Page 257 of 304 FirstFirst ... 157207247253254255256257258259260261267 ... LastLast
Results 2,561 to 2,570 of 3035

Thread: Nghe Chuyện Hà Nội

  1. #2561
    Tran Truong
    Khách

    Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) _ Chương 23

    ♦ Sau 1950, tác phẩm Việt văn:

    8/ Một cuộc hành tŕnh, nửa hồi kư, nửa nghị luận. Hành tŕnh một người trí thức tham gia kháng chiến, Minh Đức, Hà Nội, 1954.

    ♦ Sau 1958, tác phẩm Việt văn:

    9/ Lư luận giáo dục Âu châu thế kỷ XVI, XVII, XVIII, từ Erasme tới Rousseau - Doctrines pédagogiques de l'Europe du XVI au XVIIIe siècle, d'Erasme à Rousseau, nxb Khoa Học Xă Hội, Hà Nội, 1994.

    10/ Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp - Eschyle et la tragédie grecque, nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1996.

    11/ Orestia, dịch và chú giải bi kịch của Eschyle sang tiếng Việt. Chưa in.

    12/ Virgile, nhà thơ vĩ đại của thời kỳ La Mă cổ đại Tên gốc:Virgile và anh hùng ca La tinh - Virgile et l'épopée latine, nxb Khoa Học Xă Hội, 1996.

    Bắt đầu viết tự truyện, tiếng Pháp: Larmes et sourires d'une vieillesse.

    ♦ Sau khi đi Pháp về (1990-1994), hoàn tất các tác phẩm, Pháp văn:

    13/ Larmes et sourires d'une vieillesse - Nụ cười và nước mắt tuổi già, tự truyện, ba cuốn, chưa in.

    14/ Triptyque - tạm dịch: Bức họa ba tấm, chưa in.

    15/ Un excommunié - Kẻ bị khai trừ, Quê Mẹ, Paris, 1992.

    16/ Malgré lui, malgré elle - Mặc hắn, mặc nàng (l'amour conjugal sous le régime communiste - t́nh yêu vợ chồng dưới chế độ cộng sản). Chưa in.

    17/ Partir, est ce mourir?- Đi là chết? (Tragédie de l'émigration - Bi kịch di dân). Chưa in.

    18/ Une voix dans la nuit - Roman sur le Việt Nam 1950-1990 - Tiếng vọng trong đêm - Tiểu thuyết về Việt Nam từ 1950 đến 1990. Chưa in.

    19/ Palinodies - Phủ nhận. Chưa in.

    Trừ bản dịch Orestia, th́ đúng Nguyễn Mạnh Tường đă viết 18 cuốn sách, kể cả các luận án tiến sĩ.

    Ngoài bốn cuốn tiếng Việt, phần c̣n lại, để bảo vệ tự do của ng̣i bút, để thế giới có thể đọc được, để giữ an ninh cho gia đ́nh và bảo toàn bản thảo, Nguyễn Mạnh Tường đă chọn tiếng Pháp.
    V́ vậy, muốn đọc và hiểu ông, cần phải biết tiếng Pháp, hoặc phải có bản dịch. Văn chương điêu luyện của ông không dễ dịch, bản dịch Un excommunié - Kẻ bị mất phép thông công của Nguyễn Quốc Vĩ[6] mới chỉ là bản đầu tiên, chưa diễn đạt được văn phong uy vũ của Nguyễn Mạnh Tường. Ngay trong cái tựa Un excommunié, tác giả đă có ư so sánh chế độ cộng sản như một giáo hội cuồng tín, loại trừ kẻ ngoại đạo - những người không cộng sản - v́ vậy, nên dịch theo nghiă bóng Kẻ bị khai trừ, hơn là dịch theo nghiă đen, Kẻ bị mất phép thông công, yếu và khó hiểu.


    Còn tiếp ...

  2. #2562
    Tran Truong
    Khách

    Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) _ Chương 23

    ● Con đường hoà hợp văn hoá Đông Tây

    Nguyễn Mạnh Tường sinh ngày 16/9/1909 tại phố Hàng Đào, nguyên quán: xă Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Mất ngày 13/6/1997 tại nhà riêng, 34 Tăng Bạt Hổ, Hà Nội. Cha: Nguyễn Căn Cát, công chức.

    Năm 1937, kết hôn với cô Tống Lệ Dung, có ba con: Nguyễn Tường Hưng và Nguyễn Dung Nghi, Nguyễn Dung Trang. Học tiếng Pháp từ nhỏ ở Collège Paul Bert, rồi lycée Albert Sarraut, Hà Nội. 1925,16 tuổi, đậu Tú Tài Triết Học hạng ưu. Được học bổng sang Pháp học Luật và Văn Chương tại đại học Montpellier.

    1927, đậu cử nhân văn chương với 4 chứng chỉ: văn chương Pháp, văn chương Hy Lạp, văn chương La Tinh và Bác ngữ học - Philologie. 1930, đậu cử nhân Luật. Dự định thi tuyển Thạc Sĩ - concours d'agrégé để dậy học, nhưng v́ quốc tịch Việt nên không được thi. Sửa soạn luận án tiến sĩ quốc gia - doctorat d'état. Trong thời gian làm luận án, ông thực tập luật sư tại toà Phúc Thẩm Montpellier.

    Tháng 5/1932, Nguyễn Mạnh Tường bảo vệ luận án tiến sĩ Luật, đề tài: L'Individu dans la vieille cité annamite - Essai de synthèse sur le Code de Lê - Cá nhân trong xă hội Việt Nam cổ - Tổng luận Luật Hồng Đức. Tháng 6/1932, bảo vệ luận án tiến sĩ văn chương với luận án chính: Essai sur la valeur dramatique du théâtre d'Alfred de Musset - Giá trị bi kịch trong tuồng của A. Musset và luận án bổ túc: L'Annam dans la littérature française, Jules Boissières[7]- Việt Nam trong các tác phẩm của Jules Boissières.

    Trả lời phỏng vấn của Phạm Trần tại Paris, năm 1989, Nguyễn Mạnh Tường giải thích:

    "Chính sách đàn áp của thực dân (đặc biệt sau vụ nổi dậy của Việt Nam Quốc Dân Đảng), chương tŕnh học, cũng như mặc cảm lạc hậu về đất nước khiến người trí thức hồi đó dễ xa ĺa mạch sống dân tộc. Thế nên, cái vấn nạn lớn nhất của chúng tôi thời đó là làm cách nào để dung hợp hai nền văn hoá Đông Tây đối chọi nhau. (...) Để hoà hợp, căn bản đầu tiên là phải hiểu nhau. Hai nền văn hoá phải cho nhau biết bản sắc, lề lối suy nghĩ (mentalité) của ḿnh. Từ đó, gạn đục khơi trong để tổng hợp. Và căn bản nghiên cứu của tôi phát xuất từ nhận định đó. Tôi khảo sát nét hay của văn minh Âu. Tôi mơ ước đem văn minh vật chất Âu kết vào vũ trụ t́nh cảm Đông (...)

    Ngay từ khi viết luận án, tôi đă mang ư hướng ấy. Luận án Luật tôi dành cho Việt Nam. Tôi khảo sát cái chủ nghiă cá nhân (một sản phẩm đặc thù Âu Tây), đă thể hiện ra sao trong văn hoá Việt, cụ thể qua Luật Hồng Đức (thế kỷ XV), một bộ luật c̣n mang nhiều dân tộc tính. Đề tài chính của luận án văn, tôi dành cho văn hoá Pháp; đề tài phụ tôi dùng J. Boissières để kết nối Đông Tây. Boissières đă vẽ lại bức tranh xă hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX và đă đặt chính sách thực dân trước những vấn nạn lương tâm khó xử"[8].


    Còn tiếp ...

  3. #2563
    Member Le Thi's Avatar
    Join Date
    14-11-2010
    Posts
    1,278
    Xin phép ông bạn Trần Trường , xen vào đây , xin có một vài nhận xét về Ls Nguyễn Mạnh Tường :

    Theo bài viết trên đây có nói rằng vào ngày 39/10/1956 , trong một buổi nói chuyện trước Mặt Trận Tổ Quốc , Ông NMT có xây dựng quan điểm lảnh đạo qua những sai lầm về chính sách Cải Cách Ruộng Đất và cội nguồn sai lầm

    là v́ chế độ chính trị không dân chủ và ông c̣n tŕnh bày phương pháp sửa đổi : thực hiện những nguyên tắc của một nhà nước pháp quyền trong chế độ dân chủ .

    Thật tội cho ông NMT , học rất giỏi nhưng ông không biết ǵ về cs .

    CCRĐ là việc thực hiện đúng với chủ trương cs , sở dĩ lúc đó HCM khóc lóc là chỉ sợ dân quá uất ức mà nổi dậy ...

    NMT lại c̣n khuyên chánh quyền lúc đó , theo chế độ dân chủ ...

    Chánh quyền cs mà dân chủ th́ không c̣n là cs nữa .

    Nhờ có tiếng tăm trên thế giới , ông NMT không bị giết là may lắm .

    Không biết sau này ông NMT có thấy ḿnh quá ngây thơ ?

  4. #2564
    Tran Truong
    Khách

    Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) _ Chương 23

    ● Đậu hai bằng tiến sĩ ở tuổi 22

    Một trường hợp hiếm có ở đại học. Nguyễn Mạnh Tường thành công v́ làm việc cật lực:

    "Từ lớp sáu cho tới tú tài, mỗi tuần tôi có thói quen đọc 2 cuốn tiểu thuyết Tây. (...) và nhất là do cật lực làm việc: suốt 5 năm dài, mỗi sáng tôi thức dậy từ 4 giờ, học và viết tới 8 giờ th́ đi lớp; chiều lại học tới khuya"[9].

    Tháng 9/1932, ông về nước 3 tháng, rồi lại sang Pháp. Việc này, trong các bài trả lời phỏng vấn ở Paris, không thấy ông nói đến. Một số người đưa ra thuyết: "chính quyền thực dân Pháp không muốn dùng ông. Không t́m được việc làm xứng đáng với học vị của ḿnh, ông lại sang Pháp"[10]. Nhưng theo Nguyễn Văn Hoàn, th́ Nguyễn Mạnh Tường kể lại rằng: "Về nước có hai viên mật thám, trong đó có Louis Marty gặp và gợi ư tôi vào làm việc với Bảo Đại, cấp bậc Thượng thư. Tôi từ chối, sau đó họ gây khó khăn, ở nhà ba tháng, tôi trở lại Pháp"[11].

    Chứng này có thể tin được v́ Nguyễn Mạnh Tường và Bảo Đại cùng về nước tháng 9/1932, và bản thân ông muốn đứng về phía dân, không tham chính.

    Tháng 12/1932, ông trở lại Paris. Từ 1933-1936: du lịch nhiều nước Âu Châu. "Thành thật nói, tôi đă trở thành một hiện tượng. Các báo ở Paris và Montpellier dành cả số nói về tôi. Có tờ coi sự thành công của tôi là một "sai lầm" của Pháp - ông muốn nói đến bài của Clément Vautel. Song hầu hết đều nói tốt. Cũng nhờ vậy mà nhiều đại học Âu Châu biết và mời tôi tới thăm. Tôi đă có dịp Âu du một ṿng không mất tiền từ London sang La Haye xuống Bruxelles, Berlin, Athènes, Rome, Istanbul, Vienne, Madrid... Tôi c̣n nhớ trên đường từ Berlin về Vienne thời đó (1933) tôi ngang qua Munchen và tham gia cuộc biểu t́nh lớn của Hitler tổ chức."[12]

    Chúng ta cũng nên đọc qua bài báo của Clément Vautel[13] mà Nguyễn Mạnh Tường vừa nhắc, tiêu biểu cho khuynh hướng thực dân ngạo mạn và kỳ thị. Bài ngắn, chúng tôi dịch cả để độc giả thấy giọng điệu xỏ xiên này:

    "Một tay An-nam-mít 22 tuổi, tên Nguyễn Mạnh Tường, vừa giật dễ dàng hai bằng tiến sĩ luật và văn chương ở đại học Montpellier. Hắn chỉ học có năm năm đă đoạt hai phẩm hàm cao nhất của phương Tây. Tay trí thức "da vàng" này, đặc biệt nổi trội khi tŕnh luận án văn chương với đề tài tuồng Alfred de Musset, có thể dạy cho bọn bỉnh bút của ta một bài học đích đáng. Ban giám khảo đă có lời khen rồi, tôi chả có tư cách ǵ mà chêm vào nữa.

    Thực đếm không xuể số trẻ Đông Dương đoạt đủ loại bằng cấp tại Pháp: chúng đạt những thành quả ở đại học mà bọn "rợ trắng" không khá bằng, thèm muốn.

    Rất chăm chỉ, thông minh, lại đầy tham vọng, những tay Á châu này tháo gỡ như bỡn những bí quyết trong đỉnh cao học thuật của chúng ta, rồi về xứ rêu rao:

    - Cái văn minh nức tiếng kia rút cục chỉ có thế ư? Xa trông tưởng ghê gớm, chứ đến gần, nào có ra ǵ!

    V́ vậy, tôi tự hỏi, chúng ta chẳng đă phạm những nhầm lẫn sơ đẳng nhất, khi dạy cho các tướng này những bí quyết "văn hoá" của chúng ta, để khi về nước, chúng không c̣n tin vào tính ưu việt của giống ṇi da trắng đang bảo hộ chúng.

    Việc mở cửa cho bọn bản xứ vào các đại học của ta, và tưới xả láng chúng những bằng tiến sĩ này nọ, xem th́ cũng ngộ đấy; nhưng chớ có ảo tưởng, coi đó là phương tiện xoá dấu vết xâm lăng để từ thời đại đô hộ nhẹ bước sang thời đại cộng tác.

    Không phải tất cả những tên da vàng được ta bôi trát thứ chủ thuyết vị trí tuệ (intellectualisme) trắng này, sẽ xoay sang đỏ choé khi chúng về tới bờ sông Hồng, nhưng nhiều đứa trong bọn sẽ trở thành cán bộ của cái đảng cộng sản, mà ở Âu Châu, th́ tuyên bố vô tổ quốc, nhưng về đến nền thuộc địa, lại rao giảng chủ nghiă quốc gia trăm phần trăm.

    Thử hỏi làm sao mà khác cho được? Cái làm tôi ngạc nhiên, là một cô gái Đông dương -bởi có cả bọn sinh viên con gái da vàng nữa- về nước với bằng giáo sư sử học, tuyên bố: Chừ tôi mới chính là Jeanne d'Arc đây! Vậy mà ả vẫn chưa thành "Nữ Thánh đồng trinh đỏ" của cuộc cách mạng giải phóng.

    Theo tôi, khôn ngoan ra, th́ ta nên khai hoá dân bản xứ bằng chính cái văn miêng của chúng. Thử hỏi cái luận án của một tay An-nam-mít về tuồng hát của Musset, là cái giống ǵ? Dù tuồng đó có đậm đà, tinh tế, cao nhă, ǵ ǵ đi nữa, th́ nó cũng chẳng làm cho kẻ bị đô hộ có cảm tưởng tốt đẹp về đạo đức của người đô hộ.

    Đừng quên Gandhi cũng đă đỗ đạt ở bên kia bờ biển Manche, và, với cái guồng sợi của ḿnh, hắn đă làm cho nước Anh rối loạn... Cứ từ từ, rồi một ngày, chúng ta cũng sẽ như vậy"[14]. Bài báo của Vautrel nói lên ḷng căm thù chủng tộc và sự ganh tỵ nhân tài.


    Còn tiếp ...

  5. #2565
    Tran Truong
    Khách

    Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) _ Chương 23

    ● Về nước, những sáng tác đầu tiên

    Chuyến đi thăm miền Địa Trung Hải đă giúp Nguyễn Mạnh Tường viết 4 tác phẩm: Sourires et larmes d'une jeunesse, Construction de l'Orient - Pierres de France, Construction de l'Orient - Apprentissage de la Méditéranée và Le voyage et le sentiment.

    Ông giải thích ư nghiă hai tác phẩm đầu:

    "Tây cho Đông kỹ thuật, quan niệm về nhân quyền, về cái chừng mực và đa dạng của con người, về phương pháp suy tư và về một quan điểm đời sống. Và tôi đă viết hai cuốn: "Pierres de France (Nguyên liệu từ Pháp), "Apprentissage de la Méditérranée" (Học hỏi văn minh Địa Trung Hải) để diễn tả những điểm trên"[15].

    Hai cuốn sách c̣n lại, viết về sự xung đột giữa hai nền văn minh Đông Tây: "Sourires et larmes d'une jeunesse (Nụ cười và nước mắt tuổi thanh xuân) diễn tả cái xung đột giá trị nơi một thanh niên Việt thấm nhiễm văn hóa Tây. Chàng thanh niên được ví như đứa con hoang đàng trong Kinh Thánh, đă quen với nếp sống tự do, nay trở về bị truyền thống gia đ́nh ràng buộc. Và chàng đă phải tự đấu tranh t́m một giải pháp dung ḥa cho cuộc sống.
    Vở kịch Le voyage et le sentiment (Du hành và t́nh cảm) nói lên hai khía cạnh khác nhau giữa Đông (nặng t́nh cảm, thủy chung) và Tây (như một tay du lịch luôn đi t́m của lạ). Các sách đó tôi viết từ năm 1930-1940, chỉ xuất bản vài trăm cuốn mỗi thứ và đă hết hơn nửa thế kỷ nay. Giờ muốn in lại một ít mà đành chịu v́ thiếu phương tiện"[16].

    Khác hẳn những người lớp trước như Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Văn Trường, Phạm Quỳnh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh... hoặc cùng thời với ông như Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lăng (cả hai đều sinh năm 1909 như ông), Nguyễn Mạnh Tường sùng bái cái học Tây phương, trong khi những người kia, dù phục Tây phương, nhưng vẫn cho Đông phương là nguồn cội của tư tưởng.

    Tóm lại, theo người thanh niên Nguyễn Mạnh Tường, để xây dựng một Đông Phương mới, chúng ta nên học hỏi kinh nghiệm Địa Trung Hải, tức là học sự giao lưu văn hoá Ả Rập - Hy La ở vùng Địa Trung Hải. Giả sử hồi đó, ông đi Ấn Độ, th́ tư tưởng của ông có thể thay đổi: bởi Ấn Độ mới là nơi loài người thực hiện sự giao lưu văn hoá sớm nhất và thành công nhất. Mặc dù triết học Ấn Độ là cha đẻ của triết học nhân loại và đền đài Ấn Độ là những kỳ công kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ Á Âu; nhưng Ấn Độ hiện hành, cũng như Ai Cập, Trung Hoa, vẫn c̣n là những nước "thứ ba". Vậy, văn minh-văn hoá và văn minh-khoa học; văn minh-văn hoá và dân chủ-tự do, có những tương quan như thế nào? Đó là những câu hỏi phức tạp khác.

    Năm 1936, về nước, ông dạy văn chương Pháp ở trường Bảo Hộ[17] và trường Cao Đẳng Công Chánh[18]: "Sau 5 năm đi du lịch, năm 1936 tôi về nước được vào dạy ở Trường Bảo Hộ (Trường Bưởi). Nhà ở số 1 Mai Xuân Thưởng, trông ra Hồ Tây, chỉ cách trường 200 mét. Đây là một quăng thời gian hạnh phúc của đời tôi. Đồng nghiệp th́ có Hoàng Xuân Hăn dạy Toán, Nguyễn Văn Huyên dạy Sử, Kontum dạy Vật lư"[19].

    Ngoài ra, ông c̣n học thêm chữ nho và văn chương cổ điển Việt, tham gia phác họa cuốn Việt Nam Văn Phạm với nhóm Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, hợp tác làm Việt Nam Tự Điển với nhóm Khai Trí Tiến Đức: "Bỗng nhiên tôi nhớ năm 1936, sau chuyến về nước ở luôn, tôi bắt đầu học chữ nho và góp phần làm cuốn Việt Nam Văn Phạm của Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ, và cộng tác biên soạn tự điển Khai Trí Tiến Đức"[20].

    Trong thời kỳ này, ông làm phụ tá cho thị trưởng Hà Nội. Georges Boudarel, trong bài nghiên cứu tựa đề Le tort de parler trop tôt - Sai lầm v́ nói sớm quá, chủ đích dịch và giới thiệu bài Qua những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất xây dựng quan điểm lănh đạo với độc giả Pháp, đă phân tích khá rơ tâm trạng Nguyễn Mạnh Tường và thành phần ưu tú của đất nước theo Việt Minh năm 1945, như sau:

    "Trở về Bắc Kỳ, năm 1936, ông dạy văn chương Pháp tại trường Bảo Hộ và trường Cao Đẳng Công chánh. V́ cứ in hoài những tập tiểu luận ngẫu hứng từ những ngày sống ở Pháp, đă để lại trong ông những cảm tưởng không phai mờ (...) cuối cùng, ông trở thành đệ nhị phụ tá cho Thị Trưởng thuộc địa Hà Nội.

    Dù hết sức ngưỡng mộ Paris và nước Pháp (khó có thể làm hơn), nhưng tới giờ phút quyết định, Nguyễn Mạnh Tường trong sâu thẳm của tâm hồn, vẫn là người Việt. Dường như ông nghĩ, ḿnh chỉ trung thành với những lư tưởng hun đúc ở Paris: độc lập, tự do, nhân quyền và dân quyền. Năm 1945, cùng toàn bộ thành phần ưu tú của dân tộc (kể cả các vị giám mục thời ấy), ông đi theo chính phủ Hồ Chí Minh"[21].

    1940, ông nghỉ dậy học, mở văn pḥng luật sư: "Năm 1940, Pháp thua trận, Nhật đưa quân vào Đông Dương, lập ra một Hội Đồng, do Phạm Lê Bổng đứng đầu, vận động nông dân bán lúa, gạo cho Nhật. Họ muốn tôi tham gia nhưng tôi từ chối. Họ lại gây khó khăn, tôi nộp đơn xin từ chức, ra mở văn pḥng luật sư ở phố Trần Hưng Đạo[22] đây là nghề tôi đă tập sự bên Pháp"[23].

    Theo Nguyễn Đ́nh Nhân, "Từ năm 1942 đến 1945: ông mở pḥng luật sư chung với hai đồng nghiệp Trần Văn Chương[24] và Vũ Văn Hiền"[25].

    Tháng 10/1945, Hồ Chí Minh kư sắc lệnh lập thêm Đại Học Văn Khoa, Nguyễn Mạnh Tường được cử dạy văn chương Tây phương.


    Còn tiếp ...

  6. #2566
    Tran truong
    Khách

    Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) _ Chương 23

    ● Hội nghị Đà Lạt (17/4/1946 - 12/5/1946)

    Hội nghị Đà Lạt họp từ 17/4/1946 đến 12/5/1946. Bàn về các vấn đề đă dự trù trong hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Phía Việt Nam, Nguyễn Tường Tam làm trưởng phái đoàn, Vơ Nguyên Giáp, phó. Phía Pháp, Max André, nghị sĩ, trưởng phái đoàn.

    Chủ tịch các ủy ban: Hoàng Xuân Hăn, chính trị. Vơ Nguyên Giáp, quân sự. Nguyễn Mạnh Tường, văn hoá. Trịnh Văn Bính, kinh tế và tài chính.

    Về hội nghị này, trả lời Hoà Khánh ở Paris, năm 1990, Nguyễn Mạnh Tường cho biết:

    "Năm 1946, một hôm, ông Nguyễn Hữu Đang, người sau này tham gia Nhân Văn Giai Phẩm và bị cộng sản kết án 15 năm tù, đến văn pḥng luật sư của tôi nói là cụ Hồ mời tôi đến gặp Cụ có việc cần. Nguyễn Hữu Đang chở tôi đến cái chỗ sau này gọi là Phủ Chủ Tịch. Ở đó Vũ Đ́nh Huỳnh, Vụ trưởng vụ Lễ Tân ra tiếp và đưa vào gặp Cụ Hồ.

    Cụ gọi tôi là Ngài. Cụ nói: "Như Ngài đă biết, chính phủ vừa kư kết với Pháp một bản tạm ước. Theo bản tạm ước ấy, sắp tới giữa ta và Pháp sẽ có một hội nghị quan trọng. Xin Ngài giúp soạn giùm cho một bản lập trường của chính phủ (thèse gouvernementale) để sử dụng như một cương lĩnh chỉ đạo cuộc hội nghị". Tôi đáp: "Công việc này quan trọng quá, xin cụ nhờ một người nào giỏi và có kinh nghiệm hơn tôi".
    Cụ Hồ nói: "Tôi đă hỏi ư kiến nhiều người và ai cũng bảo là chỉ có Ngài mới có thể làm được thôi".Cuối cùng, tôi nhận lời, về nhà, đóng cửa văn pḥng luật sư, vận dụng tất cả kiến thức về luật pháp quốc tế cũng như những điều khoản căn bản của tạm ước để soạn bản lập trường. Đến khi đem tŕnh, được Cụ Hồ chấp thuận và do đó, buộc tôi phải tham dự Hội Nghị Đà Lạt. (...)

    Chỉ có một điều ít ai biết là, kết thúc cuộc hội nghị, hai bên đă tổ chức một bữa tiệc chung. Trong bữa tiệc ấy, tên tùy viên của thủy đô đốc D'Argenlieu đến cạnh tôi, nói là thủy đô đốc muốn gặp tôi để nói chuyện. Tôi bảo là tôi không phải trưởng đoàn do đó không có tư cách ǵ để gặp gỡ thủy đô đốc cả. Tên tùy viên lại bảo đây là sự gặp gỡ thân mật có tính cách cá nhân thôi chứ không phải để bàn bạc chuyện ǵ quan trọng cả. Nghe thế, tôi rời bàn tiệc ra ngoài hành lang gặp D'Argenlieu.
    Lúc ấy trong bàn tiệc ai cũng thấy cả. Và cuộc nói chuyện cũng rất vu vơ, thăm hỏi xă giao về công ăn việc làm thôi. Thế nhưng, về Hà Nội bỗng dưng lại có tin đồn là Nguyễn Mạnh Tường thông đồng với giặc, là Nguyễn Mạnh Tường bán nước.

    - Luật sư có biết tin đồn đó phát xuất từ đâu không?

    - Th́ cũng phải có người phát th́ nó mới động chứ. Tin đồn đó là cả một chiến dịch được tổ chức hẳn hoi. Anh Hoàng Xuân Hăn lúc ấy phải đến gặp h́nh như là Vơ Nguyên Giáp th́ phải, bảo Tường làm cái ǵ mà người ta lại tung tin đồn là nó bán nước, theo giặc ghê quá vậy. Nguy cho nó lắm. Mà nguy thật. Chỉ cần một phát súng, một mũi dao là xong đời chứ ǵ. Từ khi anh Hăn can thiệp, tin đồn ấy mới lắng xuống rồi biến mất"[26].

    Về việc này, Nguyễn Văn Hoàn ở Hà Nội, ghi như sau: "Lúc tiễn đoàn lên đường, cụ Hồ nói to: "Xin chúc anh em đi thành công, đặc biệt tôi có lời khuyên: Nội bộ đoàn kết, phải đấu tranh găng nhưng không được găy". Hoàng Xuân Hăn có viết hồi ức về Hội nghị nhưng không nhắc lại chi tiết quan trọng này, tôi hỏi th́ anh bảo quên!" (...)

    Kết thúc hội nghị, D'Argenlieu có tổ chức tiệc trà tiễn Đoàn. Một sĩ quan hầu cận Pháp đến nói: Thủy Sư Đô Đốc muốn gặp riêng Ngài. Tôi nói: Tôi chưa hân hạnh được quen biết Ngài Thủy Sư Đô Đốc. Có anh em nói: Nó mời th́ anh cứ đi, tôi đi xuyên qua pḥng họp, đông khoảng một trăm người, đến gặp nó, chỉ toàn nói chuyện xă giao vớ vẩn. Thế mà khi về Hà Nội, có dư luận nói: “Tường là tay trong của Pháp, Tường phản quốc”, Hăn tức, đến gặp Vơ Nguyên Giáp, dư luận mới được dập tắt"[27].

    Boudarel viết: "Sau khi ở hội nghị về, Tường không được trao cho nhiệm vụ ǵ nữa, cũng như nhiều người yêu nước không cộng sản khác. Tuy vậy khi cuộc chiến bùng nổ ngày 19/12/1946, ông vẫn đi theo kháng chiến"[28].


    Còn tiếp ...

  7. #2567
    Tran Truong
    Khách

    Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) _ Chương 23

    ● Đi kháng chiến, nhưng không tham gia Mặt Trận Việt Minh

    Ngày 19/12/1946, toàn quốc kháng chiến. Nguyễn Mạnh Tường đang biện hộ ở toà án Hải Pḥng. Ông đi ṿng xuống Nam Định để về Hà Nội, chuẩn bị gia đ́nh tản cư. Trước khi đi, ông dâng toàn bộ tài sản cho cách mạng. Gia đ́nh ông về Hà Nam, Ngô Khê. Pháp đánh Hà Nam, chạy sang Thái B́nh. Thái B́nh thuộc Liên khu Ba là một địa điểm tụ họp đông đảo trí thức văn nghệ sĩ.

    Tháng 10/1948, Hội Văn Nghệ Liên Khu Ba được thành lập. Theo Bùi Huy Phồn[29] và Phạm Duy[30] đây là thời kỳ đẹp nhất của kháng chiến: các trí thức, văn nghệ sĩ khuynh hướng khác nhau cùng hoạt động chung. Khi Pháp đánh Thái B́nh, Chi Hội Văn Nghệ phải chuyển về Vĩnh Lộc, Thanh Hoá. Văn nghệ sĩ người về thành, người vào Khu Bốn tức Thanh Hoá vùng tướng Nguyễn Sơn.

    Trả lời câu hỏi của Hoà Khánh ở Paris: Luật sư có thể cho biết luật sư đă tham gia phong trào Việt Minh và sau đó, tham gia kháng chiến như thế nào?

    Nguyễn Mạnh Tường xác định: "Thật ra, tôi không hề tham gia Mặt Trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, luôn luôn ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho ḿnh một vị trí là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, th́ không nên tham chính. Do đó, tôi đă từng từ chối nhiều lời mời ra làm bộ trưởng của nhiều chính phủ. Người trí thức phải đứng về phía dân chứ không đứng về phía chính quyền. Người trí thức chỉ nên đứng ở lănh vực thuần lư chính trị (politique spéculative), nghiên cứu, thúc đẩy các trào lưu.

    Cách Mạng Tháng Tám làm tôi rất vui mừng. Tôi muốn đóng góp vào việc xây dựng đất nước trong hai lănh vực sở trường của ḿnh: luật học và nghiên cứu văn học"[31].

    Nguyễn Văn Hoàn ghi: "Năm 1946, tôi đang căi ở Hải Pḥng th́ tiếng súng toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Tôi phải đi đường Nam Định để về Hà Nội, rồi tản cư đi Hà Nam, ở Ngô Khê. Nó đánh Hà Nam, chạy sang Thái B́nh, ở Hưng Nhân. Nó đánh Thái B́nh, chạy vào Thanh Hóa. Hồi dạy Dự Bị Đại Học, tôi ở dốc Đu, Thiệu Hóa, bên cạnh là nhà Hồ Đắc Liên, gần nhà Nguyễn Khánh Đàm, anh ruột nhà văn Nguyễn Tuân"[32].


    Còn tiếp ...

  8. #2568
    Tran truong
    Khách

    Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) _ Chương 23

    ● Làm luật sư trong kháng chiến

    Trong kháng chiến, Nguyễn Mạnh Tường căi ở Toà Án nào? Và căi cho ai? Một điều chắc chắn: ông căi trong các toà án Kháng Chiến- tức là toàn án của Việt Minh. Vậy loại toà án nào? V́ sau này, trong thời Cải Cách Ruộng Đất, ông cho biết các Toà Án Nhân Dân không cần chánh án và luật sư.
    Chắt lọc một số thông tin đáng tin cậy, ta có thể xác định: ông căi ở những ṭa án quân sự, đại h́nh, và được chính phủ kháng chiến cử làm luật sư chỉ định - avocat d'office, biện hộ cho những người quốc gia bị Việt Minh bắt và xử tội.

    1/ Boudarel viết: "Trong những năm đầu chiến tranh, h́nh như luật sư Tường đă nhận căi cho những trường hợp vô vọng, ông nhận biện hộ cho những người quốc gia bị kết tội phản quốc mà không có chứng cớ ǵ minh bạch. Lần vận động (hay lần căi) cuối cùng h́nh như ở Đức Thọ, năm 1951"[33].


    2/ Trần Văn Hà viết: "Gia đ́nh tôi (Nguyễn Mạnh Tường) chuyển dịch từ Phủ Lư về Thái B́nh, rồi về Thanh Hoá. Tôi tiếp tục giảng dậy cho lớp Dự Bị Đại Học ở Thanh Hoá, được cử làm luật sư của chính phủ đi bào chữa cho tội nhân tại toà án quân sự, đại h́nh. Cứ mỗi tháng là phải tới một tỉnh, với chiếc xe đạp ṭng tọc. Nhiều đoạn đường, cái chết kề bên. Anh "ba lô viên" của tôi bị trúng đạn địch, đă bỏ mạng tại bờ sông Hồng"[34].

    3/ Trong bài Kiều Mai Sơn kể lại lời Vũ Đ́nh Hoè, có một đoạn đáng chú ư: "Tôi (Vũ Đ́nh Hoè) lúc bấy giờ là bộ trưởng Bộ Tư Pháp nên cũng được họp trong phiên Chính phủ họp bàn về xử vụ ông Vĩnh Thụy đào nhiệm. Đó là vào hồi năm 1950 - 1951. Cụ Hồ không muốn truy tố.

    Để hợp thủ tục dân chủ, Hồ Chủ tịch đề nghị giơ tay biểu quyết. Tất cả thành viên chính phủ đều giơ tay lên, trừ cụ Bùi Bằng Đoàn[35]- Trưởng ban Thường Trực Quốc hội. Cụ nói đồng ư là ông Vĩnh Thụy phạm tội nặng đối với Tổ quốc, nhưng cụ không nỡ giơ tay biểu quyết. Mọi người nhớ xưa cụ đă một thời giữ chức thượng thư trong triều đ́nh Bảo Đại. Cuối cùng chính phủ quyết định giao cho ṭa án xét xử theo đúng pháp luật, phải làm đàng hoàng đầy đủ thủ tục, có luật sư bào chữa cho bị cáo vắng mặt.

    Mấy tháng sau, Toà Án Quân Khu III được thành lập do ông Lê Văn Chất làm chánh án, ông Bùi Lâm làm công cáo uỷ viên, một hội thẩm chính trị là đại biểu quân đội, một hội thẩm chuyên môn là ông Trần Đ́nh Trúc, thẩm phán do giám đốc Tư Pháp Khu III phái sang. Hai luật sư cùng bênh vực cho bị cáo Vĩnh Thụy là ông Đỗ Xuân Sảng và ông Nguyễn Mạnh Tường.

    Bản cáo trạng buộc tội ông Vĩnh Thụy rất đanh thép. Sau khi đă thực thi đủ thủ tục pháp lư và bàn luận kỹ càng, hội đồng xét xử đă ra phán quyết vắng mặt bị cáo: Tử h́nh. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đề nghị ghi vào bản án xử theo điều luật của nhiều nước trên thế giới là: Tử h́nh vắng mặt, khi nào bắt lại được can phạm th́ sẽ mở lại phiên toà chứ không được thi hành cái án đă tuyên trước đó"[36].

    Vẫn trong bài này, Kiều Mai Sơn kể thêm mấy vụ khác:

    - Vụ xử Quản Dưỡng, tức Trần Văn Dưỡng, ở Hà Đông, trước làm lính khố xanh, bị xử tội đă ra lệnh cho lính Bảo An bắn vào người biểu t́nh.

    - Xử vợ một lănh tụ Quốc Dân Đảng, ở Vĩnh Yên.

    - Một nông dân giết kẻ ngoại t́nh với vợ, là một anh Đại Đội Trưởng bộ đội, ở làng Xuân Thọ, Thái B́nh.

    - Hè 1951, một anh bộ đội đánh chết người đang "hủ hoá" với mẹ ḿnh, tại Đức Thọ, Hà Tĩnh - lúc đó Nguyễn Mạnh Tường đă vào Thanh Hoá.

    4/ Hoàng Văn Chí viết: "Từ 1947 đến 1950 ông làm trạng sư ở khu III. Trong khi bênh vực cho các bị cáo trước toà, ông hay dùng lời lẽ văn hoa để "nói mát" chế độ, nên ông bị chuyển sang ngành giáo dục. Ông bị coi là một phần tử "ngoan cố", không chịu "lột xác", nên thường bị đả kích. Có lần cán bộ đă đặt ra một vở kịch nhan đề là "Phải hấp lại" để lăng mạ ông, nhưng ông không thèm trả lời."[37]

    Điều Hoàng Văn Chí viết "ông hay dùng lời lẽ văn hoa để nói mát chế độ" được phản ảnh trong lời kể của giáo sư Hoàng Như Mai: "Vụ thầy Tường căi đó là: cô con dâu cầm dao đâm bố chồng. Tôi không dự cái cuộc ấy nhưng được nghe người ta kể lại. Thầy Tường bào chữa: Xưa nay chuyện bố chồng con dâu, nhất là mẹ chồng nàng dâu xung đột với nhau là chuyện rất điển h́nh ở xă hội Việt Nam xảy ra coi như cơm bữa. Nhưng v́ sao cô này lại đâm bố chồng? V́ khẩu hiệu của kháng chiến: Mỗi người sẵn sàng cầm vũ khí trong tay để giết giặc. Cho nên lỗi tại có vũ khí kia chứ không th́ chị ấy không phạm tội giết bố chồng"[38].

    Những chứng trên đây bổ sung cho nhau. Tóm lại, có thể nói: lần cuối Nguyễn Mạnh Tường căi ở Đức Thọ, Hà Tĩnh, theo Boudarel và sau đó ông bị chuyển sang ngành giáo dục, theo Hoàng Văn Chí. Một mặt khác, chính Nguyễn Mạnh Tường cũng viết về lư do đổ vỡ của ngành tư pháp và y tế ở Khu Ba và Khu Tư: "Chính trị chèn ép chuyên môn như thế nào; xua đuổi người trí thức ra ngoài con đường cách mạng ra sao, lịch sử kháng chiến đă cho ta kinh nghiệm đau đớn.
    Năm 1949, phong trào tư pháp liên khu III tan vỡ v́ chính quyền quan niệm tư pháp phải thuộc sự điều khiển của ḿnh. Năm 1951, phong trào quân y, dân y liên khu IV sụp đổ v́ các chính trị viên đưa vào các bệnh viện, đă đàn áp chuyên môn, thúc đẩy các bác sĩ có công với cách mạng, với kháng chiến, phải gạt nước mắt mà rời bỏ kháng chiến"[39].


    Còn tiếp ...

  9. #2569
    Tran Truong
    Khách

    Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) _ Chương 23

    ● Từ chối vào Đảng

    Năm 1951, được đề nghị vào đảng, nhưng ông từ chối, rồi cuối cùng ông phải chấp nhận vào đảng Xă Hội, Nguyễn Mạnh Tường giải thích tại sao:

    "Năm 1951, trong chiến khu[40] Đặng Châu Tuệ, một đảng viên Cộng Sản[41] đến bảo tôi và bác sĩ Nguyễn Xuân Nguyên nộp đơn xin vào Đảng. "Trên" đă chứng nhận hạnh kiểm và hoạt động của chúng tôi trong kháng chiến. Những người cộng sản thường say mê h́nh thức và mắc bệnh kiểm kê con người giống như tài sản, theo tuổi tác, phái tính, hoạt động nghề nghiệp để trộn họ vào những tổ chức quần chúng, để giáo dục và điều khiển họ một cách hữu hiệu hơn. Một mặt khác, v́ Đảng không dung tha bọn trí thức ham hưởng thụ tự do và cá nhân chủ nghiă, nếu tập trung họ lại trong Đảng, th́ cái địa vị tối cao và vai tṛ lănh đạo sẽ làm họ phởn chí.

    Thật vậy, trong thời điểm đó, những kẻ có tham vọng, những kẻ cơ hội, mơ tưởng được vào hàng ngũ cộng sản đă làm không ít việc hạ tiện để đẹp ḷng người chiêu nạp. Cũng cùng thời ấy, đă có khá nhiều trí thức, không chịu được đầu óc hẹp ḥi và tính ngoan cố của những người cầm đầu, đă bỏ hàng ngũ cách mạng để về Hà Nội, rồi từ đó bay đi những chân trời tốt đẹp hơn.

    V́ thế, bác sĩ Nguyên và tôi xét cái "vinh dự" mà họ ban cho chẳng qua chỉ là một thủ đoạn ngờ vực: họ muốn khoá trái chúng tôi trong các tổ Đảng được canh gác chặt chẽ để ngăn chặn không cho chuồn, nếu có kẻ nào manh tâm. Cả hai chúng tôi từ chối lời mời vào Đảng. Nhưng những người cầm đầu không cho đứng ngoài tất cả các tổ chức, họ đề nghị chúng tôi vào đảng Xă Hội. Cầm cự măi cũng chán, chúng tôi bắt buộc phải chấp nhận. Bởi chẳng nên khăng khăng cương quyết từ chối măi ư nguyện của Đảng, nhất là trong chiến khu, có những con mắt vô h́nh kiểm soát nhất cử nhất động. Khá là nguy hiểm"[42].

    Nguyễn Mạnh Tường rời Khu Ba khoảng mùa xuân 1951, sau khi từ chối vào Đảng. Tới tháng 5/1951, ở Khu Tư Thanh Hoá ông căi lần cuối cùng tại Đức Thọ, Hà Tĩnh. Boudarel viết: "Tháng 2/1952, Trường Dự Bị Đại Học mới mở ở khu Tư, Thanh Hoá và Nghệ An, do nhà phê b́nh mác- xít Đặng Thai Mai điều khiển, Nguyễn Mạnh Tường được gọi về dạy văn chương"[43].

    Hoàng Trung Thông kể lại: "Các lớp học viết văn th́ tổ chức ở Quần Tín[44], Đặng Thai Mai là hiệu trưởng, Nguyễn Xuân Sanh phụ trách các công việc, tương đương với giáo vụ bây giờ. Khoá dự bị đại học đầu tiên có 5 học sinh. Các lớp sau đông hơn (...) Học sinh tới học do địa phương giới thiệu nhưng kinh phí hầu như phải tự túc hoàn toàn"[45]. Vào Khu Tư, Nguyễn Mạnh Tường vẫn tiếp tục đấu tranh tư tưởng với cộng sản, Hoàng Trung Thông kể tiếp:

    "Cuộc tranh đấu tư tưởng duy nhất ở Liên Khu Bốn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là cuộc đấu tranh với một số quan điểm của Nguyễn Mạnh Tường. Trong một cuộc nói chuyện Nguyễn Mạnh Tường cho rằng văn nghệ ta như một cái chuồng nhốt các văn nghệ sĩ trong đó. Ư kiến này lập tức đă làm nổi lên một làn sóng bất b́nh trong giới văn nghệ. Có hai bài phê phán ư kiến đó một cách nghiêm khắc trên tạp chí Thép Mới của Nguyễn Văn Tỵ và Chế Lan Viên.

    Khi đồng chí Lưu Trọng Lư, chi hội trưởng văn nghê Liên Khu Bốn, phụ trách tờ tạp chí Thép Mới, đến gặp đồng chí Trường Chinh thuật lại các bài đấu tranh tư tưởng th́ đồng chí Trường Chinh có nhắc nhở về mấy bài phê phán đó, đại ư như sau: các đồng chí phê b́nh cũng là phải thôi; nhưng cũng như một cây tre, vin xuống vừa phải th́ sức bật của nó sẽ lớn, nhưng vin mạnh quá th́ nó gẫy. Tôi hiểu ư đồng chí Trường Chinh nói là cần phải đấu tranh tư tưởng nhưng đừng nặng lời quá v́ lúc bấy giờ chúng ta đang cần đoàn kết để kháng chiến chống Pháp, mặc dầu đoàn kết không có nghiă là thủ tiêu đấu tranh"[46].

    Cuộc đấu tranh tư tưởng ở Khu Tư, sau Nguyễn Mạnh Tường, đến Trương Tửu, càng mănh liệt hơn.


    Còn tiếp ...

  10. #2570
    Tran Truong
    Khách

    Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) _ Chương 23

    ● Dự các hội nghị quốc tế

    Mặc dù đă từ chối vào Đảng và luôn giữ khoảng cách với chính quyền, nhưng Đảng vẫn phải nhờ Nguyễn Mạnh Tường trong việc đối ngoại, bởi khó t́m được người có đủ khả năng thay thế: Ông được cử đi dự ba Hội nghị quốc tế v́ tài hùng biện.

    Về Hội nghị Bắc Kinh, 1952, hiện không có tài liệu.

    Về Hội nghị Vienne, cuối 1952, đầu 1953, Boudarel phân tích khá kỹ: "Năm 1952, v́ v́ nhu cầu tuyên truyền và viễn ảnh những thương lượng mới về Đông Dương đi đôi với vấn đề Triều Tiên đang thảo luận, người ta đă lôi Tường trong nhà tù bóng tối ra ánh sáng. Ông được gọi đi Vienne dự hội nghị các dân tộc, do Phong Trào Hoà B́nh Thế Giới ảnh hưởng Liên Xô, tổ chức. Một lần nữa, ông lại làm phát ngôn viên khôn khéo và hùng biện cho chính phủ Hồ Chí Minh, dù ông không chia sẻ mọi quan điểm, nhưng đối với ông, chính phủ này, trước hết, bảo đảm nền độc lập.

    Chuyến đi Vienne đă có thể là cơ hội lư tưởng cho luật sư Nguyễn Mạnh Tường chạy sang phía bên kia. Nhưng không. Mặc. Ông trở về xứ. V́ yêu nước. V́ muốn độc lập cho Việt Nam, mà cũng v́ muốn làm thay đổi chế độ từ bên trong bằng sức mạnh của ngôn từ"[47].

    Bài phát biểu của Nguyễn Mạnh Tường tại hội nghị Vienne, viết thành Lettre à un ami de France - Thư gửi người bạn Pháp, lời lẽ khôn khéo, cảm động, để thuyết phục những người bạn Pháp hăy vận động cho việc ngừng chiến ở Việt Nam: "... Từ Vienne náo động âm nhạc hoà b́nh của tiếng xe hơi và tàu điện, tâm tư tôi hướng về đất nước đang rền vang tiếng đại bác. Từ Vienne chói ḷa ánh sáng, tôi nh́n qua hai mươi ngàn cây số xa, về những thành phố của chúng tôi đang bị thiêu huỷ; khi màn đêm buông xuống, nhờ bóng tối, máy bay ngưng cơn cuồng nộ, làng mạc, ruộng đồng, trỗi dậy sinh hoạt.

    Tôi thấy con trai tôi, trong đêm lạnh, tay mang sách vở, lần bước để nhập bọn với bạn bè và những người dân quê, qua những con đường ngoằn ngoèo, cùng họp nhau dưới căn nhà lá dùng làm trường học. Chúng thắp những ngọn đèn dầu nhỏ mà ánh sáng vàng vọt, mù khói làm cay mắt, ngứa cổ. Chúng ngồi bệt dưới đất, tay tựa vào cái bàn nhỏ bằng ḷng bàn tay, đem từ nhà đi. Thầy đến và lớp học bắt đầu. Chúng được học nhiều điều, đặc biệt là ḷng yêu mến các dân tộc, sự kính trọng con người và giá trị cần lao. Chắc các bạn cũng chẳng đến nỗi dửng dưng khi biết rằng những đứa con trai ấy c̣n học một ngoại ngữ, rằng ngoại ngữ ấy là tiếng Pháp và tiếng đầu tiên chúng được học là chữ AIMER[48]...

    Mỗi khi màn đêm buông xuống, chúng tôi giao cảm với nước Pháp đích thực, nước Pháp sống động, nước Pháp cụ thể, nước Pháp mà chúng tôi đă ngừng Yêu trong khổ đau nhức nhối, nước Pháp của Joliot-Curie, của Raymonde Dien, của Henri Martin, của nông dân, của thợ thuyền, của trí thức, của tất cả những ai đau khổ v́ nỗi khổ đau của chúng tôi, những ai đ̣i hỏi quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương, để bi kịch huynh đệ phải chấm dứt, để con cái chúng tôi khỏi bị đạn bom xé thành trăm mảnh mà chúng được nở hoa dưới ánh mặt trời của cuộc sống và được học tập trong hoà b́nh"[49].

    Bức thư dù tha thiết cũng không ngăn cản được cuộc chiến kéo dài đến 1954. Khi trở về nước, Nguyễn Mạnh Tường phải trực diện với bi kịch kinh hoàng Cải Cách Ruộng Đất, trong sự bất lực hoàn toàn.

    Ngày 22/5/1956, hội nghị Luật Gia Dân Chủ họp ở Bruxelles trong lúc phong trào NVGP đang manh nha, ông lại được "vời ra" lần nữa, và ông cũng lại dùng tài hùng biện để biện hộ cho sự thống nhất Việt Nam, theo quan điểm của miền Bắc. Nhân chuyến đi này ông được các luật gia Tiệp Khắc và Nga và mời sang Praha và Moscou.

    Khi trở về Hà Nội, ông đă nhận được rất nhiều vinh dự, nhưng ngày 30/10/1956, ông xuất hiện tại Mặt Trận Tổ Quốc với bài diễn thuyết lịch sử: Qua những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất, xây dựng quan điểm lănh đạo, làm thay đổi vận mệnh của chính ḿnh.

    Nguyễn Mạnh Tường nhớ lại: "Ngay khi trở về Hà Nội, tôi được phủ đầy "vinh dự". Khoa trưởng Đại Học Luật Khoa đang hấp hối, phó chủ tịch hội luật gia, thủ lănh luật sư đoàn, khoa phó Đại Học Sư Phạm, giáo sư đại học dạy văn chương Âu châu, ủy viên trung ương Mặt Trận Tổ Quốc và thành viên Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội; thành viên của hội Hữu Nghị Việt Pháp và Việt Xô, của Uỷ Ban Bảo Vệ Hoà B́nh, chủ tịch sáng lập Câu Lạc Bộ Đoàn Kết Trí Thức ... dư sức viết đầy hai mặt danh thiếp!

    Những "tước vị hoành tráng" này chẳng phiền hà ǵ tôi cả, cũng chẳng tổn thương đến ḷng khiêm tốn và tôi cũng không cảm thấy ḿnh to đùng hay bé lại. Chế độ cộng sản áp dụng lối sùng bái h́nh thức: Họ trang trí thế giới bằng những đồ giả. Những tước vị hào nhoáng, gáy to nhất, không để tưởng thưởng cho người sống mà cho những con nộm h́nh người có kẻ đứng sau lưng, trên đầu hay trong đám đó giật dây. Những diễn viên múa may trên khán đài thuộc thế giới xi-nê-ma quá đát, cinéma câm. V́ cộng sản và ciné câm ra đời cùng một lúc, cho nên người ta tự hỏi chẳng biết cái nào ảnh hưởng đến cái nào"[50].

    Nguyễn Mạnh Tường tiếp tục phân tích phong cách của Đảng: "Phải chăng Đảng đă ngó ngàng tới tôi và muốn thổi phồng tôi lên thành một trong những con khỉ bác học được đưa chạy ṿng quanh sân xiếc làm tṛ cười cho trẻ? Năm 1951, trong chiến khu miền Bắc, giữa kháng chiến chống Pháp, người ta đă đề nghị cho tôi vào Đảng, nhưng tôi từ chối vinh dự này. Năm 1946, khi đi theo kháng chiến với gia đ́nh và cha mẹ, tôi đă dâng hết của cải, gồm ba dinh thự ở Hà Nội cho Cách Mạng và Nhân Dân.

    Trong suốt thời gian kháng chiến, tôi chấp nhận mọi hy sinh và dùng cả hai nghề luật sư và giáo sư để phục vụ dân tộc. Là thành viên của các phái đoàn Việt Nam đi dự bốn hội nghị quốc tế, Đà Lạt 1946, Bắc Kinh 1952, Vienne 1953 và Bruxelles 1956, tôi đă giữ vai tṛ chủ động và đạt một vài thành quả khiêm nhường ...
    Có thể Đảng cũng muốn cho tôi một chứng chỉ tán thành bằng cách thăng cho những chức vụ dù chỉ là danh dự cũng có phần khả kính. Nhưng tôi thừa biết trí nhớ của Đảng tồi lắm, Đảng quên ngay công lao của cả những người ngày trước đă được Đảng công nhận, chỉ v́ tội làm Đảng nổi giận. Ngay cả những người cộng sản nổi tiếng, đă từng đi tù chung với những lănh đạo hiện ở trên ngai, cũng chẳng được hưởng ân sủng ǵ ngoài sự ngoan cố và độc ác của họ.

    Trong những ủy ban chỉ đạo các tổ chức quần chúng, Đảng có lệ đem những trí thức nổi tiếng vào làm phụ tá cho những đảng viên cầm cương, cầm lái. Những con rối ngồi trên chủ tọa đài, tuyên bố khai mạc và kết thúc các buổi hội thảo, được người ta uể oải vỗ tay và cũng uể oải vỗ tay đáp lễ. Cái lối hành xử này đă trở thành tập quán, chỉ để phô trương có sự cộng tác chặt chẽ giữa trí thức không đảng phái và những người cộng sản.
    Tôi biết thừa và chẳng ngạc nhiên ǵ. Tôi đợi bánh xe luân hồi của đạo Phật quay và sẵn sàng pḥng thủ, không để cho những bất trắc đánh bại"[51].


    Còn tiếp ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 3 users browsing this thread. (0 members and 3 guests)

Similar Threads

  1. Chuyện nghe được từ ngướ không quen
    By Dac Trung in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 10-10-2012, 12:25 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-05-2012, 10:37 PM
  3. Bắt Buộc Phải Nghe
    By Dean Nguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 19-01-2012, 08:34 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 31-07-2011, 05:33 PM
  5. Tưởng Niệm Tháng 4 Đen Nghe Nhạc Lính VNCH
    By Camlydalat in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 18
    Last Post: 25-04-2011, 06:28 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •