Page 89 of 304 FirstFirst ... 397985868788899091929399139189 ... LastLast
Results 881 to 890 of 3035

Thread: Nghe Chuyện Hà Nội

  1. #881
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Lật lại trang cũ


    Hà Nội - Yêu Nhớ


    Chỉ ít phút nữa thôi
    Ṿng xe anh lại thả lăn trên rộng dài con phố
    Những con phố thân quen khi xa là nhớ
    Hàng Đào, Hàng Lược, Hàng Gai...

    Con phố Nguyễn Du chẳng ngắn, chẳng dài
    Mùa thu qua nồng nàn mắt ai... hoa sữa
    Con phố đón đưa một thủa
    Giờ ướt nhèm trong mi mắt cay cay.

    Hà Nội hôm nay thay áo mỗi ngày
    Hà Nội trong anh - vẹn nguyên rất thật
    Mỗi bận thả trôi giữa ḍng đời tất bật
    Anh ngỡ thả hồn trong yêu nhớ mênh mang...

    Hà Nội là đêm - ánh điện màu vàng
    Hà Nội là hanh hao đường Cổ Ngư một chiều gió thổi
    Hà Nội là em thả tóc nghiêng vai anh... bối rối
    Hà Nội là sắc phượng đỏ màu cờ trong cái nắng ban trưa

    Hà Nội là hồ Tây cho em ngắm dưới mưa
    Hà Nội là con dốc thân quen mỗi chiều em đi về rất vội
    Chầm chậm thôi em, con đường dù quen ṃn lối
    Kẻo lỡ làng... xơ xểnh ngă... anh thương!

    Hà Nội ơi, yêu nhớ vấn vương!
    Yêu và nhớ, và thương cả khi có nhau giữa ḷng Hà Nội
    Ít phút nữa thôi anh lại ngẩn ngơ giữa phố phường đô hội
    Lại yêu nhớ cồn cào... chênh chao thế, Hà Nội


    Khải Nguyên

    http://www.vietlandnews.net/forum/sh...#7897;i/page16

  2. #882
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Hà Nội 36 phố phường

    Cùng quư thân hữu ,

    Để hướng về Hà Nội thân yêu của những người Bắc di cư năm 1954 , trước thềm xuân năm Th́n , Tigon sẽ đưa các bạn về với Hà Nội 36 phố phụng , qua một bài thơ của Nguyễn Bính , và truyện dài cùng tên của Thạch Lam.






    Hà Nội 36 Phố Phường



    Hà nội ba mươi sáu phố phường,
    Ḷng chàng có để một tơ vương .
    Chàng qua chiều ấy qua chiều khác,
    Góp lại đường đi, vạn dăm đường .

    Nhà ấy h́nh như có mặt trời,
    Có rừng có suối có hoa tươi;
    Bao nhiêu chim lạ, bao nhiêu bướm ?
    Không! Có ǵ đâu, có một người .

    Chân bước khoan khoan, ḷng hỏi ḷng:
    --Có nên qua đấy nữa hay không ?
    Không nên qua đấy, nên qua đấy ,
    Không: Nhớ làm sao! Qua mất công .

    Có một chiều kia anh chàng si
    Đến đầu phố ấy bỗng ngừng đi:
    --Hai bên hàng phố h́nh như họ ...
    Đi măi đi hoài có ích chi ?

    Đem bao hy vọng lúc ra đi,
    Chuốc lấy buồn thương lúc trở về .
    Ḷng mỗi lần đi lần băo táp,
    Mỗi lần là một cuộc phân ly .

    Chàng đau đớn lắm, môi cắn môi;
    Răng cắn vào răng, lời nghẹn lời:
    --Hờ hững làm sao! Mê đắm quá!
    Trời ơi! Cứu vớt lấy tôi! Trời!

    Chao ơi! Yêu có ông Trời cứu!
    Yêu có ông Trời khóa được chân!
    Chàng lại đi về qua phố ấy,
    Mấy mươi lần nữa và vân vân ...

    Chàng đi măi, đi đi măi,
    Đến một chiều kia, đến một chiều
    Phố ấy đỏ bừng lên: Xác Pháo,
    Yêu là như thế ? Thế là yêu ?

    Hà Nội ba mươi sáu phố phường,
    Ḷng chàng đă dứt một tơ vương .
    Chàng qua chiều ấy qua chiều khác ....
    Ô! Một người đi giữa đám tang .


    Nguyễn Bính

  3. #883
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    Thơ Xuân Vũ Hoàng Chuong

    Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương - DDặng Tiến

    Vũ Hoàng Chương

    --------------------------------------------------------------------------------


    Gửi chị Thục Oanh

    Xuân đă đem mong nhớ trở về

    Câu thơ Nguyễn Bính, ư thường thôi. Lời e cũng thường thôi. Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không có ngày về. Xuân đă ... đau ḷng một chữ đă. Xuân đă. Người chưa. Những lỡ làng và những bẽ bàng.
    Lần này, ở đây, Xuân đă đem mong nhớ trở về Vũ Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang Ngang.

    Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân.

    Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đă tự giam thơ giam đời trong mươi chữ :

    Xuân đời chưa kịp hưởng
    Mây mùa thu đă sang ?

    Nhà thơ đă tự t́nh như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập thơ Mây. Người c̣n giăng tơ tâm sự

    Xuân có sang mà hoa không tươi
    ư ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi
    Nằm say ngơ lạnh
    Buồn nghe mưa rơi
    Tuôn châu oà bật lên cười
    Ta có là ta chăng hề Ai chớ là Ngươi
    Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ
    Hoạ điệu chiều nay xác ră rời

    Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa Xuân đều là :

    Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay

    Đă có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian ; và thơ Đường, thơ Tống, người đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Điều đó có thật, nhưng con người dù là người thơ, vẫn c̣n xương c̣n thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương.

    Tác phẩm đầu ḷng Thơ Say in năm 1940 gồm những sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân.

    Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về
    Cỏ chen màu liễu biếc chân đê
    T́nh Xuân ai chở đầy khoang ấy
    Hương sắc thanh b́nh ngập lối quê.
    Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi
    Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời
    Dây đàn chầm chậm hôn lên phím
    Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi

    Thơ Say gồm có nhiều phần : Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng ... Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹ tả cảnh mùa xuân trên đây, bài sau là Mùa Thu Đă Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’, người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, v́ không nằm trong thi hứng Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như măi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đă nhuốm màu Thiền. Bài Thoát H́nh gồm 7 đoạn, một vần :

    Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
    Đă nghe dồn cả tới đài xuân
    Đă nghe rào rạt từng cơn gió
    Về mách tin hương với cơi trần
    Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
    Vâng theo ư lớn nhịp xoay vần ...
    ... Ta mở trang ḷng nguyên vẹn măi,
    Chưa từng hoen ố vết trầm luân
    Đêm nay xuống một bài thơ trắng
    Cầu nguyện cho đời nở ái Ân

    Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Đạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Đạo đă róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát H́nh c̣n mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.


    * * *

    Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay ... là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân.
    Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955 ; mùa xuân đầu tiên xa xứ :

    Mười năm qua, đến bây giờ
    Nh́n nhau thấy cả giấc mơ thưở nào ..
    (...)
    Xuân về nhớ thưở ngát chiêm bao
    Gịng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào
    Lạc lơng vàng son màu lữ thứ
    Cành mai gượng ánh mặt hoa đào
    Mười phần xuân có gầy hao
    Tấm ḷng xuân vẫn dạt dào như xưa
    Mấy phen biếc đón hồng đưa
    Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền

    Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, chĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đă bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng " cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này :

    Có nghĩa ǵ đâu một chữ " về "
    Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
    Nếu không ngược cả mười năm ấy
    Về tận kinh đô của ước thề

    Theo Chế Lan Viên, chữ" Về " là " cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa ǵ cả, th́ trong tâm hồn nhà thơ này không c̣n ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa "
    Đây là lối viết vu oan giáng hoạ, v́ chữ " về ", trong bài thơ, không có ngụ ư chính trị, chỉ là một ước vọng t́nh cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đă là một lối t́m về :

    Lang thang từ độ luân hồi
    U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
    Nguyện Cầu, 1950

    C̣n mấy chữ " có nghĩa ǵ đâu ", là phỏng theo Xuân Diệu :

    Làm sao cắt nghĩa được t́nh yêu
    Có nghĩa ǵ đâu một buổi chiều

    Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ư thời sự th́ nên hiểu : việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ư nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu đầu một t́nh cảm riêng tư - phần nào đó hoang tưởng - " có nghĩa ǵ đâu " . C̣n về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đă nhiều lần nói đến : " Mười năm thôi nhé mộng tan tành " ... ,
    " T́nh mười năm c̣n lại mấy tờ thư "…. Thận trọng, chúng tôi đă hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và c̣n cho biết thêm : ‘ước thề’ ở đây không phải là chị ấy.

    Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương c̣n có Bài Ca B́nh Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung :

    Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
    Sầu xuân vời vợi
    Xuân tứ nao nao
    Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
    Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
    Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao

    Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc " hát ngao " hơn là một anh hùng ca.
    Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng

    Chín giao thừa, tám năm dư
    Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
    (...)
    Khói đâu mờ tím căn buồng
    Thời gian ai đốt trên luồng thần giao
    Cố đô lửa cháy gan nào
    Sài đô son sắt như bào, như nung

    Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hăi hùng cay đắng. Bài Đục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt :

    Chợ Tết mai lan cúc
    Đắm ḿnh trong bụi đục
    Từng phiên nép mặt hoa
    Thẹn không bằng khóm trúc
    (...)
    Liên miên khói lửa này,
    Dám đâu mơ hạnh phúc
    Lần lượt tre rồi măng
    Đă tơi bời cốt nhục
    Đoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận :
    Thân càng xót cho thân
    Uổng gây h́nh ngọc đúc

    Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao năo nuột :

    Miệng héo dần theo ḷng khắc khoải
    Năm nay rồi sắp thành năm ngoái
    E khi chiều xế, tuyết thay tơ
    Không cả chút t́nh thương nắng quái
    Kẻ vô-hạn-hận không là gió
    Xuân đến trà mi đời tự bỏ
    Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang
    Cùng ai gửi chút hương ṿ vơ ?

    Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với h́nh ảnh của Tết Mậu Thân : thiều quang ngập máu đổ quyên hồng...
    Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương :

    Ma sợ cung vôi chạy vọt lên
    Người thơ giữa lúc mở bầu men,
    Khai xuân chưa kịp vui cùng khách
    Đạn rót trời cao đă nổ rền

    Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài : " loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân " (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc) :

    Lăng miếu gần kề lưng chó sói
    Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu
    (...)
    Đạn réo vang vang lửa bốn bề
    Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê
    Sốt dâng mạch loạn càng u uất
    Máu chảy ruồi bâu thật năo nề

    Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện :

    Mong người một nước soi gương cũ
    Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...
    (Huế Cảm)

    Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, t́nh h́nh chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi :

    Tin Xuân gà gáy rách trời đêm
    Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm
    Đủ thấy điềm lành hai nửa nước
    Một nhà trong ấm với ngoài êm
    (Mở Bút ghi Điềm)

    Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên :

    Chữ lựa vần gieo đắc ư rồi
    Đèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi
    Nhựa say trà ngát thơ cao giọng
    Hỏi chúa xuân rằng : ai có ngôi ?
    (Hạnh phúc nào hơn)

    Vũ Hoàng Chương thi sĩ c̣n là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 120 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán :

    Kỷ Dậu hồi thanh
    Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên
    Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền
    Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ
    Hoà âm xuân thảo nhiễu b́nh nguyên

    Ông tự dịch :

    Tiếng vang lịch sử
    Đất xưa gà gáy mặt trời lên
    Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền
    Hoa mở cánh chào ngang dọc núi
    Hoà âm cỏ ngát xuống b́nh nguyên

    Đặng Tiến dịch ké :

    Gà thúc b́nh minh sông núi xưa
    Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa
    Sườn non lưng núi lời hoa mở
    Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa

    Vũ Hoàng Chương sinh năm ất Măo-1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn ... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời ḿnh, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc :

    Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
    Bến nằm dư biết đục hay trong
    (...)
    Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
    Để ngấn vàng gieo chợt rối ṿng

    Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài " Xúc Động Cuối Năm " thật buồn :

    Chơi xuân đất này không cỏ non
    Thơ không vàng nữa, ấn không son
    Hỡi ơi ḷng chợt đau như cắt
    Một nụ cười xuân cũng chẳng c̣n

    Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Đông Hồ : câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành : " xuân du thử địa vô phương thảo ", câu sau lấy ư từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa :

    Mùa vàng hoa mai hoa cúc
    Mùa son hoa phượng hoa vông
    (...)
    Mùa vàng giàu thật giàu
    Mùa son sang rất sang
    (Đông Hồ)

    " Một nụ cười xuân cũng chẳng c̣n ", là nhắc tên tập thơ " Cô Gái Xuân " (1935) của Đông Hồ.
    Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc :

    Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây
    Thương xuân ĺa cội, Tết sa lầy
    Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch
    Phá vỡ ṿng sao tự giải vây
    Mách cho Lă Vọng về đây
    Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi

    Tuư Ông ngồi rũ cánh Lan buồn
    Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn
    Thà đợi một mùa Xuân Đích Thực
    Âm thanh Cuồng sát tự d́m luôn
    (Xuân Đối Diện)

    Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời :

    Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
    Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
    Nh́n nhau chuột nhỏ tung tăng dạo
    Vừa uống sông xuân một bụng đầy
    (Nhâm Tư khai bút)

    Tác giả tự dịch ra Hán Văn :

    Trường chinh mộng hậu tức phong yên
    Thiên lư long câu vạn lư thuyền
    Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử
    ẩm hà măn phúc tuư xuân thiên

    Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy c̣n u ám lắm qua bài " Xuân Quạnh " :

    Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện
    Ngơ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu
    Lầu Vọng-giai-nhân măi quạnh nằm
    Ngày xưa Kim ốc chỉ mười năm
    Đắng cay thế vị ḷng vương giả
    Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm


    Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B 52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rơ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài " Đón Xuân Mười Chín " làm trước Tết Quư Sửu (nhằm ngày 3.2.1973) :

    Bấm đốt từ di cư đến nay
    Đón xuân vừa vặn hết bàn tay,
    Sang sông Ngựa đă hai lần hí
    Vạch đất Trâu thêm một luống cày
    Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
    Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
    Bút toan chạy ngược đau ḷng chữ
    Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây
    Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác
    Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say
    Hằng nga bỏ địa cầu đi măi
    Tết đến buồn không chịu vẽ mày
    Xưa rồi lửa phóng tên bay
    Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn
    Bóng ai trên đá ngồi gan
    Có nghe rung một giây đàn lẻ loi
    Trời xuân chẳng én đưa thoi
    Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua
    Nghé kêu đầy bến vàng hoa

    (dẫn trọn bài)


    Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quư Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi kư hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm :

    Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
    Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây

    Câu thơ ngụ ư : lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Đây là một câu thơ nặng t́nh dân tộc, nhưng không mấy người để ư, như một thứ cung đàn lẻ loi. Ngược lại, người ta bới móc những câu thơ " chống cộng " để lên án và hạ ngục Vũ Hoàng Chương khi có cơ hội.
    Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đă có những tính toán chi ly, chính xác : bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đă hai lần hư là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quư Sửu (1973). Hai vần mây và say nhắc tên hai tập thơ đầu tay ; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ư bài thơ làm tại Sài G̣n, tên cũ là Bến Nghé.

    Sau đó, hiệp định Paris kư ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quư Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu :

    Ma là Người ... kiếp khác
    Người là Trời ... đêm nay
    Nghe chừng lửa đă tắt
    Hai bờ Con-Sông này
    ờ nhỉ ! đâu c̣n Vết Cắt
    Sao ḷng ai vẫn chưa hay ?
    Nằm kia, người nín bặt
    Ṿng luân hồi đă ngược chiều quay
    Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày
    (Tin Xuân)

    Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh b́nh cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế : đất nước sẽ thanh b́nh và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân.
    Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuư Vũ Đoản Từ, trích toàn văn, v́ ít người c̣n lưu giữ :

    Cỏ Bồ ôm đá ngủ
    Trong tranh từ bao giờ
    Cho đến bây giờ
    C̣n say trong thơ
    Vườn bỗng hót vang chim Thuư Vũ
    Đèn xanh nến biếc đêm giao thừa
    Nét bút gầy theo mực úa
    Bao năm rồi tiêu sơ
    Có phải xuân đang từ đáy lụa
    Một chiều sâu không ai ngờ
    Truyền tin về giấc mơ
    ánh nguyệt mung lung cành lăng đăng
    Nghe ḷng trời đất ươm tơ
    Nguyệt vẽ mày cong dĩ văng
    Cành đơn hoa trắng tương tư
    Ôi thôi áo vải đă màu nâu thuyền đă hư
    Mối manh ǵ nữa c̣n ai nữa
    Đành kết vào hương Thuư vũ từ

    Tác giả giải thích : Thuư Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa : hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai . Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quư ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết " ta đành mất hết để c̣n nhau " (Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).
    * * *

    Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn, làm vào ngày Tết Bính Th́n, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu. Nhưng cũng v́ truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đă than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn :

    Vịnh tranh Gà Lợn

    Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
    Gà lợn, om ṣm rối bức tranh
    Rằng vách có tai, thơ có hoạ
    Biết ḷng ai đỏ, mắt ai xanh
    Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
    Ḷng lợn âm dương một tấc thành
    Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
    Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh

    Bà Vũ Hoàng Chương ghi chú : Thơ có hoạ có ba nghĩa : thơ có xướng th́ phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ : thơ phản nghịch là tai hoạ ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác : thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Đặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trăi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ư đến những tục ngữ : " dừng có mạch, vách có tai " ; " xanh vỏ đỏ ḷng ". Nhưng c̣n nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : " tranh tối tranh sáng ", " mắt xanh ", " mắt quáng gà ", " gà cùng một mẹ ", " lợn âm dương ", " con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi ". " Khúc tân thanh " ngụ ư " đoạn trường " . C̣n ư nghĩa, ngụ ư dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ th́ chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ.
    Chỉ mong văn giới ghi nhận : đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Th́n 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, " tam sao ", được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, giam ở ngục Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm th́ mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm B́nh Th́n, lúc 23 giờ.

    * * *

    Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm v́ yêu cầu của báo giới ; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để kư hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu.
    Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quư vị nào biết xin vui ḷng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này.

    Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong ḷng người đọc thường là :

    Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay.

    Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao h́nh thành trên mất mát.
    Cao quư và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.


    Đặng Tiến
    Paris, Tết dương lịch, 1/1/2001


    --------------------------------------------------------------------------------

  4. #884
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Nàng Vân này ác thật đấy !

    Bài dài vậy mà chẳng chịu chia làm 2,3 kỳ , làm người ta đọc xong thở hết nổi .

    Nàng nói sao không nghỉ chút , rồi đọc tiếp?

    Thế tôi hỏi nàng , nếu trước mặt nàng có một quả xoài tượng gọt sẵn, và một chén nước mắm ớt đường , nàng sẽ làm một lèo , hay vừa ăn vừa nghỉ đây ?

    Hihi! , Bài hay , mệt cũng đáng đấy chứ !

    Tigon

  5. #885
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    Gái Hà Lội di cư dô Sài G̣n ăn soài tượng

    Quote Originally Posted by Tigon View Post
    Nàng Vân này ác thật đấy !

    Bài dài vậy mà chẳng chịu chia làm 2,3 kỳ , làm người ta đọc xong thở hết nổi .

    Nàng nói sao không nghỉ chút , rồi đọc tiếp?

    Thế tôi hỏi nàng , nếu trước mặt nàng có một quả xoài tượng gọt sẵn, và một chén nước mắm ớt đường , nàng sẽ làm một lèo , hay vừa ăn vừa nghỉ đây ?

    Hihi! , Bài hay , mệt cũng đáng đấy chứ !

    Tigon
    Th́ phải làm một lèo mới đă... hi hi và
    đúng mí phong thái gái Sè G̣n...
    Nếu như c̣n ở Hà Nội, các nàng ngồi trên đường Cổ Ngư đưa ngón tay như búp lan nhón từng hạt cốm Ṿng trong miếng lá sen rồi bỏ vào miệng hoa; sau đó kín đáo liếc nh́n xung quanh xem cặp mắt của chàng trai nào đang say sưa điên dại....
    Chi TiGon va Hiền Muội Tiếng Xưa đồng ư không nào !?

  6. #886
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Nếu như c̣n ở Hà Nội, các nàng ngồi trên đường Cổ Ngư đưa ngón tay như búp lan nhón từng hạt cốm Ṿng trong miếng lá sen rồi bỏ vào miệng hoa; sau đó kín đáo liếc nh́n xung quanh xem cặp mắt của chàng trai nào đang say sưa điên dại....
    Chời chời ! Sao lại bật mí hết bí mật của tụi ḿnh vậy , hả Vân Nương ?

    Mấy ảnh đang cười ḱa !

    Đúng thế , con gái Hà Nội chúng tôi ngày xưa ăn như mèo . Ăn mau , ăn mạnh thế nào cũng bị các cụ doạ là ...ế chồng đấy ( gớm , ai mà sợ ? )

    TIGON

  7. #887
    Member
    Join Date
    13-09-2010
    Posts
    386

    nghe chuyện Hà nội.

    ối giơi ơi . cốm Vòng thơm ngon đã nửa chừng trong miệng hoa rồi thì có ngàn chàng đang say sưa điên dại thì em cũng ...lủm cái đã.
    Đã say đã điên thì dại là cái chắc...
    Hưổn đâu mà bỏ con mồi.
    Dù mồi có tệ chẳng thôi được nào.
    Thế là điên dại lao vào.
    Say sưa đắm đuối ngọt ngào miệng hoa.
    Hihi.

  8. #888
    Member
    Join Date
    15-10-2010
    Posts
    1,590
    Quote Originally Posted by Peterphu View Post
    ối giơi ơi . cốm Vòng thơm ngon đã nửa chừng trong miệng hoa rồi thì có ngàn chàng đang say sưa điên dại thì em cũng ...lủm cái đã.
    Đã say đã điên thì dại là cái chắc...
    Hưổn đâu mà bỏ con mồi.
    Dù mồi có tệ chẳng thôi được nào.
    Thế là điên dại lao vào.
    Say sưa đắm đuối ngọt ngào miệng hoa.
    Hihi.
    Thôi thôi thời ấy đã qua
    Cho dù có "tệ" cũng "trôi" đã ...đời
    Điên rồi có lúc tỉnh ra
    "Miệng hoa" thuở ấy đã thành ...cái loa!
    Bụng thời bảo dạ "tại ta"
    Khi xưa đắm nhụy say hoa một thời
    Hoa "tươi" rồi "héo" lẽ trời
    Có "điên" có "dại" cuả "Giời" tay ta!

  9. #889
    Member
    Join Date
    15-10-2010
    Posts
    1,590

    Du Xuân Hà Thành

    Lâu nay TX theo chân các "quan bác" dập dùi đất Hà thành ma bỗng dưng thấy mình cũng được như "người Hà Nội". Thôi thì sinh sau đẻ muộn, làm người Hà Nội ..."bản sao" đi vậy, các "quan bác" không phản đối chứ ạ?

    Cứ nghe nói Hà Nội 36 phố phường, mà không biết 36 phố phường được thanh lập từ khi nào? Do ai tổ chức mô hình ấy hay vô tình mà thành?
    Xin post tài liệu này để cùng tìm hiểu thêm.



    Vua Lê hiển Tông lập ra 36 phố phường?


    Trong nhiều tác phẩm văn học, âm nhạc, truyền h́nh hiện nay, chúng ta thường nghe đến cụm từ “Hà Nội 36 phố phường” nhưng xuất xứ và những thông tin liên quan đến nó không phải ai cũng biết.
    Tại buổi đối thoại trực tuyến với chủ đề: 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Những giá trị truyền thống tổ chức tháng 1/2010, tại Hà Nội, giáo sư sử học Lê Văn Lan đă trả lời vấn đề này như sau:

    “Chúng ra đang có 2 văn bản đều có tên: Hà Nội 36 phố phường, thực ra là 2 bài thơ - đúng hơn là hai bài vè - đều có tên là Hà Nội 36 phố phường. Một bản kể: Phồn hoa thứ nhất Long thành/36 phố rành rành chẳng sai… Bản kia cũng là Hà Nội 36 phố phường nhưng lại kể: Phồn hoa thứ nhất Long Thành/Phố giăng mắc cửi chạy quanh bàn cờ….. Nếu cộng các tên phố có trong các bài Hà Nội 36 phố phường th́ thấy có tất cả có hơn 50 phố.

    Văn bản có tên 36 phố phường ấy ra đời vào cuối thế kỷ 19, gây ấn tượng lớn nhưng không nên hiểu đó là sự đánh dấu của việc ra đời Hà Nội 36 phố phường, bởi Hà Nội 36 phố phường là điều không có trong lịch sử. Hà Nội chỉ có 36 phường vào thời Lê và có hơn 50 phố bắt đầu bằng chữ “Hàng” ở cuối thế kỷ 19.

    V́ sao mọi người hay nhắc tới câu Hà Nội 36 phố phường? Có lẽ “công tích” thuộc về nhà văn Thạch Lam. Tác phẩm Hà Nội 36 phố phường của Thạch Lam quá nổi tiếng, nên dù không là sự thật lịch sử th́ vẫn được mọi người đón nhận. Và người ta vẫn dùng Hà Nội 36 phố phường như 5 cửa ô của Văn Cao hay Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội của Nguyễn Đ́nh Thi.

    Một trong các số các bài ca về 36 phố phường được ghi trong sách Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm có nôi dung như sau: “Rủ nhau chơi khắp Long thành/Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:/Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,/Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay,/Mă Vĩ, hàng Điếu, hàng Giầy/Hàng Lờ, hàng Cót, hàng Mây, hàng Đàn,/Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Ngang,/Hàng Mă, hàng Mắm, hàng Than, hàng Đồng,/Hàng Muối, hàng Nón, cầu Đông,/Hàng Ḥm, hàng Đậu, hàng Bông, hàng Bè,/Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre,/Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng Gà,/Quanh đi đến phố hàng Da,/Trải xem hàng phố, thật là cũng xinh./Phồn hoa thứ nhất Long thành,/Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ/Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ/Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền”.

    Xét theo ghi chép của sách sử th́ 36 phố phường được đặt ra từ thời vua Lê Hiển Tông với mục đích duy nhất là thuận tiện hơn trong việc giữ ǵn an ninh, trật tự. Theo sách Đại Việt sử kư tục biên, vào tháng 12 năm Mậu Th́n niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748) triều đ́nh “hạ lệnh chia bên trong kinh thành làm 36 khu, mỗi khu đặt một quan coi giữ việc tuần pḥng, khám xét. Lại định phép ty tộc đoàn (liên kết các gia tộc ở gần nhau cùng giữ an ninh). Tiếp đó lại chia làm 9 điện, mỗi điện có 4 khu, mỗi khu đặt một viên chánh khu”.

    Trong tác phẩm Vũ Trung tùy bút của danh sĩ sống vào giai đoạn cuối thời Lê đầu thời Nguyễn là Phạm Đ́nh Hổ cho biết cụ thể hơn về điều này: “Kinh thành Thăng Long chia ra 36 phường, mỗi phường đặt một người phường trưởng. Lại đặt ra phủ Phụng Thiên có quan Phủ doăn, quan Thiếu doăn kiêm coi cả việc tuần phủ và việc liêm sát, đốc suất hai huyện Thọ Xương và Quảng Đức, mỗi huyện có quan Huyện úy cai trị. Toàn thành th́ cử một quan trọng thần sung chức Đề lĩnh tứ thành quân vụ, phân ra chánh phó hai dinh, chuyên coi việc cấm pḥng, xét hỏi.

    Song đất kinh thành đông đúc, nhà ở liễn nhau, thường có hỏa hoạn, lại nhiều những kẻ đầy tớ nhà quan, du đăng cờ bạc, gây chuyện đánh nhau, căi nhau, cùng là những kẻ vô lại trộm cắp, nhiều lắm không thể kể xiết được, chẳng khác ǵ lục hải khi xưa là nơi bể cạn, vật sản rất nhiều, mà lại không thiếu một hạng người nào cả. Đời Trịnh An Đô Vương (tức Trịnh Cương- TG), Nguyễn Công Hăng làm Thượng thư cầm quyền chính, mới chia hai huyện ra làm tám khu, mỗi khu đặt một người trưởng khu và một người phó khu; lại chia ra năm nhà là một tị, hai tị là một lư, mỗi lư cũng có một lư trưởng; bốn lư là một đoàn, mỗi đoàn đặt một quản giám, hai quản điểm, dưới quyền người khu trưởng và trực thuộc quan Đề lĩnh.

    Đó là phỏng cái ư cổ nhân bảo trợ phù tŕ lẫn nhau. Phàm những việc pḥng hỏa, pḥng trộm và nhất thiết những việc giao dịch thuế má đều ủy trách cho khu trưởng, đoàn trưởng cả. Bởi vậy, những con nhà khá giả coi thường, không thèm ra làm, chỉ để cho những côn đồ trong các xóm chợ ra làm. Bọn chúng cùng những kẻ ti thuộc quan Đề lĩnh thông nhau làm càn, rất phiền nhiễu cho dân phố. Ôi! “Sinh nhất sự bất như trừ nhất hại” (thêm ra một việc không bằng bớt đi một tai hại) lời nói ấy rất đúng.

    Theo lệ cũ, chốn kinh thành không phải chịu thuế dung, thuế điệu, chỉ tính từng dăy nhà, không cứ nhà quan hay nhà dân, hàng năm mỗi nhà phải chịu một suất đi sửa sang đắp lại nền cắm cờ tướng, dọn cỏ chung quanh cung đ́nh, cung ứng các việc kiến trúc. Họ phải thay phiên nhau sắm đủ dây đ̣n, câu liêm, thang tre, bó đuốc, thùng gánh nước để theo quân quan Đề lĩnh đi túc trực các nơi điếm canh, pḥng khi sai khiến; công việc rất là phiền nhiễu. Song tóm lại không tiền là không xong, chỉ làm nặng túi kẻ gian hoạt. Tuy bảo rằng “phù bản ức mạt” (bồi đắp gốc rễ, ngăn chặn ngọn cành), nhưng cũng không phải là biện pháp tốt của đời thái b́nh”.

    Đến thời vua Gia Long nhà Nguyễn, trong một số sách dư địa chí như cuốn “Các tổng, trấn, xă danh bị lăm”, “Hoàng Việt dư địa chí”… cho biết tên của 36 phường. Cụ thể, ở huyện Thọ Xương có 18 phường gồm: Yên Thọ, Hà Khẩu, Báo Thiên, Đông Hà, Đồng Xuân, Đông Tác, Đông Các, Cổ Vũ, Xă Đàn, Đồng Lạc, Thái Cực, Diên Hưng, Khúc Phố, Phục Cổ, Phúc Lâm, Kim Hoa, Hồng Mai, An Xá. Mười tám phường c̣n lại thuộc huyện Vĩnh Thuận là: Bích Câu, Quảng Bá, Thuỵ Chương, Yên Thái, Hoè Nhai, Tây Hồ, Nghi Tàm, Nhật Chiêu, Trích Sài, Vơng Thị, Bái Ấn, Yên Lăng, Công Bộ, Thạch Khối, Hồ Khẩu, Thịnh Quang, Yên Hoa và Quan Trạm.

    Vào năm Tân Măo (1831) vua Minh Mạng tiến hành cuộc cải cách lớn, trong đó có việc phân chia và đặt tên mới theo địa giới hành chính cấp tỉnh; lúc này Thăng Long xưa được sáp nhập với một số khu vực khác thành tỉnh Hà Nội với diện tích rộng hơn, gồm 4 phủ, 15 huyện so với Thăng Long xưa. Trong số 15 huyện của Hà Nội vẫn có 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức, 36 phố phường đều nằm trong địa phận hai huyện này. Sách “Hoàng Việt dư địa chí” in vào năm Qúy Tị (1833) cho biết như sau: “Phủ Hoài Đức, xưa là phủ Phụng Thiên có hai huyện, 13 tổng, 249 thôn phường. Huyện Thọ Xương: 18 phường. Huyện Vĩnh Thuận (xưa là huyện Quảng Đức): 18 phường”.

    Trải qua thời gian và biến thiên của lịch sử, phố phường Hà Nội xưa đă thay đổi nhiều về tên gọi, số lượng cũng như diện tích nhưng một số vẫn giữ nguyên tên cũ như gợi nhắc cho những tâm hồn hoài niệm về một Hà Nội trong quá khứ.


    Trích từ Baodatviet

  10. #890
    Member Nguyễn Mạnh Quốc's Avatar
    Join Date
    25-03-2011
    Posts
    4,374

    ...hoài niệm...

    Quote Originally Posted by Vân Nương View Post
    Th́ phải làm một lèo mới đă... hi hi và
    đúng mí phong thái gái Sè G̣n...
    Nếu như c̣n ở Hà Nội, các nàng ngồi trên đường Cổ Ngư đưa ngón tay như búp lan nhón từng hạt cốm Ṿng trong miếng lá sen rồi bỏ vào miệng hoa; sau đó kín đáo liếc nh́n xung quanh xem cặp mắt của chàng trai nào đang say sưa điên dại....
    Chi TiGon va Hiền Muội Tiếng Xưa đồng ư không nào !?
    ....
    ...thời đó đă xa rồi.. và ngày đó.. các cô đến tuổi cặp kê(lấy chồng).. th́ cứ đến đầu tháng tám (âm lịch).. là lại mong có ai đến chơi (khach đến thăm...thời này lập gia đ́nh do bố mẹ hay như họ hàng kén chọn cho..).. vi vậy thường nói; hồng cốm tốt đôi.
    Cứ tưởng ḷng ḿnh là hương cốm !
    ..... chẳng biết tay ai làm lá sen...??
    quí Bạn vô YOU TUBE... t́m nghe nhac phẩm;( niệm khúc cuối " cuar Ngô thuỵ Miên....... nmq((

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 5 users browsing this thread. (0 members and 5 guests)

Similar Threads

  1. Chuyện nghe được từ ngướ không quen
    By Dac Trung in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 10-10-2012, 12:25 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-05-2012, 10:37 PM
  3. Bắt Buộc Phải Nghe
    By Dean Nguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 19-01-2012, 08:34 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 31-07-2011, 05:33 PM
  5. Tưởng Niệm Tháng 4 Đen Nghe Nhạc Lính VNCH
    By Camlydalat in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 18
    Last Post: 25-04-2011, 06:28 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •