Page 4 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 31 to 40 of 49

Thread: CHẾT – VÀ CÁC ĐỀ TÀI LÂN CẬN

  1. #31
    Member Nguyễn Nhân Trí's Avatar
    Join Date
    12-01-2012
    Posts
    98

    LINH HỒN VÀ SỰ SỐNG VĨNH CỬU?


    PHẦN II

    Để làm rơ phần nào ư nghĩa những danh từ dùng trong loạt bài kế tiếp, dưới đây là danh sách một vài từ Việt và Anh mà tôi cho là đồng nghĩa. Nếu ai có ư kiến ǵ khác xin cho biết, rất cám ơn.

    Tri thức = Consciousness
    Tâm thức = Mind
    Cá tính = Personality
    Linh hồn = Soul
    Thần thể = Spirit
    Cá thể = Entity
    Sinh thể, vật thể = Organism,



    LINH HỒN VÀ SỰ SỐNG VĨNH CỬU?


    Sự Sống Sau Khi Chết?

    Khảo cổ học t́m ra nhiều bằng chứng cho thấy giống người tiền sử Neanderthal (một chủng loại tương cận với giống người hiện đại của chúng ta trong quá tŕnh tiến hóa, sống khoảng 60 ngàn năm trước Tây Nguyên và nay đă diệt chủng) cũng đă từng có những lễ nghi mai táng đồng loại của họ. Điều nầy cho thấy rất có thể họ cũng đă có ư tưởng về một sự sống sau khi chết.

    Hầu như mọi nền văn hóa cổ của nhân loại đều có những tôn giáo được xây dựng chung quanh một h́nh thức “sự sống sau khi chết” nào đó. Đây là khái niệm cho rằng sau khi xác thịt đă tiêu hủy th́ linh hồn – tức là tri thức - của mỗi người vẫn c̣n tồn tại hoặc dưới dạng thần thể từng cá nhân hoặc là một phần của một tri thức đại thể. Có những tín ngưỡng cho rằng linh hồn của tổ tiên vẫn c̣n cư ngụ ở nơi họ đă từng sống, có tín ngưỡng cho rằng linh hồn sẽ thăng hoa về thế giới của người chết, hoặc có thể tái sinh, mặc dù không cần thiết phải là trở lại dưới dạng con người. Vô số tôn giáo dựa vào các tín ngưỡng tương tự như trên đă được thành h́nh từ khi các nền văn minh xưa cũ nhất trên thế giới vừa mới phát triển.

    Có lư thuyết cho rằng khuynh hướng mong mỏi một đời sống sau sự chết, và sáng tạo ra một viễn ảnh về nó, đă nằm trong chất liệu di truyền của con người. Có người cho rằng đây chỉ là do ảnh hưởng văn hóa, xă hội, tín ngưỡng. Dù ǵ đi nữa th́ câu hỏi “có sự sống sau khi chết hay không” có lẽ sẽ luôn luôn khó trả lời một cách chắc chắn. Thí dụ, có một hiện tượng được ghi nhận khá thông thường gọi là “near death experience” (“trải nghiệm lúc sắp chết”). Đây là khi một người trong trạng thái hôn mê (thí dụ như lúc vừa bị tai nạn hay đang nằm trên bàn mổ, v.v.) nhưng có thể “thấy” như họ “xuất hồn” tách ĺa ra khỏi thân thể và quan sát được những ǵ đang xảy ra chung quanh một thời gian ngắn trước khi “trở về” thân thể họ và tỉnh lại.

    Nhiều người cho rằng hiện tượng nầy là bằng chứng cho thấy sự hiện hữu của linh hồn, và do đó sự sống sau khi chết. Nhiều khoa học gia sau khi điều tra hàng ngàn trường hợp hồi sinh sau khi chết vẫn chưa thể hoàn toàn tuyệt đối đồng ư hay phủ nhận quan điểm trên.

    Câu hỏi “có sự sống sau khi chết hay không” rất phức tạp v́ nó tùy thuộc một phần vào nhiều câu hỏi khác thí dụ như: Sự sống thật sự là ǵ? Linh hồn là ǵ? Tri thức là một quá tŕnh sinh hóa, hay nó cần có một linh hồn hay một thần thể riêng biệt cư ngụ trong một thân xác vật chất để hiện hữu? v.v. Trong Phần I tôi đă nói về vài khía cạnh của câu hỏi "Sự sống thật sự là ǵ?". Trong Phần II tôi sẽ đề cập đến những sự kiện liên quan đến "thần thể phi vật chất","tri thức", "linh hồn", "sự sống vĩnh cửu", v.v

    (c̣n tiếp)

    Nguyễn Nhân Trí
    Last edited by Nguyễn Nhân Trí; 16-09-2014 at 03:08 AM. Reason: sửa lỗi chính tả và thêm vào 2 câu cuối.

  2. #32
    Member Nguyễn Nhân Trí's Avatar
    Join Date
    12-01-2012
    Posts
    98

    LINH HỒN VÀ SỰ SỐNG VĨNH CỬU? (tiếp theo)


    Thân Thể Phi Vật Chất

    Chúng ta có thể dùng kiến thức khoa học ngày nay về chức năng của tế bào, về hệ thần kinh, về tính xúc tác của enzyme, về điện từ trong năo bộ, v.v. và v.v. để giải thích được quy tắc vận hành vật chất của cơ thể một con người. Tuy vậy, có nhiều hiện tượng có vẻ như cho thấy ngoài phần cơ thể vật chất th́ mỗi người dường như c̣n có một hệ thống vận hành thứ hai nữa.

    Hệ thống thứ hai nầy, theo định nghĩa, phi vật chất. Nhiều người cho rằng những hiện tượng và khả năng thường được cho là “siêu nhiên” của con người (thí dụ như xuất hồn, thần nhăn, thần giao cách cảm,v.v.) đều có thể giải thích được nếu dùng khái niệm hệ thống thứ hai trên. Để phân biệt với phần hệ thống thân thể vật chất, có người gọi hệ thống thứ hai nầy là phần thân thể phi vật chất.

    Vấn đề là không ai có thể xác định rơ ràng (theo phương pháp khoa học có kiểm chứng bởi thực nghiệm) phần thân thể phi vật chất nầy có thật sự hiện hữu không, và nếu có th́ nó là ǵ. Nhiều người gọi nó là “thần thể”, hay “linh hồn”.

    Các môn phái thần học hay tôn giáo tín ngưỡng khác nhau đều có những định nghĩa khác nhau đôi chút về thần thể hay linh hồn là ǵ. Điểm tương đồng rơ rệt nhất của mọi tôn giáo là linh hồn hiện hữu song song “bên trong” thân thể một người khi họ c̣n sống và tiếp tục hiện hữu măi măi “bên ngoài” cơ thể vật chất sau khi chết. Có những môn phái thần học và tín ngưỡng (thí dụ như nhiều tôn giáo Á Đông như Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, v.v.) cho rằng thú vật cũng có thần thể hay linh hồn. Có những tôn giáo (thí dụ như Thiên Chúa Giáo) cho rằng chỉ có con người mới có linh hồn.

    Thay v́ định nghĩa thần thể hay linh hồn một cách trực tiếp, ở đây trước hết chúng ta hăy quan sát một vài hiện tượng trong thiên nhiên có thể và có vẻ như liên quan đến vấn đề nầy.

    (c̣n tiếp)

    Nguyễn Nhân Trí

  3. #33
    Member Nguyễn Nhân Trí's Avatar
    Join Date
    12-01-2012
    Posts
    98

    LINH HỒN VÀ SỰ SỐNG VĨNH CỬU? (tiếp theo)


    Hào Quang

    Trong nhiều kinh sách có các bức tranh vẽ những thần, thánh, Phật, Chúa, v.v. với hào quang chung quanh đầu họ.

    Những kinh sách cổ Ấn Độ về hệ thống các “điểm chứa thần khí” hay “tụ điểm nhân điện” (chakra) trong cơ thể con người có nói về dạng hào quang nầy và cho rằng nó liên quan mật thiết đến linh hồn. Các thiền phái Ấn Độ cho rằng hào quang nầy phát xuất từ nguồn “sinh khí” bao trùm và cần thiết cho tất cả mọi sinh vật mà họ gọi là Prana, nó chính là một phần của thần thể của người đó. Theo họ th́ một người càng mạnh khỏe, nhất là về mặt tinh thần và tâm linh, th́ hào quang của họ càng tỏa ra rộng lớn và sáng chói. Nhiều phái thần học cho rằng hào quang (hay “trường nhân điện”) của mỗi người thể hiện t́nh trạng sức khỏe vật chất lẫn tâm linh cũng như những cảm tính, t́nh cảm, ước vọng, lo âu, v.v. sâu kín nhất của họ. Đường “sinh khí” và những điểm chứa thần khí trong thiền môn Ấn Độ hầu như trùng hợp với các huyệt đạo trong ngành châm cứu của Trung Hoa, Nhật Bản và Đại Hàn.

    Trong nhiều thí nghiệm từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thập niên 1970,người ta đă có thể chụp ảnh được một dạng “hào quang”chung quanh thân thể con người. Những hào quang nầy ôm theo thân thể, h́nh vóc của mỗi người và có nhiều màu sắc, kích thước khác nhau tùy theo mỗi cá nhân. Dạng hào quang nầy cũng hiện diện chung quanh thân thể các sinh vật khác. Người ta cũng có thể chụp ảnh được hào quang chung quanh những con thú và thực vật.

    Người ta cho thấy các hào quang trên là một dạng điện từ trường. Các dụng cụ chụp được hào quang nói trên có khả năng ghi nhận các điện từ trường cực nhỏ.Mỗi tế bào trong mọi sinh vật được cấu tạo bởi vô số những phân tử và nguyên tử; thành phần chính của những phân tử, nguyên tử nầy là hạt điện tử, proton, neutron, v.v. có mang điện. Tổng hợp tất cả cường độ điện của chúng tạo nên một điện trường nhỏ giao động rất nhanh không ngừng trong mỗi tế bào. Sự giao động của điện trường sinh ra từ trường. Những người làm thí nghiệm nầy cho rằng cách cấu tạo và vận hành của các tế bào trong cơ thể một sinh vật gây nên một điện từ trường xung quanh nó. Hầu như mọi sinh vật đều có thể có hào quang.

    Khi chụp ảnh và quan sát hào quang của một chiếc lá, người ta thấy rằng h́nh dạng và màu sắc hào quang nầy thay đổi nhiều lần trong thời gian chiếc lá c̣n sống trên cây. Hào quang của một chiếc lá đă bị ngắt rời ra sẽ phai nhạt dần dần khi chiếc lá héo đi rồi biến mất sau khi chiếc lá chết hẳn. Nhiều người cho rằng các thí nghiệm trên là bằng chứng khoa học cho thấy sự hiện hữu của một trường năng lượng (energy field) hay trường sinh lực (life force) nằm trong mỗi chiếc lá, và tương tự trong mọi sinh vật kể cả con người.

    Có một thí nghiệm tường tŕnh rằng nếu cắt bỏ đi một mảnh của chiếc lá rồi chụp ảnh lập tức th́ hào quang của nó vẫn c̣n giữ nguyên vẹn h́nh dạng chiếc lá ấy. Phần hào quang nơi mảnh lá bị cắt mất vẫn có đầy đủ từng đường gân, từng sớ chỉ của nó tuy nhiên với cường độ sáng mờ hơn phần chiếc lá c̣n lại. Các chuyên gia thí nghiệm trên cho rằng phần hào quang “ma” trên cho thấy trường sinh lực nằm trong chiếc lá vẫn có thể hiện hữu tuy thân thể vật chất của nó đă bị mất đi.

    Nhiều người bị cụt chân tay thỉnh thoảng có cảm tưởng như phần chân tay đă cụt của ḿnh vẫn c̣n ở đó. Có người c̣n có khi bị ngứa hay đau trên phần chân tay đă mất. Có những người giải thích rằng đây là v́ phần trường năng lượng (hoặc “sinh khí”, “sinh lực”, “thần khí”, “nhân điện”, v.v.) của phần chân tay bị cụt vẫn c̣n đó.

    (c̣n tiếp)

    Nguyễn Nhân Trí

  4. #34
    Member Nguyễn Nhân Trí's Avatar
    Join Date
    12-01-2012
    Posts
    98

    LINH HỒN VÀ SỰ SỐNG VĨNH CỬU? (tiếp theo)


    Hào Quang (tiếp theo)

    Cho đến đây, chúng ta có thể nghĩ rằng những ǵ tường thuật trong các thí nghiệm trên có vẻ như là bằng chứng khoa học giải thích được phần nào các lư thuyết về hào quang, trường sinh lực, v.v. trong thần học. Tuy vậy, khi nh́n kỹ vào phương cách khảo cứu trên th́ người ta nhận thấy một số vấn đề quan trọng.

    Trước nhất, những dụng cụ thu nhận được hào quang trên các động thực vật cũng có thể dùng để sản xuất hào quang trên các vật vô tri giác. Nhiều vật thể như đồng tiền, cây viết ch́, viên sỏi, chiếc ch́a khóa, v.v. đều tỏa ra các hào quang tương tự khi được đặt vào các dụng cụ trên.V́ các vật thể vô tri giác không thể nào có sự sống do đó không thể nào kết luận quả quyết rằng hào quang trên động thực vật là những trường năng lực mang sự sống.

    Kế tiếp, người ta nhận thấy cường độ hào quang của một vật thể tăng giảm mạnh yếu tùy vào độ ẩm của vật thể đó. V́ nước là một chất dẫn điện tốt, một vật thể càng ẩm ướt càng có vẻ tỏa ra hào quang rộng sáng. Điều nầy đặt nghi vấn lên thí nghiệm về chiếc lá. Khi một chiếc lá c̣n sống trên cây, độ ẩm bên trong nó thay đổi thường xuyên trong ngày do đó không có ǵ lạ lùng cả nếu hào quang của nó cũng thay đổi theo.

    Trong thí nghiệm chiếc lá bị cắt xén, sự thật là có khi người ta chụp được phần hào quang “ma” của phần lá bị cắt xén, tuy nhiên cũng có khi người ta không chụp được ǵ cả. Sau khi kiểm tra tận tường, người ta thấy nếu mặt phẳng nơi chiếc lá nằm được lau chùi cẩn thận trước khi chụp ảnh th́ không có hiện tượng hào quang “ma” xảy ra. Lư do là vi khi chiếc lá nguyên vẹn được đặt lên mặt phẳng trên, đôi ít độ ẩm từ thân chiếc lá dính lên mặt phẳng ấy. Sau khi chụp ảnh hào quang của chiếc lá nguyên vẹn, người ta cầm chiếc lá lên và cắt xén một mảnh rồi đặt trả nó lại xuống cùng chỗ cũ. Trên mặt phẳng lúc nầy đă có sẵn một ít độ ẩm theo h́nh dạng mảnh lá đă bị cắt bỏ đi. V́ thế khi chụp ảnh một lần nữa người ta vẫn có thể thấy được phần hào quang “ma” hơi mờ yếu hơn.

    Khi giải thích theo khoa học về hiện tượng phần chân tay bị cụt vẫn có cảm giác c̣n ở đó, người ta có thể dùng kiến thức về cách vận hành của thần kinh hệ trong thân thể con người. Các cảm giác ngứa hay đau trên chỉ là v́ trong năo bộ người nầy vẫn c̣n những thần kinh và tế bào đă từng kiểm soát và điều khiển phần chân tay đă mất. Những thần kinh và tế bào nầy v́ lư do ǵ đó đôi khi bị khơi động bởi những tín hiệu đă có sẵn trong bộ nhớ của chúng nên đem đến người ấy các ảo giác trên.

    Tóm lại, tuy các lư thuyết về hào quang, nhân điện, v.v thường được cho rằng tương ứng với những thí nghiệm khoa học trên nhưng trong thực tế th́ cho đến nay vấn đề nầy vẫn chưa thể kết luận được.

    Nguyễn Nhân Trí

  5. #35
    Member Nguyễn Nhân Trí's Avatar
    Join Date
    12-01-2012
    Posts
    98

    Giác Quan Ngoại Thể

    Nhiều sinh vật trong thiên nhiên có thể phát ra một vùng điện từ trường với cường độ rất lớn so với dạng hào quang vừa kể trên. Vùng điện từ trường nầy có tác động tích cực và ích lợi cụ thể cho sự sống c̣n của chúng.

    Nhiều loài cá, lươn, v.v. dùng điện từ trường để rà t́m thức ăn. Khi một con mồi lọt vào vùng điện từ trường của chúng th́ chúng có thể “thấy” được h́nh dáng, vị trí của nó mặc dù nó có thể đang trốn sâu dưới đáy bùn.Một vài thủy vật loại nầy có thể phát ra vùng điện từ trường rộng cả mét chung quanh toàn thân của chúng. Những điện từ trường nầy có thể được điều chỉnh mạnh yếu hay vặn tắt mở tùy ư. Chúng cũng dùng điện từ trường nầy để định hướng khi di chuyển trong những nơi không có ánh sáng.

    Cho đến nay người ta chỉ t́m thấy các sinh vật dưới nước có khả năng trên. Các sinh vật sống trên bờ dường như không có khả năng tương tự. Có thể đó là v́ nước là một môi trường dẫn điện rất dễ dàng hơn so với không khí.

    Các thủy vật vừa kể trên khi cần thiết có thể dùng điện từ trường, và năo bộ, như một dạng giác quan nằm hẳn bên ngoài cơ thể chúng. Do đó có thể nói rằng các thủy vật trên cảm thấy và nh́n thấyđược thế giới chung quanh bằng một giác quan ngoại thể (không trực tiếp nằm trên cơ thể). Và từ đó cũng có thể nói rằng trong lúc ấy tri giác của chúng dường như đă được di chuyển hẳn ra ngoài phần cơ thể vật chất của chúng.

    Nếu bây giờ xét về khi một người đang trải qua hiện tượng “xuất hồn”th́ chúng ta có thể nói rằng đó cũng chính là khi tri giác của họ đă được di chuyển ra hẳn bên ngoài phần cơ thể vật chất của họ. Có nghĩa là lúc đó người ấy có khả năng “nh́n” và “nghe” được bằng một giác quan khác hẳn đôi mắtvà đôi tai họ vẫn dùng thường ngày.

    Nh́n lại các loài thủy vật vừa nói ở trên, có khi nào con người có một dạng điện từ trường tương tự mà thường ngày họ không hề cảm biết? Có khi nào điện từ trường nầy thường ngày nằm thụ động và chỉ được bật mở lên trong những điều kiện bất thường (thí dụ như khi cơ thể đang gặp nguy cơ sắp chết)? Có khi nào điện từ trường nầy cho phép một người cảm nhận thế giới chung quanh họ với một cảm giác giống như họ đang được tách rời hẳn khỏi cơ thể vật chất của họ? Có khi nào v́ chúng ta không quen thuộc với cách hoạt động của giác quan nầy nên chúng ta có ảo giác là đang “xuất hồn” hay không?

    Có nghĩa là khi xét về hiện tượng gọi là “xuất hồn”, thay v́ giải thích rằng “đó là phần linh hồn đang tách rời ra khỏi phần cơ thể vật chất” th́ có thể nào chúng ta đưa ra một giải thích khả dĩ khác là “có một giác quan đặc biệt của cơ thể đưa đến ảo giác trên”?

    Nguyễn Nhân Trí

  6. #36
    Member Nguyễn Nhân Trí's Avatar
    Join Date
    12-01-2012
    Posts
    98

    LINH HỒN VÀ SỰ SỐNG VĨNH CỬU? (tiếp theo)


    Xuất Hồn Lúc Sắp Chết (Near Death Experience)

    Có hàng trăm ngàn trường hợp những người trong trạng thái sắp chết sau khi hồi tỉnh tường thuật rằng họ đă “xuất hồn” ra khỏi xác. Nói đúng hơn, khi hiện tượng trên xảy ra, những người nầy đang ở trạng thái được xem là đă chết (ngưng hơi thở, ngưng tim đập). Trong nhiều trường hợp, những người nầy được bác sĩ cứu cấp làm hồi sinh trở lại, nhiều trường hợp khác họ tự hồi tỉnh lại sau một thời gian ngắn.

    Thạc Sĩ Raymond Moody là người đầu tiên dùng từ “near death experience” (viết tắt là NDE, tạm dịch là “trải nghiệm lúc sắp chết”) để diễn tả hiện tượng nầy trong quyển “Life After Death” (“Sự Sống Sau Khi Chết”) xuất bản năm 1975. Tuy nhiên hiện tượng nầy đă từng được ghi chép từ xa xưa trong lịch sử. Triết lư gia Plato từ năm 360 trước Công Nguyên có nói về một người lính tên Er sau chết trận đă hồi sinh lại. Câu chuyện nầy kể rằng Er thấy hồn ḿnh bay ra khỏi thân xác lên thiên đàng và được phán xét cùng lúc với nhiều linh hồn khác.

    Nếu giải thích hiện tượng NDEtheo thần họcth́ đây là khi thần thể (hay linh hồn) một người xuất ra khỏi xác và sau đó trở về nhập lại vào cơ thể họ. Trong thời gian hồn ĺa khỏi xác, họ kể rằng họ có thể làm, nghe, thấy những điều mà thường ngày họ không thể nào làm, nghe, thấy được. Tiêu biểu, nhiều người kể lại thấy bay qua một đường hầm đầy ánh sáng. Họ cho đây là biên giới giữa sự sống và sự chết. Nhiều người kể lại họ gặp những nhân vật huyền bí với h́nh dáng bao phủ bởi ánh sáng chói rực, hoặc có khi những thân nhân đă chết từ lâu. Những nhân vật huyền bí trên thường là Chúa, Phật, tiên, thánh tùy theo tôn giáo, tín ngưỡng của người ấy.

    Những người trải qua hiện tượng nầy cũng thường có cảm giác bay lên cao và có thể nh́n thấy mọi diễn biến đang xảy ra chung quanh thân xác vật chất của họ. Nếu đang trong một pḥng (thí dụ trong bệnh viện) th́ họ có thể nh́n xuống từ một góc trần nhà và thấy bác sĩ y tá đang xúm xít cố gắng hồi sinh họ. Họ có thể thấy rơ ràng mọi vật kể cả thân thể bất động của chính ḿnh. Có nhiều trường hợp họthấy ḿnh bay cao hẳn lên không trung hay đi đến những địa phương xa hẳn nơi thân thể họ đang nằm. Có những người mù bẩm sinh vẫn có thể kể lại những chi tiết rơ ràng chung quanh mà thường ngày họ không thể nào thấy được.Một số người cũng kể lại thấy toàn thể cuộc đời họ từ lúc sơ sinh cho đến hiện tại diễn ra trước mắt giống như một cuốn phim chiếu nhanh.

    Hầu như tất cả những người đă trải qua NDE sau khi tỉnh dậy đều nói về một cảm giác vô cùng an b́nh, thoải mái, sung sướng và phần đông đều không muốn trở lại với thân xác trần gian của họ. Chỉ có một số nhỏ có cảm giác sợ hăi khi ở trong trạng thái nầy.

    Rất nhiều trường hợp trên có thể được kiểm chứng khá rơ ràng cho nên khó phủ nhận rằng tất cả chỉ là những câu chuyện vô căn cứ hay bịa đặt. Phải có một cái ǵ đó xảy ra đến những người trải qua NDE.

    Khoa học cho đến nay chưa thể giải thích hoàn toàn thỏa đáng được vấn đề nầy. Có phải đây chính là bằng chứng của linh hồn? Hay của sự sống sau khi chết? Hay chỉ là ảo giác gây ra bởi các yếu tố bên ngoài và thay đổi hóa chất trong năo bộ trong lúc sắp chết? Có nhiều lư thuyết khác nhau về hiện tượng nầy.

    (c̣n tiếp)

    Nguyễn Nhân Trí

  7. #37
    Member Nguyễn Nhân Trí's Avatar
    Join Date
    12-01-2012
    Posts
    98

    LINH HỒN VÀ SỰ SỐNG VĨNH CỬU? (tiếp theo)


    Xuất Hồn Lúc Sắp Chết (Near Death Experience) (tiếp theo)

    Cho đến nay chưa ai có thể giàn dựng một thí nghiệm an toàn đủ để đưa một người đến trạng thái gần chết đến độ họ có thể “xuất hồn” tạm thời rồi theo dơi và cố xác định lời người ấy kể lại có thật sự xảy ra hay không. Tuy nhiên hầu hết những cảm giác của hiện tượng NDE đều có thể được giải thích bằngsinh học và tâm thần học.

    Giác quan của một người định nghĩa thế giới chung quanh họ là ǵ. Những ǵ một người “thấy” được chẳng qua là do cách năo bộ thu nhận và “phiên dịch” các tín hiệu đến từ những giác quan của họ. Con mắt của động vật (kể cả con người) thật ra chỉ là một dạng máy thu ảnh rất tồi tàn. Khi ánh sáng đi vào qua các thủy tinh thể, vơng mạc, v.v. th́ những thần kinh thị giác ngay sau mắt chúng ta chỉ nhận được các h́nh ảnh lờ mờ, chập chờn, méo mó. Tuy vậy, khi các tín hiệu trên vào đến năo bộ th́ chúng được chọn lọc và phối hợp với những kinh nghiệm thu lượm được để “phiên dịch” ra thành những h́nh ảnh chính xác và trung thực. Nguyên lư vận hành nầy cũng xảy ra tương tự cho các giác quan khác. Nói cách khác, năo bộ chúng ta mới chính là bộ phận cho phép mỗi người cảm nhận được thế giới chung quanh một cách chính xác trong khi các giác quan chúng ta chỉ có thể thu nhận được những tín hiệu rất rối loạn và thiếu hoàn hảo.

    Khi bị chấn động mạnh ở nhiều vùng năo, nhất là ở những khu điều khiển thị giác và xúc giác, th́ một người dễ có các ảo giác kỳ lạ có thể tưởng như là đang tách rời ra khỏi thân thể. Nhiều khi tuy một người đang hôn mê nhưng mắt họ vẫn có thể c̣n hé mở, tai họ vẫn c̣n thu nhận âm thanh nên thị giác và thính giác họ vẫn c̣n cảm nhận ít nhiều những ǵ xảy ra xung quanh. Tuy nhiên v́ sự xáo động năo bộ kể trên,khả năng định vị của họ có thể bị sai lệch hẳn gây ra cảm tưởng đang nh́n thấy từ các vị trí và góc cạnh khác bên ngoài cơ thể.

    Ngoài ra, trong những khi vừa mới bị tai nạn, hoặc đang nằm trên bàn mổ, hoặc bị ngộp nước, v.v. th́ nhiều bộ phận lẫn giác quan trong cơ thể một người có thể tạm thời ngưng hoạt động, hoặc một phần hoặc toàn bộ.Năo bộ khi bị thiếu ô-xy có thể phản ứng gây ra những ảo ảnh kể cả các vùng ánh sáng đang lan rộng dần ra trước mắt. Một người bị ảo ảnh nầy có thể cảm thấy ḿnh đang bay vào một đường hầm sáng chói.

    Những loại thuốc như ketamine hay PCP cũng có thể gây ra các cảm giác rất giống như những người trải qua NDE kể lại. Thật ra nhiều người sau khi chịu ảnh hưởng các loại thuốc trên kể lại cảm giác như đă thật sự chết rồi.

    Cảm giác êm ả, an b́nh tột cùng trong lúc trải qua NDE có thể chỉ là kết quả của các chất endorphin được sản xuất cao độ trong năo bộ những lúc cơ thể gặp xáo động mạnh hay nguy hiểm cực kỳ căng thẳng. Thí dụ một số người sống sót sau khi té từ một độ rất cao (lúc leo núi hay nhảy dù chẳng hạn) thường có đủ thời gian để nhận biết rằng ḿnh sắp chết; họ kể lại các cảm giác b́nh thản tương tự nói trên (mặc dù họ không hề trải qua hiện tượng NDE trong thời gian nầy).

    Nói cách khác, sự kết hợp giữa các yếu tố như thiếu ô-xy, giác quan bị sai lầm, khả năng định vị rối loạn, quá liều endorphin, v.v có thể là lư do gây ra các cảm giác hầu như vô thực thường được tưởng lầm là đă bay thoát khỏi thân thể vật chất hay đang ở những cơi thế giới khác.

    Một điều cần biết là khi giải đoán những tín hiệu cung cấp bởi giác quan, nếu năo bộ đối diện các dữ liệu không đầy đủ hoặc kỳ lạ th́ nó sẽ phối hợp chúng với những kinh nghiệm, kiến thức sẵn có trong tiềm thức để phân tích và cố đưa đến một giải đáp hợp lư nhất. Nói cách khác, năo bộ có khuynh hướng sử dụng những ǵ chúng ta “đă biết” để diễn giải thành những ǵ chúng ta “đang nghe thấy”. Đó là tại sao chúng ta có thể nh́n thấy, và nhận thấy, dễ dàng những ǵ chúng ta đă biết và quen thuộc; trong khi đó chúng ta thường tuy có thể nh́n thấy nhưng không thể nhận thấy được những ǵ hoàn toàn xa lạ với kinh nghiệm sẵn có của chúng ta. Năo bộ của chúng ta khi không nhận diện được một dữ kiện hoàn toàn xa lạ, nó có khuynh hướng tạm thời gạt bỏ nó qua một bên và dùng những dữ kiện quen thuộc hơn đă có sẵn để diễn giải lập tức những ǵ đang xảy ra. Phản ứng nầy có giá trị sinh tồn trong đời sống thiên nhiên. Những sinh vật có thể phản ứng nhanh chóng trước mọi diễn biến đối diện nó thường có nhiều cơ hội sống c̣n hơn những sinh vật phản ứng chậm chạp.

    Chúng ta thường không biết rơ trong tiềm thức chúng ta chứa đựng những ǵ. Có những kư ức đă nằm đó từ nhiều năm, có những nhận thức vừa vô t́nh được thu nhận vài giây đồng hồ qua. Một điều chắc chắn là tri thức (consciousness) và tâm thức (mind) của con người có những khả năng mà khoa học ngày nay chưa thấu hiểu được. Có lư thuyết cho rằng khi một người nh́n thoáng qua một trang sách, tri thức và tâm thức họ thường có thể thu nhận toàn thể mọi chữ, mọi h́nh ảnh trên trans sách đó trong tích tắc và cất trọn vào tiềm thức. Tuy nhiên không phải ai cũng có khả năng triệu hồi những chi tiết đó từ tiềm thức khi cần thiết. Một số ít người được cho là có “trí nhớ như máy chụp ảnh” (photographic memory) là những người có khả năng nầy, họ chỉ cần nh́n thoáng qua một cái ǵ là có thể nhớ và lập lại lại rơ ràng từng tiểu tiết sau bất kỳ thời gian bao lâu.

    Lư thuyết trên giải thích các trường hợp NDE mà người ta có thể thấy được những ǵ họ cho rằng ngoài sự hiểu biết của họ. Nhiều khi một người đă từng biết qua những sự kiện, dữ liệu, cảnh trí, v.v. đă xảy ra trong đời họ mà không hề để ư hoặc nhớ đến. Tuy vậy tri thức và tâm thức họ vẫn “chụp ảnh” chúng và tích trữ trong tiềm thức. Như vừa nói ở trên, khi cần thiết th́ năo bộ sẽ đem những kinh nghiệm, kiến thức sẵn có trong tiềm thức để phối hợp với những tín hiệu cung cấp bởi giác quan. V́ không biết ḿnh đă có sẵn kiến thức nầy nên một người có thể ngạc nhiên không hiểu tại sao có thể “nghe thấy” được những sự kiện, dữ liệu, cảnh trí, v.v. mà họ nghĩ rằng họ chưa từng trải qua.

    (c̣n tiếp)

    Nguyễn Nhân Trí

  8. #38
    Member Nguyễn Nhân Trí's Avatar
    Join Date
    12-01-2012
    Posts
    98

    LINH HỒN VÀ SỰ SỐNG VĨNH CỬU? (tiếp theo)


    Xuất Hồn Lúc Sắp Chết (Near Death Experience) (tiếp theo)

    Khoa học ngày nay vẫn chưa giải thích được hoàn toàn tất cả chi tiết về hiện tượng NDE. Bất cứ cách giải thích nào hầu như cũng có những trường hợp cho thấy nó hoặc không áp dụng được hoặc không đồng nhất. Mặt khác, cho đến nay cũng chưa có trường hợp NDE nào sau khi trải qua một quá tŕnh kiểm nghiệm khoa học nghiêm nhặt mà vẫn có thể cho thấy chỉ có “linh hồn ĺa khỏi xác” là giải thích khả dĩduy nhất mà thôi.

    Trở lại cách giải thích “ảnh hưởng do thiếu ô-xy” đă đề cập ở trên chẳng hạn, một cựu phi công chiến đấu cơ (do đó qua quá tŕnh luyện tập và thực nghiệm ông rất kinh nghiệm về các triệu chứng thiếu ô-xy trong cơ thể) sau khi chính ông trải qua hiện tượng NDE cho biết những cảm giác do thiếu ô-xy ông thường gặp rất khó chịu,ngột ngạt và rối loạn so với các cảm giác êm ả, thanh lặng, b́nh thản vô cùng của NDE. Mặt khác, như đă nói, cũng có một số người trải qua hiện tượng NDE với cảm giác sợ hăi và khủng hoảng.

    Có vài trường hợp lúc đang trải qua NDE người ta kể lại họ đă thấy một vật dụng ǵ đó; sau khi kiểm chứng th́ quả thật có vật dụng ấy và chỗ nó nằm là một nơi mà tầm mắt b́nh thường của bất cứ ai ở trong pḥng ấy sẽ không thể nào thấy nó được. Nếu các chuyện nầy có thật đi nữa th́ cũng có thể có nhiều giải thích khả dĩ khác nhau. Như đă nói ở trên, tri thức và tâm thức của một người có thể ghi giữ những chi tiết và dữ kiện chung quanh mà họ không hề hay biết. Thí dụ có một vật dụng nằm trên cao ngoài tầm mắt trong pḥng; tuy nhiên h́nh ảnh nó vẫn có thể phản chiếu lên những tấm cửa kiếng và thị giác của một người có thể vô t́nh thu nhận được h́nh ảnh trên mà họ không hề để ư. Khi trải qua NDE, năo bộ của họ pha trộn kiến thức sẵn có nầy với những tín hiệu rối loạn từ các giác quan đang tạm thời hư liệ tđể đưa đến cảm giác họ đă thấy được vật dụng đó trong khi đang bay lơ lửng trên trần nhà.

    Nếu muốn đi sâu hơn vào con đường trơn trợt của lănh vực khoa học bán chính thức (parascience) để giải thích về các trường hợp NDE vừa kể trên th́ chúng ta cũng có thể vận dụng đến lư thuyết giác quan đặc biệt đă đề cập đến trước đây. Theo lư thuyết nầy, lúc cơ thể ở trong điều kiện nào đó, thí dụ như khi gặp t́nh thế nguy kịch, th́ có khi nó tự khởi hoạt một giác quan đặc biệt có thể giúp một người cảm nhận, và nghe thấy, được những ǵ xảy ra ở những khoảng cách chung quanh từ các vị trí và góc cạnh bên ngoài hẳn cơ thể thật sự của họ. Giác quan đặc biệt nầy có thể hoạt động ngay cả khi toàn bộ ngũ quan của họ đang tạm thời đóng kín. Có thể v́ không quen thuộc với cách vận hành của giác quan đặc biệt nầy người ta có cảm giác như họ đang bay thoát ra ngoài thân xác vật chất của họ mà vẫn có thể cảm nhận, nghe, thấy mọi sự việc.

    Tôi nh́n nhận ngay ở đây rằng lư thuyết “giác quan đặc biệt” sử dụng trong cách giải thích vừa rồi chưa hề được kiểm nghiệm nghiêm nhặt theo phương pháp khoa học và không nhất thiết được công nhận bởi mọi người. Một số người có thể cho cách giải thích trên gượng gạo, chấp vá và khó tin. Tuy vậy nó vẫn không vô căn cứ và vô lư hơn cách giải thích cho rằng có một linh hồn với đôi mắt phi vật chất nhưng vẫn có thể thu nhận được ánh sáng cũng như với đôi tai phi vật chất nhưng vẫn có thể cảm ứng được những chấn động sóng vật chất của âm thanh.

    Có một điều không thể phủ nhận được là những ǵ một người thấy trong trạng thái NDE chịu ảnh hưởng rất lớn bởi văn hóa, phong tục và tín ngưỡng của người ấy. Bằng chứng là chưa bao giờ có ai đạo Thiên Chúa mà khi xuất hồn lại thấy gặp được Phật Thích Ca, hay ngược lại chưa bao giờ có Phật tử nào kể lại họ đă gặp Giê-Su hay Đức Mẹ.

    Nguyễn Nhân Trí

  9. #39
    Member Nguyễn Nhân Trí's Avatar
    Join Date
    12-01-2012
    Posts
    98

    LINH HỒN VÀ SỰ SỐNG VĨNH CỬU? (tiếp theo)


    Xuất Hồn

    Hiện tượng “xuất hồn” nói chung là khi một người thật sự cảm thấy ḿnh đă thoát ra khỏi cơ thể của họ. Đă có nhiều khoa học gia Tây Phương nghiên cứu về hiện tượng nầy; họ gọi nó là “out-of-body experience” (hay viết tắt là OBE, tạm dịch là “trải nghiệm khi bên ngoài cơ thể”).

    “Xuất hồn khi sắp chết” (“near death experience” hay NDE) chỉ là một trường hợp đặc biệt của hiện tượng xuất hồn nói chung.

    Trong trường hợp tiêu biểu, một người thấy họ xuất hồn ra khỏi và bay lơ lửng bên trên cơ thể ḿnh; họ thường có thể nh́n thấy chính cơ thể họ cũng như mọi cảnh trí chung quanh. Hầu hết mọi thứ họ diễn tả lại đều đúng với cảnh trí thật sự. Tuy nhiên thường có vài chi tiết không chính xác, thí dụ như họ thấy cánh cửa pḥng đang đóng trong khi nó thật sự đang mở. Có người thấy cơ thể hiện tại của ḿnh đang nằm đó, cũng có những người kể lại họ thấy cơ thể lúc c̣n trẻ của họ. Thường họ chỉ nh́n thấy sự vật nhưng có người kể lại họ cũng có thể nghe âm thanh. Điểm chính yếu nhất là họ có cảm giác rất rơ rệt là họ đang nghe và thấy từ một vị trí nằm hẳn bên ngoài cơ thể của họ.

    Có người tường thuật khi xuất hồn họ có thể du hành đến những thế giới khác, đi qua một đường hầm tối đến một nơi có ánh sáng rực rỡ và thanh b́nh, gặp những linh hồn của những người quen biết đă qua đời. Có người kể lại họ đi lên đến các hành tinh khác như Hỏa Tinh, v.v.

    Người ta biết rằng các cảm giác giống như trạng thái xuất hồn có thể xảy ra v́ nhiều lư do: năo bộ bị thương tổn, giác quan bị rối loạn, mất ngủ lâu ngày, đói khát cực độ, ảnh hưởng của một số dược phẩm và ma túy, năo bộ bị kích động bằng điện, v.v. Thống kê cũng cho biết khoảng một trong mười người v́ lư do ǵ đó có thể trải qua trạng thái dạng nầy dưới nhiều mức độ khác nhau ít nhất một lần trong đời.

    Nói chung có rất nhiều lư thuyết về hiện tượng nầy. Nhiều người cho rằng đây là bằng chứng cho thấy sự hiện hữu của thần thể hay linh hồn. Nhiều nhà khảo cứu cho rằng khi so sánh cách điều hành của năo bộ, hiện tượng xuất hồn có liên hệ với hiện tượng chiêm bao, nhất là hiện tượng chiêm bao trong đó người đang ngủ nhận biết ḿnh đang chiêm bao và có thể điều khiển diễn tiến của giấc chiêm bao đó ra sao (lucid dreaming). Tuy nhiên chúng khác nhau ở chỗ khi một người xuất hồn họ cho rằng những ǵ họ đang nh́n thấy đang xảy ra thật sự. Thống kê có vẻ hỗ trợ quan điểm nầy. Khi phỏng vấn những người đă từng xuất hồn, 85% cho biết họ xuất hồn trong lúc hoặc đang ngủ, hoặc đang nghỉ ngơi nhắm mắt, hoặc đang chiêm bao, hoặc đang nằm trên giường, hoặc đang đau bệnh; một số nhỏ cho biết họ đang dưới ảnh hưởng dược phẩm hay ma túy.

    Cảm giác lạ lùng khi xuất hồn lần đầu tiên có thể vừa hứng khởi vừa kinh ngạc. Điều nầy phối hợp với những h́nh ảnh một người có thể nh́n thấy rơ rệt trong khi xuất hồn làm họ dễ dàng tin chắc chắn rằng “đây không thể nào là chiêm bao được”. Vấn đề là những ǵ một người nghe thấy trong chiêm bao cũng có thể rất rơ rệt và chi tiết, nếu họ có lư do nhớ đến chúng. Thường thường chúng ta không nhớ mấy về chiêm bao của ḿnh sau khi thức dậy, v́ thế chúng có vẻ như “không thật”. Đời sống hàng ngày cũng vậy, chúng ta thường trải qua trọn mỗi ngày thức dậy, đánh răng rửa mặt, ăn sáng, đi làm, ăn trưa, lái xe về nhà, ăn tối, v.v. mà không hề để ư đến chi tiết nào rơ rệt cả, nếu không có lư do ǵ để cần phải nhớ đến chúng. Chỉ khi nào có chuyện bất thường ǵ xảy ra th́ chúng ta sẽ lập tức thu nhận tích cực những ǵ chúng ta nghe thấy và do đó chúng ta sẽ có thể nhớ lại diễn biến nầy rành mạch trong tương lai. Những giấc mơ tuyệt vời hay những ác mộng cũng vậy, chúng ta thường nhớ rất kỹ càng mọi chi tiết và có cảm tưởng như chúng đă xảy ra thật sự.

    Hiện tượng xuất hồn thường xảy ra đến một người đột ngột không báo trước. Tuy nhiên cũng có một số người có thể tự điều khiển ḿnh vào trạng thái nầy bất cứ lúc nào họ muốn. Có những phương pháp thiền với mục đích chính là để xuất hồn.

    Thống kê cho thấy những người đă từng xuất hồn phần đông là những người có khuynh hướng ưa thích chuyện tưởng tượng và hay tin vào những điều thần thoại, huyền bí hơn những người không bao giờ xuất hồn. Tuy thế không phải ai cũng vậy.

    Năm 2012 có một nữ sinh viên ngành tâm lư học tại Đại Học Ottawa cho biết cô có thể tự ư xuất hồn bất cứ lúc nào từ khi c̣n bé. Cô cho biết mỗi khi xuất hồn cô thấy ḿnh nằm lơ lửng trên không và có thể hoặc lật úp xuống nh́n thấy cơ thể của ḿnh, hoặc xoay ṿng ṿng như chong chóng song song với mặt đất, hoặc bay thẳng lên xuống nhiều độ cao thấp khác nhau. Cô kể lại lúc nhỏ ở mẫu giáo cô rất ghét giờ ngủ trưa, một hôm cô khám phá ḿnh có thể làm được điều nầy nên từ đó thường xuyên xuất hồn như một cách giải trí trong lúc bị bắt buộc nằm ngủ chung với các đứa bé khác. Khi lớn lên cô vẫn tiếp tục xuất hồn, luôn luôn do tự ư ḿnh một cách dễ dàng, thường là để dỗ ngủ. Trong khi người khác đếm cừu th́ cô xuất hồn ra khỏi cơ thể. Cô cũng cho biết cô tưởng ai cũng làm việc nầy được.

    Như đă nói, tường thuật hiện tượng xuất hồn rất phổ biến nhưng hầu như chưa mấy khi xảy ra trong môi trường thí nghiệm khoa học được kiểm soát chặt chẽ. Cơ hội nghiên cứu một người mạnh khỏe có thể tự ư xuất hồn bất cứ lúc nào chưa bao giờ xảy ra, cho đến lúc nầy.

    Người dẫn đầu cuộc thí nghiệm về cô sinh viên trên, giáo sư Claude Messier và phụ tá Andra Smith cho biết không có ǵ đặc biệt về cô gái nầy chỉ trừ cô thường rất khó ngủ. Đối với cô, cô không cảm thấy đây là một việc bất thường hay liên quan đến tâm linh. Đối với cô đây chỉ là một việc cô làm rất b́nh thường. Cô cho biết mỗi khi xuất hồn tuy cô có thể điều khiển sự di chuyển của ḿnh nhưng đồng thời biết là cơ thể “thật sự” của cô không hề chuyển động. Tuy vậy mọi cảm giác đều rất rơ ràng và “thật”. Thí dụ như cô cho biết nếu cô xoay ṿng ṿng quá lâu th́ cô sẽ bị chóng mặt.

    Người ta chụp ảnh (fMRI scan) hoạt động trong năo bộ cô trong khi cô đang xuất hồn và thấy rằng hầu như mọi hoạt động chỉ xảy ra ở năo cầu bên trái thay v́ ở cả hai bên như trong khi một người đang tưởng tượng điều ǵ. Mọi điều khiển về sự di chuyển của cơ thể đều nằm trong năo cầu bên trái. Đây là nơi hệ thần kinh định vị giúp chúng ta cảm giác được cơ thể ḿnh đang ở vị trí nào trong khoảng không gian chung quanh. Thí nghiệm cũng cho thấy phần năo bộ điều khiển thị giác của cô trong lúc đó hầu như ngưng hoạt động.

    Kết luận của cuộc thí nghiệm trên cho thấy cô không hề tưởng tượng; những ǵ cô thấy và cảm nhận đều thật sự xảy ra trong năo bộ cô. Phản ứng của năo bộ cô giống hệt như khi cơ thể cô đang thật sự trải nghiệm qua những chuyển động cô diễn tả. Tuy nhiên điều nầy không có nghĩa là linh hồn cô đă rời khỏi cơ thể cô. Đây chỉ là kết quả của cách thức năo bộ cô làm việc và không phải là một hiện tượng tâm linh ǵ cả. Đây chỉ là một khả năng đặc biệt mà chẳng qua cô có được. Có thể nói điểm khác biệt duy nhất giữa cô và vô số người xuất hồn khác là cô có thể tự ư làm chuyện nầy xảy ra một cách dễ dàng bất cứ lúc nào cô muốn và đối với cô đây là một việc b́nh thường hàng ngày chớ không có ǵ đặc biệt hay huyền bí cả.

    (c̣n tiếp)

    Nguyễn Nhân Trí

  10. #40
    Member Nguyễn Nhân Trí's Avatar
    Join Date
    12-01-2012
    Posts
    98

    LINH HỒN VÀ SỰ SỐNG VĨNH CỬU? (tiếp theo)


    Xuất Hồn(tiếp theo)

    Một thí nghiệm nổi tiếng và khá lư thú khác về hiện tượng xuất hồn xảy ra năm 1968 khi chuyên gia tâm thần Mỹ Charles Tart của Hội Nghiên Cứu Tâm Thần Hoa Kỳ (American Society for Psychical Research) quan sát một người được gọi là Miss Z qua 4 đêm trong pḥng thí nghiệm của ông. Miss Z là một người được biết có thể xuất hồn hầu như hàng đêm. Charles Tart muốn dùng trường hợp Miss Z để chứng minh thật sự linh hồn cô có xuất khỏi cơ thể và nh́n thấy mọi vật chung quanh ḿnh hay không.

    Mỗi đêm khi Miss Z ngủ, đầu của cô được nối liền với một chiếc máy có thể ghi nhận mọi hoạt động trong năo bộ. Chính Charles Tart đích thân theo dơi các điện năo đồ suốt đêm từ căn pḥng kế bên. Trên kệ tủ cao trong pḥng Miss Z ngủ có đặt một tấm bảng mang 5 điện số thay đổi khác nhau mỗi đêm. Cô không biết những con số nầy là ǵ. Từ nơi Miss Z nằm, cô không thể nào nh́n thấychúng. Người ta muốn thử xem Miss Z có đọc được các con số nầy khi cô xuất hồn hay không.

    Sau ba đêm đầu, Miss Z không thấy ǵ cả. Sau đêm thứ tư (đêm cuối cùng) cô nói trúng các con số nầy. Charles Tart cho rằng đây là bằng chứng cho thấy Miss Z đă xuất hồn trong đêm nên mới đọc được các con số nằm trên cao.

    Cuộc thí nghiệm nầy gây một tiếng vang khá lớn lúc bấy giờ trong giới nghiên cứu về tâm thần và tâm linh. Nhiều người cho rằng đây là một bước ngoặc quan trọng v́ quan niệm linh hồn là một vật thể phi vật chất riêng biệt hiện hữu song song với thân thể vật chất đă được kiểm chứng và xác nhận bởi khoa học. Tuy nhiên những nghiên cứu gia khác sau khi đọc kỹ bản tường tŕnh của cuộc thí nghiệm nầy đă có các nhận xét và chỉ trích sau đây.

    Trước hết thí nghiệm nầy đă không được tổ chức cẩn thận do đó không có những phương thức kiểm soát đầy đủ để pḥng ngừa và loại bỏ tất cả sự kiện có thể xảy ra đưa đến việc nghi ngờ giá trị về kết quả của nó. Trong suốt 4 đêm thí nghiệm, Miss Z nằm trên một cái giường cách biệt hẳn với người kiểm soát bởi một tấm vách chắn. Nơi Miss Z nằm chỉ có gắn máy ghi âm (với mục đích theo dơi xem cô có nói mớ hay không) chớ không có máy thu h́nh. Cách kiểm soát chính của cuộc thí nghiệm nầy là những dây điện nối giữa đầu Miss Z và máy điện năo đồ được thu ngắn lại để nếu cô muốn đứng dậy trên giường th́ cô sẽ phải lôi kéo các dây điện nầy, và làm như thế sẽ gây ra những xáo động dễ thấy trên điện năo đồ.

    Bản tường tŕnh kết quả của Charles Tart cho thấy có một sự xáo động trên điện năo đồ nhưng v́ lư do ǵ đó ông cho rằng đây chỉ là v́ trục trặc tạm thời của máy. Ngay chính ông cũng ghi chú rằng ông đă có lúc ngủ gật trong những đêm đó. Và một điểm quan trọng khác nữa là chính Charles Tart ghi chú rằng trước đêm thứ tư (tức là đêm cuối cùng) Miss Z “rất bực tức v́ ba đêm rồi không có kết quả ǵ cả và nhất định đêm nay phải xuất hồn bay cao lên để đọc được những con số đó cho bằng được”.

    Từ các nhận xét trên, những người phê b́nh cho rằng không có ǵ bảo đảm Miss Z đă không tự sắp xếp các dây điện lại để có thể đứng dậy trên giường lén nh́n xem các con số trên tủ cao là ǵ. Charles Tart ngồi ở pḥng kế bên sẽ không thể nh́n thấy ǵ cả. Hơn nữa có những lúc ông đă ngủ gục trong đêm. Và nhất là theo chính ghi chú của Charles Tart th́ Miss Z lúc ấy đang bực tức v́ sau 3 đêm cô vẫn chưa đọc được các con số đó v́ điều nầy ảnh hưởng đến danh tiếng của cô.

    Những người phê b́nh đặt câu hỏi tại sao Charles Tart khi nhận thấy rằng những xáo trộn trên điện năo đồ đêm ấy ông lại chỉ cho là v́ máy trục trặc mà thôi. Nếu thế th́ tại sao ông không tiếp tục cuộc thí nghiệm thêm một vài đêm nữa để có được kết quả chắc chắn?

    Những chuyên gia nghiên cứu khác cũng chỉ trích thí nghiệm của Charles Tart chỉ dựa trên một kết quả duy nhất từ một người duy nhất (Miss Z). Do đó ông không có đủ dữ liệu cần thiết để phân tích, so sánh trước khi đi đến một kết luận có giá trị khoa học. Họ cũng đưa ra vấn đề rằng kết quả thí nghiệm nầy không hề được kiểm nghiệm chính thức bởi các học giả kinh nghiệm cùng ngành khác (peer review), và đây là một điều kiện cần thiết mà mọi thí nghiệm, mọi giả thuyết, mọi lư thuyết khoa học đều phải có để bảo đảm giá trị của nó.

    Người ta cũng phê b́nh về việc Hội Nghiên Cứu Tâm Thần Hoa Kỳ (American Society for Psychical Research) không phải là một tổ chức khoa học được chính thức công nhận bởi mọi khoa học gia mà chỉ là một tổ chức vô vụ lợi có trụ sở ở New York và được tài trợ bởi tư nhân. Tương tự, bản tường tŕnh về thí nghiệm được Charles Tart đăng trên Đặc San Hội Nghiên Cứu Tâm Thần Hoa Kỳ và đặc san nầy tuy đón nhận bài đăng của bất cứ ai nhưng hầu như không có mối liên hệ ǵ với cộng đồng khoa học gia Mỹ.

    (c̣n tiếp)

    Nguyễn Nhân Trí

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 06-05-2013, 06:29 PM
  2. Replies: 7
    Last Post: 09-03-2013, 01:30 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 03-12-2012, 02:59 AM
  4. ÂN HẬN DO THIẾU HIỂU BIẾT & VỀ TÍNH DỤC thái san
    By ttv2007 in forum Thơ Văn Tự Sáng Tác
    Replies: 0
    Last Post: 10-12-2011, 06:40 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 26-02-2011, 04:34 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •