Page 242 of 304 FirstFirst ... 142192232238239240241242243244245246252292 ... LastLast
Results 2,411 to 2,420 of 3035

Thread: Nghe Chuyện Hà Nội

  1. #2411
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14

    Nhưng chỉ một Dạ Kư thôi, có lẽ chưa đủ để lĩnh án 12 năm. Dạ Kư là cái cớ làm cho những người lănh đạo văn nghệ bị Phùng Cung biếm họa nổi giận. Chế Lan Viên ra lệnh bắt. Việc tù tội tiếp sau, dựa trên toàn bộ tác phẩm thơ văn của Phùng Cung, một nội dung phanh phui tận gốc chính sách tiêu diệt văn hoá của Đảng:

    - Giải thoát và Mộ phách viết về sự bức tử nghề ca trù và tuồng chèo cổ.

    - Biệt tích là sự thủ tiêu nghề thợ mộc chân chính.

    - Mạt kiếp viết về cái đói và cái chết của người cùng đinh.

    - Pḥng tuyên truyền địa ngục, là cơ quan dụ con người bỏ trần gian về địa ngục.

    Như vậy, Phùng Cung đă viết về chính sách thủ tiêu văn hoá của Cách Mạng Tháng Tám, từ 1956, tức là 6 năm sau khi Đại Hội Văn Nghệ Việt Bắc tháng 8/1950 ra chỉ thị tiêu diệt tuồng, chèo, cải lương. Phùng Cung viết về sự tiêu diệt ca trù, một sản phẩm văn hóa của vùng đất tổ Hùng Vương mà Mộ phách -mồ chôn phách- là tác phẩm tiêu biểu.
    Chính sách tiêu diệt văn hóa này, sẽ tiếp diễn với sự chôn vùi văn nghệ sĩ và trí thức của phong trào NVGP 1956; sự thiêu hủy văn học miền Nam sau 1975, và vẫn c̣n tiếp diễn đến ngày nay, qua việc cấm in, tịch thu sách, cách chức tổng biên tập, chia đất, bán rừng, coi nhẹ di sản văn hoá của tiền nhân ... Một cái nh́n rộng và xa như vậy, phải được khởi viết từ đất Tổ: Phùng Cung, người Sơn Tây- nước Văn Lang.



    ● Đất Sơn Tây - nước Văn Lang


    Sơn Tây phát sinh hai tài năng lớn trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm: Quang Dũng và Phùng Cung. Quang Dũng, sinh năm 1921, tại xă Phượng Tŕ, huyện Đan Phượng, tỉnh Sơn Tây [43] khắc h́nh ảnh vùng đất tổ, trong ḷng người Việt qua những câu thơ:

    Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt

    Chiều xanh không thấy bóng Ba V́"

    Quang Dũng đi vào ḷng người miền Nam, không qua ngả Tây tiến mà qua Đôi mắt người Sơn Tây do Phạm Đ́nh Chương phổ nhạc. Đại gia đ́nh Thăng Long -Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc- có một người anh chết ở Sơn Tây trong kháng chiến. Có lẽ v́ vậy mà Phạm Đ́nh Chương đă phổ thơ Quang Dũng bằng những nét nhạc tuyệt vời, với một tâm hồn đồng điệu. Nhờ bản nhạc Đôi mắt người Sơn Tây của Phạm Đ́nh Chương mà nước "sông Đáy chậm buồn qua phủ Quốc" thấm vào hồn người nghe, dù họ chưa hề đặt chân lên đất tổ bao giờ. Những nghệ sĩ đích thực luôn luôn có khả năng truyền cảm vượt tuyến, nối t́nh đất và t́nh người trong khoảng khắc câu thơ, tiếng nhạc.

    C̣n Phùng Cung?

    Là người thông bác lịch sử, gắn bó với đất đai và văn hóa lâu đời của dân tộc, Phùng Cung, đă dùng ngôn ngữ quật khởi, ngôn ngữ "rừng rú" của Đường Lâm để bảo tồn nền văn hoá Việt một cách quyết liệt và toàn diện.

    Bài của Nguyễn Hữu Hiệu có một thông tin về nguồn gốc họ Phùng: "Quê tổ của Phùng Cung ở Đường Lâm, Sơn Tây, vốn ḍng dơi Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng". Chỉ Phùng Cung mới có thể cung cấp cho Nguyễn Hữu Hiệu thông tin này.
    Bởi lẽ: Đường Lâm là một tên xưa, đă biến mất từ đời Lê, chỉ người gốc Đường Lâm mới biết, và khi Nguyễn Hữu Hiệu viết câu này năm 1996, Đường Lâm chắc chưa được "khôi phục" lại với khu "di tích lịch sử - văn hoá Đường Lâm", như ngày nay - không rơ việc khôi phục này có do các nhà khảo cổ giám định, hay chỉ là sự bài trí màu mè để lôi kéo du khách.

    Vậy việc Phùng Cung ḍng dơi Phùng Hưng là khả thể. Nhưng không phải cứ ḍng dơi Phùng Hưng th́ trở thành anh hùng. Ḍng dơi và đất sinh có thể giải thích sự can trường và ḷng bất khuất ở một con người như Phùng Cung. Sinh trưởng trong cái nôi lịch sử Sơn Tây, từ một ông tổ chống ngoại xâm lâu đời nhất, cái khí phách ấy, sự kiên cường ấy, không thể giải thích cách nào khác, ngoài đất đai, sông núi và lịch sử.


    Còn tiếp ...

  2. #2412
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14

    Nhưng trước hết, tại sao lại Sơn Tây?

    Đất Sơn Tây có ǵ đáng nói?

    Miền Bắc có bốn vùng đất cổ, đă trụ các kinh đô xưa:

    1- Sơn Tây thuộc nước Văn Lang, có kinh đô của Hùng Vương, Trưng Vương, Phùng Vương, Ngô Vương.

    2- Ninh B́nh, có kinh đô Hoa Lư của nhà Đinh, nhà Tiền Lê, và những năm đầu nhà Lư.

    3- Hà Nội là kinh đô Thăng Long của nhà Lư, Trần và Hậu Lê.

    4- Thanh Hoá có Lam kinh c̣n gọi là Tây kinh, kinh đô đầu tiên của nhà Hậu Lê, do Lê Thái Tổ dựng lên ở phía đông núi Lam Sơn, có cung điện nhà Lê ở phủ Yên Trường và Vạn Lại, có g̣ Phật Hoàng, mộ tổ nhà Lê, có Thành nhà Hồ tức Tây đô, có Ly cung của nhà Hồ ở huyện Vĩnh Lộc...

    Trong bốn vùng lịch sử này, Sơn Tây lâu đời nhất.[44]

    V́ vậy mà trải các triều Đinh, tiền Lê, Lư, Trần, Hậu Lê, Nguyễn, các vua, dù có thay đổi cách gọi, là lộ, là trấn, là thành, là xứ, không vua nào dám đụng đến "bờ cơi" Sơn Tây, bởi đó là "bờ cơi" Văn Lang, nơi vua Hùng dựng nước, với những bia, miếu, đền ... những địa danh lịch sử như Phong Châu, Mê Linh, sông Hát... Sơn Tây c̣n là trung tâm của nước Việt cổ, một địa điểm chiến lược và tâm lư. V́ vậy, khi dàn trận Thu Đông 1947, Pháp đă chiếm Tông và Sơn Tây trước, để làm bàn đạp đánh lên Việt Bắc, cũng là một đ̣n tâm lư đánh vào năo trạng người Việt.



    ● Sự sát nhập Sơn Tây vào Hà Nội

    Năm 1965, chính quyền miền Bắc sát nhập Sơn Tây vào Hà Đông. Từ 1975 đến 1978, Sơn Tây bị nhập vào Hà Sơn B́nh. Từ 1978 đến 1991, Sơn Tây bị nhập vào Hà Nội. Từ 1991, Sơn Tây bị nhập vào Hà Tây. Đến tháng 8/2007, thị xă Sơn Tây[45] được nâng cấp lên thành phố Sơn Tây và năm 2008, toàn bộ tỉnh Hà Tây bị sát nhập vào thủ đô Hà Nội. Đường Lâm[46] như vậy, ngày nay đă thuộc vào tỉnh Hà Nội. Những sự "sát nhập" này, luôn luôn thay đổi, tùy tiện và lúng túng, không do một chính sách địa lư, chính trị, văn hoá có nghiên cứu khoa học và lịch sử làm hậu thuẫn. Sự "sát nhập" toàn bộ thành phố Hà Tây -trong có thị trấn Sơn Tây- năm 2008 vào Hà Nội, cũng như việc ủi nền cổ thành Đại La để tổ chức lễ hội ngàn năm Thăng Long, bất chấp ư kiến các chuyên viên khảo cổ, có thể hiểu như thế nào?

    - Rằng để kịp thời phục vụ "lễ hội ngàn năm Thăng Long", nên cần làm đẹp Hà Nội và "bành trướng" Hà Nội về phía đất tổ Hùng Vương chăng?

    - Rằng để cho nhà, đất lên giá theo đúng đơn đặt hàng của bọn đầu cơ bất động sản?

    - Rằng để xác định sự chính thống của nhà nước Việt Nam, tự xưng thời đại cộng sản như một triều đại "mở nước", ngang với triều Lư, với tổ Hùng Vương chăng?

    Cái tin nhà nước định "rời đô" về chân núi Ba V́, bất chấp ư kiến chuyên gia, lại càng làm cho các giả thuyết trên đây, đặc biệt giả thuyết sau cùng, thêm vững chắc.

    Sự phá vỡ bờ cơi Văn Lang, bất chấp lịch sử, văn hoá, cũng không đi ra ngoài quỹ đạo truyện ngắn của Phùng Cung. Truyện của ông xoáy vào toàn bộ chính sách văn hoá của đảng cộng sản: từ việc loại trừ phần văn hóa cổ dân gian, như chèo, tuồng, ca trù, thời kháng chiến, đến sự phá vỡ vùng đất tổ Hùng Vương hiện nay, là hậu quả của chính sách phi văn hoá, xuất phát từ 1950 khi đảng cộng sản quyết định áp dụng chính sách đấu tranh giai cấp trên toàn lănh thổ để xây dựng một nhà nước do vô sản độc quyền lănh đạo.


    Còn tiếp ...

  3. #2413
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14

    ● Đấu tranh giai cấp giữa chó và người

    Dưới mắt Phùng Cung, chính sách Đấu Tranh Giai Cấp của Đảng Cộng Sản, được mô tả dưới dạng phân chia giai cấp giữa Chó và Người.

    Giai cấp mà ông gọi là chó thuộc thành phần những kẻ "úp mặt hôn mê liếm lộc", những kẻ "cưỡng bức ngữ ngôn", những kẻ "t́nh nguyện trọn kiếp bút nô", những kẻ "ngợi ca tội ác"... Và trong bối cảnh "chó đô hộ người" các công tác ḍ thám, hăm hại, thủ tiêu, đều đạt đỉnh điểm. Sự triệt tiêu văn hoá trở thành quốc sách.
    Chưa một ng̣i bút nào đi xa đến thế trong việc mô tả xă hội toàn trị. Tư tưởng chủ đạo này chi phối toàn bộ tác phẩm của Phùng Cung, mỗi truyện có nhiệm vụ biểu trưng một vấn đề mà nhà văn đưa ra. Cách nh́n xă hội chó-người này, sẽ sống lại trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, sau này. Con ngựa già của chúa Trịnh, tác phẩm duy nhất của Phùng Cung in trong thời NVGP, tả bọn quần thần như những con ngựa già suốt đời nhắm mắt bịt tai cúi đầu phủ phục lănh tụ.

    Ngay từ Con ngựa già của chúa Trịnh, Phùng Cung đă lấy đất Sơn Tây làm nền cho tác phẩm: từ vùng đất tổ, phát xuất giống ngựa ṇi, sau này sẽ bị thế quyền làm mai một, mất giống. Lăo Nông là h́nh ảnh đầu tiên về người nông dân chân chính của vùng đất tổ.

    Con ngựa già của chúa Trịnh viết về con thần mă Kim Bông của lăo Nông ở Sơn Tây, có sức vượt ngh́n dặm với cái thế "cao đầu phóng vĩ" của ṇi ngựa chiến. Bất cứ cuộc đua nào, Kim Bông cũng đứng đầu. Tin đồn đến tai chúa Trịnh, nhà chúa bèn cử người đến mua con ngựa quư. Dù luyến tiếc vô cùng, lăo Nông bắt buộc phải giao ngựa về kinh. "Kim Bông phi như gió, trả lại đằng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chỉ trong nửa ngày đă về đến Thăng Long".

    Về kinh, Kim Bông trở thành con vật sủng ái, được kéo xe hầu chúa. Sống trong nhung lụa, thần mă được ngự tại mă đài ngày ngày chỉ ăn và tắm. Chúa ban áo măo cân đai, đặc biệt cái mũ cánh chuồn, như hai chiếc lá đa che tai, che mắt, chỉ để lộ mỗi con ngươi nh́n thẳng về phía trước. Rồi đến lúc can qua, chúa cần con ngựa chiến dũng mănh ngày xưa, nhưng than ôi, con thần mă đă quen thói cung đ́nh, bao nhiêu năm che tai, bịt mắt, khi tháo mũ áo ra, nó hoa mắt, đầu choáng váng, chân không phóng được nữa. Thần mă cố sức b́nh sinh, dốc hết tàn lực rồi ngă vật xuống đất, đứt ruột mà chết.

    Kim Bông tượng trưng cho những tài năng lớn, khi đă mũ ni che tai, quỳ gối, úp mặt, phục vụ thế quyền, để t́m bổng lộc, đều trở thành những con ngựa già, vô dụng. Kim Bông là "nhân vật" đầu tiên, từ "thần mă" xuống "chó" mà Phùng Cung mô tả.

    Là một trong những truyện ngắn hay nhất thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, cùng với Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh mang tính chất ẩn dụ tế nhị, kín đáo và sâu sắc, khó có thể kết tội công khai tác giả.



    Dạ kư là một bút kư tưởng tượng hài hước về những nhân vật chính trong vụ NVGP, bên nguyên cũng như bên bị, mập mờ những chân dung: Tố Hữu, Nguyễn Đ́nh Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Tô Hoài..., cả người thầy học cũ của tác giả cũng có mặt... đến Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Tử Phác, Lê Đạt... Không chỉ tứ trụ triều đ́nh được phác họa dưới những nét châm biếm, mà cả những bạn đồng hành cũng không thoát khỏi... tất cả đều bị cuốn theo cơn lốc, dưới chân một ngọn tháp, "trên đỉnh tháp là một tàn vàng chóe loé, hơi giống mặt trời chiều lúc gần xuống núi; có phần sáng hơn mặt trời. Bên cạnh tàn vàng là một lá cờ đại, xung quanh lá cờ đại là hàng ngàn cờ nhỏ - đều màu đỏ rực. Từ cờ đại đến cờ nhỏ đều quay tṛn. Diềm cờ không dính tua kim tuyến mà là lưỡi câu thép ngoại. Cờ tạo gió, gió nhân thành băo, th́ ra cờ bay mà tiếng gầm rú hăi hùng như vậy. Tôi lạnh cả người, cầm sẵn trong tay một cái chết móc hàm"[47].

    Dạ Kư biếm họa một thời đại cuồng điên, người người lớp lớp phục xuống trước một ngọn tháp vĩ đại, "chạy ṿng quanh tháp - như đèn kéo quân"; "hàng ngàn cờ nhỏ - đều màu đỏ rực", "một rừng cờ" có "lưỡi câu thép ngoại"; "cờ bay mà tiếng gầm rú hăi hùng"...

    Chưa có tác giả miền Bắc nào dám viết về bác Hồ, về lá cờ búa liềm và ngày 19/8 như thế. Dạ kư là bức tranh châm biếm hăi hùng về sự tung hoành của lá "cờ có lưỡi câu thép ngoại", là điềm báo hiệu 12 năm tù không án của Phùng Cung. Nhưng "tội" của Phùng Cung, không chỉ là đă nặn ra một "con ngựa già", và vài trang "dạ kư" phạm thượng, mà c̣n ở những truyện ngắn sâu xa khác, tất cả viết trong khoảng 1957-1960, thời kỳ NVGP bị đàn áp sôi sục nhất.

    Chính những tác phẩm này mới đưa đến 11 năm biệt giam. Chúng bày ra những cảnh trường bi đát của một thời đại u tối mà ngày nay chúng ta đang cần t́m hiểu.

    Đó là số phận mạt kiếp của những người như lăo Thiều, suốt đời sống trong đói nhục, cuối cùng, lăo đục đáy cót ngô để ăn cắp, bị ngô tưới xuống đè chết.

    Mạt kiếp là một trong những truyện ngắn thê thảm nhất về cái đói, trong xă hội phân chia giai cấp chó-người.

  4. #2414
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14

    Vẫn trong bối cảnh Sơn Tây, Ba V́, vẫn trên nền đất tổ. Ngay từ ḍng đầu, không khí bạo lực bốc lên qua giọng văn mạnh, phũ, như một bức họa phổ nhạc, với những âm thanh loang lổ, màu sắc hoắc loạn: "Chiều xuống chới với trên đầu làng Chu Trần. Một con chó vàng nhạt, hơi gầy đứng trên bờ đê nghến phía tây nam nơi mặt trời như một chậu máu, loang văi từ đỉnh Ba V́ hắt lại. (...)

    Th́nh ĺnh tiếng tù và rúc ba hồi dữ dằn từ cầu Đạc Ba -điếm tuần của làng- gió tiếp âm, gom tiếng dữ tŕnh làng. Mấy nhà gần điếm c̣n nghe được cả tiếng "hự hự" của kẻ phạm pháp đang chịu đ̣n bằng đấm đá, lên gối vào ngực, vào bụng. Nghe đủ tiếng động, đàn chó làng cất tiếng tập thể tru lên một lúc rồi im bặt, quư hồ đủ tư cách chó, bởi dẫu có mỏi mơm cũng chẳng ăn nhằm ǵ".

    Đó là khúc chó tru dạo đầu cho thân phận lăo Thiều. Thiều không phải tên của lăo, lăo tên là Vị, Thiều là tên đứa cháu ngoại. Lăo có một quá khứ tù mù, có thể trước lăo đă có thời chân đi giày săng đá, đầu đội mũ chào mào khố xanh, khố đỏ, nhưng bây giờ thân tàn ma dại, không biết vợ bỏ hay vợ chết, lăo ở nhờ nhà con rể cả chục năm rồi.
    Ăn uống phải tự túc, gặp lúc nhà ai có việc gọi đến, lăo c̣n được miếng no. Nhiều ngày chẳng ai đoái hoài, lăo đói ră họng, đành thậm thọt vụng trộm củ khoai, bắp ngô của làng. Bị tuần bắt được trói gô vào cột đ́nh, đánh, lăo chày mặt ra chửi đổng. Lăo nghĩ bụng "no nên bụt, đói ra ma", "ngũ cốc c̣n ghê hơn thuốc phiện, chưa ră họng chưa biết!", "trên đời này ông sợ nhất cái đói, ông khinh nhất cái đói, ông căm thù nhất cái đói".

    Ăn nói kiểu Chí Phèo; Chúa, Phật, chả coi ra ǵ, bất kỳ quỷ ma thần thánh ǵ lăo cũng theo tuốt miễn có cái bỏ vào mồm, lăo làm tất tần tật: đánh thần trùng, bốc mả, nhảy xuống ao cứu trẻ chết đuối, không từ một việc nào. V́ cứu trẻ ở xóm đạo, lăo được mang tên thánh Phê Đô Vị, rồi xóm đạo hết việc, lăo mon men đến chùa, giúp bà văi đốn tre, cạp rổ cạp rá ... Lăo đă trải hết các "thời", vậy mà lăo vẫn sống.

    Cho tới cái năm ấy. Lăo cố nhớ lại: "Năm ấy là năm ǵ nhỉ? Nước sông Hồng vua Thủy dâng to hơn mọi năm nhiều. Nước tràn lên đánh úp bờ băi, cướp trắng hoa màu chưa đến tuổi thu hoạch, đe dọa đê điều đe dọa cả một vùng đói kém!"

    Chẳng biết lăo Thiều có ư nói kháy cái năm bốn nhăm thần thánh ấy, cái năm quái gở trùng hợp đói, lụt và biến cố lịch sử vĩ đại của cuộc cách mạng nào không.

    Dám lắm, đến nước này, lăo c̣n nể ǵ. Lăo đổ tội cho cái năm thổ tả ấy, v́ nó mà lụt lội tràn lan khắp nơi. Đói quá, lăo Thiều chẳng c̣n nể nang ǵ nữa, lăo chửi cái đói "Mày đang tâm biến người thành chó, chó thành người!". Lời chửi đổng của lăo cũng mập mờ đầy ư nghiă, chẳng biết lăo chửi cái đói, chửi thần thánh, hay thoá mạ cách mạng.

    Đường cùng, lăo tính nước cờ chót: liều chết, lăo lội lụt vào tận đáy cót ngô của nhà Tư Tâm, đục cót cho ngô chảy xuống, lăo hứng bằng hai ống quần, nhưng không ngờ, ngô chảy mạnh quá. "Đói, lạnh, nặng, cả ba lực giáp công, lăo không sao ngóc đầu lên được. Chỉ trong chớp mắt lăo nghỉm hẳn"[48].

    Mạt kiếp được viết với bút pháp lạnh lùng gần như châm biếm, vô cảm hóa nghịch cảnh, và đó chính là nghệ thuật tŕnh bày cái bi đát trong thân phận con người sâu sắc nhất: Từ cái năm ấy, cái năm đói ấy, Lăo Thiều bị nghiền nát nhân phẩm, lăo cố ngóc đầu lên để được sống làm người, sống như người, nhưng cuối cùng lăo bị quật ngă, bị tiêu diệt.

    Biệt tích là truyện phó Lâm, người thợ không hội nhập được với "đời sống mới"'. Người thợ mộc đầy lương tâm và nhân cách này không thể chấp nhận lối "ăn thật làm dối" của Ủy Ban Nhân Dân. "Với phó Lâm, tua, mộng là tuyệt kỹ, khi vào mộng, không tháo ra, chêm lại làm đau gỗ!"[49], nhưng bây giờ Ủy Ban lại bắt Phó Lâm phải làm nhanh, đóng bàn không cần tua, mộng ǵ cả, cứ ghép lại bằng đinh năm phân, chặt mũ, đóng ngậm là đủ. Ông chủ tịch xă lại c̣n ra lệnh:

    "- Cứ mẫu ấy mà đóng!

    Phó Lâm lo âu xoa hai bàn tay vào nhau:

    - Dạ! Thưa ủy ban không làm được ạ!"

    Phó Lâm lẩm bẩm trả lời bằng những dạ thưa, không làm được ạ, dạ thưa, khó quá ạ .... cho tới lúc bị đuổi về. Ít lâu sau, phó Lâm đi đâu biệt tích ... Có người đồn thấy phó Phó Lâm vai vác ŕu, tay sách ḥn đục ngược ḍng sông lên núi Tản Viên, bước trên nước như đi đường vậy. Bà Lâm được tin lạnh cả người! Ở đây không ai c̣n lạ ǵ chuyện đức Thánh trên đỉnh núi Tản cứ ba năm lại một lần xuống núi t́m thợ giỏi lên sửa điện đài trên ấy. Bà Lâm chờ chồng ba năm, sáu năm, rồi chín năm ... không thấy về, bà chọn tháng bẩy ngày rằm xá tội vong nhân làm giỗ.

    Biệt tích phác những nét mơ hồ nhưng vô cùng xác thực về một thời mà những cái chết bí ẩn, những sự mất tích, biệt tích của con người khá thường xuyên. Thời mà những giá trị đạo đức nghề nghiệp không c̣n chỗ đứng. Thời mà dốt nát, cẩu thả, lên ngôi. Phó Lâm, kẻ muốn bảo tồn đạo đức nghề nghiệp, đă bị gọi về trời. Phó về trời, như bị mất tích, như bị thủ tiêu, như tự thăng cùng thần núi Tản, để giữ măi cái chân chất của nghề tổ, giữ trọn phong cách của một nghệ nhân chân chính.

    Chắc chắn Phùng Cung có dự Đại hội Văn Nghệ 1950 ở Việt Bắc, và ông là nhà văn duy nhất đă phản ảnh lại chính sách chôn sống tuồng chèo, ca trù, của đại hội, trong hai tác phẩm: Giải thoát và Mộ phách: "Từ nay cái nghề ca trù càn rỡ dông dài phải tự tay đào sâu, chôn chặt, không để nấm mồ, không luyến tiếc"[50].

    Giải thoát viết về sự phá sản của nghề hát chèo ở làng Ô. Cái thế "cao đầu phóng vĩ" của con Kim Bông, loài ngựa chúa, được thể hiện lại trong nhân vật Cả Miêng, hay Trùm Nhất ở làng Ô, kẻ được coi là Bố cái đại vương của làng Vân Ô, nơi ngự trị của thần tổ nghề hát chèo, trên một giải đất cao, thế đất chim Phượng cạnh ḍng sông Hát - sông Đáy.

    Văn Phùng Cung luôn luôn có cái uy của đất tổ, cái đẹp của nghề tổ, cái trách nhiệm của bố cái -cha mẹ- trong nhiệm vụ bảo tồn văn hoá và lịch sử.

    Ở thế cao đầu phóng vĩ như thế, Phùng Cung một ḿnh một ngựa, cầm cương chống lại giai cấp mà ông gọi là "chó" của bọn tàn phá văn hoá dân tộc, tàn phá những nghề tổ: nghề mộc, nghề chèo, nghề ca trù ... đă nuôi sống con người. Bỏ nghề đi, là cắt đứt cuộc sống, là tiêu diệt nghệ thuật cùng miếng cơm, manh áo. Mà Mộ phách là một giá trị độc đáo.


    Còn tiếp ...

  5. #2415
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14

    ● Mộ phách

    Mộ phách viết về thời kỳ cấm ca trù, đập đàn đáy, chôn phách. Bi kịch của vợ chồng kép Tư Chản và Đào Khuê cả đời gắn bó với cây đàn tiếng hát, không khỏi gợi nhớ đến Cô Tơ và Chánh Thú trong Chùa đàn của Nguyễn Tuân. Tư Chản có hai con, một trai một gái, chỉ mong sao cho chúng sau này lớn lên nối tiếp nghề tổ để được no ấm một đời. "Thằng Thuyên, con trai độc nhất, khi nó mới biết lẫy, ông đă nắn ngắm bàn tay của nó và lấy làm măn nguyện. Ngón tay dài, ắt hẳn dài hơn tay bố, mai ngày nhẹ nhàng nhấn, vuốt dây tơ".

    Ngoài thằng con, Tư Chản chỉ c̣n cây đàn là quư: "Đàn này của cụ Kép thân sinh của Tư Chản để lại", "cụ Kép chọn gỗ, thuê thợ Kim Sa đóng cây đàn này lúc Tư Chản mới tám tuổi. Đáy đàn bằng gỗ dâu vàng, cần đàn bằng gỗ xâng chun, trục vặn bằng gỗ sứa. Phần trên của đáy đàn, hai khoáy gỗ đối nhau như hai con mắt. Cây đàn lên tiếng ngân vang gần một nửa thế kỷ. (...) Ba ngôi âm thanh của đàn đáy "Tiếng ṭng! tiếng dụng! tiếng dênh!" hợp thành đựng trong bầu đáy; nhà nghề gọi là "hồn đàn bất tử!"

    Tư Chản, coi đàn như người cha, như ông tổ, đàn là nguồn nghệ thuật và nguồn sống: "Tư Chản quan tâm đến cây đàn nằm đây như nâng giấc một người cha ốm. Trên bàn thờ sát vách bên trái, -cố để khuất mắt người lạ- cây đàn được nằm trong tư thế, dày, trục nghiêm trang. Trên đáy phủ tấm khăn the màu hoàng yến, nay đă ngả màu lơi mít che bụi và che tất cả.
    Ngày nào ông cũng hai lần nâng tấm khăn, nh́n kỹ toàn cây đàn. Sóc, vọng hai lần mỗi tháng; vào buổi tối, ông đều lau bụi, và bàn tay lại chạm khẽ lên dây tơ, lặng nghe tiếng xa xưa vọng lại. Ông đứng ngẩn ngơ, quên, nhớ, mông lung. Trước khi quay lưng ông không quên chắp tay thành kính vái cây đàn đủ bốn vái."

    Thế rồi thời thế thay đổi, thằng Thuyên lớn lên đi bộ đội cầm súng thay đàn ... Vợ chồng Tư Chản không c̣n được tự do đàn hát kiếm sống như trước nữa, nhưng trong ḷng vẫn "nhớ dồn thương góp", âm thầm lấy đêm 17 tháng 8[51] cúng tổ tiễn thu. Họ chờ lúc trăng khuya, cổng đóng then cài, t́m lại nghề cũ, tiếng đàn chen tiếng phách, nổi ch́m giọng ngâm tha thiết của những đêm xưa ...
    "Khúc "Cung bắc" đang chơi vơi như đ̣ chưa cập bến. Bỗng tiếng chó sủa rộ từ phía nhà thím Vượng hắt sang. Đàn phách im bặt. Hai linh hồn đang rong ruổi quá khứ vụt trở về thực tại. Chó vẫn sủa dai dẳng. Ngờ đâu tiếng tơ, tiếng phách đă leo rào, lọt đến tai người, va vào miệng chó".

    Từ đêm đàn ca vụng trộm đó, hai vợ chồng nơm nớp lo sợ, sợ người và sợ chó, sợ cả chó người. Rồi chuyện ǵ phải đến đă đến. Thuyên, đứa con trai duy nhất, đang đợi được kết nạp vào Đảng, dưới sự chỉ đạo của Đảng, đă ra tay xử lư cây đàn. Thuyên khẳng định: cây đàn đáy chính là "đồn địch". Và như một chiến sĩ can trường, Thuyên xông vào tóm lấy cổ "địch":

    "Thuyên hăng hái nhảy tới bên cạnh bàn thờ, tóm lấy cây đàn đáy - Cây đàn va vào vách "Cang!" một tiếng từ đàn đáy vọng ra như tiếng kêu cứu thất thanh của một tội nhân đến giờ hành quyết".

    Kêu cứu cũng vô ích, cây đàn không thoát khỏi định mệnh oan trái của ḿnh. Sau khi bị đập tan tành, xác đàn bị hoá kiếp lần nữa: trở thành mớ củi nấu nước tắm cho cậu quư tử: "Lửa cháy vù vù dưới thùng nước tắm. Ông Chản đang loạn bước ngoài ngơ, ngoài vườn, xéo nát cả luống rau mới cấy. Tai ông nghe lửa réo và ngửi thấy mùi đàn cháy khen khét như một vật có xương có thịt. Ông thảng thốt nghe rơ tiếng đàn từ trong cháy phi ra. [...] Ông hỏi vợ có nghe tiếng ǵ không?[52]

    Từ đấy, Tư Chản cứ trầm trầm đi t́m lại tiếng đàn, mấy tháng sau ông mất. Đào Khuê chọn ngày cúng chồng rồi t́m miếng lụa liệm cỗ phách của ḿnh, nó tên là Kim phách. Kim phách cũng có một sử thi lẫy lừng không kém cây đàn đáy của Tư Chản. Đào Khuê mai táng Kim phách trong ngôi mộ chôn cạnh bờ ao.

    Mộ phách ngân lên như tiếng khóc tiễn đưa thi ca, âm nhạc về bên kia thế giới trong một thời mà nghệ thuật đích thực bị xử lư như một phạm nhân. Với Mộ phách, Phùng Cung đă để lại những âm giai bất tử về sự bức tử một cây đàn và sự tuẫn tiết của một cỗ phách. Và qua đó là sự tàn phá nền văn hoá cổ Văn Lang.


    Còn tiếp ...

  6. #2416
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14

    ● Từ bà Huyện Thanh Quan đến Phùng Cung

    Sau khi thống nhất đất nước, nhà Nguyễn gỡ cung điện Thăng Long đem về Huế. 1831, vua Minh Mạng lấy hai chữ Hà Nội, tên một tỉnh nhỏ phía bắc nước Tàu, đặt cho Thăng Long. Nhà Nguyễn gỡ cung điện vua Lê và đổi tên Thăng Long thành Hà Nội nhằm xoá tinh thần pḥ Lê trong ḷng người dân đất Bắc, nhưng không qua mắt được nhà thơ:
    Bà Huyện Thanh Quan, thày dạy con gái vua Minh Mạng, sáng tác bài Thăng Long thành hoài cổ, một kiệt tác hoài Lê, một sự phản kháng âm thầm và mănh liệt của kẻ sĩ Bắc Hà "nhớ nước đau ḷng con cuốc cuốc, thương nhà mỏi miệng cái gia gia", vậy mà Gia Long không hề đốt sách và Minh Mạng không dám lấy tên Gia Long đặt cho Bắc thành.

    175 năm sau, thống nhất xong Nam-Bắc, chính quyền miền Bắc đổi tên Sài G̣n thành Hồ Chí Minh, vẫn sách lược cũ của nhà Nguyễn, kèm thêm chiến dịch cải tạo và nghị quyết tiêu diệt hầu như toàn bộ văn học miền Nam.

    Kết quả: hơn 35 năm sau, cái tên "cúng cụ" của thủ đô miền Nam vẫn không thu phục được nhân tâm. Với dân chúng miền Nam, nó vẫn chỉ là vết tích tủi nhục của sự bại trận, sự "mất nước", đúng như t́nh cảm bà Huyện dành cho nhà Nguyễn.

    V́ sao? V́ bất cứ chính quyền nào, chính sách văn hoá cũng vẫn là cốt tuỷ. Đối xử một cách văn hoá với người bại trận là phương sách uỷ lạo ḷng người. Bởi văn hoá ở trên chính trị. Đối với văn hoá, không thể áp dụng chính sách diệt trừ địch thủ như trong chiến tranh.

    Không phải cứ loại Tự lực văn đoàn, văn học xă hội chủ nghiă sẽ trở thành lănh đạo. Không phải cứ tiêu diệt Nhân Văn Giai Phẩm, th́ những Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Nguyễn Đ́nh Thi ... sẽ ngời sáng măi măi trên ṿm trời văn học Việt Nam. Không phải cứ đốt hết văn học miền Nam, th́ văn học miền Bắc sẽ trở thành độc nhất vô nhị.
    Bởi văn học không phải là một vùng chiến địa, để một c̣n một mất, mà là vùng hoà b́nh, sống chung, càng nhiều tác phẩm hay, nền văn học của một nước càng thêm sáng giá. Việc loại trừ những tác giả lớn của văn học Việt Nam trong suốt thế kỷ XX ra ngoài v́ lư do chính trị, đă thu nhỏ nền văn học Việt Nam, trong ḷng một bàn tay, đă bị cắt hết ngón -là những tinh tuư của dân tộc- chỉ c̣n lại những công thần, bịt tai, bịt mắt như những Con ngựa già của chúa Trịnh mà Phùng Cung mô tả.

    Đó là tiếng kêu tha thiết nhất mà Phùng Cung để lại trong tác phẩm, tiếng chim báo băo về nền văn hoá Việt đang bị thu gọn và tự hủy, từ việc bảo tồn đất tổ Hùng Vương đến sự loại trừ các giá trị tinh thần không theo đúng đường lối của Đảng.

    ● Đường Lâm thi chí, một nền thơ chống chiến tranh và tù ngục


    Những thành viên NVGP đều tham gia kháng chiến, nhưng sau chiến tranh, họ đă có những suy nghĩ khác:

    - Ở Văn Cao, là niềm hăng say tuyệt đối ban đầu: vào đội trừ gian, sáng tác quốc ca. Sau khi hoà b́nh lập lại, Văn Cao không c̣n sáng tác ca khúc nữa.

    - Ở Hoàng Cầm, chiến thắng chỉ là giấc mộng, kể cả trong giai đoạn sôi nổi nhất.

    - Ở Lê Đạt, đọng lại h́nh ảnh máu lửa tiêu thổ kháng chiến, là tội đốt quê hương.

    - Ở Trần Dần là bản hùng ca lụa Việt Bắc mà đói khát và bệnh tật phủ lên xác anh hùng.

    - Ở Quang Dũng là h́nh ảnh hăi hùng của đoàn quân không mọc tóc.

    Các thi sĩ trên đều thấy hậu quả chiến tranh và rút ra bài học của ḿnh.

    Phùng Cung có một hướng đi khác hẳn: ông không nh́n hậu quả chiến tranh để hối hận như các bạn. Ông cũng không đổ trách nhiệm lên đầu kẻ thù như người khác. Phùng Cung coi chiến tranh -chống Pháp và chiến tranh Nam-Bắc- đều phát xuất từ căn bệnh của dân tộc: bệnh hiếu chiến. Chứng nan y này đă thấm vào máu, khó có thể chữa được. Đối lập với Văn Cao trong quan niệm yêu nước, Phùng Cung phê b́nh quốc ca.


    Còn tiếp ...

  7. #2417
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14

    Trăng ngục là bản hùng ca phản chiến, kết tội Cách Mạng Mùa Thu, nh́n sự hiếu chiến của dân tộc như nguyên nhân sau xa nhất của hai cuộc chiến trong thế kỷ XX: chống Pháp 46-54 và thống nhất đất nước bằng vơ lực, chống Mỹ và chiếm miền Nam 54-75.

    Trăng ngục tập hợp những sáng tác trong tù. V́ không có giấy bút, không thể viết truyện nhẩm, nên Phùng Cung "bắt buộc" phải làm thơ. Trăng ngục biểu hiệu những tư tưởng đối lập khác lạ, đầy bất khuất, trong những ḍng chữ bị cầm tù suốt đời của tác giả. Tác phẩm chứa đựng những lời thơ mạnh, khẳng khái, đanh thép, như những mũi dao nhọn, đục thủng màng lưới bủa vây nhà thơ, đánh sụp bức tường xà lim, để lộ diện con người tự do, sẵn sàng chịu trả giá cho hành động và tư tưởng của ḿnh, chống lại toàn bộ hệ tinh thần yêu nước chủ chiến.

    Vào đầu là bài Biển cả, làm tại trại biệt giam Bất Bạt năm 1961, Phùng Cung bị tù tại chính Sơn Tây, vùng đất tổ. Nhà thơ ví chế độ toàn trị như biển cả:

    Biển cả khoác triều phục đại dương

    Hợm ḿnh - uy nghi đồ sộ

    Song đ̣i phen

    Nghiêng ngửa - đáng thương (...)

    Hỡi biển cả!

    Diện tuy rộng

    Nhưng thiếu những giác quan cần thiết

    Ḷng tuy xanh - sâu

    Xanh sâu đầy mặn chát....

    Nộ cuồng sóng vỗ

    Trống trải bơ vơ

    Chiều quả phụ

    B́nh minh vô vọng phương mờ...

    Ôi! Bao yên lặng thanh cao

    Đều ch́m

    Trong thét gào man rợ...


    Bố Cái đă bị bắt, bị tù trên đất Đường Lâm: tất cả đều đă sụp đổ. Dân tộc, bây giờ, không đứng trước quân nhà Đường phương Bắc, mà đối diện với biển cả mênh mông của chế độ cực quyền.
    Người dân hỏi ư cha. Bố Cái trả lời:

    Biển cả mênh mông

    Như biển cả

    Trước mắt trẻ thơ

    Mỗi tinh cầu

    Chỉ là chấm nhỏ

    Càng tối đen càng nh́n rơ xa xanh.


    Nhà thơ tŕnh bày trước mắt chúng ta hai thực thể: một bên là thế quyền lồng lộng, khoác "Triều phục Đại Dương"; một bên là sinh linh "trăm họ", những con người.

    Đại dương có đầy đủ phương tiện để vùi lấp trăm vạn sinh linh trong một trận thủy triều. C̣n con người, con người lấy ǵ chống lại? Con người chỉ có ánh mắt. Mắt trẻ thơ. Dưới ánh mắt của đứa bé, cái thế quyền lồng lộng ấy là ǵ?

    - Chẳng là ǵ cả, nó chỉ là con số không. Bởi dưới mắt đứa bé: "Mỗi tinh cầu chỉ là chấm nhỏ, càng tối đen, càng nh́n rơ xa xanh".

    Rồi Bố Cái chỉ cho dân cách đối phó với bạo lực cách mạng:

    Th́ nhắm mắt

    Th́ bưng tai

    Nhưng phải đâu khiếp sợ

    Chỉ điếc đui vừa đủ

    Để làm ngơ.


    Bài Biển cả tung trên trang đầu tập Trăng ngục như một thách đố trí tuệ, gói gọn triết lư tương đối và trung dung của tác giả đối với cực quyền toàn trị. Phùng Cung đ̣i hỏi sự hài hoà trong vũ trụ, đ̣i hỏi quyền sống cho những cái nhỏ, cái lớn, đ̣i hỏi sự b́nh đẳng không những về mặt chính trị văn hóa mà cả về thiên nhiên môi trường.
    Bài Trăng ngục rất ngắn, tập trung những tái tê bất hạnh của một đời tù biệt giam trong xà lim:

    Trăng qua song sắt

    Trăng thăm ngục

    Bỗng ta chợt tỉnh - sững sờ

    Trên vai áo tù

    Trăng vá lụa

    Ngày xưa ơi!

    Xa măi đến bao giờ...


    Trong tù, chỉ có vầng trăng, chỉ c̣n vầng trăng. Trăng quấn quưt. Trăng là áo. Trăng là ngày xưa. Trăng là vợ. Trăng là tri kỷ. Trên vai áo tù trăng vá lụa một câu tuyệt bút, là sự hài hoà giữa mềm và cứng, giữa tù và lụa, giữa trăng và áo, giữa xa và gần, giữa xót xa và âu yếm, giữa tự do và tù tội. Nhà thơ đă kêu gọi sự hài hoà đó trong bài biển cả, nhưng không thấy biển cả trả lời, chỉ một vầng trăng đáp lại.


    Còn tiếp ...

  8. #2418
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14

    ● Ai liều tảo mộ chiều nay

    Phản chiến là tư tưởng chủ yếu trong tập Trăng ngục. Phản chiến toàn diện, bất cứ "thể loại chiến tranh" nào, v́ đối với Phùng Cung "dấu tích tàn phá của chiến tranh vệ quốc hay xâm lược" cũng như nhau. "Tất cả chỉ là sự bày đặt, buôn bán máu xương của ma vương quỷ dữ!"[53]

    Trong bài Găi đất Phùng Cung gọi những kẻ chủ chiến là bọn:

    Lái buôn binh lửa

    Ôi! binh lửa triền miên

    Tuổi trẻ gái - trai

    Bị lôi đi - hết

    Dờ dịt sức già găi đất.


    Bởi chiến tranh nào cũng chôn sạch tuổi trẻ, chỉ để lại những người già ngồi găi đất.

    Thu xa là bài chinh phụ ca mới, phản bác những anh hùng ca chính thống của Tố Hữu, Chính Hữu ... cả những anh hùng ca bàng thống của Trần Dần, Phùng Quán ... Thu xa là giấc mơ phản chiến, chống Cách Mạng Mùa Thu, kết án tử h́nh chiến tranh, kêu gọi con người hăy làm t́nh yêu, làm hoà b́nh, đừng làm chiến tranh, hăy thôi chém giết:

    Gió vàng đếm lá vàng rơi

    Mười hai bến nước

    Em ngồi quay xa

    Xa quay gấp

    Làn tơ vội đứt

    Em nhủ ḷng

    Tơ đứt v́ xa

    Tơ vương vó ngựa quan hà

    Xa in dấu ngựa

    Canh gà gọi thu

    Quan hà lộng gió chinh phu

    Rừng thu tắm máu

    Máu thu gội chiều

    Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều

    Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa

    Xa quay nhẹ

    Làn tơ vẫn đứt

    Em hỏi ḷng

    Tơ đứt v́ đâu

    Sông ngân lỡ bắc nhịp cầu

    Mà người trần thế

    Mang sầu thiên cung.


    Tất cả thi sĩ miền Bắc, không ai dám đả động đến "Cách Mạng Mùa Thu", bởi đó là "chính nghiă tuyệt đối" được "tất cả mọi người" công nhận. Trừ Phùng Cung. Phùng Cung không. Phùng Cung đi ngoài quỹ đạo. Phùng Cung là người đầu tiên dám dùng những h́nh ảnh kinh hoàng như "Rừng thu tắm máu, máu thu gội chiều" để viết về Cách Mạng Mùa Thu.


    Còn tiếp ...

  9. #2419
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14

    Rồi hai chữ quay xa, tại sao lại quay xa mà không quay tơ? Chữ xa nhập nhoè nhiều ư nghĩa: xa vừa là guồng tơ, guồng cửi; nhưng xa c̣n là bánh xe chiến tranh như chiến xa; xa c̣n là xa lià đứt đoạn. Người chinh phụ ở đây, không chỉ là nạn nhân của chiến tranh, chịu hậu quả của chiến tranh như những người chinh phụ thời xưa nữa, mà chính nàng cũng góp phần vào bộ máy chiến tranh, nàng đang quay bánh chiến xa, nàng đang "tắm máu rừng thu" như chồng.
    Ống kính độc đáo của nhà thơ, quay lại cảnh toàn thể dân tộc lao vào cuộc chiến tàn khốc: ống kính duy nhất của thi ca Việt Nam đă chụp bắt được trách nhiệm mỗi cá nhân trong chiến tranh, nam cũng như nữ.

    Nhưng Phùng Cung không chỉ dừng lại ở đấy, ông c̣n đi sâu hơn, để truy lùng thủ phạm chiến tranh, ông đă đụng đến cả những biểu tượng được tôn sùng nhất:

    Cờ máu rợp trời

    Lợm gió!

    Tiếng quốc thiều tăng âm

    Cực đại thét gào

    ...

    "Thề phanh thây uống máu!..."

    Ta lùng trong kho nhớ

    Nhẩm biên niên sử

    Xin hỏi loài người

    Có quốc thiều nào man rợ thế không?


    Hỏi tội cách mạng mùa thu chưa đủ, nhà thơ c̣n hỏi tội quốc ca, quốc kỳ. Chưa nhà thơ nào dám đưa ra những lời buộc tội gay gắt về những biểu tượng "thiêng liêng" như thế: Có quốc thiều nào man rợ thế không?

    Bên cạnh những h́nh ảnh dễ sợ "cờ máu rợp trời lợm gió", bên cạnh những lời buộc tội không khoan nhượng, rằng trong "kho nhớ của loài người", không thấy có "quốc thiều nào man rợ" như thế; là những lời thơ trữ t́nh đẫm lệ gửi cho quê hương tan nát v́ chiến tranh, lầy nước mắt:


    Quê hương ơi!

    Đường quan lầy nước mắt

    Điệu sáo hết du dương

    Mây ch́m

    Gió ngủ (...)

    Sông sâu bặt tiếng gọi đ̣

    Chim hăy cùng ta

    Gọi cành xanh ngóc dậy

    Để một lần

    Quê hương thấy lại quê hương

    Ráng chiều ngụy tạo b́nh minh

    Lá thuyền t́nh

    Chỉ lênh đênh giữa ḍng.


    Phùng Cung là người chữ duy nhất trên đất Bắc, đối với hai cuộc chiến, đă nh́n thấy và đă dám nói ra cái giá quá đắt phải trả cho ḥa b́nh đă mất.


    Còn tiếp ...

  10. #2420
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14

    Dưới mắt nhà thơ, chiến tranh không chỉ là những thúc giục lên đường, không chỉ là những tiếng hô xung phong, mà đằng sau tất cả cờ xí rợp trời là bộ mặt kinh hoàng của thần chết:

    Phát lệnh chia bôi...

    Ngọn gió giao liên

    Gửi tiếng xa gần

    Trống phát dẫn

    Gia nô thần chết cầm dùi

    Dấm dúi vùi nông

    Chiều bạc mệnh

    Khói hương ơi!

    Đền miếu tan rồi!...

    Năm tận tháng cùng

    Ḥng hơng mong thư tuyến lửa.


    Những h́nh ảnh "gia nô thần chết" trong thơ Phùng Cung, hoà cùng những xác "người chết hai lần" trong ca từ Trịnh Công Sơn, đă hợp thành ḍng máu của anh em giết nhau. Trong buổi liên hoan mừng chiến thắng, Phùng Cung âm thầm đếm lại những đốt xương tàn:

    Tiếng gia tiên

    Thổn thức dưới mồ

    Những lúc chim về

    Tím lịm chân mây

    Ai liều tảo mộ chiều nay

    Mà hương tảo mộ bay đầy hoàng hôn.


    Hướng về những linh hồn quá trẻ đă bị vay tuổi để xuất trận, Phùng Cung tảo mộ con, liệm hồn mẹ, những người mẹ bạc đầu hương khói trên những nghiă trang giả, mồ không xác:

    Con vừa mười sáu tuổi đời

    Nửa đêm vay tuổi lấy người chiến tranh

    Đèn con tiễn đến cổng đ́nh

    Quay về hụt bước ngỡ ḿnh chiêm bao

    Khe Sanh - Dốc miếu là đâu

    Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn

    Máu chiều gội đỏ hoàng hôn

    Nghiă trang mồ giả, nắm xương không mồ

    Đồng chiều gió tím mấp mô

    Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay.


    Và dưới mồ tiếng Phùng Cung nhắn lên, ngược ḍng với Văn Cao, Lưu Hữu Phước: Này thanh niên ơi! Đừng bao giờ chọn giải pháp chiến tranh cho dân tộc.


    Còn tiếp ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 4 users browsing this thread. (0 members and 4 guests)

Similar Threads

  1. Chuyện nghe được từ ngướ không quen
    By Dac Trung in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 10-10-2012, 12:25 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-05-2012, 10:37 PM
  3. Bắt Buộc Phải Nghe
    By Dean Nguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 19-01-2012, 08:34 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 31-07-2011, 05:33 PM
  5. Tưởng Niệm Tháng 4 Đen Nghe Nhạc Lính VNCH
    By Camlydalat in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 18
    Last Post: 25-04-2011, 06:28 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •