Page 255 of 304 FirstFirst ... 155205245251252253254255256257258259265 ... LastLast
Results 2,541 to 2,550 of 3035

Thread: Nghe Chuyện Hà Nội

  1. #2541
    Tran Truong
    Khách

    Phan Khôi (1887-1959) _ Chương 21

    ♦ Ba năm ở ẩn Cà Mau 1922-1925

    Một dấu hỏi: Tại sao khoảng 1921-1922, Phan Khôi ở Hà Nội, có việc làm: dịch Kinh Thánh và viết báo Hữu Thanh[91] và Thực Nghiệp Dân Báo, lại bỏ vào Sài G̣n? Vậy Phan Khôi vào Sài G̣n là có "nhiệm vụ" ǵ, hay chỉ t́nh cờ? Nhất là vào Sài G̣n rồi phải trốn xuống Cà Mau. Về việc này, Phan Thị Nga viết: "Gặp hồi chưa có việc ông dùng th́ giờ rỗi để học, ông ở tại đồn điền của một bạn ở Cà Mau, đồn điền ấy hẻo lánh quá, không có ai nói chuyện cho vui, ông vụt cầm bút viết bức thư thứ nhất, bức thư chữ Tây cho ông Dejean.
    Rất ngạc nhiên và khen bức thư của ông viết trôi chảy, ông Dejean bảo ông có thể dạy ông Phan trong 6 tháng, ông ta có thể viết được báo chữ Tây. Từ đó về sau ông Phan thường dịch các bài của ông Dejean viết ở các báo Tây.

    Lối học của ông Phan hồi ấy là gặp chữ chi khó là hỏi, hỏi rồi tra tự vị lại cho chắc chắn và biên vào sổ con, gặp bài ǵ thích th́ dịch"[92].
    Phan An, Phan Cừ viết:"Do một sự việc ǵ đó, ông bị Pháp t́nh nghi và đe doạ, nên phải chạy về Cà Mau ẩn náu nơi nhà người bạn làm chủ đồn điền"[93].

    Phan Thị Mỹ Khanh viết: "Rồi nhân có một vụ việc ǵ đó xẩy ra ở thành phố, ông bị mật thám t́nh nghi, đe dọa, phải chạy xuống Cà Mau tạm trú tại nhà một người quen thân làm chủ đồn điền tại đây. Thời gian ở ẩn ăn không ngồi rồi khá lâu, mất đến gần 3 năm, nhưng cha tôi biết tận dụng nó để làm một việc có ích là tiếp tục học tiếng Pháp bằng cách trao đổi thư từ, bài tập qua đường bưu điện với một nhà báo người Pháp ở Saig̣n, tên là Dejean..."[94].

    Những thông tin trên đây đưa đến một số câu hỏi:

    1- Nếu không có nhiệm vụ ǵ, tại sao đang có việc ở Hà Nội, Phan Khôi lại vào Sài G̣n?
    2- Phan làm ǵ mà bị Pháp t́nh nghi, phải chạy xuống Cà Mau ở ẩn trong ba năm?
    3- Phan vào Nam, phải chăng v́ đă nhận được thông điệp của Phan Châu Trinh từ Pháp? Vào Nam để bắt liên lạc với Nguyễn An Ninh? Người đầu tiên trong nhóm Ngũ Long vừa từ Paris về nước năm 1922, đang sửa soạn phát hành báo La Cloche fêlée? Việc ở ẩn ba năm tại Cà Mau, trong bài chỉnh huấn ông sẽ giấu chính quyền cộng sản.
    4- Việc Phan Khôi học tiếng Pháp với Dejean de La Bâtie, chứng tỏ ông có liên lạc với nhóm Chuông Rè[95].
    Trong thời gian ở ẩn tại Cà Mau 1922-1925, không những Phan Khôi học tiếng Pháp hàm thụ với Dejean de la Bâtie mà c̣n tiếp tục việc dịch Kinh Thánh. Sau này, có thể người ta đă chắp nối hai sự kiện: quen với Tây (Dejean de la Bâtie) và làm việc cho Mỹ (dịch Kinh Thánh cho Hội Tin Lành) để xuyên tạc Phan Khôi làm bồi Tây, bồi Mỹ.

    ♦ 1925, viết sách về Phan Châu Trinh

    Tài liệu 241 của sở mật thám Nam Kỳ, mật báo của P. Arnoux ngày 1/6/1926, gửi thống đốc Nam Kỳ và Phủ toàn quyền Hà Nội, ghi:

    "Tú tài Phan Khôi mà tôi đă báo Ngài cách đây mấy tháng như là một đồ đệ của Phan Châu Trinh, đă viết một tác phẩm mang tên đơn giản là "Phan Châu Trinh" tôi đă có trong tay tập sách đó với 94 trang đánh máy (...) Kèm theo tiểu sử của Phan Châu Trinh, tác phẩm này chứa đựng các b́nh luận về đời sống chính trị, tư tưởng, các dự án và công việc tuyên truyền ở Đông Dương, ở Pháp và ở nước ngoài, những quan điểm chính trị của con người được dân An Nam coi là nhà đại ái quốc. Nếu được in ra, chắc chắn sách này sẽ được hoan nghênh và kích động những người An Nam đọc chống đối chính phủ bảo hộ (...)

    Phan Châu Trinh đă cho gọi tú tài Phan Khôi vào Nam Kỳ với ư đồ cho y viết tác phẩm này và nhiều tác phẩm chính trị khác. Nhưng t́nh h́nh sức khoẻ không cho ông ta thực hiện hoàn toàn ư đồ đó. Phan Khôi đang soạn thảo ra một tác phẩm theo dạng đó với những thông tin do các bạn cũ thân cận của Phan Châu Trinh cung cấp, trong đó có Huỳnh Thúc Kháng. Phan Khôi tính dựa vào nhà in "Bảo Tồn thư xă" đang chuẩn bị ra đời để xuất bản tác phẩm của y (...) Phan Khôi ở nhà họa sĩ Ky đường Martin des Pallières. Y quan hệ thường xuyên với Nguyễn Pho và Dejean de la Bâtie"[96].

  2. #2542
    Tran Truong
    Khách

    Phan Khôi (1887-1959) _ Chương 21

    Theo mật báo này, ư đồ tiếp tục sự nghiệp của Phan Châu Trinh khá rơ. Từ 1925 đến 1928, Phan Khôi viết cho Thần Chung, Đông Pháp, Văn Học ở Sài G̣n và gởi bài cho Đông Tây ở Hà Nội. Hiện nay chưa in sưu tập các bài Phan Khôi viết trong thời gian này. Đây là giai đoạn Pháp đă b́nh định nền cai trị, với những yếu tố quan trọng:

    - Đám tang vĩ đại của Phan Châu Trinh, mà Phan Khôi đă tham gia tổ chức và viết bài Hiệu triệu quốc dân.
    - Phan Bội Châu bị bắt, nhưng Pháp không áp dụng án tử h́nh, xử vắng mặt trước đó, chỉ đem về quản thúc tại Huế: về việc này, Nguyễn Thế Truyền đă góp phần quan trọng, cổ động trên báo La Paria và vận động Hội Nhân Quyền tại Pháp.
    - Sự tung hoành của ng̣i bút Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường trên các báo La cloche fêlée và L'Annam, tại Nam Kỳ.
    - Sự vận động của Phạm Quỳnh qua các bài diễn thuyết tại các trường lớn, trong chuyến đi Pháp 1922 dẫn đến việc Pháp cải cách giáo dục: bỏ ư định Pháp hoá người Việt (thay chữ Hán bằng chữ Pháp). Lần đầu tiên mở cấp sơ học ở Trung và Bắc, năm 1924, dậy tiếng Việt cho học tṛ từ nhỏ - Sẽ nói rơ hơn trong chương Vụ án Nam Phong.
    Dường như những yếu tố quan trọng này đă khiến Phan Khôi thấy sức mạnh của ng̣i bút, ông chuẩn bị bước vào giai đoạn ṇng cốt: Phụ Nữ Tân Văn.

    ♦ 1928-1932: Thời kỳ Phụ Nữ Tân Văn.

    Từ năm 1928 đến 1932, ng̣i bút Phan Khôi tả xung hữu đột trong tất cả các "mặt trận" tranh đấu xă hội và văn hoá. Hầu như ông chỉ ở trong Nam, thỉnh thoảng có viết bài cho báo Bắc, nhưng Nam Kỳ vẫn là đất chính. Lập luận đấu tranh dựa trên khí giới: phê b́nh.

    1928: Phê b́nh Trần Huy Liệu trên báo Đông Pháp. Đặt vấn đề: Phải viết sử cho đúng.
    1929: Phê b́nh Khổng Giáo ở Thần Chung. Tranh đấu nữ quyền và Đ̣i hỏi phải viết tiếng Việt cho đúng trên Phụ Nữ Tân Văn.

    1930: Tranh luận với Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim trên Phụ Nữ Tân Văn.
    1931: Phê b́nh cuốn Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh trong bài Cái cười của con rồng cháu tiên trên PNTV. Đây là bài phê b́nh văn học đầu tiên viết theo lối hiện đại.
    1932: Công bố Một lối "thơ mới" tŕnh chánh giữa làng thơ và bài T́nh già, cả hai được coi là bản tuyên ngôn của Thơ Mới, trên Tập văn mùa xuân, báo Đông Tây, rồi PNTV.

    Tư tưởng và phong cách Phan Khôi được xác định trong thời kỳ Phụ Nữ Tân Văn, vừa cùng ḍng chẩy với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, trong việc dịch thuật, giới thiệu tư tưởng Tây phương và đặt nền móng quốc ngữ bằng cách phát triển từ vựng, nghiên cứu tiếng Việt. Lại vừa đối lập với hai vị học giả này, trong cách đưa tinh thần phản biện vào triết học, sử học, văn học và xă hội học.

    ♦ Phan Khôi và cộng sản

    Khi lên án Phan Khôi, người ta thường dẫn chứng rằng ông đă nói hoặc viết câu này câu kia chống Đảng, chống Bác, là sai cả. Thực ra Phan Khôi chẳng coi cộng sản ra cái ǵ, ông chống cái dốt, cái độc tài, cái thần tượng hoá, và cái ngu dân, từ trước khi có Bác và Đảng viết hoa. Ngay từ năm 1930, khi cộng sản mới nhen nhúm ở Việt Nam, ông đă viết mấy bài về cái ngu và cái dốt của họ: như bài Quân cách mạng đời nay[97] nói về việc ông tướng cách mạng Trần Đại Lộc, dơ tay lên trán đỡ đạn; bài Quốc ngữ của bọn cọng sản[98] nói về việc cộng sản muốn sửa chữ: Pháp viết là Fáp, ǵ viết là ź, đ viết là d. Ư ông: Nếu chỉ muốn thay đổi quốc ngữ th́ cũng chẳng sao, nhưng họ lại chủ trương đấu tranh giai cấp mới bậy.

    B́nh sinh, ng̣i bút Phan Khôi không sợ ai bao giờ: Năm 1906, ông viết đơn kiện triều đ́nh v́ thi cử gian lận. Năm 1928, ông viết bài Cái dốt của triều đ́nh Huế[99] đại ư nói: Làm Hán Việt từ điển, mà không biết từ điển với tự điển khác nhau như thế nào[100].
    Năm 1928, bàn về việc cấm sách, ông viết: Ở thế kỷ hai mươi, đâu đâu người ta cũng hô lớn nào tự do, nào tôn trọng quyền ngôn luận, quyền xuất bản, mà lại có cái chuyện cấm sách mới lạ. "Vậy th́ chúng tôi viết đây để làm chi? (...) Một cuốn sách không cấm th́ người ta coi như thường, không chú ư. Đến cấm đi một cái, th́ hết thẩy ai nấy đều chú ư vào nó. Cấm đi, là muốn cho người ta đừng đọc, mà không ngờ lại làm cho người ta càng đọc! (...) có nhiều cuốn sách hiển thánh rồi. Việt nam vong quốc sử và Hải ngoại huyết thư đă hiển thánh hai mươi năm nay (...) Không có cái thú ǵ bằng cái thú trong lúc trời mưa, đóng cửa cho chặt lại, rồi... đọc sách cấm! Cái thế lực của sách cấm là như vậy, c̣n cấm sách nữa thôi?...[101].

    Những lời này mà viết ngày nay th́ bị coi là nói xấu Đảng, là phản động, chẳng tờ báo nào dám in. Nhưng sự thần t́nh của một tác giả lớn là tuy Phan nói phiếm về những việc dưới thời Pháp thuộc, cách đây 90 năm, mà lại rất trúng với việc thời nay. Trong thuật ngữ văn học, người ta gọi đó là một nhà văn có tính hiện đại.
    Về chuyện cấm in, cấm sách, có một số bài của Phan Khôi, đăng trên báo Trung Lập, Sài G̣n, 1930, được Lại Nguyên Ân sưu tầm. Nhưng khi in thành sách, gia đ́nh tự kiểm duyệt bỏ đi. Bản trên mạng lainguyenan.free.fr đầy đủ hơn.

    Trong số những bài bị bỏ, có bài Khoái cho ông Mussolini[102] v́ nội dung khen Mussolini nên bị loại, oan. Việc khen Mussolini, năm 1930, chẳng đáng xấu hổ, mà phải cắt, v́ lúc ấy, bộ mặt trái của đảng Phát-xít chưa được thế giới biết đến. Phan khen cái ǵ? Phan khen Mussolini đă cấm tiệt thói ăn mày: khi nước Ư có nơi bị động đất, gần 2000 người chết, vậy mà Mussolini cấm không được lập hội này hội kia xin tiền. Gần đây nước Nhật vừa động đất, vừa sóng thần, vừa bể ḷ nguyên tử, mà họ có ngửa tay xin tiền ai đâu? Mussolini chẳng được cái nết ǵ, nhưng ít ra cũng được cái nết dạy dân không đi ăn mày. Mà cái nết ấy, dân ta, hiện nay đến cả lănh tụ, cũng c̣n đang cần phải dạy. Phan Khôi hiện đại là ở chỗ đó.

    Bài "Hơn hai trăm năm c̣n thúi" cũng bị cắt, v́ ông kể chuyện ngày 11/5/1930, "có một nhà nọ đào móng đặng xây nhà, trong khi đào, phát lộ ra một cái quan tài xưa coi bề ngoài c̣n chắc. Người ta bèn mở ra xem thấy thi thể đă nát rồi, chỉ c̣n có bộ xương và quần áo. Quần áo cái dáng vẫn tươi tốt, nhưng khi động tới liền hoá ra tro. (...) Thế nhưng lạ một điều là lúc dỡ ra, hơi hám xông lên vẫn c̣n thú nực thúi nồng (...) Vậy mới biết giống người ta là giống thúi hơn hết thẩy mọi loài (...) Cái thúi hai trăm năm c̣n chưa mấy chút; có cái thúi đến muôn năm, là kẻ "di xú vạn niên" kia"[103].

    Bài này chẳng hề nói động đến ai, chỉ nói chuyện... đào mả, tuyệt không chạm huư, mà người ta cũng sợ "nhạy cảm" phải cắt đi. Ư Phan Khôi: những kẻ nhất thời "vàng ngọc dát đầy, tiền hô hậu ủng" nhưng chả biết mai sau thế nào, có "di xú vạn niên" chăng? Ví như Tần Thủy Hoàng đốt sách? Thời ấy có mấy ai đọc sách, mấy ai biết chuyện? Nhưng bọn nhà văn thường nhớ dai và bênh nhau xuyên thế kỷ. Đụng đến sách vở, th́ hậu quả khó lường.

    C̣n bài Thúi thây bị cắt là đúng lắm, v́ Phan dám đụng tới thây ông Lê Ninh. Từ 1930, Phan đă chẳng coi ông thánh này ra ǵ: "An Nam ta hay mắng những người biết ăn mà không biết làm là "đồ thúi thây". Kỳ thiệt An Nam ta thuở nay có mấy ai mà thây bị thúi bao giờ. Duy thấy bây giờ cái thây ông Lê Ninh nước Nga bị thúi đó thôi. Việc đời hay tréo nhau là vậy, ông Lê Ninh lại là người ăn ít mà làm nhiều!
    Không biết hồi họ ướp xác ông thế nào mà ngày nay đến nỗi thúi ra. Cứ theo tin mới đây th́ xác ấy không thể để được nữa mà phải thiêu ra tro. Nếu vậy th́ ra khoa học ngày nay lại dở hơn ngày xưa.

    Ai có tri thức khá một chút, há không biết bên Ai Cập đời xưa có cái thuật ướp xác để lâu kêu là "momie" hay sao? (...) Xứ Nga lạnh hơn Ai Cập, sao xác ông Lê Ninh lại thúi? (...) Đến như xứ An Nam ḿnh, thuộc về ôn đới, khí hậu điều ḥa, có lẽ giữ xác được lâu mà không thúi chăng? Song ngặt v́ An Nam ta lại không có cái xác nào đáng ướp hết; cái thây nào cũng đáng để cho thúi quách hết thẩy"[104].
    Bạn đọc ngày nay phải phục Phan Khôi là tiên tri!
    Những việc ông viết cách đây hơn 80 năm mà cứ như bây giờ. Văn học gọi đó là tính hiện đại.



    Còn tiếp ...

  3. #2543
    Tran Truong
    Khách

    Phan Khôi (1887-1959) _ Chương 21

    ♦ Phê B́nh Lănh đạo văn nghệ và Nắng Chiều

    Thời kỳ NVGP, Bài Phê b́nh lănh đạo Văn Nghệ là tác phẩm tiêu biểu. Phan Khôi vẫn "ngựa quen đường cũ", xử sự như dưới thời phong kiến, nghĩa là nghĩ sao viết vậy. Ông kê khai toạc hết những nét chính trong đời sống văn nghệ: kiểm duyệt lời nói, chữ viết, cấm phê b́nh, chỉ đạo sáng tác, đàn áp nhà văn, thánh hóa lănh tụ, bè phái văn nghệ.

    1- "Tôi muốn nói sự thực"- Nhưng người ta bảo: "có những sự thực không nên nói".

    2- "Tôi muốn phê b́nh"- Nhưng người ta bảo, "phê b́nh nội bộ th́ được, không nên viết lên báo, bên địch chúng thấy chúng sẽ xuyên tạc"

    3- Về việc "giáo dục sáng tác": "Nhược bằng bắt hết mọi người viết, phải viết theo lối với ḿnh th́ rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết". "Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu!"

    4- Về sự đàn áp nhà văn: "Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính trị tài t́nh lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa những người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đă thành công".

    5- Về việc tôn sùng lănh tụ: "Tôi c̣n nhớ có vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ Người viết hoa, lấy lẽ rằng chữ Người viết hoa chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong chiêm bao, chiêm bao thấy ḿnh đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê mỗ tố cáo ông Nguyễn mỗ trước ngai vàng: "Trong phép viết chỉ có chữ nào thuộc về Hoàng thượng mới phải đai, thế mà tên Nguyễn mỗ viết thư cho bạn dám xài những chữ không phải thuộc về Hoàng thượng. Nhân may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là ḿnh đang ngồi ở trong pḥng họp hội Văn nghệ".

    6- Về tính gian lận trong việc chấm giải thưởng văn học 54-55: "Cả ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban chung khảo. Nếu ở trong ban chung khảo mà thôi c̣n khá, thử điều tra lại hồ sơ, th́ ba ông c̣n ở ban sơ khảo nữa, sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến xưa, tuy có ám muội ǵ bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng. Một người nào có con em đi thi th́ người ấy có được cắt cử cũng phải hồi tỵ, không được chấm trường. Bây giờ đến cả chính ḿnh đi thi mà cũng không hồi tỵ, một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đă đổi mới, đă liêm chính cả rồi, một lẽ trắng trợn v́ thấy mọi cái miệng đă bị vú lấp".
    Phê b́nh lănh đạo văn nghệ trở thành kim chỉ nam cho các nhà văn trên con đường đ̣i tự do tư tưởng. Dưới cái tựa: Phê b́nh lănh đạo văn nghệ, Phan Khôi phê b́nh cả lănh tụ tối cao Hồ Chí Minh, điều không thể chấp nhận được trong xă hội cộng sản.

    C̣n một tác phẩm nữa, hầu như không ai biết, đă bị chôn vùi, đó là tập truyện ngắn Nắng chiều. Vào lúc "dầu sôi lửa bỏng", toàn bộ NVGP đă bị đóng cửa được một năm, đang chờ lệnh của Đảng, Phan Khôi đem tập Nắng chiều đến Hội Nhà Văn để in. Trong bài Tư tưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi, Đoàn Giỏi viết:
    "Tháng 12/1957, Phan Khôi đưa đến nhà xuất bản Hội Nhà Văn một xấp bản thảo dầy, bên ngoài đề hai chữ "Nắng chiều"[105]. Mượn giọng đả kích, để công bố cho hậu thế biết nội dung tác phẩm cuối cùng của Phan Khôi, Đoàn Giỏi đă bị trừng phạt như một thành viên NVGP.

    Nắng chiều, gồm những bài bút kư và tạp văn viết trong kháng chiến, và mấy bài viết sau 1954: Cầm vịt, Tiếng Chim, Cây Cộng sản, Thái văn Thu, Chuyện ba ông vua Càn Long, Quang Trung và Chiêu Thống, Giới thiệu Nguyễn Trường Tộ.

    Đoàn Giỏi đă giới thiệu từng văn bản một: Truyện Thái văn Thu chống lại bạo lực cách mạng và sự đàn áp NVGP.
    Chuyện ba ông vua... đả kích chế độ phong kiến ngày nay.
    Bài Nguyễn Trường Tộ so sánh chế độ hiện hành với những triều đại phong kiến trước.
    Riêng hai bài Cầm vịt và Tiếng chim, Phan Khôi "đánh vào vấn đề căn bản của chủ nghiă Mác-Lê Nin", để xác định: Xă hội không có đấu tranh giai cấp. Của ai người nấy ăn. Vấn đề đấu tranh giai cấp chỉ là kiểu ŕnh phần ăn của kẻ khác.
    Đoàn Giỏi trích một đoạn trong bài Tiếng chim của Phan Khôi: "Một lần ở Cẩn Nhân, tôi ngồi nơi nhà sàn, thấy hai con quạ ŕnh bắt con gà con, một con bắt được bay ra đứng ở bờ ruộng, xé con gà ra ăn; c̣n con kia bị gà mẹ chống cự, bắt không được, cũng bay ra đứng cạnh con quạ thứ nhất, nó nh́n sững và đi đi lại lại, rồi cũng bay đi tuốt, nó không hề nói: "Mầy phải cho tao với!"

    Đoàn Giỏi giải thích như sau: "Vấn đề thứ nhất Phan Khôi đặt ra là không có người bóc lột người. Vấn đề thứ hai là của ai người ấy ăn. Cho đến thứ quạ kia c̣n biết giành giật cái miếng không phải của nó là không ổn, và không hề nói: Mầy phải chia cho tao với"
    Bài thứ nh́ Cây Cộng sản được giới thiệu khá kỹ, Đoàn Giỏi viết: "... Cây Cộng sản, ngay câu đầu, Phan Khôi đă chỉ ngay vào Việt Bắc, quê hương cách mạng:

    "Có một thứ thực vật nữa cũng như sen nhật bản, ở xứ ta trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu th́ tôi chưa thấy chỉ thấy trong mấy tỉnh Việt Bắc không chỗ nào là không có". Đầu tiên Phan Khôi thấy nó rải rác mấy nơi ở tỉnh Phú Thọ, và nhiều nhất là ở Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nó mọc trên thị trấn bị ta phá hoại "như rừng, ken kít nhau". Nơi gọi là Cỏ Bù-xít v́ nó có mùi hôi như con bọ xít, nơi gọi là Cây Cứt lợn, nơi gọi là Cây chó đẻ. "Tên đều không nhă tí nào hết" thứ cây ấy những người có học không gọi bằng Cây Cứt lợn dại, mà gọi bằng Cây Cộng sản".[106].

    Rồi Đoàn Giỏi kể tiếp về gốc gác cái tên này: Phan Khôi bịa ra là trước kia xứ ta không có cây này, người Pháp đem đến giồng ở các đồn điền cà phê, cao su, rồi chẳng bao lâu nó lan ra, không diệt được, t́nh trạng này bắt đầu từ những năm 1930-31, cùng lúc Đông Dương Cộng Sản Đảng bắt đầu hoạt động, "phong trào Cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là "herbe communiste", đáng lẽ dịch là cỏ Cộng sản, nhưng nhiều người gọi là Cây Cộng sản. Nó c̣n một tên nữa rất lạ..."

    Tên này là ǵ? Th́ Phan Khôi lại bịa lời một ông già Thổ: "ông nói tên nó là "Cỏ cụ Hồ". Thứ cỏ này trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lănh đạo cách mạng, th́ thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường xá đồi đống, người ta không biết tên nó là ǵ, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về th́ gọi nó như vậy".

    Tại sao Phan Khôi đem Cây Cứt lợn, cũng gọi là Chó đẻ, là Bọ xít "toàn những tên không nhă tư nào nào hết" để gọi nó là Cây Cộng sản và Cỏ cụ Hồ?"[107]
    Câu hỏi "ngây thơ" của Đoàn Giỏi chứng tỏ sự "đồng loă" của ông với tác giả Nắng Chiều. Và Đoàn Giỏi đă phải trả giá. Đây là lần cuối cùng Phan Khôi dùng ng̣i bút châm biếm của ḿnh để chống lại sự độc tài và dốt nát, mà ông đă mục kích và đả kích từ năm 1930.


    Cũng về tập bản thảo Nắng chiều, Chế Lan Viên lại một lần nữa hiện ra như một hung thần của trí thức và chữ nghiă qua sự mô tả của Đào Vũ: "Đồng chí Chế Lan Viên lúc ấy có đọc bản thảo kia", "Đồng chí Chế Lan Viên lúc ấy có phân tích nhiều mặt về những ám ư xấu xa, phản động trong những “t́m ṭi” ấy của Phan Khôi; và tỏ ư rất công phẫn. Chúng tôi cũng đồng t́nh". Vẫn theo Đào Vũ, khi "Phan Khôi nói với chị Chế Lan Viên nên về khuyên bảo anh ấy đừng đi theo lănh đạo", th́ Đồng chí Chế Lan Viên "lên tận pḥng của y cho một bữa nên thân. Những nào: Đừng cậy già mà nói láo, đây ba mươi năm nữa cũng già, đồ đốn mạt đồ hèn v.v…"[108].


    Còn tiếp ...

  4. #2544
    Tran Truong
    Khách

    Phan Khôi (1887-1959) _ Chương 21

    ♦ Những ngày tháng cuối

    Gia đ́nh Phan Khôi nhận hậu quả cuộc "đấu tranh giai cấp" khi ông đang ở Việt Bắc. Đào Vũ kể:

    "Đồng chí cùng quê với Phan Khôi ôn lại chuyện nhân dân địa phương căm thù định đến tàn phá nhà Phan Khôi từ phong trào b́nh dân (1936) và cho biết, ư định ấy măi đến sau cách mạng (sau 1945) mới thực hiện được: Những nương dâu ph́ nhiêu kia của Phan Khôi bà con nông dân đă giành lấy về tay chia nhau trồng trọt, tre nhà Phan Khôi, v́ căm thù, bà con đốn không c̣n một gốc, nhà của Phan Khôi, bà con đập lấy gạch về xây bao nhiêu hầm khắp làng để che chở cho dân làng kháng chiến trường kỳ. - Giữa Phan Khôi và nông dân địa phương từ bao lâu, đă diễn ra một cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt"[109].

    Sau Nhân Văn, Phan Khôi bị đuổi khỏi 51 Trần Hưng Đạo, Trần Duy viết: "Cũng từ dạo ấy, tôi thấy sức khoẻ của ông Phan Khôi sa sút. Có lúc thấy ông đi không vững. Có lúc thấy ông khó thở. Ông nói với tôi ông bị sốt thường xuyên, xin được đi khám bệnh nhưng không ai kư giấy giới thiệu.

    Một buổi chiều tôi đến 51 Trần Hưng Đạo th́ gặp cảnh: Một quan chức có quyền lực quát đuổi vợ chồng ông ra khỏi số nhà 51 Trần Hưng Đạo.

    Người này quát lớn:

    "Tống cổ thằng già khốn nạn này ra khỏi đây!"

    Vợ ông, bà Huệ ôm chăn màn, sách vở; ông Phan Khôi lảo đảo theo sau. Ra cổng gặp tôi, ông chào và nói:

    "Thôi, anh về đi… Buồn không cần thiết!"[110]


    Bị đuổi khỏi 51 Trần Hưng Đạo, Phan Khôi dọn về số 10 Nguyễn Thượng Hiền rồi 73 Phố Thuốc Bắc. Lâm Bích Thủy, con gái nhà thơ Yến Lan, viết về căn nhà cuối cùng này:

    "Gia đ́nh tôi ở phía dưới, giữa 5 gia đ́nh khác, kề vách là gia đ́nh cụ Khôi. Phía ngoài căn nhà cụ là chân cầu thang của hộ bà Cán, đến bể nước công cộng. Căn dành cho gia đ́nh cụ là một cái buồng khép kín, rộng chừng 9 m2, bằng 3/4 gian nhà tôi, có thể đấy là nơi thờ cúng của chủ trước. Giữa nhà tôi và nhà cụ là một cửa sổ nhỏ, to bằng bàn cớ tướng. Tôi thường ngồi cạnh cửa sổ nhà cụ giặt giũ.

    Ban đầu mới dọn về, tôi thấy ba tôi và các chú nhà thơ hay vào pḥng cụ Khôi uống trà, bàn chuyện thời sự, b́nh luận những bài thơ vừa đăng báo; bọn trẻ chúng tôi chạy vô chạy ra nhà cụ để chơi với các anh các chị con cụ, mọi người đều thân thiện, cởi mở. Thế rồi, dần dần tôi thấy có một điều ǵ đó, lung lắm. Các cô các chú không xởi lởi như trước nữa. Trong cư xử tỏ ra dè dặt, ḍ xét. Nhà cụ Khôi cứ vắng dần bóng người lớn, vắng dần tiếng trẻ. Không khí trong ngôi nhà nặng nề, xét nét, xa lạ. Tôi hỏi má tôi "tại sao vậy?".

    Bà nói nhỏ sợ người khác nghe: " Ông Khôi đang bị coi là người cầm đầu nhóm Nhân văn - Giai phẩm, con không nên vào nhà cụ, có người đang theo dơi nhà ḿnh đấy…". Tôi không hiểu Nhân văn - Giai phẩm là tội ǵ, nặng đến mức nào mà ai cũng sợ liên lụy đến như thế. Tuy không nói ra nhưng ai cũng muốn chứng minh rằng ḿnh không hề có quan hệ thân mật với gia đ́nh cụ Khôi. Họ tránh nhà cụ như thể nhà có bệnh dịch lây lan. (...) Dường như gia đ́nh cụ hiểu được điều băn khoăn của mọi người nên tế nhị lấy báo dán kín cửa sổ lại. Lâu lâu tôi thấy cụ ngang qua nhà, vẫn dáng người cao, nhưng gầy yếu hơn trong bộ đồ tây màu vàng nhạt, tóc c̣n lơ thơ vài cọng bạc trắng, ẩn sau chiếc mũ phớt màu nâu. Trên tay cụ giờ có thêm chiếc ba-toong, gặp ai cụ không nh́n, mắt hướng thẳng phía trước như chưa hề biết họ.

    Như trước đây, tôi vẫn ngồi giặt bên bể nước, cạnh cửa sổ nhà cụ. Tôi liếc nh́n cụ qua cửa sổ. Cụ ngồi trên giường, giờ cụ trầm ngâm, buồn buồn, mắt nh́n đâu đâu, tôi thương cụ quá chừng. Có lần tôi nghe cụ ngâm bằng giọng Quảng Nam: "Làm chi cũng chẳng làm chi / Dẫu có làm ǵ cũng chẳng làm sao / Làm sao cũng chẳng làm sao / Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi…"[111]


    Còn tiếp ...

  5. #2545
    Tran Truong
    Khách

    Phan Khôi (1887-1959) _ Chương 21

    ♦ Cái chết của Phan Khôi

    Phan Cừ, Phan An viết: "Ông nằm quay mặt vào tường lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng, trong sự túc trực chăm sóc của bà vợ Nguyễn Thị Huệ (...) Cỗ xe song mă màu đen quàn thi hài ông, đi sau là vợ con, cháu cùng một vài bạn hữu tiễn ông lần cuối đến nghiă trang Hợp Thiện ở phía đông thành phố Hà Nội. Trong chiến tranh, phần mộ của ông bị thất lạc"[112].

    Phan Thị Thái viết: "Mộ cha tôi được ghi dấu bằng tấm bia nhỏ mang tên: Chương Dân (...) Khoảng một năm trước khi mất, thầy tôi rất buồn. Mỗi dịp nghỉ hè về thăm thầy, tôi thường thấy người ngồi bàn viết lách hoặc đọc sách.
    Có khi nằm đọc rồi ngủ quên nhưng hai tay vẫn giữ chặt quyển sách dày cộm, hầu hết là sách chữ Hán. Hầu như thầy tôi không có th́ giờ rảnh. Sáng sáng đi vài ba đường quyền, ăn uống điểm tâm rồi ngồi vào bàn làm việc cho đến tối. Chỉ có một tuần trước khi mất, v́ quá đuối sức, người đành phải ĺa chiếc bàn và quyển sách. Gia tài lớn mà thầy tôi để lại cho chúng tôi là sách và tất nhiều các bài viết, các bài nghiên cứu về tiếng Việt và chữ Hán. Chúng tôi đă ǵn giữ tất cả trước tác của thầy tôi trong nhiều năm và sau đó đă chuyển giao cho Viện Hán Nôm để các đồng nghiệp của ông tiếp tục công việc nghiên cứu, dịch thuật"[113].

    Lâm Bích Thủy viết: "Chở linh cữu cụ là một chiếc xe có hai con ngựa kéo bị che hai bên mắt, khoảng bảy hoặc tám người, kể cả người đánh xe ngựa và ba tôi − nhà thơ Yến Lan. Nhưng điều để lại sau đám tang là sự dè bỉu và mỉa mai đối với ba tôi mà người thời bấy giờ gọi là "thằng". Sáng hôm sau, ngoài phố, họ kháo nhau bằng những câu: "Nghe nói ngoài gia đ́nh c̣n có thằng cha nhà thơ nào đó cả gan đưa đám lăo Phan Khôi". Giải thích điều này ba tôi nói: "Đó là đạo lư của người Việt Nam − Nghĩa tử là nghĩa tận"[114].

    Theo Lại Nguyên Ân, nghiă trang Hợp Thiện bị chiếm đất dần để xây nhà. Năm 1970, nghiă trang này được chuyển lên Bất Bạt. Những ngôi mộ bị dời đi, có đánh số, nhưng sau gia đ́nh không t́m lại được. Tất yếu của định mệnh? Hay là vẫn cố t́nh xoá dấu Phan Khôi?
    Được biết những năm gần đây đă có ngôi mộ của Phan Khôi ở Điện Bàn, chúng tôi hỏi nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân về việc này, qua điện thư ngày 27/7/2012, ông cho biết:

    "Chuyện mộ Phan Khôi, th́ con trai ông là Phan An Sa kể cho tôi: Năm 1959 ông mất, được chôn cất tại nghiă trang Hợp Thiện, Hà Nội. Theo anh Sa th́ mộ ở phía đông khu nghiă trang. Khu nghiă trang này, từ những năm 1960 bị lấn từng phần làm một số cơ quan, xí nghiệp như nhà máy mỳ kẹo Hải Châu, kho của mấy công ty thương mại quốc doanh, rồi phần giữa nghiă trang cũng sớm bị dùng làm băi chiếu bóng Mai Động, vv... Đến đầu những năm 1970 chính quyền Tp. Hà Nội cho chuyển toàn bộ các ngôi mộ c̣n lại ở Nghiă trang Hợp Thiện lên nghiă trang Yên Kỳ ở huyện Ba V́ (khi đó thuộc tỉnh Hà Tây), lấy đất xây thêm một nhà máy dệt.

    Theo tôi hỏi một số viên chức làm ở Cty quản lư nghiă trang Hà Nội, th́ các ngôi mộ chuyển lên chỉ được đánh số chứ không gắn bia mộ họ tên, phần họ tên ở bia mộ cũ được ghi vào sổ lưu lại Cty quản lư nghiă trang, gia đ́nh nào cần t́m phải tới xem sổ lưu ấy để xác nhận lại vị trí mộ ở nơi mới Yên Kỳ.

    Tuy vậy, các con ông PK t́m đến vị trí mộ ở Hợp Thiện theo trí nhớ th́ không thấy, đào cũng không thấy, h́nh như cũng không có hồi âm ǵ từ thông tin về số mộ đưa lên Yên Kỳ, cuối cùng đành bốc một ít đất ở nơi mà họ nhớ là nơi chôn lần đầu, đem về trong quê ở Quảng Nam chôn vào trong ngôi mộ trống, tất nhiên có khắc bia họ tên lên đấy".

    Điều mà Phan Khôi làm cho bà Cố cách đây hơn nửa thế kỷ, tức là kiện cái chế độ phong kiến, để mộ của bà cố được trở về chôn ở mảnh đất gia tiên, hiện chưa ai làm cho ông. Phan Khôi có mười con, bao nhiêu cháu? Nếu ngày nay có một sự xám hối nào đó về phía chính quyền, hẳn không phải là những lễ kỷ niệm, với những bài ca tụng vô bổ, mà là việc t́m lại hài cốt Phan Khôi trong đám mộ ở Yên Kỳ, xác định ADN, để dựng lại ngôi mộ Phan Khôi, cho xứng đáng với địa vị của một trong những nhà văn, nhà trí thức và tư tưởng hàng đầu của Việt Nam trong thế kỷ XX.


    Còn tiếp ...

  6. #2546
    Tran Truong
    Khách

    Phan Khôi (1887-1959) _ Chương 21

    Chú thích :
    [1] Phan Khôi bị cấm ở miền Bắc từ 1958 đến 1975 và sau 75, trên toàn thể đất nước. Khi chúng tôi đến gặp ông tại nhà, Tạ Trong Hiệp chỉ vào tập ronéo cao vài thước, và nói: "Tôi đă xin được của Thanh Lăng, lúc đó c̣n là giáo sư đại học văn khoa Sài G̣n đă sưu tầm những bài viết trên báo xưa, bỏ tiền thuê người đánh máy, cho sinh viên học, trong đó có khoảng 5, 6 trăm trang của Phan Khôi viết trên Phụ Nữ Tân Văn. Thế nào chúng ta cũng phải đọc và giới thiệu Phan Khôi với giới trẻ ngày nay trong nước, v́ họ chẳng biết ǵ về ông này cả! (...) Nếu tôi có can đảm viết, có th́ giờ, và tôi không đau ốm quá, th́ tôi sẽ viết về Phan Khôi, và sẽ đặt nhan đề là Phan Khôi: Người Xa Lạ". Năm 1995, sưu tập của Thanh Lăng được in lại dưới tiêu đề 13 năm tranh luận văn học (Văn Học, tp Hồ Chí Minh). 1996, cuốn Chương Dân thi thoại. 2001, cuốn Nhớ cha tôi của Phan Thị Mỹ Khanh; và 2003 Lại Nguyên Ân bắt đầu xuất bản loạt Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1928, tất cả do cố gắng của nxb Đà Nẵng.

    [2] Thu thanh 10/7/1996, phát trên RFI tháng 12/96 sau khi ông qua đời về bệnh ung thư ngày 25/10/1996 tại Paris.

    [3] Bài của Nguyễn Công Hoan không đưa vào Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận, Tạ Trọng Hiệp nhầm với bài Một nhà nho "tiết tháo": Phan Khôi của Phùng Bảo Thạch, được đưa vào, trang 75-81.

    [4] Lúc đầu Nguyễn Bá Trác làm chủ bút phần Hán Văn. Lê Dư cộng tác sau.

    [5] Tạ Trọng Hiệp trả lời phỏng vấn RFI, phát thanh những ngày 15, 22 và 29/12/1996.

    [6] Nhà thơ Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại Tá công an, trực thuộc A 25, đặc trách NVGP.

    [7] Lê Hoài Nguyên, Vụ Nhân Văn- Giai Phẩm từ góc nh́n một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành, mạng nguyentrongtao tháng 8/2010.

    [8] Bài của Trần Duy không được đọc trong buổi lễ.

    [9] Trần Duy, Tưởng niệm về Phan Khôi đăng trên Talawas ngày 18/6/2008.

    [10] Lược truyện các tác gia Việt nam, quyển II, của Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Văn Phú, Tạ Phong Châu, nxb Khoa Học Xă Hội, Hà Nội, 1972, mục từ Phan Khôi, số 50, trang 141.

    [11] Cùng với Hoàng Tích Chu và Tạ Đ́nh Bính, cha của Tạ Trọng Hiệp.

    [12] Phan Khôi, Rồng Nam, Thần Chung số 38 (2/3/1929), sưu tập Lại Nguyên Ân.

    [13] Nguyễn Đổng Chi, Quan điểm phản động, phản khoa học của Phan Khôi phải chăng là học mót của Hồ Thích? Tập san nghiên cứu Văn Sử Địa, Hà Nội, số 41, tháng 6/1958, tài liệu Talawas.

    [14] Lư với thế: Hồ Thích với Quốc dân đảng, Đông Pháp thời báo, Sài G̣n, số 807 (18/12/1928), Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1928, sưu tập Lại Nguyên Ân, trang 123-124.

    [15] Phan Thị Nga (vợ Hoài Thanh), Lối tự học của những bậc đàn anh nước ta, Hà Nội Báo, số 10 (11/3/1936). In lại trong 13 năm tranh luận văn học, tập I, Văn Học tp Hồ Chí Minh, 1995, trang 255-159.

    [16] Thơ họa "Con rùa đá” của Tế Hanh - 1957.

    [17] Phan Thị Mỹ Khanh, Nhớ cha tôi, nxb Đà Nẵng, 2001, trang 161.

    [18] Phan Khôi, Cái thói nói tiếng Lang Sa, Đông Pháp thời báo, số 733 (19/6/1928).

    [19] Báo Độc Lập số 357 (1/5/1958), in lại trong Bọn NVGP trước toà án dư luận, trang 138-139.

    [20] Thơ họa của Nguyễn Công Hoan - 1957.

    [21] Phan Thị Nga, Lối tự học của những bậc đàn anh nước ta, 13 năm tranh luận văn học, tập I, trang 255-159.

    [22] Bài in trong cuốn Chương Dân thi thoại, nxb Đà Nẵng, 1996.

    [23] Nxb Đà Nẵng, 2001.

    [24] Nhiều chỗ ghi 1905, là sai, v́ 1905 không có kỳ thi hương.
    [25] Chúng tôi dùng bản Phan Thị Nga, năm 1936. Các con Phan Khôi sau này ghi là Ưng Diễn.

    [26] Lương Thúc Kỳ, đỗ cử nhân 1900, làm quan tại Huế, theo phong trào Duy Tân, sau có dạy trường Dục Thanh, trường đầu tiên của phong trào Duy Tân, mở năm 1905 ở Phan Thiết, được ít lâu thị bị bắt. Lương Thúc Kỳ mất năm 1947.

    [27] C̣n có tên là Phan Thị Yến, cùng chồng và con chết v́ bom tháng 9/1952.

    [28] Khoa thi hương cuối, ở Bắc: 1915 và ở Trung: 1918.

    [29] Theo bản Phan Thị Nga. Các con ông ghi là Lê Hiên.

    [30] Trong hai bài: Địa vị của Thái Phiên và Trần Cao Vân trong cuộc biến ở Huế năm 1916 (Sông Hương số 7-8-9 ra ngày 12/9-19/9 và 26/9/1936) và Mấy cuộc vận động quần chúng ở nước ta (Sông Hương số 29-30-31 ra ngày 27/2- 13/3 và 20/3/1937), sưu tập Sông Hương của Phạm Hồng Toàn; Phan Khôi nói rất rơ bối cảnh những cuộc cách mạng bạo lực và phân tích sự thất bại của những phong trào này.

    [31] Là bộ trưởng Nội Vụ trong chính phủ liên hiệp lúc bấy giờ.

    [32] Là em họ Phan Khôi. Phan Bôi tức Hoàng Hữu Nam là Ủy viên Trung Ương Đảng, thứ trưởng Bộ Nội Vụ.

    [33] Nguyễn Công Hoan, Hành động và tư tưởng phản động của Phan Khôi cho đến thời kư toàn quốc kháng chiến, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958.

    [34] Do nhà xuất bản Văn Nghệ, Hoàng Cầm trách nhiệm, in tại Hà Nội, 1955.

    [35] Bản điện tử có vài chỗ sửa lại chữ của Phan Khôi, ví dụ tấn sĩ thành tiến sĩ, có lẽ không nên.

    [36] Theo Chuyện bà cố tôi của Phan Khôi, Phụ Nữ Tân Văn, số 25, 17/10/1929, in lại trong Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1929, Lại Nguyên Ân, trang 228-234.

    [37] Phan Khôi, Chuyện bà cố tôi, bđd.

    [38] Theo Chuyện bà cố tôi, bđd.

    [39] Theo truyện ngắn Ông Năm Chuột, Văn số 36 (10/1/1958), in lại trong Trăm Hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí.

    [40] Bài Đi học đi thi có tiểu tựa: Kư ức lục của một vị lăo Nho, kư tên Tú Vườn, in trên Sông Hương từ số 23 (7/1) đến 30 (13/3/1937), sưu tập Phạm Hồng Toàn.

    [41] Ngày 23/4 Ất Dậu, tức ngày 5/6/1885.

    [42] Ngày 26/9 Mậu Tư tức ngày 30/10/1888.

    [43] Đi học đi thi, bđd.

    [44] Ông Năm Chuột, bđd.

    [45] Đi học đi thi, bđd.

    [46] Đi học đi thi, bđd.

    [47] Trong bài tự truyện Lịch sử tóc ngắn đăng trên báo Ngày Nay năm 1939, Phan Khôi kể lại đầy đủ các chi tiết: Từ 1906 trở về trước, đàn ông Việt Nam vẫn để tóc dài rồi búi lại đằng sau ót thành một cái đùm. Ngoài Bắc th́ đàn bà vấn tóc, c̣n từ Huế trở vào, đàn bà cũng búi tóc, thành thử nh́n sau lưng có thể lẫn lộn đàn bà với đàn ông. Giữa lúc toàn dân đang c̣n để tóc dài, th́ vua Thành Thái đă cắt tóc ngắn, mặc đồ Tây và ông bắt cận thần phải cắt tóc. Năm 1905, vua ngự giá vào Quảng Nam, bị dân chúng chế nhạo. Năm sau, phong trào cắt tóc được Phan Châu Trinh phát động. Phan Khôi viết:
    "Mùa đông năm 1906, th́nh ĺnh ông Phan Châu Trinh đi với ông Nguyễn Bá Trác đến nhà tôi. Đă biết tin ông Phan mới ở Nhật về, tiên quân tôi chào mừng một cách thân mật với câu bông đùa này:“Cửu bất kiến quân, quân dĩ trọc!” Bấy giờ tôi có mặt ở đó, câu ấy khiến tôi phải chú ư xem ngay đầu ông Phan. Thấy không đến trọc, nhưng là một mớ tóc ngắn bờm xờm trong vành khăn nhiễu quấn.

    Ở chơi nhà tôi ba hôm, lúc đi, ông Phan rủ tôi cùng đi sang làng Phong Thử, nơi hiệu buôn Diên Phong, là một cơ quan của các đồng chí chúng tôi lúc bấy giờ mới lập được mấy tháng. Tại đó, gặp thêm ông cử Mai Dị nữa, rồi bốn người chúng tôi cùng đi thuyền lên Gia Cốc, thăm ông Học Tổn (...) Giữa bữa cơm sáng đầu tiên, khi ai nấy đă có chén hoặc ít hoặc nhiều, ông Phan mở đầu câu chuyện, nói:

    − Người đời, nhất là bọn nhà nho chúng ta, hay có tánh rụt rè, không dám làm việc. Mỗi khi có việc đáng làm, họ thường t́m cớ trách trút, có khi họ nói: Việc nhỏ, không xứng đáng. Trong ư họ, đợi đến việc lớn kia. Nhưng nếu họ đă có ư không muốn làm th́ đối với họ việc nào cũng sẽ là nhỏ cả, thành thử cả đời họ không có việc mà làm!...

    Ông Phan lúc đó gặp ai cũng hay diễn thuyết. Những câu chuyện luân lư khô khan như thế, mấy hôm nay ông đem nói với bọn tôi hoài, thành thử khi nghe mấy lời trên đó của ông, không ai để ư cho lắm, cứ tưởng là ông phiếm luận. Thong thả, ông nói tiếp:

    − Nếu lấy bề ngoài mà đoán một người là khai thống hay hủ lậu th́ trong đám chúng ta ngồi đây duy có ba anh − vừa nói ông vừa chỉ ông Trác, ông Dị và tôi − là hủ lậu hơn hết, v́ ba anh c̣n có cái đùm tóc như đàn bà.

    Cả mâm đều cười hé môi. Ba chúng tôi bẽn lẽn. Ông Phan lại nói:

    − Nào! Thử “cúp” đi có được không? Đừng nói là việc nhỏ; việc này mà các anh không làm được, tôi đố các anh c̣n làm được việc ǵ! Câu sau đó, ông nói với giọng rất nghiêm, như muốn gây với chúng tôi vậy. Ông Mai Dị đỏ mặt tía tai:

    − Ừ th́ cúp chứ sợ chi!

    − Th́ sợ chi!

    − Th́ sợ chi!

    Ông Trác rồi đến tôi lần lượt phù họa theo (...) Ông Mai Dị được hớt trước rồi đến hai chúng tôi. Mỗi người đều đầy ư quả quyết và tin nhau lắm, chẳng hề sợ ai nửa chừng thoái thác (...) Ở Gia Cốc về, chúng tôi chưa về nhà vội, c̣n định trú lại Diên Phong mấy ngày. Ở đó, chúng tôi yêu cầu các ông Phan Thúc Duyện, Phan Thành Tài, Lê Dư cũng làm như chúng tôi; luôn với năm, sáu mươi vừa người làm công, vừa học tṛ, đều cúp trong một ngày. Rồi hễ có vị thân sĩ nào đến chơi là chúng tôi cao hứng lên diễn thuyết, cổ động, khuyến họ cúp thảy cả. Trong số đó có ông tiến sĩ Trần Quư Cáp, thầy chúng tôi và các ông tú Hữu, tú Bân, tú Nhự, c̣n nhiều không kể hết. Ít hôm sau, ông Huỳnh Thúc Kháng ở Hà Đông ra, cũng cúp tại đó, chính tay ông Lê Dư cầm kéo hớt cho ông Huỳnh dù ông Lê chưa hề biết qua nghề hớt là ǵ.

    Hôm ở Diên Phong về nhà, tôi phải viện ông Lê Dư đi về với. Thấy hai chúng tôi, cả nhà ai nấy dửng dưng. - Trước tôi mảng tưởng về nhà chắc bị quở dữ lắm, nhưng không, thầy tôi tảng lờ đi, bà tôi càng lạnh lùng hơn nữa, chỉ ba chặp lại nh́n cái đầu tôi mà chặc lưỡi. Ḍ xem ư bà tôi, hẳn cho rằng tôi đă ra như thế là quá lắm, không c̣n chỗ nói! (...) Qua đầu năm 1907 giở đi, thôi th́ cả tỉnh nơi nào cũng có những bạn đồng chí về việc ấy (...) Lúc này không c̣n phải cổ động nữa, mà hàng ngày có những người ở đâu không biết, mang cái búi tóc to tướng đến xin hớt cho ḿnh. Bởi một ư đùa, tôi đặt một bài ca dao cho Đoan để mỗi khi hớt cho ai th́ ca theo nhịp đó:

    “Tay trái cầm lược,

    Tay mặt cầm kéo,

    Cúp hè! Cúp hè!

    Thẳng thẳng cho khéo!

    Bỏ cái hèn mầy,

    Bỏ cái dại mầy,

    Cho khôn, cho mạnh,

    Ở với ông Tây!” v.v…

    "Giữa lúc đó có lời phao đồn ở Diên Phong, chúng tôi hay cưỡng bách người ta hớt tóc, đến nỗi khuyên không nghe mà rồi đè xuống cắt đi, th́ thật là thất thực, không hề có thế bao giờ. Sự cưỡng bách ấy nếu là có trong vụ “xin xâu” năm 1908, do những kẻ cầm đầu đoàn dân thi hành. Tôi vắng mặt trong vụ ấy, nhưng sau nghe nói lại rằng mỗi một đoàn dân kéo đi, giữa đường nếu có ai xin gia nhập th́ đều buộc phải hớt tóc; hoặc khi đoàn dân nghỉ ở một cái chợ th́ người cầm đầu đứng ra diễn thuyết, bắt đàn ông trong chợ đều phải hớt tóc rồi mới cho nhập bọn đi theo ḿnh. Cũng nhờ vậy mà sau vụ này, thấy số người tóc ngắn tăng giá lên rất nhiều. Hớt tóc cũng là một cớ buộc tội trong vụ án năm 1908 ở mấy tỉnh Trung Kỳ. Làm người không có việc ǵ cả, chỉ đă hớt tóc mà cũng bị ghép vào mặt luật bất ưng vi trọng, phải 18 tháng tù. Lại, cuộc phiến loạn năm 1908 ấy, trong các kư tài của người Pháp cũng gọi là “cuộc phiến loạn của đảng hớt tóc” (Révolte des cheveux tondus). Xem đó đủ thấy hớt tóc ở thời đại ấy bị coi là nghiêm trọng dường nào. (Trích Lịch sử tóc ngắn, Tự truyện của Phan Khôi, Ngày Nay số 149, 15/2/1939), in lại trong 13 năm tranh luận văn học, tập III, trang 535-543).

    [48] Sông Hương số 7-8-9 ra ngày 12/9-19/9 và 26/9/1936.

    [49] Sông Hương số 29-30-31 ra ngày 27/2- 13/3 và 20/3/1937.

    [50] Là người sẽ đuợc trao nhiệm vụ cha nuôi Hoàng tử Vĩnh Thụy, tại Pháp.

    [51] Theo mạch văn của bài này th́ Charles muốn nói: đầu tháng 11/1907, nhưng theo tài liệu của Lê Thị Kinh th́ Phan ra Bắc từ tháng 7/1907.

    [52] Trích báo cáo của công sứ Quảng Nam Charles từ 9/1906 đến 3/1908 về Phan Châu Trinh và phong trào Duy Tân, Lê Thị Kinh, Phan Châu Trinh trong những tài liệu mới, Tập I, quyển I, trang 47-52.

    [53] Quan coi việc học của một Phủ.

    [54] Ở B́nh Định, chú thích Lê Thị Kinh.

    [55] Charles, bài đă dẫn.

    [56] Là báo của Ernest Babut và Đào Nguyên Phổ, Phan Châu Trinh có cộng tác.

    [57] Trích hồ sơ thẩm vấn Trần Quư Cáp, số 79, Lê Thị Kinh, Phan Châu Trinh qua... Tập I, quyển 1, trang 118)

    [58] Lê Thị Kinh, Phan Châu Trinh qua... Tập I, quyển 1, trang 120.

    [59] Quan coi việc dạy học một huyện.

    [60] Theo Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh Nghiă Thục, chương XI.

    [61] Nhiều nơi ghi tháng 2, v́ không đổi ngày ta sang ngày Tây. Nguyễn Bá Trác ghi rơ tháng 3/1908.

    [62] Theo lời khai của Đoàn Thoại, Lê Thị Kinh, Phan Châu Trinh qua... Tập I, quyển 1, trang 53.

    [63] Hầu hết các tài liệu đều ghi ngày xử Trần Quư Cáp là 17/5/1908. Chỉ có Huỳnh Thúc Kháng ghi rơ: ngày 17 tháng 5 năm Mậu Thân. Vậy người ta đă chép ngày ta của Huỳnh Thúc Kháng, và thêm năm Tây vào.

    [64] Lê Thị Kinh cũng đưa ra giả thiết này, Phan Châu Trinh qua... Tập I, quyển 1, trang 39.

    [65] Trích châu bản số 9, triều Duy Tân, Nguyễn Thế Anh, Cuộc kháng thuế miền Trung năm 1908 qua các châu bản triều Duy Tân, Văn Vĩ dịch, Bộ Văn Hoá Giáo Dục và Thanh Niên xb tại Sài g̣n 1973, in lại trong Phong trào Duy Tân, Nguyễn Q. Thắng, Văn Hoá Thông Tin, 2006, trang 671-674.

    [66] PCT, Trung kỳ dân biến thỉ mạt kư, bản dịch Nguyễn Q. Thắng và Lê Ấm, in trong PCT cuộc đời và tác phẩm, Văn Học, 1992, trang 321-322.

    [67] Ư nói vụ Trung Kỳ dân biến.

    [68] Trích Hạn mạn du kư - Bài kư của người đi chơi phiếm của Nguyễn Bá Trác, nguyên tác chữ Hán, bản dịch in trên Nam Phong, số 19 tháng 11/1919.

    [69] Bạch Thái Công Ty thơ kư viên, Dân báo, Sàig̣n, số 201, số Tết 1940, tài liệu Lại Nguyên Ân.

    [70] Nguyễn Công Hoan, Hành động và tư tưởng phản động của Phan Khôi cho đến thời kỳ toàn quốc kháng chiến, Văn Nghệ số đặc biệt thứ hai chống NVGP, số 12, tháng 5/1958, trang 14.

    [71] Đi học đi thi, bđd.

    [72] Tức là thày ngồi trên ván cao kê giữa nhà.

    [73] Ghế để nghiên son bút son.

    [74] Đoan ngọ.

    [75] Nguyên đán.

    [76] Đi học đi thi, bđd.

    [77] Trích theo Tiểu sử Trần Quư Cáp của Huỳnh Thúc Kháng, tiểu sử này ghi viết ngày 20/2/Mậu Dần (21/3/1938), bản dịch của báo Minh Tân số 63, in năm 1959, in lại trong Trần Quư Cáp của Lam Giang, Đông A, Sài G̣n, 1971, trang 10-16.

    [78] Xử tội chẳng cần án.

    [79] Phan Bội Châu, Văn khóc cụ nghè Trần Quư Cáp, in trong Thi văn quốc cấm, Thái Bạch soạn, Sài G̣n, 1968, trang 390.

    [80] An Nam tạp chí, Hà Nội từ số 26 (1/1932)

    [81] Phan Thị Nga, Lối tự học của những bậc đàn anh nước ta, Hà Nội báo, số 10, 11/3/1936, trích đoạn này dùng bản Thanh Lăng soạn, tài liệu đánh máy, của Tạ Trọng Hiệp. Bản in trong 13 tranh luận văn học bị cắt mấy câu.

    [82] Bạch Thái Công ty thơ kư viên- một tự truyện của Phan Khôi, Dân báo, Sài G̣n, số 201, số Tết, 1940, tài liệu của Lại Nguyên Ân.

    [83] Bạch Thái Công ty thơ kư viên, bđd.

    [84] Bàn về việc dịch kinh Phật, Trung Lập 5/9/1931, Phan Khôi 1931, Lại Nguyên Ân sưu tầm, trang 352.

    [85] Phan Thị Nga, bđd.

    [86] PNTV, số 74 (16/10/1930), Phan Khôi 1930, LNA, trang 568.

    [87] Phước Nguyên, Quá tŕnh phiên dịch Kinh Thánh sang tiếng Việt, Báo Linh Lực, 1/1996, baolinhluc.org

    [88] Phước Nguyên, bđd.

    [89] Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước do Thánh Kinh Hội quốc tế xuất bản, Văn Phẩm Nguồn Sống phát hành, 1994, trích Kinh Tân Ước, sách Phúc âm Mă-Thi, Chúa giáng sinh, trang 1.

    [90] Kinh Thánh Tân Ước, nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 2000, trang 68.

    [91] Hữu Thanh là báo của Ngô Đức Kế, một trong những người lănh đạo phong trong trào Đông Du và Duy Tân, vừa từ Côn Đảo trở về.

    [92] Phan Thị Nga, bđd.

    [93] Phan Khôi niên biểu, Chương dân thi thoại, Đà Nẵng, 1996, trang 157.

    [94] Nhớ cha tôi, Đà Nẵng, 2001, trang 39.

    [95] Xin nhắc lại: Dejean de La Bâtie, người Pháp lai, là đồng chí của Nguyễn An Ninh, từng làm chủ nhiệm báo La Cloche fêlée (Chuông rè). Phan Văn Hùm trong Ngồi tù khám lớn (Bảo Tồn, Sài G̣n, 1929. Phan Tùng Mai (con Phan Văn Hùm) tái bản, Sài G̣n, 1957) cho biết: lần vào tù năm 1928, Dejean được giam cùng với người Pháp, c̣n Nguyễn An Ninh, th́ các cai tù Pháp rất nể trọng, gọi là Monsieur.

    [96] Tài liệu của Lê Thị Kinh, in lại trong Nhớ cha tôi, trang 279-280.

    [97] Trung Lập số 6151 (20/5/1930).

    [98] Trung Lập, số 6235 (1/9/1930). Phan Khôi thường viết: cọng sản. Cả hai chữ cộng và cọng đều dùng được.

    [99] Đông Pháp, số 717 (8/5/1928).

    [100] Phan Khôi giải thích: Tự là chữ, mà từ là lời. Trong tự điển mỗi mục từ chỉ có một chữ. Trong từ điển mỗi mục từ có thể có nhiều chữ ghép lại. Nhưng không phải chữ ghép nào cũng được coi là từ để đem vào từ điển được. Ví dụ, thiên mă th́ gọi là từ được, v́ đó là một cách nói đặc biệt (expression), gần như một điển cố, chỉ việc vua Vơ Đế nhà Hán có con ngựa hay lắm, vua đặt tên là thiên mă, tức là ngựa nhà trời. C̣n tẫn mă (ngựa cái) hay dịch mă (ngựa trạm) th́ không thể đem vào từ điển được, v́ nếu cứ lấy những chữ ghép tràn như vậy, th́ phải bao nhiêu từ điển cho đủ!

    [101] Phan Khôi, Cấm sách, sách cấm, Đông Pháp thời báo, số 763 (1/9/1928).

    [102] Khoái cho ông Mussolini, Trung Lập, số 6207 (28/7/1930).

    [103] Hơn hai trăm năm c̣n thúi, Trung Lập, số 6152 (21/5/1930).

    [104] Thúi thây, Trung Lập, số 6216 (7/8/1930).

    [105] Đoàn Giỏi, Tư tưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi, Văn Nghệ số 15, tháng 8/1958, in lại trong Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí.

    [106] Đoàn Giỏi, bđd.

    [107] Đoàn Giỏi, bđd.

    [108] Đào Vũ, Tính cách vô lại và bộ mặt chính trị nhơ nhớp của Phan Khôi ngày nay, Văn nghệ, số 12, tháng 5/1958 – Số đặc biệt thứ hai chống NVGP.

    [109] Đào Vũ, bđd.

    [110] Trần Duy, Tưởng niệm về Phan Khôi, Talawas 18/6/2008.

    [111] Lâm Bích Thuỷ, Thủy chung t́nh bạn sau linh cữu, tài liệu Talawas.

    [112] Phan Cừ, Phan An, bđd.

    [113] Phan Thị Thái, Nhớ cha tôi, học giả Phan Khôi. 19/12/1996, Kiến Thức Ngày Nay.

    [114] Lâm Bích Thuỷ, bđd.

  7. #2547
    Tran Truong
    Khách

    Vụ án Nam Phong _ Chương 22

    Tuy không chính thức có vụ án Nam Phong, nhưng sau khi Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác, chủ nhiệm và chủ bút Nam Phong bị xử tử năm 1945; tại miền Bắc, toàn bộ trước tác trên Nam Phong, được coi là tờ báo của thực dân do "trùm mật thám" Louis Marty điều khiển, bị khai trừ khỏi nền giáo dục và văn học.

    Tại miền Nam từ 1954 đến 1975, các nhà nghiên cứu như Thanh Lăng, Phạm Thế Ngũ... tuy có nhắc đến nguồn cội phát xuất Nam Phong, từ chính quyền thực dân, nhưng vẫn xác nhận giá trị Phạm Quỳnh và đưa Nam Phong vào chương tŕnh giáo dục trung-đại học. Sự kết án Phạm Quỳnh của Nguyễn Văn Trung, chỉ là một h́nh thức phản phê b́nh, chống lại quan điểm Thanh Lăng và Phạm Thế Ngũ, nhưng không đủ bằng chứng thuyết phục.

    Cái án vô h́nh về Nam Phong vẫn c̣n đó, chưa ai minh giải. Xoá án Nam Phong là t́m lại công lao của những người đă xây dựng nền văn học quốc ngữ, đă bị chôn vùi trong 66 năm ở miền Bắc, 36 năm trên toàn quốc: Học tṛ không được học, không được biết, không được sử dụng những thành tựu vô giá về dịch thuật và tư tưởng mà Nam Phong để lại. Tên Phạm Quỳnh và Nam Phong hiện nay đă được đưa vào Từ điển Bách khoa và Từ điển Văn học, bộ mới, nhưng tên Nguyễn Bá Trác bị loại. Sự đánh Nam Phong dựa trên hai yếu tố chính:

    1- Chuyện Rồng Nam phun bạc mà chúng tôi đă đề cập trong chương trước.
    2- Báo Nam Phong do Louis Marty sáng lập.

    Ở điểm thứ 2 này, lời vu cáo của Phùng Bảo Thạch: "Phan Khôi đă được Mác-ty (Marty) gọi ra làm việc cạnh nó và viết báo Nam Phong. Trong pḥng kín, Phan đă bí mật tố giác một số nhân sĩ yêu nước và bí mật hiến mưu dập tắt phong trào cách mạng"[1] được Lược truyện các tác gia Việt Nam chép lại, đă có ảnh hưởng lâu dài trong sự tàn phá uy tín của Phan Khôi.

    Nguyễn Công Hoan phụ hoạ: "Làm chỉ điểm cho Pháp, cố nhiên Phan Khôi được sở mật thám Pháp tin dùng. Báo Nam Phong của tên chùm (trùm) mật thám Đông dương Lu-y Mác-ty sáng lập, cho hai tên phản cách mạng phụ trách, Phạm Quỳnh làm chủ bút phần quốc văn, Nguyễn Bá Trác làm chủ bút phần Hán văn. Nguyễn Bá Trác được lệnh của Mác Ty dùng Phan Khôi.
    Từ đó, đời Phan Khôi xoay ra làm báo để reo rắc những tư tưởng phản động, có lợi cho thực dân hơn nghề làm chỉ điểm cho chúng"[2].

    Những lời vu hăm trên đây tiêu biểu cho lối buộc tội Nam Phong, được dùng để đánh Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Lê Dư, nhưng đặc biệt với Phan Khôi, sự xuyên tạc đă đạt đến đỉnh cao. Lập luận xoáy vào 3 điểm chính:

    - Báo Nam Phong được Pháp bảo trợ.
    - Nam Phong do Louis Marty, Nguyễn Bá Trác và Phạm Quỳnh điều hành.
    - Phan Khôi, "vốn nghề chỉ điểm" nên được Marty tin dùng.


    Còn tiếp ...

  8. #2548
    Tran Truong
    Khách

    Vụ án Nam Phong _ Chương 22

    ● Louis Marty

    Không chỉ Nam Phong mà hầu hết các báo quốc ngữ, từ khởi thủy đều do người Pháp sáng lập[3]: Gia Định báo,1865: Ernest Potteaux sáng lập-Trương Vĩnh Kư chủ bút. Nông cổ mín đàm, 1901: Canavaggio - Lương Khắc Ninh. Đại Việt tân báo, 1905: Ernest Babut - Đào Nguyên Phổ. Lục tỉnh Tân văn, 1909: Pierre Jeantet - Trần Nhất Thăng. Đăng cổ tùng báo, 1907-1908 và Đông Dương tạp chí, 1913: Schneider - Nguyễn Văn Vĩnh...

    Vậy việc Nam Phong do Marty - Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác, trách nhiệm, nằm trong quy luật trên và trong chủ trương của chính quyền thuộc địa lúc bấy giờ: thúc đẩy trí thức hoạt động văn hoá để họ không chống đối chính quyền. Việc người trí thức lợi dụng lại khí giới này để truyền bá quốc ngữ và văn hoá Tây phương, là mặt trái của mề đai.

    Trường hợp Nam Phong, dính liền với Louis Marty, người được coi là "trùm mật thám", vậy cần t́m hiểu xem Louis Marty là ai?

    Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại, chỉ ghi vỏn vẹn: Marty là một ông quan cai trị Pháp. Phạm Thế Ngũ cho biết thêm: 1907, Marty vào ngạch tham sự hành chánh, làm việc tại Phủ Thống Sứ Bắc Kỳ. 1914, làm phụ tá trưởng Pḥng Chính Trị Phủ Toàn Quyền, được đặc phái đi Bắc Kinh. 1915, thăng trưởng pḥng Chính Trị, phụ trách việc lấy tin để đối phó với âm mưu tấn công vào Đông Dương của Đức. Cơ quan gián điệp ấy sau trở thành Tổng Cục An Ninh Đông Dương. 1934, Marty bị toàn quyền Robin đẩy đi làm khâm sứ Ai Lao[4].

    Hoàng Văn Chí viết: "Mai (Đặng Thai Mai) và Giáp (Vơ Nguyên Giáp) đều là “con nuôi” của Louis Marty, giám đốc pḥng chính trị của phủ toàn quyền. Marty kiếm việc cho Mai dạy học ở trường Gia Long mà giám đốc là Bailey, một người Pháp, và giao Giáp, hăy c̣n là sinh viên, cho Mai trông coi. Trong khi những đảng viên Tân Việt khác bị tù đày hoặc cầm cố th́ hai người ung dung sống ở Hà Nội cho đến ngày Giáp được Pháp đưa sang Tầu theo Việt Minh chống Nhật. Giáp có theo học lớp “chiến tranh du kích” do Mỹ mở ở Tĩnh Tây, nhưng không bao giờ lên Diên An"[5].

    Đặng Thai Mai viết trong hồi kư: "Tôi tham gia đảng Phục Việt, tiền thân của đảng Tân Việt (...) Khoảng 1928, tôi vào dạy trường Quốc học Huế. Ở đây tin tức không có bao nhiêu. Năm 1930-1931 tôi bị tù. Năm 1932 tôi ra Hà Nội dạy học trường Gia Long, sau dạy ở trường Thăng Long. (...) Ở trường Thăng Long lúc đó có đồng chí Phan Thanh[6] Vơ Nguyên Giáp và tôi. Tôi được giao một vài công tác góp phần vào việc mở Hội truyền bá quốc ngữ, viết báo đảng bằng quốc ngữ và tiếng Pháp"[7].

    Nguyễn Vỹ, trong Tuấn chàng trai nước Việt[8], viết: "Vơ Nguyên Giáp, sinh viên cao đẳng luật khoa, Hà Nội, vừa thi đỗ chứng chỉ 2, cấp bằng cử nhân Luật, tháng 6 năm 1937. Nhưng năm sau, 1938, anh lại thi rớt cấp bằng Luật pháp Hành chánh. Số đông sinh viên Luật Hà nội thi đậu chứng chỉ cử nhân Luật liền học một năm về "Droit administratif (Hành chánh Luật), thi đậu cấp bằng này được bổ ra làm Tri huyện, theo Hành Chánh Nam triều, hoặc "commis"[9] làm tại phủ toàn quyền, hoặc các toà Thống sứ, Khâm sứ, Thống Đốc, nếu phục vụ cho chính quyền thuộc địa.

    Vơ Nguyên Giáp lúc bấy giờ có ước vọng làm commis, nhưng thi rớt nên bỏ học luôn, và tiếp tục làm giáo sư sử địa trường trung học Thăng Long"[10].
    Những thông tin của Hoàng Văn Chí, Đặng Thai Mai và Nguyễn Vỹ trên đây phát xuất ở những thời điểm và vị trí hoàn toàn khác nhau, nhưng không đối chọi nhau và có phần bổ túc cho nhau:

    - Marty là một nhân vật khôn khéo: liên lạc và giúp đỡ những thanh niên "có đầu óc" gặp khó khăn, không phân biệt chính kiến.
    - T́nh trạng thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ không đơn giản. Chống Pháp hay ra làm quan với Pháp chỉ cách nhau một bước: Nếu Vơ Nguyên Giáp thi đỗ, đă trở thành Tham tá làm việc tại Phủ Toàn quyền, cuộc đời ông có thể đă thay đổi hoàn toàn.
    - Không nên thần thánh hoá bất cứ một nhân vật lịch sử nào. Sự bôi nhọ Phan Khôi trong hơn nửa thế kỷ. Sự kết tội Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác "bán nước", nếu giúp chúng ta rút ra được một bài học nào, là trong cái nghiă đó.

    Tất cả "tội ác" quy vào việc Nam Phong được thành lập do nghị định của phủ toàn quyền, với sự cộng tác của Louis Marty, lúc đó là trưởng pḥng chính trị. Nhưng Marty không chỉ đỡ đầu Nam Phong, năm 1917, mà đến thập niên 1930, c̣n đỡ đầu cho Đặng Thai Mai và Vơ Nguyên Giáp nữa. Vậy cần phải xác định lại vị trí của Nam Phong và trả lời những câu hỏi: Chủ đích của Nam Phong là ǵ? Những người xây dựng Nam Phong có phải là người "bán nước" hay không?


    Còn tiếp ...

  9. #2549
    Tran Truong
    Khách

    Vụ án Nam Phong _ Chương 22

    ● Nguyễn Bá Trác (1881-1945)

    Nguyễn Bá Trác làm chủ bút phần Hán Văn của Nam Phong từ tháng 7/1917 đến tháng 9/1919 được vời vào Huế làm quan, đến chức tổng đốc.
    Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh xác định vai tṛ của Nguyễn Bá Trác: "Vào năm 1917, bên cạnh và đối với Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác quả thực đă đóng vai đàn anh, v́ tuổi tác, v́ danh vị đỗ cử nhân, và nhất là uy tín của một quá khứ mạo hiểm đă khiến ông nổi danh là lịch duyệt"[11].

    Nguyễn Bá Trác hơn Phạm Quỳnh 11 tuổi. Những trước tác trên Nam Phong chứng tỏ ông là một người thơ văn lỗi lạc.
    Phan Khôi và Nguyễn Bá Trác là hai người bạn thân từ thời đi học. Trong bài Đi học đi thi, Phan Khôi cho biết: Nguyễn Bá Trác đi thi năm Bính Ngọ (1906) không phải để đỗ, mà để làm bài thuê, kiếm tiền cho phong trào Đông Du, rút cục lại đỗ cử nhân. Rồi Nguyễn rủ Phan bỏ lối học khoa cử, cùng theo phong trào Duy Tân, Đông Du, từ 1906 và được gửi ra Hà Nội học tiếng Pháp năm 1908. Khi phong trào bị đàn áp, Phan Khôi bị bắt ở Nam Định. Nguyễn Bá Trác trốn ở trong Nam rồi sang Xiêm, sang Nhật, sang Tầu.

    Trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, mục từ 59, ghi: "... Trác được vào học lớp cán bộ quân sự ở Quảng Tây cùng với Trần Huy Lực (xem Phan Bội Châu niên biểu, trang 111). Nhưng rồi Trác làm mật thám cho Pháp, vào làm pḥng báo chí của phủ toàn quyền. Lúc đầu, Trác được giao cho việc làm tờ "Công thị báo" bằng chữ Hán. Năm 1917, khi tên trùm mật thám Mác-ty (Marty) sai Phạm Quỳnh làm chủ bút tờ Nam Phong th́ Trác được giữ ǵn phần chữ Hán của tạp chí đó. V́ có công lao ấy, Trác được bổ ra làm Tá lư bộ Học ở Huế rồi làm Tuần phủ Quảng Ngăi, y đă đàn áp nhân dân và tàn sát nhiều nhà cách mạng."[12]

    Những "thông tin" trên đây vừa lộn xộn vừa đáng ngờ: Nguyễn Bá Trác làm mật thám lúc nào? Ở Quảng Tây hay ở Hà Nội? V́ làm mật thám nên được vào phủ toàn quyền hay vào phủ toàn quyền rồi mới làm mật thám? Ở Quảng Ngăi, Nguyễn Bá Trác đă giết những ai? Tên họ các nạn nhân là ǵ mà bảo là "tàn sát nhiều nhà cách mạng"? Chúng tôi chỉ nhắc đến cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam, v́ đây là cuốn sách chính mà những người đi sau, thường sao chép lại. Từ điển văn học loại hẳn tên Nguyễn Bá Trác ra ngoài.

    Vấn đề Nguyễn Bá Trác không chỉ nổi cộm trong chế độ cộng sản, mà nhiều nhà nghiên cứu trong Nam ngoài Bắc khi nhắc đến Nguyễn Bá Trác, thường úp mở ngụ ư ông là Việt gian. Nguyễn Văn Xuân trong Phong Trào Duy Tân nói đến việc Mai Dị "gởi cho Nguyễn Bá Trác một bức thư chửi rủa thậm tệ, được nhiều người truyền tụng"[13]. Điều này cũng chẳng chứng tỏ được ǵ.
    Điểm đáng chú ư là Huỳnh Thúc Kháng khi viết tiểu sử Trần Quư Cáp, năm 1938, có câu: "Về thi văn của Tiên sinh không lưu bản cảo, chỉ có đồng nhân cùng tôi c̣n nhớ đôi bài lượm lặt chép thành tập, gửi nơi Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác"[14].

    Vậy Nguyễn Bá Trác, sau khi về đầu thú, vẫn được các bạn đồng hành tín nhiệm, trao giữ tác phẩm của thầy Trần Quư Cáp, và khi ra làm báo Nam Phong, Nguyễn vào Quảng Nam rủ Phan Khôi làm cùng, Phan Khôi không chối từ, chưa kể việc Nguyễn được thầy cũ là Nguyễn Bá Học gả con gái cho. Từ khi Nguyễn Bá Trác về đầu thú đến lúc ông bị Việt Minh xử tử, Phan Khôi không ngừng giao thiệp với Nguyễn Bá Trác. Theo Phan Khôi, năm 1926, cụ Phan Bội Châu về Huế đến ở nhà Nguyễn Bá Trác và ông cũng đến ở đó. Như vậy, Phan Bội Châu cũng tin cẩn Nguyễn Bá Trác.

    Về phía kết tội Nguyễn Bá Trác, chưa ai nêu được chứng cớ rơ rệt, thường chỉ phỏng theo lời đồn. Cho tới nay, chứng cớ duy nhất dựa vào một chú thích trong cuốn Mémoires de Phan Bội Châu[15] của Georges Boudarel, 1968, cho biết: Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt đă chỉ điểm cho Pháp bắt Trần Hữu Lực, một chiến sĩ của Phan Bội Châu.
    Trần Hữu Lực là ai? Phan Bội Châu viết trong Tự Phán: "Trần Hữu Lực người Nghệ An, tên thực là Nguyễn Thức Đường, con trai Đông Khê tiên sinh, là thầy học tôi. Nhà đời nghiệp Nho, mà tính chất ông khác riêng một cách, có thái độ như một nhà vơ sĩ thời xưa"[16].
    Trần Hữu Lực theo phong trào Đông Du sang Nhật, học trường quân sự Đông Kinh. Khi Nhật giải tán Đông Du, trục xuất Cường Để (1909), Lực nổi giận, định chống lại, nhưng các đồng chí ngăn cản, ông bỏ sang Tầu. Trần Hữu Lực cùng Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt được vào học trường quân sự Quảng Tây. Sau khi tốt nghiệp, Trần Hữu Lực về Quảng Đông, nhận chức thiếu úy. Phan Bội Châu kể tiếp:

    "Đến lúc Việt Nam Quang Phục Hội thành lập[17] ông tự nguyện sang Xiêm La, tổ chức toán quân Việt Kiều. Tôi lấy tư cách Quang Phục hội Tổng lư, đặc uỷ ông làm trú Xiêm Quang phục hội chi bộ bộ trưởng[18] (...) Rủi lúc đó, nước Xiêm cũng tuyên chiến với Đức. Chính phủ Xiêm theo lời giao thiệp của người Pháp hết sức phá cách mạng đảng của người Việt Nam, kẻ tù người đuổi. Hai tên trinh thám cho Pháp, một người Trung Kỳ, một người Bắc Kỳ, hết sức săn cho được ông, ông bị dẫn độ với chính phủ Pháp, bắt về Hà Nội, tống vào nhà pha khuyên ông chịu thú phục th́ được tha tội. Ông không chịu, đồng một ngày ấy với Hoàng Trọng Mậu bị sang sát[19] dưới núi Bạch Mai"[20].


    Còn tiếp ...

  10. #2550
    Tran Truong
    Khách

    Vụ án Nam Phong _ Chương 22

    Vẫn theo Phan Bội Châu, Trần Hữu Lực bị bắt ở Xiêm ngày 26/6/1915. Hoàng Trọng Mậu bị bắt ở Hương Cảng ngày 28/5/1915[21]. Phan Bội Châu viết rất rơ, trong Tự Phán: "Hai tên trinh thám cho Pháp, một người Trung Kỳ, một người Bắc Kỳ, hết sức săn cho được ông". Câu này trong Phan Bội Châu niên biểu, Chương Thâu ghi như sau: "Hai tên trinh thám Pháp, một người Bắc Kỳ tên là Hùng; một người Trung Kỳ tên là mỗ(2) hết sức săn cho được ông"; và trong chú thích (2) Chương Thâu viết: "Câu này trong bản của Anh Minh chỉ ghi Nguyễn... và Nguyễn... nhằm che dấu cho hai tên phản bội này. Bản Nguyễn Khắc Ngữ th́ không ghi rơ tên mà chỉ chú theo MP là Nguyễn Tiêu Đẩu (Nguyễn Bá Trác) và Nguyễn Thái Bạt (Nguyễn Phong Di)"[22].

    Tóm lại, trong các bản dịch khác nhau của Tự phán:

    - Bản Nhân Chủ học xă: Không ghi tên 2 người trinh thám.
    - Bản Chương Thâu ghi một người Bắc Kỳ tên là Hùng; một người Trung Kỳ tên là mỗ[23].
    - Theo Chương Thâu: Bản Anh Minh ghi: Nguyễn... và Nguyễn...
    - Bản Nguyễn Khắc Ngữ không ghi tên mà chỉ chú theo MP.
    - MP là viết tắt của Mémoires de Phan Bội Châu, bản dịch Tự phán của Boudarel. Và Boudarel chú thích hai người này là Nguyễn Tiêu Đẩu (Nguyễn Bá Trác) và Nguyễn Thái Bạt (Nguyễn Phong Di).

    Nhưng Phan Bội Châu không hề viết rơ tên hai mật thám săn bắt Trần Hữu Lực.

    Nguyễn Khắc Ngữ và Chương Thâu chép lại chú thích của Boudarel để xác định hai kẻ đó là Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt. Hiện chúng tôi không có bản của Boudarel, nên không rơ Boudarel dựa vào đâu, để xác định như thế.

    Nhưng khi khảo sát Tự phán của Phan Bội Châu và Hạn mạn du kư của Nguyễn Bá Trác, th́ thấy nhiều chứng, minh oan cho Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Thái Bạt và cả Lê Dư:

    1/ Nếu Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Thái Bạt và Lê Dư làm chỉ điểm cho Pháp, th́ tại sao Phan Bội Châu lại không viết rơ tên họ ra? Tại sao họ lại không bị đảng Quang Phục giết như trường hợp Phan Bá Ngọc? Phan Bội Châu viết rất rơ hành vi phản bội của Phan Bá Ngọc - con trai Phan Đ́nh Phùng và việc Ngọc bị Lê Tán Anh ám sát, với súng và tiền lộ phí do Cường Để cung cấp[24].

    2/ Ra đầu thú không phải là một tội đối với đảng: chứng cớ là sau khi đầu thú, Lê Dư vẫn hoạt động tiếp. Phan Bội Châu viết: "Vừa lúc đó (1917), ông Lê Dư ở trong nước ra, đương ở Nhật Bản, đi theo Kỳ Ngoại Hầu, viết giấy mời tôi qua, bảo rằng có 2000 hễ đến Nhật Bản th́ đưa ngay. Nghĩ đến Lê mới về thú, bạc này lấy ở đâu vào? Ngẫm nghĩ một hồi lâu mới biết được manh mối bạc này rồi"[25]. Lê Dư tiếp tục kinh tài cho đảng tới 1918. Lê Dư chơi thân với Phan Bá Ngọc, cả hai đều khuyên Phan Bội Châu viết Pháp Việt đề huề luận[26], các việc này Phan Bội Châu đều ghi rơ, nhưng ông không hề xác định Lê Dư phản đảng: Vậy đảng biết rất rơ hành động từng người.

    3/ Trong Tự phán, Phan Bội Châu chỉ nhắc đến Nguyễn Bá Trác hai lần, trong câu "Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt, ba người - tức là kể cả Trần Hữu Lực- đồng thời vào nhà quân hiệu" và câu "Quảng Tây cán bộ học đường th́ có những người như Trần Hữu Lực, Nguyễn Tiêu Đẩu, Nguyễn Thái Bạt"[27]. Ngoài ra, không có lời nào khác trong Tự phán chỉ định Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt làm chỉ điểm lùng bắt Trần Hữu Lực ở Xiêm.

    4/ Trong Hạn mạn du kư, Nguyễn Bá Trác cho biết: ông về tới Sài G̣n tháng 8/1914. Và trong bài Lời di ngôn của cụ Nguyễn Bá Học, Nguyễn viết:
    "Hồi tháng 9 năm 1914 tôi tới Hà Nội, mới được tha về vài ngày, liền xuống Nam Định hỏi thăm tiên sinh[28] (...) Tiên sinh lại hỏi tôi rằng: "Anh ở Hà Nội định làm kế sinh hoạt ǵ?". Tôi chưa kịp đáp, tiên sinh lại nói rằng: "Tôi bây giờ nguyệt bổng[29] đă được bốn năm chục, nếu anh chửa được việc ǵ để làm sinh kế, thời tôi có thể giúp anh được; bản tâm tôi là muốn bảo toàn danh dự cho anh vậy". Tôi mới đáp là đă làm việc báo, tiên sinh nói rằng: "Ừ, thế được, phải cố gắng lên mà phải cẩn thận, chớ có táo suất[30] mà làm cho lấp đường ngôn luận của nước ta"[31].

    Khi về đầu thú, Nguyễn Bá Trác làm công chức ở sở toàn quyền, phụ trách Công thị báo từ 1914, làm báo Âu Châu chiến sử với Phạm Quỳnh, và đến tháng 6/1917, ra báo Nam Phong. Tháng 9/1914, ông xuống Nam Định thăm Nguyễn Bá Học, người thày dạy ở Đông Kinh Nghiă Thục, sau biến cố Trung Kỳ dân biến, đă cưu mang học tṛ Quảng Nam ra Hà Nội, nuôi và dậy học trong nhà, số 108, phố Hàng Rượu, Nam Định. Nguyễn Bá Học không những giúp đỡ học tṛ gỡ rối việc ra đầu thú mà c̣n gả con gái cho Nguyễn Bá Trác.


    Còn tiếp ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 3 users browsing this thread. (0 members and 3 guests)

Similar Threads

  1. Chuyện nghe được từ ngướ không quen
    By Dac Trung in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 10-10-2012, 12:25 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-05-2012, 10:37 PM
  3. Bắt Buộc Phải Nghe
    By Dean Nguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 19-01-2012, 08:34 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 31-07-2011, 05:33 PM
  5. Tưởng Niệm Tháng 4 Đen Nghe Nhạc Lính VNCH
    By Camlydalat in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 18
    Last Post: 25-04-2011, 06:28 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •