“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, ḷng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong ḷng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đăng”.

Đó là mấy câu đầu của một bài giảng văn khi tôi học lớp đệ thất. Bây giờ, gần nửa thế kỷ sau, th́ “Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, ḷng tôi lại vấn vương những kỷ niệm khác: Những kỷ niệm của một thời tuổi trẻ hưng phấn đầy lư tưởng, hướng về những người ra đi v́ dân tộc.



Vợ Hiền



“Tóc em dài óng ả

Trong gió chiều lộng bay

Hương cỏ thơm nhẹ tỏa

Cho ḷng anh ngất say

Anh nh́n em rung động

Nâng niu nụ môi trao

Má em hồng e thẹn

Con chim nhỏ bay cao

Em tuổi hồng thánh thiện

T́nh yêu em thiên thần

Em dịu dàng bé nhỏ

Nhưng ḷng em mênh mông

Em bảo em sẽ đợi

V́ quê hương anh đi

Yêu anh em chẳng ngại

Thời gian lỡ xuân th́

Anh thương em thật nhiều

Nhẫn cỏ anh kết trao

Trăm năm lời ước nguyện

Trọn giữ nghĩa t́nh sâu

Mai này anh sẽ về

Ngày đó ḿnh có nhau

Hoa hồng tươi anh kết

Vương niệm em đội đầu

Hoàng hậu cười rực rỡ

Xinh đẹp tựa như tiên

Ḷng quân vương hớn hở

Đứng bên cô vợ hiền”.

(Việt Khanh, 1987)



Tác giả bài thơ này tôi biết. Là một cô gái trên tuổi 20. Nhưng tuổi thơ cô đă thuộc ḷng lời ru “Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa, Có nàng Tô thị có chùa Tam Thanh”và nghe lời giải thích chuyện cổ tích này của mẹ để mà thương cho người phụ nữ Việt từ ngàn xưa chờ chồng đi đánh giặc. Và cũng v́ thấm thía với những t́nh cảm của người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm, nhờ đối chiếu được với lịch sử miên viễn chiến tranh của đất nước, cho tới tận gia đ́nh của cô mà cha anh đều phải xa nhà, đi vào trận mạc. Cho nên đă viết ra những gịng thơ ngắn ngủi này, khi thấy có những kháng chiến quân rời bỏ hải ngoại đi về chiến khu đấu tranh giải phóng VN. Tuy cô không có người yêu, hay người thân, quen biết trong số đó.



Cô gái đó chính là tôi.



Cái tâm cảm của tôi lúc đó là một thăng hoa dạt dào yêu thương đồng bào bị ḱm kẹp trong xiềng gông CS, yêu thương đất nước trong t́nh trạng ngăn sông cấm chợ, ngưỡng phục sự hy sinh cao quư của những con người dấn thân v́ lư tưởng phục vụ dân tộc, cùng với hy vọng chắc chắn cho một ngày thành công, để có môi trường khả dĩ nở hoa t́nh yêu đôi lứa mật ngọt.



Sự ngưỡng phục lư tưởng này của tôi đă nẩy mầm từ những năm đầu đi học, được nghe chuyện Triệu Thị Trinh, Trần B́nh Trọng, Nguyễn Tri Phương và nhiều anh hùng anh thư khác làm tôi cảm phục trong gịng lịch sử dân tộc.



Niềm hy vọng chắc chắn thành công cũng là do từ kinh nghiệm sống sau tháng tư 1975 ở VN, khi thấy được sự bời rời thất vọng của những cán binh VC khi vào đến Sàig̣n, mà nghĩ rằng chế độ toàn trị này sẽ không thọ. Niềm hy vọng nhất định thành công ở những người dấn thân ra đi với tinh thần “lấy sức ḿnh làm chính,” cũng c̣n do sự suy ra từ sự vượt qua được mọi khó khăn của chính cá nhân ḿnh ở một đất nước lạ nước lạ cái, tiếng tăm không biết, đường xá không thông, và những cung cách hành xử không quen đối phó, mà chỉ bằng nỗ lực ngày đêm làm việc học hành, với sức lực của một thân ḿnh vốn liếng cân lượng chưa được 90 lbs.



Tôi đă tham dự những sinh hoạt tập thể xưng dương và đóng góp cho những người ra đi, cho công cuộc đấu tranh. Kết quả vật chất chẳng đáng là bao, v́ cái cộng đồng tỵ nạn CS lúc đó chỉ gồm những người chân ướt chân ráo vật lộn với cuộc sống nơi xứ lạ, tiền bạc không dư dả. Nhưng cuộc sống mới của tôi với những công tác gom góp từng đồng từng cắc cho lư tưởng lúc nào cũng đầy hứng khởi. Tôi không bao giờ biết mệt, v́ công việc đời sống cá nhân và v́ việc chung. Tôi sống trong hy vọng thành công và trong sự tự hào.



Khi trận đánh Nam Lào xẩy ra, tôi đă không suy chuyển. Những người đi trước đă hy sinh nhưng tôi tin rằng sẽ có những người sau tiếp nối, và sẽ thành công, với quyết tâm và với phương châm lấy sức ḿnh làm chính để giải quyết vấn đề của ḿnh.



Tôi đă có đời sống ổn định bằng đôi bàn tay trần của tôi khi tới Mỹ. Tôi vẫn tiếp tục những đóng góp cho việc chung mà một số chiến hữu đă phải bỏ dở nữa chừng, v́ trận đánh Nam Lào, trong cái góc nhỏ bé của tôi ở hải ngoại.



Đường đời vốn không phải là bằng phẳng. Sống ở đời không phải như một người ngồi ghế nệm trong rạp hát máy lạnh xem phim chiếu bóng và cảm ứng theo đó một cách b́nh yên, không hề hấn ǵ. Sự say mê lư tưởng với hy vọng thành công của sự nghiệp đấu tranh v́ đất nước của tôi lại trải qua một phen thách đố v́ sự biến tâm của những người chiến hữu đi đường dài mệt mỏi, t́m dễ, lánh khó, a dua theo phương cách thoả hiệp của người ngoài, bỏ đi cái tinh thần nền tảng v́ dân tộc để trở thành những con rối chính trị, phục vụ cho những toan tính của các thế lực phi dân tộc. Trong hoàn cảnh này, mỗi mùa thu đến, tôi lại thấy rộn ḷng thương cảm cho những chiến hữu tiên phong đă hy sinh.



Năm nay, mùa thu, trong vấn vương những kỷ niệm của một thời hưng phấn, mà tôi tưởng không c̣n dấu vết, th́ tôi lại thấy qua hiện tượng giàn khoan HD 981, có những nụ mầm tí teo mới nhú của tinh thần dân tộc, của ư thức tự lực tự cường, bên cạnh những ồn ào theo phe nọ phái kia của những thế lực ngoại quốc. Những kẻ một thời là công cụ đắc lực cho tội ác VC xoá bỏ biên cương để đi vào thế giới đại đồng vô sản, nay đă công khai xác nhận sai lầm của chính ḿnh và của toàn đảng, công khai chỉ rơ bản chất bán nước phản dân của tập đoàn lănh đạo VC. Có thể rằng họ nói để chiều theo tâm thức chung của dân tộc, để mập mờ biến thái. Nhưng không sao, nếu mà tâm thức dân tộc thực sự đủ mạnh mà phát huy, th́ sự biến thái của họ sẽ không thể là biểu kiến, mà là, không thể đảo ngược. Chỉ cần chúng ta cảnh giác.



Trong sự suy nghĩ này, ḷng tôi lại mở ra một trời hy vọng, và không khỏi nghĩ tới mấy câu thơ đă làm vào một ngày mùa thu cảm khái nhớ trận Nam Lào. Bài thơ có tên Thu Cảm.



Một sáng nh́n sân bỗng ngỡ ngàng
Vàng cây đỏ lối gió thu sang
Xạc xào lá gọi hồn Đông Tiến
Lất phất mưa trời mây xám ngang

Năm tháng trôi qua trẻ lớn khôn
Mộ người phương đó mất hay c̣n
Xác thân bồi đất quê hương Mẹ
Chí cả hùng tâm rạng nước non

Thu đến thu đi lá trải đường
Thu về hồn gọi cứu Quê Hương
Người chao đảo mặc người chao đảo
Ta bền ḷng không thẹn trước gương

Cành lung linh điểm giọt pha lê
Nắng vàng hanh đón bước anh về
Lá ủ đất giữ ǵn mạch sống
Mầm Tự Do sẽ trổ trên Quê.

(Việt Khanh, Tháng 8 năm 2005)

Tuệ Vân
tamthucviet.com
August 28, 2014