Page 235 of 304 FirstFirst ... 135185225231232233234235236237238239245285 ... LastLast
Results 2,341 to 2,350 of 3035

Thread: Nghe Chuyện Hà Nội

  1. #2341
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 11

    ● Phê b́nh Việt Bắc

    Phê b́nh tập thơ Việt Bắc là ng̣i nổ công khai đầu tiên của phong trào NVGP. Việt Bắc của Tố Hữu được tôn sùng như cuốn "thánh kinh" của văn học cách mạng. Từ khi tác phẩm ra đời cuối năm 1954 cho đến ngày nay, bao nhiêu giấy bút đă dành cho sự ca tụng nó. Hiếm có nhà phê b́nh nào, dám viết một câu phạm thượng về Việt Bắc. Đúng như Lê Đạt nhận xét: "Ở Việt Nam người ta chưa quen chê anh Tố Hữu bao giờ"[47]. Sở dĩ việc phê b́nh thơ Tố Hữu, không chỉ khép kín trong các buổi họp nội bộ quân đội, mà thoát ra ngoài, nhờ hai người: Tử Phác, thư kư toà soạn báo Sinh Hoạt Văn Nghệ, tung trên Sinh Hoạt Văn Nghệ trước. Rồi Lê Đạt, phụ trách Văn Nghệ, đưa lên Văn Nghệ sau.

    Vũ Tú Nam viết:

    "Ngày 4/3/1955, nổ ra cuộc họp đầu tiên tranh luận phê b́nh tập thơ Việt Bắc, Trần Dần gọi thơ Tố Hữu là "tí ti la haine, tí ti l'amour" (tí ti căm thù, tí ti t́nh yêu) một cách hằn học, đểu cáng. Ngày 7/3/1955, bắt đầu tranh luận phê b́nh Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, Trần Dần gọi những chiến sĩ Côn Đảo trong truyện là những "người cụt đầu", "toàn tim", mù quáng (...) Bài phê b́nh Vượt Côn Đảo của Trần Dần lệch lạc nguy hiểm như vậy, nhưng cũng có một số đồng chí trong quân đội không nhận ra, viết bài hưởng ứng.
    Cuối tháng 3/1955, khi duyệt những bức thư bạn đọc chung quanh việc phê b́nh Vượt Côn Đảo để in báo Sinh hoạt Văn nghệ, Cục Tuyên huấn quyết định bỏ bớt một số bài tán thành Trần Dần. Lúc này, Trần Dần phản ứng rất mạnh, gọi lănh đạo là "répression policière!" (đàn áp kiểu cu-lít). Và đầu tháng 4/1955, mượn cớ đau óc, Trần Dần xin nghỉ dài hạn, bỏ công tác, bỏ doanh trại bộ đội, tự tiện ra ngoài phố ở."[48]

    Về không khí các buổi phê b́nh thơ Tố Hữu, Vũ Tú Nam ghi trong nhật kư, như sau:

    5/3/1955: Tối qua, tranh luận về thơ Tố Hữu ở Cửa Đông, anh Nguyễn Chí Thanh tới (...) anh em đông lắm, cả Hồ Dzếnh. Hoàng Yến tŕnh bày vấn đề “khả năng hiện thực trong thơ Tố Hữu - Tố Hữu có tiêu biểu cho thời đại không?” Trần Dần, Lê Đạt nói bốc nhất. Hoàng Trung Thông, Nguyễn Xuân Sanh ngồi ghi mà không nói ǵ. Tố Hữu không tới, Xuân Diệu không tới.

    8/4/1955: Đêm 7-4, phê b́nh thơ Việt Bắc ở 51 Trần Hưng Đạo đến 12 h khuya. Dần tâm sự khi anh đi xe đạp có hai bộ đội theo dơi (?). Tối vào nhà bạn, lúc ra Dần bị bộ đội giữ mấy tiếng. Ḿnh báo cáo sự việc với chi ủy. Trần Việt nói: Dần vào 69 Quán Thánh, nhà Hoàng Cơ B́nh cũ, nên có thể bị theo dơi.

    15/4/1955: Đêm qua, thảo luận về thơ Việt Bắc đến 12h đêm. Hoàng Yến, Trần Dần, Hoàng Cầm nói gay gắt. Trương Tửu tranh luận rất phản khoa học. Huy Cận ngồi im. Tạ Hữu Thiện nói nhiều suy diễn, ví dụ cho đoạn nào là giống Kiều … Hoàng Cầm dẫn thơ Hồ Xuân Hương để chứng minh "chất sống" và "hồn thơ" của nữ thi sĩ.[49]

    Trong bài Cách nh́n sự vật của nhà thơ Tố Hữu, viết tháng 5/55, Trần Dần viết: "Nói chung thơ Tố Hữu có rất nhiều cái lười biếng. "Ư lời tầm thường (...), rất nhiều cái kiểu "ḷng ta xao xuyến, rung rinh", - "chúng bay chỉ một đường ra, một là tiêu diệt hai là tù binh", - hoặc "đời vẫn ca vang núi đèo", hoặc "Cụ Hồ sáng soi".

    Không phải là thiên lệch trích ra một số câu như vậy, hăy đọc lại cả tập Việt Bắc xem, ta thấy nhan nhản những lối lười, nhạt, cả lảm nhảm nữa (...) Phá đường: "Nhà neo việc bận vẫn đi" - làm th́ thi đua -, thi đua kết quả th́ rồi mai địch chết. Ta đi tới: đủ cả Bắc Nam, Việt, Miên, Lào, Itsala, Itsarắc... xem ra th́ có vẻ đúng chính trị. Nhưng xét sâu xem? (...) Tố Hữu nh́n sự vật nó chính trị công thức quá, lười t́m ṭi quá. Chỗ nào hay th́ là lập lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao ... Tố Hữu chưa đem tới một cái nh́n mới mẻ ǵ.[50]

    Tiễn đưa Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang ghi sổ tang:

    "Lần đầu gặp anh trong cuộc phê b́nh tập thơ Việt Bắc, đến nay dù hơn bốn mươi năm, biết bao là gian nan, trong những cố gắng chung để t́m cho văn nghệ Việt Nam một con đường phát triển thuận lợi nhất. Đúng hay sai, hôm nay tôi vẫn chưa dám khẳng định ... Dù sao thiện chí của chúng ta chỉ có kẻ ác ư mới cố t́nh phủ nhận.
    Tiễn đưa anh về cơi vĩnh hằng, có lẽ tôi chỉ có thể nhắc lại cùng anh vế đối của Ngô Th́ Nhậm nói cái lẽ tất yếu: Gặp th́ thế, thế th́ phải thế.
    (...)

    Cả nước biết lúc nào anh cũng có tư tưởng Nhất định thắng, dù cho ư chí ấy anh không đạt được th́ cũng vẫn là phẩm giá cao đẹp của một con người"[51].


    Còn tiếp ...

  2. #2342
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 11

    ● Trần Dần ghi

    Về NVGP, có những sự việc đă bị chôn sống, tưởng rồi sẽ tan trong ḷng đất. Có những sự thực đă bị bóp méo đến độ dị dạng. Trong hơn nửa thế kỷ, người ta đă quen sống với những quái thai dị đạng đó: những xuyên tạc, bôi nhọ được đề cao như những chân lư. Ngờ đâu, những con chữ trong ḥm lại có ngày đứng dậy, thuật lại truyện ḿnh. Tập Trần Dần ghi 1954-1960[52] là một trong những tư liệu ḥm, tự khai, tự quật. Tác phẩm mở ra những ḍng chữ đầu tiên để lấp những trang c̣n trắng về một thời kỳ văn học sử, c̣n chưa được biết, c̣n chưa được viết.

    Tập Trần Dần ghi 1954-1960 thực chất là ba quyển sách gồm một: Phần đầu tích lũy những suy nghĩ về sáng tạo. Phần thứ nh́, tác giả quay lại chiến dịch đấu tố với những h́nh ảnh khủng khiếp kinh hoàng. Phần thứ ba, viết về cuộc sống cải tạo trong những năm kỷ luật. Với một lối viết tốc kư, ngắn gọn, thể hiện mỹ học khổ đau của Trần Dần.

    Chuyện cải tạo sau Nhân Văn, nằm trong lối tốc kư ấy:

    "9/9/58 (...) Đêm, tôi thiếp đi trong mộng ác. Tay mưng, đau nhất là ở những chỗ đă thành chai mà lại mưng tái lại. Mọi bắp thịt suốt đêm lọc acide, và chôn cất những tế bào chết v́ lao lực quá sức... Lục đục suốt đêm như vậy trong toàn bộ xác thịt tôi.

    10/9/58 (...) Gió khiếp quá. Hàng sư đoàn gió bấc trèo qua núi lúc nào đổ xuống đồng cỏ. Suốt buổi sáng, mùa hè bị đánh tan nát. Nắng bị gió may thổi mát đi, nguội lửa.

    Gió tốc mái, rứt mấy lá gồi chuồng ḅ. Cây cành bị túm tóc, vật vă kêu gào, gió vẫn không tha. Các tàu chuối bị tước xơ ra. Có tàu rách mướp, trông hệt một con rết xanh khổng lồ, hàng ngh́n chân xanh ngọ ngoạy điên cuồng, cào trong không khí, cái đuôi nó bị giữ rịt ở thân, nó lồng lộn ngang ngửa, không thoát. (...)

    Các nón lá bị gió nó hất chụp mặt. Nó kéo ra sau, quai nón xiết cổ như thừng thắt cổ! Bụi phả vào mắt chúng tôi, chưa dụi xong, gió đă ném thêm. Bọn tôi đào gốc, đă nhọc, c̣n bị lũ gió may kia trêu chọc. Nó đùa dai chứ ... Có lúc tôi cuốc đất, mắt nhắm tịt, một anh mù làm việc"[53].

    Về những ngày sôi động sau 2 cuộc Chỉnh huấn ở Thái Hà ấp, 16/4/1958, Trần Dần ghi:

    "Hiện nay Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Minh Đức đă bị bắt, chẳng bao lâu sẽ ra ṭa. Báo chí vẫn tiếp tục diệt đánh Nhân Văn Bộ 6 Giai Phẩm Mùa Xuân[54]. Bộ 6 đă buông nhau ra. Bọn Nhân Văn Giai Phẩm cũng ô-rơ-voa[55] nhau hết (...) Sỹ Ngọc đóng cửa, miễn tiếp khách. Bản thân tôi, do chỗ đă tự giác đ́nh bản tư tưởng thù địch (thứ tự giác kết quả của áp lực...) nên mọi mặt khác, tôi cũng đ́nh bản cả giao du, đ́nh bản cả việc viết lách. Có nên đi gặp những đồng chí lănh đạo để hỏi những việc cần phải làm không? Đi th́ lại sợ bị hiểu lầm. Nhưng nếu ngồi nhà, tiêu cực đợi, có khi c̣n bị hiểu lầm gấp bội. (...)

    Bọn Đang - Minh Đức - Thụy An thân th́ bị cầm tù, tội ác th́ đem bêu đầu trên báo chí. Vai tṛ của bọn chúng trong các vụ phá hoại 3 năm đang được vạch trần. Phan Khôi th́ đóng cửa, nằm khàn, không đọc báo. Trương Tửu, Trần Đức Thảo làm ǵ? C̣n cả loại B chúng tôi hiện ra sao? Làm ǵ? Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt đang tiếp tục kiểm thảo ở cơ quan, cùng với những Quang Dũng, Trần Lê Văn, v.v...

    Chúng tôi đi sâu vào kiểm điểm sáng tác hơn nữa. Kiểm điểm sáng tác cho sâu mới thật là khó sao! Cứ như phải rứt bỏ một mảng thịt của ḿnh.(...) Tôi chịu cái h́nh phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. H́nh phạt của một người bị bung dừ (...) Tôi vừa là một tội nhân, vừa phải cố tách ḿnh ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi và đám Nhân Văn"[56].

    ]b]Những người nhân văn ấy, đă phải nhận tội, phải "cắt bỏ những mảng thịt của ḿnh", phải tự chửi rủa ḿnh, phải t́m gặp lănh đạo, phải tố cáo bạn bè để xin một chút ơn huệ thừa, nhưng rồi cũng không ai thoát được guồng máy, không ai tránh khỏi bị "ninh nhừ".

    Con người nhất định thắng ấy, sau trận Thái Hà, đă thua, đă hàng, đă nhận tội, đă ly khai những lư tưởng ngày trước, đă phải đứng về phía bên này, để nh́n "bọn" bên kia: gồm những "tên thủ lĩnh chủ nghiă xét lại" Nguyễn Hữu Đang, "tên phá hoại" Minh Đức, "con mụ gián điệp" Thụy An..., đă xuống đến nấc thang cuối cùng của sự "giẻ rách hoá" con người.[/b]

    10/12/ 59, Trần Dần ghi: "Sớm mai ṭa án xử Thụy An gián điệp và Nguyễn Hữu Đang phá hại, cả hai: hiện hành. Tôi không có giấy gọi cho dự, có lẽ v́ không có vị trí ǵ ở đó. Không phải là nhân chứng, cũng không phải là đại biểu của nhân dân ...

    Người có một cái ǵ văng vắng. Tôi đă có đứng với nhóm Đang cầm đầu. Tôi đă ly khai với "lư tưởng" đó. Cả khi đứng ở đó, cả khi ly khai, cả bây giờ, tôi vẫn cứ rớm máu. Chao ơi! Con đường để đi đến chỗ "Đúng" mới nhiều máu làm sao? Tương lai có để dành cho tôi nhát dao nào nữa không? Đang đă nh́n thấy cái sai lớn của Đang chưa?(...)

    Ngoài trời mưa bụi. Rét xoàng. Không có gió. Đôi lúc vài tiếng chuông xe đạp. Năm nay rét muộn. Đang ra ṭa cuối năm. Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ôi! Con đường để đi tới chỗ "Đúng" mới nhiều máu làm sao!"[57]

    Từ lâu "ghi trở nên một h́nh phạt". Nhưng vẫn ghi.


    Còn tiếp ...

  3. #2343
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 11

    Cuốn sổ 1958, ghi lại con đường của những người muốn ngoi lên để đi đến chỗ "Đúng". Ai cũng muốn t́m một đường "máu" để thoát thân: biết đâu Đảng chả đoái thương mà nghĩ lại? Phương tiện nào cũng tốt kể cả "khai". Cả "tố".

    Bao nhiêu khuôn mặt đă bước trên con đường "nhiều máu "ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đă vo ve sự "Đúng" ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu tên tuổi đă đạt được sự "Đúng" ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đă "Sai." Trần Dần ghi.

    Cả đúng lẫn sai đều lầm than, đều tiến dần tới tha hóa. Họ tan tác cả. Họ chia tay. Có những oán hận, căm thù. Chính quyền đă thành công trong sự "giẻ rách hoá" con người, như lời Lê Đạt.

    Thành công lớn nhất của guồng máy là đă đánh vào những yếu tố thiêng liêng nhất của con người: đánh vào t́nh bạn, t́nh người, đánh tan tác hết.


    Những người nhân văn không chết, nhưng họ bị rút máu, rút gân, rút dần sinh lực. Họ đều rời ră, đều muốn hàng. Nhiều người đă đầu hàng, trong đó có Trần Dần. Họ muốn được lănh đạo thương xót, họ muốn được lănh đạo đoái hoài. Họ đă xuống đến đáy vực, họ chịu hết nổi. Họ sẵn sàng "chút ḷng trinh bạch từ nay xin chừa" nhưng người ta vẫn lạnh lùng quay đi. Người ta vẫn không cho ngoi lên. Cái phận người nhỏ nhoi. Phận người nhân văn bị sa lầy, lún xuống, trong thời không nhân văn của dân tộc ḿnh. Câm và điếc. Như đă chết.

    Và điều đó chỉ có mỹ học khổ đau của Trần Dần mới viết nên được.



    [1] Em ruột Vũ Hoàng Chương.

    [2] Tác phẩm của Đinh Hùng.

    [3] In trong Thơ Mới 1932-1945, Lại Nguyên Ân sưu tập, Hội Nhà Văn, 1999, phụ lục, trang 1395.

    [4] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.

    [5] Vũ Tú Nam, bđd.

    [6] nxb Quân Đội Nhân Dân, 1954.

    [7] Nhật kư Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài, biên soạn, Văn nghệ California, 2001.

    [8] Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, hồi kư, chép lại 25/10/2006 (tạp chí Nhà Văn số 3/2007), mạng Talawas.

    [9] Vũ Tú Nam, hồi kư, bđd.

    [10] Hoàng Cầm, Con người Trần Dần.

    [11] Vũ Tú Nam, hồi kư, bđd.

    [12] Nhật kư Trần Dần ghi.

    [13] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.

    [14] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.

    [15] Trần Dần ghi.

    [16] Theo lịch tŕnh sau:16/11/46, Tự vệ Hải Pḥng được lệnh chuẩn bị chống Pháp. 30/11/46, xung đột ở Đồ Sơn. 7/12/46, Vơ Nguyên Giáp ra lệnh sửa soạn tấn công. 8/12/46, Hà Nội đào hầm, đục tường xuyên nhà nọ sang nhà kia. 10/12/46, Hà Nội bắt đầu tản cư. 20/12/46, lệnh kháng chiến từ Hà Nội, ban hành ở Nam Bộ.
    [17] Đạo diễn Trần Vũ nói trong Chương tŕnh tưởng niệm Trần Dần trên RFI, tháng 1/1997.

    [18] Hồ Phương, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, Tác Phẩm Mới, 1987, trang 140.

    [19] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958.

    [20] Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1, 20/9/1956.

    [21] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, bđd.

    [22] Hoàng Cầm, bđd.

    [23] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

    [24] Trần Dần ghi, trang 63 và 65.

    [25] Từ Bích Hoàng, Vạch thêm những hoạt động đen tối của một số cầm đầu trong nhóm phá hoại Nhân Văn Giai Phẩm, VNQĐ, số 5, tháng 5/1958.

    [26] Tức là tờ Sinh Hoạt Văn Nghệ, do Tử Phác làm thư kư toà soạn.

    [27] Tức Vơ Hồng Cương, hay Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn.

    [28] Tức Tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị.

    [29] Trần Dần ghi, sđd, trang 73-75.

    [30] Anarchiste thường được dịch là vô chính phủ, chỉ đúng trong nghiă chính trị (nghiă gốc), nhưng nói rộng ra, anarchiste c̣n có nghiă là quậy, phá, loạn, không chịu bất cứ một thứ kỷ luật sắt nào.

    [31] Phần lớn văn nghệ sĩ lúc ấy đều ở trong quân đội. Những người chủ chốt trong nhóm phản kháng gồm: Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm, với "mưu sĩ số 1" Đặng Đ́nh Hưng, "mưu sĩ số 2" Tử Phác và Lê Đạt. Nhóm quy tụ được gần 30 văn nghệ sĩ. Vũ Tú Nam và Từ Bích Hoàng cũng "cùng chí hướng", Đỗ Nhuận là thành phần "chủ chốt", cả ba người này sau quay lại viết bài đánh Trần Dần và NVGP.

    [32] Từ Bích Hoàng, bđd.

    [33] In trên tạp chí Nhà Văn số 3/2007 và Talawas.

    [34] Số 4, tháng 4/1958.

    [35] Anarchie totale ở đây nên dịch là Loạn!

    [36] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.

    [37] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.

    [38] Hoàng Cầm, Con người Trần Dần.

    [39] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.

    [40] Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, nhật kư chép lại, bđd.

    [41] Thực ra là báo Sinh Hoạt Văn Nghệ của quân đội, do Tử Phác phụ trách.

    [42] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

    [43] nxb QĐND, Hà Nội 1954.

    [44] Trần Dần ghi, trang 47.

    [45] Trần Dần ghi.

    [46] Nguyên Ngọc, Con đường đi của Phùng Quán, con đường sai lầm điển h́nh của một người viết văn trẻ, VNQĐ, số 4, tháng 4/1958.

    [47] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.

    [48] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.

    [49] Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, nhật kư chép lại, bđd.

    [50] Nhật kư Trần Dần ghi, trang141.

    [51] Bài điếu của Nguyễn Hữu Đang, in lại trong Trần Dần ghi, trang 460.

    [52] Văn Nghệ, California, 2001.

    [53] Trần Dần ghi, trang 334-335.

    [54] Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Đạt, Trần Dần, Sỹ Ngọc, Tử Phác.

    [55] Au revoir, tạm biệt.

    [56] Trần Dần ghi, trang 244, 245- 260.

    [57] Trần Dần ghi, trang 376.


    Xin xem tiếp chương 12

  4. #2344
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    Hoàng Cầm

    (1922-2010)




    Những văn nghệ sĩ thành viên chính của NVGP phần lớn đều đă giữ trọng trách trong nền văn nghệ kháng chiến: Lê Đạt làm thư kư riêng cho Trường Chinh (1947), rồi phụ tá cho Tố Hữu (1949). Tử Phác, làm trưởng pḥng Văn Nghệ Tuyên Huấn Trung Ương (1951). Đặng Đ́nh Hưng, đoàn trưởng kiêm chính trị viên đoàn Văn Công Nhân Dân Trung Ương (1952). Hoàng Cầm, đoàn trưởng Văn Công Tổng Cục Chính Trị (1952). Trong bài Múa sạp thấu ḷng Tử Phác[1] Hoàng Cầm cho biết, thời 51- 52, Tử Phác là "cấp trên" của ông, chính Tử Phác đă "chỉ thị" cho Hoàng Cầm (trưởng đoàn văn công) và Mai Sao, nghiên cứu và thực hiện điệu múa sạp.

    Những chi tiết trên đây giải thích tại sao NVGP có thể thành tựu được, bởi những văn nghệ sĩ chủ trương phong trào, nắm giữ các cơ sở chính của nền văn nghệ kháng chiến lúc bấy giờ: Trong quân đội, Tử Phác trách nhiệm báo Sinh Hoạt Văn Nghệ (tiền thân của Văn Nghệ Quân Đội). Về dân sự, Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang trách nhiệm tờ Văn Nghệ. Hoàng Cầm và Đặng Đ́nh Hưng điều khiển toàn bộ Văn công quân đội và dân sự. Từ tháng 1/1956, Hoàng Cầm nắm nhà xuất bản Văn Nghệ, v́ vậy mà một số tác phẩm không chính thống đă được in trong những năm 1956 -1958.

    Hoàng Cầm sinh ngày 22/2/1922, tại làng Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; nguyên quán làng Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh; mất ngày 6/5/2010 tại Hà Nội. Tên thật là Bùi Tằng Việt (chữ ghép của Phúc Tằng và Việt Yên). Cha: Bùi Văn Nguyên, dạy học và làm thuốc, có thời đă theo Quốc Dân Đảng, là bạn của Xứ Nhu, tức Nguyễn Khắc Nhu. Mẹ: Nguyễn Thị Duật, bán hàng xén. Bút danh khác: Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi... Học tiểu học ở Bắc Giang. 1937, đỗ Cao đẳng tiểu học ở Bắc Ninh. 1938, ra Hà Nội học trường Thăng Long; 1940, đỗ tú tài.

    Làm thơ từ 8 tuổi. Những bài thơ đầu tiên được đăng trên báo Bắc Hà, năm 1936, kư tên Bùi Hoài Việt, có truyện ngắn đăng trên báo Đông Pháp.
    Tác phẩm thành danh Hoàng Cầm là kịch thơ Hận Nam Quan viết năm 1937, ở tuổi 15, lúc c̣n học đệ tứ ở Bắc Ninh (in năm 1942). Hận Nam Quan được dậy trong vùng quốc gia trước 1954.

    1938, đỗ Diplôme (Cao đẳng tiểu học) ở Bắc Ninh. Lên Hà Nội học trường Thăng Long và bắt đầu nghề văn. 16 tuổi, vừa học vừa làm cho nhà xuất bản Tân Dân và tạp chí Tiểu Thuyết Thứ Bẩy của Vũ Đ́nh Long. Sáng tác nhiều truyện ngắn dưới bút hiệu Hoàng Cầm. Nổi tiếng với Hận ngày xanh - phóng tác Graziella của Lamartine và những truyện rút trong Ngàn lẻ một đêm. Năm 1940, đỗ Tú Tài, tiếp tục sáng tác và làm việc với Vũ Đ́nh Long từ 40 đến 44.

    1940, cưới người vợ đầu Hoàng Thị Hoàn.

    1942 viết kịch thơ Kiều Loan.

    Cuối 1944, v́ t́nh h́nh chiến sự, Mỹ ném bom chợ Hàng Da, nhà xuất bản Tân Dân phải dọn về làng Tám ở ngoại thành. Hoàng Cầm trở về Bắc Giang đưa gia đ́nh về quê Thuận Thành.

    Tháng 9/1945, Hoàng Cầm cùng Hoàng Tích Chù lập ban kịch Đông Phương. Ngày 26/11/46, Kiều Loan được tŕnh diễn lần đầu tại nhà Hát Lớn Hà Nội. Buổi duy nhất, rồi bị Trần Duy Hưng, Chủ tịch Ủy ban Giải phóng Hà Nội ra lệnh cấm, lư do: Pháp đă tấn công Hải Pḥng. Ban Kịch Đông Phương đem Kiều Loan đi lưu diễn ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái B́nh... tại các đ́nh làng.

    Ngày 19/12/46, chiến tranh bùng nổ, ban kịch Đông Phương phải giải tán. 1947-1948: Hoàng Cầm và Tuyết Khanh (diễn viên chính, đóng vai Kiều Loan) sống chung, giữa 1947, hai người cùng gia nhập Vệ Quốc Đoàn. Hoàng Cầm sáng tác Đêm liên hoan. Thành lập Đội văn nghệ tuyên truyền đầu tiên trong quân đội. Điều khiển và phát triển đoàn Văn Nghệ Liên Khu Việt Bắc từ 1948 đến 1952. 1948, sáng tác Bên kia sông Đuống.

    Tháng 7-8/1950, Đại Hội Văn Nghệ I họp tại Việt Bắc, quyết định loại trừ: tuồng, chèo, vọng cổ, và kịch thơ ... ra khỏi nền văn nghệ cách mạng. Hoàng Cầm phải tuyên bố "treo cổ" kịch thơ của ḿnh. Việc này sẽ được ông phản bác trong băng ghi âm - chúng tôi sẽ nói đến sau.

    Tháng 7/1952, tướng Nguyễn Chí Thanh điều động Hoàng Cầm về làm đoàn trưởng đoàn Văn Công Tổng Cục Chính Trị đến đầu năm 1955.

    1954, Hoàng Cầm, được cử tổ chức buổi Liên hoan mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, đưa vào màn quan họ Bắc Ninh "Yêu nhau cởi áo cho nhau", và bị "đả đảo!" "đồi trụy!". Tướng Nguyễn Chí Thanh can thiệp để đoàn văn công tiếp tục tŕnh diễn hết màn quan họ.

    10/10/54 Hoàng Cầm và đoàn văn công Tổng Cục Chính Trị về tiếp quản Hà Nội.

    1/1/1955, Văn công quân đội chia làm ba đoàn, Hoàng Cầm điều khiển đoàn 1, chuyên về kịch nói, trong thời gian này, ông tham dự việc đ̣i cải tổ chính sách văn nghệ quân đội cùng Trần Dần, Tử Phác, Lê Đạt... và phê b́nh tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.

    Tháng 4/1955, nộp đơn xin giải ngũ hoặc đổi sang Hội Văn Nghệ, v́ bị Cục phó Cục Tổ Chức, thuộc Tổng Cục Chính Trị, buộc phải bỏ bà Lê Hoàng Yến.

    Tháng 11/1955, được đổi ngành sang Hội Văn Nghệ, trách nhiệm nhà xuất bản Văn Nghệ.

    Tháng 2/1956, cùng Lê Đạt chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân. Tháng 9/1956, cùng Nguyễn Hữu Đang chủ trương Nhân Văn.

    Tháng 6-7/1958, chịu kỷ luật cùng với Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đ́nh Hưng... tuy nhẹ hơn, chỉ bị một năm khai trừ khỏi Hội Nhà Văn, như Phùng Quán.

    1982, bị bắt, tù 18 tháng v́ tác phẩm Về Kinh Bắc.

    1988, được "phục hồi".

    Trong các bài đánh Hoàng Cầm, người ta thường dùng hai chữ "đồi trụy", nhắm vào đời tư: Hoàng Cầm nghiện thuốc phiện -như Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Tử Phác- và có nhiều vợ. Người vợ đầu, Hoàng Thị Hoàn, là em gái ông Hoàng Hữu Nghị, hiệu trưởng trường La Clarté ở Bắc Giang, cưới năm 1940, sinh con trai đầu ḷng Bùi Hoàng Kỳ, và hai con gái Bùi Hoàng Yến -kịch sĩ, Hoàng Cầm nghi bị đầu độc chết- và Bùi Hoàng Oanh, chết đói cùng mẹ năm 1949.

    Bà Tuyết Khanh sống chung từ đầu 1947, đến tháng 1/48, sinh con gái, tên là Kiều Loan, nhưng hai người phải xa nhau. Sau đó ông sống với bà Xuyến, cô hàng xén chợ Hạnh. Từ tháng 5/1955 Hoàng Cầm sống với bà Lê Hoàng Yến, cựu hoa khôi Hà Thành, đă có 6 con riêng, ông có với bà Yến hai người con. Ông ly dị bà Xuyến khoảng 1956. Năm 1985, bà Lê Hoàng Yến đột ngột từ trần v́ bị căng huyết áp trong lúc Hoàng Cầm -sau khi bị bắt, bị tù v́ tác phẩm Về Kinh Bắc- bị bệnh tâm thần.


    Còn tiếp ...

  5. #2345
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    ● Tác phẩm:

    - Kịch thơ: Hận Nam Quan, viết 1937, Người Bốn Phương, 1942; Kiều Loan, viết 1942, diễn 1946, Văn Học, 1992; Lên đường, Tân Dân, 1952; Cô gái nước Tần, Tân Dân, 1952; Trương Chi, chưa xuất bản, trích trên Văn số 24, ngày 18/10/57, và Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí.

    - Truyện: Thoi mộng, Tân Dân, 1940; Hai lần chết, Tân Dân, 1941.

    - Kịch: Ông cụ Liêu, viết 1950, in 1951; Đêm Lào Cai, in 1957.

    - Thơ: Mắt thiên thu, viết 1941, mất bản thảo; Bên kia sông Đuống, viết 1948, Văn Hoá, 1993; Tiếng hát quan họ, in chung trong tập Cửa biển, 1956; Về Kinh Bắc, viết 1959, Văn Học, 1994; Mưa Thuận Thành, Văn Hoá, 1987; Lá diêu bông, viết 1970, Hội Nhà Văn, 1993; Men đá vàng, truyện thơ, viết 1973, Trẻ, 1989; Về cơi em, viết 1992, chưa in.

    - Dịch, phóng tác: Hận ngày xanh, phóng tác Graziella của Lamartine, Tân Dân, 1940; Bông sen trắng, truyện thần thoại của Anderson, Tân Dân, 1941; Những truyện thần thoại rút từ Ngh́n lẻ một đêm: Mang xuống tuyền đài, Tân Dân, 1942; Cây đèn thần, Tân Dân, 1942; Tỉnh giấc mơ vua, Tân Dân, 1942; Những niềm tin, dịch thơ Boualem Khanfa, Algérie, 1965; Mối t́nh cuối cùng, dịch Dostoievski, Phụ Nữ, 1988, ...

    - Trong Hoàng Cầm hồn thơ độc đáo, Đông Tây, 2011, Lại Nguyên Ân t́m được: Người điên, kịch thơ một màn, 1946; Quê hương, thơ, Văn Nghệ, 1955; Mẹ tôi kể lại, truyện thơ, Văn Nghệ, 1955; Hoa đào nở trước ngơ, truyện thơ, Văn Nghệ, 1956.




    ● Địa vị Hoàng Cầm trong văn học

    Trong ba nhà thơ tác nhân chính của phong trào NVGP, Trần Dần và Lê Đạt là đàn em. Hoàng Cầm thuộc thế hệ đàn anh, cùng thời với Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng.

    Nét khác biệt giữa ba nhà thơ nằm trong chữ nghiă, ví dụ cùng bối cảnh sông nước:

    Thuyền đi núi cũng phiêu bồng

    Đáy sông lẩn sắc cầu vồng trao nghiêng...

    Sông sâu chớp mắt thần linh

    Thuyền qua thạch động thấy ḿnh cao bay

    Thơ Đinh Hùng - Thủy mạc

    Thuyền ơi! Tóc chảy đêm vàng

    Giai nhân sóng soải hai hàng chiêm bao

    Chồng tôi phóng ngựa phương nào

    Mà dây vó sắt dẫm vào tuổi thơ

    Thơ Hoàng Cầm- Kiều Loan

    Trăng liềm một mảnh lâng lâng bạc

    Nghiêng xuống cành dương lá lá rơi

    Nhịp theo tiếng trúc cao vời

    Đất quay ngược hướng mơ trời Thuấn Nghiêu

    Thơ Vũ Hoàng Chương

    Tâm sự kẻ sang Tần

    Thơ Đinh Hùng thanh thoát, nối kết âm-dương, trời đất-thủy thần. Đinh Hùng là nhà thơ của nước, của cơi âm. Thơ Hoàng Cầm diễm lệ, bi đát, hùng tráng hoà với đau thương, khổ đau tan trong mộng ước. Hoàng Cầm là nhà thơ của con người. Thơ Vũ Hoàng Chương điêu luyện, cao lộng, ẩn chí lớn tầm vóc càn khôn, Vũ Hoàng Chương là nhà thơ của vũ trụ.


    Còn tiếp ...

  6. #2346
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    Ba tài năng lớn của thi ca Việt Nam thế kỷ XX. Ba phận số. Phải chăng thơ luôn luôn vận vào người, nên trong ba nhà thơ, chỉ ḿnh Hoàng Cầm mắc nạn chữ suốt đời. Vũ Hoàng Chương, trong Nhớ Đinh Hùng có nhắc đến Dạ Đài:

    "Hùng đứng làm cố vấn cho một nhóm thi hữu trẻ tuổi hơn trong đó có Vũ Hoàng Địch, Trần Dzần, Trần Mai Châu để xuất bản một giai phẩm lấy tên Dạ đài. Quả là cái tên "tiền định"[2].

    Khi Đinh Hùng mất, 24/8/1967, Vũ Hoàng Chương làm câu đối đặt trước áo quan:

    Hồn sáu đường mê t́m Phật độ

    T́nh muôn trang sử mặc Trời ngâm


    Và trong bài ai điếu trước mộ, câu:

    Mênh mang một tiếng cười dài

    Hồn lay bốn vách dạ đài cho tan!

    Vũ Hoàng Chương tổng kết đời Đinh Hùng từ Dạ đài đến Mê hồn ca, Đường vào t́nh sử ... trong bốn câu thơ hàm súc, gợi buổi giao thời giữa thơ mới và thơ tượng trưng thập niên 1940 mà Hoàng Cầm, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, là những đại diện.

    Tố Hữu làm thơ từ 1937, nhưng thập niên 40, chưa nổi tiếng. 1946, mới in tập Thơ[3]. Theo Hoàng Cầm trong băng ghi âm, trước kháng chiến, Tố Hữu đă có thơ đăng báo nhưng chưa ai biết Tố Hữu là ai, riêng ông để ư đến bài Hồ Chí Minh v́ nó có những câu thơ "khát máu" quá đáng. Tựu trung, Tố Hữu đáp ứng yêu cầu thơ tuyên truyền, thơ đánh địch, thơ ca tụng lănh tụ, theo đúng đường lối của Đảng mà Trường Chinh đă vạch trong Đề cương văn hoá Việt Nam (1943) và Chủ nghiă Mác và văn hoá Việt Nam (1948).

    Tập Việt Bắc, in năm 1954, xác định Tố Hữu là nhà thơ hàng đầu của Đảng. Sau khi dẹp xong NVGP, uy thế Tố Hữu càng lừng lẫy, thơ ông trở thành kinh điển trong văn chương cách mạng sau thơ Hồ Chí Minh. Trong số những người viết về Tố Hữu, Đặng Thai Mai có nhận định xác đáng hơn cả:

    - "Tố Hữu là nhà thơ chỉ viết để phục vụ cách mạng từ trước đến sau".

    - "T́nh cảm trong thơ Tố Hữu là t́nh cảm của một chiến sĩ cộng sản, luôn luôn đứng trên lập trường của Đảng mà tranh đấu, suy nghĩ, cảm xúc".

    - "Tưởng không cần nhắc lại một lần nữa rằng, trong các yếu tố đă xây dựng nên cái đặc sắc của thi sĩ, như trên kia đă nói, th́ chính là hoạt động cách mạng theo đường lối của Đảng. Không có cái nội dung cách mạng đó, không có lập trường tư tưởng đó, th́ cũng không có thơ Tố Hữu"[4]

    Đó là vị trí của Tố Hữu trong văn học.

    Trong kháng chiến, Hoàng Cầm, Văn Cao, Phạm Duy, là ba nghệ sĩ có những đóng góp lớn. Ngoài sáng tác, Hoàng Cầm-Phạm Duy c̣n tŕnh diễn khắp chiến trường Việt Bắc, xây dựng tinh thần kháng chiến quân. Giọng ngâm "oanh vàng đất Bắc" của Hoàng Cầm, xung động tinh thần tự hào của người lính Vệ quốc: "Rằng ta là Vệ Quốc Đoàn". Tiếng hát Phạm Duy giục giă thanh niên "cùng nhau xông pha lên đường" bảo vệ tổ quốc.

    Hoàng Cầm ghi: "Từ sau cách mạng tháng Tám, Văn Cao với tôi và Phạm Duy đă trở thành bạn thân, lúc nào, ngày nào cũng có nhau, biểu diễn, sáng tác đều có nhau, thậm chí đi nghe hát ca trù (ả đào) hoặc đi uống rượu, đi cà phê sớm tối đều có nhau, khiến rất nhiều văn nghệ sĩ lúc bấy giờ đă gọi ba đứa chúng tôi là: "Bộ ba bất khả li” (Les trois inséparables). Vậy th́ Văn Cao phải có mặt trong tập Giai Phẩm [Mùa Xuân] này chứ?"[5]


    Còn tiếp ...

  7. #2347
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    Cho kháng chiến, Hoàng Cầm đă góp hai lần xương máu: máu xương văn nghệ trong 9 năm sáng tác, tŕnh diễn. Và xương máu gia đ́nh: một vợ, Hoàng Thị Hoàn và một con, Bùi Hoàng Oanh, chết đói, 1949. Một em trai, Bùi Như Yên, chết trận, 1952.

    Công lao Hoàng Cầm đối với văn học và kháng chiến giải thích một số vấn đề cụ thể:

    - Hoàng Cầm có đủ tư thế văn nghệ để mời Văn Cao, Phan Khôi tham gia NVGP.

    - Hoàng Cầm là người Nguyễn Hữu Đang thuyết phục giúp Nhân Văn trước tiên.

    - Hoàng Cầm có đủ uy tín cách mạng để đương đầu với Tố Hữu, bênh vực Trần Dần.

    - Khi bị thanh trừng, Hoàng Cầm đă viết Về Kinh Bắc từ 1959, gián tiếp kết tội Đảng.

    - 1982, Hoàng Cầm lại bị bắt, chính quyền tịch thu bản thảo Về Kinh Bắc.

    Cuộc đời Hoàng Cầm gắn bó với lịch sử, không chỉ lịch sử kháng chiến, lịch sử NVGP, mà lịch sử dân tộc. Từ tác phẩm đầu tay Hận Nam Quan, Hoàng Cầm đă xác định con đường dân tộc: phải đề pḥng phương Bắc, phải ghi nhớ Hận Nam Quan.


    ● Hận Nam Quan


    Phi Khanh bị bắt sang Tàu, Nguyễn Trăi bí mật theo cũi cha, để cùng chết. Tới Nam Quan, Phi Khanh bắt con phải trở về, t́m đường khởi nghiă. Kịch thơ Hận Nam Quan, trước 1954, đă được giảng dạy trong vùng quốc gia, học sinh thuộc ḷng những đoạn thơ:

    - Con yêu quư! Chớ xuôi ḷng mềm yếu

    Gác t́nh riêng, vỗ cánh trở về Nam!

    Con về đi! Tận trung là tận hiếu

    Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang

    (...)

    - Ôi sung sướng, trời sao chưa nỡ tắt

    Về ngay đi ghi nhớ Hận Nam Quan

    Bên Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt

    Cha nguyện cầu con lấy lại giang san.


    Đó là trích đoạn bài học thuộc ḷng thời tiểu học, nhưng toàn thể kịch thơ là một tác phẩm "cổ điển" của học sinh trung học. Trong những đêm văn nghệ Tết, học sinh miền Nam thường có màn tŕnh diễn Hận Nam Quan. Hoàng Cầm đi vào ḷng dân tộc như thế.

    Hoàng Cầm 15 tuổi, nhưng thơ không hề non nớt, đă có những câu "tiên tri":

    Đây là ải địa đầu nước Việt

    Khóc trong ḷng ghi nhớ Hận Nam Quan


    15 tuổi, nhắc lại trang sử oanh liệt:

    Đây Nam Quan, quân Nguyên rời biển máu

    Thoát rừng xương, tơi tả kéo nhau về


    15 tuổi, đe dọa quân Minh:

    Hỡi quân Minh! Sao không nh́n lịch sử

    Mà vội vàng ngạo nghễ xuống Nam phương?


    15 tuổi, xác định ḷng quật khởi của dân tộc:

    Một ngày mai, khi Trăi này khởi nghiă,

    Kéo cờ lên, phất phới linh hồn cha

    Gạt nước mắt, nguyện cầu cùng thiên địa

    Một ngày mai, con lấy lại sơn hà.


    Nhưng bọn bán nước cầu vinh nào có nghe. Đó là bi kịch Hoàng Cầm và bi kịch chung của dân tộc.

  8. #2348
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    ● Hoàng Cầm - Tuyết Khanh - Vũ Hoàng Chương

    Tháng 9/1945, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Chù, Hoàng Tích Linh[6], Kim Lân, Trần Hoạt lập ban kịch Đông Phương. Hoàng Tích Chù làm trưởng ban. Đông Phương thường lưu diễn ở các tỉnh gần Hà Nội. Vũ Hoàng Chương kể lại chuyện một người bạn rủ Hoàng (Chương) đi xem kịch: "Hoàng ạ, ban kịch Đông Phương của bọn Hoàng Tích Chù lực lượng có vẻ khá lắm (...) Tin đích xác đây này: Tối mai ban kịch Đông Phương tŕnh diễn tại Thái B́nh, và diễn liền mấy tối sau nữa. Ngay tỉnh lỵ, Hoàng có đi với tôi sang bên đó không nào? (...) Đối với họ Phan, người ta c̣n khách sáo ít nhiều; chứ đối với Hoàng th́, toàn ban đều thân mật, coi như "cố nhân". Có lẽ bởi họa sĩ Hoàng Tích Chù -em ruột Hoàng Tích Chu- là chỗ thế nghị của Hoàng chăng? Hay bởi tác giả quan trọng của ban kịch là thi sĩ Hoàng Cầm, chỗ thanh khí của Hoàng, từng đă gặp nhau ở xóm Niềm bên Kinh Bắc?[7]

    Vũ Hoàng Chương vừa muốn "khoe" ban kịch Đông Phương coi ḿnh là "cố nhân" mà cũng kín đáo kính trọng Hoàng Cầm như một bậc tài tử. Thời điểm ấy, mục đích Hoàng Cầm là dựng Kiều Loan nhưng t́m gần một năm, vẫn chưa "thấy" Kiều Loan. Đến tháng 8/46, t́m được Tuyết Khanh, bắt đầu dựng Kiều Loan, do Hoàng Tích Linh đạo diễn; Tuyết Khanh trong vai Kiều Loan; Hoàng Cầm vai Hiệu Úy ...
    Về những buổi tập dượt Kiều Loan, Hoàng Cầm kể lại: "... Nguyễn Huy Tưởng, hầu như không buổi tập nào là vắng mặt anh (...) Cả nhà thơ Vũ Hoàng Chương không biết v́ quá mê nàng Kiều Loan của vở kịch hay mê người sắm vai Kiều Loan mà từ ngày đầu đọc vở, anh đă trở nên một khán giả quá siêng năng cả đến khi Kiều Loan phải "tản cư" đi diễn ở mấy làng trong tỉnh Bắc Ninh. Ngày nào anh cũng đến từ sớm, có khi nán lại dùng cơm trưa với diễn viên tại nhà anh Chù. C̣n hai anh Lưu Quang Thuận[8] Trúc Đường[9] là hai kịch tác gia mấy lần đến xem tập và phỏng vấn (...) và chuẩn bị ấn hành trọn vẹn kịch thơ Kiều Loan ngay trong năm 1946"[10].

    Hoàng Cầm đáp lại Hoàng Chương bằng sự tương kính. Những tài năng lớn thường kính trọng nhau ngay từ buổi đầu. Nhưng rồi có chuyện ngang trái xẩy ra: hai nhân tài cùng yêu một người đẹp. Vũ Hoàng Chương lúc đó đă có vợ là Đinh Thục Oanh, chị ruột Đinh Hùng, từ 1944, và Hoàng Cầm cũng đă có vợ là Hoàng Thị Hoàn và ba con, tại quê nhà. Vũ Hoàng Chương kể tiếp câu chuyện t́nh lạ lùng, đă khai sinh những câu thơ nổi tiếng với chữ Khanh đầy bí mật, và cũng là lịch sử một đoạn đời kháng chiến:

    "Tối hôm đó diễn vở kịch thơ Lên Đường của Hoàng Cầm. Chỉ có 4 vai - đều vai chính cả!- Nhưng điều đáng nói là một trong bốn vai ấy đă do Tuyết Khanh đóng. "Người đẹp" này, Hoàng đă từng chiêm ngưỡng trên màn bạc rồi -Phim Cánh đồng ma của ông bạn Đàm Quang Thiện[11] và cũng chẳng thấy ǵ đáng mê lắm. (...) Thế mà -ai học đến chữ ngờ!- cơn mê đă bắt đầu chiếm đoạt Hoàng trọn vẹn, cách hai tuần sau, để kéo dài măi, đến giờ phút này cũng chưa hẳn nhoà tan đấy (...)

    "Nửa đời sương gió ngang tàng lắm

    Mềm, chỉ v́ Khanh, một trái tim..."

    Ôi, chỉ v́ Khanh! V́ Khanh! Chắc chắn Khanh ngạc nhiên. Mà chính Hoàng lại đă ngạc nhiên trước hết. Ngạc nhiên gấp hai lần Khanh, gấp bốn lần Hoàng Cầm. Và gấp cả một trăm lần thiên hạ (...) Và h́nh như sau chuyến lưu diễn Thái B́nh, mọi người đang sửa soạn tập vở Kiều Loan của thi sĩ Hoàng Cầm th́ phải. (...) Thật ra, Khanh c̣n đang bận tập Kiều Loan, Hoàng cũng đang bận viết bài cho Thế sự, chẳng ai muốn mua dây tự buộc ḿnh. Chỉ cốt hợp thức hoá mỗi liên hệ của Hoàng và Khanh thôi. Đừng để ai phá đám.
    Thí dụ nhà thơ Hoàng Cầm (...) Khăng khít như vậy mà rồi sau đêm mười chín tháng mười hai Dương lịch[12] Khanh và Hoàng khởi sự lạc nhau. Lạc thôi chứ chưa mất. Hoàng trên bước tản cư phiêu lưu tới phủ Xuân Trường, ḷng nhớ Khanh càng nổi dậy. Chẳng biết con người bạc mệnh kia đă phải trải qua những nhịp cầu đoạn trường nào thêm? Hiện nay ở đâu: Hưng Yên, Phủ Lạng Thương hay Bắc Kạn?...

    Khanh của Hoàng ơi, lửa bốn phương

    Khói lên ngùn ngụt chén tha hương,

    Nghe vang sóng rượu niềm ly tán

    Chạnh xót ṇi thơ buổi nhiễu nhương" (...)

    Một đêm trăng, Thứ Lang[13] dẫn Khanh từ Đống Năm[14] vào, cùng với Kiều Liên[15]. Mới tạm xa nhau chưa đến hai mươi tháng mà khi tái ngộ nh́n nhau cứ ngơ ngáo như trong mộng ấy thôi !

    Khanh đă về trong lửa Túy hương

    Khoé thu lộng gió tóc cài sương (...)

    Qua năm 1949, Hoàng dời chỗ ở sang làng Duyên Tục (thường gọi là làng Tuộc), rồi lại chuyển tới huyện Đông Quan (làng Trầu). Nhưng cách Đống Năm vẫn không xa. Và như vậy, Khanh vẫn gần Hoàng. V́ Khanh đă ly khai hẳn với ban kịch Đông phương, không theo họ đi lang thang lưu diễn vùng Bắc nữa, mà về ở Thái B́nh, sống đơn chiếc như một ẩn sĩ thời loạn (...) Đầu năm 1950, Hoàng trở về Hà Nội, giữa khi súng đạn tràn tới Liên khu ba, Đống Năm bị phá nát, chẳng hiểu Khanh trôi dạt nơi nào[16]".

    Tuyết Khanh và Hoàng Cầm rời Hà Nội sau ngày toàn quốc kháng chiến; giữa 1947, hai người gia nhập Vệ Quốc Đoàn chiến khu 12, Hoàng Cầm thành lập Đội văn công tuyên truyền đầu tiên trong quân đội cùng với Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm, Văn Chung... Giữa đường gặp Phạm Duy, Ngọc Bích, cùng nhập bọn. Tuyết Khanh có mang 6 tháng, phải ở lại "an dưỡng trong một quân y viện ở huyện Hữu Lũng".

    Hoàng Cầm, Phạm Duy tiếp tục đi lưu diễn ở Việt Bắc. Đầu năm 1948, Tuyết Khanh sinh con gái là Kiều Loan, nhưng hai người mất liên lạc. Tuyết Khanh về Thái B́nh rồi hồi cư về Hà Nội. 1950, Vũ Hoàng Chương về Hà Nội gặp lại Tuyết Khanh. 1952, Ban kịch Sông Hồng diễn Thằng cuội của Vũ Hoàng Chương, Hoàng mời Khanh đóng vai Hằng Nga nhưng nàng từ chối. "Từ đó, Hoàng với Khanh chẳng c̣n sánh vai nhau trong ảo mộng sân khấu một lần nào nữa. Hoàng cũng chẳng c̣n đủ hào hứng để viết thêm một vở kịch thơ nào"[17].

    Thời ấy, Vũ Hoàng Chương đă nổi tiếng với Thơ say (1940), Mây (1943) và kịch thơ Trương Chi (1944) gồm ba vở: Trương Chi, Vân Muội và Hồng Điệp. Trương Chi hay hơn cả, nhưng chưa thể sánh với Kiều Loan của Hoàng Cầm. Hoàng Chương nể Hoàng Cầm v́ lẽ đó. Đến 1951, Vũ Hoàng Chương mới viết kịch thơ Tâm sự kẻ sang Tần[18]. Nếu không có Kiều Loan, chưa chắc đă có Tâm sự kẻ sang Tần, đó là hai tác phẩm lớn của thi ca Việt Nam.

    V́ Tuyết Khanh mà Hoàng Chương bỏ kịch thơ.

    V́ cách mạng, mà Hoàng Cầm phải treo cổ kịch thơ.

    Hai thi tài. Hai mệnh số. Hai quyết định bi đát.



    Còn tiếp ...

  9. #2349
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    ● Kiều Loan

    Thân phận Kiều Loan lênh đênh như toàn bộ tác phẩm của Hoàng Cầm. Khởi thảo cuối xuân 1942 đến giữa 1943, đă tạm xong, Hoàng Cầm định đưa lên sân khấu Bắc Giang, nhưng bị viên chánh công sứ Pháp, thạo tiếng Việt, kiểm duyệt bỏ. Đến cuối 1943, ban kịch Hà Nội của Chu Ngọc định dàn dựng, cũng bị kiểm duyệt Pháp chặn.
    Luyện tập trong bốn tháng. Tŕnh diễn trong bốn giờ. Sáng 26/11/1946, tại nhà Hát Lớn Hà Nội. Một buổi duy nhất, rồi bị Trần Duy Hưng ra lệnh đ́nh chỉ. Đó là quyết định sai lầm đầu tiên của cách mạng về Kiều Loan.

    Hoàng Cầm kể: "Chúng tôi vừa hạ màn chót cho vở diễn lúc 1 giờ 15 phút. Sau những tràng vỗ tay kéo dài th́ ông Trần Duy Hưng, Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng thành phố Hà Nội cho người ra mời anh Chù, anh Linh và tôi lên trụ sở Ủy ban. Ông ra lệnh cho chúng tôi phải hoăn những đêm diễn đă được Ủy ban cho phép. Lư do: quân đội Pháp đă đánh Hải Pḥng và càng ngày càng khiêu khích trắng trợn Hà Nội. (...) Thế là số phận vở kịch lại lênh đênh. Tôi ngậm ngùi se sẽ ngâm câu Kiều:
    Phận bèo bao quản nước sa
    Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh..."[19]

    Lần thứ nh́, 1948, Hoàng Cầm định tŕnh diễn Kiều Loan trong ngày khai mạc Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc[20]:

    "Tôi đưa đơn đến tận tay anh Nguyễn Đ́nh Thi, lúc đó đang là Tổng thư kư Hội Văn hoá cứu quốc, đơn kèm theo kịch Kiều Loan. Rồi tôi hồi hộp chờ đợi (...)

    Không khí cuộc gặp mặt bỗng trở nên nghiêm trang và lời mở đầu câu chuyện của anh Thi lại càng làm cho nó thêm lạnh nhạt, căng thẳng:

    - Tôi đă nhận được vở kịch của anh. Cả lá đơn nữa. Anh Nguyễn Huy Tưởng và anh Nguyên Hồng đă giới thiệu Kiều Loan với tôi. Tôi cũng đă đọc qua (...)

    - Rằng hay th́ thật là hay!

    Hai tiếng cuối câu đay xuống, tôi nghe như có vẻ vừa giễu cợt vừa hững hờ. Và anh Thi cũng chỉ nói có thế. Không hơn nửa lời. Rồi anh thu dọn sổ sách, như có ư bảo tôi "Về đi!". Cũng để cho anh lính mới làng văn biết rằng mỗi giờ mỗi phút với anh Thi là vàng ngọc đấy!"[21].

    Cũng Nguyễn Đ́nh Thi này, năm 1956, sẽ nài nỉ Hoàng Cầm, lúc đó trách nhiệm nhà xuất bản Văn Nghệ, in giùm tập thơ không vần sửa thành có vần theo lệnh Tố Hữu.

    Sau lần tŕnh diễn duy nhất tại Hà Nội ngày 26/11/46, Kiều Loan bị đ́nh chỉ. Hoàng Cầm cùng ban kịch rời Hà Nội, đi lưu diễn ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái B́nh, đem Kiều Loan diễn ở các đ́nh làng vùng Bắc Ninh, được gần một tháng.
    Ngày 19/12/46 chiến tranh bùng nổ, ban kịch Đông Phương phải giải tán. Kịch bản Kiều Loan, bị thất lạc trong những năm kháng chiến. Bản chính do Lưu Quang Thuận giữ, khi Pháp nhẩy dù Bắc Cạn, bản thảo của các văn nghệ sĩ phải ném xuống hồ Ba Bể, trong đó có Kiều Loan.

    Măi đến 1970, nhờ một số bạn cũ c̣n giữ được bản đánh máy, Hoàng Cầm kết hợp, "trùng tu" lại bản thảo 1946. 1992, Kiều Loan được xuất bản sau khi sáng tác 50 năm.
    Kiều Loan chính là hoá thân của Hoàng Cầm. Những nghệ sĩ lớn thường tạo những t́nh huống có tính cách tiên tri. Sáng tác năm 1942, lúc Hoàng Cầm 20 tuổi và đă nổi tiếng. Trước một "tương lai sáng lạn" như thế, tại sao người thanh niên ấy lại nghĩ đến một nhân vật bi thảm như Kiều Loan? Rồi Kiều Loan sẽ "vận" vào số phận Hoàng Cầm như một thực tại đớn đau mà người nghệ sĩ không thoát khỏi, trong cuộc đổi đời của đất nước. Kiều Loan trong thời Pháp thuộc và dưới thời cách mạng, đều bị cấm, không v́ t́nh cờ, mà v́ nội dung tác phẩm:

    Kiều Loan, con gái một cựu thần Tây Sơn, đi t́m chồng Vũ Văn Giỏi. Mười năm trước, theo lời Kiều Loan, Vũ lên đường giúp Quang Toản sau khi Quang Trung băng hà. Tới Phượng Hoàng Trung Đô, nghe tin Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền, Vũ ngả theo Nguyễn Ánh, trở thành Vũ tướng quân, bạo tàn càn quét những người dân chống lại nhà Nguyễn.
    Kiều Loan giả điên đến Phú Xuân, tại đây, nàng gặp ông già, thầy cũ của Vũ. Kiều Loan làm huyên náo cửa thành, cố t́nh bị bắt vào dinh, để nh́n lại người xưa. Kiều Loan và ông thày cũ bị giam trong ngục. Kiều Loan uống thuốc độc tự vận cùng với ông già. Trước khi chết, nàng chém người chồng phản bội.

    Kiều Loan, một bi hùng ca bao quát lịch sử dân tộc, dơi vào những mốc chính: Nam Bắc phân tranh. Nguyễn Ánh cầu viện Pháp để diệt Tây Sơn. Gia Long thắng trận trở thành độc tài chuyên chế, tiêu diệt những khuynh hướng đối lập.

    Một nội dung như vậy, tất nhiên, không chỉ thực dân Pháp căm giận:

    "V́ chính sự bạo tàn Ôi! Nước mắt

    Bao nhiêu lần rỏ xuống những hồn oan?

    Chính sự ǵ đi cầu viện ngoại bang

    Về tàn sát những người dân vô tội"



    Mà tất cả những kẻ cầu viện nước ngoài để vững quyền chấp chính cũng phải hổ ḿnh. Một triều đ́nh vừa "thống nhất sơn hà", nhưng lệnh đầu phát ra là lệnh cấm:

    ... Vua cấm đèn cấm lửa

    Cấm dân gian đi lại ở kinh thành

    Lệnh thứ nh́ là cấm hát:

    Vua có lệnh bắt những người hát nhảm

    Đầu sẽ bêu sương gió nếp hoàng thành



    Nhưng Kiều Loan, giai nhân tuyệt sắc, nào có sợ ǵ, nàng xuất hiện như một người điên, nàng cứ hát những lời phản biện:

    Chị buồn chị hát vang lừng

    Cỏ cây sa lệ núi rừng ngẩn ngơ



    Kiều Loan là vở kịch thơ hay nhất của Hoàng Cầm và thời tiền chiến. Phải mười năm sau, Tâm sự kẻ sang Tần với bút pháp bay bổng của Vũ Hoàng Chương mới có thể kế vị.
    Kiều Loan nói lên chí khí bất khuất của Hoàng Cầm trong thi ca, tiên tri định mệnh đất nước:

    - Về cuộc Cải Cách Ruộng Đất:

    Thà giết oan trăm mạng lương dân

    Hơn để thoát một tên phản nghịch

    - Về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm:

    Mà trước mắt, cuộc xoay vần thời thế

    Gạt ra ngoài hầu hết bậc tài danh

    Bọn hủ nho nhan nhản khắp triều đ́nh

    Nơi tù ngục chất đầy người nghiă khí

    Gỗ mục, thép cùn múa tay trong bị

    Lau sậy nghêng ngang làm cột trụ giang sơn

    - Về cảnh chiến tranh cốt nhục tương tàn:

    Một nước nhỏ mà phân chia Nam Bắc

    Xâu xé nhau v́ hai chữ lợi danh

    Tam vương, ngũ đế, cướp đất phá thành

    Mấy trăm năm nghe dân t́nh xao xao xác

    Thay cái đạo làm người bằng giáo mác

    Yến ẩm lầu cao... xương máu chan ḥa

    - Về ảo mộng chiến thắng:

    Cờ nêu cao chiến thắng nhuốm chiêu dương

    Mà rút lại cũng chỉ là giấc mộng.


    Kiều Loan có những câu thơ lạnh người:

    Chí lớn từ xưa chôn chật đất
    Riêng đàn đom đóm lại thênh thang.

    Bọn "đom đóm", Hoàng Cầm đă thấy từ tuổi hai mươi, sau này sẽ sẽ ngập trời đất Bắc. Các "chí lớn" trong NVGP, và sau NVGP, đă và hiện c̣n đang bị chôn vùi trong ngục tối. Nhưng nhà thơ luôn luôn có lời chót:

    Làm mất nhân tâm th́ miếu lớn tượng to

    Dân đạp dí xuống bùn là hết chuyện.



    Còn tiếp ...

  10. #2350
    Tran Truong
    Khách

    Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 12

    ● Hoàng Cầm - Phạm Duy, Việt Bắc 1947-1948

    1947-1948, giai đoạn khởi đầu, và cũng là giai đoạn quyết định số phận cuộc kháng chiến. Ở thời điểm này, đảng Cộng sản chưa thực sự ra mặt, chính sách Mác-Lê-Mao chưa chính thức công bố, toàn thể văn nghệ sĩ tương đối được tự do, họ tin tưởng vào cuộc kháng chiến dưới sự lănh đạo của Việt Minh. Những bài thơ, những bản nhạc hay nhất xuất hiện. Tinh thần xông pha của nghệ sĩ đă có tác dụng mạnh trên bộ đội và quần chúng. Nếu không có sự trợ giúp đắc lực của văn nghệ sĩ, diện mạo cuộc chiến chống Pháp chưa biết sẽ ra sao. Hoàng Cầm kể:

    "Một ngày giữa năm 1947- tôi và vợ tôi Tuyết Khanh (...) đă xông lên một vùng rừng núi đang rất xa lạ với ḿnh, nhập luôn vào Vệ Quốc Đoàn chiến khu 12, rồi mày ṃ, t́m bạn, thành lập ngay một đội văn nghệ tuyên truyền, có thể gọi là đội Văn Công đầu tiên của quân đội (...) đến với từng trung đội, đại đội Vệ Quốc Quân, dân quân, du kích khắp bốn tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Ninh, Lạng Sơn để biểu diễn đủ loại kịch ngắn, kịch nói, kịch cương, ngâm thơ, hát tốp ca, đơn ca, múa vài ba điệu dân dă học được của đồng bào miền xuôi, miền ngược (...) Nửa đêm nay tiểu đội A đi phục kích ư? Trung đội C đi quấy rối địch ư? Chập tối họ vẫn được nghe giọng ngâm thơ sang sảng...

    Đêm liên hoan, bạn ơi, đêm liên hoan

    Đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng

    Ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực

    V́ say sưa t́nh thân thiết Vệ Quốc Đoàn [22]


    Nhiều khi họ lại "đồng ca" luôn theo đội văn nghệ:

    Đường ta ta cứ đi

    Nhà ta ta cứ xây

    Ruộng ta ta cứ cầy

    Đợi ngày ...


    Say sưa, họ c̣n vỗ tay theo điệu hát:

    Ngày mai ta tiến lên

    Diệt tan quân Pháp kia

    Cười vui ta hát câu tự do...

    (Nhạc tuổi xanh, P.D)[23]


    Hoàng Cầm tả lại bối cảnh gặp gỡ Phạm Duy trên lộ tŕnh sáng tác và tŕnh diễn:

    "Vào một buổi chiều cuối thu 1947. Trên đường đê sông máng đi từ đập Takun[24] có ba người, 1 quàng ghi ta, 1 đeo accordéon, 1 đeo clarinette, ngơ ngác hỏi thăm chỗ đóng quân của Đội Văn Nghệ Tuyên Truyền khu 12. Đó là anh P.D, Ngọc Bích và Ngọc Hiền, đang t́m về với đội văn nghệ của Hoàng Cầm sau khi đoàn kịch Chiến Thắng của các anh giải thể (...)
    Riêng P.D, trong khoảng 13 tháng sát cánh bên nhau tôi cần phải nói thêm rằng có anh trong đơn vị, người tôi như mọc thêm cánh (...) Tôi cứ chuyển quân liên miên ... nay vừa biểu diễn ở Nhă Nam, mai đă sang Bố Hạ (...) Sáng ra lại xuất quân. PD mê man đi, vừa đi vừa lẩm nhẩm thầm th́ sáng tác th́ chợt đến khi bắt được một giai điệu đẹp, tha thiết, là anh ngồi ngay xuống tảng đá bên đường, lấy bút giấy ra ghi. Nếu chỉ qua được một đoạn đường mà xong được một bài, anh lập tức kêu tôi và các bạn dừng lại, túm tụm trên vệ cỏ, nghe anh hát.

    Đường Lạng Sơn âm u (ù u)

    Giờ b́nh minh êm ru (ù u)

    Vẳng nghe tiếng súng trong sương mù

    Đường Thất Khê bao la (à a)

    Rừng núi ta xông pha (à a) (...)


    Cứ như vậy, toàn đội, đặc biệt là PD đă truyền cho tôi sức mạnh dẻo dai để vừa đi vừa sáng tác. Ghi ngay thành thơ hoặc chủ đề kịch ngắn những cảm xúc, những ư tứ bất chợt loé lên trong tôi. Sáng tác đến đâu biểu diễn luôn đến đấy (...) trong ṿng chưa đầy 12 tháng, PD đă liên tục sáng tác hàng chục ca khúc, có nhiều bài chỉ hát đôi ba lần, bộ đội đă thuộc ḷng (...) Ở những tác phẩm của anh hồi đầu kháng chiến, tôi ít thấy cái da diết, thắm thiết đến khắc khoải như một vài ca khúc của Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao ... Nhưng quả thật PD là người viết ca khúc được hầu hết các chiến sĩ bộ đội, cán bộ và thanh niên nam nữ khắp Việt Bắc lúc bấy giờ yêu mến nhất, nhắc nhở nhiều nhất, vượt xa các nhạc sĩ nổi tiếng cùng thời"[25].

    Phạm Duy viết về giai đoạn này:

    "Cuối năm 1947 đó, tôi và Ngọc Bích từ tỉnh lỵ bị tiêu hủy hoàn toàn là Thái Nguyên đi bộ qua Bắc Giang, t́m về làng Lan Giới thuộc khu Nhă Nam, Yên Thế (...)

    Tôi và Ngọc Bích vác ba lô đi t́m Bộ Chỉ Huy của Khu XII. Ở đó, tôi gặp Hoàng Cầm. Nó đang chuẩn bị thành lập một đội văn nghệ cho chiến khu này cùng với nhà viết kịch Hoàng Tích Linh, diễn viên Trúc Lâm và vợ chồng Văn Chung (...) Tôi và Ngọc Bích nhập ngay vào cái đội văn nghệ chỉ có vỏn vẹn bẩy, tám người đó để từ Bộ Chỉ Huy, chúng tôi đi lưu diễn ở những nơi có Vệ Quốc Đoàn đóng quân trong ba tỉnh Bắc Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn.

    Gặp Hoàng Cầm, tôi yêu nó ngay. Nó bằng tuổi tôi[26]. Trong khi tôi thích đùa rỡn th́ nó giống như một ông đồ non, lúc nào cũng ngồi hút thuốc lào, rung đùi, trầm ngâm. Nó đang sống chung với Tuyết Khanh (...) Đi theo Hoàng Cầm ra vùng kháng chiến, Tuyết Khanh, mà lúc đó Hoàng Cầm cũng đổi luôn tên là Kiều Loan, đang có thai và bắt buộc phải ở lại vùng trung du để Hoàng Cầm và chúng tôi lên đường đi lưu diễn. Trong bữa cơm đạm bạc để chia tay nhau giữa hai vợ chồng Hoàng Cầm tại Phố Nỉ (Bắc Giang), tôi c̣n nhớ cảnh Hoàng Cầm ngồi rung đùi ngâm thơ bên cạnh người vợ mà rồi đây nó sẽ không bao giờ gặp lại nữa, giọng ngâm buồn rười rượi..."[27]


    Còn tiếp ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 11 users browsing this thread. (0 members and 11 guests)

Similar Threads

  1. Chuyện nghe được từ ngướ không quen
    By Dac Trung in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 10-10-2012, 12:25 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-05-2012, 10:37 PM
  3. Bắt Buộc Phải Nghe
    By Dean Nguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 19-01-2012, 08:34 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 31-07-2011, 05:33 PM
  5. Tưởng Niệm Tháng 4 Đen Nghe Nhạc Lính VNCH
    By Camlydalat in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 18
    Last Post: 25-04-2011, 06:28 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •