Page 1 of 9 12345 ... LastLast
Results 1 to 10 of 83

Thread: ANH HÙNG VÀ KẺ BỘI PHẢN" TRONG QUÂN LỰC VNCH,” MỘT TIẾNG NÓI MỚI VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM

  1. #1
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    ANH HÙNG VÀ KẺ BỘI PHẢN" TRONG QUÂN LỰC VNCH,” MỘT TIẾNG NÓI MỚI VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM

    ANH HÙNG VÀ KẺ BỘI PHẢN" TRONG QUÂN LỰC VNCH,” MỘT TIẾNG NÓI MỚI VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM



    Buổi ra mắt tác phẩm nghiên cứu lịch sử về chiến tranh Việt Nam của giáo sư Andew Wiest tại thành phố Falls Church có thể được xem là cơ hội để những người bạn cũ, những đồng đội cũ, của 40 năm trước gặp lại nhau. Họ có thể là những mảnh vụn, bị phân tán khắp nơi sau khi chia tay, để rồi, với tác phẩm nghiên cứu của Wiest, họ lại được sắp vào nhau như một khoa học ghép h́nh, góp phần tái lập lại h́nh ảnh đúng đắn hơn cho một quân đội, theo lời giáo sư Wiest, gần như chưa bao giờ được thế giới Tây Phương thừa nhận và đối xử công bằng.



    *Cuộc chiến không thể diễn tả hết bằng giấy mực

    Thành phố Falls Church, ngày 17 tháng Hai, năm 2008. Tại buổi lễ ra mắt tác phẩm nghiên cứu lịch sử của giáo sư Andrew Wiest. Tác phẩm có tên “Vietnam’s forgotten Army. Heroism and betrayal.”

    “Hăy cho tôi giải thích tại sao tôi viết cuốn sách này. Tôi chỉ mới 14 tuổi khi Sài G̣n thất thủ, c̣n quá trẻ cho cuộc chiến Việt Nam! Nhưng tôi đă nh́n thấy cuộc chiến ấy mỗi ngày, trên tivi, trong ánh mắt những thanh niên Hoa Kỳ đàn anh trở về từ chiến trường Việt Nam, trên khuôn mặt những người Việt Nam được các nhà thờ trong địa phương bảo trợ sang Hoa Kỳ sau cuộc chiến. Nhưng tôi cũng nhận ra một điều: không một ai có thể giải thích cuộc chiến ấy! Đối với tôi, đó là một bí ẩn. Và chắc hẳn, đó cũng là bí ẩn trung tâm của thế hệ chúng tôi. Và tôi quyết định đi t́m câu trả lời.” (Tiến sĩ Andrew Wiest)

    Andrew Wiest, giáo sư sử học, Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Tranh và Xă Hội tại đại học Southern Mississippi tŕnh bày nguyên ủy ra đời của tác phẩm “Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, Một Quân Đội Bị Quên Lăng. Anh Hùng và Kẻ Bội Phản.”

    Đối với Andrew Wiest, chiến tranh Việt Nam là một lớp học không có giáo sư, một cuốn sách không có tác giả, một điều cấm kỵ mà dường như hầu hết người Mỹ muốn quên đi.

    Wiest không chọn thái độ đó, và ông quyết định một phương pháp giảng dạy mới. Đó là, mời các cựu chiến binh đến giảng bài, và sau đó, chính ông đưa họ cùng các sinh viên sang Việt Nam, để t́m hiểu chiến trường của hơn 30 năm trước, và cũng để đi t́m diện mạo của một quân đội mà ông gọi là “bị bỏ quên.”

    “Trong thời gian ở Việt Nam, tôi gặp một người đàn ông có tên là Phạm Văn Đính, đă tham gia chiến tranh Việt Nam. Qua câu chuyện ông ta kể, tôi thấy ông ta là một bí ẩn. Tôi tin rằng, tôi sẽ cần phải nói chuyện với ông ta nhiều hơn nữa để học hỏi.

    Sau khi trở lại Hoa Kỳ, tôi hỏi rất nhiều người về Phạm Văn Đính. Tất cả đều nói, nếu tôi muốn biết nhiều hơn về Đính, có một người có thể kể cho tôi. Người đó tên là Trần Ngọc Huế, đă kết thúc cuộc đời binh nghiệp theo một con đường hoàn toàn khác Phạm Văn Đính.”

    Và cuốn sách ra đời. Tác phẩm của Wiest là một công tŕnh thuần túy lịch sử, nhưng cấu trúc được xây dựng lạ lùng, và chủ đề được tiếp cận nhân bản.


    C̣n tiếp...
    Last edited by Tigon; 23-10-2013 at 12:28 AM.

  2. #2
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    *Cuộc gặp gỡ định mệnh

    “Anh Hùng và Kẻ Bội Phảncũng đầy những con số, địa danh, tên gọi, tổn thất. Nhưng “Anh Hùng và Kẻ Bội Phản” không lạnh lùng, vô cảm. Tác phẩm được xây dựng trên 2 nhân vật chính, có thật, hoàn toàn có thể kiểm chứng trực tiếp hoặc gián tiếp. Hai nhân vật có tên Phạm Văn Đính và Trần Ngọc Huế.

    Cả hai gặp nhau trong một sự sắp xếp trớ trêu của định mệnh. Trước hết, họ là đồng hương, là người Huế, và cùng yêu cố đô với t́nh cảm mănh liệt. Cả hai đều chọn binh nghiệp. Sĩ quan Phạm Văn Đính, sinh năm 1937, tốt nghiệp trường Vơ Bị Thủ Đức, sĩ quan Trần Ngọc Huế, sinh năm 1942, tốt nghiệp Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt.

    Con đường binh nghiệp của cả hai sĩ quan trẻ gặp nhau tất cả 5 lần.

    Bốn lần đầu, trong vinh quang, khi cả hai cùng liên tiếp được thăng cấp rất nhanh trong vai tṛ sĩ quan tác chiến. Sự gan dạ và các chiến tích của họ được tác giả cuốn sách gọi là “Thời Đại Của Những Anh Hùng.”

    Lần gặp thứ năm, cũng là lần cuối cùng, cả hai không thể lường trước, về hoàn cảnh, về địa điểm, và cả tư thế. Lần gặp này, một trong hai người sẽ phải ân hận cho đến cuối đời.


    *Một quân đội anh hùng

    Tạm rời câu chuyện của Phạm Văn Đính và Trần Ngọc Huế để trở lại hành tŕnh t́m hiểu chiến tranh Việt Nam của tác giả Andrew Wiest.

    “Không như những ǵ thế giới Phương Tây đă nghĩ, miền Nam Việt Nam đă chiến đấu cực kỳ anh dũng trong 20 năm. Anh dũng hơn cả những ǵ mà thế giới Tây Phương, cho đến thời điểm này, vẫn viết, vẫn tin và vẫn h́nh dung. Trong các trận đánh, từ chiến trường nhỏ trước Mậu Thân, và mở rộng ra sau đó, họ đă chiến đấu rất can đảm và hiệu quả.”

    Wiest, ở tuổi 14 khi chiến tranh kết thúc. Có thể xem Wiest là thế hệ hậu chiến. Wiest, tại sao bị ám ảnh bởi cuộc chiến?

    Cuộc chiến tranh Việt Nam là vậy. Hăy nghe nhận định của giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, một diễn giả trong buổi ra mắt sách.

    “Những câu chuyện thân t́nh mà Trung Tướng William Bolt vừa kể về Trần Ngọc Huế cho thấy ông tin rằng Huế đă chết, thế mà đột nhiên ông ta lại xuất hiện. Cuộc chiến Việt Nam là như vậy. Khó hiểu thật.

    Tôi thuộc vào thế hệ chiến tranh, và tôi không thể lấy cuộc chiến ấy ra khỏi đầu tôi, rơ ràng là như vậy. Thế nhưng những thế hệ trẻ hơn, chẳng hạn giáo sư Wiest, tác giả cuốn sách này, th́ rơ ràng, cuộc chiến Việt Nam lại quay về, và ám ảnh chúng ta.”

    Hăy quay trở lại với hai sĩ quan trẻ Trần Ngọc Huế và Phạm Văn Đính. Hăy h́nh dung chiến trường Tchepone, Hạ Lào, gần 40 năm về trước.

    Một đêm cuối tháng Ba năm 1971, trong khuôn khổ chiến dịch Lam Sơn 719, Trần Ngọc Huế lúc đó đang ở Tchepone, bị thương và ngất lịm. Ông ra lệnh cấp dưới mở đường máu thoát thân, để ông lại trận địa nhằm tránh gây cản trở trên đường tháo lui. “Giấc Mơ Bị Vỡ Vụn,” là tên của chương sách nói về trường hợp sĩ quan Trần Ngọc Huế bị bắt làm tù binh.

    Về phần Phạm Văn Đính, trong giai đoạn cuối của hành quân Lam Sơn 719, được lệnh đưa đơn vị đến Khe Sanh để yểm trợ và đóng cửa căn cứ. Ṿng vây Bắc Việt xiết chặt, t́nh thế hiểm nghèo. Phạm Văn Đ́nh 2 lần nhận được yêu cầu của phía Bắc Việt: Đầu hàng để được toàn mạng. Trung tá Phạm Văn Đính quyết định đầu hàng, ở tuổi 35, khi c̣n 2 tháng nữa th́ được vinh thăng đại tá. “Kẻ Bội Phản” là chương sách nói về trường hợp của trung tá Phạm Văn Đính.

    Một năm sau, tại một trại tù binh ở Sơn Tây, trung tá Đính và thiếu tá Huế gặp nhau lần thứ năm.

    Huế bàng hoàng nhận ra, trung tá Đính của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa ngày nào, bây giờ đă là trung tá Đính quân đội nhân dân, đến gặp, nói chuyện và tế nhị chiêu dụ thiếu tá Huế hợp tác với miền Bắc.

    Th́ ra, chỉ một thời gian ngắn sau khi trung tá Đính đầu hàng, ông đă quyết định đổi bộ quân phục, hợp tác và được chuyển ngang cấp bậc sang phía quân đội Bắc Việt.

    Thiếu tá Huế từ chối hợp tác, bị giam đến năm 1973, có tên trong danh sách trao đổi tù binh theo Hiệp Định Paris. Ông được đưa đến địa điểm trao đối tù binh thuộc tỉnh Quảng Trị, có thể nh́n thấy cảnh cũ ở bên kia biên giới, tay đă chạm vào tự do, và rồi, một sĩ quan Bắc Việt tiến đến, nói rằng Huế bị bắt tại Lào nên không phải là tù binh của Bắc Việt. Ông không được trả tự do.

    Năm 1983, thiếu tá Huế ra tù, về sống tại Sài G̣n, sau đó sang Hoa Kỳ và định cư tại thành phố Falls Church, tiểu bang Virginia, cho đến nay.

    Trung tá Phạm Văn Đính th́ đă qua đời hồi năm ngoái, tại Việt Nam, sau một lần sang Hoa Kỳ để trả lời phỏng vấn của tiến sĩ Wiest, tác giả cuốn sách đang được nói đến. Tại đây, những đồng đội ngày xưa, tức những kẻ thù bây giờ, kể cả các cố vấn Hoa Kỳ, từ chối gặp mặt ông.

    *Lịch sử không công bằng


    Tác giả Wiest khẳng định, quân lực Việt Nam Cộng Ḥa là một quân lực bị bỏ quên. Trong tư thế một sử gia, Wiest khẳng định, bằng chính nghiên cứu của ḿnh, rằng quân lực Việt Nam Cộng Ḥa là một quân lực anh dũng, đă chiến đấu trong cuộc chiến 20 năm để bảo vệ tự do.
    Quân lực ấy có rất nhiều anh hùng, nhưng không được lịch sử đối xử công bằng. Wiest nói, Tây Phương chỉ viết về chiến tranh Việt Nam như một cuộc chiến chỉ có người Hoa Kỳ đánh nhau.

    Thực tế không phải như vậy, và càng không phải như vậy khi người Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam. Hăy nghe thiếu tướng Creighton Abrams, con trai cố đại tướng Abrams nhắc lại những ǵ thân phụ ông suy nghĩ.

    “Một sĩ quan người Anh đă phát biểu về cha tôi, rằng Abrams giỏi lắm, rất giỏi. Đáng lư ra ông ta phải có một cuộc chiến tốt hơn. Tôi không đồng ư với nhận định ấy. Đến hôm nay tôi vẫn tin, cũng như cha tôi đă từng nói, quân đội miền Nam Việt Nam đáng cho những ǵ tốt nhất mà ông đă ra công. Và ông thấy hănh diện đă từng cùng họ phục vụ một cuộc chiến mà kết thúc cuối cùng không như mong muốn.”

    Để kết thúc, xin được giới thiệu trích đoạn trong lời đề tựa trên tác phẩm “Anh Hùng và Kẻ Bội Phản.” Lời đề tựa do thượng nghị sĩ James Webb, cựu Bộ Trưởng Hải Quân, và cũng là cựu chiến binh Việt Nam, viết, có đoạn đại ư như sau:

    Câu chuyện của Phạm Văn Đính và Trần Ngọc Huế không phải là những câu chuyện dễ cảm nhận. Điều quan trọng không phải là nh́n vào một Việt Nam vươn ḿnh từng năm một vào cộng đồng thế giới. Để hiểu được hai hành tŕnh trái ngược này, phải nh́n vào một Việt Nam những ngày đầu thoát ra khỏi bóng tối của cuộc chiến.

    Hăy nh́n như vậy, để cảm nhận một Trần Ngọc Huế chiến sĩ dũng cảm, trả giá đắt cho ḷng trung thành nhưng chẳng bao giờ phải trả lời câu hỏi về danh dự. Trong khi đó, con đường mà Phạm Văn Đính đă chọn, ít đau đớn hơn, nhưng lại trở nên phức tạp hơn ở hồi kết thúc.”


    Tác giả Wiest nói rằng, sự chọn lựa của hai nhân vật chính, nhất là quyết định “thay đổi bộ quân phục” của Phạm Văn Đính, sẽ do chính độc giả tự đánh giá. Mục đích của Wiest là, thông qua câu chuyện của hai sĩ quan này, tŕnh bày lại sự thật về một quân đội quả cảm nhưng bị đối xử thiếu công bằng về mặt lịch sử.

    Mà đó cũng là công việc của Wiest, một sử gia. Có người đă từng phát biểu, rằng “không có sử gia, sự thật sẽ vĩnh viễn nằm trong bóng tối.”

    Andrew Weist, thông qua “Anh Hùng và Bội Phản,” đă phần nào đưa được sự thật ra ánh sáng.

    http://www.rfa.org/vietnamese/in_dep...-20080219.html

  3. #3
    Member
    Join Date
    29-05-2012
    Posts
    396

    Có ǵ sai không ?

    Trích :
    Về phần Phạm Văn Đính, trong giai đoạn cuối của hành quân Lam Sơn 719, được lệnh đưa đơn vị đến Khe Sanh để yểm trợ và đóng cửa căn cứ. Ṿng vây Bắc Việt xiết chặt, t́nh thế hiểm nghèo. Phạm Văn Đ́nh 2 lần nhận được yêu cầu của phía Bắc Việt: Đầu hàng để được toàn mạng. Trung tá Phạm Văn Đính quyết định đầu hàng, ở tuổi 35, khi c̣n 2 tháng nữa th́ được vinh thăng đại tá. “Kẻ Bội Phản” là chương sách nói về trường hợp của trung tá Phạm Văn Đính

    Người đầu hang ở Lam sơn 719 là Ông khác . C̣n Ông Phạm văn Đính Trung đoàn trưởng của Sư đoàn 3, đầu hang năm 1972 ở Trại Caroll khi quân BV vậy chặt và 2 lần kêu gọi đầu hàng (nếu tôi nhớ không lầm) .

  4. #4
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Quote Originally Posted by nguyenthiep View Post
    Trích :
    Về phần Phạm Văn Đính, trong giai đoạn cuối của hành quân Lam Sơn 719, được lệnh đưa đơn vị đến Khe Sanh để yểm trợ và đóng cửa căn cứ. Ṿng vây Bắc Việt xiết chặt, t́nh thế hiểm nghèo. Phạm Văn Đ́nh 2 lần nhận được yêu cầu của phía Bắc Việt: Đầu hàng để được toàn mạng. Trung tá Phạm Văn Đính quyết định đầu hàng, ở tuổi 35, khi c̣n 2 tháng nữa th́ được vinh thăng đại tá. “Kẻ Bội Phản” là chương sách nói về trường hợp của trung tá Phạm Văn Đính

    Người đầu hang ở Lam sơn 719 là Ông khác . C̣n Ông Phạm văn Đính Trung đoàn trưởng của Sư đoàn 3, đầu hang năm 1972 ở Trại Caroll khi quân BV vậy chặt và 2 lần kêu gọi đầu hàng (nếu tôi nhớ không lầm) .
    Tác giả đă mời và gặp Trung tá Phạm Văn Đính tại Mỹ , không lẽ lại viết sai ?

    Anh Thiệp t́m lại nguồn rồi email cho tác giả biết là họ sai

  5. #5
    Member TuDochoVietNam's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Location
    Texas
    Posts
    1,399
    Quote Originally Posted by Tigon View Post
    Tác giả đă mời và gặp Trung tá Phạm Văn Đính tại Mỹ , không lẽ lại viết sai ?

    Anh Thiệp t́m lại nguồn rồi email cho tác giả biết là họ sai
    Lt colonel Pham Van Dinh surrendered his entire regiment and defected to the enemy during the Easter Offensive of 1972. Trung Đoàn 56, Sư Đoàn 3 BB. Đó là chiến cuộc Mùa Hè Đỏ Lửa cùng thời với trận An Lộc, Kontum, khác với trận Hạ Lào Lam Sơn 719 (1971).

  6. #6
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Nhận định về trường hợp của Trung đoàn trưởng Phạm Văn Đính, cựu Trung tướng Ngô Quang Trưởng đă viết trong hồi kư như sau:

    Sư đoàn đă không yểm trợ cho Trung tá Đính đầy đủ và Quân đoàn đă quên ông, ông muốn được triệt thoái khỏi căn cứ bao vây nhưng Tướng Giai không chấp thuận. Nhận thấy không c̣n hy vọng và muốn bảo vệ tính mạng của binh sĩ của ḿnh càng nhiều càng tốt, Trung tá Đính họp tất cả sĩ quan bộ chỉ huy, các đơn vị trưởng trực thuộc và tuyên bố ư định ngưng chiến đấu. Ông ra lệnh cho treo một miếng vải trắng ở cổng trại. Tiếp đó, việc liên lạc vô tuyến với Cộng quân đă được thực hiện và các thỏa thuận về buông súng tiến hành.

    Trung tá Đính dẫn một toán quân 600 người ra khỏi trại đi đến điểm hẹn với địch. Số quân c̣n lại không chịu đầu hàng rút về hướng đông.

    Trong nhóm quân không chịu đầu hàng có Pháo đội B1 TQLC. Đây là đơn vị tăng phái đi theo TD 4 TQLC đóng nhờ trong căn cứ Carroll. Theo tường tŕnh, PD B1 TQLC đă dùng đại bác bắn trực xạ cho đến khi bị tràn ngập.


    Phần toán quân rút đi, về đến pḥng tuyến VNCH được khoảng 1000 người.

    http://www.mekongrepublic.com/vietna...n_find&sID=300

  7. #7
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Về việc Trung Tá Đính đem 600 binh sĩ đầu hàng ( trong lúc 1000 binh sĩ không chịu ), tôi không dám có ư kiến

    Nhưng việc ông THAY ÁO th́ không chấp nhận được

    Ông đă nhận quân hàm Trung Tá Quân Đội Nhân Dân , và c̣n đi chiêu dụ các sĩ quan bạn đầu hàng th́ đúng là KẺ PHẢN BỘI như tác giả của cuốn sách , Tiến Sĩ Wiest , đặt tựa

  8. #8
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Kẻ Phản Bội

    Giữa năm 1970, Trung tá Đính được bổ nhiệm làm Trung đoàn phó TRD 54 BB và đến tháng 10/1971, được cử làm Trung đoàn trưởng TRD 56 tân lập khi chưa đầy 30 tuổi. Là một sĩ quan có nhiều chiến công trong các trận đụng độ với Cộng quân tại chiến trường Quảng Trị-Thừa Thiên từ 1964 đến 1971, qua các chức vụ trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, rồi trung đoàn trưởng, nên sự kiện đầu hàng tại căn cứ Carroll của Trung tá Đính là một điều mà chính Tướng Giai không thể tin đó là sự thật.

    Riêng về sự việc ngưng chiến đấu của Trung tá Phạm Văn Đính đă là một cú sốc lớn đối với Bộ Tư lệnh SD 3 BB.

    Theo tài liệu của cựu Đại tá Turkley, Cố vấn Sư đoàn TQLC, có mặt tại Quảng Trị khi trận chiến xảy ra, trước giờ căn cứ thất thủ, Trung tá Đính đă họp với các sĩ quan thuộc quyền quyết định đầu hàng. Sau đó ông đă thông báo nội dung buổi họp cho Trung tá William Camper, Cố vấn trưởng. Trung tá Camper gọi về Trung tâm Hành quân SD 3 BB cho biết nhiệm vụ của ông ta ở căn cứ Carroll chấm dứt và xin được di tản. Khi trực thăng bốc toán cố vấn đi th́ vừa lúc đó, chiến xa Cộng quân tràn vào, một lá cờ trắng đă treo ở trước cổng Bộ Chỉ huy.



    http://www.mekongrepublic.com/vietna...n_find&sID=300
    Last edited by Tigon; 23-10-2013 at 01:55 AM.

  9. #9
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Trần Ngọc Huế , chiến binh anh dũng và trung thành với Tổ Quốc


    FALLS CHURCH, Virginia (NV) - “Harry Trần Ngọc Huế là một chiến binh lỗi lạc và ông đă phải trả giá đắt cho sự trung thành với tổ quốc ḿnh trong cuộc chiến Việt Nam.” Đó là lời mà Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ James Webb (Dân Chủ-Virginia) viết về người cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (QLVNCH) này trong một bức thư đề ngày 4 Tháng Tư vừa qua.

    Qua một người bạn giới thiệu, tôi được gặp người đàn ông mà nhiều người trong Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, trong đó có Thượng Nghị Sĩ Webb, từng là bộ trưởng Bộ Hải Quân, gọi là “anh hùng của những anh hùng (Hero of the Heroes).”

    Tướng cao to, khỏe mạnh, mặc dù tuổi đă ngoài 60, bàn tay trái chỉ c̣n hai ngón nguyên vẹn, cộng với một vài vết thẹo trên khuôn mặt và phía dưới cằm, ít ai ngờ rằng, con người này đă từng vào sinh ra tử biết bao lần, nhất là cuộc chiến lấy lại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh và Đại Nội Huế, hồi Tết Mậu Thân 1968.

    V́ những hành động anh hùng của ḿnh, ông Harry Trần Ngọc Huế đă được Hoa Kỳ tặng thưởng một huy chương “Ngôi Sao Bạc” (Silver Star) và một huy chương “Ngôi Sao Đồng” (Bronze Star). Ngoài ra, ông cũng được chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa tặng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương cùng nhiều huy chương cao quư khác. Harry là tên các cố vấn Mỹ đặt cho ông.

    Cuộc tái chiếm Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh

    Là đại đội trưởng Đại đội Hắc Báo, lực lượng tổng trừ bị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH, Trung úy Trần Ngọc Huế đă khôn khéo và dũng cảm chỉ huy trận chiến một mất một c̣n với quân đội Bắc Việt để lấy lại quyền kiểm soát Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, nơi đầu năo chỉ huy tái chiếm lại Huế vào Tết Mậu Thân 1968.

    Người cựu chiến binh này kể: “Lúc đó, Đại đội Hắc Báo của chúng tôi là Lực Lượng Phản Ứng Cấp Thời (Fast Reaction Forces) đóng tại sân bay Thành Nội. Đêm đó là mùng một Tết và quân đội Bắc Việt đă tấn công nhà đèn, Thiết Đoàn 7 Thiết Giáp, Phú Văn Lâu, Ṭa Hành Chính Tỉnh và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1. Ngoài đường phố tràn ngập lính Bắc Việt, phi trường bị pháo kích dữ dội...”

    Ông kể tiếp: “Chúng tôi có 6 trung đội, sau khi bố trí quân, tôi về nhà nghỉ. Một lúc sau, thấy pháo dữ dội quá, tôi trở dậy, mặc đồ lính đi. Trong đêm tối, tôi thấy đặc công Bắc Việt đi hàng hàng lớp lớp ngoài đường.”

    “Lúc đó, tôi rất lưỡng lự, không biết có nên đi hay không v́ con gái đầu ḷng của tôi mới sinh được một tháng. Tôi có thể trở về nhà với vợ con, nhưng nghĩ lại trách nhiệm của người lính và một chỉ huy. Hơn nữa, nếu nước mất nhà tan, th́ chưa chắc gia đ́nh tôi yên ổn. Thế là tôi tiếp tục đi phía sau họ để đến phi trường,” người anh hùng này kể tiếp.

    Khi đến sân bay, theo lời ông kể, đặc công Bắc Việt đă tiếp cận bộ chỉ huy Đại đội Hắc Báo của Trung úy Huế.

    “Họ chiến đấu rất hăng say. Họ mặc quần đùi, đeo súng AK bá xếp. Tuy nhiên, các anh em Hắc Báo đă dũng cảm chiến đấu và đánh bật đối phương ra khỏi phi trường. Chúng tôi cứu được hai lính thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, lúc đó có nhiệm vụ bảo vệ phi trường, khỏi tay quân địch,” ông Huế kể tiếp.

    Sau đó, đơn vị Hắc Báo lại được lệnh của Trung tá Ngô Văn Chung, trưởng pḥng 3, Sư Đoàn 1, qua giải cứu Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, đang bị địch vây hăm.

    “Liền đó, tôi nghe trên điện đàm tiếng Trung tá Chung nói: Đây là lệnh của mặt trời (ẩn danh của Tướng Ngô Quang Trưởng). Nếu không thi hành sẽ bị đưa ra ṭa án mặt trận”. Ông Huế kể.

    Qua hệ thống vô tuyến chỉ huy, ông Huế cũng nghe được lệnh của Trung tá Chung ra lệnh cho Thiết Đoàn 7, đồn trú tại An Cựu, đưa xe tăng sang cứu Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn.

    “Tuy nhiên, Trung tá Chí, thiết đoàn trưởng Thiết Đoàn 7 Thiết Giáp, cho sư đoàn biết là hiện tại bộ chỉ huy của ông đang bị pháo và đặc công uy hiếp nặng nề,” ông Huế kể tiếp.

    Sau khi ổn định t́nh h́nh, Trung úy Huế tập trung anh em Hắc Báo lại và ban lệnh hành quân kế tiếp.

    Ông kể: “Tôi nói với anh em rằng, một nửa đại đội pḥng thủ phía Nam sông Hương đă chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và tôi đă mất liên lạc. Nay Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đang bị vây hăm, t́nh thế thập tử nhất sinh, tất cả đều trông cậy vào Hắc Báo chúng tôi. V́ sự sống c̣n của anh em và gia đ́nh, v́ sự sống c̣n của đồng bào và thành phố, chúng tôi quyết phải đánh, dù bất cứ giá nào.”

    Sau khi nghe đại đội trưởng Huế nói, tất cả đều hô to “Xin thề! Xin thề! Xin thề!” và “Huế ơi, có chúng tôi đây!”

    Đó là lời thề của các chiến sĩ Hắc Báo trước khi xung trận,” cựu đại đội trưởng Hắc Báo cho biết tiếp.


    Nhờ sống ở Huế lâu và rất rành đường đi nước bước trong thành phố, nên ông Huế dễ dàng dẫn quân luồn lách qua những ngả đường, đến nơi mà địch hoàn toàn không biết.

    Người cựu chiến binh QLVNCH này say sưa kể: “Khi đến bên này Cầu Kho, tôi thấy bên kia cầu, gần cổng chính vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, địch đang lúc nhúc đào công sự, chuẩn bị tấn công. Bên trong bộ tư lệnh không thể nào ra được. Ngoài nhân viên Việt Nam c̣n có một số cố vấn Mỹ trong đó. Nếu bộ tư lệnh mà bị chiếm là coi như rắn mất đầu. Thế là chúng tôi phải dốc toàn lực đánh một mất một c̣n với địch.”

    Theo ông Huế, Hắc Báo là đơn vị đầu tiên của Sư Đoàn 1 có súng M16, được coi là tối tân nhất lúc đó. Họ cũng sử dụng súng phóng hỏa tiễn M72, đại liên 30ly và đại bác 57ly không giật.

    “Từ bên này cầu, tôi cho bố trí ba khẩu đại liên bắn trực xạ làm quân địch rối loạn. Cùng lúc đó, chúng tôi dùng cả lựu đạn khói làm địch không thấy đường. Sau khi hy sinh một tiểu đội, chúng tôi chiếm lại cầu và mở đường vào bên trong bộ tư lệnh,” ông Huế kể tiếp như vậy.

    Người đầu tiên Trung úy Huế gặp khi vào bên trong bộ tư lệnh là Trung tá Trần Văn Cẩm, tham mưu trưởng sư đoàn. Trung tá Cẩm liền chỉ cho đại đội trưởng đại đội Hắc Báo biết nơi địch quân đang chiếm đóng trong khu vực. Đó là khu vực Đại đội 1 Quân Y Sư Đoàn, bệnh xá và câu lạc bộ.

    “Không chần chờ, tôi cho lệnh chiến đấu,” ông Huế kể.

    Đơn vị Hắc Báo dùng lựu đạn đi đến tấn công từng pḥng, giết và bắt một số tù binh một cách dễ dàng.

    “Chiến thuật của Hắc Báo lúc đó là cận chiến nhằm bắt sống tù binh để khai thác. Nếu không được mới dùng lựu đạn tấn công,” ông Huế cho biết như vậy.

    Tôi hỏi: “Làm sao mà đặc công có thể thoát băi ḿn để vào được bên trong bộ tư lệnh nhiều thế?”

    “Đó là một đường cống, lỗ thoát nước. Đó chính là nơi mà đặc công ḅ vào,” ông trả lời.

    “Sau khi chiếm cửa hậu phía Bắc của thành Mang Cá, tôi thấy một cảnh hăi hùng. Địch đang ḅ lê ḅ càng dọc theo bên ngoài bờ thành. Thế là các khẩu đại liên của Hắc Báo cứ thế mà ‘quét’ vào. Cuộc chiến bắt đầu từ 10 giờ sáng mà măi đến 3 giờ chiều mới kết thúc,” ông Trần Ngọc Huế nói.

    Ông nói tiếp: “Lúc đó, chúng tôi chiến đấu với tinh thần sống tự do hay là chết.”

    Ngay sau đó, ông đă được tặng thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc (Gallantry Cross with Silver Star) do chính Tướng Creighton Abrams, tư lệnh Các Lực Lượng Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, gắn lên ngực áo. Cũng trong dịp này, ông được lên đại úy và chính Tướng Ngô Quang Trưởng gắn lon cho ông.

    Ngày 19 Tháng Sáu, 1969, Ngày Quân Lực VNCH, ông Trần Ngọc Huế được thăng cấp thiếu tá.

    C̣n tiếp...

  10. #10
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Viên ngọc của “Huế”


    Sinh ra và lớn lên tại Huế, cái tên Trần Ngọc Huế của ông c̣n có nghĩa là “ḥn ngọc của Huế xuất phát từ nhà Trần.”

    Năm 12 tuổi ông đă vào trường Thiếu Sinh Quân. Sau khi đậu tú tài, chàng thanh niên Trần Ngọc Huế vào trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, khóa 18. Ra trường năm 1963, ông được điều ngay về Sư Đoàn 1 Bộ Binh.

    Kể từ năm 1969, ông lần lượt làm tiểu đoàn trưởng các tiểu đoàn 1/3, 5/2 và 2/2 thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh.

    Tháng Ba, 1971, Tiểu Đoàn 2/2 của ông cùng với các tiểu đoàn khác, dưới sự chỉ huy của Đại tá Ngô Văn Chung, trung đoàn trưởng Trung Đoàn 2, được điều động tham gia cuộc hành quân Lam Sơn 719 với nhiệm vụ đột kích bằng trực thăng vận vào mục tiêu chiến lược Tchepone, Nam Lào. Theo kế hoạch, sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiếm và kiểm soát mục tiêu chính của cuộc hành quân, ông Huế sẽ được Tướng Phạm Văn Phú đáp trực thăng xuống gắn lon trung tá và tiểu đoàn của ông sẽ được lệnh hành quân về phía Tây Nam Lào, giải vây cho hai tiểu đoàn 3/3 và 4/3.

    Sau khi giải vây được cho tiểu đoàn bạn, Tiểu Đoàn 2/2 lại bị địch bao vây.

    Ông Huế kể: “Lúc đó, pháo bắn vào dữ quá. Tôi bị thương nặng nơi mặt, đầu và cổ. Ban chỉ huy ra lệnh mở đường máu rút lui. Anh em đ̣i khiêng tôi rút lui, nhưng tôi không chịu. Tôi không muốn anh em bị thiệt hại v́ mang tôi đi. Chúng tôi xuống 600 người nhưng chỉ thoát được 50 người. Toàn bộ số c̣n lại bị bắt hoặc hy sinh. Đó là ngày 21 Tháng Ba, 1971.”

    Sau đó, ông Huế được anh em tù binh khiêng đi dọc đường ṃn HCM về tới Vĩnh Linh. Phía địch quân đưa ông lên xe lửa và mang ra nhốt tại nhà tù Hỏa Ḷ. Vài tháng sau, ông bị đưa lên nhốt ở các trại tại Sơn Tây, Hoàng Liên Sơn, Yên Bái, Lạng Sơn và Cao Bằng.

    Ông Huế kể tiếp: “Sau khi Hiệp Định Paris được kư kết hôm 27 Tháng Giêng, 1973, theo quy định, địch phải thả tôi. Lúc đó, tôi đang ở Kỳ Cùng th́ địch đưa về Hà Tây. Sau đó, họ đưa tôi cùng một số anh em khác vào bờ sông Thạch Hăn để trao trả tù binh. Nhưng tự nhiên địch chia chúng tôi ra làm hai nhóm, nhóm bị bắt tại các nơi khác và nhóm bị bắt ở Lào. Lúc đó, tôi đă mường tượng một điều ǵ đó không tốt.”

    “Các anh bị bắt ở Lào là thuộc quyền Mặt Trận Lào Yêu Nước,” một cán bộ Bắc Việt nói với ông Huế như vậy, theo lời kể của ông.

    Ông kể tiếp: “Thế là họ đưa chúng tôi về ngă ba Đường Thành, Hà Nội, và giam tiếp. Chúng tôi phản đối bằng cách tuyệt thực và cạo đầu. Thế là chúng c̣ng tay và đánh đập chúng tôi. Sau đó, chúng tôi bị đưa đi Yên Bái và nhốt cách ly. Kế đến, chúng lựa ra 11 người đầu năo, trong đó có tôi, đưa lên nhốt ở Cao Bằng.”

    “Năm 1974, chúng tôi bị đưa về Nghĩa Lộ làm trại cải tạo chuẩn bị đón thêm tù binh. Sau đó, chúng tôi lại bị đưa trở lại về Yên Bái để làm đường chiến lược Tây Bắc,” ông kể tiếp.

    Năm 1978, khi Việt Nam rục rịch chiến tranh với Trung Quốc, ông Huế lại bị đưa về Nam Hà. Đến Tháng Tư, 1982, ông được chuyển về Hàm Tân. Tháng Bảy, 1983, ông được thả.

    Về Sài G̣n, ông bị quản thúc tại gia trong nhiều năm cho đến năm 1991, ông sang Hoa Kỳ diện cựu sĩ quan chế độ cũ.

    Cuộc sống mới tại Hoa Kỳ

    Hồi ở Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 1, ông Huế có một người bạn thân là David Wiseman, lúc đó là cố vấn Mỹ. Ông Wiseman cũng từng bị thương ba lần tại Việt Nam và rất cảm kích tinh thần chiến đấu của người bạn Trần Ngọc Huế.

    Sau năm 1975, ông David Wiseman không biết người bạn của ḿnh sống chết ra sao. Ông cầm tấm h́nh của ông Huế đi khắp vùng thủ đô Washington D.C. và đưa cho mọi người xem. Mỗi lần ông đưa tấm h́nh ra, ông đều nhận được một cái lắc đầu.

    Cho đến một hôm, ông Wiseman tham dự một buổi tiệc gây quỹ của Hội Gia Đ́nh Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam tại Virginia và gặp ông Ngô Đức Am, em rể của bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch hội.

    Thật là may mắn cho ông Wiseman v́ ông Am chính là người ở chung trại tù với ông Huế.

    Sau khi xem tấm h́nh, ông Am cho ông Wiseman biết ông Huế vẫn c̣n sống ở Việt Nam. Thế là ông Wiseman t́m cách liên lạc với ông Huế.

    Việc đầu tiên là ông Wiseman gởi cho ông Harry một bức thư ngắn trong đó kèm theo năm tờ giấy $20. Bức thư chỉ có vài hàng: “Harry, tôi biết anh c̣n sống. Tôi đă t́m anh 20 năm nay. Tôi sẽ t́m mọi cách đưa anh sang Mỹ. Nếu anh qua Mỹ tôi sẽ giúp. Nếu anh muốn ở lại, tôi sẽ gởi tiền về giúp. Anh c̣n thích hút thuốc Salem không?”

    Khi đến Hoa Kỳ năm 1991, chính ông Wiseman là người ra đón gia đ́nh ông Huế tại phi trường Washington National Airport. Sau đó, ông Wiseman lo mướn nhà cho gia đ́nh ông Huế, giúp mua sắm một số vật dụng cần thiết.

    Theo ông Huế cho biết, ông Wiseman đă qua đời cách đây bốn năm.

    Kể từ khi biết Harry đến Hoa Kỳ, các cố vấn Mỹ, mà nhiều người sau này trở thành bạn thân và coi Harry như anh em ruột, gọi điện thoại và đến thăm tới tấp. Ai cũng muốn giúp ông ổn định cuộc sống mới.

    Năm 1994, nhờ bạn bè Mỹ giúp đỡ, cựu chiến binh Trần Ngọc Huế và ba cô con gái, Coco, Vicky và Elly, vào làm cho ngân hàng Navy Federal Credit Union cho đến nay.

    Một người lính đầy danh dự

    Dù trong hoàn cảnh nào, cựu chiến binh Harry Trần Ngọc Huế luôn giữ được khí tiết và danh dự của một người lính QLVNCH. V́ thế, ông được nhiều người rất kính nể.

    “Mỗi người có một cách sống riêng. Bản thân tôi luôn sống với danh dự của một quân nhân QLVNCH. Người ta (các cố vấn Mỹ) đă rời bỏ quê hương sang giúp ḿnh th́ ḿnh phải giúp họ hoàn thành nhiệm vụ. Sống với họ phải sống xứng danh quân đội VNCH. V́ thế, tôi có những cảm t́nh rất khó tin với các cố vấn Mỹ,” ông Huế chia sẻ như vậy.

    Ông Ned Devereaux, cố vấn cũ và từng bị thương với ông cố vấn Wiseman và ông Huế ngày 8 Tháng Mười Một, 1970, cho biết: “Khi tôi gặp Harry lần đầu tiên, tôi biết ngay ông là một người lính chuyên nghiệp, một sĩ quan chuyên nghiệp, một người mà khi ra lệnh tôi sẽ theo ngay, không thắc mắc. Harry đă làm tôi cảm thấy ḿnh là một thành viên trong gia đ́nh quân đội của ông. Những ǵ ông làm đă giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ dễ dàng.”

    “Nếu phải viết một câu về Harry, tôi sẽ viết, Harry thật sự là một anh hùng, một người trung thành với tổ quốc, cấp trên, gia đ́nh và binh sĩ của ḿnh và tôi coi Harry như một người anh em cùng huyết thống và thật sự kính nể ông,” ông Devereaux viết như vậy trong email gởi cho tôi.

    Ông Thái Quang Ty, một trung sĩ đại đội Hắc Báo tham gia trận đánh lấy lại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, đang sống tại thành phố Atlanta, Georgia, kể: “Anh Huế là một chỉ huy tài giỏi và mưu lược. Lúc tôi ở cùng đơn vị với anh, Hắc Báo đánh đâu thắng đó, chưa thua một trận nào. Ở mỗi trận đánh, anh đều quan sát trước địa h́nh trước khi giàn quân. Các chỉ huy khác thường xua binh sĩ đi trước, riêng bản thân anh lúc nào cũng đi sát binh sĩ. Chính v́ vậy làm cho tinh thần anh em hăng say.”

    Qua điện thoại, ông Richard Weyand, cố vấn đại đội Hắc Báo từ năm 1967 đến 1969 và hiện sống tại thành phố Kenosha, Wisconsin, nói: “Harry là người dấn thân nhất cho cuộc chiến. Cách chỉ huy của ông, sự trung thành của ông và sự can đảm của ông làm tôi tự hào khi được làm việc với ông trong hai năm trời.”

    Một cố vấn khác của đơn vị Hắc Báo, ông William Bolt, hiện là trung tướng hồi hưu sống tại thành phố Columbia, South Carolina, kể qua điện thoại: “Trong một trận đánh tại phía Nam thành phố Huế vào cuối năm 1968, chính ông Harry đă cơng ông Richard Weyand ra sau khi ông này bị thương trong một băi ḿn. Harry quả thực là một người can đảm. Ông là một người yêu nước và là người hy sinh nhiều nhất cho đất nước của ông mà tôi được biết.

    Khi Giáo Sư Sử Học Andrew Wiest, trường đại học University of Southern Mississippi, chuẩn bị viết tác phẩm “Vietnam's Forgotten Army, Heroism and Betrayal in the ARVN,” ông vô t́nh biết được Harry Trần Ngọc Huế qua ông Jim Coolican, cựu Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và là cố vấn của ông Huế hồi Tết Mậu Thân 1968.

    Giáo Sư Wiest kể: “Tôi sang thăm Việt Nam năm 2000 và thấy rất nhiều. Một điều tôi ít thấy nói đến là QLVNCH. Về Mỹ tôi quyết định viết một cuốn sách về đề tài này. Trong lúc nghiên cứu t́m tài liệu, nhiều người cho tôi biết phải t́m và viết về Harry Trần Ngọc Huế. Thế là tôi nhờ cựu cố vấn Jim Coolican giúp tôi.”

    “Tôi nghĩ Harry là một biểu tượng xứng đáng nhất của Việt Nam và Hoa Kỳ. Cũng như bao nhiêu người khác sau chiến tranh, đến Hoa Kỳ với hai bàn tay trắng. Giờ đây, cả ba cô con gái của ông đều tốt nghiệp đại học và có việc làm ổn định. Harry đă thực hiện được giấc mơ Mỹ của ḿnh,” giáo sư này nói tiếp.

    Ông kết luận: “Harry là người yêu nước nhất mà tôi gặp từ trước đến nay.”

    Vào Tháng Mười Hai tới đây, Giáo Sư Andrew Wiest sẽ cho ra mắt tác phẩm nêu trên.

    http://batkhuat.net/tl-chienbinh-anhdung.htm

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 21
    Last Post: 28-11-2012, 01:27 PM
  2. Replies: 2
    Last Post: 07-07-2012, 07:04 AM
  3. Replies: 1
    Last Post: 08-08-2011, 10:54 PM
  4. Replies: 2
    Last Post: 09-07-2011, 06:02 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 03-12-2010, 02:52 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •