Page 236 of 304 FirstFirst ... 136186226232233234235236237238239240246286 ... LastLast
Results 2,351 to 2,360 of 3035

Thread: Nghe Chuyện Hà Nội

  1. #2351
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    ● Đêm Liên Hoan, Tâm sự đêm giao thừa

    Bên kia sông Đuống

    Phạm Duy viết về ba tác phẩm chủ yếu của Hoàng Cầm trong thời kháng chiến:

    "Bài thơ Đêm Liên Hoan[28] được viết ra ngay trong những ngày đầu đi công tác. Hoàng Cầm và tôi diễn ngâm bài này rất nhiều lần trước hàng trăm, hàng ngàn Vệ Quốc Quân:

    Đêm liên hoan đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng.

    Ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực

    V́ say sưa t́nh thân thiết Vệ Quốc Đoàn.


    Biết bao nhiêu Vệ Quốc Quân "lao đầu vào giặc" sau khi nghe những lời thơ đầy hào khí và thân thiết này:

    Trong tiểu đội của anh

    Những ai c̣n ai mất?

    Không ai c̣n, ai mất

    Ai cũng chết mà thôi.

    Người sau kẻ trước lao vào giặc

    Giữ vững ngh́n thu một giống ṇi

    Dù ta thịt nát xương phơi

    Cái c̣n vĩnh viễn là người Việt Nam...


    Ngoài bài thơ Đêm Liên Hoan soạn cho riêng tập thể chiến sĩ, Hoàng Cầm- cũng như tôi lúc đó- rất quan tâm tới người dân thường. Lúc đó tôi cũng đă đưa vào loại dân ca kháng chiến của tôi những h́nh ảnh anh thương binh, người mẹ già, người vợ hiền, đàn trẻ nhỏ ... nhiều hơn là h́nh ảnh Vệ Quốc Quân. Hoàng Cầm, qua bài "Bên Kia Sông Đuống"[29] cũng đưa ra một cách tuyệt vời những h́nh ảnh cô hàng xén răng đen, môi cắn chỉ quết trầu, cụ già phơ phơ tóc trắng, em bé xột xoạt quần nâu. (...)
    Những bài thơ kháng chiến như vậy đă được Hoàng Cầm và tôi diễn ngâm trong rừng sâu, trên đồi cao hay trong những hang đá dưới ánh đuốc bập bùng, có khi chỉ cách một đồn địch chừng vài ba cây số.

    Vào khoảng đầu năm dương lịch 1948 tức là sắp sửa tới Tết âm lịch (...) Hoàng Cầm sáng tác thêm một bài thơ nhan đề "Tâm Sự Đêm Giao Thừa" mà tôi cho là tuyệt vời. Hoàng Cầm đưa ra h́nh ảnh một người lính giữ nước, đang đứng gác trong một khu rừng vắng, giữa đêm giao thừa (...) Bài thơ kết thúc với những câu thơ vô cùng thân yêu và đầy hào khí như trong những bài thơ khác của Hoàng Cầm:

    Cha con ăn Tết lập công

    Cho sữa mẹ chẩy một ḍng ngh́n thu.

    Cha đem cái chết quân thù

    Làm nên sức sống bây giờ của con. (...)


    Phải ghi nhận một điều rất quan trong là tác dụng của bài thơ. Nó đă có khả năng diệt giặc hơn cả những vơ khí tối tân lúc đó như SKZ (súng không giật) hay bazooka vân vân ... Trong ba lô của bất cứ một Vệ Quốc Quân nào cũng đều có những bài thơ chép tay của Hoàng Cầm. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp không thể nào thành công nếu không có những tác phẩm văn nghệ như những bản nhạc của Văn Cao, và những bài thơ của Hoàng Cầm, Quang Dũng (...)
    C̣n nhớ có một lần, tôi và Hoàng Cầm ngâm bài thơ Đêm Liên Hoan cho bộ đội nghe 15 phút trước giờ tấn công đồn địch. Sau đó một anh bộ đội đă nói: "Tôi vào giữa đồn mà vẫn c̣n nghe tiếng ngâm thơ của các anh văng vẳng ở trong đầu". Thế mới biết sức mạnh của văn nghệ"[30].


    Còn tiếp ...

  2. #2352
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    ● Đóng góp máu xương trong kháng chiến

    Nhưng kháng chiến không chỉ có hào hùng, mà c̣n là đói khát, chết chóc, kinh hoàng.
    Hoàng Cầm nhắc lại thực trạng 1949, năm cam go nhất trong kháng chiến:

    "... lên rừng sẵn sàng ăn cơm với muối, không có cả gạo nữa th́ ăn cả củ mài (...). Măng nứa, măng mai là ăn văn hết rồi. Mà vẫn đói quá, bởi v́ năm 49 là năm đói nhất. Chính vợ Hoàng Cầm là một, con gái Hoàng Cầm là hai, chỉ v́ đói, ăn lung tung cả mới sinh bệnh mà chết. Hai mẹ con chết liền trong một tuần lễ trong lúc tản cư năm 49.(...) Rồi đến năm 52, đóng góp một giọt máu nữa cho kháng chiến chống Pháp là người em ruột của Hoàng Cầm, nó cũng rất có tài về văn nghệ.(...) Hoàng Cầm cử nó làm đại đội trưởng đội văn công Tây Bắc(...) Cậu ấy đi đánh phỉ và bị phỉ nó sát hại, cả một đội văn công 12 người, chết hết"[31].

    Hồ Dzếnh cũng mất người vợ và con trai lên ba. Nhà thơ ghi lại bối cảnh kinh dị của người cha hôn cái xác bé bỏng: "Rồi cái hôn ḅ lên tóc, lên tai, lên môi, lên cổ, cái hôn đi lần xuống khắp người, và ngừng lại ở hạt giống bé nhỏ. Nhưng vẫn không một lời nói cất lên giữa cái mê đắm kỳ dị, man rợ đó, ngoài tiếng thở rít lên, hít vào khoan khoái. Lần cuối cùng người cha "ăn" con bằng những cái hít rùng rợn, cũng như ngày trước, chính con người đó, đă đôi lúc muốn "quay rô-ti" con lên"[32].

    Và thay con, Hồ Dzếnh viết lại tâm cảm đứa bé nhay vú mẹ, người mẹ dốc cạn sữa cho con đến tàn lực, tàn hơi:

    "Có lúc tôi nhai mạnh đầu vú. Ở chỗ thịt nứt, nước miếng tôi thấm vào, tia sữa bị rút lên, nghe buốt đến tận ruột mẹ. Và sữa tuôn ra với máu, chảy tràn ra hai mép tôi, chất ngọt dịu pha lẫn mùi vị tanh hăng làm cổ tôi nuốt vội. Mẹ tôi co người, nghiến chặt răng lại, đôi mắt chớp chớp trong ḍng lệ nóng hổi" [33].



    ● Hội Nghị Văn Nghệ Việt Bắc 1950

    Hoàng Cầm treo cổ kịch thơ của ḿnh


    1949 cũng là năm Mao thành công tại Trung Quốc, đuổi Tưởng Giới Thạch ra Đài Loan. Tháng 1/1950, Đại Hội III Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố chính thức đi theo đường lối Trung Quốc, thực hiện Đấu tranh giai cấp trên toàn lănh thổ.

    Trong bối cảnh đó, đại hội văn nghệ tháng 8/1950 tại Việt Bắc, có tính cách quan trọng đặc biệt, quyết định dành ưu tiên cho Kịch (bộ môn có tương lai trong nền văn nghệ xă hội chủ nghiă) và loại trừ tất cả những sản phẩm văn nghệ được coi là tàn tích của phong kiến và tiểu tư sản như Tuồng, Chèo, Cải lương, Kịch thơ ra khỏi nền văn nghệ Cách mạng.

    Quyết định này phù hợp với chính sách tiêu diệt phong kiến và loại trừ tiểu tư sản ra khỏi hàng ngũ Đảng. Quyết định này, đă buộc Hoàng Cầm phải "treo cổ" kịch thơ của ḿnh, đă khiến Phạm Duy và nhiều văn nghệ sĩ khác bỏ kháng chiến vào thành, trong số đó có những Doăn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Vơ Phiến ... sau này sẽ trở thành những cột trụ xây dựng nền Văn Học Miền Nam.


    Còn tiếp ...

  3. #2353
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    Báo Văn Nghệ dành hai số đặc biệt 25 và 26 (8-9/1950) về Hội Nghị Việt Bắc, với những lời giới thiệu xứng với tầm vóc đại hội:

    "Ngày 26/7, hai năm sau Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai, đă khai mạc cuộc họp mặt văn hoá văn nghệ năm 1950. Non 100 đại biểu của Việt Bắc, khu ba, khu tư, và khu năm rất xa, đă tề tựu dưới mái giảng đường trường văn nghệ nhân dân. Các đại biểu đă vượt hàng tháng đường dài qua rừng núi, nắng mưa, qua những đồn giặc" [34].

    Báo Văn Nghệ số 26, giới thiệu "Hội nghị tranh luận sân khấu" với 2 bài chính: Bài biên bản, không kư tên, và bài Những ngày hội nghị của Tô Hoài.

    1- Bài biên bản cho biết: Thế Lữ tuyên bố khai mạc hội nghị. Tố Hữu đặt vấn đề thảo luận. Đoàn Phú Tứ thuyết tŕnh "Quan niệm xây dựng sân khấu Việt Nam" với bốn ư chính:

    Tuồng: "Thái độ dứt khoát của chúng ta bây giờ là đưa nó vào Viện bảo tàng".

    Chèo: "Nên yêu chèo như một tử ngữ, hăy trân trọng xếp nó vào Viện bảo tàng".

    Cải lương: "Cải lương Nam Kỳ là một nghệ thuật quái gở, lai căng, sản sinh ra ở một thời đại múa may quay cuồng, điên điên dại dại, để giải trí cho một lớp người cuồng vọng, không biết ḿnh sẽ đi đâu, không biết ḿnh đương nghĩ ǵ, đương cảm xúc thế nào, lớp ngựi mới phát sinh trong thời Pháp thuộc, mất gốc mất rễ, và giao động đến cực độ".

    Kịch nói: Một h́nh thức biểu diễn sân khấu mới nhất, tuy c̣n ít thành tích, nhưng rất nhiều tương lai[35].


    Trong phần tranh luận, chỉ Lưu Hữu Phước và Tống Ngọc Hạp bênh vực cải lương. Kết Luận: Tuồng, Chèo là tàn tích của thời phong kiến. Cải lương là sản phẩm của giai cấp tư sản. Chỉ giữ lại Kịch và phổ biến rộng răi.

    Bài biên bản này không nói đến kịch thơ. Không nói đến sự kiện Hoàng Cầm thắt cổ kịch thơ. Tố Hữu được mô tả như một người ngoài cuộc, không có ư kiến. Nhưng theo Phạm Duy, Tố Hữu là người chủ đạo trong hội nghị.

    2- Bài "Những ngày hội nghị", của Tô Hoài cũng không nhắc đến vai tṛ của Tố Hữu. Tô Hoài chỉ thuật lại bối cảnh đêm diễn kịch thơ của Hoàng Cầm và việc Hoàng Cầm treo cổ kịch thơ, với văn cách rất quen thuộc của ông. Trước hết Tô Hoài tả bối cảnh chung:

    "Tối nay, ba đội kịch đấu làm một. Đội liên khu Việt Bắc diễn "Ngày hội ṭng quân", kịch thơ của Hoàng Cầm, đội Vui Sống: "Số phải đi xa" kịch vui của Vơ Đức Diên, đội Chiến thắng: "Anh Sơ đầu quân" của Nguyễn Huy Tưởng. Khán giả không phải chỉ có một trăm đại biểu. Khán giả từ các làng xa trong cánh đồng, phụ lăo ông, phụ lăo bà, các trung nữ, các đồng chí Nông dân, các (...) đêm nào cũng ngh́n nghịt kéo đến, tối mưa thế nào cũng không bớt đông, đóm đuốc lượn rồng rắn rừng rực các bờ ruộng chật ṿng trong, ṿng ngoài sân khấu".

    Rồi ông nhận xét về kịch thơ "Ngày hội ṭng quân" và giọng ngâm của Hoàng Cầm:

    "Anh Dũng, chị Lụa đương t́nh tự trong "Ngày hội ṭng quân". Nói chuyện thường như ta nói qua bờ rào, nhưng đây đôi trai gái ấy lại đọc thơ cho nhau nghe. Có cái việc đi ṭng quân mà cừ dùng dằng, bần thần măi. Đứng dưới, bà con x́ xào: "Sốt ruột thế!" - "Cái chị phụ nữ tốt giọng nhẩy !" - "Khốn khổ cái ông già ốm hay sao mà khặc khừ, lử đử vừa nói vừa run thế?" (ông già ấy đọc thơ). Đại khái tự dưng người ta nói, hoặc tôi hỏi, người ta nói như thế. Tôi nhớ lấy. Để mai nghe Hoàng Cầm mổ sẻ về nó. Lâu lắm mới lại được nghe Hoàng Cầm ngâm thơ. Cái giọng tài hoa sang sảng ấy, ngày trước vang ngân giữa cái tai bạn -những "kẻ sĩ" tiêu dao ngày tháng- bấy giờ nó ấm, nó tê tái thế, mà sao bây giờ nó lại loăng, nó nhạt trước một đám đông công chúng, xù x́, nhộn nhạo thế này. Tôi nghĩ lẩn thẩn giọng Hoàng Cầm hỏng thế, hay là tại thơ Hoàng Cầm?"

    Sau cùng, Tô Hoài tả việc Hoàng Cầm tự kiểm thảo và tự treo cổ kịch thơ của ḿnh:

    Chiều 22/3[36] Hoàng Cầm đứng trên diễn đàn (...) Hoàng Cầm nói về kịch thơ của ḿnh (...) Anh phân tích "Ngày hội ṭng quân" - Tôi định làm thơ th́ lại là tôi giết chết kịch. Định làm kịch th́ chết thơ. Chỗ nào tác giả cho là lâm li th́ lải nhải, chỗ nào tôi chỉ có đối thoại thường, th́ người xem lại cho là dễ nghe. Kịch thơ không thể sống được, nó không diễn tả đúng nhân vật. Bây giờ và cả mai sau, nó không thể c̣n đất đứng.

    Hoàng Cầm bùi ngùi (thật cái thái độ của nhà kịch thơ lúc bấy giờ như thế) Hoàng Cầm bế kịch thơ của anh lên ghế đẩu, từ từ dấn đầu nó vào cái tḥng lọng, rồi đạp cái ghế đi.

    "Hội nghị này thanh toán cho tôi câu chuyện kịch thơ. Tôi xin tuyên bố: cho đến vở "Ngày hội ṭng quân" (1949), tôi cho là cái sản phẩm cuối cùng của một sở trường cũ của tôi". Sau lời kêu gọi đưa ma cái đám thắt cổ ấy của nhà kịch thơ Hoàng Cầm, cử tọa im ĺm, tưởng đă nghe tiếng sinh, tiếng phèng phèng, đám đông đang sửa soạn khóc cười phúng viếng."[37]

    Bài của Tô Hoài trích dẫn trên đây, tiêu biểu cho lối "viết, lách" thần t́nh của ông. Để chứng tỏ sự "xuống dốc" của Hoàng Cầm, Tô Hoài nhắc lại "giọng tài hoa sang sảng" và "thành tích công tác treo đầy người" của Hoàng Cầm ngày trước, để chứng tỏ Hoàng Cầm bây giờ "tệ" như thế nào: kịch thơ ǵ mà đôi trai gái chia tay chỉ ngâm thơ, không thấy nói! Ông già ǵ mà giọng run rẩy! Giọng Hoàng Cầm loăng và nhạt, không biết là thơ dở hay ngâm dở ... Mà dở như thế th́ phải tự "treo cổ" thơ ḿnh là cái chắc! Có ǵ mà tiếc! Tô Hoài có vẻ thú vị đă t́m ra những chữ đắc địa để đưa ma kịch thơ Hoàng Cầm: "tiếng sinh", "tiếng phèng", "tiếng khóc cười cúng viếng"!

    Khéo thay bút pháp Tô Hoài! Tiếc rằng sự lượn lẹo ng̣i bút vẫn c̣n vài lỗ hổng:

    Vào đầu, ông cho biết quần chúng "đêm nào cũng ngh́n nghịt kéo đến" xem. Vậy người đọc sẽ tự hỏi: kịch thơ Hoàng Cầm "dở" như thế, mà sao quần chúng "đêm nào cũng ngh́n nghịt kéo đến"? Rồi Tô Hoài hỏi: tại sao anh Dũng, chị Lụa không nói mà lại đọc thơ, khiến bà con x́ xào: "Sốt ruột thế!" Tức là ông mượn lời bà con để chê kịch thơ không nói như kịch nói đấy! Tô Hoài tuyệt nhiên không nhắc đến việc Tố Hữu có tuyên bố ǵ, mà cũng không thấy ai chỉ trích kịch thơ, chỉ một ḿnh Hoàng Cầm đứng lên tự xỉ vả và treo cổ kịch thơ của ḿnh! Mà lại chọn cái chết rất dở: tức là đưa ra một vở kịch tồi tệ của ḿnh, tự "phân tích" và tự nhận lỗi "Tôi định làm thơ th́ lại là tôi giết chết kịch. Định làm kịch th́ chết thơ" để đi đến kết luận "Kịch thơ không thể sống được". Tô Hoài viết vậy, chứ người đọc th́ biết chắc Hoàng Cầm không ngu như vậy. Tác giả Hận Nam Quan và Kiều Loan không thể "chết dở" như thế.

    Phạm Duy có mặt tại đấy, kể lại: "Đôi mắt của nó[38] vẫn c̣n sắc như dao, giọng nói của nó vẫn sang sảng", chứ có loăng, có nhạt ǵ đâu! Cả Vũ Cao[39] trong bài đánh Hoàng Cầm, cũng quả quyết: "Năm 50, trong một cuộc hội nghị văn công, Hoàng Cầm ngang nhiên tuyên bố:"Đảng không nên dúng bàn tay vào chuyên môn nghệ thuật"[40].



    Còn tiếp ...

  4. #2354
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    Hoàng Cầm suốt đời gắn bó với kịch thơ, lại đáo để và cũng không coi Tố Hữu ra ǵ, vậy trước khi buộc kịch thơ của ḿnh phải tuẫn tiết, chắc chắn Hoàng Cầm đă nghĩ ra một cái chết oanh liệt, hoành tráng, nghiă là ông phải đưa hết tài năng vào buổi tŕnh diễn chót, v́ thế mà quần chúng đă đội gió mưa "đêm nào cũng ngh́n nghịt kéo đến", để xem cái chết của "kịch thơ Hoàng Cầm":

    Một mănh hổ chống sao đàn chó sói

    Thân tan tành bêu máu chợ Kinh Đô[41].

    C̣n Tô Hoài, đây không phải là lần đầu và lần cuối ông viết bậy. Trong Cát bụi chân ai, Tô Hoài thuật lại rằng khi ông đưa bài đánh NVGP của ḿnh trên báo Nhân Dân cho Nguyên Hồng xem, th́ "Nguyên Hồng nói như hét vào mặt tôi: Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn! Ông th́ không, Nguyên Hồng th́ không. Nguyên Hồng quỳ xuống trước tôi, rồi cứ phủ phục thế, khóc thút thít"[42].

    Năm 1993, về Hà Nội gặp Tô Hoài, tôi hỏi: "Tại sao anh lại viết thế? Em thấy có cả bài của Nguyên Hồng đánh NVGP trên báo Nhân Dân th́ làm sao Nguyên Hồng có thể mắng anh được?". Bài Nguyên Hồng đăng Nhân Dân số 1451, ra ngày 2/3/1958, bài Tô Hoài đăng số 1461 ra ngày 12/3/1958, cách nhau có 10 ngày[43].

    Ông bèn nói lảng: "Tôi nhớ đâu viết đấy chứ có nghiên cứu ǵ như cô!". Tức là ông có thể bịa hẳn ra một giai thoại để chứng minh ḿnh đă "sám hối" ngay từ đầu, và ông "thành tâm" ghi lại "sự thực" ấy trong "hồi kư".



    ● Hội Nghị 1950 dưới sự ghi chép của Phạm Duy

    Rất may là Phạm Duy cũng ghi chép rất tỷ mỷ về Hội Nghị Văn Nghệ 1950, trong Hồi Kư Kháng Chiến, trọn chương 32, nhờ đó, ta có thể biết nơi họp đại hội là "Yên Giă, một khu rừng nằm gần ranh giới hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn." Từ Yên Giă, "đi vài quăng đường là tới Cù Vân, vượt qua Đèo Khế tới khu vực của các lănh tụ. Hang Pác Bó là nơi ở của Chủ Tịch họ Hồ cũng nằm ở đâu đây".

    Tới Yên Giă, Phạm Duy và Thái Hằng gặp Nguyễn Xuân Khoát "Và lập tức anh dắt tôi tới gặp Tố Hữu, người bắt đầu nắm trong tay vận mạng của toàn thể văn nghệ sĩ. Tố Hữu già hơn hồi tôi gặp anh ở Huế, vẫn ăn nói nhẹ nhàng nhưng có cái đanh thép ẩn trong câu nói".

    Về đại hội và đường lối của đại hội, Phạm Duy viết:

    "Thế rồi vào một ngày hè trong năm 1950 này, Đại Hội Văn Nghệ -có thêm vào đó hai chữ "Nhân Dân"- được khai mạc.(...) Trong ngày đầu tiên của Đại Hội, tôi thấy Chủ Tịch Đoàn đưa ra một đường lối gọi là "văn nghệ hiện thực xă hội chủ nghĩa". Mục đích chính là đưa ra một thứ kim chỉ nam cho tất cả mọi ngành sáng tác và biểu diễn. Mục đích phụ (hay đây mới là mục đích chính?) là biểu dương lực lượng văn nghệ sĩ và "báo cáo" đường lối chỉ huy văn nghệ của Nhà Nước cho các quan khách biết. Các quan khách đó là ai? Đó một số cố vấn Liên Xô, Trung Cộng và vị tân khách Léo Figuères, đại diện của Đoàn Thanh Niên Pháp Quốc đang ngồi ở hàng ghế đầu cùng với Trường Chinh, Tố Hữu, Trần Độ (...)

    Tôi cũng gặp cả Hoàng Cầm vừa mới tới Yên Giă cùng với các diễn viên nổi tiếng trong ngành Kịch Thơ như Trần Hoạt, Kim Lân. Tôi thấy Hoàng Cầm gầy đi nhưng đôi mắt của nó vẫn c̣n sắc như dao, giọng nói của nó vẫn sang sảng".

    Về Hội nghị tranh luận sân khấu, Phạm Duy viết:

    Dưới sự chủ tọa của Thế Lữ, Hội Trưởng của Hội Sân Khấu, một anh hội viên là Đoàn Phú Tứ đứng ra thuyết tŕnh về sự h́nh thành của sân khấu Việt Nam gồm có Tuồng Cổ, Chèo Cổ, Cải Lương, Kịch Thơ, Kịch Nói ... và xin mọi người thảo luận để định nghĩa cho một h́nh thức sân khấu mới mẻ nhất là Thoại Kịch tức Kịch Nói. Sau nhiều tranh luận, Đoàn Phú Tứ tóm tắt các ư kiến của những người phát biểu. Tất cả đă nhất trí với định nghĩa này:

    - Kịch là bộ môn nghệ thuật dùng sân khấu làm phương tiện tŕnh bày những cảnh đời đang có mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn đi tới chỗ kịch liệt th́ phải giải quyết. Giải quyết xong mâu thuẫn là hết kịch.(...)

    Đă tưởng thế là xong phần thuyết tŕnh và định nghĩa về Thoại Kịch sau khi các văn nghệ sĩ đă đồng ư với thuyết tŕnh viên Đoàn Phú Tứ. Nhưng lập tức một số cán bộ chính trị đứng lên đ̣i Chủ Tịch Đoàn phải bổ túc thêm vào biên bản của hội nghị:

    - Giải quyết những vấn đề trong các vở kịch th́ phải có lập trường. Vậy chúng ta đứng trên lập trường nào? Lập trường phong kiến? Lập trường tư sản hay tiểu tư sản? Không. Phải đứng trên lập trường của giai cấp vô sản.

    Về những phát biểu của Tố Hữu và việc Hoàng Cầm treo cổ kịch thơ, Phạm Duy viết:

    Trong một buổi họp khác, tổ kịch đang thảo luận về đặc trưng của các bộ môn sân khấu như Tuồng Cổ, Chèo Cổ, Cải Lương, Kịch Thơ và Kịch Nói, Tố Hữu đứng ra lên lớp anh em, trước hết là đả kích bài Vọng Cổ. Tố Hữu nói:

    - Vọng Cổ có âm điệu ủy mị, làm cho người nghe bị ru ngủ, ḷng người nghe bị mềm yếu rồi người nghe cúi đầu xuống, tiêu tan cả chí phấn đấu. Lưu Hữu Phước, Tống Ngọc Hạp bèn kẻ trước người sau đứng lên bênh vực cho bài Vọng Cổ xuất xứ từ Nam Bộ của ḿnh, nói rằng:

    - Vọng Cổ hay lắm, hay lắm, không bỏ được Vọng Cổ đâu ạ. Nhưng Tố Hữu cười khảy:

    - Vâng, bài Vọng Cổ hay lắm. Hay đến độ đă làm cho Việt Nam mất nước, bây giờ trong kháng chiến, ta phải nên cấm nó.

    Nghe thấy vậy, bụng bảo dạ, tôi nghĩ: A! Tố Hữu nói như vậy th́ có nghĩa là Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân này phải có thái độ với bài hát đă "từ ḷng nhân dân mà ra". Lưu Hữu Phước và Tống Ngọc Hạp im lặng.(...) Chỉ huy xong sự khai tử bài Vọng Cổ, Tố Hữu đi tới phán quyết thứ hai của anh. Anh mạt sát thậm tệ Kịch Thơ:

    - "Nội dung kịch thơ phần nhiều chỉ phản ảnh tinh thần phong kiến. Cốt truyện đưa ra toàn là những nhân vật quan liêu. Lối diễn xuất bằng sự ngâm nga, nghe thật là rên rỉ, lướt thướt. Kịch Thơ không thích hợp với cuộc sống động của toàn dân đang kháng chiến".(...)

    Sau khi Tố Hữu đă đả kích Kịch Thơ xong rồi, cử tọa bỗng im phăng phắc, mọi người chăm chú nh́n vào Hoàng Cầm, mục tiêu của sự đả kích. Hoàng Cầm đứng dậy, nhấc cái ghế đẩu mà nó vừa ngồi lên, trịnh trọng bưng ghế ra đặt ở giữa hội trường, lấy ở trong túi ra một sợi dây dài, dùng dây buộc tập kịch thơ, xong leo lên ghế đẩu, giơ tập thơ vừa mới bị trói chặt lên thật cao, tuyên bố:

    - "Tôi xin treo cổ Kịch Thơ. Bắt đầu từ ngày hôm nay." (...)

    Tôi bị phê b́nh là tiêu cực với những bài như Bao Giờ Anh Lấy Được Đồn Tây[44], Bà Mẹ Gio Linh. Và tôi được khuyến khích để khai tử một bài hát quá ư lăng mạn và đang được phổ biến rất mạnh mẽ trong toàn quốc là bài Bên Cầu Biên Giới. (...) Phải nói rằng Đại Hội Văn Nghệ này rất thành công. Thành công ở chỗ đại đa số văn nghệ sĩ được "chỉ huy" mà không có ai dám phản đối ǵ cả. Nếu có phản đối, phải đợi khi tan xong Đại Hội và trở về tới địa phương rồi mới phản đối bằng cách... "dinh tê".[45]

    Ngày 1/5/1951, gia đ́nh Phạm Duy bỏ kháng chiến, về Hà Nội, rồi vào Nam.



    Còn tiếp ...

  5. #2355
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    Hội Nghị Văn Nghệ Việt Bắc 1950, là giọt nước cuối cùng làm tràn chén. Ở những hội nghị trước đă có những đổ vỡ: Hội Nghị Văn hoá Toàn Quốc II, 1948: Nguyễn Hữu Đang bất đồng với Trường Chinh, bỏ về Thanh Hoá.

    Hội Nghị Văn Nghệ 1948 và 1949, phê b́nh các tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng và Thơ không vần của Nguyễn Đ́nh Thi.

    Hội Nghị Việt Bắc 1950: tiêu diệt Tuồng, Chèo, Vọng Cổ. Phê b́nh nhạc Phạm Duy. Bắt Hoàng Cầm phải treo cổ kịch thơ.

    Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng lần lượt hồi cư (1950), Phạm Duy về thành (1951), Hoàng Cầm ở lại, để trở thành một trong những người lănh đạo NVGP.

    Sự việc Tố Hữu triệt hạ kịch thơ Hoàng Cầm c̣n có một lư do khác, đó là sự đối lập tư tưởng giữa hai người: một lối nh́n vong bản như "Thờ Mao Chủ tịch thờ Xít-Ta-Lin bất diệt" không thể sống chung với một tư tưởng ái quốc như "Về ngay đi! Ghi nhớ Hận Nam Quan!"

    Ngoài ra, toàn bộ kịch thơ Hoàng Cầm ấp ủ những chủ đề: Đề pḥng phương Bắc. Phỉ báng sự cầu viện ngoại bang. Lên án cảnh cốt nhục tương tàn. Đ̣i hỏi tự do sáng tác. Cho nên, sau khi đă loại bỏ những h́nh thái văn hoá truyền thống của dân tộc như Tuồng, Chèo, Cải lương, đă cưỡng bức Hoàng Cầm treo cổ kịch thơ, đă bắt Nguyễn Đ́nh Thi phải sửa thơ không vần thành thơ có vần, Tố Hữu được trên cho phép, thừa thắng xông lên, dẹp tan NVGP. Từ 1954, Tố Hữu trở thành soái chủ trên thi đàn miền Bắc (và sau 1975, cả nước), thơ ông biến thành "thánh kinh cách mạng".

    Trong hơn nửa thế kỷ, bao nhiêu thế hệ đă không biết ǵ về các tác phẩm của Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng ... , đă không hay Phạm Duy, Hoàng Cầm là những nghệ sĩ có công đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bởi họ chỉ được đọc, học và suy tôn tài thơ Tố Hữu.

    Không ai trách Trương Phúc Loan, Bùi Đắc Tuyên, nếu họ làm thơ dở. Tội của bọn này là chuyên quyền. Chuyên quyền trong triều chỉ có tội với vua. C̣n chuyên quyền văn hoá là một tội đồ đối với dân tộc.



    ● Hoàng Cầm chối bỏ việc treo cổ kịch thơ

    Trong băng ghi âm nói chuyện với bạn bè, Hoàng Cầm chối bỏ việc này:

    Tôi dự hội thảo sân khấu do anh Lê Đạt tổ chức, được anh em bầu lên làm chủ tịch đoàn cùng với Thế Lữ và Đoàn Phú Tứ. Ông Tố Hữu chỉ ngồi ghế nghe thôi, cuối cùng có nói vài câu kết luận. Lê Đạt làm thư kư hội nghị, nhưng thực chất là điều khiển, để mọi người, nhất là những người trẻ tuổi được tự do phát biểu, ai có ư kiến ǵ th́ nói ra. Đêm hôm trước, tôi đem đoàn văn công của tôi lên tŕnh diễn vở kịch thơ Người Con Nuôi. Có khoảng 150 người tham dự, gồm các diễn viên, đạo diễn, văn nghệ sĩ và một số dân các bản, cả Kinh lẫn Thổ.

    Vở kịch không thành công, tiếng vỗ tay lác đác. Vở kịch này tôi đă tŕnh diễn trong các đơn vị quân đội hoặc các hội nghị ở Việt Bắc, rất được hoan nghênh, nhưng hôm diễn ở hội thảo ấy th́ rơi vào im lặng, có thể nói là thất bại. Tôi nghĩ đối tượng của hội nghị là thảo luận, khán giả người miền núi th́ ngơ ngơ ngác ngác, thành ra tôi cho là thất bại. Anh Kim Lân bảo tôi: Thôi anh à, kịch thơ có thể nghỉ đă, đừng làm nữa v́ không có kết quả. Sau này tôi mới biết là Kim Lân được ông Tố Hữu gợi ư v́ ông Tố Hữu không thích kịch thơ.
    Tôi thấy Kim Lân có lư nên hôm sau tôi phát biểu không nên viết kịch thơ trong kháng chiến nữa v́ kịch thơ không hợp với hoàn cảnh kháng chiến. Tôi bị Thế Lữ phản đối ngay: anh Hoàng Cầm nói là nói vở kịch thơ của anh thất bại, chứ không phải toàn thể kịch thơ thất bại. Tôi hoan nghênh sự phản đối của ông Thế Lữ, và mọi người tiếp tục tranh luận ...

    Thế rồi sau này có người ở Khu Bốn ra nói với tôi: Trong khu Bốn người ta đồn Hoàng Cầm treo cổ kịch thơ của ḿnh. Ông Hoàng Cầm là trùm kịch thơ thế mà ông ấy khai tử kịch thơ thế th́ có buồn cười không. Anh em họ đồn th́ cũng chẳng sao. Nhưng sau này, tôi đọc hồi kư Phạm Duy, thấy Phạm Duy viết hết sức bịa đặt. Hôm ấy Phạm Duy đâu có mặt, mà ở sân khấu hội nghị làm ǵ có xà nhà để treo, mà lại nói tôi treo cổ kịch thơ, để đưa ra cái dư luận ghê gớm ấy về tôi.[46]


    Còn tiếp ...

  6. #2356
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    Những điều Hoàng Cầm thuật lại trong băng ghi âm mà chúng tôi tóm lược những ư chính trên đây, không ổn:

    1/ Hoàng Cầm nhớ nhầm, ông pha trộn nội dung Đại Hội Hội Văn Nghệ Toàn Quốc 1950 với các hội thảo tranh luận tại đại hội văn nghệ 1948 và 1949, do Lê Đạt tổ chức.

    2/ Đại Hội 1950, quan trọng hơn nhiều. Báo Văn Nghệ đặc biệt tháng 8 và 9 năm 1950 có đăng các bài tham luận và Phạm Duy tường thuật khá tỷ mỷ. Phạm Duy có thói quen ghi lại các sự kiện trong sổ tay, chính ông đă ghi chép thơ và ca từ của Văn Cao thời trẻ, đă bị thất lạc.

    3/ Trong hội nghị Hoàng Cầm nhắc tới, ông tŕnh diễn vở kịch thơ Người con nuôi, trong khi ở Đại Hội 1950, theo Tô Hoài kể lại, đó là vở kịch thơ Ngày hội ṭng quân.

    4/ Việc treo cổ kịch thơ, có hai người kể, Tô Hoài viết tháng 8/1950: "Hoàng Cầm bế kịch thơ của anh lên ghế đẩu, từ từ dấn đầu nó vào cái tḥng lọng, rồi đạp cái ghế đi".

    Phạm Duy viết sau, trong Hồi Kư Kháng Chiến: Hoàng Cầm đứng dậy, nhấc cái ghế đẩu mà nó vừa ngồi lên, trịnh trọng bưng ghế ra đặt ở giữa hội trường, lấy ở trong túi ra một sợi dây dài, dùng dây buộc tập kịch thơ, xong leo lên ghế đẩu, giơ tập thơ vừa mới bị trói chặt lên thật cao, tuyên bố: "Tôi xin treo cổ Kịch Thơ. Bắt đầu từ ngày hôm nay"

    Vậy việc treo cổ kịch thơ là có thật. Tô Hoài viết vội, không để ư đến chi tiết, nên có sơ hở: trên sân khấu làm ǵ có tḥng lọng sẵn. Phạm Duy tả kỹ hơn, rơ từng chi tiết: Hoàng Cầm lấy trong túi ra một sợi dây, buộc tập kịch thơ, rồi leo lên ghế đẩu, giơ tập thơ bị trói chặt lên cao ... Những chi tiết này cho thấy Phạm Duy kể chuyện mạch lạc hợp lô-gíc và hành động của Hoàng Cầm không bột phát mà đă suy nghĩ từ trước. Một hành động như vậy, không thể quên được. Vậy tại sao Hoàng Cầm lại chối bỏ nó? Có thể do hai áp lực:

    Áp lực nội tâm: Hành động tự trói cổ kịch thơ, khai tử trước tác trước kháng chiến, bị chế độ tung ra, tuyên truyền như một hành động nhát sợ, tự ḿnh trói ḿnh, không dám nh́n nhận sự nghiệp văn chương của ḿnh, làm cho Hoàng Cầm muốn chối bỏ hành động này.

    Áp lực chính trị: Một số bài thơ trong tập Về Kinh Bắc, đặc biệt Lá Diêu Bông, Cây Tam Cúc, được truyền ra ngoại quốc và một số người chống Cộng ở hải ngoại viết bài ca ngợi tinh thần "chống Đảng" của Hoàng Cầm, khiến ông bị 18 tháng tù. Phạm Duy phổ nhạc Lá Diêu Bông và quảng bá như một tác phẩm chống Cộng; việc này lại cũng gây cho Hoàng Cầm nhiều hệ lụy, khiến ông rất bất b́nh Phạm Duy.

    Nhờ băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ta biết việc chính quyền đàn áp Hoàng Cầm trong suốt 10 năm, từ 1982 đến 1993 v́ tác phẩm Về Kinh Bắc ra sao và nhờ đó, chúng ta có thể hiểu được tại sao Hoàng Cầm "chối bỏ" Phạm Duy, chối bỏ việc treo cổ kịch thơ do Phạm Duy thuật lại. Nhưng đồng thời Hoàng Cầm cũng chối bỏ hành động phản cách mạng hoành tráng của ḿnh mà Phạm Duy, người bạn thân đă viết lại để ghi vào văn học sử.

  7. #2357
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    ● Về Kinh Bắc, Hoàng Cầm bị bắt, bị tù 18 tháng

    Hoàng Cầm, có những hành động bi tráng mang chất anh hùng ca, nhưng b́nh thường bản tính ôn hoà, ít chống đối trực tiếp, chủ trương dùng nghệ thuật để nói lên tư tưởng. Đối với các bạn trong NVGP, Hoàng Cầm, thuộc lớp đàn anh, nhưng b́nh đẳng hơn Văn Cao, chịu đựng, nhường nhịn anh em. Đặng Đ́nh Hưng, Trần Dần thường chê thơ Hoàng Cầm cổ. Văn Cao "mắng" Hoàng Cầm nhát.

    Trần Dần trong nhật kư, cũng chê Hoàng Cầm nhát, hay khai. Hoàng Cầm không chấp. Không chấp ai cả. Khi Tố Hữu từ trần, Hoàng Cầm viết bài điếu có câu: "Cầu Trời Phật cho anh được siêu linh tịnh độ trong khói trầm từ đài hoàn vũ quảng đại và nhân từ". Chỉ một ḿnh Lê Đạt hiểu và kiên tŕ bênh vực Hoàng Cầm. Đối với Lê Đạt, Hoàng Cầm là người can đảm chữ. Người làm thơ chỉ cần can đảm chữ. Lê Đạt luôn luôn có những nhận thức độc đáo.

    Tác phẩm chính trong thời kỳ NVGP của Hoàng Cầm là kịch thơ Trương Chi. Hoàng Cầm mượn h́nh ảnh tiếng hát để khẳng định không thể cưỡng bức nghệ thuật: "Tướng công vừa truyền lệnh / Khoá kín cửa lầu, lấp cả ḍng sông / Để không c̣n tiếng hát", th́ Mỵ Nương tha thiết yêu tiếng hát, đă năn nỉ người hầu gái: "Chị van em. Em đi t́m tiếng hát / Giấu tướng công, em lót áo, đem về"[47].

    Sau khi NVGP bị thanh trừng, tưởng rằng "Ḱnh vào lạch đă hết đường vùng vẫy"[48]. Nhưng không. Từ đông 1959 đến cuối xuân 1960, Hoàng Cầm đă làm xong Về Kinh Bắc, phản ảnh ư chí quật cường của nhà thơ trước băo tố dập vùi. Về Kinh Bắc được chép tay, truyền đọc như hầu hết những bài thơ khác của Hoàng Cầm. Tưởng đă yên thân. Ai ngờ. Tai nạn lại đến.

    Theo họa sĩ Bùi Thanh Phương, con trai họa sĩ Bùi Xuân Phái, sự việc như sau: Năm 1982, Trần Thiếu Bảo[49] định in Về Kinh Bắc với b́a của Văn Cao, đem bản thảo đến nhờ Bùi Xuân Phái vẽ phụ bản. Bùi Xuân Phái và con trai đều đọc, không thấy có ǵ là "phản động", ông nhận lời vẽ 6 bức. Trần Thiếu Bảo đến lấy tranh. Vài hôm sau được tin Hoàng Hưng bị bắt, bị quy kết tội "lưu truyền văn hóa phẩm phản động", bị đi tù cải tạo 39 tháng. Bản thảo cùng tranh Bùi Xuân Phái bị tịch thu. "Những ngày tháng đó chúng tôi thực sự đă sống lo âu sau khi nghe tin Hoàng Hưng bị bắt, Hoàng Cầm bị bắt, rồi Thiếu Bảo bị gọi lên thẩm vấn ... Trong vụ bản thảo "Về Kinh Bắc" này, nhà thơ Hoàng Cầm bị bắt giam 18 tháng, và tâm trạng của Bùi Xuân Phái khi đó là lo âu nơm nớp như cá nằm trên thớt"[50].

    Theo Hoàng Hưng, ông bị bắt v́ xin Hoàng Cầm một bản đưa vào Sài G̣n cho các bạn đọc. Cùng lúc ấy Nguyễn Mạnh Hùng (Nam Dao) định đưa bản thảo Về Kinh Bắc ra ngoại quốc để in. Chính quyền kết hợp hai việc lại để bắt Hoàng Hưng. Nguyễn Mạnh Hùng được báo trước nên không cầm bản thảo Về Kinh Bắc ra máy bay nữa.

    Sau khi bị giam 18 tháng, Hoàng Cầm được thả về, ông bị bệnh tâm thần từ 1985 đến 1987. Hỏi về nguyên do, bệnh trạng, Hoàng Cầm cho biết:

    "Sau khi tôi bị giam cầm 18 tháng, từ đó đến khi được về th́ những bác sĩ quen của tôi họ đều thống nhất một điểm là tâm thần của tôi tự nhiên nó bị ở hai dạng:

    - trước tiên là hoảng loạn,

    - thứ hai là trầm uất.

    ... Hoảng loạn một cách hết sức lặng lẽ. Ví dụ nghe một tiếng c̣i ô-tô và một cái ǵ như là frein ô-tô rít lên ở ngoài cửa -mà lúc bấy giờ tôi ở tít tận trong nhà cơ- nhưng khi nghe thấy như thế, vào lúc độ gần nửa đêm chẳng hạn, th́ tự nhiên tôi co rúm lại và hết sức sợ hăi. Nó như là một cái bản năng đấy, t́m chỗ trốn.(...)

    Thứ hai là dạng trầm uất. Có khi cả ngày tôi không nói một lời. Bạn bè đến, tôi vẫn cứ tỉnh táo đi pha trà mời mọi người có vẻ lịch sự lắm. Nhưng đến khi người ta hỏi tôi về bất cứ một cái ǵ đó th́ tôi không trả lời"[51].


    Còn tiếp ...

  8. #2358
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    ● Về Kinh Bắc và xà lim bộ.

    Trong băng ghi âm Hoàng Cầm kể lại giai đoạn này như một cuốn tiểu thuyết, chúng tôi chỉ tóm lược những ư chính, trong khi chờ đợi toàn bộ cuốn hồi kư được in ra, như một tư liệu trực tiếp về sự đàn áp văn nghệ sĩ dưới chế độ toàn trị ở Việt Nam:

    "Chúng tôi bắt đầu làm thơ lại ngay từ năm 1959. Đặng Đ́nh Hưng làm được tập thơ Cửa ô, tôi làm Về Kinh Bắc, Trần Dần làm Cổng Tỉnh và Lê Đạt làm những bài thơ về Yên Bái[52]. Tập Về Kinh Bắc tôi viết trong năm tháng, từ cuối năm 1959 đến đầu năm 1960, đêm nào cũng viết. Lối sáng tác của tôi là như thế, ví dụ như bài Lá Diêu Bông, những đêm trằn trọc không ngủ, th́ như có một giọng nữ văng vẳng đọc bên tai, từ đầu đến cuối, ḿnh chỉ việc ghi lại, mà phải ghi ngay, để độ 3, 4 phút sau là quên hết.
    V́ vậy, khi đi ngủ tôi luôn luôn có giấy bút để sẵn bên cạnh. Làm xong thơ, người đầu tiên tôi đọc cho nghe là một anh sinh viên văn khoa, tên Trần Sơn Nam. Anh nghe và chép lại, anh là người thuộc tập thơ Về Kinh Bắc của tôi từ năm 1960. Th́ ít lâu sau có dư luận trên Tuyên Huấn nói rằng: Ông Tố Hữu bảo bọn Nhân Văn bây giờ chúng nó phát điên, chúng nó làm thơ quái quỉ ǵ, không ai hiểu được.

    Năm 1973, tôi bị mời ra Sở Công An Hà Nội để cảnh cáo lần đầu. [b]Người tiếp là ông Nguyễn Doăn Nhạ, bảo: "Anh truyền bá những bài thơ có tư tưởng xấu cho thanh niên, sinh viên, rồi chúng đem truyền bá lẫn nhau để chửi Đảng. Chúng tôi là những người "canh-gác-cho-bầu-trời-tư-tưởng", gọi anh lên để cảnh cáo, anh phải thu hồi lại ngay tức khắc".[b/]

    Làm thơ ai chả muốn có người đọc, mà cái thơ nó đă đi ra, người ta đă thuộc ḷng rồi, tôi "thu hồi" làm sao được. Tôi chỉ hứa từ nay không phổ biến bất cứ cái ǵ nữa. Rồi tôi phải viết kiểm thảo độ hai trang, mất độ 2 tiếng, nói rơ tư tưởng trong thơ, đại khái chỉ có nỗi buồn, buồn hiu hắt, chứ chả có ǵ xấu. Rồi họ cho về. Từ đấy tôi chẳng đọc thơ, chép thơ cho ai nữa, sợ nhỡ nó bắt được. Nhưng tôi chép riêng cho tôi một tập rất đẹp, độ 200 trang, khổ giấy to. Tôi đưa ông Bùi Xuân Phái vẽ cho tôi 3 tranh minh họa đẹp lắm, ông vẽ cả chân dung tôi nữa. Sau lại có b́a của Văn Cao, b́a chỉ tŕnh bầy chữ, chứ không vẽ. Tôi giao cho Café Lâm giữ, dặn giữ kỹ, đừng cho ai đọc.

    Chín năm sau, 1982, Hoàng Hưng, là nhà thơ trẻ mà tôi rất quư, ở Sài G̣n ra Hà Nội bảo: "Anh chép cho em cả tập Về Kinh Bắc để em mang vào Sài G̣n. Trong ấy họ thèm khát lắm". Hoàng Hưng xin Minh Đức cho tôi 200 tờ giấy đẹp. Thế là tôi chép, mỗi đêm chép một ít, độ 10 ngày xong. Chép xong, tôi đưa cho Hoàng Hưng. Hoàng Hưng hẹn lúc 10g30, 11giờ, đêm 18/8/1982 ở nhà Trần Thiếu Bảo, anh Bảo cũng mở quán cà phê hay rượu ǵ đó, đến uống chén rượu chia tay, mai em về Sài G̣n, đi tầu thủy. Trong quán cũng c̣n một vài người khách.

    Tôi giao cho Hoàng Hưng tập Về Kinh Bắc, th́ Hoàng Hưng lại có sẵn b́a do anh Văn Cao tŕnh bầy và bốn tranh phụ bản của Bùi Xuân Phái. V́ Hoàng Hưng có nói với Bùi Xuân Phái và Văn Cao là em sẽ có tập Về Kinh Bắc của anh Hoàng Cầm, các anh cứ làm phụ bản, b́a cho em, khi nào anh ấy chép xong th́ em đóng thành một tập mang vào Sài G̣n. Hoàng Hưng khoe tôi cái b́a của Văn Cao và bốn bức tranh của Bùi Xuân Phái, có ba bức tôi thích lắm bởi v́ Bùi Xuân Phái đă đọc Về Kinh Bắc rồi và anh đă từng vẽ phụ bản cho tôi chín năm trước đây, bản tôi gửi Café Lâm.

    Một hôm tôi mượn bản Café Lâm cho một anh bạn cùng quê, đến uống rượu muốn xem. Xem xong anh ấy đă trả lại và tôi để trên bàn trước cửa sổ, vậy mà ngay đêm hôm ấy tôi t́m lại không thấy nữa, bản Café Lâm cũng có bốn phụ bản của Bùi Xuân Phái rất đẹp. Mất th́ sinh nghi. Mọi người bảo có lẽ cái tên Trần Tường Bách ǵ đó, nó lấy, nó là đứa thấy sách quư th́ ăn cắp, mà đă có lần nó mang giấy bút đến xin tôi chép cho vài bài thơ trong cuốn Về Kinh Bắc rồi, có lẽ nó lấy chăng?

    Trở lại việc tôi bị bắt, sau khi giao bản viết cho Hoàng Hưng tôi trở về nhà. Ngày hôm sau, 19/8 tôi vẫn bán rượu như thường. Đến sáng 20/8, khoảng 9 giờ, trong lúc vợ tôi đi chợ, ba người vào nhà, một anh tên là Phú và hai người lạ mặt bồng súng. Anh tên Phú đọc lệnh bắt, chiếu theo điều này, điều nọ, của bộ luật ... tên Bùi Đăng Việt -họ nhầm, tên tôi là Bùi Tằng Việt- sáng tác, tàng trữ, lưu hành những tài liệu -họ không nói là thơ- đồi trụy phản động. Lệnh: khám nhà, tịch thu tài liệu và bắt do Nguyễn Doăn Nhạ, trưởng pḥng Chính Trị Sở Công An Hà Nội, kư.

    Khám từ 9 giờ sáng đến 2 giờ chiều. Lấy đi tất cả, cả sách của con trai tôi đang học, nó đ̣i lại mới trả. C̣n bất cứ một cuốn sách, báo, một tờ giấy nào, có một chữ của tôi trên bià, trên trang, hay ở góc nào, là họ lấy mang đi hết. Họ tịch thu cả thư riêng của tôi. Vợ tôi xin lại những bức thư và thơ tôi viết cho bà ấy hồi chúng tôi mới quen nhau nhưng họ cũng không cho. Nhưng cái đau đớn nhất là họ tịch thu tất cả chữ của tôi, không một chữ nào tôi viết ra mà thoát, một chữ, một câu, một câu thơ, một bài thơ, một quyển thơ ... Lúc đó tôi đă bắt đầu viết kịch thơ Men đá vàng, ba màn viết xong được hai. Tôi nhớ màn đầu hay lắm. Nhưng bị tịch thu hết sạch, họ không để lại cho tôi một chữ nào !

    Từ năm 1984 đến bây giờ, tôi đă đ̣i rất nhiều lần, qua đơn, qua lời nói: đó là tài sản của tôi -không phải là tiền- phải trả lại cho tôi, nhưng không có kết quả. Sau này, Sở Công An Hà Nội có những người tốt, họ cũng muốn t́m lại cho tôi, nhưng t́m không ra. Nếu là "tài liệu phản động" th́ họ phải giữ lại để điều tra chứ? Tôi nghĩ là đă có lệnh đốt đi rồi. Ai ra lệnh đó chắc là họ không muốn sáng tác của tôi lưu lại cho đời sau, phải hủy, đó là số phận của tập Về Kinh Bắc và những bài thơ, những câu thơ, những chữ của Hoàng Cầm, năm 1982.


    Còn tiếp ...

  9. #2359
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    ♦ Vụ Về Kinh Bắc theo Hoàng Hưng

    Hoàng Hưng, bị bắt và bị tù 39 tháng, kể lại:

    "... Trong một lần ra Hà Nội vào cuối những năm 1970 hay đầu 1980 (...) tôi được nhà thơ khoe một bản thảo VKB do ông chép tay chữ rất đẹp, bay bướm uyển chuyển, có mấy phụ bản tranh của Bùi Xuân Phái vẽ các cô gái quan họ. Đó là tập bản thảo mà ông đă bán cho ông Lâm chủ quán cà phê chuyên sưu tầm tranh của các hoạ sĩ nổi tiếng ở Hà Nội, nay ông mượn lại, có lẽ để khoe với những người bạn mới, có thể là Việt kiều chăng? Nhân dịp, tôi đă xin nhà thơ chép cho ba bài Cây – Lá - Quả đem về Sài G̣n khoe vài người bạn văn nghệ “chui” vốn là dân Sài G̣n cũ (...).

    Trong chuyến ra Hà Nội tháng 8 năm 1982(...) Tôi đến chơi, lại nghe ông than là vừa bị mất tập bản thảo VKB mượn lại của Lâm cà phê (chắc hẳn CA đă lấy đi làm hồ sơ cho vụ án VKB đang chuẩn bị). Ông tỏ ra rất tiếc xót, v́ khó có cơ hội làm lại một tập đẹp như thế. Tôi hứng lên, nói sẽ làm lại cho ông một tập đẹp hơn thế. Ông bảo tôi đến gặp Trần Thiếu Bảo ở phố Bát Đàn, nhờ ông này mua giấy và bút bi loại tốt để ông chép. Trần Thiếu Bảo nhận lời ngay (...) Thế là việc chép tay VKB tiến hành. Tôi đồng thời đến xin Văn Cao một phác hoạ làm b́a tập thơ VKB, và xin Bùi Xuân Phái mấy phụ bản. Ít ngày sau, tôi vui sướng có trong tay một bức hoạ mấy cái lá bay (chắc là “lá diêu bông”) của Văn Cao và 4 phụ bản màu nước của Bùi Xuân Phái vẽ những cô gái quan họ nón quai thao áo tứ thân.

    Có một chi tiết mà những ngày đó tôi đă bỏ qua. Trong thời gian này, tôi hầu như ngày nào cũng đến quán rượu Hoàng Cầm để giục nhà thơ chép cho xong tập thơ. Một tối, tôi trông thấy trong quán có một người quen, anh nguyên là giáo viên cùng dạy học với tôi ở Hải Pḥng, nhưng đă chuyển về Hà Nội, nghe đâu làm ở Bộ Công an, v́ anh là cháu ruột ông tướng CA nổi tiếng Nguyễn Công Tài.
    Thấy tôi, anh cất giọng lè nhè như của người say rượu bảo: “Cái ông Hưng này đến là rách việc”. Tôi hồn nhiên không để ư, chỉ cười rồi đi ra. Sau khi bị bắt tôi mới đoán rằng anh bạn đồng nghiệp cũ có ḷng tốt cảnh báo để tôi khỏi sa bẫy. Nhưng lúc đó tôi hoàn toàn ngây thơ và tự tin việc xin thơ Hoàng Cầm chẳng có vấn đề ǵ mà phải đề pḥng!

    Ngày Hoàng Cầm hoàn thành việc chép VKB, tôi muốn nhân đó có một cuộc liên hoan nhỏ với các bậc đàn anh để ăn mừng và cũng là để chia tay lên đường vào lại Sài G̣n. Ông Trần Thiếu Bảo đề nghị làm ngay tại nhà ông ấy, như cũng để khai trương quán của ông. Đầu bếp là Phan Tại, nhà viết kịch và cũng là đồng phạm của ông trong vụ xử án “gián điệp phản động Nhân văn – Giai phẩm” năm 1960.
    Trong bữa ăn vui vẻ t́nh cảm dạt dào giữa những người cùng tâm sự (có Hoàng Cầm, Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại; tôi tuy vong niên nhưng được các đàn anh cư xử như kẻ ngang hàng), ông Bảo khoe mọi người hai cái “b́a” cho tập VKB và tập thơ của tôi mà ông tŕnh bày theo lối siêu thực (...) Sau liên hoan, ông Bảo đề nghị tôi cho ông mượn tiếp tập ấy cùng với tập VKB vừa mới hoàn thành.

    Những ngày sau đó, tôi lo chuẩn bị để lên đường, nên định bụng trước khi đi mới đến nhà ông Bảo lấy lại hai tập thơ. Không hiểu sao ông Bảo rất sốt ruột, ngày nào cũng đến nhà bà chị tôi (là nơi tôi ở nhờ trong thời gian lưu lại Hà Nội) thúc giục tôi tới lấy! (Sau mới ngă ngửa ra là Trần Thiếu Bảo bị CA khống chế, phải làm chỉ điểm cho họ, ít ra là trong vụ VKB này. Nếu v́ lư do ǵ đó mà tôi không đến lấy hai tập bản thảo, th́ vụ án bị hẫng to!)

    Hoá ra họ đă sắp xếp rất chu đáo để “cất vó” VKB mà tôi là một con cá hẩm hiu ở đâu đến chui đầu vào lưới. Sau này một anh CA quen thân với gia đ́nh anh cả tôi c̣n cho biết họ đă bí mật theo dơi, quay phim tôi suốt nửa tháng trời mà tôi không hề để ư!
    Chiều 17/8/1982, sau khi sắp xếp xong hành lư để đi chuyến tàu tối xuống Hải Pḥng và sáng hôm sau đi tàu biển vào Sài G̣n, tôi đến nhà Trần Thiếu Bảo lấy lại 2 tập thơ. Vào trong quán, tôi thấy hai người đàn ông đang ngồi uống nước. Sau vào trại giam đi “cung” mới biết đó là ông Khổng Minh Dụ ở A25, sau này sẽ là Thiếu tướng Cục trưởng và cũng là “nhà thơ”, và anh Thuận, trợ lư của ông, sau này sẽ là Cục phó Cục chống Bạo lọan.

    Tôi cứ hồn nhiên cầm tập thơ đi ra, lên xe đạp phóng. Được một đoạn, bỗng có hai anh thanh niên đèo nhau xe gắn máy ép tôi vào lề đường. Hai anh nhảy xuống, giữ tôi lại, bảo: “Cái xe đạp anh đang đi là xe của chúng tôi bị mất cắp”. Tôi kinh ngạc, v́ tôi đang đi chiếc xe của bà chị ruột. Đang căi qua căi lại, th́ một công an mặc sắc phục ở đâu tiến tới, nói: “Các anh lộn xộn ǵ thế, mời về đồn giải quyết”.
    Đồn CA gần đấy là đồn Hàng Bạc. Vào trong đồn, anh CA xưng là đồn trưởng, yêu cầu tôi bỏ hết các thứ trong túi xách ra. Thấy tập bản thảo của Hoàng Cầm, anh ta hỏi: “Cái ǵ thế này? Thơ à? Thơ của ai đây?”. Tôi đáp: “Của Hoàng Cầm.” “Hoàng Cầm là ai? Anh ngồi đây đợi, cái này tôi phải xin ư kiến cấp trên”. Tôi ngu đến mức vẫn chưa biết đây chỉ là một màn bi hài kịch dàn dựng sẵn.

    Sau khoảng 20 phút chờ đợi, anh đồn trưởng bước vào, bảo: “Đây là ư kiến cấp trên”. Anh giở ra một tờ giấy, đọc: “Lệnh bắt và khám xét khẩn cấp” v́ tội “lưu truyền văn hoá phẩm phản động”. Thế là nhanh như cắt, hai anh thanh niên “mất xe đạp” lúc năy hiện nguyên h́nh là CA, áp giải tôi lên xe bịt bùng, đưa về … Hoả Ḷ!

    Ngày 20/8/1982 th́ đến lượt Hoàng Cầm bị bắt. C̣n Nguyễn Mạnh Hùng, khi ấy đang ở Sài G̣n chuẩn bị bay về Canada. May được Dương Tường kịp báo hung tin, anh gửi ngay tập bản thảo VKB cho Cao Xuân Hạo giữ, ra sân bay vô tang. (Tuy nhiên, khi khám xét hành lư của tôi, CA thu được một bức thư Hoàng Cầm nhờ tôi đưa cho Nguyễn Mạnh Hùng khi vào Sài G̣n, thư dán kín nên tôi không biết nói ǵ trong đó). Hùng bị cấm cửa về Việt Nam trong suốt 20 năm. (...)

    Kết cục của vụ án tóm tắt như sau: Hoàng Cầm sau mấy tháng bị giam th́ kiệt sức v́ bị khủng bố tinh thần liên tục mà lại không có nàng tiên nâu trợ lực, phải nhận tội phản động, chống Đảng, chống chủ nghĩa xă hội, chống chế độ, để mong sớm được ra.

    Tôi không thể nào quên cái buổi sáng ấy trong Hỏa Ḷ. Sau mấy tháng không thuyết phục được tôi thừa nhận VKB là “phản động”, CA để tôi nghỉ một hơi dài. Rồi bỗng một hôm tôi lại được gọi đi “làm việc”. Người CA đưa tôi vào một pḥng hỏi cung, nhưng không có ai trong đó. Mà lại có một tập giấy thếp viết sẵn để trên bàn. Tôi ṭ ṃ giở ra, th́ … trời ơi, đó là bản tự khai của Hoàng Cầm, tôi nhận ra chữ viết rất nắn nót, đẹp, của ông. Tôi đọc lướt, càng đọc càng hoang mang v́ ông nhận tuốt tuột các ư tưởng chống Đảng, đả kích chế độ … trong tập thơ.

    Để cho tôi một ḿnh đọc xong, người ta mới đưa tôi trở lại pḥng giam. Và họ bố trí rất khéo, để như t́nh cờ tôi gặp Hoàng Cầm đang ngồi ở cổng chờ (giữa khu trại giam và khu “làm việc” có một cái cổng lớn, sau khi “làm việc” xong phạm nhân ngồi đó chờ “quản giáo” ra nhận để đưa vào buồng giam).
    Tôi xông đến bên ông, hỏi gay gắt: “Anh nhận tội phản động thật à? Sao lại thế?” Hoàng Cầm cúi đầu xuống, không nói ǵ, từ khóe mắt ông lăn ra những giọt nước mắt.

    Đến tận hôm nay, nhớ lại những giọt lệ tủi nhục của nhà thơ đàn anh, ḷng tôi vẫn c̣n đau. Với tôi, tự buộc ḿnh phải hèn để có thể tồn tại là điều không ǵ đau hơn cho một kẻ sĩ."
    (Hoàng Hưng, Kỷ niệm 25 năm ngày ra tù (30/10/1985 – 2010), talawas.org ngày 18/9/2010, http://www.talawas.org/?p=24264, in lại trong Thơ Hoàng Hưng 1961-2005, HHEBOOKS2012, trang 375-391).


    Còn tiếp ...

  10. #2360
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    ♦ Hoàng Cầm bị bắt

    Hoàng Cầm thuật lại trong băng ghi âm:

    Tôi không hiểu tại sao ḿnh bị bắt. Lệnh bắt kư tên Nguyễn Doăn Nhạ, trưởng pḥng Chính Trị Sở Công An Hà Nội, với tội danh "sáng tác, tàng trữ và lưu hành những tài liệu văn hóa đồi trụy và phản động". Khám nhà và tịch thu tất cả bản thảo sách vở của tôi, vợ chồng tôi phải kư vào biên bản. Sau biên bản th́ lên ô tô bịt kín của công an đưa về Hoả Ḷ. Đến 2 giờ chiều, người tôi bă ra. Cái bệnh của tôi, nếu không có điếu thuốc lào hay thuốc phiện trong người th́ bị tháo dạ. Lúc họ đang khám, tôi xin phép đi sau, một anh công an chạy theo ngay, chắc họ sợ tôi vào nhà cầu tự tử chăng? Vậy cái tội của ḿnh chắc là nặng lắm.

    Vào tới Hoả Ḷ khoảng 2 giờ 30, phải ngồi ngay vào bàn an công an để nhận diện và kư vào tất cả các thứ đă bị tịch thu, từ cái phong b́, cái thư, miếng giấy vụn đến bản thảo, sách, vở ... Không được ăn ǵ từ sáng đến giờ, tôi hoa mắt không biết ḿnh đă kư những ǵ, trong khoảng từ 2 rưỡi đến năm giờ, có phải tất cả là của ḿnh không? Trước khi đi vợ tôi chỉ kịp nhét vào tay tôi gói xôi với miếng chả và họ cho phép nhận, nhưng có kịp ăn đâu, đến năm giờ chiều th́ tôi cũng chẳng nhớ là ḿnh nhét nó ở đâu, chắc khô cứng rồi.

    Khoảng 5g30, 6g, anh Phú dẫn đến một hành lang trên có cái bàn bảo nằm nghỉ ở đấy. Rồi khoảng 7 giờ tối họ đưa tôi vào một cái pḥng rộng, đông người.

    Một người đến hỏi làm sao mà bị bắt, tôi nói tôi làm công tác văn hóa, bị nghi viết tài liệu phản động. Nhà văn à? Tên ǵ? Tôi bảo tên Hoàng Cầm. Trong pḥng có vài người biết tôi: Hoàng Cầm Bên kia sông Đuống phải không? Tối hôm kia cũng có một phạm nhân là nhà văn trẻ tuổi hơn bác tên là Hoàng Hưng vào đây. Tôi giật ḿnh: Thế là Hoàng Hưng đă bị bắt ngay đêm hôm kia rồi! Anh ấy vào đây lúc 3 giờ sáng, sáng hôm sau th́ bị chuyển sang buồng khác. Thôi bác vào nằm đây, có tuổi lại yếu đuối, nếu chúng nó có hỏi ǵ th́ trả lời tử tế, không nó đánh phủ đầu cho một trận th́ chết, bác yếu quá không chịu nổi đâu. Lúc bị bắt tôi giấu được một cục thuốc phiện đem đi, người bạn tù chỉ cho tôi cách vo và giấu vào chân răng để lúc bị khám không mất. Gặp bạn tù tử tế thật ấm ḷng.

    Sáng hôm sau họ đến gọi Bùi Đăng Việt mang "nội vụ" -tức là ba lô, chả hiểu tại sao lại gọi là nội vụ- lên cung. Họ dẫn vào pḥng quản trị, có hai người ngồi chờ, một người bảo: "Hoàng Cầm đấy à? Tôi là Nguyễn Doăn Nhạ, đây là anh Nguyễn Trọng Cường, trưởng Pḥng Điều Tra Xét Hỏi".

    Ông Nhạ nói đại khái: "Bất đắc dĩ tôi mới phải đưa anh đến đây, tôi không hỏi cung anh đâu, hỏi cung không phải là việc của tôi. Chắc anh c̣n nhớ 10 năm trước tôi đă gọi anh lên v́ chuyện thơ phú rồi, mà anh vẫn cứ tiếp tục truyền bá tư tưởng chống Đảng khắp nơi, ra cả nước ngoài. Đảng đă khoan hồng, không bắt anh đi cải tạo, từ năm 1955 đến nay là hơn 20 năm rồi mà anh vẫn chứng nào tật ấy ..."

    Ông Nhạ nói dài ḍng lắm, tôi chỉ ngồi nghe v́ họ có hỏi ǵ ḿnh đâu. Rồi đến ông Cường: "Tôi Trọng Cường trách nhiệm điều tra, hôm nay anh tạm về nghỉ, ngày mai anh suy nghĩ sẵn rồi phải khai cho thật, thật rơ ràng minh bạch, khai hết, không phải với tôi đâu mà với các cán bộ mà tôi cử ra!"

    Tôi bị giam trong một pḥng 28 người, chật và nóng. Pḥng bên cạnh giam những đứa trẻ vị thanh niên, có đứa mới 12 tuổi. Bữa cơm tù đầu tiên: năm người chung nhau một bát rau muống, một bát nước canh (nước luộc rau muống) và một điă muối.


    Còn tiếp ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 3 users browsing this thread. (0 members and 3 guests)

Similar Threads

  1. Chuyện nghe được từ ngướ không quen
    By Dac Trung in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 10-10-2012, 12:25 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-05-2012, 10:37 PM
  3. Bắt Buộc Phải Nghe
    By Dean Nguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 19-01-2012, 08:34 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 31-07-2011, 05:33 PM
  5. Tưởng Niệm Tháng 4 Đen Nghe Nhạc Lính VNCH
    By Camlydalat in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 18
    Last Post: 25-04-2011, 06:28 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •