Page 3 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 21 to 30 of 42

Thread: HĂY TRẢ LẠI " DẤU NẶNG " CHO CÂU TỤC NGỮ ẤY

  1. #21
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tranh không cần lời



  2. #22
    Member
    Join Date
    13-06-2011
    Posts
    4,171
    Quote Originally Posted by Tigon View Post
    Tranh không cần lời


    Nói lên sự thật thà viết theo âm hưởng "2 nút"
    Last edited by Viet xưa; 04-12-2013 at 12:56 AM.

  3. #23
    Member
    Join Date
    13-06-2011
    Posts
    4,171
    Quote Originally Posted by Tigon View Post

    .. Hơn nữa, lúc đầu VC lại cố tránh dùng chữ Hán Việt để tuyên truyền là tranh đấu cho dân tôc Việt Nam được độc lập. Họ sáng chế ra những từ không thể nào nghe được, như “xưởng đẻ”.
    Cái giả nhân giả nghĩa trong Policy của VC tuyên truyền lừng danh gọi là "tránh dùng chữ Hán Việt" để che đậy sự thuần phục chế độ BK .

    Tránh cái ǵ nổi mà tránh ,khi c̣n tiếp tục xài "Lính thuỷ đánh bộ" trong chữ "thuỷ" là Hán Việt hay Việt nguyên chất vậy! .

    KHi c̣n tiếp tục xài chữ "Ngụỵ" của tích Tào Tháo ...(vụ tránh dùng chữ Hán Việt hay tránh dùng tiếng ngoại quốc nguyên thuỷ của nó để có "tiếng VN độc lập") ..


    Ngày nay bất cứ ngôn ngữ nước nào cũng bị ảnh hưởng lẩn nhau tuỳ theo độ tiện lợi dùng như thế nào trên thực tế chả có ai mặc cảm tiếng mẹ đẻ của ḿnh bị lai căng cả, v́ đó là thế giới đang đi đến chổ globalisation mọi lănh vực đi từ kinh tế dẩn đến vấn đề văn hóa, 1 ngôn ngữ pha trộn "vui vẻ lẫn nhau" ..

    - Dân Pháp c̣n xài chữ "Stop" rồi "Tây hóa" thành động từ Stopper họ dùng hàng ngày cho tiện lợi trong vấn đề giao thông thay v́ dùng chữ gốc của họ "Arrêter" coi dài tḥng trong phát âm .

    Họ nào có mặc căm văn hoá Pháp của họ bị lai căng "Ăn lê hoá" hay mất gốc ǵ đâu..

    - Ngược lại dân Anh, dân Mỹ họ cũng xài chữ "Madame" hàng ngày trong vấn đề xưng hô với phụ nữ .

    Họ nào có mặc cảm văn hoá Anglo-Saxon của họ bị lai căng hay mất gốc ǵ đâu.

    Đó là hai ngôn ngữ có chổ đứng nhất nh́ trên toàn cầu,mà c̣n có sự pha trộn danh từ cửa ngôn ngữ nuớc khác , nguời ta nào thèm làm "cách mạng văn hoá" cho trở về "nguyên chất" như cái lủ Commies nói chung, CSHN nói riêng .



    Hiện nay chúng ta đang sống trong xă hội văn minh, cuộc sống của chúng ta nay ít nhiều đă gắn liền với xă hội Tây phương. Một xă hội mà những phát minh mới về khoa học kỹ thuật và điện tử hầu như hàng ngày. Song song với những phát minh đó, th́ những từ ngữ mới cũng sinh ra. Nếu chúng ta chưa t́m ra chữ mới cho tiếng Việt để dịch cho đúng nghĩa, th́ có thể tạm thời dùng chữ ngoại quốc cũng chẳng sao.
    Chúng ta không nên miễn cưỡng dịch cho sát nghĩa từ ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt nghe không hay mà lại kỳ cục nữa. Như những từ ngữ chúng ta đă dùng thời Pháp thuộc vậy và đến nay chúng ta vẫn c̣n dùng. Không riêng ǵ Việt Nam, mà hầu hết các nước trên thế giới, họ cũng dùng từ ngữ ngoại quốc, c̣n hơn chúng ta cố gắng dịch sang tiếng Việt rồi ghép lại những từ ngữ như VC nghe không mấy văn chương chút nào.

    Chính xác,khi đă đi sau lưng thiên hạ về bộ môn khoa học, kỹ thuật nếu dịch được sao cho học sinh nghe dể hiểu thêm th́ dịch c̣n bằng không th́ nên để y nguyên chữ gốc cội nguồn của nguời ta đi ..Chớ dịch theo caí kiểu Vc chỉ làm cho "ngu muội hoá" học sinh thêm thôi.


    Thí dụ người tỵ nạn Cộng Sản không thể nói “sau ngày giải phóng” khi nói đến sau ngày 30-4-1975 v́ từ ngày đó người miền Nam tự do bị kiềm chế, kiểm soát, theo dơi tại nhà, tại phường tại xóm, nghĩa là vào nhà tù nhỏ và lớn của Việt Cộng chứ không được giải phóng ǵ cả.

    Nếu người tỵ nạn nói sau 30-4-1975 là sau giải phóng th́ họ không có lư do ǵ xin tỵ nạn ở ngọai quốc v́ họ đă công nhận Việt Cộng giải phóng họ cho họ tự do
    Gọi chính xác là "sau ngày cưỡng chiếm" th́ đúng theo nghĩa quân sự chính trị nhất .

    Dân miền Nam nào có gởi đơn ra miền Bắc xin xỏ, cầu khẩn rằng :

    «cứu tôi với... cứu tôi với» không ??? Mà lại xài từ xạo ke "đi giải phóng" .

    Ngược lại chỉ có hiện tượng người dân miền Bắc bị kẹt lại phải sống dưới bàn tay máu của CSHN v́ lư do nào đó, lại có thân nhân di cư vào Nam 1954, họ thủ thỉ vào tai thân nhân họ:

    "Khi vào trong đó, hăy ráng làm sao cứu chúng tôi nhé"
    Last edited by Viet xưa; 04-12-2013 at 02:22 AM.

  4. #24
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Quote Originally Posted by Viet xưa View Post
    Ngược lại chỉ có hiện tượng người dân miền Bắc bị kẹt lại phải sống dưới bàn tay máu của CSHN v́ lư do nào đó, lại có thân nhân di cư vào Nam 1954, họ thủ thỉ vào tại thân nhân họ:

    "Khi vào trong đó, hăy ráng làm sao cứu chúng tôi nhé"
    Chúng ta ĐỪNG QUÊN RẰNG bọn việt cộng hiện nay ĐANG tiếp tục xúc tiến một biến cố MẬU THÂN THỨ HAI TẠI HẢI NGOẠI! Đó chính là sự xâm lăng về CHỮ NGHĨA, một dạng của cuộc tổng công kích mà chúng đă từng làm hồi năm 1968. Có khác chăng là cuộc tổng công kích lần này diễn ra trên mặt trận văn hóa, mới nh́n qua ai cũng cho là "tầm thường" nhưng thật ra nó chính là liều thuốc độc vô cùng nguy hiểm, di hại rất lâu dài, có thể làm cho chúng ta bị thua việt cộng .

    Một số tờ báo lớn tại quận Cam bên Mỹ thường dùng những chữ rặt của việt cộng. Đôi khi đọc báo của người quốc gia mà chúng ta tưởng như là đang đọc báo .... Nhân Dân ở trong nước! Sặc sụa mùi khỉ đột của bác và đảng!

    Và lúc trước , một ông phóng viên khi phỏng vấn Lư Tống đang tuyệt thực đă nói: - ... cảnh sát Mỹ đă MỜI ANH LƯ TỐNG LÊN LÀM VIỆC!!!

    Có thể đây là điều vô ư v́ nọc độc của bọn cộng sản đang ngấm dần vào mỗi con người chúng ta mà trong một lúc nào đó bất cứ ai trong chúng ta cũng có lần trở thành cái loa tuyên truyền cho cộng sản một cách vô thức!

    Nhận thức được sự nguy hiểm của cuộc xâm lăng chữ nghĩa của việt cộng, mỗi chúng ta phải quyết liệt chống lại nó. Cuộc tổng công kích tết Mậu Thân của việt cộng vẫn đang tiếp diễn ở dạng khác. Chúng ta không thể vô tâm, lo vui chơi, đến khi cảm thấy nghẹt thở th́ sợi giây tḥng lọng của bầy ác quỷ nó đă siết cổ ḿnh, vùng vẫy th́ đă quá muộn!



    Không Dùng Chữ Của Việt Cộng

    • Trần Thanh

    Công cuộc chống cộng sản của chúng ta đă và đang được thể hiện qua nhiều lănh vực mà trong đó truyền thông báo chí là một trong những lănh vực rất quan trọng. Truyền thông báo chí là phương tiện giúp chúng ta vận động sự ủng hộ của quốc tế, quảng bá niềm tin "Chính Nghĩa Tất Thắng" trong nội bộ cộng đồng người Việt ở hải ngoại và tấn công kẻ thù bằng cách tố cáo tội ác của cộng sản, vạch trần những mưu gian của tập đoàn việt gian cộng sản bán nước, vận động toàn bộ đồng bào trong và ngoài nước cùng thực hiện một cuộc tổng nổi dậy, thanh toán dứt điểm chế độ cộng sản bạo tàn, khát máu.

    Nhưng tiếc thay, khi bày tỏ lập trường, thái độ chống cộng, chúng ta lại dùng khá nhiều chữ của việt cộng. Vấn đề này cũng dễ hiểu v́ trong suốt thời gian sống dưới chế độ cộng sản, người dân đă bị nhồi sọ, đầu độc quá nhiều. Lâu dần, theo thời gian, sự nhiễm độc này đă biến thành một thói quen và chúng ta đă dùng những chữ nghĩa độc hại của việt cộng một cách vô thức. Có thể nói chúng ta đă tự đầu độc chúng ta, tự bôi nhọ chúng ta theo đúng ư bọn cộng sản muốn!!!

    Xin đơn cử một vài ví dụ.

    Tôi đă nghe những cuộc đối thoại như sau đây diễn ra hàng ngày:

    - Hồi trước ngày GIẢI PHÓNG, gia đ́nh tôi sống ở quận ba Sài G̣n, nhà cao cửa rộng, đời sống rất là thoải mái nhưng sau ngày GIẢI PHÓNG, gia đ́nh tôi bị đưa đi vùng kinh tế mới ở.....

    - Sau ngày GIẢI PHÓNG, thằng con tôi đang học dở dang lớp 12, sau đó nó TRÚNG TUYỂN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ, bị đưa qua bên Cam-Bu-Chia để làm NGHĨA VỤ QUỐC TẾ rồi chết ở bên đó!!!

    - Dạ thưa bác, cha cháu là sĩ quan NGỤY, sau ngày GIẢI PHÓNG bị đi HỌC TẬP CẢI TẠO....

    - Dạ, chồng tôi là công chức NGỤY QUYỀN ÁC ÔN, phải HỌC TẬP tới 10 năm lận!

    - Dạ, công an đă mời chồng em lên LÀM VIỆC v́ họ ghép tội chồng em là PHẢN ĐỘNG.

    - Tôi bị đưa vào trại giam v́ can tội vượt biên, PHẢN BỘI TỔ QUỐC.

    Nêu trên là những ví dụ điển h́nh trong hàng ngàn trường hợp chúng ta dùng chữ nghĩa của việt cộng để tự bôi nhọ, tự kết án chúng ta. Có thể nói bất cứ người nào -kể cả người viết bài này- cũng bị cộng sản tẩy năo, vấn đề tùy theo mức độ nhiều hay ít, tùy theo hoàn cảnh sống và tùy theo cá nhân người đó CÓ Ư THỨC ĐỀ KHÁNG hay không.

    Sự nhiễm độc "phóng xạ cộng sản" nhiều tới mức ngay cả những người làm truyền thông chuyên nghiệp ở hải ngoại, những nhà văn, nhà báo chống cộng cũng bị mắc phải. Chúng ta cứ xem những tờ báo lớn của người Việt ở quận Cam sẽ thấy: chữ nghĩa (việt cộng gọi là từ vựng) của cộng sản được dùng nhan nhản!

    Một ví dụ khác: Một MC nổi tiếng của trung tâm Thúy Nga Paris đă giới thiệu với khán giả về nội dung một bản nhạc, trong buổi tŕnh diễn Paris By Night 88, chủ đề nhạc Lam Phương: "... bản nhạc Bức Tâm Thư của nhạc sĩ Lam phương kêu gọi thanh niên ĐI ĐỘNG VIÊN mà bây giờ CHÚNG TA gọi là đi NGHĨA VỤ QUÂN SỰ..."

    Trong một lần khác vị MC này đă kể cho khán giả nghe về cuộc đời của ông ta sau năm 1975 là: "... tôi đi HỌC TẬP ba năm..."

    Một nhà văn có khá nhiều những tác phẩm chống cộng mà c̣n bị "nhiễm phóng xạ" như vậy th́ thử hỏi những người dân b́nh thường khác như thế nào?

    Tất nhiên, tôi nghĩ rằng ông ta đă sơ ư và một cách vô thức, dùng những chữ của việt cộng, bởi v́, việt cộng đă liên tục cố ư đầu độc tinh thần của chúng ta và những sinh tử phù mà bọn chúng cấy vào đầu chúng ta sẽ c̣n tiếp tục di hại qua nhiều năm tháng lâu dài.

    Một trường hợp khác tôi c̣n nhớ: Mới đây, trong cuộc biểu t́nh chống tờ báo Viet Weekly, phóng viên của VietNam Exodus đă phỏng vấn một người tham gia biểu t́nh và người này đă tự giới thiệu ḿnh như sau: ".... hồi trước, tôi là trung úy NGỤY QUÂN, đă từng ở tù cộng sản...."!!!


    C̣n tiếp...
    Last edited by Tigon; 04-12-2013 at 02:13 AM.

  5. #25
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    KẾT LUẬN:


    Chúng ta KHÔNG dùng chữ của việt cộng v́ những lư do sau đây:

    1. Tất cả các từ ngữ chính trị của việt cộng đều lươn lẹo, được mă hóa nhằm mục đích:

    - Lừa bịp thế giới

    - Lừa bịp người dân trong nước

    - Lừa bịp những binh sĩ VNCH. Thí dụ: Thông báo của việt cộng năm 1975, kêu gọi cựu quân nhân QLVNCH đem 10 ngày lương thực để đi "học tập"!!!

    - Bôi nhọ tập thể quân dân cán chính của VNCH. (gọi họ là ngụy quân, ngụy quyền, phản động, ác ôn, nợ máu nhân dân, tay sai đế quốc)

    2. Dùng chữ của việt cộng là chúng ta tự bôi nhọ chúng ta, tự tát vào mặt chúng ta như bọn chúng mong muốn!

    Việt cộng đă cấy sinh tử phù vào thế hệ 1, ăn sâu vào tiềm thức, ảnh hưởng tới thế hệ 2 và ảnh hưởng lâu dài tới những thế hệ tiếp theo. Sau đó chúng sẽ rêu rao với thế giới rằng: đấy, quư vị đă thấy chưa, chính những người của nước VNCH tự nhận họ là NGỤY QUÂN, NGỤY QUYỀN đấy nhé! Chúng tôi không hề vu khống họ đâu! Chính họ tự nhận là chúng tôi vào GIẢI PHÓNG họ đấy nhé! Chính họ tự nhận là chúng tôi chỉ mời họ lên LÀM VIỆC thôi chứ chẳng hề có đánh đập, tra khảo ǵ hết!!!

    Thế giới sẽ hiểu lầm câu chuyện và một khi những nếp nghĩ sai lầm đó đă in sâu vào trong đầu họ, rất khó mà thanh minh, tẩy rửa được!!!

    Tai hại biết chừng nào!!!

    3. Nhà văn Dương Thu Hương đă từng khóc khi bước chân vào Sài G̣n và bà ta đă thốt lên: MỌI RỢ ĐĂ CHIẾN THẮNG VĂN MINH!

    Chúng ta tự hào v́ chúng ta đă từng có một nền văn hóa, văn minh riêng, rất rạng rỡ, hơn hẳn nền văn hóa mọi rợ của bọn việt gian cộng sản. Chúng ta không hề thiếu chữ nghĩa, hà cớ ǵ chúng ta lại dùng những "từ vựng" của bọn chúng mà trong đó có rất nhiều chữ rất ngô nghê và ngu dốt. Ví dụ:

    - Đăng kư (người miền Nam gọi là ghi danh)

    - Nền kinh tế đầu vào đầu ra

    - Cầu lông (người miền nam gọi là vũ cầu)

    - Giải phóng mặt bằng, giải phóng lối đi

    - Quán triệt tư tưởng

    - Sự cố kỹ thuật

    - Ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương, làm việc b́nh thường

    - Đàn giây (người miền nam gọi là vĩ cầm)

    - Xuất khẩu, nhập khẩu (người miền nam gọi là xuất cảng, nhập cảng)

    - Bức xúc, nhạy cảm, phản cảm, hồ hởi, phấn khởi, ùn tắc giao thông, trăn trở cọ xát với thực tế

    - Nhà đái, nhà ỉa, xưởng đẻ, giặc lái

    - Học tập tốt, lao động tốt, đá bóng tốt, đánh đàn tốt, nấu ăn tốt, giao hợp (địt) tốt!!!

    - Tham ô, hủ hóa, móc ngoặc, thoái hóa

    - Cô ấy phát biểu rất là ấn tượng!

    C̣n rất nhiều không thể liệt kê hết ở đây. Nói ngắn gọn, những chữ nghĩa của cộng sản là những cặn bă, rác rưởi của loài khỉ đột thải ra. Chúng ta cần phải loại bỏ. Ai giải phóng ai????

    4. Lư do cuối cùng và quan trọng nhất: vấn đề Ư THỨC CHÍNH TRỊ -Không dùng chữ của việt cộng - Tiếp tục dùng chữ của nền văn hóa VNCH

    Nếu tất cả mọi người Việt trong và ngoài nước đều có ư thức chính trị rơ rệt và dứt khoát th́ ư thức sẽ biến thành hành động, nhiều việc nhỏ sẽ biến thành việc lớn, góp gió thành băo, tạo nên một cơn sóng thần quật đổ chế độ của bọn việt gian cộng sản. Khi toàn dân đă phẫn nộ -già néo đứt giây- nhất loạt tổng nổi dậy th́ không có súng AK hay B40 nào có thể ngăn cản được. Bài học lịch sử đă chứng minh: Đế quốc Liên Xô cùng 13 nước chư hầu bỗng tiêu tan trong ṿng một tháng!

    http://game.tin247.com/2885863/kh%C3...1%BB%99ng.html

  6. #26
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tiếng Việt và chữ Vẹm hay là chữ nghĩa Việt Cộng

    Lê Duy San

    Tiếng Việt ta không biết có từ bao giờ. Có thể là bốn ngàn (4000) năm tức là kể từ khi chúng ta có văn hiến hay hơn nữa. Nhưng chữ Việt (1) th́ chắc chỉ mới có khoảng hơn trăm (100) năm nay nghĩa là từ khi nước ta bị người Pháp đô hộ hoặc hơn một chút, từ khi có những ông Cố Đạo tới nước ta để truyền bá đạo Thiên Chúa.

    Với trên một ngàn năm bị người Tầu đô hộ, dĩ nhiên văn hóa của chúng ta, nói chung, tiếng Việt của chúng ta, nói riêng, không thể không bị ảnh hưởng, mà trái lại c̣n bị ảnh hưởng rất sâu xa và nặng nề của chữ Hán. Ông Văn Tấn Trường trong bài “Một vài suy nghĩ về Hán Tự” đă viết: “Tiếng Hán Việt (2) chiếm 60 – 70 % trong ngôn ngữ Việt Nam, loại trừ tiếng Hán Việt để làm trong sáng tiếng Việt th́ quả thật là một “mission impossible”.

    Tôi không tin tiếng Hán Việt nhiều đến thế, nhưng nếu có ai nhờ tôi viết một bài văn hay làm giùm một bài luận hoàn toàn bằng tiếng Việt th́ qủa thật tôi chịu thua. Tôi không thể làm nổi v́ nhiều chữ, quả thật tôi không biết đó là chữ Hán, chữ Hán Việt, hay chữ Nôm (3). Mà dù có biết chăng nữa, nhiều chữ nếu chuyển sang chữ Việt nó cũng ngô nghê, tức cười, nhiều khi c̣n khó hiển hơn là dùng chữ Hán Việt.

    Trước năm 1975, hầu như không có tranh căi ǵ nhiều về tiếng Việt, chữ Việt, ngoại trừ một vài tranh căi nhỏ về chữ I và Y (Thanh Thúy hay Thanh Thúi, li do hay lư do, qúy vị hay qúi vị v.v…) hoặc có G hay không có G (sáng lạng hay xán lạn). Nhưng từ khi bọn Cộng Sản Hà Nội cưỡng chiếm được miền Nam, th́ tiếng Việt, ChữViệt đă bị Ngụy Quyền Cộng Sản Việt Nam thay đổi rất nhiều.

    Thực ra th́ chữ Việt đă được thay đổ từ lâu, ngay từ khi thời bọn Cộng Sản c̣n ẩn núp dưới hai chữ Việt Minh tức là từ ngày 19/8/1945, ngày bọn chúng cướp được chính quyền từ chính phủ quốc gia Trần Trọng Kim. Chính v́ thế mới có chữ Vẹm và tiếng Vẹm. Nhưng dưới sự cai trị độc đoán và tàn bạo của chúng, không ai dám lên tiếng sợ bị chụp mũ là phản động. Măi tới khi người Việt tỵ nạn ở hải ngoại bắt đầu xuất bản sách báo và nhất là khi các quân nhân và công chức của chế độ VNCH phải đi “học tập cải tạo” được trở về và được ra đi định cư ở Hoa Kỳ theo chương tŕnh HO, vô t́nh mang theo một số tiếng Vẹm, th́ vấn đề sử dụng tiếng Vẹm, chữ Vẹm đă được nêu lên và bàn luận rất nhiều.

    Thế nào là Tiếng VẸM ? Thế nào là chữ VẸM ?

    Thực ra th́ tiếng Vẹm cũng là tiếng Việt, nhưng v́ dùng chữ của Vẹm đặt ra để nói, nên được gọi là tiếng Vẹm. Cũng như tiếng Bắc, tiếng Trung, tiếng Nam cũng là tiếng Việt mà thôi. Nếu dùng chữ của miền Bắc mà nói th́ ta bảo là nói tiếng Bắc, nếu dùng chữ của miền Trung để mà nói, th́ ta bảo là nói tiếng Trung và nếu dùng chữ của miền Nam mà nói th́ ta bảo là nói tiếng Nam. Thí dụ, ta hỏi: Đi mô ? Chữ “mô” là chữ người miền Trung dùng. Ta nói “Đi mô”tức là ta đă nói tiếng Trung. Hoặc ta nói: “Tía nó chết rồi. Chữ “tía” là chữ miền Nam. Ta dùng chữ “tía” để nói, tức là ta đă nói tiếng Nam.

    Chữ Vẹm cũng thế, cũng là chữ Việt. Nhưng v́ nó là chữ của tụi Vẹm đặt ra KHÔNGĐÚNG CÁCH, KHÔNG THEO MỘT NGUYÊN TẮC hay QUY LUẬT NÀO CẢ, nhiều chữ đọc lên, nghe rất ngô nghê và tức cười, nên ta gọi nó là chữ Vẹm.

    Cũng trong bài “Một vài suy nghĩ về Hán Tự”, ông Văn Tấn Trường cho rằng “Có một dạo ở đầu thập niên 80, nghe nói chính phủ Việt Nam (ư nói Cộng Sản Việt Nam) đưa ra phong trào làm trong sáng tiếng Việt bằng cách thoát ly tiếng Hán Việt”. Nếu qủa thật đă có phong trào này và phong trào này đă được đưa ra th́ chắc phải nhiều người biết. Vậy mà chẳng thấy ai nói tới. Không biết ông Trường nghe tin này ở đâu. Thiển nghĩ, một khi bọn chúng muốn đưa ra một phong trào nào, một chính sách ǵ, bao giờ chúng cũng có chủ trương, có mục đích. Phong trào này, nếu có, th́ chủ trương, mục đích của chúng là ǵ? Với chủ trương để “Thoát ly tiếng Hán Việt”? Với mục đích để bài Trung Quốc? Nếu đúng như vậy th́ dân tộc ta đă khá, nước ta đă không bị bọn chúng đem đất, đem biển dâng cho Tầu.

    Trong bài “Nỗi Buồn Tiếng Việt…”, ông XYZ cũng nghĩ rằng “Với chủ trương nôm na hóa ngôn ngữ Việt, tập đoàn Cộng Sản (Việt Nam) nắm quyền đă lạm dụng từ thuần Việt qúa mức, trở thành thô tục như “xưởng đẻ” dùng cho “nhà bảo sanh”,“nhà ỉa” dùng cho nhà “vệ sinh”, hay “linh thủy đánh bộ” dùng cho “thủy quân lục chiến” v.v…, và đặt ra nhiều từ sai hẳn với nguyên nghĩa”.

    Theo thiển ư, bọn Cộng Sản Việt Nam đă tạo ra một số chữ khác thường mà ta gọi là chữ Vẹm v́ những lư do sau:

    1/ Muốn tiêu hủy tất cả những ǵ mà chúng gọi là “tàn dư của Mỹ Ngụy”

    Thực vậy, ngay sau khi cưỡng chiếm được miền Nam, việc đầu tiên mà chúng làm là bắt dân chúng phải tiêu hủy tất cả các văn hóa phẩm của miền Nam như sách báo, phim ảnh, băng nhạc v.v…Do đó, một số chữ của người Việt quốc gia dùng, dù hay ho, lịch sự tới đâu, chúng cũng muốn xoá bỏ. Thí dụ nơi để chúng ta bài tiết ra ngoài (tiểu tiện hoặc đại tiện), xưa ngưới Bắc gọi là nhà xí, người Nam gọi là nhà cầu. Hai tiếng này nghe không được lịch sự cho lắm nên đă được chúng ta đổi là nhà vệ sinh. Ấy vậy mà chỉ v́ muốn khác người, bọn Cán ngố đă bỏ đi và thay thế bằng hai chữ nhà ỉa. Phải chăng đà tiến hóa theo chủ nghĩa xă hội của bọn Cộng Sản Việt Nam là như vậy? Chẳng trách dân Việt Nam được bọn chúng cai trị, được bọn chúng “giải phóng” đă mỗi ngày một khổ cực, mỗi ngày một ngu si, dốt nát.

    2/ Để dễ khám phá ra những thành phần mà chúng coi là “phản động hay đối nghịch”.

    Bọn Cộng Sản Việt Nam, chúng chỉ muốn chữ chúng dùng phải khác người, hay nói cho đúng hơn, là khác chữ của người Việt quốc gia dùng mà thôi chứ không phải chúng muốn “thoát ly tiếng Hán Việt” như ông Văn Tấn Trường nói, hay “muốn nôm na hoá tiếng Việt” như ông XYZ đă nhận định. Điều này đối với bọn chúng rất quan trọng, nhất là trong thời chiến, v́ giúp cho chúng dễ phân biệt người đang sống tại vùng chúng đang kiểm soát với những người đang sống ngoài vùng chúng kiểm soát để chúng dễ khám phá ra những thành phần mà chúng cho là đối nghịch, phản động.

    V́ vậy, chữ chúng đặt ra hay dịch ra, chúng không cần biết là Hán hay Nôm, thanh hay tục, trong sáng hay tối tăm, xuôi hay ngược, đúng hay sai. Có chử đang là chữ Hán Việt, chúng đổi sang chữ Nôm. Có chữ đang là chữ Nôm, chúng đổi sang chữ Hán Việt. Chúng chẳng theo một nguyên tắc hay quy luật nào cả. Thí dụ:

    Chúng ta nói là “phát ngôn viên” th́ chúng nói là: “người phát ngôn”

    Chúng ta nói là “thăm viếng” th́ chúng nói là “tham quan”

    Chúng ta nói là “ghi danh” th́ chúng nói là “đăng kư”

    Chúng ta nói là “đá bóng” th́ chúng nói là “bóng đá”

    Chúng ta nói là “yếu điểm” th́ chúng nói là “điểm yếu”

    Chúng ta nói là “trở ngại” th́ chúng nói là “sự cố”

    Chúng ta nói là “xuất cảng” th́ chúng nói là “xuất khẩu”

    Chúng ta nói là “liên lạc” th́ chúng nói là “liên hệ”

    Chúng ta nói là “hiểu rơ” th́ chúng nói là quán triệt”.

    Chúng ta nói là “viên chức” th́ chúng nói là “quan chức”.

    Chúng ta nói là “chuyển âm” thi chúng nói là “lồng tiếng”.

    Chúng ta nói là“dẫn giải” th́ chúng nói là “thuyết minh”.

    v.v…

    C̣n tiếp...

  7. #27
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    V́ ngu dốt, nên khi chúng đảo ngược hay thay thế bằng một chữ khác mà chúng chẳng biết và cũng chẳng cần biết là đúng hay sai nữa hoặc lẫn lộn ư nghĩa của chữ này với ư nghĩa của chữ kia chúng cũng không rơ.

    Thí dụ 1:

    Chữ“đơn giản” mà đọc ngược lại là “giản đơn” hay “vui buồn” đọc ngược lại là “buồn vui” tuy nghe có hơi lạ tai một chút, c̣n có thể chấp nhận được v́ nghĩa của nó không khác nhau. Nhưng chữ “yếu điểm” mà sửa lại là “điểm yếu” th́ không thể chấp nhận được v́ nghĩa nó khác hẳn. Nhưng v́ dốt nát, bọn chúng vẫn hiểu “điểm yếu” là “yếu điểm” và dùng chữ “điểm yếu” để thay thế cho chữ “yếu điểm”.

    Chúng ta biết, về văn phạm, chữ Hán giống chữ Anh ở một điểm là tĩnh từ luôn luôn đứng trước danh từ nên con ngựa trắng, người Anh gọi là white horse và người Tầu gọi là bạch mă. Chữ yếu điểm cũng vậy, yếu là tĩnh từ và có nghĩa là quan trọng, yếu điểm là điểm quan trọng. Nhưng v́ ngu dốt, bọn Cộng Sản Việt Nam chỉ muốn nói khác với chúng ta nên nói ngược lại là điểm yếu và tưởng rằng chúng đă nôm hóa được chữ yếu điểm là chữ Hán hoặc tối ưu chẳng lẽ đổi thành ưu tối ? nên chúng thêm chữ nhất thành tối ưu nhất. Thật lạ lùng! Đă tối ưu rồi đâu cần phải thêm chữ nhất vào làm ǵ ?

    Thế c̣n nhược điểm th́ sao? Nếu nói ngược lại th́ điểm nhược là điểm ǵ ? Đúng là đă ngu lại hay nói chữ. Vậy mà ngày nay, nhiều nhà giáo Việt Cộng vẫn hiểu yếu điểm là điểm yếu và dậy học tṛ như vậy.

    Thí dụ 2:

    Chúng ta nói:“Xin các bạn cố gắng nhanh lên một chút v́ t́nh trạng gấp rút/cấp bách lắm rồi” th́ chúng lại nói là “Xin các đồng chí tranh thủ/khẩn trương v́ tinh trạng khẩn trương rồi”. Chúng ta dùng chữ cố gắngcho mệnh đề thứ nhất và chữ gấp rút cho mệnh đề thứ hai v́ hai chữ này có ư nghĩa khác nhau. Nhưng đối với chúng th́ cố gắng cũng là khẩn trương và gấp rút cũng là khẩn trương.

    Thí dụ 3:

    Sau khi tham dự một buổi nói chuyện về một vấn đề văn học, nếu là chúng ta, chúng ta sẽ hỏi người tham dự: “Xin anh cho biết cảm tưởng/cảm nghĩ của anh sau khi nghe xong buổi nói chuyện này”. Nhưng nếu người hỏi là một tên Việt Công, th́ chắc chắn hắn sẽ hỏi người tham dự: “Xin đồng chí cho biết cảm giác của đồng chí sau khi nghe xong buổi nói chuyện này” Trời đất!, Đây chỉ là buổi nói chuyện về một vấn đề văn học, đâu có phải là một buổi đấu tố ghê gướm ǵ mà hỏi cảm giác?

    Nhiều khi chúng ghép hai ba chữ kép làm một khiến người đọc chẳng hiểu mô tê ǵ cảnhư hùng vĩ và hiểm trở, chúng ghép thành hùng hiểm, tươngđương và thích hợp ghép thành tương thích, sinh viên du học ghép thành du sinh, quyết định sách lược thành quyết sách.

    Thực ra th́ không phải trong chế độ Cộng Sản Việt Nam không có người khá, người giỏi. Nhưng hầu hết những người này lại chẳng có quyền hạn ǵ, trong khi đó th́ hầu hết bọn lănh đạo lại ngu dốt, độc tài và ngoan cố, nên chúng muốn nói ngang, nói dọc ǵ, ai cũng phải nghe theo, chẳng ai dại ǵ mà phê phán hay cải sửa để mà mang hoạ vào thân. Bởi v́:

    “AK mă tấu kẻ kè,
    Nói quấy nói quá, chúng (dân chúng) nghe rầm rầm”.

    3/ Để dễ ăn cướp tài sản của nhân dân và bao che cho người của bọn chúng có tội.

    Thí dụ người của bọn chúng “đi đêm”, “móc ngoặc” với gian thương, nhà thầu bất chính để ăn hối lộ, chúng nói là có quan hệ xấu hoặc làm lơ cho những bọn này làm điều phi pháp để được lợi lộc, chúng gọi là có hành vi tiêu cực đểdễ giảm hoặc tha tội.

    Không những chúng thay đổi CHỮ, chúng c̣n thay đổ cả NGHĨA. Thí dụ: Để cướp đất đai của các điền chủ, chúng gọi là cải cách ruộng đất. Muốn cướp tài sản của các thương gia, chúng gọi là đánh tư sản maị bản. Muốn cấm người dân buôn bán, chúng gọi là cải tạo thương nghiệp. Muốn bỏ tù quân nhân, công chức của chế độ cũ (VNCH), chúng gọi là cải tạo. Muốn bỏ tù người tranh đấu cho tựdo, dân chủ, chúng gọi là phản động (4). Mít tinh, biểu t́nh đả đảo bọn Trung Cộng xâm chiếm lănh thổ và lănh hải Việt Nam để biểu lộ ḷng yêu nước chúng nói là “có sai phạm về tư tưởng và nhận thức chính trị”, hoặ là “kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, là gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước anh em’’. Ra trát đ̣i một người nào đó để điều tra và có thể tống giam, chúng gọi là giấy mời.

    Tóm lại, ngôn ngữ là phương cách để con người giao tiếp với nhau, thông tin cho nhau hay, hoặc diễn đạt tư tưởng của ḿnh cho người khác biết. Ngôn ngữ gồm có tiếng nói và chữ viết. Ngôn ngữ cũng là một phần của văn hóa, là linh hồn của dân tộc. Trải qua thời gian và không gian, ngôn ngữ không nhiều th́ ít, đă thay đổi để cho phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh và đà tiến hóa của xă hội.

    V́ vậy, việc thay đổi chữ cũ v́ thô tục, v́ không trong sáng hay tạo lập những chữ mới để thay thế những chữ cũ không c̣n hợp thời hay không có, không những là một việc nên làm mà c̣n là một việc phải làm. Nhưng nếu chỉ v́ mục đích chính trị hay tự cao, tự đại hơn người hoặc v́ tự ty mặc cảm ngu dốt hay để bao che cho nhau hoặc để bỏ tù người vô tội mà thay đổi một cách nhố nhăng, vô tội vạ làm cho chữ Việt trở nên thô tục, kỳ cục hoặc tối tăm, sai lạc ư nghĩa, th́ đó không những là một điều sai lầm mà c̣n có tội ác đối với dân tộc.

    ____________________ ____________________ ________

    Chú thích:

    (1) Xưa kia, tổ tiên ta cũng có một loại văn tự riêng để dùng gọi là chữ Khoa Đẩu, gồm các kư hiệu và các h́nh tượng tạo nên. Nhưng loại chữ này chưa được phát triển và phổ biến th́ nước ta đă bị người Tầu đô hộ một thời gian quá dài (một ngàn năm); hơn nữa, người Tầu lại muốn đồng hóa người Việt nên bắt người Việt phải học chữ Hán và dùng chữ Hán mỗi khi giao tiếp với họ, làm cho chữ cổ xưa của ta mai một và biến mất.

    (2) Tiếng Hán Việt là tiếng Hán đọc theo âm Việt. Chữ Hán Việt là chữ Hán viết theo chữ Việt.

    (3) Tiếng Nôm là tiếng Việt chỉ khác nhau ở cách viết. Chữ Việt th́ dùng mẫu tự Latin, c̣n chữ Nôm th́ dùng chữ Hán, tức viết theo kiểu h́nh tượng, nhưng có thêm thắt đôi chút để khi đọc lên th́ âm là âm Việt chứ không phải là âm Hán.

    Thí dụ chữ TAM, chữ Hán viết như sau: 三 và đọc là XÁM, chữ Nôm thêm phần chữ 巴.viết thành và đọc là BA.

    Chữ THIÊN, chữ Hán viết như sau: 天,chữ Nôm có thêm chữ 上 ở dưới chữ THIÊN, viết như sau và đọc là TRỜI.

    (4) Xin xem bài “Bây giờ chúng tôi đă hiểu thế nào là bọn phản động” của Nguyễn Tiến Nam, một sinh viên trong nước, đăng trong Đặc San Chu Văn An Bắc Cali năm 2008, trang 241.



    http://www.lyhuong.net/uc/index.php/tiengviet/1671-1671

  8. #28
    Member
    Join Date
    13-06-2011
    Posts
    4,171
    Quote Originally Posted by Tigon View Post
    ...


    Một ví dụ khác: Một MC nổi tiếng của trung tâm Thúy Nga Paris đă giới thiệu với khán giả về nội dung một bản nhạc, trong buổi tŕnh diễn Paris By Night 88, chủ đề nhạc Lam Phương: "... bản nhạc Bức Tâm Thư của nhạc sĩ Lam phương kêu gọi thanh niên ĐI ĐỘNG VIÊN mà bây giờ CHÚNG TA gọi là đi NGHĨA VỤ QUÂN SỰ..."
    -Tức là MC này biết cách dùng phương pháp " tịnh tiến" chuyển từ từ chậm chậm danh từ VNCH hay dùng sang danh từ Vc dùng ..

    Trong một lần khác vị MC này đă kể cho khán giả nghe về cuộc đời của ông ta sau năm 1975 là: "... tôi đi HỌC TẬP ba năm..."

    Nếu MC nói "tôi bị tẩy năo trong trại tù trá h́nh 3 năm" th́ mất job MC sao ? ..nên phải dùng "Học tập" đễ chứng tỏ trại tù đó là nơi đút luyện MC ăn nói có duyên hơn , biết dùng từ VC hơn, biết tránh ăn nói dụng chạm vào h́nh ảnh thằng Bác của Cường quyền HN nữa..vv




    Một trường hợp khác tôi c̣n nhớ: Mới đây, trong cuộc biểu t́nh chống tờ báo Viet Weekly, phóng viên của VietNam Exodus đă phỏng vấn một người tham gia biểu t́nh và người này đă tự giới thiệu ḿnh như sau: ".... hồi trước, tôi là trung úy NGỤY QUÂN, đă từng ở tù cộng sản...."!!!


    C̣n tiếp...
    V́ ở tù CS nên bị nhồi sọ bởi từ ngữ CS dạy .

    Chớ dân có gốc nhà binh VNCH chưa bao giờ vô tù tụi VC th́ làm sao hấp thụ đựơc danh từ chúng đây .

    Vấn đề là nguời Trung uư trong câu chuyện trên khg đủ khả năng hay khg có bản năng của một hoa sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn "(khi xài từ của Vc sáng chế ra là xem như hôi tanh mùi bùn rồi) tức là cho dù ở trong môi trường CS dài dài , vẫn măi măi c̣n giữ cái gốc cội nguồn của ḿnh .
    Last edited by Viet xưa; 04-12-2013 at 03:04 AM.

  9. #29
    Member
    Join Date
    20-05-2011
    Posts
    113
    Quote Originally Posted by Tigon View Post
    Đă lỡ nhắc đến " Tiếng Việt...Cộng " , vậy xin nói tiếp...

    Chữ-nghĩa-Việt-Cộng-ngày-nay

    NỖI BUỒN TIẾNG VIỆT CỦA NGƯỜI DÂN Ở TRONG NƯỚC

    Biên khảo của Chu Dau

    Ở trong nước, hiện tượng dùng chữ nghĩa kỳ cục do CS Bắc Việt du nhập vào miền Nam, lai căng với nhiều từ ngữ mới chế rất ngô nghê và xa lạ đối với phần đông dân chúng. Với chủ trương nôm na hóa ngôn ngữ Việt, tập đoàn CS nắm quyền đă lạm dụng từ thuần Việt quá mức trở thành thô tục (như: "xưởng đẻ" dùng cho "nhà bảo sanh", "nhà ỉa" dùng cho "nhà vệ sinh", hay "lính thủy đánh bộ" dùng cho "thủy quân lục chiến" v. v... , và đặt ra nhiều từ sai hẳn với nguyên nghĩa .

    Ngôn ngữ thay đổi theo thời gian, theo sinh hoạt xă hội . Mỗi ngày, từ những đổi mới của đời sống, từ những ảnh hưởng của văn minh ngoại quốc mà ngôn ngữ dần dần chuyển biến. Những chữ mới được tạo ra, những chữ gắn liền với hoàn cảnh sinh hoạt xưa cũ đă quá thời, dần dần biến mất. Cứ đọc lại những áng văn thơ cách đây chừng năm mươi năm trở lại, ta thấy nhiều cách nói, nhiều chữ khá xa lạ, v́ không c̣n được dùng hàng ngày . Những thay đổi này thường làm cho ngôn ngữ trở nên sinh động hơn, giàu có hơn, tuy nhiên, trong tiếng Việt khoảng mấy chục năm gần đây đă có những thay đổi rất kém cỏi . Ban đầu những thay đổi này chi giới hạn trong phạm vi Bắc vĩ tuyến 17, nhưng từ sau ngày cộng sản toàn chiếm Việt Nam, 30 tháng 4 năm 1975, nó đă xâm nhập vào ngôn ngữ miền Nam.

    Rồi, đau đớn thay, lại tiếp tục xâm nhập vào tiếng Việt của người Việt ở hải ngoại . Người ta thuận theo các thay đổi xấu ấy một cách lặng lẽ, không suy nghĩ, rồi từ đó nó trở thành một phần của tiếng Việt hôm nay . Nếu những thay đổi ấy hay và tốt th́ là điều đáng mừng; Nhưng than ôi, hầu hết những thay đổi ấy là những thay đổi xấu, đă không làm giầu cho ngôn ngữ dân tộc mà c̣n làm tiếng nước ta trở nên tối tăm.

    Thế nhưng dựa vào đâu mà nói đó là những thay đổi xấu ?

    Nếu sự thay đổi đưa lại một chữ Hán Việt để thay thế một chữ Hán Việt đă quen dùng, th́ đây là một thay đổi xấu, nếu dùng một chữ Hán Việt để thay một chữ Việt th́ lại càng xấu hơn. Bởi v́ nó sẽ làm cho câu nói tối đi . Người Việt vẫn dễ nhận hiểu tiếng Việt hơn là tiếng Hán Việt. Nhất là những tiếng Hán Việt này được mang vào tiếng Việt chỉ v́ người Tầu ở Trung Hoa bây giờ đang dùng chữ ấy . Nếu sự thay đổi để đưa vào tiếng Việt một chữ dùng sai nghĩa, th́ đây là một sự thay đổi xấu vô cùng.

    Sau đây, chúng tôi xin ghi lại một số từ ngữ (được tạm xếp theo vần abc) mà chế độ CSVN ép dân chúng dùng, đọc lên, nói lên sai với nguyên nghĩa, nghe thô tục, kỳ lạ và ảnh hưởng Tây phương rất nặng, khó có thể chấp nhận:

    1. "Buổi đêm". 'Buổi đêm tôi có gặp đồng chí ấỵ Từ xưa đến nay người Việt không bao giờ nói "buổi đêm" cả, chỉ nói "ban đêm", "ban ngày". "Ban" được hiểu như là một thời gian khoảng 12 giờ, ban đêm 12 giờ cộng với ban ngày 12 giờ là 24 giợ C̣n "buổi" th́ chúng ta có "buổi sáng", "buổi trưa", "buổi chiều", "buổi tối". Ban ngày có 12 giờ và tạm coi như có 4 buổi, như vậy mỗi buổi có 3 giờ đồng hộ Night time, day time khác với morning; noon; afternoon; evening. Chúng ta thường nói: 'Chờ ông ấy mất cả buổị Buổi ở đây là khoảng ba giợ Câu nói khác: 'Thế là mất một buổi càỵ Buổi ở đây lại có nghĩa mất cả một ngày công. Chế ra từ buổi đêm là làm hỏng tiếng Việt.

    2. "Cải tạo" = transform, improve; re-education. Họ không phân biệt "cải tạo vật chất" với "cải tạo tư tưởng", quan niệm chính tri Nói : 'Phải dùng cát để cải tạo đất', khác với 'Trung úy miền Nam bị đi tù cải tạọ Nếu muốn chữa cho đất có màu mỡ hơn nên dùng "cải tiến", "cải thiện"... Khoảng 50 năm nay từ "cải tạo" cả nước đă hiểu là ở tù rồi!

    3. "Cảm giác". 'Xin anh cho biết cảm giác ra sao về hiện tượng đo những ǵ cảm thấy được được bằng giác quan. Có ngũ giác: xúc giác: sờ chạm, thị giác: mắt thấy, thính giác: tai nghe; vị giác: lưỡi nếm, khứu giác: mũi ngửi . Ưó là các sense organs, c̣n cảm giác và cảm tưởng; cảm tính (feeling, khác với lư tính) dễ lầm lẫn v́ đó là sensation, impression. Dùng đúng chữ phải là: 'Xin anh cho biết cảm nghĩ, cảm tưởng, về hiện tượng đo chính xác hơn là "cảm giác". (Ngoài ra impression c̣n có nghĩa là ấn tượng, dấu ấn). Chúng ta có thể nói : có cảm giác ghê sợ, nhờm tởm, lạt lẽo, ấm cúng.. một giác xuất phát từ năo bộ, tuy cũng do từ năm giác quan vừa kể gửi tín hiệu lên óc.

    4. "Cầu lông" = Badmington = Một môn thể thao nhẹ nhàng gần giống quần vợt, có giăng lưới cao, dùng vợt nhẹ và quả cầu có gắn lông vũ, đánh qua lại trên lưới . Trên thực tế quả cầu badmington làm giả bằng nhựa không chế bằng lông gà lông vịt nữa . Cách gọi này thô tục quá! Tại sao không gọi là cầu lông vũ hoặc bát-minh-tơn? Người viết c̣n nhớ có lần đă bị bà vợ một đại tá sửa lưng, khi lở miệng nói: lông quả đào . Bà kể lại, tôi bị bà Trg. Tg. Khg. một người miền Bắc chữa khéo: 'Chị nên gọi là tuyết của quả đào th́ lịch sự, thanh tao hơn'. Sau đây là cách dùng sai lạc, nhằm chủ đích tuyên truyền hoặc làm giảm đi hoặc tăng mức quan trọng của sự việc.

    5. "Chất lượng": Đây là chữ đang được dùng để chỉ tính chất của một sản phẩm, một dịch vu Người ta dùng chữ này để dịch chữ quality của tiếng Anh. Nhưng than ôi! Lượng không phải là phẩm tính, không phải là quality . Lượng là số nhiều ít, là quantity . Theo Hán Việt Tự Ưiển của Thiều Chửu, th́ lượng là: đồ đong, các cái như cái đấu, cái hộc dùng để đong đều gọi là lượng ca? Vậy tại sao người ta lại cứ nhắm mắt nhắm mũi dùng một chữ sai và dở như thệ Không có ǵ bực ḿnh hơn khi mở một tờ báo Việt ngữ ở hải ngoại rồi phải đọc thấy chữ dùng sai này trong các bài viết, trong các quảng cáo thương măi . Muốn nói về tính tốt xấu của món đồ, phải dùng chữ phẩm. Bởi v́ phẩm tính mới là quality . Ḿnh đă có sẵn chữ "phẩm chất" rồi tại sao lại bỏ quên mà dùng chữ "chất lượng". Tại sao lại phải bắt chước mấy anh cán ngố, cho thêm buồn tiếng nước ta .

    6. "Cuộc gặp" = meet, run into = hội kiến, gặp mặt, gặp gỡ, buổi họp. Nghe "Cuộc gặp" thấy cụt ngủn, chưa trọn nghĩa . Ư họ muốn tả một cuộc hội kiến tay đôi, một lần gặp gỡ, chưa hẳn là một hội nghị (conference). Nên dùng như thí dụ này: "Bộ trưởng Thái đă hội kiến gặp bộ trưởng Lào"...

    7. "Cưới". Nhà văn Lê Minh Hà đi từ miền bắc, công tác ở Đông Đức, rồi xin tỵ nạn ở Đức, viết trong tập truyện ngắn "Trăng Góa": 'Bọn này chưa cướí, 'chúng tôi cướí đó là thói quen từ vùng cộng sản. Đây không phải là lối hành văn mới lạ, kiểu cách chỉ là thói quen dùng sai tự To marry, get married, nhưng người Việt phải nói là: 'Chúng tôi chưa làm đám cưới; bọn này cưới nhaụ Câu này lại do một vai nữ tự thuật, lại càng sai nặng nữa . Chúng ta chỉ nói "cưới vợ", không bao giờ nói "cưới chồng" ca? Chỉ có hai trường hợp dùng được hai chữ "cưới chồng". Một là cô gái có lỗi lầm nào đó, nhà gái phải bỏ tiền, chịu mọi chi phí đám cưới để lấy cho được một tấm chồng. Hai là những đồng bào thiểu số, sắc dân nào c̣n theo chế độ mẫu hệ, cô gái cưới chồng, v́ chàng rể sẽ thuộc về nhà gái . Nhà gái phải trả cho nhà trai trâu, lợn, gà, chiêng đồng, v.v. để mua rê?

    8. " Đại trà" = on a large scale = cỡ lớn, quy mô lớn. Thí dụ: "đồng bào trồng cây cà phê đại trà". Tại sao không dùng như trước là "quy mô lớn"? Ngoài ra dùng "đại trà" là bắt chước Trung Quốc. Có thể gây hiểu lầm là "cây trà lớn"!!

    9. " Đăng kư" = register = ghi tên, ghi danh. Nghĩa rất đơn giản, nhưng bắt chước Trung Quốc, cố dùng Hán-Việt. Câu nói sau đây nghe kỳ lạ: 'Tôi đă đăng kư mua khoai ḿ ở Phường...'. Tại sao không dùng "ghi danh", "ghi tên"?

    " Đăng kư" là một chữ mà người Cộng Sản miền Bắc dùng v́ tinh thần nô lệ người Tầu của ho đến khi toàn chiếm lănh thổ, họ đă làm cho chữ này trở nên phổ thông ở khắp nước, Trước đây, ta đă có chữ "ghi tên" (và "ghi danh") để chỉ cùng một nghĩa . Người Tầu dùng chữ "đăng kư" để dịch chữ 'register' từ tiếng Anh. Ta hăy dùng chữ "ghi tên" hay "ghi danh" cho câu nói trở nên sáng sủa, rơ nghĩa . Dùng làm chi cái chữ Hán Việt kia để cho có ư nô lệ người Tầủ!

    10. " Đầu ra, đầu vào" = output, input = cái đưa ra, cái đưa vào, ḍng điện cho vào máy; dữ kiện đưa vào máy vi tính. Họ c̣n dùng có nghĩa là vốn, hoặc th́ giờ, công sức bỏ vào và kết quả của cuộc đầu tư đọ Nhưng dùng "đầu ra, đầu vào" nghe thô tục (giống như từ bộ phận = một phần việc, một nhóm, tổ, đă bị nhà văn nữ Kathy Trần đốp chát, hỏi: "Bộ phận gỉ" bộ phận của đàn ông, đàn bà ả). Có thể dùng "vốn đầu tư" và "kết quả sản lượng".

    11. "Giải phóng" = liberate, emancipate/ free, relieve, release = giải tỏa, xả ,thả, trả tự do . Từ giải phóng chỉ nên dùng cho con người, không dùng cho loài vật, đất, vườn... Họ lạm dụng từ giải phóng, nghe không thuận tai và sai nghĩa .

    Thí dụ: ' Đă giải phóng (giải tỏa) xong mặt bằng để xây dựng nhà máy/ Anh công an lưu thông tích cực công tác để giải phóng (giải tỏa) xe cộ ../ Em X giải phóng (thả) con chó !! Những câu sau đây mới là dùng đúng cách: 'phong trào giải phóng phụ nữ ../ Công cuộc giải phóng nô lệ ..'

    12. "Hiển thị" 'Chỉ cần ấn nút th́ mọi nhu cầu sẽ được hiển thị trên máy tính...' (appear on screen) Tại sao không nói "sẽ thấy hiện rơ trên máy".

    13. "Hùng hiểm" ' Địa thế nổi đó rất hùng hiểm...' hùng vĩ = hiểm trở (majestic greatness + dangerous).

    14. "Khả năng": Chữ này tương đương với chữ ability trong tiếng Anh, và chỉ được dùng cho người, tức là với chủ từ có thể tự gây ra hành động động theo chủ ỵ Tuy nhiên hiện nay ở Việt nam người ta dùng chữ "khả năng" trong bất kỳ trường hợp nào, tạo nên những câu nói rất kỳ cục. Ví dụ thay v́ nói là 'trời hôm nay có thể mưá, th́ người ta lại nói: 'trời hôm nay có khả năng mưá, nghe vùa nạng nề , vừa sai . "Có khả năng": Đây là cách sử dụng rất Tây, thí dụ: 'Hôm nay thời tiết có khả năng mưá chúng ta tạm chấp nhận (sao không nói giản dị là: "Hôm nay trời có thể mưa" ?). Thí dụ này khó chấp nhận: 'Học sinh X có khả năng không đạt điểm tốt nghiệp'. Có khả năng là ability; aptitude; capacity và luôn luôn dùng ở trạng thái tích cực (positive), không bao giờ dùng với trạng thái tiêu cực (negative). Những câu sau đây nghe rất chướng: 'Bệnh nhân có khả năng bị hôn mệ ' Địch có khả năng bị tiêu diệt..' v.v...

    15. "Khả thi" = applicable; ability to carry out = có thể thực hiện được, có thể thi hành được. "Khả thi" và "bất khả thi" cũng chịu ảnh hưởng nặng của Trung Quốc. Sao không dùng: "không thực hiện được"/ "không thực hiện nổi". Ngoài ra "khả thi" sẽ đưa đến sự hiểu lầm là "có thể dự thi được".

    16. "Khẩn trương": Trước năm 1975 chúng ta đă cười những người lính cộng sản, khi họ dùng chữ này thay thế chữ 'nhanh chóng'.

    Nhưng than ôi, ngày nay vẫn c̣n những người ở Việt Nam (và cả một số người sang Mỹ sau này) vẫn vô t́nh làm thoái hóa tiếng Việt bằng cách bỏ chữ 'nhanh chóng' để dùng chữ 'khẩn trương'. Đáng lẽ phải nói là: 'Làm nhanh lên' th́ người ta nói là: 'làm khẩn trương lên'.

    17. "Khẳng định". Thói quen dùng động từ này bị lạm dụng: 'Diễn viên X đă khẳng định được tài năng. Đồng chí A khẳng định ở vị trí giám đốc' Khẳng định; xác định, xác nhận = affirm và confirm có nghĩa gần giống nhau, ngoài nghĩa theo luật pháp có nghĩa là phê chuẩn, chuẩn y . Tuy nhiên âm thanh của khẳng định nghe nặng nề

    18. "Kích cầu" = to level the bridge/ needing to sitimulate = nhu cầu để kích thích/ nâng cao cái cầu lên. Cả hai nghĩa đều hàm ư là chất xúc tác, kích thích tố khiến sự việc tiến nhanh hơn. Cách dùng hơi la Bên công chánh có lối dùng những con đội để nâng cao cái cầu giao thông lên. Tại sao không dùng "kích thích tố", "chất xúc tác" như trước?

    19. "Làm rơ" 'Công an Phường 16 đang làm rơ vụ việc nàư Làm rơ=clarify, cần làm rơ v́ có sự mù mờ, chưa minh bạch, ngoài c̣n có nghĩa gần như nói lại cho rơ, đính chính. Đúng nghĩa phải là điều tra = investigate . Cách sử dụng từ làm rơ cũng giống như làm việc (với công an) chỉ nhằm xóa bớt sự ghê sợ, hăi hùng của người dân khi phải tiếp xúc với công an cộng sản. Họ cố tránh những động từ như "điều tra", "khai báo", "tŕnh diện" v.v...

    20. "Liên hệ": Cũng từ miền Bắc, chữ này lan khắp nước và nay cũng tràn ra hải ngoại . Liên hệ là có chung với nhau một nguồn gốc, một đặc tính. Người cộng sản Việt Nam dùng chữ liên hệ để tỏ ư nói chuyện, đàm thoại . Tại sao không dùng chữ Việt là 'nói chuyện' cho đúng và giản di Chữ liên "hệ dịch" sang tiếng Anh là 'to relate to", chứ không phải là 'to communicate to"


    C̣n tiếp...

    Quote Originally Posted by Tigon View Post
    21. "Ngài":Qua sách báo từ sau 1954, miền bắc dùng sai và lạm dụng từ Ngài .

    Cách dùng thứ nhất để tôn xưng quá đáng giới chức ngoại quốc, thứ nh́ là để chế diễu, khôi hài các nhân vật trong khối tự do dân chủ, và ở miền nam, thí dụ: Ngài đại úy, ngài thiếu tá

    Từ sau 1954, trong miền nam gần như không thấy xuất hiện từ Ngài!

    Chế độ cộng sản tự nhận là vô sản, đánh phong kiến, diệt quan lại, nhưng nay họ lại quan lại, phong kiến hơn ai hết. Chứng cớ qua từ tôn xưng Ngài và họ c̣n tự nhận và gọi các cán bộ và nhân vật quan trọng ngoại quốc là Quan chức. Quan chức = officials, có thể dịch là "viên chức", hay "giới chức ngoại giao", "nhân viên chính phủ", "phái đoàn ngoại giao", v.v...

    22. "Nghệ nhân": Ta vốn gọi những người này là 'nghệ sị Mặc dù đây cũng là tiếng Hán Việt, nhưng người Tầu không có chữ "nghệ sĩ", họ dùng chữ "nghệ nhân". Có những người tưởng rằng chữ 'nghệ nhân' cao hơn chữ 'nghệ sí, họ đâu biết rằng nghĩa cũng như vậy, mà sở dĩ người cộng sản Việt Nam dùng chữ 'nghệ nhân' là v́ tinh thần nô lệ Trung Hoa .

    23. "Quản lư" = management = quản trị, chịu trách nhiệm. Bắt chước từ Trung Quốc và bị lạm dụng.

    Nói: 'Anh X quản lư một xí nghiệp' th́ được, nhưng câu sau 'nhái lạí khôi hài 'Anh sẽ xây dựng với đồng chí gái, và đồng chí gái sẽ quản lư đời anh...'.

    "Quản lư" chỉ dùng để trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, hành chánh. "Quản lư" không dùng cho lĩnh vực t́nh cảm được, t́nh cảm không phải là một lô hàng, không phải là một xí nghiệp.

    24. "Sơ hữu". 'Mối quan hệ Viê.t-Mỹ chỉ là sơ hữú Sơ hữu + bạn mới quen, mới làm bạn (new friendship). Tại sao không nói: 'Mối quan hệ Viê.t-Mỹ chỉ là bạn mới quen'...?

    25. "Sự cố": "Sự cố kỹ thuật": tại sao không dùng chữ vừa giản dị vừa phổ thông trước đây như 'trở ngạí hay 'trở ngại kỹ thuật' hay giản dị hơn là chữ 'hỏng'? (Nói 'xe tôi bị hỏng' rơ ràng mà giản dị hơn là nói 'xe tôi có sự cô).

    26. "Tai tệ nạn". 'Tai tệ nạn xảy ra khá nhiều trên đoạn đường nàư tai nạn + tệ nạn xă hội (accident + social crime/evil). Cách ghép nối kỳ lạ .

    27. "Thành viên" = member = theo cách nói và viết thông thường là một người trong một tổ chức , hội đoàn, nhóm nào đọ Không thể dùng "thành viên" cho một cá nhân trong gia đ́nh được.

    Thí dụ sau đây nghe rất Tây: 'Các thành viên trong hộ đó có cha, mẹ và hai con/ Bé Năm là một thành viên trong gia đ́nh....' Tại sao không nói: 'Trong hộ đó có cha, mẹ và hai con/ Bé Năm là một đứa con trong gia đ́nh...'. Thí dụ sau đây mới là dùng đúng: 'Mỹ là thành viên trong Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc có quyền phủ quyết ...'

    28. "Tham quan": đi thăm, đi xem th́ nói là đi thăm, đi xem cho rồi tại sao lại phải dùng cái chữ này của người Tầủ! Sao không nói là 'Tôi đi Nha Trang chơí, 'tôi đi thăm lăng Minh Mạng', mà lại phải nói là 'tôi đi tham quan Nha Trang', 'tôi đi tham quan lăng Minh Mạng'.

    29. "Tháng một; tháng mười hai". Hiện nay ở Việt Nam trong trường học họ không dạy học sinh "tháng giêng" và "tháng chạp" nữa .

    Tháng giêng và tháng chạp là cách gọi rất Việt Nam. Lịch in ở Việt Nam ghi tháng một là tháng giêng cụ Từ xưa đến nay chúng ta vẫn gọi tháng đầu năm âm lịch là "tháng giêng", tháng thứ 11 là "tháng (mười) một" và tháng cuối năm là "tháng chạp". Gọi là tháng chạp là do tháng cuối năm âm lịch có nhiều lễ, trong đó có lễ chạp. Ca dao đă có câu:

    "Tháng chạp là tiết trồng khoai

    Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà"

    Tháng thứ 11 âm lịch gọi là "tháng một" dễ lầm lẫn với tháng giêng, nên đă tạm bỏ Nhưng gọi tháng January dương lịch là "tháng một" nghe không ổn, phải gọi là tháng giêng. C̣n tháng December gọi là tháng mười hai, không có vấn đệ Nhưng họ có dạy cho học sinh tiểu học hiểu rằng muốn chỉ tháng thứ 12 trong năm âm lịch bắt buộc phải gọi là tháng chạp không?

    30. "Thống nhất". 'Tôi đă xuống huyện thống nhất đồng chí X ..' Câu này mắc hai lỗi . Thứ nhất thiếu từ liên tự với, thứ nh́ là thống nhất điều ǵ, chuyện gị Thống nhất (unify; unified). Trường hợp này phải nói là "đồng ư" với; "nhất trí" với .

    31. "Thứ nhất, thứ nh́". Từ xưa theo cách đếm số, chúng ta có con số thường (cardinal number) như 1.2.3.4 và số thứ tự (ordinal number) thứ nhất, thứ nhị Hiện nay họ dường như không ưa dùng số thứ tự và gọi thứ nh́ là thứ hai . Chỉ second; deuxième là "thứ hai" dễ lầm lẫn với "thứ hai" = Monday . Trên sách báo chỉ thấy viết: một là; hai lạ Như thế chỉ riêng nước Việt Nam không cần đến số thứ tự (ordinal number) nữa sao ?

    32. "Tương thích". Giá cả đó tương thích với chất lượng mặt hàng...' tương đương = thích hợp (equal = appropriated). Cách ghép nối gượng gao .

    33. "Tranh thủ": Thay v́ dùng một chữ vừa rơ ràng vừa giản dị là chữ 'cố gắng', từ cái tệ sính dúng chữ Hán Việt của người cộng sản, người ta lại dùng một chữ vừa nặng nề vừa tối nghĩa là chữ 'tranh thủ'

    Thay v́ nói: 'anh hăy cố làm cho xong việc này trước khi vế, th́ người ta lại nói: 'anh hăy tranh thủ làm cho xong việc này trước khi về

    34. "Trao đổi" = exchange = theo nghĩa của họ là nói chuyện, đối thoại, hội thoại . Cách dùng chịu ảnh hưởng nặng Tây phương. Trao đổi theo đúng nghĩa là đổi chác 'ông đưa cái gị, bà tḥ chai rượụ Họ chịu ảnh hưởng Tây phương quá nặng, v́ trao đổi chỉ áp dụng cho hàng hóa (giao thương) hay con người .

    Thí dụ: 'Hai nước trao đổi lănh sự, trao buôn bán, mậu dịch'. Kiều và Kim Trọng đă trao đổi quà tặng t́nh yêu cho nhau . Không bao giờ trao đổi lại có nghĩa là nói chuyện, đối thoại .

    Thí dụ sau đây cho thấy cách dùng sai lạc: 'Anh Phillippe Jamet đang trao đổi với một bé gái Việt Nam...' Trao đổi gỉ Quà tặng gỉ Trao đổi không bao giờ có nghĩa là converse, talk tọ, chỉ là exchange thôi .

    35. "Trọng thị": Coi trọng (show consideration for/ attach important to) trong từ điển ghi là một từ cũ, không hiểu sao lại được dùng trở lại . Thí dụ: "Chúng ta phải trọng thị yếu tố đó". Cứ nôm na nói: 'Chúng ta phải coi trọng yếu tố đo là đủ và giản dị rồi .

    36. "Trúng thưởng" = reward, award. Thế nào gọi là thưởng? Thưởng là thưởng cho những cá nhân hay tập thể có công, tài giỏi, đạt thành tích cao ... Thưởng đi đôi với phạt.

    Vậy không thể nói : 'Mua hàng sẽ được trúng thưởng.../ Anh X trúng thưởng xổ số thành phố X. được 50 triệu . ' Đó chỉ là quà tặng, biếu không, không phải là thưởng, và chỉ là trúng xổ số chứ không lĩnh thưởng. Xổ số là h́nh thức đánh bạc, nên gọi tránh đi là trúng thưởng (Thật là mâu thuẫn, trong khi đó họ bỏ tiền ra mua máy đánh bạc đặt trong các khách sạn lớn!!)

    37. "Trúng tuyển" ( nghĩa vụ quân sự) = select, choose/ recruit. Chúng ta vẫn nói và viết "tuyển sinh", "tuyển quân", "tuyển mộ", "tuyển dụng"... Nhưng nói : "trúng tuyển nghĩa vụ" thật là khôi hài . Nghĩa vụ quân sự là thi hành quân dịch, đến tuổi phải đi, bắt buộc phải đi, không có chuyện trúng tuyển hay không được tuyển (nên dùng theo nghĩa xấu chỉ có dân nghèo, không có tiền đút lót và không phải là con cán bộ cao cấp, mới bị trúng tuyển).

    38. "Tư liệu": Trước đây ta vốn dùng chữ "tài liệu", rồi để làm cho khác miền nam, người miền bắc dùng chữ 'tư liệú trong ư: 'tài liệu riêng của người viết'. Bây giờ những người viết ở hải ngoại cũng ưa dùng chữ này mà bỏ chữ 'tài liệú mặc dù nhiều khi tài liệu sử dụng lại là tài liệu đọc trong thư viện chứ chẳng phải là tài liệu riêng của ông ta .

    39. "Vị trí" = place/ position/ job, task = chỗ đứng, vị thế / nơi chốn/ việc làm, trách vu Nhưng họ dùng "vị trí" cho luôn cả nghĩa là "trách vụ", "việc làm". Câu nói sau đây là sai: 'Anh A đă thay anh B công tác ở vị trí kế toán trưởng'. Nên nói: 'Anh A đă thay anh B công tác ở trách vụ kế toán trưởng' mới đúng. Thường thường chúng ta hay dùng: 'Tiểu đội A đă chiếm được một vị trí trên cao, từ đó có thể ngăn chặn được trung đội địch tiến lên đồị

    40. "Vùng sâu xa": Vùng rừng núi, đầm lầy (highland = swamp area). Đây là cách sử dụng chữ trốn tránh thực tê Vùng ở trong sâu hiểu là vùng hẻo lánh, śnh lầy và vùng xa tức là vùng trên cao, ở xa . Đây là cách dùng mị dân, cũng như để dễ bề đẩy giáo viên, kỹ sư, bác sĩ không phe đảng, không là con cháu cán bộ đến phục vụ nơi khỉ ho c̣ gáy . Ngoài ra "sâu xa" c̣n gây hiểu lầm với 'ḷng cảm ơn, biết ơn sâu xa" đă quen dùng trước đây .

    41. "Xuất khẩu", "Cửa khẩu": Người Tầu dùng chữ khẩu, người Việt dùng chữ cảng. Cho nên ta nói "xuất cảng", "nhập cảng", chứ không phải như cộng sản nhắm mắt theo Tầu gọi là "xuất khẩu", "nhập khẩu". Bởi v́ ta vẫn thường nói phi trường Tân Sơn Nhất, phi cảng Tân Sơn Nhất, hải cảng Hải Pḥng, giang cảng Saigon, thương cảng Saigon. Chứ không ai nói phi khẩu Tân Sơn Nhất, hải khẩu Hải Pḥng, thương khẩu Saigon trong tiếng Việt. Khi viết tin liên quan đến Việt Nam, ta đọc bản tin của họ để lấy dữ kiện, rồi khi viết lại bản tin đăng báo hay đọc trên đài phát thanh tại sao không chuyển chữ (xấu) của họ sang chữ (tốt) của ḿnh, mà lại cứ copy y boong?

    42. C̣n hai từ nữa bị người dân miền bắc lạm dụng v́ lây cách dùng của cán bộ là "bản thân" và "chủ yếu":

    "Bản thân" = self, oneself, và "chủ yếu" = main, principal.

    Qua những câu chuyện thường ngày, chúng ta nghe họ dùng hai từ này bừa băi , sai lệch: 'Thức ăn chủ yếu của đồng bào vùng này là ngô và khoai; Chúng tôi lấy gạo làm chủ yếu để qui thành giá trị trao đổí

    Và: 'Bản thân tôi cũng không tránh khỏi dao động. Bản thân sự kiện đó c̣n nhiều tồn tại".

    Người ta đă bỏ quên từ "tự và chính" được dùng từ xưa đến nay, thí dụ: Thức ăn chính của đồng bào . Chính tôi cũng không tránh khỏi dao động; Tự thân sự kiện đó

    Hiện nay đang có phong trào ghép chữ bừa băi giữa hai từ Hán-Việt + Hán- Việt hoặc Hán-Việt + Nôm. Thí dụ: "động thái", "thể trạng", "siêu sao", "siêu trường". Động thái là hành động + thái độ (action + attitude); thể trạng là t́nh trạng thân thể (physical form sitituation); siêu sao = super-star; siêu trường = super-long. nghe lạ tai . Đă đành là ngôn ngữ chẳng qua chỉ là những ước hiệu con người sử dụng để hiểu nhau, thông cảm nhau . Tuy nhiên những ước hiệu đó không được khó hiểu, bí hiểm, khó nghe, chói tai, kỳ la.

    43. Những danh từ kỹ thuật mới: Thời đại của điện tử, của computer tạo ra nhiều danh từ kỹ thuật mới, hay mang ư nghĩa mới . Những danh từ này theo sự phổ biến rộng răi của kỹ thuật đă trở nên thông dụng trong ngôn ngữ hàng ngày . Hầu hết những chữ này có gốc từ tiếng Anh, bởi v́ Hoa Kỳ là nước đi trước các nước khác về kỹ thuật. Các ngôn ngữ có những chữ cùng gốc (tiếng Đức, tiếng Pháp) th́ việc chuyển dịch trở nên tự nhiên và rơ ràng, những ngôn ngữ không cùng gốc, th́ người ta địa phương hóa những chữ ấy mà dùng. Riêng Việt Nam th́ làm chuyện kỳ cục là dịch những chữ ấy ra tiếng Việt (hay mượn những chữ dịch của người Tầu), tạo nên một mớ chữ ngây ngô, người Việt đọc cũng không thể hiểu nghĩa những chứ ấy là ǵ, mà nếu học cho hiểu nghĩa th́ khi gặp những chữ ấy trong tiếng Anh th́ vẫn không hiểu .

    Ta hăy nhớ rằng, ngay cả những người Mỹ không chuyên môn về điện toán, họ cũng không hiểu đích xác nghĩa của những danh từ này, nhưng họ vẫn cứ chỉ biết là chữ ấy dùng để chỉ các vật, các kỹ thuật ấy, và họ dùng một cách tự nhiên thôi . Vậy tại sao ta không Việt hóa các chữ ấy mà phải mất công dịch ra cho kỳ cục, cho tối nghĩa .

    Ông cha ta đă từng Việt hóa biết bao nhiêu chữ tương tự, khi tiếp xúc với kỹ thuật phương tây cơ mạ Ví dụ như ta Việt hóa chữ 'pomp' thành 'bơm' (bơm xe, bơm nước), chữ 'soup' thành 'xúp', chữ 'pharé thành 'đèn phá, chữ 'cycló thành 'xe xích lố, chữ 'manggis' (tiếng Mă Lai) thành 'quả măng cụt', chữ 'durian' thành 'quả sầu riêng', chữ 'bougié thành 'bu-gi, chữ 'manchon' thành 'đèn măng xông', chữ 'boulon' thành 'bù-long', chữ 'garé thành 'nhà gá, chữ 'savon' thành 'xà-bông'?

    Bây giờ đọc báo, thấy những chữ dịch mới, th́ dù đó là tiếng Việt, người đọc cũng vẫn không hiểu như thường. Hăy duyệt qua một vài danh từ kỹ thuật bị ép dịch qua tiếng Việt Nam, như:

    a . Scanner dịch thành 'máy quét'. Trời ơi! 'máy quét' đây, thế c̣n máy lau, máy rửa đâủ! Mới nghe cứ tưởng là máy quét nhà!

    b. Data Communication dịch là 'truyền dữ liệụ

    c. Digital camera dịch là 'máy ảnh kỹ thuật sộ

    d. Database dịch là 'cơ sở dữ liệụ

    Những người Việt đă không biết database là ǵ th́ càng không biết 'cơ sơ dữ liệú là ǵ luôn.

    e . Software dịch là 'phần mềm', hardware dịch là 'phần cứng' mới nghe cứ tưởng nói về đàn ông, đàn bà

    Chữ 'hard' trong tiếng Mỹ không luôn luôn có nghĩa là 'kho, hay 'cứng', mà c̣n là 'vững chắc' ví dụ như trong chữ 'hard evident' (bằng chứng xác đáng)ẨChữ soft trong chữ 'soft benefit' (quyền lợi phụ thuộc) chẳng lẽ họ lại dịch là 'quyền lợi mềm' sao ?

    f. Network dịch là 'mạng mạch'.

    g. Cache memory dịch là 'truy cập nhanh'.

    h. Computer monitor dịch là 'màn h́nh' hay 'điều phốị

    i . VCR dịch là 'đầu máư (Như vậy th́ đuôi máy đâu ? Như vậy những thứ máy khác không có đầu ả). Sao không gọi là VCR như ḿnh thường gọi TV (hay Ti-Vi). Nếu thế th́ DVD, DVR th́ họ dịch là cái gỉ

    j. Radio dịch là 'cái đàị Trước đây ḿnh đă Việt hóa chữ này thành rađdi-ô hay rađô, hoặc dịch là 'máy thu thanh'. Nay gọi là 'cái đàí vừa sai, vừa kỳ cục. Đài phải là một cái tháp cao, trên một nền cao (ví dụ đài phát thanh), chứ không phải là cái vật nhỏ ta có thể mang đi khắp nơi được.

    k. Chanel gọi là 'kênh'. Trước đây để dịch chữ TV chanel, ta đă dùng chữ đài, như đài số 5, đài truyền h́nh Việt Nam, gọi là kênh nghe như đang nói về một con sông đào nào đó ở vùng Hậu Giang!

    Ngoài ra, đối với chúng ta, Saigon luôn luôn là Saigon, hơn nữa người dân trong nước vẫn gọi đó là Saigon. Các xe đ̣ vẫn ghi bên hông là 'Saigon - Nha Trang', 'Saigon - Cần Thớ trên cuống vé máy bay Hàng Không Việt Nam người ta vẫn dùng 3 chữ SGN để chỉ thành phố Saigon. Vậy khi làm tin đăng báo, tại sao người Việt ở hải ngoại cứ dùng tên của một .... để gọi thành phố thân yêu của chúng ḿnh?! Đi về Việt Nam t́m đỏ mắt không thấy ai không gọi Saigon là Saigon, vậy mà chỉ cần đọc các bản tin, các truyện ngắn viết ở Hoa Kỳ ta thấy tên Saigon không được dùng nữa . Tại sao ?

    Đây chỉ là một vài ví dụ để nói chơi thôi, chứ cứ theo cái đà này th́ chẳng mấy chốc mà người Việt nói tiếng Tầu luôn mất!

    Tất nhiên, v́ đảng cộng sản độc quyền tất cả mọi sinh hoạt ở Việt nam, nên ta khó có ảnh hưởng vào tiếng Việt đang dùng trong nước, nhưng tại sao các nhà truyền thông hải ngoại lại cứ nhắm mắt dùng theo những chữ kỳ cục như thể!

    Cái khôi hài nhất là nhiều vị trong giới này vẫn thường nhận ḿnh là giáo sư (thường chỉ là giáo sư trung học đệ nhất cấp (chưa đỗ cử nhân) hay đệ nhị cấp ở Việt Nam ngày trước, chứ chẳng có bằng Ph.D. nào cả), hay là các người giữ chức này chức nọ trong các hội đoàn tự cho là có trách nhiệm về văn hóa Việt Nam ở ngoài nước!

    Trước đây Phạm Quỳnh từng nói: 'Truyện Kiều c̣n th́ tiếng ta c̣n, tiếng ta c̣n th́ nước ta c̣n', bây giờ Truyện Kiều vẫn c̣n mà cả tiếng ta lẫn nước ta lại đang đi dần xuống hố sâu Bắc Thuộc. Than ôi!


    http://hoiquanphidung.com/showthread...97;ng-ngày-nay
    Bài viết rất công phu, nhưng nếu không dùng những ḍng sau đây th́ hay biết mấy .

    1) + Nghĩa rất đơn giản, nhưng bắt chước Trung Quốc, cố dùng Hán-Việt
    2) + Dùng làm chi cái chữ Hán Việt kia để cho có ư nô lệ người Tầủ
    3) + Đây chỉ là một vài ví dụ để nói chơi thôi, chứ cứ theo cái đà này th́ chẳng mấy chốc mà người Việt nói tiếng Tầu luôn mất!
    4) + nghe thô tục, kỳ lạ và ảnh hưởng Tây phương rất nặng, khó có thể chấp nhận
    5) + Ông cha ta đă từng Việt hóa biết bao nhiêu chữ tương tự, khi tiếp xúc với kỹ thuật phương tây cơ mạ Ví dụ như ta Việt hóa chữ 'pomp' thành 'bơm' (bơm xe, bơm nước), chữ 'soup' thành 'xúp', chữ 'pharé thành 'đèn phá, chữ 'cycló thành 'xe xích lố, chữ 'manggis' (tiếng Mă Lai) thành 'quả măng cụt', chữ 'durian' thành 'quả sầu riêng', chữ 'bougié thành 'bu-gi, chữ 'manchon' thành 'đèn măng xông', chữ 'boulon' thành 'bù-long', chữ 'garé thành 'nhà gá, chữ 'savon' thành 'xà-bông'?


    Vẫn biết tư ngữ của CSVN nghe thiệt lạ và chói tai , nhưng nếu chửi CS cái ǵ th́ chúng ta cũng đừng làm giống như vậy . Nếu không th́ cùng cá mè 1 lứa, chửi nhau sao được . Từ ngữ của VNCH mà tác giả cổ vơ , quả thật nghe lọt lỗ tai hơn nhiều (chắc là tại nghe quen rồi) , nhưng hâu hết những từ đó cũng đều là từ hán-việt , nếu vậy th́ dùng (1), (2), (3) để làm lư do chửi từ ngữ CSVN dùng th́ coi sao được ?

    (4) với (5) th́ khỏi nói , xem qua như là tự chửi ḿnh vậy
    Last edited by xitrum95; 04-12-2013 at 03:05 AM.

  10. #30
    Member
    Join Date
    13-06-2011
    Posts
    4,171

    - Đăng kư (người miền Nam gọi là ghi danh)

    - Nền kinh tế đầu vào đầu ra

    - Cầu lông (người miền nam gọi là vũ cầu)

    - Giải phóng mặt bằng, giải phóng lối đi

    - Quán triệt tư tưởng

    - Sự cố kỹ thuật

    - Ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương, làm việc b́nh thường

    - Đàn giây (người miền nam gọi là vĩ cầm)

    - Xuất khẩu, nhập khẩu (người miền nam gọi là xuất cảng, nhập cảng)

    - Bức xúc, nhạy cảm, phản cảm, hồ hởi, phấn khởi, ùn tắc giao thông, trăn trở cọ xát với thực tế

    - Nhà đái, nhà ỉa, xưởng đẻ, giặc lái

    - Học tập tốt, lao động tốt, đá bóng tốt, đánh đàn tốt, nấu ăn tốt, giao hợp (địt) tốt!!!

    - Tham ô, hủ hóa, móc ngoặc, thoái hóa

    - Cô ấy phát biểu rất là ấn tượng!

    C̣n rất nhiều không thể liệt kê hết ở đây. Nói ngắn gọn, những chữ nghĩa của cộng sản là những cặn bă, rác rưởi của loài khỉ đột thải ra. Chúng ta cần phải loại bỏ. Ai giải phóng ai????
    Khi nghe ban bè (loại bá dơ gặp ngoài đường hàng ngày) nói những từ trên ḿnh có quyền nổi nóng dùng "dĩ độc trị độc" phán rắng :

    @&^%*$ éo ẹ mày ,mày mà nói tiếp những từ ngữ này nữa th́ tao sẽ triển khai sự cố động năo mày nhé , hiểu chưa mạy.
    Last edited by Viet xưa; 04-12-2013 at 04:17 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 5
    Last Post: 18-07-2013, 01:01 AM
  2. Replies: 188
    Last Post: 30-03-2012, 01:31 AM
  3. CÁI GIÁ CUẢ TỰ DO : NHỮNG CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU
    By Tigon in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 83
    Last Post: 12-11-2011, 11:12 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 10-09-2011, 11:47 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •