xe rồi ngồi lên trên, đạp nhanh như có chuyện ǵ gấp lắm. Ngay buổi chiều hôm đó, nhân có cuộc mít tinh của công chức và dân chúng, Mặt Trận Việt Minh lợi dụng ngay dịp đó, bắn mấy phát súng chỉ thiên và trương cờ đỏ sao vàng cùng khẩu hiệu. Thế là xong! Trang sử Việt Nam đă lật, nhưng nước Việt Nam c̣n phải kinh qua nhiều giai đoạn nhục nhằn ở mỗi hoàn cảnh đấu tranh để làm nên lịch sử (...)

    Mấy tháng sau, Tôi được Lê Quốc Lộc giới thiệu vào cơ quan tuyên truyền để vẽ những tấm tranh cổ động. Tiền công cũng đủ sống qua ngày. Trong lúc tôi làm công tác trên th́ Nguyễn Sáng được tuyển dụng vào công việc vẽ giấy bạc "cụ Hồ". Sáng vốn khéo tay và cần cù, rất thích hợp với tài năng. Tôi không biết ai đă giới thiệu Nguyễn Sáng với Bộ Tài Chánh của Việt Minh. Nguyễn Sáng làm việc với một ông cụ tuy già nhưng kẻ chữ c̣n tinh vi lắm (...) Tất cả mọi loại giấy bạc tiêu dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đều do Nguyễn Sáng vẽ."[42]

    Tạ Tỵ đă phản ảnh rơ tâm trạng và t́nh thế những người đi theo kháng chiến. Nguyễn Huy Tưởng trong tiểu thuyết Sống măi với thủ đô và Văn Cao trong Bài Tiến Quân Ca cũng có những cái nh́n tương tự.


    Còn tiếp ...

  4. #2384
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 13

    ● Ngày 17 và 19 tháng tám 1945 và Tiến Quân Ca

    Tiến Quân Ca được viết từ mùa thu năm 1944, nhưng đến tháng tám năm 1945, mới có vai tṛ lịch sử. Chủ động trong hai ngày 17 và 19/8/45. Vậy những tác nhân chính viết ǵ về những ngày lịch sử đó?

    Phạm Duy viết: "Sau khi Nhật đầu hàng, Quân Đội Nhật ở Việt Nam trao trả phủ Toàn Quyền cho phủ Khâm Sai Bắc Bộ. Để tỏ ư chí bảo vệ đất nước, vào ngày 17 tháng 8, công chức Hà Nội được lệnh của vị Khâm Sai Phan Kế Toại đứng ra tổ chức một cuộc mít tinh ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc mít tinh của các ông các bà công chức đang diễn tiến th́ bỗng nhiên một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn được thả từ bao lơn của Nhà Hát xuống, rồi một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Thế là cuộc biểu t́nh của Tổng Đoàn Công Chức bỗng nhiên biến thành cuộc biểu t́nh của Mặt Trận Việt Minh.

    Hai ngày sau, tức là 19 tháng 8, Việt Minh đích thân đứng ra tổ một cuộc mít tinh khổng lồ cũng ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Sau đó đoàn người biểu t́nh kéo đến bao vây Bắc Bộ Phủ. Ông Khâm Sai Phan Kế Toại đầu hàng ngay. Coi như cướp được quyền hành chánh rồi, đoàn người kéo luôn qua trại Khố Xanh ở đường Đồng Khánh để cướp quyền quân sự. Một ngàn lính Bảo An ở trong trại không kháng cự. Cờ quẻ Ly được hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên.

    Thế là cuộc tổng khởi nghĩa thành công tại Hà Nội. Một Ủy Ban Nhân Dân được thành lập ngay hôm đó. Đồng thời tại nhiều địa phương, các đoàn vơ trang tuyên truyền được gọi là "Dân Quân Giải Phóng" cũng tới chiếm chính quyền trong tay các tỉnh trưởng hay quận trưởng của một chính phủ mà ông Thủ Tướng là Trần Trọng Kim đă từ chức"[43].

    Trong đoạn hồi kư trên, Phạm Duy viết ngắn và rất chi tiết, nhưng ông không hề nhắc đến vai tṛ của ḿnh trong ngày 17/8/1945, chỉ ghi một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao và trong cuốn hồi kư, ông cho biết những ngày ấy ông ở trong Nam. Điều đó dễ hiểu v́ Phạm Duy không thể công khai nh́n nhận ḿnh có "vai tṛ lịch sử trong những ngày Việt Minh cướp chính quyền" cũng như Lê Đạt không thể công khai nhận ḿnh đă theo Quốc Dân Đảng.

    Nhưng Văn Cao ghi lại rơ ràng, trong hồi kư như sau: "Tôi ở lại một ḿnh trên căn gác vắng[44] vào những ngày đầu thu năm 1944.

    Tin từ Hải Pḥng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu đang đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Pḥng, dọc đường để lạc mất đứa cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể nó đă nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ tôi t́m cách giúp đỡ. Năm ấy rét sớm hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và kư họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn đêm mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.

    Căn gác được thêm một người ở. Anh Ph. D. là bạn thân của tôi từ Hải Pḥng lên. Anh mới nhận nhiệm vụ làm giao thông của tổ chức giữa hai tỉnh Hà Nội và Hải Pḥng. Từ lâu, tôi vẫn biết Ph. D là người của đoàn thể, và thường chú ư giúp đỡ tôi. (...) Lần này, Ph. D. lên ở với tôi vào giữa lúc tôi đă muốn bỏ tất cả hội họa, thơ ca, âm nhạc, bỏ tất cả giấc mơ sáng tạo thường đêm đêm đan măi đan măi cái vành mũ triền miên trên đầu như một ṿng ánh sáng thần thánh.

    Một hôm, Ph. D. nói với tôi:

    - Văn có nhớ anh Vũ Quư không? Anh ấy vẫn ở Hà Nội? Văn có muốn gặp anh ấy không?

    Tôi biết đồng chí Vũ Quư trong những ngày c̣n là vận động viên bơi lội ở Hải Pḥng. Chúng tôi thường tập luyện hàng ngày trên sông Cấm. Từ khi biết anh bị mật thám Pháp bắt hụt, tôi hết sức khâm phục. Thế ra người cộng sản ấy vẫn hoạt động tại Hà Nội. Anh ấy vẫn nhớ đến tôi.

    Tôi đă gặp lại đồng chí Vũ Quư. Anh là người vẫn theo dơi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng, và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một hiệu ăn, ở đấy quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện của chúng tôi thật hết sức đơn giản.

    - Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?

    - Được.

    - Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.

    Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu ngơ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định công tác. Ngày đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.

    Vũ Quư đến t́m tôi và giao công tác:

    - Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, nên phải dùng những điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hăy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng chúng ta.

    Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen cố t́m một cái ǵ để nói, t́m một âm thanh đầu tiên. (...) Tôi đi măi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ ǵ trong một cái ống bơ sữa ḅ. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt.
    Có một đứa bé gái nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nh́n mấy người lớn sưởi lửa. H́nh như nó không phải con cái số người đó. H́nh như nó là đứa trẻ bị lạc. Không phải cháu tôi. Nó đă chết thật rồi. Có thể nó nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải Pḥng. Tôi bỗng trào nước mắt và quay đi. Đêm ấy về gác tôi viết được nét nhạc đầu bài Tiến Quân Ca.

    Những ngày ấy, Ph. D. sống chung với tôi. Thỉnh thoảng anh về Hải Pḥng và mang tiền bán tín phiếu do các cơ sở gửi lên. Quần chúng ủng hộ Việt Minh ngày càng nhiều.(...)

    Tôi thường nh́n Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng c̣i tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm. Dưới ngọn đèn dầu, bộ mặt ngăm ngăm đen của anh chỉ thấy ánh lên đôi mắt sâu và trầm lặng. Anh rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh của từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca.(...)

    Ngày 17 tháng tám 1945, tôi đến dự cuộc mít-tinh của công chức Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài "Tiến quân ca" đă nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất lên vang theo những đoạn sôi nổi. Ở những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đă thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim. Trong một lúc, những tờ bướm in "Tiến quân ca" được phát cho từng người trong hàng ngũ các công chức dự mít-tinh.

    Tôi đă đứng lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa nhà Hát Lớn. Tôi đă nghe giọng hát quen thuộc của bạn tôi, anh Ph. D. qua loa phóng thanh. Anh là người đă buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát. Con người trầm lặng ấy đă có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hôm đó, cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một lần duy nhất"[45].


    Còn tiếp ...

  5. #2385
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 13

    Đoạn hồi kư này xác định năm sự kiện quan trọng:

    1/ Bà mẹ Văn Cao v́ đói khổ, phải đưa các cháu từ Nam Định ra Hải Pḥng, giữa đường bị lạc mất đứa cháu lên ba. Việc này Hoàng Văn Chí có ghi lại đúng như thế.

    2/ Phạm Duy ở trong "tổ chức" trước Văn Cao. Điều đó dễ hiểu v́ Phạm Duy khi học trường Thăng Long là học tṛ của Vơ Nguyên Giáp.

    3/ Phạm Duy "nhắc nhở" Văn Cao t́m gặp Vũ Quư.

    4/ Phạm Duy "chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca" ở căn gác phố Mongrand.

    5/ Phạm Duy "buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát trước quần chúng lần đầu tiên" với "sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng" trong ngày 17/8/1945.

    Trước kháng chiến, câu "Tương tiến nhạc sĩ Phạm Duy, kẻ du ca đă gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn" của Văn Cao đă trở thành huyền thoại.

    Lần này, Văn Cao muốn trả lại vai tṛ lịch sử của Phạm Duy đối với Cách Mạng Tháng Tám. Vai tṛ đă bị lịch sử một chiều cuốn đi, cướp mất. Văn Cao muốn cái ǵ của César phải trả về cho César.



    ● Không khí ám sát thủ tiêu


    T́m hiểu Văn Cao không thể bỏ qua giai đoạn ông hoạt động trừ gian. Nhưng muốn hiểu rơ hành động ấy, lại phải t́m hiểu không khí thanh trừng giữa Việt Minh và các đảng phái đối lập. Vũ Bằng viết về không khí thời ấy:

    "Bầu không khí ấy là bầu "không khí cảnh sát" mà Việt Minh vừa mới nắm được chánh quyền đă tạo được liền: thu hút dân v́ lẽ dám đứng ra đánh thực dân diệt phát xít cứu quốc, nhưng đồng thời cũng cho tiêu luôn các đảng phái không đi một con đường với họ.

    Lúc ấy chưa có những chữ rùng rợn như "Đầm Đùn", "Lư Bá Sơ" nhưng người ta đă mang máng nghe thấy những vụ át các bỉnh bút báo "Việt Nam" ở Hàng Bún Dưới, báo "Sao trắng" đường Bô-Nan Hải-Pḥng, hay vụ Ôn Như Hầu có hàng trăm cái xác ôm nhau mà chết ... Sức mấy mà không sợ? Sức mấy mà pḥng ngừa được bọn cán bộ bịt mắt bưng đi ? Nhưng cùng tắc biến, biến tắc !.. liều, đă liều th́ liều cho trót, chúng tôi cứ đả kích Trần Huy Liệu[46] và những sơ hở của guồng máy chánh quyền phôi thai của Việt Minh. Và rồi cũng chẳng làm sao hết"[47]

    Trong tiểu thuyết Gịng Sông Thanh Thủy[48], Nhất Linh viết về Thanh và Ngọc, cán bộ Việt Minh và Việt Quốc, cả hai đều nhận được lệnh phải thủ tiêu nhau, nhưng họ rơi vào t́nh yêu, t́nh yêu đến chết. Nhất Linh mô tả rất rơ bối cảnh "Họ ŕnh nhau như những con thú dữ mà người nào cũng v́ một lư tưởng ḿnh cho là cao đẹp". Nhất Linh đă viết những trang lạnh lùng và rùng rợn về tội ác của con người, nhân danh Cách Mạng. Các nhân vật tự hỏi: "Tại sao ḿnh lại làm một việc độc ác như thế này". Tại cái "guồng máy": Họ ở hai guồng máy khác nhau. Đất nước là của chung, nhưng cách phụng sự đất nước của hai đảng, hai guồng máy chỉ đạo, khác nhau.

    Tác phẩm của Nhất Linh giải thích hành động của Văn Cao trong kháng chiến: Văn Cao làm việc cho t́nh báo Việt Minh, tại Quán Biên Thùy năm 1947. Và Quán Biên Thuỳ, theo sự mô tả của Phạm Duy, có không khí rất Gịng sông Thanh Thủy:

    "Vào khoảng đầu mùa hè năm 1947 tôi tới Lào Cai và thấy ở đây có một pḥng trà với cái tên là Quán Biên Thùy, bề mặt là một nơi giải trí nhưng bề trong là một tổ chức t́nh báo. Lúc đó, đối diện với Lào Cai vẫn c̣n là vùng Trung Hoa Quốc Gia chưa bị nhuộm đỏ hoàn toàn. Tôi gặp Văn Cao ở đây và được mời ở lại hát cho pḥng trà này. (...) Quán Biên Thùy đông nhân viên lắm. Tất cả đều là dân Hà Nội.
    Tôi không để ư nhiều tới hoạt động t́nh báo của quán này, chỉ ngờ rằng vùng Lao Kai c̣n khá nhiều đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau khi bị Việt Minh tảo thanh từ vùng trung du, Việt Quốc tập trung ở đây để sẽ lánh sang Trung Hoa. Nhân viên t́nh báo của Quán Biên Thùy này đang đi lùng Việt Quốc để báo cho Công An tới bắt hay báo cho bộ đội tới tiêu diệt.

    Tôi biết rằng Việt Quốc trước đây sống nhờ ở tiền thuế của ṣng bạc Cốc Lều, nay ṣng bạc này phải đóng thuế cho Việt Minh (...) Trong thời gian ở Lào Kai, tôi c̣n có cái thú tới hút thuốc phiện tại dinh của một lănh chúa người Nùng là Hoàng A Tưởng (...) Thuốc phiện chẳng bao giờ làm tôi say cả nhưng thứ thuốc phiện được hạ thổ lâu năm của Hoàng A Tưởng lần nào cũng đánh gục hai "anh hùng" kháng chiến là Văn Cao và Phạm Duy."[49]

    Không khí thanh trừng này nằm trong quỹ đạo trừ gian của Văn Cao những ngày đầu cách mạng: ám sát Đỗ Đức Phin. Bi kịch xẩy ra năm 1945, khi ông hoạt động trong đội "Biệt động vũ trang".


    Còn tiếp ...

  6. #2386
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 13

    ● Văn Cao bắn Đỗ Đức Phin

    Tại sao Văn Cao vào đội biệt động vũ trang?

    Giả thuyết của Vũ Bằng:

    "... Cho tới một ngày kia, lúc Nhật đổ bộ vào Đông Dương, tôi mới lại nghe nói đến Văn Cao hai lần nữa. Đó là lần Nghiêm Xuân Huyến báo tin cho tôi biết con gái anh sắp lấy chồng, mà người chồng đó là Văn Cao và một lần sau khi Việt Minh "át" cô Nga[50]"giao du" với một sĩ quan Nhật bị bắn chết liền, ở Hải Pḥng lại xẩy ra vụ bắn Đỗ Đức Phin mà lúc đó ai cũng bảo người bắn là Văn Cao.

    Nghiêm Xuân Huyến, sước hiệu[51]là Voi đen (...) Tôi đi lại thường xuyên nhà Voi đen v́ anh có ra một tờ tuần báo mười hai trang - tờ Rạng Đông. Sau này (...) anh ra tờ tuần báo trào phúng tên là Con ong do Tam Lang Vũ Đ́nh Chí chủ biên. (...) Xa nhau được ít lâu, tôi nghe thấy Nghiêm Xuân Huyến bị Nhật bắt và "xin âm dương" cho đến chết ở nhà lao. Anh em hồi đó bảo rằng anh bị Nhật giết v́ nhà in của anh in truyền đơn cho Việt Minh.

    Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu cái vụ Nhật bắt và đánh đập tàn nhẫn Huyến cho đến chết có liên quan ǵ đến vụ con gái Huyến lấy Văn Cao hay không, hay là Văn Cao có liên quan ǵ đến việc in truyền đơn đó hay không -nếu quả có in truyền đơn tại nhà in của Huyến- chỉ biết sau đó Văn Cao im ĺm, không ai biết hành tung ra sao hết cho đến lúc xẩy ra vụ ám sát Đỗ Đức Phin trong một tiệm hút ở Hải Pḥng. (...) Cái tên Văn Cao nổi bật lên từ đó. Đối với một số anh em văn nghệ, có một số anh em nói cho đúng, đă lấy làm hănh diện về điểm đó.

    Sau ngày 19/8 tiếng của Văn Cao nổi như cồn".[52]

    Doăn Ṭng, bạn đồng hành với Văn Cao trong đội trừ gian, thuật lại các sự kiện: "Năm 1945, ở Hải Pḥng có Đỗ Đức Phin là một tên mật thám cho Nhật - nó đă phá hoại nhiều cơ sở của ta, trên có lệnh phải trừ khử nó. Tháng 7-1945, Văn Cao trừ Đỗ Đức Phin. Việc này được đồng chí Nguyễn Khang, Xứ Ủy Bắc Kỳ đồng ư. Nguyễn Đ́nh Thi giao cho Văn Cao khẩu súng 7165.

    Tổ phân công cho em Trần Liễn là cô Liên thăm ḍ đường đi lối lại của Đỗ Đức Phin. Cô Liên chơi với em vợ Đỗ Đức Phin, nên rất tiện cho việc điều tra. Văn Cao, Trần Liễn có lần đă đến lớp học tiếng Nhật do Đỗ Đức Phin tổ chức nên biết mặt hắn. Hắn nghiện thuốc phiện, hay hút ở tiệm số nhà 51 phố Đông Kinh. Nắm chắc được cách đi lại ăn ở của hắn, tổ bắt đầu hành động.

    Vào khoảng 6 giờ chiều một ngày tháng 7 năm 1945, trời nhá nhem tối, anh em cải trang cho Văn Cao thành một anh cai xe bận quần đen, áo va-rơi, đầu đội mũ cát dầy, đeo đôi kính gọng. Hoá trang vào không ai nhận ra Văn Cao nữa. Văn Cao đạp xe đến phố Đông Kinh, vào ngồi ở một quán nước, đưa mắt quan sát. Khi Trần Khánh ra hiệu bằng cách nhẩy ḷ c̣: có ư là Đỗ Đức Phin đang ở trên, Văn Cao bắt đầu hành động. Anh lên gác thấy rơ Đỗ Đức Phin đang nằm hút thuốc phiện. Bên cạnh là người bồi tiêm. Văn Cao bắn một phát vào đầu Đỗ Đức Phin, tên này gục xuống. Tên bồi tiêm sợ quá, nhẩy qua ban công bám vào ống máng tụt xuống chạy biến. Một số đồng bào nghe tiếng súng nổ, chạy đến nhốn nháo. Văn Cao b́nh tĩnh nói:" Xin mọi người ngồi im. Tôi chỉ diệt một tên Việt Nam bán nước thôi".

    Nói rồi dưới ánh đêm mờ mờ, Văn Cao nhẩy lên xe đạp đi về nhà tôi thay quần áo. Sau đó Văn Cao lên Hà Nội hoạt động, tôi ở Hải Pḥng"[53].

    Hành động "trừ gian" này sẽ ở lại trong thơ Văn Cao như một lương tâm trầm uất suốt đời.


    Còn tiếp ...

  7. #2387
    Member Nguyễn Mạnh Quốc's Avatar
    Join Date
    25-03-2011
    Posts
    4,374

    Nghe chuyện Hà nội 1945 và chuyện Saigon sau này 1976; vụ án nhà thờ Vinh Sơn..

    ngày 06 - 08 - 2017... đă lâu ngày không ghé lại thư mục thân yêu ;.. Hà nội .....

    để trả lời các bạn ở Âu châu.. về các vụ ám sát giết người ...vè thời kỳ 1975 -1976..... thời này th́ Saigon, theo như dân chúng sau này kể lại th́ tuy không giới nghiêm mà là chặn dường đẻ khám xét.. bảo vệ an ninh.. v́ hăy c̣n "..nguỵ.." lẩn trốn..

    Nổi đ́nh đám nhất là vụ án nhà thờ Vinh Sơn theo như nhà nước loan báo ;.. các bạn có thể t́m thấy ở Wikipedia tiếng Việt để đọc và hiểu thêm. Wikipedia : Vụ án nhà thờ Vinh Sơn

    Dàn dựng ra những scenario gây cấn này c̣n hơn xem điếp viên 007 hay xem phim của Alfred Hitckoch. ./.

  8. #2388
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 13

    ● Tại sao Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa?

    Sau ngày ḥa b́nh lập lại, Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa, lư do sâu xa được ghi trong bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường: "Đêm ấy, trong cuộc tâm t́nh nghệ sĩ của Văn Cao với những ngư phủ trên phá Tam Giang, tôi muốn biết một điều mà với tôi là một bí ẩn thuộc về đời ông:

    - Tại sao sau kháng chiến chống Pháp, anh vẫn vẽ, vẫn làm thơ, nhưng người ta không nghe anh hát nữa?

    - Hồi nhận lời viết Tiến Quân Ca, tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài hát, mà là một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viện biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng, vào một thành phố để giết một người. Tôi đă làm xong việc ấy. Đó là chiến tranh và căm thù, đơn giản thôi. Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đă trở lại căn nhà ấy, thấy c̣n lại một gia đ́nh mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công hay phải nói một điều ǵ khác? Nên tôi im lặng, và chỉ viết nhạc-không-lời.

    Giữa tiếng sóng ồ ạt vỗ quanh tàu, dưới đêm sao, tôi vẫn nghe rơ giọng nói dịu dàng của Văn Cao, sâu thẳm đến lạnh người, như thể là tiếng nói đến từ một biển khác. Trời ơi, tôi đă dại dột chọc tay vào vết thương. Nhưng tôi nghĩ, chỉ có những nghệ sĩ lớn mới nuôi cho ḿnh những bi kịch như vậy"[54].

    Nhiệm vụ của Văn Cao đă được Nhất Linh làm sống lại với nhân vật Ngọc trong Gịng Sông Thanh Thủy. Vết thương Văn Cao cũng là vết thương Nhất Linh. Nhất Linh viết Gịng Sông Thanh Thủy hai năm trước khi tự vận, như một chúc thư văn học và chính trị gửi lại đời sau: cuối cùng trên ḍng Xích Bích, Tào Tháo, Chu Du không c̣n nữa, chỉ c̣n lại tiếng thơ Tô Đông Pha, chỉ c̣n lại tiếng thơ, cho muôn đời...

  9. #2389
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 13

    ● Lưu Hữu Phước và Tiếng Gọi Thanh Niên

    Viết về Tiến Quân Ca của Văn Cao, không thể không nhắc đến Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước, bài quốc ca của miền Nam trong thời kỳ chia đôi Nam Bắc.

    Lưu Hữu Phước sinh ngày 21/9/1921 tại Cái Răng, Cần Thơ. Học nhạc từ nhỏ. 1940, ông ra Hà Nội học y khoa. Khoảng 1940-44, Lưu Hữu Phước nổi tiếng với những ca khúc lịch sử như Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hát Giang trường hận, Hồn Tử sĩ, Hờn Sông Gianh, Hội Nghị Diên Hồng ... và một loạt hành khúc cho sinh viên như: Ta cùng đi, Tiếng gọi thanh niên, Bài hát của thiếu sinh, Bài hát của thiếu nữ Việt Nam, Việt nữ gọi đàn ...

    Sau Cách Mạng Tháng Tám, Lưu Hữu Phước sáng tác Khúc khải hoàn, Ca ngợi Hồ chủ tịch ... Ca khúc của Lưu Hữu Phước có ảnh hưởng rất lớn đối với thanh niên từ thập niên bốn mươi đến ngày nay. Trong cuốn sách của Mai Văn Bộ tựa đề Lưu Hữu Phước con người và sự nghiệp[55] không thấy ông nhắc đến hoạt động Quốc Dân Đảng của Lưu Hữu Phước. Điều đó dễ hiểu.

    Tô Hoài kể lại, trong một dịp "học tập bảo vệ Đảng", ông nhận được lá đơn tự tố cáo của Nguyễn Hải Trừng: "thành khẩn bộc lộ thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ 1938 ở Sài G̣n, tôi đă sinh hoạt trong một tổ chức phản động là Quốc Dân Đảng. Tổ phản động này gồm ba người là: Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Hải Trừng"[56]. Việc này xẩy ra khi Mai Văn Bộ làm đại sứ tại Paris và Lưu Hữu Phước đang ở trong B, Tô Hoài đưa lá thư cho Hà Huy Giáp, lúc đó là bí thư, nhưng Hà Huy Giáp ỉm đi.

    Trong Gịng sông Thanh Thủy, đoạn Nhất Linh viết về nhân vật Ngọc (Quốc Dân Đảng) dẫn Tứ và Nghệ (Việt Minh) đến chỗ Ngọc sẽ đầu độc họ, trên đường xuyên núi rừng, phong cảnh hùng vĩ, Ngọc vừa đi vừa hát:

    "Chàng cất tiếng hát cao giọng, đi thật mau cho bước chân ăn nhịp với bài hát mà chàng cố hát thật mau:

    Hồn nước muôn năm sống cùng non nước!

    Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng,

    Dù khó thế mấy quyết cùng nhau bước,

    Làm cho vang tiếng cháu con ṇi giống Tiên Long.

    Chàng chuyển sang điệp khúc:

    Mau, mau đồng ḷng, tay cầm tay, trông cờ nước, ta đều bước,

    Tuốt gươm, thề với núi sông ...

    Hồn nước muôn năm sống cùng ...


    Bài hát ấy là của Lưu Hữu Phước, đảng viên Việt Quốc trong thời kỳ bí mật từ trong nước truyền ra, do Ninh dạy chàng. Ninh có nói là thay đổi lời đi đôi chút cho nó mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Trời bắt đầu nắng mỗi lúc một gắt; Nghệ và Tứ không biết là bài hát ǵ nhưng v́ nhịp quyến rũ nên cũng cố bước theo cho đúng nhịp"[57].

    Chính Nhất Linh đă sửa lời bài Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước cho mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Lời gốc của Lưu Hữu Phước như sau:

    Hồn nước vẫn sống với trời, non, nước

    Ngày nay, ta noi tấm gương anh hùng

    Dầu khó thế mấy, quyết cùng nhau bước!

    Làm cho rơ biết cháu con ṇi giống Tiên Long!


    Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là Nhất Linh xác nhận: Lưu Hữu Phước theo Quốc Dân Đảng.

    Sự kiện này đưa đến một số nghi vấn khác: trong thời kỳ kháng chiến, Lưu Hữu Phước sáng tác rất ít, tại sao? Lưu Hữu Phước thực sự là người của Việt Quốc hay Việt Minh? Nếu ông là người cộng sản, tại sao Tiếng Gọi Thanh Niên lại được chính phủ Nguyễn Văn Xuân (của Bảo Đại) chọn làm quốc ca? Tiếng Gọi Thanh Niên sáng tác tháng 4/1941. Ngày 2/6/1948, bản nhạc này được chính phủ Nguyễn Văn Xuân chọn làm quốc ca, và trở thành quốc ca của Việt Nam Cộng Hoà, sau 1954.

    Sau ngày thống nhất đất nước, Lưu Hữu Phước, Bộ trưởng Thông tin văn hoá, kư ba Thông tri cấm lưu hành sách báo "phản động". Bản đầu, số 218/CT. 75, ngày 20/8/75, trong có danh sách 130 tác giả bị cấm toàn bộ, với những tên tuổi như: Hồ Hữu Tường, Nguyễn Vỹ, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Tạ Tỵ, Doăn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Vơ Phiến, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Mặc Đỗ, Nguyễn Mạnh Côn, Chu Tử, Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Nhă Ca, Tuư Hồng, Phan Nhật Nam...[58]

    Tất nhiên Lưu Hữu Phước chỉ thi hành chính sách của Trung Ương. Nhưng người nghệ sĩ, khi kư những công hàm huỷ diệt tác phẩm văn học của nửa phần đất nước, hẳn không thể không nghĩ đến hậu quả. Riêng đối với người dân miền Nam hơn 20 năm gắn bó với Tiếng Gọi Thanh Niên, Lưu Hữu Phước đáp lại những ân t́nh của họ bằng một văn bản tiêu diệt tự do tư tưởng.


    Còn tiếp ...

  10. #2390
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 13

    ● Kháng chiến và văn nghệ sĩ

    Trong hoàn cảnh cực kỳ phân hoá giữa Việt Minh và Quốc Dân Đảng, tại sao văn nghệ sĩ lại theo Việt Minh?

    V́ phần lớn không làm chính trị.

    Tạ Tỵ kể rơ các chặng đường từ bước đầu:

    "Thủ đô Hà Nội chết cứng trong máu lửa. Cuộc giao tranh gay go ngay từ phút đầu giữa Trung Đoàn Thủ Đô, Tự Vệ Thành và quân đội Pháp. Phần lớn dân chúng đă tản cư. Mọi nhà đều đục tường thông qua nhau, theo lệnh của chính phủ từ mấy tháng trước. (...) Những con đường có cây to được đốn ngă dùng làm chướng ngại vật cản đường xe bọc sắt của Pháp. Không khí trước ngày chiến tranh thật nghẹt thở. Vợ con tôi đă theo ông bà nhạc tản cư về quê cả tháng nay. Gia đ́nh phía tôi cũng vậy. Tôi ở một ḿnh vừa sáng tác vừa vẽ tranh cổ động"[59].

    Và ông t́m cách ra khỏi Hà Nội, đi kháng chiến:

    "Tôi chọn lối xuyên cửa ô Cầu Dền, qua làng Hoàng Mai rồi men theo bờ ruộng ra đường số 1, con đường xuyên Việt. Tôi chợt nghĩ đến Phạm Duy, không biết Duy ra khỏi Hà Nội bằng ngả nào? Sau này khi gặp lại nhau trong kháng chiến, Duy mới cho biết đă ra khỏi Hà Nội qua ngả Khâm Thiên, tức phường Dạ Lạc. Văn Cao có báo cho Duy biết nhưng Duy không tin".

    T́m liên lạc với tổ chức:

    "Tôi ăn Tết với gia đ́nh xong rồi đến làng Bài Trượng thăm vợ con, trước khi lên đường đi Việt Bắc (...) Từ phủ Đoan Hùng, tôi quay về Phú Thọ, mong gặp anh em quen biết có thể giới thiệu ḿnh với một cơ quan nào đó. Người th́ đông, anh em chẳng thấy ai. Nản quá, tôi cũng định quay về quê nhà, bỗng gặp Phạm Duy từ trong một quán cà phê đi ra. Nói chuyện hồi lâu, Duy cho biết sẽ đi Yên Bái.
    Nếu tôi muốn đi cùng, sáng mai đến chỗ này chờ. Tôi bằng ḷng, hỏi Duy có phương tiện ǵ không? Duy trả lời không, sẽ đi bộ. Ngay buổi chiều hôm đó, tôi quay về chỗ tá túc đêm qua, bán chiếc xe đạp cho người chủ nhà để lấy tiền tiêu. Sáng hôm sau, tôi đeo ba lô đến nơi hẹn. Chờ một lúc, tôi thấy Duy đội mũ ca-lô, mặc bộ ka ki Mỹ, đeo cây đàn trên vai, c̣n một tay xách chiếc túi đựng quần áo. Chúng tôi cứ men theo đường xe lửa đă bóc hết đường rầy đi ngược lên. Duy không chịu đeo chiếc túi vải lên vai, vừa đi vừa ném về phía trước. Đến nơi, cúi xuống nhặt lên ném nữa. Tôi hỏi:

    - Sao làm vậy?

    Duy nói:

    - Đeo mệt xác, ném khoẻ hơn!

    Trong lúc đi đường. Duy nói về chuyện mấy tháng trước. Sau khi ra khỏi Hà Nội, Duy t́m đường lên Vĩnh Phúc Yên, gia nhập đoàn Văn Nghệ Giải Phóng, rồi Việt Tŕ, bây giờ là Phú Thọ. Duy nói về dự tính tương lai với những bản dân ca. Duy lúc này đă nổi tiếng, chẳng những về hát, mà c̣n ở sáng tác nhưng ca khúc như Cô hái mơ, Gươm tráng sĩ, v.v...

    Năm ấy, chúng tôi mới có 24 tuổi. Đi cùng với Duy rất vui v́ Duy hay nói tục. Nhưng sau đó, lại trầm ngâm, có lẽ, trong đầu, Duy đang có dự tính nào đó, có thể, một ca khúc sắp ra đời. Sau cặp kính trắng, đôi mắt Duy long lanh như được chiếu dọi bởi luống ánh sáng kỳ dị. Đến Yên Bái, một thành phố đă tiêu thổ 95%, tôi gặp thêm Văn Cao. Cũng từ nơi đó, tôi và Duy chia tay. Tôi ở lại Yên Bái chơi với Văn Cao vài ngày. Mỗi chiều chúng tôi rủ nhau đi uống rượu, loại rượu đế nặng. Văn Cao trông vẫn thế, sắc mặt tai tái, đôi mắt thật sắc với nụ cười ch́m lắng. Có khác chăng chỉ là bộ bà ba nâu, bên ngoài phủ thêm chiếc trấn thủ"[60].

    "Văn Cao nổi tiếng từ tiền chiến, trong kháng chiến và măi măi, mọi người đều nghe nhạc của anh. Nhưng anh, con người đa tài, ngoài nghệ thuật c̣n làm nhiều thứ khác.

    Tôi lại chia tay với Văn Cao cũng ở Yên Bái. Văn Cao ngược Lào Cai để đi làm công tác t́nh báo biên giới được ngụy trang bằng một pḥng ca nhạc. Phạm Duy có lên Lào Cai và hát ở pḥng trà này. Bài Bên Cầu Biên Giới của Duy được sáng tác tại đó."[61]


    Còn tiếp ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 4 users browsing this thread. (0 members and 4 guests)

Similar Threads

  1. Chuyện nghe được từ ngướ không quen
    By Dac Trung in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 10-10-2012, 12:25 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-05-2012, 10:37 PM
  3. Bắt Buộc Phải Nghe
    By Dean Nguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 19-01-2012, 08:34 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 31-07-2011, 05:33 PM
  5. Tưởng Niệm Tháng 4 Đen Nghe Nhạc Lính VNCH
    By Camlydalat in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 18
    Last Post: 25-04-2011, 06:28 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •