Results 1 to 8 of 8

Thread: Sáu mươi năm hiệp định Genève 1954 và cuộc di cư vĩ đại

  1. #1
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Sáu mươi năm hiệp định Genève 1954 và cuộc di cư vĩ đại

    Sáu mươi năm hiệp định Genève 1954 và cuộc di cư vĩ đại


    Bối cảnh lịch sử

    Cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh 1946 -1954 đă được 8 năm , hai bên đều mệt mỏi thiệt hại nhiều nhân mạng. Điện Biên Phủ, trận đánh lớn nhất trong cuộc chiến này bắt đầu ngày 13-3-1954, quân Pháp yếu thế rơ rệt so với Việt Minh

    Gần cuối tháng 3 Pháp chính thức yêu cầu Mỹ cho oanh tạc ồ ạt cứu nguy mặt trận, Tổng thống Eisenhower và Bộ tham mưu, các cố vấn ṭa Bạch ốc nghiên cứu kế hoạch rồi tham khảo ư kiến các vị đại diện Quốc hội. Giới Lập pháp đ̣i Hành pháp phải thực hiện 3 điều kiện để được Quốc hội ủng hộ: (1)

    -Phải có sự tham gia các nước Đông nam Á, các nươc Liên hiệp Anh

    -Pháp phải trả độc lập cho Việt, Mên, Lào

    -Pháp phải ở lại chiến đấu chống CS


    TT Eisenhower theo yêu cầu các vị đại diện Quốc hội cử ngoại trưởng Dulles vận động Anh, Pháp và các nước Đông nam Á tham gia liên minh quân sự. Mặc dù khẩn khoản xin Mỹ oanh tạc cứu nguy nhưng Pháp không chịu tham gia Liên minh và đi t́m ḥa b́nh v́ bị trong nước chống đối. Người dân, báo chí Pháp cho rằng cuộc chiến nay chỉ là đánh thuê cho Mỹ. Pháp tin tưởng vào Hội nghị Genève sẽ khai mạc ngày 26-4-1954, họ cho biết trường hợp nếu không kư được Hiệp định sẽ tiếp tục cuộc chiến. Người Anh bác bỏ lời mời của Mỹ tham gia Liên minh và tin tưởng vào Genève, chỉ tham gia chiên tranh nếu Hội nghị trở ngại. Mỹ khuyên Pháp tiếp tục cuộc chiến không tham gia Hội nghị, họ coi Genève là sự thất bại v́ sẽ phải nhường đất cho Cộng Sản, họ biết rằng các cường quốc Tây phương cũng như Cộng sản chủ trương chia đôi Việt Nam, trong lúc này Anh và Nga đă ngầm chủ trương như vậy.

    Mỹ thất bại không cứu được ĐBP v́ Anh không chịu tham gia Liên minh mà Quốc hội yêu cầu.


    Hiệp định Genève



    Ngày 26-4 Hội nghị Genève (2) khai mạc để giải quyết các vấn đề Triều Tiên và Đông Dương. Cuộc thảo luận Triều Tiên tại Genève không đạt kết quả. Ngày 7-5-1954 ĐBP thất thủ, phái đoàn Pháp bị mất mặt tại Hội nghị, cuộc họp thảo luận về Đông Dương thực sự bắt đầu ngày 8-5-1954.Các nước tham dự và đại diện gồm Anh, ngoại trưởng Eden; Pháp, Bidault, sau ngày 19-6 là Chauvel; Mỹ, Thứ trưởng ngoại giao Smith; Nga, ngoại trưởng Molotov; Trung cộng, Thủ tướng Chu ân Lai; Quốc gia Việt Nam, Nguyễn Quốc Định, đầu tháng 7 là Trần Văn Đỗ; Việt Minh Thủ tướng Phạm văn Đồng.

    Hiệp định được kư kết ngày 20-7-1954 gồm 4 văn kiện

    1- Hiệp định đ́nh chiến tại Việt Nam

    2- Hiệp định đ́nh chiến tại Lào

    3- Hiệp định đ́nh chiến tại Cao Mên

    4- Tuyên bố cuối cùng, không có chữ kư


    Phái đoàn Quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ không kư vào bất cứ văn kiện nào của Hiệp định.

    Hiệp Định Genève đ́nh chiến ở Việt Nam gồm 6 chương 47 điều



    Xin sơ lược

    Chương I – Giới tuyến quân sự tạm thời, khu phi quân sự.

    Thời hạn rút quân không quá 300 ngày từ 20-7

    Chương II- Nguyên tắc và cách thức thi hành Hiệp định

    Điều 14- Trong khi chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước, mỗi bên phụ trách quản trị hành chánh khu vực của ḿnh. Thời hạn rút Hà nội 80 ngày, Hải dương 100 ngày, Hải pḥng 300 ngày.

    Chương III- Cấm đem thêm quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí đạn dược mới vào căn cứ quân sự.

    Chương IV –Tù binh và thường dân bị giam giữ

    Thời hạn 30 ngày để trao trả tù binh

    Chương V- Điều khoản linh tinh

    Chương VI Ban Liên Hợp và Ủy hội quốc tế ở Việt Nam

    Ủy hội quốc tế kiểm soát đ́nh chiến gồm Ấn độ (chủ tịch), Gia Nă Đại, Ba Lan.

    Thứ trưởng quốc pḥng Tạ Quang Bửu đại diện Việt Minh kư

    Thiếu tướng Henri Deteil thay mặt Tư lệnh Đông dương kư

    Bản tuyên bố cuối cùng ngày 21-7-1954 gồm 13 điểm (3)


    Bản tuyên bố cuối cùng về tái lập ḥa b́nh Đông Dương không mang chữ kư của bất cứ phái đoàn nào tham dự hội nghị, trong đó điều 7 nói nguyên văn:


    “Hội nghị tuyên bố, giải pháp cho những vấn đề chính trị ở Việt Nam dựa trên cơ sở tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ sẽ cho phép người dân Việt Nam được hưởng nền tự do cơ bản thông qua kết quả tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức tháng 7-1956”


    Sau khi Hội nghị khai mạc được một tháng và một tuần, vào ngày 4-6-1954, người Pháp đă trao trả độc lập hoàn toàn cho chính phủ Quốc gia Việt Nam


    “Thủ tướng Bửu lộc dồn nỗ lực vào việc điều đ́nh nhằm mục đích kiện toàn độc lập cho Việt Nam. Sau ba tháng vận động và thảo luận, ông đi tới kết quả là kư kết với chính phủ Pháp hai hiệp ước ngày 4-6-54. Như thế ông đă hoàn tất sứ mạng được giao phó và thỏa măn ư nguyện mà Quốc Trưởng Bảo Đại đă ấp ủ từ 1949” (4)


    Việt Nam được độc lập hoàn toàn một tháng rưỡi từ 4-6 cho tới 20-7 th́ bị chia đôi


    C̣n tiếp...

  2. #2
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Dưới đây là nhận định, ư kiến của các nhà b́nh luận Tây phương

    * Jean Lacouture, kư giả lăo thành người Pháp nói trong “Kết Thúc Một Cuộc Chiến, Đông Dương năm 1954” chương 23 (5)


    Xin sơ lược

    Tám năm chiến tranh, 400,000 người chết, ba tháng thảo luận từ 26-4 tới 21-7, ông Trần Văn Đỗ chống lại sự chia đôi đất nước. Tuyên bố sau cùng ngày 21-7 định ngày Tổng tuyển cử cho Việt Nam vào tháng 7-1956, cần có sự tham khảo giữa hai miền từ 20-7-1955 về trước.

    Tại VN, thời hạn 300 ngày để hai bên rút quân về trên hoặc dưới vĩ tuyến 17, sau 30 ngày trao trả tù binh

    Tại Lào từ tháng 6 tới tháng 8 có hiệu lực

    Tại Mên từ tháng 7 tới tháng 8 có hiệu lực


    “Nói về quan điểm người Việt nam, thái độ hoàn toàn bác bỏ (Hiệp định) của chính phủ Bửu Lộc và chính phủ Ngô Đ́nh Diệm rất đáng kính trọng. Người Việt chân chính Quốc gia hay Cộng sản không ai có thể chấp nhận chia đôi đất nước dù chỉ là trong một khoảng thời gian” (6)


    Việc chia đôi VN do hai mục đích chính của Pháp: cứu Quân đoàn viễn chinh; để cho Quốc gia Việt nam thiết lập cơ sở sau một biên giới vững chắc. Từ cuối tháng 6 Pháp ủng hộ việc chia đôi, từ ngày 10-6 Pháp đ̣i chia VN tại vĩ tuyến 18. Cuối tháng 6, đồng minh Anh Mỹ đề nghị tại vĩ tuyến 17.

    Phía Việt Minh mới đầu đ̣i chia tại vĩ tuyên 13, mười hai ngày sau họ chuyển tới vĩ tuyến 14. Ngày 13-7 Phạm văn Đồng nhượng bộ lên tới vĩ tuyến 16 dưới áp lực Chu Ân Lai và Dulles khi ngoại trưởng Mỹ này tới Paris đă tạo áp lực lên phía CS. Thủ tướng Mendes-France đ̣i đưa lên xa hơn. Đêm 19-7 đưa lên cao hơn một một ít dặm và trưa 20-7 Molotov, ngoại trưởng Nga đồng ư quan điểm của Anh-Mỹ (ngày 29-6) lấy vĩ tuyến 17.

    Một viên chức ngoại giao cao cấp của Pháp đă tham dự hội nghị cho rằng: Thỏa thuận ngày 20-7 khiến phía Pháp có lợi. Ông ta lư luận t́nh h́nh quân sự lúc đó rất nguy kịch, ta khó mà giữ được Hà nội cho dù gửi thêm hai sư đoàn tuyển mộ cũng không giúp ǵ được. Hà Nội có thể bị cắt khỏi Hải pḥng chỉ trong một ngày. Nếu rui lui trong lửa đạn sẽ thiệt hại nặng. Hải pḥng cũng sẽ phải rút….miền Nam sẽ bị đe dọa v́ ta tập trung lực lượng ở miền Bắc.

    Từ những thông tin đó ta thấy chia đất nước tại vĩ tuyến 13 đúng với thực trạng hơn là tại vĩ tuyến 17 mà chúng ta đă làm được.

    Có nghĩa là người Pháp đă đ̣i được nhiều hơn thực trạng chiến trường

    Về ngày bầu cử người Pháp ấn định nó thật xa hay không xác định ngày càng tốt và giao trách nhiệm cho Ủy hội quốc tế. Vào ngày 15-7 Nga đề nghị cuối năm 1955. Lúc 5 giờ chiều ngày 20-7, mọi người đồng ư với Molotov đề nghị hai năm, Mỹ và Pháp muốn hoăn lại ít nhất 18 tháng.

    Về thời hạn rút quân Pháp đề nghị 380 ngày, Việt Minh đề nghị ba tháng, sau cùng thỏa thuận 300 ngày. Khác với Munich tháng 9-1938 để tránh chiến tranh, Genève tháng 7-1954 v́ Pháp quá mệt mỏi sau tám năm khói lửa.

    Thủ tướng Mendes-France tŕnh bầy kết quả trước Quốc hội ngày 22-7 cho biết kết quả Hiệp Định không tốt đẹp. Chính phủ không bị chỉ trích nhiều, đối lập cũng không đả phá, cả chủ bại và chủ chiến cũng tỏ vẻ ủng hộ. Quốc hội chấp thuận với đa số phiếu lớn sau ba lần biểu quyết ngày 23-7

    Báo Le Figaro ngày 21-7 viết: Chúng ta đau buồn v́ quyền lợi của chúng ta ở Viễn đông mất một nửa, phần c̣n lại cũng bị lung lay. Thế giới Tự do phải nhường đất cho CS, cũng đau buồn nhưng dù sao cũng cám ơn Thủ tướng Mendes-France đă khiến cho máu của người Pháp không c̣n chẩy cho một cuộc chiến vô vọng.

    Ngày 21-7, Tổng thống Eisenhower trả lời phỏng vấn nói ông không chỉ trích những ǵ đă làm ở Genève v́ ông không có giải pháp nào hay hơn để đề nghị. Ngoại trưởng Pháp Chauvel nói: “không có kết thúc tốt đẹp cho một việc tồi tệ” Eden nói cùng một ư nghĩ nhưng mang vẻ lạc quan “Chúng tôi đă cố gắng hết ḿnh”

    Tôi xin đề cập nhận định về Genève của Fredrik Logevall, Giáo sư sử Mỹ, nói trong cuốn Tro Tàn Cuả Chiến Tranh, Sự Suy Tàn Của Một Đế Quốc Và Sự Thành H́nh Một Việt Nam, phần năm (7)

    Logevall nói ḥa ước đ́nh chiến giữa Pháp và Việt Minh chia đôi (VN) tại vĩ tuyến 17, và khu phi quân sự chiều ngang 6 dặm dọc theo vĩ tuyến. Pháp rút vào Nam, Việt Minh ra Bắc, Hiệp định cấm hai bên không được liên kết quân sự với nước khác và nhận viện trợ quân sự. Thành lập Uỷ hội quốc tế do Ấn độ làm chủ tịch để kiểm soát, Hiệp định công nhận đường phân chia chỉ là tạm thời như trong tuyên bố sau cùng, một văn kiện không có chữ kư mà chỉ được xác nhận bằng miệng (8) trong phiên họp cuối cùng trưa 21-7. Ranh giới chỉ là tạm thời không được coi là biên giới quân sự hay chính trị. Tuyên bố cuối cùng dự trù một cuộc tổng tuyển cử bằng phiếu kín trên toàn cơi VN vào tháng 7-1956 với sự tham khảo đại diện hai miền trước đó một năm (tháng 7-1955).

    Mỹ và chính phủ QGVN không ưng thuận kết quả Hiệp định. Thứ trưởng ngoại giao Mỹ Smith nói chúng tôi sẽ tiếp tục t́m sự thống nhất bằng bầu cử có Liên hiệp quốc giám sát để bảo đảm dân chủ.

    Thủ tướng Mendes-France nói: tối 20-7 một khó khăn đè nặng lên mọi cố gắng của chúng ta mà ta không thể chống lại, ông nói người dân Pháp đ̣i phải t́m ḥa b́nh, không có ǵ sai lầm tối đó (20-7). Tôi đă thấy tận mắt ư muốn của đại chúng mà ta đă thấy rơ, vâng tôi đă thấy định mệnh hướng về ư muốn ấy.

    Từ 1945 tới tháng 7-1954 Pháp đă đưa sang tổng cộng 489,560 người lính tại Đông Dương gồm 233,467 người Pháp, 72,833 người Lê Dương, 122,920 Bắc Phi, 60,340 Phi châu. Ngoài ra c̣n hằng trăm ngàn quân bản xứ Đông Dương hoặc các nước Liên kết (Việt, Mên, Lào) khi kết thúc Hội nghị Genève, khoảng 110,000 người thuộc Liên hiệp Pháp bị thiệt mạng

    Logevall nói: Một câu hỏi được đặt ra là tại sao Việt Minh không đ̣i được nhiều hơn? Hay nói khác đi tại sao người Pháp đàm phán giỏi hơn là đánh trận? Trước đó Bidault nói Pháp yếu thế hơn Việt Minh trong ván bài, Điện Biên Phủ thất thủ, Hải Pḥng, Chấu thổ bị đe dọa, Quân đội QGVN đào ngũ nhiều, tám trăm người một ngày. Người dân trong vùng thuộc Pháp tại Bắc kỳ (châu thổ) mất tinh thần, trong khi đó người dân Pháp đ̣i t́m ḥa b́nh, đáng lư phải chia ở vĩ tuyến 13.

    Một nhà ngoại giao Pháp tham dự hội nghị nói đúng ra chia ở vĩ tuyến 13 chứ không phải 17 v́ Pháp yếu thế tại mặt trận. Nhưng sự thật lại không thế, câu châm ngôn xưa “Ta chỉ thắng tại bàn hội nghị nếu thắng tại chiến trường” lại không đúng trong trường hợp này. Các sử gia giải thích kết quả của Genève là do áp lực của Sô viết và Trung cộng đối với Việt Minh, đó là điểm quan trọng nhất.

    Các siêu cường Cộng sản không muốn leo thang chiến tranh để tránh Mỹ can thiệp trực tiếp. Nga, Tầu muốn tỏ sự sống chung ḥa b́nh tại Á châu và trên thế giới để tăng uy tín, Trung cộng muốn củng cố ảnh hưởng tại Đông Dương và ngăn cản tham vọng bành trướng của Việt Minh. Mấy tuần trước khi có Hội nghị người ta đă trao đổi nhau chủ trương phân chia, Trung Cộng đóng vai chính trong việc kết thúc cuộc chiến Đông Dương. Các viên chức Việt Minh buồn phiền v́ áp lực quan thầy Cộng Sản là điều rơ ràng. Sau phiên họp chót Phạm Văn Đồng nói với người phụ tá: Họ phản bội chúng ta (ám chỉ Chu Ân Lai). Việt minh đàm phán giữa năm 1954 v́ sợ Mỹ can thiệp.

    Nga Tầu đề nghị hoăn tổng tuyển cử 6 tháng mà Phạm Văn Đồng đă đề nghị, Việt Minh tin là họ sẽ thắng trong cuộc bầu cử toàn quốc. Người Tây phương nghĩ là Hồ Chí Minh sẽ thắng cử nên đă muốn định ngày xa hơn hoặc không định ngày. TT Eisenhower nói có thể 80% người dân muốn bỏ phiếu cho ông Hồ Chí Minh CS hơn là bỏ cho Quốc trưởng Bảo Đại. Cả Chu Ân Lai và Molotov đều không muốn thúc dục bầu cử sớm, ngày 23-6 trong một phiên họp tại Berne Thủ tướng Pháp nói tổng tuyển cử khi nào dân hai miền đă b́nh tâm trở lại. Chu Ân Lai nói đàm phán thỏa thuận chính trị sẽ do hai chính phủ VN trực tiếp bàn với nhau, ông không hề nói họ cần thương thuyết ngay. Ngày 16-7-1954 Molotov đề nghị tổng tuyển cử tháng 6-1955, sau đó ông nói tháng nào trong năm 1955 cũng được. Tây phương từ chối, Molotov đề nghị tháng 7-1956 tức hai năm sau.

    Người Mỹ chỉ mong Hội nghị Genève tan vỡ không kư kết, Logevall khen Mendes-France hứa t́m ḥa b́nh trong một tháng, nếu thất bại ông sẽ từ chức và ông đă thành công, ông ta cương quyết vừa hoàn thành sự thỏa thuận và đạt được sự nhượng bộ (bên VM) cho Pháp. Tại Mỹ Eisenhower họp báo cùng ngày nói một Hiệp định được kư kết ngăn chận đổ máu, nhưng ông nhấn mạnh Mỹ không tham gia, không bị ràng buộc ǵ với Hiệp định v́ nó có những điều mà Mỹ không ủng hộ (mất đất). Nhiệm vụ chúng ta là thành lập Liên minh chống bành trướng tại Đông Nam Á. Ông cũng biết là Hiệp định tốt đẹp hơn là Pháp và Tây phương mong đợi. Ông cảm thấy những lời cứng rắn của Mỹ qua bài diễn văn tháng 9-1953 của Dulles đă có kết quả, ngoại trưởng Mỹ đă đe dọa trừng phạt Trung cộng nếu họ trực tiếp can thiệp cuộc chiến.

    Mỹ đe dọa can thiệp Đông Dương bằng quân sự khiến Nga, Trung cộng e ngại và ép Việt Minh phải nhượng bộ sau cùng.

    Trước cuộc tổng tuyển cử dự trù tháng 7-1956, Mỹ có hai năm để xây dựng chính phủ miền nam VN khi không c̣n thực dân.


    C̣n tiếp...

  3. #3
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Cuộc Di cư vĩ đại

    Như đă nói ở trên, thời hạn để quân Pháp và Chính phủ Quốc gia VN rút xuống dưới vĩ tuyến 17 được ấn định: Hà nội 80 ngày, Hải dương 100 ngày, Hải pḥng, 300 ngày, đây là địa điểm tập trung di cư. Người dân tại hai bên vĩ tuyến có quyền đi theo quân đội của ḿnh. Trước ngày kư Hiệp định, tại Hà nội đă có nhiều nhà khá giả, trí thức mua vé máy bay vào Nam. Khi Hiệp định Genève vừa được kư kết và có hiệu lực, tại các thành phố lớn châu thổ sông Hồng: Hà Nội, Hà Đông, Hải Dương, Hải Pḥng…các gia đ́nh trí thức, trung lưu hoặc làm việc cho chính phủ Quốc gia đă vội vă khăn gói lên đường vào Nam ồ ạt.


    Tại Hà Đông, Hà Nội giới trí thức, các trường trung học, đại học cũng vội đi Nam, họ bán tống tang đồ đạc, máy móc để lên đường, một cái máy hát quay đĩa giá mấy ngàn đồng chỉ bán năm, sáu trăm, đĩa hát, tiểu thuyết rẻ như bèo.


    Những người đi đợt đầu được nhiều ưu đăi, có khi Ủy hội quốc tế cho xe đến tận nhà đón đi, hàng ngày có bốn năm chục chuyến bay Dakota chở hàng ngàn dân di cư vào Sài g̣n cũng như các tầu Mỹ tại Hải pḥng liên tục chở người di cư. Những người này hoặc đă có kinh nghiệm Việt Minh Cộng sản, hoặc sống sung túc, tự do quen không thể ở lại được. Đối với họ Việt Minh là biểu tượng của nghèo nàn đói khổ, hà khắc, Việt Minh đi tới đâu chỉ đem tới toàn là cảnh khốn cùng sơ xác mà tâm lư con người ai cũng muốn t́m nơi sung túc, đất lành chim đậu.

    Hai tháng rưỡi đă trôi qua từ ngày đ́nh chiến, bọn trẻ tại các làng Đào Nguyên, La Dụ, Đông Lao.. kéo nhau lên đê đón các anh bộ đội chiến thắng Điện Biên trở về tiếp thu Hà Đông, Hà Nội. Các anh vui vẻ tử tế khiến mọi người thấy một niềm vui lâng lâng của cuộc sống mới lạ do những người từ hậu phương mang lại. Những người di cư hồi ấy phần nhiều dân thành thị, ít người thôn quê, người dân quê không có ư thức Quốc gia, Cộng sản, đối với họ, chính phủ nào, chế độ nào cũng vậy và họ chọn ở lại. Thế rồi ngày vui qua mau, một tương lai u ám đen tối đă bắt đầu hiện rơ, chính sách thuế nông do chính phủ ban hành khiến mọi người kinh hoàng.Từ thời phát xít, thực dân chưa bao giờ người dân phải đóng thuế và bị bóc lột xương tủy như thế. Thuế đánh gấp bốn, gấp năm lần thu hoạch, nhiều nhà dâng hiến ruộng nương cho chính phủ cũng không được chấp nhận, người ta không hiểu VM muốn ǵ, muốn đưa trung lưu, phú nông vào con đường chết?

    Chính phủ tiến hành làm đường tầu hỏa Mục Nam Quan sang Tầu để chở thóc gạo đền ơn. Tại miền quê, nhiều nhà đă âm thầm lên đường “đi Nam”, nay có tin nhà ông Năm đi Nam, mốt có tin nhà bác Cả đi Nam….Hà Nội đă được tiếp thu tháng 10-1954, cờ đỏ sao vàng rợp phố nhưng vẫn được thông thương với Hải Pḥng, nơi sẽ được tiếp thu sau cùng. Người dân Hà Nội vẫn được xuống Hải pḥng nhưng phải làm giấy thông hành, nếu họ muốn vào Nam th́ vẫn chưa muộn,nhưng người nhà quê muốn di cư th́ không phải là chuyện dễ, trước hết phải có giấy thông hành mà giấy này chỉ cấp cho người Hà Nội. Người miền quê muốn xuống Hải pḥng nếu trên 18 tuổi phải mượn, hoặc xin giấy thông hành của người Hà Nội rồi cạo sửa, dán ảnh của ḿnh vào, lấy củ khoai làm con dấu, triện giả đóng lên để lên tầu hỏa xuống Hải pḥng hiện vẫn thuộc chính phủ Quốc gia và Pháp. Tuy khó khăn gian nan như thế nhưng nhiều người vẫn âm thầm ra đi trót lọt.

    Tại thành phố có tai mắt quốc tế, người dân tương đối đỡ sợ nhưng tại thôn quê không khí ngột ngạt bắt đầu, người ta khuyến khích gây căm thù giai cấp, đó là động lực thúc đẩy người dân rời bỏ quê cha đất tổ tha phương cầu thực. Trên thực tế chỉ những tỉnh thuộc phạm vi châu thổ sông Hồng như đă nói trên mới có cơ hội và điều kiện xuống Hải pḥng ra đi, c̣n nhưng tỉnh xa xăm như Nghệ An, Hà Tĩnh hoặc những vùng hậu phương như Yên Bái, Lạng Sơn người dân dù muốn đi cũng không có cơ hội. Ngoài ra đồng bào Thiên Chúa Giáo tại Ninh B́nh, Phát Diệm cũng ra đi tập thể vô cùng đông đảo.

    Hai tuần sau khi kư Hiệp định, ngày 4-8-1954 chính phủ Pháp và Mỹ thiết lập cầu không vận dài nhất thế giới lúc đó khoảng 1,200 cây số nối liền phi trường Tân sơn Nhất Sài G̣n và các sân bay miền Bắc như Gia Lâm, Bạch Mai Hà Nội và Cát Bi Hải pḥng. Trung b́nh 6 phút có một máy bay hạ cánh tại Tân Sơn Nhất, mỗi ngày có vào khoảng từ 2,000 tới 4,200 người di cư tới. Tổng kết là 4,280 lượt hạ cánh đưa vào Nam 213,635 người (9)

    Nhưng phương tiện chính đưa dân di cư vào Nam là tầu thủy, các tầu há mồm của Pháp tại cảng Hải Pḥng đưa dân từ trong bờ ra vịnh Hạ Long để lên những tầu lớn của Mỹ có sức chuyên chở khoảng 5,000 người. Những tầu này chạy vào Nam vài ngày tới Sài G̣n, hầu hết các tầu chuyên chở là của Mỹ.


    Tổng cộng 555,037 người di cư đă được chuyên chở bằng tầu thủy vào Nam, v́ số người di cư quá đông, Cao ủy Pháp đă xin gia hạn thêm ba tháng, phía Việt Minh đă thỏa thuận nên ngày di cư cuối cùng thay v́ là 19-5 được rời lại 19-8, chuyến tầu thủy cuối cùng cập bến Sài G̣n ngày 16-8-1954. Ngoài ra khoảng 103,000 người di cư bằng đường bộ hoặc ghe thuyền, phương tiện riêng. (10)

    Sau khi bức màn sắt đă buông xuống , nhiều người đă dùng thuyền vượt tuyến vào Nam bằng đường biển, tổng cộng có hơn một triệu người rời bỏ quê cha đất tổ lánh nạn Cộng sản vào Nam. Nếu cuộc di cư kéo dài thêm một năm th́ số người tỵ nạn có thể tăng lên vài triệu nhưng trên thực tế chính phủ Quốc gia Việt Nam không đủ khả năng tiếp đón quá nhiều người di cư như vậy.

    Theo sử liệu phía CS, có khoảng 140,000 người di cư ra Bắc hầu hết là cán bộ, kháng chiến quân tập kết và gia đ́nh. Họ băng rừng Trường Sơn hoặc đi tầu Ba Lan, Nga, Pháp.

    Phủ tổng Ủy di cư Quốc gia VN cho biết có 4,358 người di cư vào Nam đổi ư xin về Bắc.

    C̣n tiếp...

  4. #4
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Nhận xét và kết luận

    Trước hết tôi xin nói về Tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

    Như trên Hiệp định Genève 1954 gồm 6 chương, 47 điều chủ yếu nói về đ́nh chiến, mang lại ḥa b́nh, không có điều nào nói về cuộc Tổng tuyển cử nhưng nó được nhắc tới tại điều 7, trong Bản tuyên bố cuối cùng ngày 21-7. Bản tuyên bố này chỉ là nói miệng với nhau (oral statements) và không có chữ kư (unsigned document) của bất cứ phái đoàn nào, nó không giá trị về mặt pháp lư. Trên thực tế cuộc tổng tuyển cử tại VN 1956 không được các cường quốc quan tâm kể cả Nga, Trung Cộng, người ta chỉ muốn một hiệp định chấm dứt chiến tranh.

    Như đă nói trên, tại Hội nghị, Việt Minh đề nghị Tổng tuyển cử sau 6 tháng v́ nghĩ là họ sẽ thắng, Anh Mỹ và Molotov thỏa thuận 2 năm. Phía Việt Minh (VN Dân Chủ Cộng Ḥa) mới đầu tưởng người dân sẻ ủng hộ họ nhưng ngay khi Hiệp định có hiệu lực th́ hàng triệu người ùn ùn bỏ miền Bắc vào Nam theo Pháp và Chính phủ Quốc gia. Cuộc di cư vĩ đại y như một cái tát vào mặt Bác và Đảng khiến họ không hy vọng vào tổng tuyển cử tự do có quốc tế giám sát. Theo tài liệu Quân sử của Bộ Trung Hoa Quân Mưu th́ sự thất bại của Cải cách ruộng đất đă khiến cho CSVN không thể thực hiện Tổng tuyển cử được, cái hy vọng thống nhất bằng ḷng dân qua bầu cử của CSVN sụp đổ nên họ quay lưng với Hiệp định để gây chiến tại miền nam (11)

    Việt Minh mới đầu tràn trề hy vọng, ai dè người dân bỏ chạy vào Nam hàng hàng lớp lớp, cuộc bỏ phiếu bằng chân vĩ đại cho thấy họ thất nhân tâm, chẳng có tí chính nghĩa nào.

    Miền Bắc đổ lỗi cho chính phủ Ngô Đ́nh Diệm không thực hiện tổng tuyển cử, thi hành Hiệp định Genève nhưng thực ra họ thừa biết sẽ thất bại nếu bầu cử tự do có Liên Hiệp Quốc giám sát. Người dân miền Bắc sau hai năm nếm mùi đấu tố, đói cơm rách áo đă hoàn toàn tuyệt vọng ở Bác và Đảng không thể bầu phiếu cho họ. Năm 1956 miền Bắc c̣n bận rộn với chiến dịch đấu tố, chôn sống địa chủ theo lệnh Nga, Trung Cộng. Năm 1957 Thủ tướng Phạm văn Đồng gửi thư cho Tổng thống Diệm xin hiệp thương thống nhất nhưng bị từ chối.

    Sở dĩ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm không thực hiện bầu cử thống nhất

    -Chính phủ Quốc gia VN đă không kư kết vào bất cứ văn kiện nào của Hiệp định.

    -Bản tuyên bố cuối cùng tự nó không có giá trị pháp lư, chỉ là lời nói miệng của các phái đoàn, “lời nói theo gió bay đi tất cả” (12) nó chỉ là một điều khoản mơ hồ.

    -Bầu cử thống nhất như thế nào? theo chính thể nào? trong khi miền Bắc theo CS, miền nam không CS, vậy nếu miền Bắc thắng cử th́ miền Nam sẽ phải theo CS, hoặc ngược lại miền Nam thắng, miền Bắc sẽ từ bỏ CS? thật là chuyện không tưởng.

    -Năm 1956 các cường quốc Anh, Mỹ, Nga, Trung Cộng không lên tiếng về Tổng tuyển cử, họ muốn hai bên cứ ở yên như thế.


    Một số người khuynh tả hải ngoại chỉ trích chính phủ Diệm đă không thi hành Hiệp định Genève. Vấn đề ở đây không phải là để bênh vực hay chê trách ông Diệm mà nằm ở chỗ chính Hà Nội không muốn vậy v́ họ thừa biết sẽ thảm bại trong một cuộc bầu cử tự do, nay người ta đă biết rơ cái tẩy của họ. Trước khi rút quân tập kết ra Bắc năm 1954, họ đă để lại nhiều cán binh nằm vùng chuẩn bị cho cuộc nổi loạn sau này và 20 năm sau, năm 1973 khi Hiệp định Paris vừa kư kết xong, CSBV đă vội mở xa lộ Đông Trường Sơn chuyển vũ khí đạn dược vào Nam để chuẩn bị xâm lăng ồ ạt. Trong cả hai trương hợp họ đều không muốn bầu cử và không thể bầu cử mà chỉ chiếm được miền nam bằng con đường vũ lực.

    Năm 1956 Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa tháu cáy chính phủ Ngô Đ́nh Diệm khi họ lên tiếng đề nghị bầu cử thống nhất mà chính họ đă biết là sẽ thảm bại để đổ lỗi cho miền nam VN và có cớ dùng vũ lực xâm lăng. Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm không tin tưởng sẽ có cuộc bầu cử tự do v́ miền Bắc sẽ dùng biện pháp hăm dọa người dân bỏ phiếu cho CS, họ chỉ có thể thắng cử được nhờ họng súng. Sự thực như chúng ta đă thấy, chính VM là kẻ đă chia đôi đất nước, họ đă chủ trương chia cắt đất nước ngay từ đầu.

    Tại sao phải thống nhất? tại sao mỗi bên không tự lo xây dựng cho đất nước ḿnh giầu đẹp mà phải bắt ép những người khác theo ḿnh? Trên thế giới có ba nước bị phân chia: Triều tiên, Việt Nam và Đức quốc. Nước Đức thống nhất năm 1990 nhưng hơn mười năm sau trên thực tế vẫn là hai nước, người Tây Đức chê Đông Đức lười biếng, hủ lậu, đầy thói hư tật xấu, Đông Đức th́ trách Tây Đức cai trị, khinh rẻ họ…

    Ngay sau khi bức màn sắt vừa buông xuống, miền Bắc đất chật dân đông, thiếu thực phẩm đă phải nhập cảng gạo của Miến điện và xin viện trợ các nước CS anh em. Họ không c̣n con đường nào khác là chiếm cho được vựa lúa miền Nam

    Như trên TT Eisenhower nói nếu có Tổng tuyển cử có thể 80% người dân sẽ bỏ phiếu cho ông Hồ Chí Minh hơn là bỏ cho ông Bảo Đại. Walter Robertson, Phụ tá Bộ trưởng ngoại giao Mỹ đặc trách Viễn đông sự vụ nói người VN ghét thực dân Pháp, Mỹ lại giúp vua bù nh́n Bảo Đại (13).

    Các nhà chính khách và sử gia Tây phương không biết rơ thực trạng xă hội, chính trị VN hồi ấy nên nhiều người nhận định sai lạc. Họ không biết rằng ngay từ 1950 khi người Pháp lập chính phủ Bảo Đại th́ người dân tại hậu phương bỏ Bác Đảng ùn ùn kéo về thành phố. Họ không biết rằng khi Việt Minh về tiếp thu các thành phố lớn miền Bắc th́ người dân cũng lũ lượt kéo nhau theo thực dân vào Nam, chẳng thà sống với thực dân c̣n hơn nền độc lập của CS. Họ không biết rằng khi Hồng Kông được Anh trao trả cho Trung Cộng năm 1997 th́ nhiều người đă nhẩy lầu tự tử để phản đối, người ta muốn sống với thực dân Anh hơn là độc lập. Vấn đề đặt ra là các nhà chính khách, sử gia Tây phương không biết hoặc giả vờ không biết? tôi nghĩ có thể cả hai trường hợp đều đúng.

    Hiệp định Genève là kết quả của cuộc chiến tám năm khói lửa đẫm máu mệt mỏi, hai bên đều muốn đ́nh chiến. Người Pháp t́m ḥa b́nh để rút khỏi Đông Dương, c̣n Việt Minh tạm nghỉ một thời gian dưỡng sức để tiếp tục chiếm nốt phần đất c̣n lại.

    Người Pháp cho rằng v́ yếu thế trên chiến trường đúng ra phải chia cắt ở vĩ tuyến thứ 13 chứ không phải vĩ tuyến 17 và như thế họ đă được lời. Phía Việt Minh qua lời Phạm Văn Đồng cho thấy họ bị Nga, Trung Cộng ép phải nhận chia đôi tại vĩ tuyến 17 v́ sợ Mỹ vào can thiệp

    Đối với Mỹ th́ dù chia tại vĩ tuyến 13 hay 17 cũng là thất bại, là nhường đất cho CS, họ không muốn có Hiệp định Genève mà chỉ muốn tiếp tục cuộc chiến ngăn chận CS bành trướng. Tuy nhiên người Mỹ đă mâu thuẫn với chính họ, mặc dù lo sợ cuộc chiến tầm ăn dâu của địch nhưng lại sợ tốn tiền.Thượng nghị sĩ Kennedy năm 1954 không ủng hộ cuộc chiến Đông Dương mà ông cho là vô cùng tốn kém, nước Mỹ chỉ đổ tiền của một cách vô ích vào rừng núi miền bắc VN, quan điểm của ông đă được đa số Thượng viện ủng hộ (14).

    Chính v́ Mỹ không viện trợ đầy đủ cho Pháp bằng Trung Cộng cho Việt Minh đă đưa tới thất thủ Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève.

    Tướng Navarre, Tư lệnh Đông Dương 1953-1954 nói chúng ta có thể ra đi nhường lại phần đất cho những người mà họ có nhiều quyền lợi tại tại Đông nam Á hơn chúng ta (15). Nhưng khi nói về đ́nh chiến, l’Armistice ông ta có phần mâu thuẫn:


    “Chính tại Genève chứ không phải Điện Biên Phủ là ngày đánh dấu nước Pháp hạ ḿnh. Trách nhiệm ở các nhà chính trị gia chứ không phải ở quân đội” (16)


    Sự thực không phải vậy, người dân Pháp đă quá ghê sợ cuộc chiến đẫm máu tại Đông dương và mong mỏi khao khát ḥa b́nh.

    Dù sao xương máu của gần 80 ngàn người linh Liên Hiệp Pháp và QGVN đă giữ được một nửa nước Việt Nam tự do. Người Pháp bỏ Đông Dương nhưng vẫn có chút trách nhiệm và lương tâm với người ở lại, với chính phủ Quốc gia VN. Họ đă dàn xếp cho quân dân Quốc gia vào Nam yên ổn rồi mới rút, không bỏ chạy trong hỗn loạn như 20 năm sau.

    Trở lại cuộc di cư vĩ đại, những người ĺa bỏ quê cha đất tổ vào miền nam không phải v́ bị Pháp-Mỹ cưỡng ép tuyên truyền như phía CS rêu rao, cũng không phải v́ đấu tố, cải cách ruộng đất v́ hồi đó chưa có đấu tố, mà v́ người ta không mê nổi cái chính sách “bần cùng hóa nhân dân” ghê tởm của Bác và Đảng. Những người đă sống trong vùng Quốc gia không thể sống nổi dưới chế độ bần hàn đói khổ, tàn ác của CS. Người dân đă có kinh nghiệm Việt Minh, họ chỉ biết một cách đơn giản Việt Minh đồng nghĩa với hà khắc, đói khổ, rách rưới, thiếu cơm ăn áo mặc và tâm lư chung con người không ai muốn sống trong cảnh bần hàn đói khổ.

    Sau ngày tiếp thu, Việt Minh vội thu vét thóc gạo của nhân dân bằng chính sách sưu cao thuế nặng mà họ gọi là thuế nông. Trong lịch sử nước nhà chưa bao giờ người dân bị bóc lột xương tủy đến thế. Cán bộ giải thích đó là để đền ơn Trung Quốc v́ họ đă giúp đỡ chúng ta giành độc lập, bởi thế tại sân ga Hải pḥng, những người di cư đổ về đây đều đă đọc thấy những biển ngữ.


    “Đường tầu hỏa Mục Nam Quan

    Vơ vét thóc gạo đem sang cúng Tầu”


    Việt Minh hối hả làm đường xe lửa, vơ vét thóc gạo nhân dân chở sang Trung Cộng.

    Lạ thay cuộc di cư vĩ đại hàng triệu người lại không được Tây phương nói tới, không thấy các nhà sử gia hay chính khách nào đề cập, nhắc nhở. Họ không biết hay giả vờ không biết?

    Khoảng một tháng sau ngày 30-4-1975, Trường Chinh tuyên bố khẳng định trên đài phát thanh:

    “Sau hai chục năm xây dựng xă hội chủ nghĩa, chúng ta đă đem lại nhiều hạnh phúc cho nhân dân, nhà nhà đều có cơm ăn áo mặc, trẻ em đều được cắp sách đến trường…đó là điều mà trong lịch sử nước nhà từ xưa tới nay chưa có ai thực hiện được…”

    Đáng lư ra ông ta phải nói

    “Chúng ta đă mang lại cho nhân dân một cuộc sống đói khổ nhất trong lịch sử nước nhà từ xưa tới nay….”

    Vào dịp tháng 4-1985, đài VOA nói: “Sau mười năm giaỉ phóng miền nam VN, đảng CS đă mang lại cho người dân VN cái nghèo vào bậc nhất trên thế giới…”

    Tới nay cuộc di cư 1954 đă được 60 năm qua nhưng người dân vẫn tiếp tục di cư ra nước ngoài bằng nhiều đường, nhiều cách. Tại miền Bắc nhiều người đă âm thầm trốn qua châu Âu t́m một cuộc sống no ấm hơn dù gian khổ khiến nhiều người phải bỏ mạng. Tại miền Nam những cô gái nghèo lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn để được thoát ly ra ngoại quốc kiếm tiền gửi về cho cha mẹ, họ thường nói:

    “Cứ ra khỏi Việt Nam là thiên đường….”

    Trọng Đạt

    http://www.basam.info/2014/07/12/275...-di-cu-vi-dai/

  5. #5
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Từ Hà Nội đến Sài G̣n năm 1954—


    Tháng 6 năm 1954 đúng 60 năm về trước, là lúc mọi người trong vùng kiểm soát của chính phủ Quốc Gia ở Bắc Việt cực kỳ lo lắng và hoang mang sau khi cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7 tháng 5 năm 1954. Nhiều tin đồn trái ngược càng làm cho mọi người thêm sợ hăi. Khoảng 20 tháng 6, tại Nam Định và các tỉnh phụ cận, có tin đồn được lan truyền nhanh chóng nói rằng quân đội Pháp và quân đội Quốc Gia Việt Nam (QGVN) sẽ rút khỏi Nam Định và các tỉnh phía Nam Hà Nội. Từ hôm ấy, hàng loạt doanh trại được tháo gỡ vội vàng, xe vận tải quân sự chở vật liệu nặng bắt đầu theo nhau từ Bùi Chu, Ninh B́nh, Thái B́nh đổ về Nam Định cùng các xe cộ từ Nam Định nối nhau đi Hà Nội. Kho đạn Nam Định cho phá hàng loạt đạn súng cối và đạn pháo binh ở vùng đất hoang phía tây thành phố.



    H́nh chụp vào tháng 9 năm 1954 trên tàu USS Bayfield với những Bắc di cư đang quan sát phố xá tại bến tàu Saigon. Sau Hiệp Định Geneve, tàu USS Bayfield là một trong những vận-chuyển hạm của Hải Quân Hoa Kỳ được giao phó nhiệm vụ chở người tị nạn từ Bắc vào Nam. (H̀NH ẢNH: Trung Tâm Quân Sử Hải Quân Hoa Kỳ)

    Bộ Tư Lệnh Pháp và chính quyền Bảo Đại không hề lên tiếng về t́nh h́nh tại Bắc Việt. Bộ Chỉ Huy Pháp tại Nam Định vẫn tiếp tục công việc chuẩn bị cuộc diễn binh hùng hậu vào ngày quốc khánh Pháp, 14 tháng 7 năm 1954 mà họ đă loan báo trước. Vào lúc này, đă có tin đồn ông Ngô Đ́nh Diệm sẽ về nước làm thủ tướng. Những truyền đơn đầu tiên kư tên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia ủng hộ ông Diệm xuất hiện lác đác ở Nam Định.

    Ba ngày cuối cùng phi cơ quân sự lên xuống liên tiếp. Khi đă chuyên chở gần hết vật dụng và người, trạm hàng không quân sự Nam Định bắt đầu cho mọi người tự do lên phi cơ C-47 c̣n trống nhiều chỗ để đi Hà Nội.

    Nam Định bắt đầu hoảng hốt thực sự từ ngày 28 tháng 6 khi điện bị cắt. Thành phố tối mù. Nhiều người chen chúc mua vé xe hoặc thuê xe di tản về Hà Nội. Nam Định là nơi số doanh trại và binh lính dầy đặc nhất Việt Nam. Trước đó từ 9 giờ khuya là giờ giới nghiêm, thành phố vắng vẻ không một bóng người trên phố xá. Nay đột nhiên tất cả ch́m trong không gian đen thui, nhưng lại cựa ḿnh mạnh hơn trong bóng tối. Trên đường phố người ta đi lại đông đúc khác thường quá cả giờ giới nghiêm.

    Gia đ́nh tôi lúc ấy đang ở một căn cư xá công chức nơi mẹ tôi làm việc. Lúc 7 giờ sáng, một anh lính tống thư viên người Pháp vào sở đưa một giấy báo di chuyển, ghi đúng số người thuộc quyền sở này và gia đ́nh nhân viên kể cả 4 gia đ́nh ở cư xá. Tất cả mau lẹ tập trung đợi xe. Sau đó chừng 15 phút, một tiểu đội Bảo Chính Đoàn dẫn 4 xe vận tải trưng dụng của tư nhân đến nơi và cho biết đúng 8 giờ kém 15 mọi người phải có mặt đầy đủ trên xe.

    Việc di tản có vẻ đă được chuẩn bị nhiều tuần lễ trước đó. Số người ngồi trên xe thoải mái rộng răi v́ không ai mang theo đồ đạc ǵ nhiều ngoài một vài chiếc valise và túi xách tay gọn nhẹ.

    C̣n tiếp...

  6. #6
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674


    Đường phố Hà Nội, tháng 7 năm 1954. (H̀NH ẢNH: sưu tầm)

    Lệnh di chuyển cho biết đoàn xe này phải qua trạm kiểm soát phía bắc hướng đi Phủ Lư-Hà Nội vào khoảng giờ nhất định mà tôi nhớ là sau 8 giờ và trước 8 giờ 10 phút. Lệnh này cũng cảnh cáo nếu xe nào đến sớm quá hay muộn quá theo giờ ấn định sẽ bị ủi ra khỏi mặt đường để tránh nhiễu loạn giao thông.

    Hồi đó tôi c̣n là học tṛ. Vội vàng xếp quần áo, h́nh ảnh, giấy tờ cần thiết, cuống cuồng không biết phải mang theo ǵ và phải bỏ lại món nào. Lúc c̣n chừng 25 phút, tôi xin phép mẹ tôi chạy ra phố nói là để chào mấy thằng bạn. Cô ruột tôi , người nuôi nấng tôi từ nhỏ không chịu v́ sợ tôi chậm trễ e sẽ kẹt lại. Nhưng mẹ tôi hiểu ư, mỉm cười can thiệp nói, “Chị cứ cho nó đi, nó không dám về muộn đâu.”

    Mẹ tôi thừa biết tôi đi đâu. Tôi đạp xe với tốc độ không thua các tay đua ṿng quanh Đông Dương, xẹt qua trước nhà cô bạn mà tôi thương vụng nhớ thầm từ năm 17 tuổi và chưa hề mở lời yêu đương.

    Nàng đang ngồi chải tóc ở cửa sổ trên lầu. Không rơ nàng có nh́n thấy tôi hay không, nhưng tôi vội vàng đánh bạo thu hết can đảm hôn gió trên bàn tay phải ném về phía cửa sổ rồi lao xe như gió về nhà, trước giờ xe chạy khoảng 10 phút. Ở miền Bắc hồi ấy trai gái c̣n nhút nhát, phải can đảm lắm mới dám làm như thế v́ tôi linh cảm chuyến đi này sẽ lâu lắm, có thể là cả đời. Sau này trong đời lính chưa bao giờ tôi phải vận dụng can đảm cao độ như vậy dù gặp nhiều t́nh thế rất khó khăn nguy hiểm.

    Quân cảnh Pháp thi hành đúng giờ giấc như quy định. Tại trạm kiểm soát Cổng Hậu, từng đoàn xe gồm năm mười chiếc có lính hộ tống được cho khởi hành. Một vài xe đến muộn phải đậu một bên đường chờ giải quyết sau. Trên đường đi, tại mỗi cây cầu đều có một toán Công Binh đặt sẵn chất nổ. Một trung sĩ Công Binh Việt Nam cho biết họ phải phá nổ các cầu này khi đơn vị cuối cùng đi qua.

    Buổi trưa đoàn xe chúng tôi đi đến Hà Nội. Gia đ́nh tôi về ở nhà người thân. Đêm hôm ấy thị xă Phủ Lư bị một sư đoàn Việt Minh tấn công. Thành phố đă hư hại sẵn nay lại chịu tàn phá gần hết những ǵ c̣n lại.

    Cuộc rút lui này tuy tiêu biểu cho việc Pháp thua trận nhưng lại là cuộc rút lui thành công. Dựa vào tài liệu của Pháp và thực tế quan sát thấy tại chỗ, cho thấy Đại Tá Vanuxem chỉ huy trưởng Phân Khu Nam đă điều động cuộc rút lui mau lẹ, có trật tự với tổn thất nhẹ không đáng kể. Đoàn quân rút lui vượt qua nút Phủ Lư trước khi bị địch đánh chận.

    Kế hoạch tỉ mỉ do bộ tham mưu Pháp bí mật soạn thảo, trong đó chỉ có các sĩ quan từ đại úy mới được cho tham dự. Mọi việc đánh máy, chuyển nhận công điện, văn thư tài liệu đều do các cấp sĩ quan từ đại úy trở lên đích thân thi hành. Bí mật được giữ đến phút chót. Chỉ có một điều đáng tiếc là nhiều đội dân quân tự vệ ở nhiều làng mạc các tỉnh vùng này kể cả quanh những trung tâm chiến lược như Phát Diệm, Bùi Chu bị Pháp bỏ rơi. Nhiều dân quân chạy không kịp bị Việt Minh bắt và giết hại.

    Hà Nội vốn yên tĩnh, lúc đó đang sống thanh b́nh không nghe tiếng súng. Những vũ trường, hàng quán sang trọng và độc đáo với những thắng cảnh nổi tiếng đầy bóng dáng người đẹp thướt tha. Cuộc di tản 4 tỉnh phía Nam làm cho đường phố Hà Nội đông người thêm nhưng vẫn không mất vẻ mỹ lệ của đất Thăng Long ngàn năm văn vật.

    Lúc ấy hội nghị Geneve bắt đầu họp. Ai cũng thấy phe Cộng Sản đang nắm ưu thế. Những người có quan tâm đều lo ngại không biết sẽ đ́nh chiến kiểu nào. Có thể là hai bên ngưng bắn xen kẽ mà sau này năm 1972-73 người ta gọi là “giải pháp da beo.” Cũng có thể là chia đôi đất nước thành hai miền Nam và Bắc. Người ta cũng bàn tán gay go về ranh giới đ́nh chiến sẽ nằm ở vĩ tuyến nào? Vĩ tuyến 13, 16 hay 19?

    Đầu tháng 7, ông Diệm ra Hà Nội. Một số đông đảo dân chúng chào đón ông, và nhiều người hy vọng vị nhân sĩ này sẽ cứu văn t́nh h́nh. Sau đó ngày 7 tháng 7 năm 1954 ông Diệm chính thức nhậm chức thủ tướng. Ông thành lập Ủy Ban Bảo Vệ Bắc Việt. Các đoàn thể, đảng phái chống Cộng đều ủng hộ đường lối này. Nhiều sĩ quan, binh sĩ cũng sẵn sàng tham gia việc pḥng thủ lănh thổ phe quốc gia đang nắm giữ. Một số đông đảo đặt niềm hy vọng lớn lao vào sự trợ giúp của Hoa Kỳ thay thế người Pháp.

    Nhóm chúng tôi là đảng viên Đại Việt và Quốc Dân Đảng đều hăng hái tham gia tuyên truyền vận động ủng hộ chủ trương giữ Bắc Việt. Đêm đêm, chúng tôi đi ném truyền đơn ở khu Hồ Tây, Cổ Ngư, Ngọc Sơn và nhiều nơi khác kể cả những nơi có lính Pháp lui tới. Hà Nội bắt đầu có không khí căng thẳng và phảng phất mùi chiến tranh.

    Đường phố Hà Nội về khuya lần đầu tiên có những bóng dáng cảnh sát vơ trang súng trận Mas-36 và quân phục tác chiến đi tuần tiễu. Nhưng các cơ sở dân sự cơ yếu và doanh trại quan trọng của quân đội Quốc Gia Việt Nam đều thấy có lính Maroc hoặc da đen canh gác, rơ ràng là Pháp đang pḥng ngừa chính biến chống lại họ.

    Ngày 14 tháng 7, quân đội Pháp tổ chức diễn binh ờ Bờ Hồ phía Ṭa Thị Chính. Thông cáo và bích chương của Pháp vẽ h́nh nắm đấm được thấy khắp nơi. Pháp giải thích rằng rút 4 tỉnh phía Nam là bàn tay trước kia x̣e ra nay nắm lại để đánh mạnh hơn. Tất nhiên ít ai tin vào luận điệu này.

    Đám học sinh chúng tôi từ Nam Định chạy về nhiều đứa t́nh nguyện vào Khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị và lục tục lên đường khoảng trước ngày 15 tháng 7 năm 1954. Phần c̣n lại thường t́m gặp nhau trao đổi tin tức và bàn luận về t́nh h́nh đất nước.

    Chiều 21 tháng 7 năm 1954 khi bọn tôi đang tụ họp th́ có tin trên đài Con Nhạn (Hirondelle) của quân đội Pháp vang lên lời loan báo “Hiệp Định Đ́nh Chiến đă được kư kết.” Tờ báo của quân đội Pháp cũng đăng câu ấy trên trang nhất bằng chữ lớn. Mọi người bàng hoàng dù biết trước thế nào việc này cũng sẽ đến. Báo này cho hay đất nước phân chia ở sông Bến Hải, Vĩ Tuyến 17.

    Tân Thủ Tướng Pháp Mendès-France nhậm chức ngày 17/6/54, đă tuyên bố rằng ông ta sẽ từ chức nếu không đạt được thỏa hiệp trước ngày 20 tháng 7 năm 1954. V́ thế hiệp định Geneve về Đông Dương được kư lúc sáng sớm ngày 21 nhưng nhà cầm quyền Pháp đă cho đồng hồ ngưng chạy từ đêm trước để làm như lúc ấy vẫn c̣n là ngày 20. Tại Việt Nam thời điểm này là trưa ngày 21.

    Hà Nội liền thay đổi rơ rệt. Niềm hy vọng giữ Bắc Việt lịm tắt dần và dân chúng nóng ḷng về tin tức sẽ có cuộc di cư. Một số bài trên báo chí đang từ thái độ chống cộng quay dần sang ủng hộ Việt Minh. Người các tỉnh đổ về Hà Nội đông đảo. Cán bộ Việt Minh cấp thấp ra vào Hà Nội dễ dàng. Đồ chơi trẻ em bày bán trước dịp Trung Thu có những chiếc máy bay, xe thiết giáp, xe chở lính, tàu thủy được sơn cờ đỏ sao vàng. Các cơ quan an ninh chẳng ai thèm để ư.

    Một số cán bộ Việt Minh quen biết gia đ́nh tôi đến thăm và khuyên gia đ́nh tôi nên ở lại nhưng mẹ tôi và tôi đă dứt khoát ra đi. Sau đó 4 tháng, chúng tôi gặp lại vài người trong số cán bộ này ở Sài G̣n. Chính họ cũng đă mau chóng nhận rơ thực chất của Cộng Sản và kịp thời ra đi trước khi cảng Hải Pḥng đóng cửa tháng 3 năm 1955.

    Những gia đ́nh chuẩn bị di cư đem đồ đạc bày bán dọc bờ hồ Thiền Quang làm thành một thứ chợ trời. Một buổi sáng sớm khi những người đầu tiên đang lục tục khuân đồ đạc đến chợ th́ thấy có một lá cờ đỏ sao vàng treo trên tàng cây cao chừng ba bốn mét. Một thanh niên nổi nóng trèo lên giật lá cờ ném xuống đất.

    Một trung tá người Pháp đi bộ ngang qua hung hăng can thiệp, lớn tiếng đại ư nói đó là quốc kỳ của một nhà nước, không được xúc phạm. Ông ta không ngờ những người bán chợ trời đều không ưa lá cờ máu ấy. Thế là xô xát xẩy ra, kết quả viên trung tá bị trọng thương v́ gạch đá gậy gộc cho đến lúc xe quân cảnh Pháp cấp cứu.

    Tin tức về di cư được loan báo chính thức vào đầu tháng 8. Nhiều nhà giầu đă đi vào Nam bằng phương tiện riêng. Đại đa số c̣n lại đợi ghi danh di cư bằng phi cơ và tàu biển. Trong nhóm chúng tôi từ Nam Định lên, phần đi Khóa 5 Thủ Đức, số c̣n lại một phần tham gia đoàn cán bộ xă hội được gửi vào Nam để phụ trách các trại tiếp cư do Bộ Xă Hội thiết lập. Tôi ở trong số này. Buổi chiều ngày 11 tháng 8 năm 1954 bốn đứa bọn tôi đi bộ thăm tất cả các di tích và thắng cảnh quanh Hà Nội lần cuối.

    Sáng sớm 12 tháng 8 khi qua cửa kiểm soát phi trường Gia Lâm, một trung úy Nhảy Dù người Pháp hỏi chuyện chúng tôi v́ thấy 25 đứa trong đoàn cán bộ xă hội toàn là thanh niên c̣n trẻ. Sau khi nghe chúng tôi nói rơ lập trường và mục đích ra đi, ông ta nắm tay chúng tôi giọng xúc động nói rằng, “Nước Pháp đă liên tiếp sai lầm để các bạn chịu hậu quả đau đớn hôm nay.” Nói xong không ai ngờ viên trung úy trẻ dưới 30 này bật khóc, nước mắt chảy dài trên má.

    Chúng tôi cũng cảm động tuy nhiên vẫn c̣n cầm được nước mắt. Nhưng khi phi cơ lượn một ṿng lấy cao độ, tất cả đều ngó xuống. Giữa tấm thảm mây mưa xám xịt che kín bên dưới phi cơ có một khoảng trống vuông vắn hiện ra Hồ Gươm và 36 phố phường. Cảnh tượng tuy tầm thường nhưng lại gây xúc động mạnh, khiến đứa nào cũng rưng rưng nước mắt. Đây là lần chúng tôi vĩnh biệt Hà Nội. Vĩnh biệt miền Bắc.

    Sau những giờ bay dài phi cơ đến Tân Sơn Nhất, cảnh những con rạch đỏ ngầu giữa hai hàng dừa xanh làm chúng tôi tươi vui hơn. Được đưa về nhận việc tại trại Bệnh Viện B́nh Dân dưới quyền Bộ Xă Hội, ngày hôm sau chúng tôi được phân phối đi các trại tiếp cư khắp Sài G̣n, Chợ Lớn và Gia Định. Đợt đầu tiên đồng bào di cư bằng cầu vận chuyển của chính phủ và các nước trợ giúp đă vào Sài G̣n từ đầu tháng 8 năm 1954.

    Nhờ vào dịp hè, các trường học vùng Sài G̣n, Chợ Lớn, Gia Định được trưng dụng để đón nhận người di cư đến bằng phi cơ quân và dân sự, các quân vận hạm Mỹ như Marine Serpent và Marine Addler, các mẫu hạm Anh và Pháp. Trại tiếp cư lớn nhất vùng Sài G̣n là trại Phú Thọ Lều (sát trường đua Phú Thọ, gồm hàng trăm lều vải lớn mỗi lều chứa bốn năm gia đ́nh do quân đội Mỹ dựng. Gọi là Phú Thọ Lều để phân biệt với trại Học Sinh Di Cư Phú Thọ ở gần kế đó. Trại Phú Thọ Lều chứa trên 10 ngàn người.

    Trợ cấp tiền mặt một ngày cho mỗi người lớn 12 đồng, trẻ em 6 đồng, dư để ăn ba bữa tươm tất. Lúc ấy một bát phở hay một tô hủ tiếu giá 3 đồng, một bữa cơm ở quán ăn xă hội hai món canh và mặn giá 5 đồng. Chai bia 3 đồng kể cả nước đá, một gói thuốc lá Ruby 8 đồng. Lương giáo viên tiểu học khoảng hơn 4,000 đồng, lương trung sĩ 2,200 đồng, lương cán bộ ngang lương thấp là 1,500 đồng. Một căn nhà gỗ lợp tôn 4×20 mét ở mặt đường khoảng chợ Ḥa Hưng giá chừng 30,000 đồng.

    Đời sống trong các trại tiếp cư rất đa dạng. Sống chật chội chung đụng và ồn ào, làm nảy sinh nhiều vui buồn, đụng chạm, kết bạn, ră bạn, tạo ra những mối t́nh ái lăng nhăng xấu tốt đủ cỡ đủ kiểu. Những cảnh âu yếm giao t́nh nặng nhẹ bên bờ bụi gần trại trong đêm khuya vắng vẻ của trai gái, vợ chồng đủ lứa tuổi, là những nét sinh hoạt rất sống động có đủ vui, buồn, yêu, giận, phát khóc và nực cười.

    Từ tháng 8 năm 1954, mỗi ngày có trung b́nh hàng ngàn người từ Hà Nội và Hải Pḥng vào Sài G̣n bằng đường hàng không và nhiều ngàn người mỗi tuần bằng tàu chiến. Công việc định cư được tiến hành song song và khẩn thiết. Phủ Tổng Ủy Di Cư lúc ấy đă thay thế bộ Xă Hội trong nhiệm vụ chuyên biệt này.

    Thời gian tạm cư kéo dài đến cuối năm 1954 và các trường học được trả lại cho học sinh. Trại Phú Thọ Lều giải tán. Người di cư theo nhau đi định cư khắp nơi, ở nhà tư hoặc ở các trại định cư khắp các tỉnh. Tính đến chuyến tàu sau cùng tháng 3 năm 1955 có khoảng 950,000 người từ bắc Vĩ Tuyến 17 di cư vào Nam.

    Nếu tính theo giấy tờ, con số này có thể lên tới hơn 1 triệu v́ có sự gian lận sổ sách của một số viên chức cán bộ lợi dụng thủ tục khai và lănh tiền trợ cấp dễ dàng. Và không phải 90% người di cư là tín đồ Công Giáo như nhiều người nhận định. Số đồng bào Công Giáo di cư có lẽ chỉ chiếm khoảng 70% tổng số.

    Một điểm đáng ghi nhận là đáng lẽ số người di cư c̣n cao hơn nữa nhưng v́ vụ tướng Nguyễn Văn Hinh chống ông Diệm và những cuộc giao tranh giữa quân chính phủ và lực lượng B́nh Xuyên đầu năm 1955 ở Sài G̣n nên nhiều người Bắc không dám vào Nam. Tin tức về vụ này làm một số rất nhiều người đă định ra đi nhưng v́ e ngại loạn lạc mà đổi ư.

    Nói chung, sự xuất hiện của ông Ngô Đ́nh Diệm và thái độ can dự của người Mỹ đă gây được tin tưởng trong một số đông đảo người miền Bắc khiến họ yên tâm vào Nam. Đại đa số thành phần trí thức, chuyên viên cao cấp như kỹ sư, bác sĩ, chuyên viên trung cấp, thợ giỏi, đă rời bỏ đất Bắc khiến chính quyền ông Hồ Chí Minh gặp khó khăn lớn trong mục tiêu xây dựng một đội ngũ chuyên viên kỹ thuật mà họ cho là xương sống của nền kinh tế và khoa học kỹ thuật Xă Hội Chủ Nghĩa.

    C̣n tiếp...

  7. #7
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Cuộc di cư năm 1954 tạo ra những thay đổi sâu rộng trong lịch sử Việt Nam. Xin ghi lại một vài sự kiện nổi bật xảy ra và những nét đặc biệt của cuộc di cư sau Hiệp Định Geneve 1954 điển h́nh tại vùng thủ đô Sài G̣n.

    Trước hết phải nh́n nhận cuộc di cư đă giúp hàn gắn những chia cách đáng buồn giữa hai miền trong nước. T́nh trạng chia rẽ do hậu quả của những năm dài dưới chế độ thuộc địa Pháp đă tiêu tan mau chóng. Những dị biệt về phong tục, ngôn ngữ v́ ngăn cách, lâu ngày được san bằng gần hết. Những ngăn cách và hiểu lầm c̣n lại không gây hậu quả nào nghiêm trọng. Về mặt chính trị và xă hội, sau nhiều biến chuyển và chiến tranh, cuộc di cư vĩ đại năm 1954 đă góp phần thay đổi bộ mặt bề ngoài cũng như nếp sống của dân chúng đến chỗ tốt đẹp, phong phú hơn.

    Trước tháng 10 năm 1954, chính quyền địa phương c̣n gần y nguyên như thời Pháp Thuộc. Văn thư, giấy tờ, tên công sở, phố xá c̣n dùng tiếng Pháp. Từ khi chính phủ Ngô Đ́nh Diệm nắm toàn quyền sau những âm mưu đảo chánh bất thành, luật lệ được thi hành nghiêm chỉnh. Nhiều cải cách hành chánh đă làm giảm hẳn nạn giấy tờ nhiêu khê. Văn thư, giấy tờ đều bắt đầu dùng tiếng Việt. Xin Tư Pháp Lư Lịch bây giờ chỉ mất một tuần thay v́ đợi 3 tháng. Xin chứng nhận bản sao đợi lấy ngay hay sau vài giờ thay v́ một tuần lễ. Các cuộc cải tổ mạnh mẽ được tiến hành có kết quả tốt nhờ phần nào ở sự ủng hộ tích cực của đồng bào di cư đối với chính phủ.

    Cuộc đổi tiền Đông Dương thành tiền Việt Nam năm 1955 trong 3 ngày không giới hạn số lượng là một đ̣n bất ngờ vô hiệu hóa hàng tỷ bạc Đông Dương mà chính quyền Hồ Chí Minh thu gom được ở miền Bắc v́ họ không kịp chuyển vào Nam để đổi lấy tiền miền Nam mới. Đợt đổi tiền này cũng chấm dứt luôn thói quen tiêu dùng coi nửa tờ giấy bạc 1 đồng như 5 cắc (hào). Khi cần xài hay trả lại 5 cắc, chỉ cần xé đôi tờ giấy bạc một đồng. Đành rằng tập tục này không áp dụng cho những giấy bạc mệnh giá trên một đồng.

    Lúc ấy ảnh hưởng tuyên truyền của Cộng Sản rất mạnh ở nam phần ngay tại Sài G̣n. Nhiều người mở đài Hà Nội công khai mà không ai bắt bớ. Nhiều người miền Nam ít hiểu biết về thực tế Cộng Sản đă thật thà hỏi mấy đồng bào di cư mới gặp gỡ rằng “Ngoài Bắc đă độc lập rồi, mấy thầy cô dô đây làm chi?” Do đó đă xẩy ra một số đụng chạm nhỏ trong tháng đầu. Dần dần đồng bào miền Nam mới nh́n đồng bào di cư một cách có thiện cảm hơn.

    Trong bối cảnh ấy, lực lượng học sinh di cư đă dẫn đầu cuộc biểu t́nh vào dịp 20 tháng 7 năm 1955 đ̣i tống xuất các đoàn đại biểu của quân đội Cộng Sản từ Hà Nội trú đóng tại hai khách sạn Majestic và Galliéni (đường Trần Hưng Đạo). Khi bị khiêu khích, cuộc biểu t́nh biến thành bạo động, gây thiệt hại nặng cho hai khách sạn nhưng không có thương vong quan trọng. Những hành vi cương quyết của quần chúng khiến bọn thân Cộng Sản không c̣n nhởn nhơ tuyên truyền bán công khai như trước.

    Người di cư tiếp xúc, trao đổi với dân chúng địa phương mau chóng tạo ra những hiểu biết và thông cảm. Về kinh tế thương mại, người Bắc vào Nam đă mở mang thương trường, ra các cửa hàng nhất là hàng ăn. Năm 1954 hầu hết cửa tiệm ăn do người Hoa kinh doanh, và họ dành độc quyền ngành lúa gạo cũng như các sạp thịt ở mọi chợ. Đời sống dễ dàng ở miền Nam khiến người Việt ít muốn cạnh tranh, ngay như ngành công chức cũng không hấp dẫn nhiều người. Bà con lao động xích lô kiếm đủ tiền tiêu trong ngày nhiều khi đẩy xe lên lề dưới bóng cây làm một giấc, khách gọi mấy cũng từ chối. Cách biệt giầu nghèo ở Nam Việt lúc ấy rất ít.

    Các tầng lớp dân di cư cần cù chịu đựng tham gia thị trường lao động đă làm cho đời sống kinh tế miền Nam lên cao nhưng lại buộc mọi người phải làm ăn chăm chỉ hơn. Một số người địa phương không hài ḷng v́ nếp sống thong thả lè phè cũ đă mất đi không c̣n trở lại.

    Trang phục phụ nữ hai miền khác nhau, nổi rơ nhất là giới nữ sinh trung học tuổi đôi tám. Nữ sinh Hà Nội làm dáng sớm hơn, quần hẹp, áo dài nở ṿng số một. Nữ sinh Sài G̣n vận quần trắng rộng, áo bà ba trắng nhiều hơn áo dài được may ṿng số 1 tương đối phẳng phiu có lẽ v́ đó là cách tỏ ra là con nhà nghiêm túc. Sau hơn một năm các cô hai miền tự nhiên ḥa hợp cách ăn mặc, bọn thanh niên sinh viên học sinh chúng tôi không c̣n phân biệt được gốc gác các cô qua y phục nữa. Điều quan trọng và dễ thương hơn hết là những câu chuyện t́nh Bắc duyên Nam đă nhiều khi hóa giải rất nhiều cho những mâu thuẫn văn hóa chính trị.

    Các trường phía Bắc di chuyển vào Sài G̣n giữ gần y nguyên ban giám hiệu và tổ chức riêng. Từ Hà Nội vào, Chu Văn An tiếp tục tại cơ sở cạnh Petrus Kư. Trưng Vương học chung cơ sở nhưng khác giờ với Gia Long… sau hai ba năm mới ra học ở các cơ sở riêng trước Thảo Cầm Viên. Mấy năm sau nữa th́ học sinh gốc hai miền dần dần pha trộn.

    Chuyện đáng nhớ là năm 1955 học sinh Bắc vào Nam và các bạn gốc miền Nam mở chiến dịch phá bỏ tên đường tiếng Pháp. Nhờ đó mà việc đặt tên đường mới, vốn là việc mất nhiều công sức, đă được Ṭa Đô Chánh Sài G̣n thực hiện trong ṿng khoảng một tháng.

    Về mặt văn hóa và báo chí, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo từ Bắc vào Nam đă ḥa hợp với đồng nghiệp miền Nam tạo ra sinh khí mới, lối viết và văn phong, sắc thái trong sáng, có sức truyền đạt hơn. Sau một thời gian ngắn người đọc chỉ có thể nhận thấy một số khác biệt ít ỏi giữa bài vở sách báo do các tác giả gốc từ các miền khác nhau viết ra.

    Đặc biệt là về tân nhạc, lớp nhạc sĩ và ca sĩ cũng như những người yêu nhạc từ miền Bắc vào Nam đă lôi cuốn được phong trào âm nhạc mới phát triển mạnh để tiến đến tới cao điểm nghệ thuật ca nhạc trong các thập niên sau. Và ngược lại số người Bắc di cư hâm mộ ca nhạc kịch cải lương cũng gia tăng nhiều.

    Về mặt ăn chơi, sự thay đổi rơ rệt hơn. Ṣng bạc Kim Chung, Đại Thế Giới, khu mại dâm B́nh Khang bị đóng cửa đầu năm 1955. Giữa năm 1954 cả Sài G̣n h́nh như chỉ có 2 hay 3 tiệm phở Bắc. Chỉ sau vài tháng số tiệm phở tăng đến hàng chục. Các quán cà phê cũng lục tục ra đời cùng với các ngành buôn bán khác. Các xuất gọi là phụ diễn tân nhạc trước khi chiếu phim chính ra đời dần dần tiến đến những buổi tŕnh diễn âm nhạc chuyên nghiệp gọi là “nhạc hội” giúp vào việc phổ biến âm nhạc sâu rộng hơn. Trước đó hoạt động âm nhạc chỉ được biết qua các chương tŕnh ca nhạc và các cuộc thi hát, tuyển lựa ca sĩ của các đài phát thanh quốc gia, đài quân đội và đài Pháp Á cùng hai đài Huế và Hà Nội.


    C̣n tiêp ...

  8. #8
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674


    H́nh chụp tại Saigon vào tháng 10 năm 1954 trong một trại định cư với hàng trăm căn lều. Lúc đó, một trong những trại định cư lớn nhất ở Saigon là trại Phú Thọ Lều được thiết lập tại Quận 10 sát bên trường đưa Phú Thọ. Trại này có lúc đă chứa đến 10,000 người di cư. (H̀NH ẢNH: sưu tầm)

    Ngôn ngữ hai miền sau cuộc di cư cũng thay đổi và pha trộn về từ ngữ tuy vẫn giữ những nét độc đáo của từng vùng mà không lai giọng. Điểm đáng lưu ư là sau nhiều năm gia đ́nh gốc gác miền Bắc di cư có con cái đứa th́ nói giọng địa phương (Nam hay Trung), đứa th́ nói giọng Bắc, đứa th́ nói cả hai ba giọng tùy theo môi trưởng xóm giềng và trường học. Nhưng không mấy ai nói lẫn lộn cùng một lúc các giọng khác nhau.

    Về mặt đời sống xă hội, người di cư dần dần và chậm chạp chịu ảnh hưởng bởi lối sống phóng khoáng, chân thật, thẳng thắn của dân miền Nam. Sau một thế hệ, tính nết người Bắc di cư khác hẳn tính nết của đồng hương của họ c̣n ở lại quê nhà. Đến sau 30 tháng 4 năm 1975 người ta càng thấy điều này rơ rệt hơn khi gặp đợt Bắc Kỳ mới vào Nam.

    Trong đời sống tinh thần, có hai sự kiện đáng nhớ trong thời gian ấy. Một là trước ngày Việt Minh tiếp thu Hà Nội th́ chùa Một Cột, di tích quư báu nhất của Việt Nam bị kẻ vô danh phá bằng chất nổ. Rất may chùa chỉ hư hại một góc. Nghe tin ấy chúng tôi đều hết sức buồn phiền. Hai là giữa lúc nhịp độ di cư đang lên cao th́ Hoàng Dương, em nhạc sĩ Hoàng Trọng cho ra đời ca khúc Hướng Về Hà Nội với lời ca tha thiết “Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi… mái trường phượng vĩ dâng hoa, dáng chiều ủ bóng tiên nga… biết đâu ngày ấy anh về.” Ca khúc này khiến lứa tuổi 18, 19 chúng tôi cảm thấy rơ điều mà các văn thi nhạc sĩ gọi là “tan nát cơi ḷng.”

    Dĩ nhiên trong ngót một triệu người Bắc di cư có đủ mọi thành phần tốt xấu kể cả đầu trộm đuôi cướp, quan lại tham nhũng, trọc phú bất lương, tay sai thực dân và nội tuyến Cộng Sản. Nhưng so với số các phần tử tinh hoa của xă hội, số người yêu nước, chuyên viên giỏi các loại, các nhân sĩ, trí thức, chiến sĩ quốc gia chân chính, th́ những phần tử xấu xa nói trên chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ bé.

    Một số người cho rằng người miền Bắc di cư đă là chứng nhân lịch sử khiến đồng bào miền Nam hiểu rơ bản chất của chế độ Cộng Sản. Điều đó có thể đúng một phần nhỏ. Phần quan trọng hơn là chính v́ thực tế những đường lối mà Cộng Sản thi hành tại miền Nam tại nông thôn từ khoảng năm 1961 trở đi. Từ đó họ đă thấy rằng chế độ Cộng Sản đi ngược lại quyền lợi và sự an ḥa của nhân dân ta nhất là giai cấp nghèo khổ ở nông thôn.

    Tôi và các bạn cùng lứa tuổi di cư vào ở miền Nam gần 40 năm tính đến năm 1990 qua di trú sang Hoa Kỳ. Tuy sinh ra trên đất Bắc nhưng chỉ ở Bắc dưới 20 năm trong đó mới biết chuyện đời được dăm ba năm. V́ thế chúng tôi có hai miền quê quán. Quê quán thứ nhất ở miền Bắc c̣n ở trong tim nhiều hơn. Quê quán thứ hai ở miền Nam sau ngày di cư năm 1954 mới thực sự chứa đựng nhiều vui buồn, yêu thương, giận dỗi, vinh quang và tủi nhục v́ trải qua quăng đường đời dài 40 năm với biết bao nhiêu là kỷ niệm.

    Lữ Tuấn


    http://phunulamvien.wordpress.com/20...-1954-lu-tuan/

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 8
    Last Post: 21-07-2013, 03:34 AM
  2. Kỷ niệm về Hội Nghị Genève chia đôi đất nước 20/7/1954
    By Vinh Phan in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 1
    Last Post: 21-07-2011, 10:37 AM
  3. Việt Nam 1949 -1954
    By Nhân Dân Tự Vệ in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 20
    Last Post: 15-07-2011, 06:34 AM
  4. Tài liệu 9 năm kháng chiến 1945 - 1954
    By Phó thường dân in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 9
    Last Post: 15-02-2011, 06:17 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •