Page 229 of 304 FirstFirst ... 129179219225226227228229230231232233239279 ... LastLast
Results 2,281 to 2,290 of 3035

Thread: Nghe Chuyện Hà Nội

  1. #2281
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 5

    Trường Chinh tổ chức tọa đàm

    Theo tin trên Nhân Văn số 4 ra ngày 5/11/56, th́ ngày 20/10/56 bắt đầu cuộc tọa đàm giữa đại diện ban chấp hành Trung Ương đảng Lao Động Việt Nam và các ngành văn học nghệ thuật. Ba buổi tọa đàm này được tổ chức những ngày: 20, 21, và tối 23/10/56 (22 ).

    Vơ Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn, viết:

    "Ngay từ khi chúng xuất bản "Giai phẩm mùa thu" tập I và Nhân Văn số I, giới văn nghệ sĩ ta đă thấy rơ tính chất phản động của chúng, nên đă kịp thời phê phán chúng trước dư luận nhân dân. Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam muốn mở đường cho chúng hối cải, nên tuy rất bận về công tác sửa sai rất khẩn trương, cũng đă để th́ giờ gặp chúng đến ba lần, để nghe chúng phát biểu thắc mắc nguyện vọng và nghe chúng phê b́nh sự lănh đạo của cán bộ phụ trách văn nghệ của Đảng rồi khuyên bảo chúng những điều nên làm và những việc nên tránh ( 23) ".

    Lê Đạt viết trong bản "tự thú":

    "Sau cuộc tọa đàm với Trung Ương, tôi viết bài “Hoan nghênh Trung Ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng” để gây thanh thế cho báo Nhân Văn. Một mặt khác tôi luôn luôn đả kích chuyên chính vô sản mà tôi cho là độc tài. Tôi tung ra trong anh em lập luận: “Từ khi về hoà b́nh mất đối tượng đế quốc và địa chủ, Đảng chĩa nhầm mũi dùi chuyên chính vào nhân dân” (24) .

    Trần Dần viết trong bài "tự thú":

    "Khoảng Nhân Văn số 3, tôi được cử đi gặp Trung Ương Đảng. Tôi chuẩn bị kết án sự lănh đạo văn nghệ trước, và đ̣i trăm hoa đua nở. Song mọi người nói cả rồi nên thôi (sau có viết bài đăng báo Nhân Văn). Trước cuộc họp tọa đàm này, Nguyễn Hữu Đang có họp tôi không dự, nội dung đâu như chuẩn bị ra một số đặc biệt, lợi dụng cuộc tọa đàm với Trung Ương đem mọi lời phát biểu phơi trần ra công khai đánh vào Đảng (25) ".

    Theo lời khai trên đây của Trần Dần, th́ từ sau số 3, ông không c̣n "ở ngoài" Nhân Văn (như ông đă khai ở phần trên) mà đă "vào trong" Nhân Văn. Trần Dần đến dự buổi tọa đàm với mục đích "kết án sự lănh đạo văn nghệ" và "đ̣i hỏi trăm hoa đua nở", nhưng chưa kịp nói th́ "mọi người đă nói cả rồi".

    Mặc dù tên Trường Chinh không được chính thức nêu ra -có lẽ v́ ông đă lệnh cho báo chí không được viết về vụ tọa đàm- nhưng qua băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, th́ Trung Ương Đảng ở đây chính là Trường Chinh:
    "Trong thời gian từ số 3 đến số 5 Nhân Văn, ông Trường Chinh (26) mời một số nhà báo đến họp tại trụ sở Trung Ương Đảng. Địa điểm trông ra hồ Ha-Le, sau này là đại sứ quán Lào. Giấy mời kư tên Phan Mỹ, đổng lư văn pḥng Phủ Thủ Tướng. Đại diện các báo có đủ cả: Thanh Niên, Trăm Hoa, Phụ Nữ...

    Báo Nhân Văn đi dự gồm: Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Trần Duy, Lê Đạt, Trần Dần không đi (27 ), Phùng Quán c̣n non nớt quá, chúng tôi không cử.
    Thụy An cũng đi, không hiểu ví lư do ǵ. Thụy An không làm báo Nhân Văn nhưng rất thân với Lê Đạt và Phùng Quán, có thể là chính ông Trường Chinh mời, v́ bà ở trong Hội Văn Nghệ.

    Ông Trường Chinh ngồi một ḿnh một bàn ở trên, ông tuyên bố ngắn gọn, đại ư: Hôm nay tôi mời các báo đến để xem t́nh h́nh trong nước, t́nh h́nh thế giới, vậy xin các bạn cứ phát biểu tự do, nói lên những nguyện vọng của ḿnh.
    Không có thư kư, ông ghi lấy, ai nói ǵ ông cũng ghi, ông ghi lia lịa. Trong khi mọi người phát biểu th́ chúng tôi vẫn có thể nói chuyện th́ thầm với nhau.

    Tôi ngồi đối diện ông Tố Hữu. Trần Duy đối diện ông Xuân Thuỷ. Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt ngồi riêng.
    Ông Tố Hữu nói với tôi bằng một giọng rất nhỏ nhẹ, đại ư: qua những số báo Nhân Văn vừa rồi, tôi thấy anh viết những điều không có lợi cho Đảng ... Tôi chỉ mỉm cười không trả lời.

    Những người lên phát biểu chỉ trích những sai trái của lănh đạo. Tôi lên nói về vụ Trần Dần, Tử Phác, một nhà thơ và một nhạc sĩ, chỉ v́ một bài đăng trên Giai Phẩm Mùa Xuân mà bị bắt giam xuống một cái hầm ,đă giam những tội phạm chính trị của thực dân Pháp, chứng tỏ có một cá nhân nào đă lợi dụng quyền thế để đàn áp văn nghệ sĩ, tôi yêu cầu Đảng và nhà nước, t́m ra ai là thủ phạm, ai là người xướng xuất ra vụ bắt bớ này. Ông Trường Chinh chỉ ghi, chứ không nói ǵ.

    Anh Nguyễn Bính lên tố cáo bị Thiết Vũ đánh. Ông Trường Chinh vẫn ghi rất nhanh vào cuốn sổ riêng. Thụy An, Nguyễn Hữu Loan cũng phát biểu, về những hiện tượng "không tốt đẹp" ở miền Bắc ... th́ ông Trường Chinh cũng cứ ghi, ghi rất nhanh mà không nói ǵ.
    Lúc văn họp, ông mới nói đại ư: Tôi yêu cầu các báo giữ kín, không được tường thuật, không đăng một tư ǵ.
    Về, th́ ông Đang bảo: Ông Trường Chinh bảo không đăng, không tường thuật, ḿnh cứ đăng chứ sợ ǵ, làm ngắn thôi và viết đúng như sự thật.

    Riêng Văn Cao, th́ đến số mấy tôi không nhớ rơ, tôi có lấy một đoạn thơ của Văn Cao trong bài Cửa biển (28 ) đăng lên, Văn Cao không nói ǵ, tức là đồng ư.
    Văn Cao không tham gia trực tiếp Nhân Văn, nhưng hôm họp với ông Trường Chinh, Văn Cao phát biểu đại ư: Tôi thấy báo Nhân Văn nói lên được tâm tư nguyện vọng của văn nghệ sĩ, Nhân Văn sống trong trái tim tôi.

    Thế th́ độ 3, 4 ngày sau buổi họp này, Văn Cao kể lại với tôi: ông Trường Chinh mời riêng Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, và tao lên. Ông ấy ghê lắm, đối với Nguyễn Tuân th́ ông ấy nói rất dịu dàng, đại để: các nhà văn có tên tuổi th́ nên giúp Đảng lănh đạo nhân dân cho tốt, nếu thấy Đảng sai th́ nên thân mật gặp tôi hoặc đồng chí nào ở Bộ Chính Trị, ư ông ấy muốn bảo là đừng viết báo nhưng không nói rơ ra.
    Đối với tao, ông ấy gay gắt hơn: Thế nào, đồng chí Văn Cao cũng ủng hộ Nhân Văn à? - Thế mày có trả lời ǵ không? Tao bảo: Vâng, tôi ủng hộ họ v́ tôi nghĩ họ tốt. C̣n Nguyễn Huy Tưởng th́ bị ông ấy xát xà pḥng: Anh Tưởng, anh là đảng viên mà anh để cho chúng nó chửi Đảng như thế mà anh ngồi yên được à? Nguyễn Huy Tưởng chỉ ngồi yên, b́nh tĩnh, nét mặt không thay đổi, không trả lời ǵ cả". (29 )

    Lời khai của Lê Đạt, Trần Dần và lời thuật của Hoàng Cầm chứng tỏ, nhóm NVGP và một số văn nghệ sĩ, đối diện với Trường Chinh, trong tọa đàm tháng 10/56, có vẻ không sợ hăi ǵ cả. Trường Chinh để họ thoải mái chống đối, chỉ lặng lẽ ghi. Ông ra lệnh không được tường thuật vụ tọa đàm, nhưng Nhân Văn làm ngược lại, viết hai bài rất mạnh trên số 4 về tọa đàm. Hai bài này đánh dấu không khí căng thẳng giữa lănh tụ và các văn nghệ sĩ tự do và ngôn ngữ mạnh bạo trên tờ Nhân Văn. Bài Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa, kư tên Người Quan Sát, mở đầu như sau:

    "Bước đầu để thực hiện quyết định của Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Tăng cường bảo đảm quyền tự do của nhân dân và trừng trị kịp thời, đúng mức những hành động vi phạm pháp luật. Chúng tôi đề nghị có những biện pháp thích đáng trừng trị Nguyễn Văn Tố tức Thiết Vũ trong việc hành hung chủ nhiệm báo Trăm hoa. Sở báo chí Trung ương phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này".

    Và Người Quan Sát tường thuật vụ việc như sau:

    "Theo lời ông Nguyễn Bính chính thức báo cáo trong hai buổi tọa đàm của đại diện Trung ương Đảng Lao động, th́ trước khi báo Trăm Hoa mới ra số 1( 30) , Nguyễn Văn Tố tức Thiết Vũ, cán bộ của Sở báo chí, đến đưa cho ông 2 bài đả kích báo Nhân Văn, rồi yêu cầu đăng và đồng thời cũng mập mờ lấy danh nghiă cơ quan hứa hẹn cấp giấy rẻ cho báo Trăm Hoa thừa hai "ram" (31 )để in, không hết sẽ bán theo giá thị trường (rất cao) mà tiêu dùng. Ông Nguyễn Bính không từ chối ngay việc mua đó, nhưng cũng không đăng hai bài báo kia, lấy cớ là không hay. Sau đó báo Trăm Hoa xin cấp giấy cho số 2, th́ bị Sở (...) Trung ương Đảng trong buổi tọa đàm ngày 20/10( 32) .

    Thế là chiều hôm thứ hai 21/10, Nguyễn Văn Tố đến trụ sở báo Trăm Hoa, vẫn lấy danh nghĩa Sở Báo Chí, mà chất vấn ông Bính về chuyện báo cáo hôm qua rồi dùng những lời thô bỉ, thậm tệ mà lăng mạ ông, lại toan hành hung ông nữa. Ông Bính phải chạy ra ngoài cửa hô hoán lên, hàng phố kéo đến, người qua đường dừng bước, thành một đám đông. Sau đó ông Bính nhờ người đi báo công an, các bạn đồng nghiệp, Hội Văn Nghệ và Sở Báo Chí.

    Thế rồi có cuộc thương lượng giữa ông Trần Minh Tước, giám đốc sở Báo chí và ông Bính. Kết quả chúng ta đă biết: Nguyễn Văn Tố viết một bức thư xin lỗi đăng trên báo Trăm Hoa số 2 và đến tự kiểm thảo trong một buổi họp nhân dân khu phố. Đến đây câu chuyện xoay chiều. V́ những lư do bí ẩn nào chúng tôi không rơ.
    Chúng tôi chỉ biết bức thư xin lỗi và cuộc kiểm thảo kia đưa ra những sự việc khác hẳn những sự việc mà ông Bính đă chính thức báo cáo trong hai buổi tọa đàm ngày 21/10 và tối 23/10".

    Bài báo kết luận: "Người ta biết rằng chủ nhiệm báo Trăm Hoa v́ đi dự tọa đàm với đại diện Trung ương Đảng, có báo cáo chuyện mua chuộc và trả thù bỉ ổi nên trở về bị lăng mạ và suưt bị hành hung. Việc đó có một ư nghiă xúc phạm gián tiếp đến cuộc tọa đàm không c̣n ra thể thống ǵ nữa.
    Người ta lại biết rằng gần đây các giới văn nghệ sĩ và trí thức thắc mắc rất nhiều về vấn đề bảo vệ nhân phẩm của văn nghệ sĩ, trí thức và quyền tự do dân chủ, giữa lúc này mà ngay sát cạnh Trung ương Đảng và Chính phủ, một cán bộ của Sở Báo Chí ngang nhiên láo xược, hung hăn đối với một văn nghệ sĩ lại là chủ nhiệm kiêm chủ bút một tờ báo, th́ hăy hỏi y muốn chứng minh điều ǵ có lợi cho chính sách, cho chế độ?"

    Tuy không nêu tên Trường Chinh, nhưng tác giả trực tiếp buộc tội "Trung Ương" dung túng sự "láo xược, hung hăn" của một cán bộ thừa hành; và ông đ̣i hỏi giới "thẩm quyền" phải có một "biện pháp cụ thể" không được "dung túng bọn sâu mọt", phải ngăn ngừa những "hành động côn đồ, manh động" không để "xẩy ra giữa thủ đô, chứ đừng nói ǵ đến tự do dân chủ vội". Lập luận này xác định người viết là Nguyễn Hữu Đang.

    Bài Hoan nghênh trung ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng của Lê Đạt mạnh mẽ trong một chiều hướng khác, ông viết: "Ngày 20/10/56, đă bắt đầu cuộc tọa đàm giữa đại diện Ban chấp hành trung ương Đảng Lao Động và (...) đủ các ngành (...) điện ảnh. Ban (...) Nhân Văn đă đề cử ba đại biểu đến tham dự.

    Từ mấy tháng nay cuộc đấu tranh sôi nổi và công khai của anh em văn nghệ sĩ chống những tệ lậu của bè phái lănh đạo đ̣i thực sự mở rộng tự do dân chủ đă bị một số người hiểu lầm.
    Họ gán ghép cho anh em những chiếc mũ không tốt: bất măn, địa vị, thậm chí phản động. Cuộc tọa đàm này là một trả lời thích đáng cho những hạng người đó.
    Nó chứng tỏ rằng cuộc đấu tranh của anh em căn bản là đúng, rằng anh em không phải là một nhóm người bất măn đê tiện, mà là những người tha thiết v́ dân v́ Đảng muốn đóng góp phần xây dựng của ḿnh".

    Bài báo kết luận: "Cuộc tọa đàm mới bắt đầu và c̣n tiếp tục nhưng chúng ta có đầy đủ cơ sở để đấu tranh và tin tưởng".
    Lập luận của Lê Đạt rất khôn khéo: Chúng tôi đấu tranh đ̣i dân chủ, nhưng không chống Đảng. Buổi tọa đàm này "chứng tỏ bản chất của chế độ thực sự là dân chủ", mới chỉ là bước đầu, chúng tôi sẽ tiếp tục những bước kế tiếp.

    Tóm lại, khi Phan Khôi đi vắng, Phạm Văn Đồng gọi Trần Duy, lúc đó thay quyền chủ nhiệm, lên gặp riêng, là có ư ǵ? Nếu Phan Khôi không đi Trung Quốc, liệu Phạm Văn Đồng có "dám gọi" Phan Khôi lên gặp riêng không?
    Việc Trường Chinh tổ chức tọa đàm và Phạm Văn Đồng gặp riêng Trần Duy, hẳn là chính sách hợp nhất của trung ương, có gây ít nhiều chia rẽ trong nội bộ Nhân Văn. Trần Duy cho biết lúc đó ban biên tập đă định đưa Trần Công vào thay thế ông, nhưng rồi cũng thôi.

    Tuy nhiên, hành động của trung ương tạo hai nghi vấn:

    - Lợi dụng lúc Phan Khôi vắng mặt, Phạm Văn Đồng gọi Trần Duy lên gặp riêng và khi trả lời phỏng vấn RFI, ông tỏ vẻ chấp thuận giải pháp "không nên đấu tranh, có yêu cầu ǵ th́ nói thẳng với trung ương", của ông Đồng. Nhưng tại sao trong buổi họp Nhân Văn số 4, chính Trần Duy lại "đưa ra chủ trương đề cập đến những vấn đề chính trị mạnh hơn nữa" như lời khai của Lê Đạt? Và bài ông viết trong Nhân Văn số 4 chống đảng rất mạnh.Vậy những ǵ đă thực sự xẩy ra trong buổi gặp riêng này?

    - Trường Chinh tổ chức tọa đàm để chứng tỏ tính dân chủ của Đảng hay để dụ dỗ những người phản đối nói hết gan ruột ḿnh, ông chỉ việc ghi chép, rồi sập lưới bắt trọn ổ?
    Dù sao chăng nữa, sau việc Trần Duy lên gặp Phạm Văn Đồng và Trường Chinh tổ chức tọa đàm, Nhân Văn số 4 nghiêng hẳn sang đấu tranh chính trị.


    Còn tiếp ...

  2. #2282
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 5

    Ngơ quặt chính trị của Nhân Văn số 4, số 5 và số 6

    Nhân Văn số 4 ra ngày 5/11/1956. Ngoài hai bài Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa, và Hoan nghênh Trung Ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng, đă nói ở trên, Nguyễn Hữu Đang lần đầu tiên kư tên thật, trong bài xă luận Cần phải chính quy hơn nữa, đặt vấn đề cần phải xây dựng một nhà nước pháp trị.
    Bài Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ của Trần Duy, với sự góp ư của Lê Đạt, chỉ trích đảng cố t́nh đàn áp Nhân Văn. Phùng Cung xuất hiện với truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh. Văn Cao đăng bài thơ Những ngày báo hiệu mùa xuân, như để trả lời sự đe nẹt của Trường Chinh. Thanh Châu viết phóng sự Mua hàng mậu dịch. Những bài chính luận và sáng tác trong Nhân Văn số 4 mang tính cách đấu tranh chính trị xă hội quyết liệt. Hoàng Cầm viết trong bản "tự thú":

    "Từ sau số 3 Nhân Văn, càng ngày tôi càng thấy tờ báo bị công kích dữ, nhất là sau số 4, Nhân Văn bị thi hành kỷ luật (33) , tôi bắt đầu chùn và muốn lảng ra, không phải v́ tư tưởng chống Đảng đă giảm đi mà chính là v́ sợ, muốn t́m chỗ yên thân, nên tôi lại cố sức đi vận động Trần Duy đóng cửa báo - muốn lảng ra không được, tên Trần Đức Thảo lại thuyết phục, tôi vẫn bị hút vào, nhưng vẫn chân trong chân ngoài chỉ chực trốn.
    Thời kỳ cuối Nhân Văn, cái tính chất “văn dốt, vũ rát” (nhát) của tôi biểu hiện rất rơ ràng: nghe ư kiến của Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang nêu ra những “trách nhiệm với lịch sử” để tiếp tục ra báo, tôi cũng thấy phải - Về gặp Văn Cao, Trần Dần nêu ra vấn đề “đóng cửa báo, v́ tờ báo đang phiêu lưu, dễ bị đánh chết” tôi lại thấy phải (34) ".

    Qua lời khai của Hoàng Cầm, sau số 4, Hoàng Cầm, Văn Cao, Trần Dần muốn rút lui, đóng cửa báo; trong khi Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo và Lê Đạt nhất quyết tiếp tục ra báo trong hướng đấu tranh chính trị. Vai tṛ hướng dẫn tư tưởng của Trần Đức Thảo và hướng dẫn cách viết của Lê Đạt nổi bật trong Nhân Văn số 4.

    Trần Dần khai: "Tới Nhân Văn số 4 tôi nhận được giấy triệu tập đến họp về vấn đề: Báo có chuyển sang chính trị hay không? Trần Duy kư. Địa điểm ở nhà Trần Duy. Thực ra từ số 1 bọn Đang, Phan Khôi đă đ̣i làm chính trị và báo Nhân Văn đă đề cập đến vấn đề tự do dân chủ ở mức độ nào đó rồi. Âm mưu chính trị có từ đó, đến nay nhân thời cơ thế giới, bọn họ muốn đẩy mạnh phần chính trị lên ḥng làm sôi sục t́nh h́nh Việt Nam, gây ra những sự biến chính trị, nếu có thể.

    Tôi ngửi thấy sự nguy hiểm đó, tuy không rơ. Đến cuộc họp tôi can họ “sang chính trị sẽ bị bóp chết ngay.” Vẫn chỉ là cái ư thức sợ phong trào bị tổn thất nặng. Song Trần Đức Thảo (tôi gặp lần đầu) hắn nói: “Văn nghệ và chính trị không thể tách được, không có tự do dân chủ, làm sao có tự do sáng tác? Báo nên sang mọi vấn đề chính trị tùy cách mà bàn thôi!” Ư kiến hắn có poids (35) cuộc họp bị hắn dắt mũi đi.

    T́nh h́nh gay gắt lắm rồi, tôi t́m Văn Cao. Văn Cao bảo “nên vận động đóng cửa báo, anh em đỡ thiệt hại, trên có đánh sẽ bị hẫng! Tôi hoàn toàn đồng ư. Đi vận động một số người đă ngả rồi, đến cuộc họp có Trường Xuân dự (bịa tin là Hồ Chủ tịch bảo con dao mổ trâu không đem giết gà) th́ anh em lại bị bọn Trần Duy, Trường Xuân chúng dắt đi (36) ".

    Lê Đạt trong bài "thú nhận", viết: "Lúc này tôi vẫn c̣n ở trong Đảng, nhưng tư tưởng chống đối trong tôi đă phát triển mạnh. Tôi c̣n tán thành và đi nói với anh em quan điểm của Nguyễn Hữu Đang. Bản thân tôi cũng từng nói “Đảng trị” cho nên trong cuộc họp số 4, Trần Đức Thảo, Trần Duy đưa ra chủ trương đề cập đến những vấn đề chính trị mạnh hơn nữa tôi cũng đồng ư". (...)

    Tôi góp ư kiến với Trần Duy trong bài “Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ” sửa chữa nhiều đoạn:
    “Đấu tranh cho tự do dân chủ là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ v́ nó là một cuộc tấn công quyết liệt vào những tệ lậu hủ bại của xă hội. Nó sẽ bị những phần tử tệ lậu và hủ bại hiện đương c̣n quyền hành và thế lực cản trở xuyên tạc phá hoại có khi bằng cả những phương pháp đen tối độc ác (chỗ này tôi ám chỉ các đồng chí lănh tụ) đấu tranh cho tự do dân chủ không bao giờ chỉ là một công việc thuần tuư có tính chất quần chúng rộng răi (...)

    Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài "Mậu dịch" và c̣n dự định vận động Thanh Châu viết về vấn đề nhà cửa. Tôi góp ư kiến vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch (...) Tôi lại viết "lời toà soạn" cho truyện "Con ngựa già" của Phùng Cung, đả kích và vu khống lănh đạo văn nghệ không chú ư đến các nhà văn trẻ (37 )".

    Kết quả là trên Nhân Văn số 4, Nguyễn Hữu Đang công khai đ̣i hỏi một nhà nước pháp quyền và đến Nhân Văn số 5, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt tiến xa hơn nữa.
    Nhân Văn số 5 ra ngày 20/11/1956 với hai bài xă luận chính: Hiến pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? của Nguyễn Hữu Đang, nội dung đề nghị sửa đổi Hiến pháp 1956, hoặc làm một hiến pháp mới, và Bài học Ba Lan và Hung-ga-ry kư tên Người Quan Sát, do Lê Đạt viết, ngụ ư nếu chính quyền không chịu cải tổ chính trị th́ miền Bắc Việt Nam sẽ trở thành một Ba Lan, một Hung-ga-ry.

    Lê Đạt viết trong bài "thú nhận":
    "Tôi đồng ư với Nguyễn Hữu Đang đề cập đến vấn đề Hiến Pháp để làm áp lực chuẩn bị cho việc sửa đổi Hiến Pháp sắp đem bàn ở Quốc Hội. (...) "Trên thế giới lúc đó xẩy ra hai sự kiện: Vụ Poznan và vụ Hung-ga-ri. Lúc đó tôi rất bất măn với nhận định của Đảng về vấn đề Hung-ga-ri mà tôi cho là “đổ tất cả cho địch” đồng thời đề ra khẩu hiệu tăng cường chuyên chính.

    Tôi viết bài “Bài học Ba Lan, Hung-ga-ri” để làm áp lực đấu tranh với quan điểm đó (...) Quan điểm của Trần Dần trong bài “Phải để cho trăm hoa đua nở (38) " cũng là quan điểm của tôi và Trần Dần thường bàn chủ trương “Đảng không thể quyết định, quần chúng mới là trọng tài tối cao (39) ".

    Về Nhân Văn số 6, Trần Duy cho biết: "Xong số 3, tôi chuẩn bị mấy số sau, cái affiche về Ba Lan th́ chính tôi lên tiếp xúc với sứ quán Ba Lan, họ cho tôi tất cả tài liệu, affiche, tranh ảnh về Ba Lan và tôi đang định làm số đó. Nhưng sau vụ tôi lên gặp ông Đồng ấy, th́ ông Đang ông ấy đùng đùng ông tự động thay đổi. Lê Đạt cũng bảo cái chuyện mà Đang lên nhà in tự động thay đổi nội dung rất là nguy hiểm. Th́ rồi xẩy ra việc mà bên công an can thiệp, nhưng không can thiệp đến ban biên tập, không can thiệp đến người, chỉ đ́nh số báo lại và không cho phát hành. Nếu số báo ấy ra th́ chưa biết t́nh h́nh sẽ đi đến đâu. Tất cả số báo đó tôi hoàn toàn không biết (40 )".

    Lê Đạt viết trong lời thú nhận: "Đến số 6, Đang mượn được một số France Observateur, bàn nên ra một số đặc biệt về Ba Lan. Tôi rất tán thành cho rằng Đảng ta hay bưng bít tài liệu bây giờ đấu tranh bằng cách tŕnh bày những tài liệu nước ngoài tác dụng rất tốt mà Đảng có muốn phê b́nh cũng không làm ǵ được. Đây cũng là một chiến thuật tốt để tấn công Đảng. Bài vở số này do Đang và Trần Duy sắp xếp.
    Về bài xă luận của Nguyễn Hữu Đang tôi cũng xem cũng như những bài xă luận mấy số 4, 5 trước khi Nguyễn Hữu Đang đưa in. Đọc đến chỗ “nhân dân có quyền biểu t́nh”, tôi hỏi. Nguyễn Hữu Đang trả lời “Báo Nhân Dân đă khoẻ chửi, đánh cho một đ̣n như thế là chịu”. (Chỗ này Nguyễn Hữu Đang chơi chữ: Lê Đạt hỏi nhân dân, Nguyễn Hữu Đang trả lời Nhân Dân)

    Lúc đó tất cả tâm trí tôi chỉ lo đối phó với các báo của Đảng, nên đồng t́nh. Trong lúc đương in số 6, th́ phong trào phản đối lên mạnh. Tôi muốn đóng cửa. Nhưng trong cuộc họp chủ trương tiếp tục, Trần Đức Thảo và Trường Xuân, Phan Khôi thắng thế.

    Nhưng kết quả báo cũng bị đóng cửa. Tôi ngại Chi Bộ thi hành kỷ luật và cũng hoang mang, ngại sự phẫn nộ của quần chúng không biết làm thế nào nên lánh mặt và không gặp anh em nữa".

    "Đôi lúc tôi có nghĩ “Giá có biểu t́nh để Trung Ương thay đổi đường lối th́ tốt”. Nhưng lại lo không muốn biểu t́nh xảy ra v́ nếu có “một là tôi sẽ bị bắt vào Hoả Ḷ, hai là trong lúc hỗn quân hỗn quan sẽ bị treo cổ”.
    "Giữa tôi và Nguyễn Hữu Đang lúc đầu không phải là khác nhau về lập trường chống đối mà chính chỉ khác nhau về phương pháp mà thôi (41) ".

    Như vậy, trong những ngày cuối cùng của Nhân Văn: Trần Đức Thảo, Phan Khôi vẫn là hai kiện tướng.
    Trường Xuân chưa rơ là ai.

    Ngày 09/12/1956, Hồ Chí Minh kư sắc lệnh: Báo chí phải "phục vụ công nông binh", phục vụ nền "chuyên chính vô sản". Phạt tù 5 năm đến khổ sai chung thân kẻ nào vi phạm các cấm điều.

    Theo Hoàng Văn Chí, những điều khoản trong sắc lệnh 15/12/56 42 đă được ban bố từ tháng 10/54, sau khi tiếp thu Hà Nội. Nhưng lúc đó báo chí phần lớn đều là của Đảng, nên những cấm điều chỉ "giao hẹn mồm" mà vẫn được áp dụng triệt để:

    - Không được chống chính phủ, chống chế độ.
    - Không được xúi giục nhân dân làm loạn.
    - Không được nói xấu các nước bạn.
    - Không được tiết lộ bí mật quân sự.
    - Không được đăng bài vở có phương hại đến thuần phong mỹ tục (43) .

    Nhưng từ khi Nhân Văn Giai Phẩm xuất hiện, những tờ báo "đối lập" này không tuân thủ những cấm điều nữa: Nội dung bài vở chuyển tải rơ ràng ư chống Đảng, chống chế độ.
    Ngày 15/12/1956, Nhân Văn số 6 đang in, bị chận lại và bị thu hồi.


    Còn tiếp ...

  3. #2283
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 5

    Nhân Văn số 6: chủ tâm của chính quyền
    Nhờ băng ghi âm Hoàng Cầm, chúng ta biết thêm một số dữ kiện về ba nhân vật đă đóng góp tích cực vào việc triệt hạ báo Nhân Văn: Diên Hồng, Trường Xuân và Lê Nguyên Chí.

    pb]♦ Diên Hồng[/b]

    Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm cho biết:

    "Khi Nhân Văn ra số 1 rồi, có một người đến t́m gặp tôi, hóa ra anh Diên Hồng quen tôi từ 1947 trong kháng chiến. Anh là người đă tổ chức cho tôi và Tuyết Khanh diễn vở kịch Lên đường ở làng Dĩnh Sơn. Sau đó, tôi c̣n gặp lại anh trong bộ đội nhiều lần nữa, anh rất nhiệt thành và tôi rất quư anh. Anh nói riêng với tôi: Em thấy Nhân Văn số 1 nó hay quá, em muốn giúp các anh quản trị tờ báo cho có lời, em quen việc này rồi, hiện nay, em đang làm cán bộ quản lư cho một tiểu đoàn 44 th́ việc tờ báo của các anh là rất dễ, em làm được.

    Lúc bấy giờ, anh em chúng tôi chỉ biết làm báo, viết bài, chứ có thạo quản trị đâu. Thấy anh ấy là người quen từ trước, lại tốt bụng, chịu quản lư hộ không lương, nên mọi người hoan nghênh lắm, đồng ư giao lại cho anh ấy, để yên tâm viết bài. Thế th́ quả nhiên anh ta làm 4 số báo, từ số 2 đến số 5, sổ sách hết sức phân minh, đâu ra đấy, đều đưa cho tôi xem cả. Chính Diên Hồng đề nghị in lại năm số Nhân Văn, mỗi số từ hai vạn đến hai vạn rưởi, bán hết, tờ báo càng ngày càng lời, hết số 5 th́ tiền lời lên đến 364 triệu, so với tiền năm 1998 này, có thể thành 1800 triệu. Chúng tôi để dành mở một nhà xuất bản. Báo và xuất bản phải đi đôi th́ mới có cơ phát triển văn học nghệ thuật được.

    Đến Nhân Văn số 6, anh Đang có cho tôi xem bài xă luận của anh, nội dung đ̣i quyền tự do biểu t́nh, không phải là kiểu mít-tinh nhà nước tổ chức, bắt buộc mọi người phải đi đâu, mà là quyền tự do thực sự, có trong hiến pháp 1946, như tự do cư trú, tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do biểu t́nh, giống như các nước dân chủ.

    Anh Đang viết rất hay, lư luận sắc sảo, nhưng khi đọc xong th́ tôi nói: Bài này không nên đăng, v́ nó có tính chất chính trị công khai, nguy hiểm lắm. Thế là ông Đang trố mắt quát tôi ngay, lúc bấy giờ ông ấy ghê lắm, chứ không như vài số đầu ông ấy c̣n nể tôi. Thế th́ một bên là ông Đang và ông Trần Duy, một bên là ông Đạt và tôi, chỉ có bốn người tranh đấu với nhau, nhưng cuối cùng ông Đang thắng.
    Nhân Văn số 6, tôi không giúp bài vở ǵ nữa, chỉ có ông Đang và ông Trần Duy làm. Bài vở đă xong, đem đến nhà in Xuân Thu, nhưng cứ nằm ỳ đấy chờ, v́ Diên Hồng, cách đấy một tuần có nói với tôi là phải đi Hải Pḥng mua giấy, v́ Hà Nội hết giấy rồi. Anh mang cả số tiền để dành đi mua, dự trữ cho những số sau, rồi thuê camion chở về, tôi mừng lắm và hoàn toàn đồng ư. Không ngờ chờ một tuần, 10 ngày rồi hai tuần, không thấy Diên Hồng trở lại. Khoảng ba tuần sau khi hắn biến mất, th́ có lệnh đ́nh bản từ Phủ Thủ Tướng do ông Phan Mỹ, đổng lư văn pḥng, kư.

    Khi báo đă bị đ́nh bản rồi, th́ các báo khác, từ Nhân Dân đến Lao Động, Thanh Niên, Phụ Nữ, An Ninh, Văn Nghệ ... nghiă là tất cả các báo lớn ở miền Bắc đều có bài ở trang nhất đánh phá Nhân Văn, nặng nhất là cái tội kêu gọi biểu t́nh chống Đảng, lật đổ chính quyền. Anh em chúng tôi cũng hội họp nhau bàn bạc, tôi nói: Với một chính quyền như thế này, người ta sẵn sàng bỏ tù mấy nhà báo quá khích. Lê Đạt cứ cười hinh hích: Tù th́ tù sợ chó ǵ, nhưng cũng chẳng bỏ tù đâu! Ông Đang th́ kiên quyết: Làm báo th́ phải thế chứ!

    Về sau, tôi nghĩ lănh đạo đă t́m được tên Diên Hồng là kẻ có quan hệ tốt với Hoàng Cầm từ 1947, làm tay trong theo dơi. Đến số 6 là số nguy hiểm, hắn được lệnh mang cả quỹ tiền đi, lúc đó có thể ở Hà Nội vẫn c̣n giấy đấy, nhưng hắn lấy cớ đi Hải Pḥng, mà ḿnh th́ không biết, cứ tin tưởng. Không có tiền, không có giấy, th́ làm sao in được báo nữa? Đó là chuyện Diên Hồng và Nhân Văn số 6 (45) .

    Trường Xuân

    Về Trường Xuân, Hoàng Cầm kể:

    Một hôm, trong buổi họp đông đủ, có một người đi với anh Trần Đức Thảo, được anh Trần Thiếu Bảo giới thiệu tên là Trường Xuân, làm cán bộ ở Phủ Thủ Tướng, rất quư anh em Nhân Văn. Anh Trường Xuân nói với chúng tôi: Sự thực th́ các ông ở Bộ Chính trị không có ǵ phản đối các anh lắm đâu, nhất là bác Hồ, không phải bác bênh vực, nhưng bác coi chuyện này nhẹ thôi, không có ǵ đáng ngại cả. Vậy th́ anh em cứ việc viết. Một lần có bài báo phê b́nh to chuyện Nhân Văn, bác Hồ bảo không nên đem con giao mổ trâu để giết một con gà, ư bác muốn nói: chuyện Nhân Văn có ǵ to tát mà làm ồn lên thế.

    Anh Trường Xuân nói là đă được dự một buổi họp trong Bộ Chính Trị, có bác Hồ, và bác nói như thế, mà anh lại đi với ông Trần Đức Thảo, th́ chúng tôi tin lắm.
    Anh Trường Xuân đến họp độ hai lần, lần nào anh cũng kích động chúng tôi, bảo cứ mạnh dạn lên, cứ viết bạo đi, có ích lắm, bác Hồ cũng bênh vực cơ mà. Lúc đầu th́ tôi cũng tin, v́ hắn đi với Trần Đức Thảo, chẳng lẽ anh Thảo lại ngớ ngẩn đến thế, lại dẫn một tên xấu xa nào vào đây.

    Nhưng sau cái vụ Diên Hồng, tôi mới liên hệ với cái tên Trường Xuân đi với ông Trần Đức Thảo: thôi chết rồi, lại vớ phải cái thằng kích động, nó xúi ḿnh vào tṛng đây. Ông Trần Đức Thảo th́ ông ấy là triết gia, lúc nào cũng đi trên mây, có biết trời trăng ǵ đâu. Anh Đang cũng tin là thật, cho nên mới viết những bài đ̣i tự do, đ̣i quyền nọ, quyền kia, đ̣i biểu tình, không sợ, v́ bác Hồ cũng chỉ coi là chuyện nhỏ thôi, Bộ Chính Trị phải nghe bác chứ, không việc ǵ phải sợ, cứ viết. Th́ ra hắn cố kích động để ḿnh ḷi ra, ḿnh viết cho bằng hết, để nó cho vào sổ đen và cứ thế nó thịt từng người. Nhiệm vụ của tên Trường Xuân này là như thế.

    Lê Nguyên Chí

    Hoàng Cầm cho biết: Đến khi anh Đang bị bắt th́ tôi suy ra cái tên Lê Nguyên Chí (46) có lẽ cũng là một thứ "chân gỗ" người ta cài vào để bắt cả bọn. Việc anh Đang bị bắt, sau khi đi tù 15 năm về, anh không hề kể ǵ cả, có lẽ trong tù người ta đă căn dặn kỹ không được tiết lộ bất cứ việc ǵ xẩy ra. Sau này anh Chính Yên, ở báo Nhân Dân -là bạn thân của tôi thời kháng chiến và là cháu ông Lê Duẩn- kể lại:

    Trong khi xẩy ra lớp Thái Hà th́ mấy người bàn nhau đi trốn, mà đi đường nào? Nếu đi đường rừng qua vĩ tuyến 17, th́ xa xôi và nguy hiểm lắm. Nếu đi đường thủy th́ chỉ cần qua vĩ tuyến 17 là vào Nam rồi, lúc đó đang c̣n ông Diệm. Mấy người họp nhau, thường bàn bạc ở nhà Thụy An, lúc ấy ở nhờ cái buồng nhỏ nhà anh chị Phan Tại, số 37, Trần Quốc Toản. Hàng ngày ông Đang và ông Minh Đức xuống đấy bàn chuyện trốn mà lại ngây thơ không biết rằng họ không cho đi học tập nhưng họ đă cho người theo dơi mọi cử động.

    Trong khi ấy th́ có một anh hớt tóc rong, cắt tóc ngay bên vỉa hè nhà ông Phan Tại, hắn làm quen với ông Đang và nói giọng rất bất măn chế độ. Không biết chuyện tṛ thế nào, mà nó biết là các vị cũng đang muốn vượt tuyến, thế là nó đề nghị ngay: Em cũng muốn đi lắm, nhưng một ḿnh rất khó, không đủ tiền, em có thằng em làm nghề đánh cá ở Hải Pḥng, nó đi biển thường xuyên, ḿnh có thể nhờ nó thuê thuyền giùm, cho em đi cùng với. Thế là mấy người này tin tưởng vào nó, cũng như tôi tin vào Diên Hồng, để nó đứng ra tổ chức.
    Đến ngày đi, hẹn nhau ở Hải Pḥng, rồi hắn đưa đến nhà người em chẳng biết là em thật hay giả. Chuẩn bị xong th́ người em hắn lái thuyền cho đi, đi được 2 cây số ra biển th́ bao nhiêu ca nô của quân đội, của công an từ đâu phóng ra bắt trọn bộ đưa về Hà Nội.

    Nguyễn Đ́nh Thi công bố cho toàn trường nghe đúng hôm chúng tôi phải bắt đầu viết bài tự kiểm thảo: Bọn phản động gián điệp Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Phan Tại, Trần Thiếu Bảo đă bị bắt quả tang trên đường trốn vào Nam (47) .
    Phải chăng ba nhân vật Diên Hồng, Trường Xuân và Lê Nguyên Chí, là những người của Đảng trà trộn vào, có nhiệm vụ đưa toàn bộ NVGP vào bẫy?
    Luận điểm của Nguyễn Mạnh Tường trong tiểu thuyết Une voix dans la nuit: Đảng giăng bẫy, để bắt trọn ổ, phải chăng đă đặt cơ sở trên những nhận xét thực tiễn này?

    Chúng ta vừa nh́n lại quá tŕnh h́nh thành và một số sự kiện xẩy ra trong nội bộ báo Nhân Văn cho đến ngày NVGP bị cấm, Nguyễn Hữu Đang và các bạn bị bắt, với những dữ kiện xẩy ra và những âm mưu bên trong. Qua những chứng nhân của Lê Đạt trong phần thú nhận, ta biết rơ sự thực về hậu trường Nhân Văn, về sự tranh đấu cũng như óc chia rẽ, phân hoá trong mỗi con người, trước hoàn cảnh lịch sử. Chứng nhân của Hoàng Cầm, trong băng ghi âm, soi vào phần bóng tối, phần âm mưu của nhà cầm quyền và cái bẫy giăng sau lưng NVGP.

    Về mặt văn bản, Nhân Văn, với những bài viết của Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt ... mở mặt trận đấu tranh chính trị. Giai Phẩm với những bài của Trương Tửu, Trần Đức Thảo... mở mặt trận tư tưởng. Phan Khôi như một vị thủ lĩnh tinh thần của Nhân Văn và Giai phẩm.
    Toàn bộ Nhân Văn Giai Phẩm là một kết hợp chặt chẽ giữa văn nghệ sĩ và trí thức trong cuộc đấu tranh cho tự do sáng tác và tự do dân chủ. Hai h́nh thái đấu tranh này đi đôi với nhau, không thể tách rời, như lời Trần Đức Thảo: "Văn nghệ và chính trị không thể tách được, không có tự do dân chủ, làm sao có tự do sáng tác?"

    --------------------------------
    1
    Theo Lê Đạt, tiệm trà Phúc Châu bây giờ là hàng phở Thắng, phố Tạ Hiền.
    2
    Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
    3
    Những bài thú nhận của Trần Dần và Lê Đạt, được/bị trích đăng trên hai báo Văn Học số 1 (25/5/1958) và Văn Nghệ số 12 (5/58), những bài của Hoàng Cầm và Phùng Quán đăng trên Văn Nghệ số 12, bài của Văn Cao trên Văn Học số 3 (5/6/58), bài của Trần Đức Thảo trên Nhân Dân số 1532-1533 (23-24/5/58)... Tất cả đều trích in trong cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận.
    4
    Lê Đạt trả lời RFI.
    5
    là một người thân thuộc của nhà xuất bản Minh Đức.
    6
    Hoàng Cầm, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958.
    7
    Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
    8
    Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958, trg 74.
    9
    Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, 5/1958, trang 61.
    10
    Hoàng Cầm, RFI, 8/2/2008.
    11
    Lê Đạt trả lời RFI.
    12
    Trần Duy muốn nói đến buổi "hội lớn" của Hội Văn Nghệ, đánh Trần Dần với 150 người dự. Trước đó là buổi Đại Hội Tuyên Huấn, cũng vào tháng 2/1956.
    13
    Trần Duy trả lời RFI, tháng 7/2008.
    14
    Hoàng Cầm, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958.
    15
    Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 75.
    16
    Trần Duy trả lời RFI.
    17
    Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 75.
    18
    Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm nói là NV số 2.
    19
    Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
    20
    Trần Duy, trả lời RFI.
    21
    Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
    22
    Những buổi tọa đàm này không chỉ dành riêng cho Nhân Văn, tổ chức sau Nhân Văn số 3 (15/10/56).
    23
    Hồng Cương, Cuộc đấu tranh giai cấp trên mật trận văn nghệ hiện nay, VNQĐ số 6, tháng 6/58, trang 36.
    24
    Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
    25
    Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, 5/1958.
    26
    Trường Chinh lúc đó đă từ chức Tổng bí thư được một tháng, nhưng vẫn là Uỷ viên Bộ Chính Trị.
    27
    Trần Dần có đi, nhưng có lẽ không phát biểu nên Hoàng Cầm không nhớ. Lê Đạt trên Nhân Văn số 4, ghi: Nhân Văn gửi 3 đại diện đi dự. Vậy ba người "chính thức" được cử đi là Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và Hoàng Cầm.
    28
    Hoàng Cầm muốn nói đến bài thơ Những ngày báo hiệu mùa xuân, trích từ trường ca Những người trên cửa biển, đăng trên Nhân Văn số 4, bài này Văn Cao đả kích trực tiếp chế độ.
    29
    >Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
    30
    Trăm Hoa bộ mới, số 1, phát hành ngày 20/10/56.
    31
    Một rame giấy: 500 tờ khổ lớn.
    32
    Câu này bị kiểm duyệt phần trong ngoặc, có thể hiểu là Nguyễn Bính xin cấp giấy in TH số 2, Sở Báo Chí từ chối, hoặc rút bớt giấy, Nguyễn Bính bèn tố cáo với Trường Chinh trong buổi tọa đàm ngày 20/10/56. Sau đó NB bị hành hung.
    33
    Nhân Văn bị thi hành kỷ luật, lư do "chính thức" đưa ra, v́ số 4 "nộp lưu chiểu chậm". Cảnh cáo lần đầu của chính quyền.
    34
    Hoàng Cầm, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958.
    35
    Có trọng lượng.
    36
    Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, 5/1958.
    37
    Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
    38
    Tức là bài "Không có lư ǵ mà không tán thành trăm hoa đua nở" kư tên H.L, trên Nhân Văn số 5.
    39
    Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
    40
    Trần Duy trả lời RFI.
    41
    Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
    42
    Hoàng Văn Chí ghi ngày 15/12/1956. Các tài liệu khác ghi ngày 9/12/1956.
    43
    Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, trang 31.
    44
    Khoảng 6, 7 trăm quân.
    45
    Trong băng nói chuyện, Hoàng Cầm kể tiếp: Sau Nhân Văn, đến cải tạo tư sản, báo và xuất bản không được tự do nữa, phải trực thuộc vào nhà nước: Báo Lao Động có nxb Tổng công đoàn, báo Thanh Niên có nxb Thanh Niên, thuộc Ban chấp hành đoàn thanh niên Trung ương, trước là đoàn thanh niên Cộng Sản, sau đổi thành đoàn thanh niên Hồ Chí Minh... Sau Đại Hội III, xă hội vào quy củ, từ anh hớt tóc rong, sửa xe đạp... cũng phải vào hợp tác xă, có chủ nhiệm lănh đạo, kiểm soát. Xă hội trở thành hợp tác xă, để quản lư từng người dân một, từ 1960.
    46
    Trong băng, Hoàng Cầm nhớ nhầm là Lê Nguyên Cát.
    47
    Tóm tắt lời Hoàng Cầm trong băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè. Sau này con trai ông Lê Nguyên Chí có viết bài minh oan cho cha.


    Cò tiếp ...

  4. #2284
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 6

    Trí thức và dân chủ tại Việt Nam trong thế kỷ XX - Từ Phan Châu Trinh, Hoàng Đạo đến Nhân Văn Giai Phẩm

    Những bài viết chủ yếu in trên NVGP gồm hai loại: Loạt bài chính luận trực tiếp định hướng tư tưởng của các nhà trí thức và loạt bài sáng tác dấn thân nói lên khát vọng tự do của các văn nghệ sĩ. Hai thể loại này đan cài và bổ sung cho nhau, tạo nên làn sóng đấu tranh toàn diện cho tự do dân chủ và tự do tư tưởng. Trí thức trong vị trí dẫn đường, được xếp vào loại A. Văn nghệ sĩ, ít "nguy hiểm" hơn, được xếp vào loại B (1) .

    V́ trí thức và dân chủ là hai trục chính trong cuộc đấu tranh: trí thức dẫn đường và dân chủ là mục đích, cho nên trước khi phân tích nội dung tranh đấu của phong trào NVGP, ta cần t́m hiểu mối tương quan giữa trí thức và dân chủ ở Việt Nam trước và trong thời kỳ NVGP.

    Nguyễn Mạnh Tường là nhà trí thức duy nhất trong thời kỳ NVGP, đă để lại những trang viết mà ngày nay ta có thể dựa vào như những tư liệu chính trị, xă hội, phản ảnh vai tṛ của người trí thức trong giai đoạn đấu tranh cho tự do dân chủ những năm 50 ở miền Bắc và hiểu được tại sao chế độ cộng sản lại "căm thù" trí thức và loại trừ trí thức.


    Phan Châu Trinh và dân trị chủ nghiă

    Khái niệm tự do dân chủ phát xuất từ Tây phương. Nhưng tự do dân chủ không xa lạ ǵ với người Việt, bởi, nói như Hoàng Đạo: "Khái niệm tự do dân chủ đă theo chiến hạm Pháp nhập vào nước ta từ cuối thế kỷ XIX". Đối với những nhà cách mạng Tây học đầu thế kỷ XX đă dùng tiếng Pháp để chống Pháp trên báo ở Pháp và ở Việt Nam, như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh ... tự do dân chủ là điều kiện hiển nhiên và tất yếu của con người, thu nhận trực tiếp qua giáo dục học đường.

    Nhưng đối với những nhà nho, tự do dân chủ, phải đi ṿng qua tân thư, là những sách mà trí thức Trung Hoa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu... đă dịch Montesquieu, J.J. Rousseau... ra chữ Hán. Phan Châu Trinh, một trong những nhà nho chủ trương phong trào Duy Tân, đă tiên phong bàn về dân chủ. Sau 14 năm ở Pháp về, cuối năm 1925, ông diễn thuyết tại Hội Thanh Niên Sài G̣n, đề tài Quân trị chủ nghiă và dân trị chủ nghiă, luận văn cơ bản phân biệt quân chủ và dân chủ, cho một dân tộc chưa thoát ṿng nô lệ.

    Việt Nam đầu thế kỷ XX, tŕnh độ dân trí c̣n kém, Phan Châu Trinh chỉ cắt nghiă ngắn gọn: dân trị là cứ bảy năm người dân bàu lại ông Giám Quốc (Tổng Thống) một lần, c̣n quân chủ, vua là cha truyền con nối.
    Dân trị có nghị viện do dân bàu lên, giữ quyền lập pháp. Quyền hành pháp giao cho quan ṭa, thuộc ngành tư pháp, ở trong chính quyền nhưng có vị trí độc lập.

    Và ông kết luận: "Nói tóm lại, dân trị tức là pháp trị. Quyền hạn và bổn phận của mỗi người trong nước, bất kỳ người làm việc nhà nước hay là người thường, đều có pháp luật chỉ định rơ ràng, không khác ǵ là đă có đường gạch sẵn, cứ trong đường ấy mà đi, tự do muốn bước tới bao nhiêu cũng được, không ai ngăn trở cả. Chỉ trừ khi nào xâm lấn đến quyền hạn của người khác th́ không được mà thôi" (2 ).
    Sự giáo dục dân chủ cho một quần chúng sống dưới thời phong kiến và nô lệ, được Phan Châu Trinh đề ra từ năm 1925. Hơn mười năm sau, Hoàng Đạo, nhà văn kiêm luật gia, tiếp tục việc giáo dục quyền công dân, quyền làm người trên báo Ngày Nay, sử dụng quyền tự do dân chủ để tranh đấu với người Pháp và hướng dẫn dân tộc.

    Hoàng Đạo và dân chủ

    Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, em Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, là một trong những người lănh đạo Quốc Dân Đảng và là nhà văn Việt Nam đầu tiên sử dụng quyền tự do dân chủ một cách có hệ thống để chống lại thực dân Pháp và giáo dục dân tộc về nhân quyền.

    Sau này, Nguyễn Mạnh Tường xác định: những người xuất thân trường Luật của Pháp là những người chống Pháp một cách mănh liệt và có hiệu quả. Điều này thực không sai nếu ta điểm qua những nhà cách mạng: Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh qua bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc, họ đă viết những bài báo tiếng Pháp, thập niên 1920 ở Paris, rồi đến Nguyễn Tường Long, Nguyễn Mạnh Tường sau này, đều là những người đă học luật.

    Hoàng Đạo đỗ vào trường Luật Đông Dương Hà Nội, năm 1924 và tốt nghiệp năm 1927. Từ 1933, trên Phong Hoá, dưới bút hiệu Tứ Ly, ông đă viết những bài châm biếm đả kích toàn bộ hệ thống quan lại của chính quyền thuộc địa và bài trừ hủ tục trong xă hội Việt Nam.
    Trên báo Ngày Nay, từ 1937 đến 1939, ông hoàn tất những hồ sơ lớn về Vấn đề thuộc địa, Vấn đề cần lao, Công dân giáo dục, nội dung phê phán chính quyền thực dân, chỉ trích sự vi phạm nhân quyền trong chính sách đánh chiếm thuộc địa của người da trắng, chỉ trích sự vi phạm luật lao động trong chính sách mộ phu và cổ động việc giáo dục công dân về dân quyền và nhân quyền. Loạt bài này căn bản dựa trên tự do dân chủ, quyền làm người, luật lao động, quyền công dân, thoát thai từ tinh thần cách mạng 1789 của Pháp.

    Với người Pháp yêu chuộng tự do dân chủ, Hoàng Đạo gửi tới họ những khát vọng của dân Việt: "Người Nam chỉ ao ước một điều: là được những sự tự do của nền dân chủ và được dần dà coi ngó, đảm đang lấy việc công trong nước của họ. Ngày nào dân Annam có quyền, trong sự tự do, tự kén chọn lấy những người cầm quyền cai trị họ, ngày ấy nguyện vọng của người Nam đă đạt được nhiều rồi vậy (3 )".

    Kết tội chính sách thuộc địa dă man của Anh, Tây Ban Nha, Hoàng Đạo cho người Pháp biết rằng chính sách thuộc địa của họ là bất hợp pháp và nếu họ không thay đổi chính sách cai trị th́ người Việt sẽ nổi lên chống lại.
    Loạt bài Vấn đề thuộc địa, tổng hợp những lư luận chặt chẽ, kiến thức uyên bác, tầm nh́n rộng về thế giới bên ngoài, về lịch sử chinh phục thuộc địa, về sự tiến hoá của luật pháp.
    Trong bức thư ngỏ gửi cựu toàn quyền Varenne, về chỉ dụ báo chí 4/10/1927, Hoàng Đạo viết: "Tôi không cần phải nhắc lại rằng đạo chỉ dụ ấy đă bắt các báo chí ở đây( 4 ) phải xin phép mới được xuất bản và phép cho xuất bản chính phủ muốn thu về lúc nào cũng được. Tôi không cần phải nói đến tệ hại của chế độ ấy, tôi đă nói nhiều rồi (...)

    Muốn rửa sạch cái tiếng không hay đă đem tên ông đặt vào cái chỉ dụ 1927, ông chỉ c̣n có một phương pháp, là đem hết tài lực của ông mà xin hủy bỏ cái chế độ không hợp với tŕnh độ của dân tộc Việt Nam ấy đi, để chúng tôi được hưởng một chút tự do, một chút quyền lợi về chính trị mà ông bảo phải đi đôi với công việc giáo hoá (5 )".

    Hoàng Đạo không chỉ đ̣i tự do dân chủ cho người Việt, mà ông đ̣i hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền cho toàn bộ những dân tộc bị trị trên thế giới. Khi đối đầu với Pháp, ông luôn giữ thái độ b́nh đẳng của người đ̣i hỏi người, của một dân tộc đ̣i hỏi một dân tộc khác. Ông khẩn thiết yêu cầu nước Pháp, một nước tự nhận là quê hương, là nguồn cội của Nhân Quyền, hăy áp dụng cái Nhân Quyền ấy ở Việt Nam.

    Loạt bài Vấn đề cần lao, phản đối t́nh trạng người lao động bị bóc lột ở Việt Nam nói riêng và người bóc lột người ở thời đại kỹ nghệ phát triển nói chung, Hoàng Đạo viết:
    "Người ta đem phủ một lượt tro lên sự đốn mạt người bóc lột người. Người ta đem những danh hiệu mới, như tờ cam đoan, tờ giao kèo, lao công cưỡng bách, để che đậy sự thực (6) ".
    Ông phân tích và đứng trên b́nh diện luật pháp để phê phán những bất cập, phạm pháp trong các chế độ: Lao công cưỡng bách (mộ phu đi rừng cao-su), luật xă hội, luật lao động, vấn đề thanh tra và nghiệp đoàn...


    Loạt bài Công dân giáo dục nhắm vào sự giáo dục dân chủ, giải thích cho người Việt hiểu quyền lợi và trách nhiệm của người công dân trong một nước dân chủ, khác với bổn phận một thần dân dưới thời phong kiến: Muốn được tự do, dân chủ, người dân trước hết phải tự ư thức được cái giá phải trả cho tự do, dân chủ, tức là phải ư thức được sự trưởng thành, độc lập của ḿnh, phải hiểu quyền công dân và trách nhiệm của người công dân.

    Hoàng Đạo viết: "Ư tưởng công dân là một ư tưởng mới. Cùng với những ư tưởng khác, có sức mạnh vô cùng, ư tưởng tự do b́nh đẳng, nhân đạo, công lư, ư tưởng công dân v́ một t́nh cờ trong lịch sử đă theo chiến hạm Pháp nhập vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ trước (7) ".

    Trong loạt bài này, Hoàng Đạo giải thích rơ ràng các khái niệm mấu chốt: hiến pháp, nhân quyền, tự do, ư nghiă cuộc cách mệnh Pháp, tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do chính trị.

    Tóm lại, khái niệm tự do dân chủ đă truyền vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, với đoàn quân viễn chinh Pháp, và được mở rộng, dưới thời Pháp thuộc, qua ngả học đường, phát sinh một lớp trí thức tân học, đấu tranh cho dân chủ bằng ng̣i bút, và một lớp văn nghệ sĩ mới, sáng tác tự do, xây dựng nền văn học quốc ngữ.
    Hoàng Đạo là ng̣i bút duy nhất trong thập niên 1930-1940, không những đă đấu tranh cho dân chủ, đ̣i độc lập với Pháp mà c̣n giáo dục dân tộc Việt Nam về dân chủ một cách sâu sắc và toàn diện.


    Còn tiếp ...

  5. #2285
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 6

    Nhân Văn Giai Phẩm và dân chủ

    Sau 1954, Nguyễn Hữu Đang đặt trọng tâm tranh đấu tự do dân chủ trên báo Nhân Văn. Trong ba số đầu, ông phỏng vấn ba nhà trí thức danh tiếng, không thuộc nhóm Nhân Văn: Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh và Đặng Văn Ngữ về vấn đề mở rộng tự do dân chủ, với hai câu hỏi:

    1- Theo ư ông, lúc này giới trí thức nói chung và giới văn nghệ nói riêng, cần phải làm những ǵ để góp phần thực hiện mở rộng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu và sáng tác?

    2- Theo ư ông và trên cơ sở nhu cầu phát triển của ngành ông th́ chúng ta cần phải đem ra thảo luận rộng răi những vấn đề ǵ?

    Trả lời hai câu hỏi này, Nguyễn Mạnh Tường đưa ra hai nguyên do thiếu dân chủ: Đảng viên và cán bộ thiếu tinh thần dân chủ và quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần dân chủ. Sở dĩ như thế là v́ trong kháng chiến, mọi cố gắng phải dồn vào chiến tranh, "quần chúng nghĩ rằng chưa phải lúc đ̣i hỏi các tự do dân chủ". Nhưng khi ḥa b́nh rồi, th́ vấn đề đ̣i hỏi tự do dân chủ phải là tất yếu. Riêng ngành đại học cần hai nguyên tắc dân chủ: "Tác phong của cấp lănh đạo phải thật sự dân chủ" và "việc lựa chọn cán bộ phải dựa vào tiêu chuẩn chuyên môn là chính".

    Đặng Văn Ngữ trả lời: "Dưới một chế độ độc tài không ai dám chỉ trích chính phủ th́ c̣n đâu mà thấy khuyết điểm về tự do dân chủ?" Và ông xác định nhiệm vụ của người trí thức: "Trong việc xây dựng tư tưởng tự do và dân chủ, nhiệm vụ chính phải là của trí thức". Nhưng ông cũng nhận thấy sự "thiếu tự do tư tưởng, thiếu dũng cảm" của người trí thức: "Trí thức ở một cương vị thuận lợi và có đủ nhận thức để nhận thấy lănh đạo có sai lầm, và thực tế là trí thức của ta đă nhận thấy từ lâu một số sai lầm của lănh đạo. Nhưng trí thức của ta đă thiếu tự do tư tưởng, thiếu dũng cảm nên không dám phê b́nh xây dựng". Đặng Văn Ngữ kết luận: "Để phát triển bất kỳ một ngành nào, vấn đề cần phải đưa ra thảo luận là vấn đề tự do dân chủ".

    Đào Duy Anh trả lời: Những kẻ thù của tự do, người ta đều biết cả. Đó là những tệ nạn quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái, những bệnh giáo điều, công thức, sùng bái cá nhân, ngang nhiên trong công tác lănh đạo văn nghệ và học thuật và cả giới trí thức nữa. Muốn thực hiện tự do dân chủ, th́ "giới trí thức là những người thiết tha nhất đối với các thứ tự do ấy chỉ có một cách là đấu tranh. Đấu tranh trong công tác chuyên môn, đấu tranh trong hoạt động xă hội. Đấu tranh bằng hoạt động phê b́nh, phản phê b́nh, tự phê b́nh."

    Sự đấu tranh của trí thức không thể là đấu tranh chung chung mà phải có mục đích thực tiễn ở mỗi ngành. Đào Duy Anh viết: "Không ai ngăn cấm anh tự do nghiên cứu, sáng tác, nhưng nếu anh không có phương tiện nghiên cứu sáng tác th́ thực tế anh chẳng có quyền đâu. Không ai ngăn cấm anh tự do ngôn luận, nhưng nếu anh không có phương tiện để in sách báo th́ thực tế anh cũng chẳng có quyền đâu".
    Nói cụ thể, ví dụ như trong ngành xuất bản, th́ phải tranh đấu "cho tư nhân xuất bản dễ dàng, giúp đỡ việc phát hành, cho phương tiện thuận tiện để sáng tác và nghiên cứu, săn sóc sự xuất bản rộng răi các tác phẩm văn nghệ và đặc biệt chú ư xuất bản những tác phẩm nghiên cứu khoa học."

    Trong đại học phải tranh đấu để đại học trở thành "một trung tâm nghiên cứu khoa học cao độ" nghiă là phải đặt tiêu chuẩn chuyên môn lên trên tiêu chuẩn chính trị trong việc lựa chọn chuyên viên.

    Trên Giai Phẩm Mùa Thu, tập III, ra ngày 30/10/56, trong bài Muốn phát triển học thuật, Đào Duy Anh nêu hai căn bệnh nặng nhất trong học thuật là bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân: "Ở nước ta th́ bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại c̣n trầm trọng hơn, khiến người ta, vô luận bàn về vấn đề ǵ, cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Mác-Ăng-ghen và Lê-nin, hoặc những ư kiến của Sta-lin hay các lănh tụ khác, để, hoặc phát triển thêm những ư kiến ấy, hoặc g̣ bó tài liệu, xoay sở thế nào để gán vào khuôn khổ của những công thức rút ra tự những ư kiến ấy (...)

    Bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn: hễ thấy ai có ư kiến ǵ vượt ra ngoài những công thức cũ, những khuôn khổ sẵn có th́ người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ, như cái danh hiệu cải biến chủ nghĩa chẳng hạn, những mũ như thế rất dễ bịt mồm bịt miệng người ta.

    Tư tưởng không tự do th́ không thể tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận - các nhà lănh đạo vẫn thường nói nên mở rộng tranh luận nhưng trong thực tế th́ sự thảo luận đă bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề ǵ, nhiều người chỉ nơm nớp sợ không khéo th́ chệch ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn.
    Đối với những người ấy, công tác học thuật trở thành tṛ xiếc leo dây. Con đường học thuật phải là con đường cái thênh thang mọi người tự do đi lại, chứ không phải sợi dây căng của người làm xiếc. Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật".

    Trên Giai Phẩm Mùa Thu, tập I, ra ngày 30/8/56, bài Phê b́nh lănh đạo văn nghệ đi tiên phong như ngọn đuốc dẫn đường, Phan Khôi "hỏi tội" lănh đạo. Ngoài ra, c̣n có truyện ngắn Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, một trong những truyện ngắn hay nhất thời NVGP, nói lên sự bất lực của chính sách tẩy năo: không ai có thể tịch thu quá khứ con người. Bức thư gửi một người bạn cũ của Trần Lê Văn mô tả một chân dung bồi bút. Bài thơ Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn Bính thuật lại sự thức tỉnh của một nghệ sĩ sau 9 năm theo cách mạng.

    Trên Nhân Văn số 1 ra ngày 30/9/56, Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt là một bài xă luận bằng thơ đả phá chế độ công an trị. Bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm kể lại bi kịch của một nhà thơ trẻ, chỉ in có một bài thơ trên báo với nội dung yêu nước, mà bị bắt đi trong một bối cảnh tăm tối, không biết bị giam giữ ở đâu, có thể bị thủ tiêu; đó là một bản cáo trạng thống thiết về t́nh trạng bắt bớ giam người trái phép, vô luật pháp. Tranh Nguyễn Sáng khắc lại hậu quả của sự khủng bố trên con người Trần Dần.

    Giai Phẩm Mùa Thu, tập II, ra cùng ngày với Nhân Văn số 1, có các bài: Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ của Trương Tửu, Ông B́nh Vôi của Phan Khôi, Những người khổng lồ của Trần Duy, Thơ cái chổi - Chống tham ô lăng phí của Phùng Quán, Cũng những thằng nịnh hót của Hữu Loan, Em bé lên sáu tuổi của Hoàng Cầm, Cuốn sổ tay của Lê Đại Thanh,... Đây là số báo mạnh mẽ nhất từ trước đến giờ về mặt chống đối chế độ.

    Trên Nhân Văn số 3 ra ngày 15/10/1956, Trần Đức Thảo trong bài Nỗ lực phát triển dân chủ, nhấn mạnh đến sự tự do của người trí thức: "Người trí thức hoạt động văn hoá, cần tự do như khí trời để thở. Có tự do mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời cũng là nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như của toàn dân".

    Trên Nhân Văn số 4, ra ngày 5/11/1956, Nguyễn Hữu Đang viết bài Cần phải chính quy hơn nữa, đặt vần đề xây dựng một nhà nước pháp trị. Phùng Cung trong Con ngựa già của chúa Trịnh dùng h́nh ảnh con ngựa già để chỉ những văn nghệ sĩ phục vụ đảng cũng giống như con ngựa của nhà Chúa, quen thói tôi đ̣i, vinh thân ph́ gia, mất hết mọi khả năng sáng tạo. Văn Cao trong Những ngày báo hiệu mùa xuân, lại một lần nữa chỉ bọn nịnh thần mà mắng.

    Nhân Văn số 5, ra ngày 20/11/1956, trong bài Hiến pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? Nguyễn Hữu Đang nhắc lại điều 10 của Hiến pháp 1946: Công dân Việt Nam có quyền Tự do ngôn luận - Tự do xuất bản - Tự do tổ chức hội họp - Tự do cư trú, đi lại trong nước và ngoài nước và điều 11: Tư pháp chưa quyết định th́ không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư từ của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật.
    Trong Bài học Ba-Lan và Hung-ga-ri kư tên Người Quan Sát, Lê Đạt cảnh báo: Nếu muốn tránh một biến cố như biến động Ba Lan th́ Đảng phải: "cương quyết và mạnh bạo sửa chữa những sai lầm kịp thời và đúng mức, cụ thể là nâng cao đời sống của nhân dân, mở rộng tự do dân chủ".

    Ngày 30/10/56, luật sư Nguyễn Mạnh Tường nổ quả "bom" ngoài luồng Nhân Văn, với bài diễn thuyết Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lănh đạo, nói trước Mặt Trận tổ quốc.

    Sau đây là những bài viết quan trọng của trí thức trong thời kỳ NVGP.


    Còn tiếp ...

  6. #2286
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 6

    Phan Khôi phê b́nh lănh đạo văn nghệ

    Lê Đạt tuyên bố: "Mặc dầu Phan Khôi không lănh đạo trực tiếp tờ Nhân Văn, nhưng trong thâm tâm tôi, bao giờ tôi cũng coi ông là người lănh đạo tờ Nhân Văn 8 ". Lê Đạt nói lên ư kiến chung của những ai đă đọc các bài Phan Khôi viết trong thời kỳ NVGP, đă thấy sự can trường của người đứng ra lănh trọng trách chủ nhiệm một tờ báo đ̣i tự do dân chủ, đối lập với chính quyền cộng sản. Trong thời kỳ NVGP, Phan Khôi có hai bài viết chính: bài Phê b́nh lănh đạo văn nghệ 9 và truyện ngắn Ông B́nh Vôi (10) .

    Phê b́nh lănh đạo văn nghệ, là một trong những tác phẩm chủ chốt của phong trào NVGP, nhắm vào ba vấn đề thời sự văn học đương thời, nhưng vẫn c̣n là thời sự văn học hôm nay: Vấn đề tự do của văn nghệ sĩ. Vụ đàn áp Giai Phẩm Mùa Xuân. Và vụ giải thưởng văn học 1954-1955. Với ng̣i bút sắc sảo, tác phong "ngự sử văn đàn", Phan Khôi vạch trần những tác hại của đám quan trường nhất phẩm triều đ́nh: Ông chỉ trích Trường Chinh ăn nói bừa băi, chất vấn gắt gao Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đ́nh Thi, những người tổ chức và thi hành việc đánh Trần Dần.
    Phan Khôi tách bạch hai giai cấp: Lănh đạo văn nghệ và Quần chúng văn nghệ và ông phê phán ba vấn đề thực tiễn:

    1/ Vấn đề tự do của văn nghệ sĩ: Sau khi đưa ra những dẫn chứng cụ thể về việc lănh đạo nghiệt ngă bắt bẻ nhà văn phải viết theo đúng đường lối của Đảng, Phan Khôi hỏi thẳng lănh đạo: chính trị muốn đạt đến cái mục đích của nó th́ cứ việc dùng khẩu hiệu, biểu ngữ, thông tri, chỉ thị, không được hay sao mà phải dùng đến văn nghệ sĩ? Rồi ông buộc tội: "Lănh đạo đă xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ sĩ."

    2/ Về vụ Giai Phẩm Mùa Xuân: Chất vấn ban chủ tọa Hội Văn Nghệ về việc tổ chức hội họp đánh Trần Dần, Phan Khôi hỏi: "Hội Văn Nghệ khai hội từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng để phê b́nh bài thơ Trần Dần, mà kỳ thực là hỏi tội Trần Dần, một mầm non văn nghệ. Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính trị tài t́nh lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa lũ người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đă thành công". "Tôi nhớ có một vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ "Người" viết hoa.

    Lấy lẽ rằng chữ Người viết hoa lâu nay chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong chiêm bao, chiêm bao thấy ḿnh đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê Mỗ tố cáo ông Nguyễn Mỗ trước ngai vàng, rằng trong phép viết, chỉ có chữ nào thuộc về hoàng thượng mới phải đài (11) thế mà tên Nguyễn Mỗ viết thư cho bạn, dám đài chữ không phải thuộc về hoàng thượng. Nhưng may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là ḿnh đang ngồi trong pḥng họp Hội Văn Nghệ".

    Những lời trên đây, tưởng Phan Khôi nói với đám nhất phẩm, nhưng không, đó là những lời ném thẳng vào bệ rồng. Ông không thèm hỏi tội bày tôi nữa, mà đi ngược lên trên, đến manh mối sau cùng, tới lănh tụ tối cao, qua những chữ: Người, sân rồng, Hoàng thượng, ngai vàng, để xác định: Sự sùng bài lănh tụ phải đến từ chính lănh tụ. Nếu lănh tụ không muốn được tôn sùng, nếu lănh tụ ưa sự b́nh đẳng, dân chủ, th́ kẻ dưới quyền không thể xu nịnh tâng bốc được. Trước Phan Khôi và sau Phan Khôi, chưa có nhà văn nào dám mạnh mẽ trực tiếp phê b́nh Hồ Chí Minh như thế.

    3/ Về giải thưởng văn học năm 54-55: ba tác phẩm Mưa sao của Xuân Diệu, Truyện anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng và Nam Bộ mến yêu của Hoài Thanh đều chiếm giải. Phan Khôi phê b́nh: "Cả ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban Chung khảo. Nếu ở trong ban Chung khảo mà thôi c̣n khá, thử điều tra lại hồ sơ, th́ ba ông c̣n ở ban Sơ khảo nữa, sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến xưa, tuy có ám muội ǵ bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng: Một người nào có con em đi thi, th́ người ấy có được cắt cử cũng phải "hồi tỵ", không được chấm trường. Bây giờ đến cả chính ḿnh đi thi mà cũng không "hồi tỵ": một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đă đổi mới, đă "liêm chính" cả rồi; một lẽ trắng trợn v́ thấy mọi cái "miệng" đă bị "vú lấp".

    Qua việc trao giải thưởng văn nghệ, Phan Khôi mỉa mai sự gian dối, ám muội trong các địa hạt khác ở "thời đại Hồ Chí Minh", nói rằng đă đổi mới rồi, mà sao con người lại "thanh liêm" kiểu ấy, bởi "mọi cái miệng đă bị vú lấp mất rồi". Về việc Hồ Chí Minh viết "truyện mẫu" cho nhà văn viết theo, Phan Khôi bảo: "Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo một lối với ḿnh, th́ rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết". Về việc Đảng dạy dỗ các nhà thơ nhà văn sáng tác theo chỉ thị, Phan Khôi bảo: "Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu!"

    Những lời khẳng khái của Phan Khôi trong thời kỳ NVGP đă trở thành biểu tượng của tinh thần bất khuất Phan Khôi trước mọi áp lực tư tưởng. Bài Phê b́nh lănh đạo văn nghệ là văn bản "hỏi tội triều đ́nh" trực tiếp và gay gắt nhất, cho đến nay chưa một trí thức nào dám làm.
    Văn bản này sẽ măi măi trụ lại như bài văn tiêu biểu cho sự can trường của một nhà trí thức trong thế kỷ XX, đương đầu với sự độc tài của một thể chế, không khác ǵ bài sớ dâng vua trảm tấu bọn gian thần thời phong kiến.
    Chính văn bản này đă khiến giới cầm bút nh́n thấy ở Phan Khôi một nhà lănh đạo văn nghệ đích thực, và những trí thức khác như Trương Tửu, theo gương Phan Khôi dứt khoát bước vào diễn đàn NVGP.


    Còn tiếp ...

  7. #2287
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 6

    ● Trương Tửu: Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ

    Trương Tửu bước vào diễn đàn với lập luận chặt chẽ và đanh thép của nhà phê b́nh, ông viết hai bài quan trọng về tự do tư tưởng: Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ [12] và Văn nghệ và chính trị [13] với phần hai là Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lănh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích[14].
    Hai bài viết này xác định Trương Tửu là một trong những người lănh đạo tư tưởng của phong trào NVGP.

    Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ, tường thuật lịch sử đấu tranh dân chủ của văn nghệ sĩ trong kháng chiến. Trương Tửu đi vào thẳng vấn đề: "Tôi viết bài này, nối gót nhà văn lăo thành dũng cảm Phan Khôi, góp ư kiến phê b́nh lănh đạo văn nghệ, đặc biệt sự sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ".
    Ông xác định bệnh sùng bái cá nhân là bệnh của lănh đạo văn nghệ:

    "Sùng bái cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lănh đạo văn nghệ (...) Tôi không nói đó là bệnh của văn nghệ sĩ; v́ rằng, hôm qua cũng như hôm nay, người văn nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự sùng bái cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa; có cái này th́ không có cái kia được".

    Rồi ông dẫn chứng những cử chỉ, thái độ sùng bái cá nhân của các lănh đạo văn nghệ, từ Lưu Trọng Lư đến Tố Hữu, mà theo ông, đó là những kẻ có tâm lư "bảo hoàng hơn vua", "ở cửa miệng họ, bao giờ ta cũng bắt gặp cái điệp khúc bất di bất dịch này: Đảng không bao giờ sai lầm. Rồi từ chỗ nói: Đảng không bao giờ sai lầm, họ tiến đến chỗ nói: các cá nhân lănh đạo Đảng không bao giờ sai lầm".

    Họ sùng bái cá nhân để làm ǵ? Trương Tửu trả lời: "Họ sùng bái một người (cấp trên) để vạn người (cấp dưới) sợ cá nhân họ. Nhờ phương châm ấy, họ bám vào gót giầy cấp ủy ban này, cấp ủy ban khác, leo dần lên thang danh lợi, oai quyền hống hách, đàn áp cấp dưới, khinh miệt quần chúng, báo cáo lên trên th́ xuyên tạc sự thực có dụng ư, lănh đạo anh em th́ mệnh lệnh độc tài. Họ sùng bái cá nhân là để trục lợi. Họ chỉ có thể tiến thân bằng đường lối ấy."

    Nhưng vẫn có những nghệ sĩ như Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc: "Ai cũng c̣n nhớ, năm 1948, cố hoạ sĩ Tô Ngọc Vân đă tranh luận khá gay gắt với ông Trường Chinh về vấn đề: quần chúng phê b́nh nghệ thuật. Ng̣i bút tranh luận của Tô Ngọc Vân chứng tỏ một khối óc độc lập, một tâm hồn có cá tính không v́ uy quyền của lănh tụ này hay lănh tụ khác mà thủ tiêu ư kiến riêng của ḿnh".
    Vẫn 1948, trong một buổi nói chuyện khác ở Thanh Hóa "có đoạn ông Trường Chinh lớn tiếng mạt sát họa phái lập thể chủ nghĩa (của Picasso). Ông cho họa phái ấy (...) chỉ là những cái nấm độc mọc trên trạng thái thối tha của chế độ tư bản chủ nghĩa ở Âu châu đầu thế kỷ 20". "Sau buổi nói chuyện này, hoạ sĩ Sỹ Ngọc đă viết một bài nói về chủ nghĩa lập thể trong tạp chí Sáng Tạo số 4 để gián tiếp bác ư kiến của ông Trường Chinh".
    Trương Tửu xác định lại nhiệm vụ của văn nghệ sĩ trong cách mạng kháng chiến:

    "Người văn nghệ sĩ kháng chiến đi t́m chân lư, đi t́m chính nghĩa, đi t́m tự do (...) họ không thể sùng bái bất cứ cá nhân nào, không thể thừa nhận bất cứ uy quyền độc đoán nào, chống lại bất cứ sức áp chế tư tưởng nào." C̣n lănh đạo văn nghệ: "Giống như bọn thầy bùa phong kiến, các nhà lănh đạo văn nghệ của chúng ta muốn “yểm” tất cả các tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những ḥn đất thó “tṛn méo mặc dầu tay kẻ nặn”. Những lá bùa của họ chế tạo ra kể cũng đă khá nhiều: mất lập trường, phạm chính sách, phá đoàn kết, phá tổ chức, vô kỷ luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn đề, bất măn cá nhân, óc địa vị, v.v… c̣n ǵ nữa?"

    Sự đe nẹt của lănh đạo văn nghệ đă ảnh hưởng đến một số người: "Và phải nói ngay rằng ngần ấy lá bùa yểm cũng đă linh nghiệm ít nhiều. Một số văn nghệ sĩ non gan (...) biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi".
    Nhưng không phải ai cũng chịu khuất phục: "C̣n một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lănh đạo của thường vụ Hội th́ bị chụp mũ, bị chèn ép, bị “trù”, bị hành hạ, bị gạt sang một bên."

    T́nh trạng trù dập, chụp mũ này, dẫn đến hậu quả: "Cuộc đấu tranh âm ỷ dai dẳng chống lănh đạo độc đoán, quan liêu, bè phái, trong những năm cuối kháng chiến, khi hoà b́nh trở lại, đă bùng nổ. Khởi điểm là ở trong Pḥng Văn Nghệ Quân Đội. Trần Dần, Phùng Quán, Trần Công, Tử Phác, Hoàng Cầm (...) yêu cầu trao trả quyền điều khiển văn nghệ cho văn nghệ sĩ, yêu cầu tự do trong sáng tác và sinh hoạt văn nghệ. (...) Điểm cuối cùng của nó là lớp học tập lư luận văn nghệ tháng Tám vừa qua ở trụ sở Hội Văn Nghệ. Suốt mười tám ngày, anh em văn nghệ sĩ trong Đảng cũng như ngoài Đảng đă đứng dậy đồng thanh tố cáo những hành động và thái độ độc tài, bè phái của ban lănh đạo văn nghệ".

    Sau khi tóm tắt t́nh h́nh toàn bộ đời sống văn nghệ từ kháng chiến đến lớp học tập dân chủ 18 ngày, Trương Tửu kêu gọi:

    "Đă đến lúc phải sa thải những “nhà lănh đạo” thiếu tư cách mà quần chúng tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng văn nghệ tự tay ḿnh điều khiển công việc chuyên môn của ḿnh một cách thực sự dân chủ". "Đă đến lúc phải thanh toán lối đàn áp tự do tư tưởng, khinh miệt quần chúng, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ nghĩa do bệnh sùng bái cá nhân đẻ ra, để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói".

    Và đây là nguyện vọng của văn nghệ sĩ: "Họ muốn tiêu diệt bệnh sùng bái cá nhân trong việc lănh đạo văn nghệ đă cản trở sức phát triển nghệ thuật"."Họ muốn chấm dứt lề lối mệnh lệnh, độc đoán, quan liêu, bè phái, chụp mũ, trong sự lănh đạo văn nghệ, giành lại quyền tự do tư tưởng bị chà đạp bấy lâu nay; v́ thiếu tự do tư tưởng th́ nghệ thuật sẽ co quắp, ṃn mỏi như cụm hoa thiếu ánh sáng mặt trời"."Họ muốn công việc lănh đạo văn nghệ phải trả lại cho những văn nghệ sĩ – bất kể trong Đảng hay ngoài Đảng – được quần chúng văn nghệ tự ư lựa chọn và tín nhiệm".

    Bài Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ trên Giai Phẩm Mùa Thu, tập II, xác định đường lối quyết liệt đ̣i dân chủ của nhóm NVGP, Trương Tửu tố cáo toàn diện bộ mặt lănh đạo văn nghệ, và qua đó ông phê phán bộ mặt lănh đạo nói chung.
    Trong bài Văn nghệ và chính trị, trên Giai phẩm mùa thu, tập III, ông đi sâu vào vấn đề tự do sáng tạo.


    Còn tiếp ...

  8. #2288
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 6

    ● Văn nghệ và chính trị

    Đối diện với Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, những người có tư tưởng quốc gia, triệt để chống lại quan niệm đấu tranh giai cấp của cộng sản, Trương Tửu là người cộng sản đệ tứ, đứng trên quan niệm đấu tranh giai cấp để đ̣i hỏi tự do dân chủ.
    Trước tiên, ông xác định quan hệ mật thiết giữa chính trị và văn nghệ:

    "Văn nghệ, tự thân nó, tất yếu phải mang chính trị tính và có tác dụng chính trị" v́ "Văn nghệ, căn bản, là một thể cách nhận thức và tái tạo thế giới thực tại, một thể cách biến cải xă hội, biến cải con người bằng đường lối thẩm mỹ". Cho nên, người nghệ sĩ khi sáng tác bắt buộc phải "dấn thân", nhưng sự dấn thân ở đây có tính cách "đấu tranh giai cấp", ông viết: "Sáng tác văn nghệ là tự xác định một thái độ, một lập trường đối với cuộc đấu tranh giai cấp đương thời".

    Đồng ư hay không đồng ư với quan niệm đấu tranh giai cấp của Trương Tửu, nhưng không ai có thể phủ nhận tính thuyết phục trong bài viết của ông. Vẫn đứng trên quan niệm đấu tranh giai cấp, chống lại các chế độ người bóc lột người, ông viết về thời cổ điển: "Lịch sử văn nghệ căn bản là lịch sử chiến đấu của những văn nghệ sĩ nhân đạo chủ nghĩa đối kháng với chế độ áp bức con người, bảo vệ quyền tự do tư tưởng, tự do nói sự thực trong tác phẩm".

    Mà sự thực là điều mà các chế độ độc tài ghê sợ nhất tuy nhiên các văn nghệ sĩ cổ điển đă không ngại chiến đấu cho sự thực trong tác phẩm của ḿnh:

    "Đó cũng là thái độ của tất cả những văn nghệ sĩ cổ điển Đông và Tây - của những Đỗ Phủ, Nguyễn Du, Molière, Heine, Rousseau, Diderot ..v.v… Họ dũng cảm bảo vệ tự do tư tưởng, tự do nói thực đến kỳ cùng trước sức tấn công hiểm độc của các giai cấp bóc lột (...) Thiếu chân lư đó, không thể có tác phẩm nghệ thuật thực sự quan trọng được (...) Muốn sáng tạo ra một thế giới độc đáo, văn nghệ sĩ phải có một cái nh́n độc đáo, một nhận thức độc đáo về thực tại, một trí tưởng tượng độc đáo, một lối nói độc đáo. (...)

    Phải tự do nh́n sự thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ, tự do tưởng tượng, tự do vận dụng ngôn ngữ nghệ thuật - để có thể phản ánh hiện thực một cách trung thành. Tự do đây có nghĩa là: chống lại mọi áp bức tư tưởng, mọi mệnh lệnh, mọi công thức, mọi quyền uy bắt ḿnh nói điều ḿnh không muốn nói, nghĩ điều ḿnh không muốn nghĩ, nhận là đúng điều ḿnh cho là sai, yêu những cái mà ḿnh ghét, ca tụng những cái mà ḿnh phản đối. Không có tự do ấy, sự sáng tác của văn nghệ sĩ sẽ giả tạo. Giả tạo là kẻ thù của nghệ thuật. Giả tạo là tiêu diệt nghệ thuật.

    Một tác phẩm văn nghệ không tiết ra từ những cảm nghĩ thành thực và sâu sắc của chính tâm hồn tác giả sẽ là một phản ảnh nhạt nhẽo của thực tại. Nó khô khẳng v́ thiếu chất sống. Nó bất thành nghệ thuật, và do đó, chẳng xúc động được ai cả."

    Trương Tửu đă viết những lời kêu gọi và biện hộ tha thiết cho sự tự do của văn nghệ sĩ. Ông kêu gọi người nghệ sĩ phải có can đảm là ḿnh trong những điều kiện xă hội bắt họ không được là ḿnh. Phải tự do nh́n, cảm, nghĩ, nói theo chủ định cá nhân của ḿnh, trong những điều kiện xă hội buộc họ phải nh́n, cảm, nghĩ, nói theo những công thức thống trị.

    Trương Tửu kết luận:
    "Người văn nghệ sĩ sống bằng tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ là bất khả xâm đoạt". "Không có tự do tư tưởng th́ không thể có nghệ thuật chân chính được. Đó là một chân lư bất di bất dịch."

    Văn nghệ và chính trị là bài viết đấu tranh cho tự do tư tưởng hay nhất và mạnh mẽ nhất trong thời kỳ NVGP, xác định Trương Tửu là nhà phê b́nh văn học duy nhất dám đứng lên chống lại sự độc tài đảng trị, trong khi Vũ Ngọc Phan im lặng, Hoài Thanh trở thành bồi bút cho Đảng.

  9. #2289
    tran truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 6

    ● Lê Đạt: Nhân câu chuyện mấy người tự tử

    Lê Đạt trên Nhân Văn số 1 ngày 20/9/56, mượn câu chuyện thời sự trên báo: một đôi t́nh nhân tự tử, để gợi lại chuyện riêng của ḿnh - Lê Đạt yêu Thúy Thúy, một nghệ sĩ sân khấu và ly dị người vợ cốt cán, nên bị cấp trên khiển trách- cũng là chuyện t́nh duyên bị đảng áp chế của những Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác, Đặng Đ́nh Hưng ... Bài thơ vượt trên bi kịch cá nhân, để tố cáo sự độc tài đảng trị kiểm soát đến cả tim người:

    Chế độ ta không cấm họ yêu nhau
    Mà sao họ chết?
    Người công an đứng ngă tư đường phố
    Chỉ huy
    bên trái
    bên phải
    xe chạy
    xe dừng
    Rất cần cho việc giao thông.
    Nhưng đem bục công an
    máy móc
    đặt giữa tim người
    Bắt t́nh cảm ngược xuôi
    theo đúng luật đi đường nhà nước
    Có thể gây rất nhiều chua xót
    ngoài đời


    Từ bi kịch đôi t́nh nhân, Lê Đạt nh́n lại ḿnh, bấy lâu ngủ quên trong chế độ:

    Thơ tôi bị cuộc đời ruồng bỏ
    V́ tôi đă ngủ quên trong chế độ
    Vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ
    La liệt đầy đường hoa nở
    chim kêu (...)


    Giữa năm Cộng hoà lớn khôn mười một tuổi
    Vẫn c̣n lọt lưới
    nhiều thói "an nam"
    Dán nhăn hiệu
    "Made in Cách mạng"
    Ngang nhiên xúc phạm con người
    Đẩy họ đi tự tử


    Nay bừng tỉnh, nhà thơ kêu gọi mọi người, hăy "quét sạch mây đen", "chặt hết gông xiềng":

    Phải quét sạch mây đen
    cho chân trời rộng mở
    Chặt hết gông xiềng
    cho những cánh tung lên
    Ngày và đêm
    mộng bay đầy cuộc sống
    Khát vọng theo khát vọng
    Không ǵ ngăn cản con người


    Bài thơ chiếm trọn trang ba của tờ báo, có vị trí một bài xă luận, xác định lập trường chính trị của Lê Đạt và Nhân Văn. Hai câu: Đem bục công an máy móc đặt giữa tim người. Bắt t́nh cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước ... đă khắc ghi vào tim người Việt, mọi nơi, mọi thời, bức h́nh chế độ công an trị rơ nhất, trên đất nước Việt Nam.

  10. #2290
    tran truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 6

    ● Nguyễn Mạnh Tường: Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lănh đạo

    Sau Hoàng Đạo dưới thời Pháp thuộc, Nguyễn Mạnh Tường là người dùng lư lẽ luật pháp để phê b́nh những sai lầm về mọi mặt trong chính sách cai trị của Đảng Cộng sản, chủ yếu qua buổi diễn thuyết "Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lănh đạo" nói tại Mặt trận tổ quốc ngày 30/10/1956.
    Sau khi nghe Trường Chinh đọc bản tự phê b́nh của Đảng Lao Động về chính sách Cải Cách Ruộng Đất, với tài hùng biện nổi tiếng, Nguyễn Mạnh Tường đă diễn thuyết trong 6 tiếng trước Mặt Trận Tổ Quốc.

    Bằng giọng mỉa mai, chua xót, Nguyễn Mạnh Tường trả lời Trường Chinh: "Tôi phấn khởi được nghe bản phê b́nh của Đảng Lao Động do ông Trường Chinh đọc trước Hội Nghị. Nhưng tôi cũng phải thú thực rằng ḷng phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, v́ tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đă phạm trong công cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng ḿnh trước kỷ niệm những người vô tội đă chết oan, không phải v́ bàn tay của địch mà chính của ta. (...) Trái lại, các người chết oan v́ các sai lầm trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót v́ chết với một ô danh".

    Đây là một bài chính luận sâu sắc, nội dung phân tích những sai lầm của chế độ, đi từ sai lầm cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang sai lầm trong chế độ mậu dịch ở thị thành, tất cả nằm trong bản chất thiếu dân chủ của chế độ. Ông truy nguyên nguồn gốc những sai lầm và tŕnh bày những nguyên tắc mới để sửa sang lại guồng máy luật pháp, chính trị của đất nước.
    Ông hỏi tội trực tiếp cấp lănh đạo cao nhất:

    Những người lănh đạo, có trách nhiệm vụ Cải cách ruộng đất làm cho bao nhiêu người chết oan, không thể chỉ đứng ra xin lỗi, hoặc nhận là Đảng đă sai lầm, mà xong đâu[15]. Xin lỗi không phải là hành động luật pháp. Giết người rồi, không thể chỉ xin lỗi mà xí xoá được. Trong một nước dân chủ thực sự, th́ Quốc Hội phải lập một ủy ban điều tra, phải đưa họ ra toà, và toà sẽ phân xử, kết án, tùy theo trách nhiệm nặng nhẹ của mỗi người, từ lănh đạo cao nhất xuống dưới.

    Đầu tiên hết, ông phân tích t́nh h́nh chính trị xă hội Việt Nam, bằng những chất vấn:

    "T́nh h́nh nước ta hiện thời ra sao? T́nh h́nh ấy có bi quan không?"
    "Về Mậu dịch nửa năm nay, đồng bào ta thán như thế nào, ta đă biết. Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lăng phí bao ngh́n triệu trong khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao động cho ḿnh, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến tính mệnh của người ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá mốc, phạm đến sức khỏe của nhân dân, nào bất lực trước hiện tượng vật giá ngày càng lên trong khi nhiệm vụ của ḿnh là phải b́nh ổn nó. Có thể nói được, suốt ngày đêm không đâu là không có lời oán trách Mậu dịch".

    Sau khi tổng kết t́nh trạng bi quan về kinh tế, xă hội, Nguyễn Mạnh Tường trở lại vấn đề Cải Cách Ruộng Đất, ông hỏi: chúng ta đă sai lầm nghiêm trọng trong Cải Cách Ruộng Đất, nhưng bây giờ phải t́m hiểu xem sai ở đâu? V́ sao mà sai?

    Đường lối cách mạng đề ra là người cày phải có ruộng, trên nguyên tắc điều ấy là đúng, không ai chối căi. Nhưng khi thi hành chính sách này người ta đă coi thường sinh mạng con người, và vi phạm luật pháp: "Khi đưa ra khẩu hiệu "thà chết 10 người oan c̣n hơn để sót một địch" th́ khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lư mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa (...) Khẩu hiệu của pháp lư th́ khác hẳn: "Thà 10 địch sót c̣n hơn một người bị kết án oan".

    Rồi Nguyễn Mạnh Tường nhắc lại những nguyên tắc cơ bản của pháp lư: Không phạt các tội đă phạm quá lâu rồi mà bây giờ mới khám phá ra. Chỉ một ḿnh phạm nhân chịu trách nhiệm việc ḿnh làm, không có trách nhiệm chung của vợ con, gia đ́nh. Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng. Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho ḿnh.
    Nhưng những nguyên tắc cơ bản này không được áp dụng trong Cải Cách Ruộng Đất. Sở dĩ có sai lầm như vậy v́ ba nguyên do: Quan điểm ta-địch, thù-bạn mơ hồ. Bất chấp pháp luật. Bất chấp chuyên môn.

    V́ ta-địch, thù-bạn mơ hồ, cho nên bao nhiêu bi kịch đẫm máu xẩy ra, có "những người suốt đời hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ ra khỏi Đảng, tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa". Trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất, bao nhiêu "chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy" cũng "bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành h́nh".

    Những cán bộ hành xử như vậy, nếu v́ "chủ mưu phá hoại" th́ phải đưa ra toà, c̣n nếu v́ điên cuồng th́ phải đem đi chữa bệnh thần kinh. V́ chính trị bất chấp pháp luật cho nên, muốn xử tử ai cũng được: "Quyền xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với luật pháp".

    V́ bất chấp chuyên môn cho nên "khi chọn một người vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đă vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi: “Có lập trường không?” Kết quả là từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà Nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phần giai cấp nào? Chữa cho địa chủ th́ “mất lập trường”. Để nó chết mới chứng minh ḿnh có “lập trường giai cấp” (hiện tượng do B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra) (...) Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là v́ chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ các chân lư".

    Quốc hội thành lập đă mười năm- từ 1946 đến 1956. "Nhưng quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu?" "Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi". "Trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đă được ban bố".
    Nhưng trong thực tế: "người dân không có quyền, không có phương tiện nói lên ư kiến của ḿnh, tham gia xây dựng các chính sách của Chính phủ".
    Đề nghị sửa chữa sai lầm do thiếu một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự, Nguyễn Mạnh Tường lập luận: V́ không có một chế độ pháp trị chân chính cho nên mới xẩy ra vụ Cải Cách Ruộng Đất.

    Và sau khi xẩy ra rồi, th́: "phải lập một ủy ban điều tra gồm các vị đại biểu Quốc Hội, Mặt Trận, Đảng Lao Động với sự cộng tác của các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp pháp lư đă nhận định, trên quá tŕnh đi từ lănh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu. Sau khi kết thúc cuộc điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lư. Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước Quốc Hội biến thành Ṭa Án tối cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lư sẽ trả lời trước các Ṭa Án tư pháp. Dưới con mắt của quần chúng theo dơi xây dựng cuộc điều tra và xét xử, công lư phát huy, không c̣n ai thắc mắc nữa".

    Làm như thế mới đúng quy tắc của một chế độ dân chủ. Một chế độ thực sự dân chủ "trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa". Và ông nhấn mạnh: " Lịch sử các phong trào cách mạng trong hơn một thế kỷ nay, chưa bao giờ, chưa ai có thể ngăn cản được một phong trào quần chúng tranh đấu đ̣i các tự do dân chủ".

    Tóm lại, các nhà trí thức trong NVGP nói với một quần chúng đă quen biết với dân chủ, có ư thức, có tŕnh độ về dân chủ, khác hẳn với lối viết giản dị và giáo khoa của Phan Châu Trinh đầu thế kỷ XX, nói với một quần chúng mới phôi thai về dân chủ. Và cũng khác cách viết khoa học, tự tin và tự hào dân tộc của Hoàng Đạo đối đầu với thực dân Pháp. Như vậy đủ thấy rằng từ đầu đến giữa thế kỷ XX, trong đầu óc người Việt Nam, tự do dân chủ đă có những biến chuyển lớn lao, chứ không hề dậm chân tại chỗ.

    Từ khi đảng Cộng Sản dập tắt phong trào NVGP, dẹp tan tư tưởng tự do dân chủ, giữ địa vị độc tôn cai trị, coi tất cả những đảng phái đối lập là thù nghịch, là phản động, và nhất là không c̣n giáo dục học sinh về quyền công dân, quyền con người nữa, th́ người Việt mới lại rơi vào ṿng u tối, không ư thức được tự do dân chủ là quyền thiết yếu của con người, và chúng ta mới phải nghe những lập luận thoái hoá của những "trí thức" đương thời, coi sự sùng bái lănh tụ là "bẩm sinh" là tất yếu; loại trừ quyền tự do dân chủ, như một sản phẩm của phương tây, không phù hợp với Việt Nam.

    Phê b́nh lănh đạo văn nghệ của Phan Khôi, Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu và Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lănh đạo của Nguyễn Mạnh Tường là ba văn bản quan trọng nhất thời kỳ NVGP, nói lên tinh thần bất khuất của người trí thức dưới chế độ cộng sản và giải thích tại sao cộng sản phải tiêu diệt trí thức.



    [1] Nhật kư Trần Dần ghi, trang 245.
    [2] Phan Châu Trinh, Quân trị chủ nghiă và dân trị chủ nghiă. Tuyển tập Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Dương soạn, nxb Đà Nẵng, 1995, trang 792- 818.
    [3] Hoàng Đạo, Vấn đề thuộc địa, Thuộc địa Pháp-Chính sách, Ngày Nay số 80, 10/10/1937.
    [4] Hoàng Đạo muốn nói đến Trung và Bắc, v́ Nam kỳ là nhượng địa, được hưởng quyền tự do báo chí như ở các thuộc địa của Pháp.
    [5] Thư ngỏ cho ông cựu toàn quyền Varenne, Ngày Nay, số 130, 1/10/38.
    [6] Hoàng Đạo, Vấn đề cần lao, Nô lệ trá h́nh, Ngày Nay, số 133, 22/10/38.
    [7] Hoàng Đạo, Công dân giáo dục, Ngày Nay số 160, 6/5/39.
    [8] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
    [9] Giai Phẩm Mùa Thu tập I, 29/8/1956
    [10] Giai Phẩm Mùa Thu tập II, 30/9/1956.
    [11] Đài là tôn xưng. Ngày trước, khi viết chữ Hán, nếu gặp những chữ như: Cung vua, Lăng tẩm, Miếu hiệu vua chúa... th́ phải đài chữ, tức là viết cao hơn chữ thường để tỏ ư tôn kính.
    [12] Giai Phẩm Mùa Thu tập II, 30/9/56.
    [13] Giai Phẩm Mùa Thu tập III, 30/10/56.
    [14] Giai Phẩm Mùa Đông tập I, 28/11/56.
    [15] Nguyễn Mạnh Tường muốn nói đến việc: Hồ Chí Minh khóc và xin lỗi quốc dân. Vơ Nguyên Giáp thay mặt Đảng xác nhận 7 điểm sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất.


    Còn tiếp ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 6 users browsing this thread. (0 members and 6 guests)

Similar Threads

  1. Chuyện nghe được từ ngướ không quen
    By Dac Trung in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 10-10-2012, 12:25 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-05-2012, 10:37 PM
  3. Bắt Buộc Phải Nghe
    By Dean Nguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 19-01-2012, 08:34 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 31-07-2011, 05:33 PM
  5. Tưởng Niệm Tháng 4 Đen Nghe Nhạc Lính VNCH
    By Camlydalat in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 18
    Last Post: 25-04-2011, 06:28 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •