Page 6 of 9 FirstFirst ... 23456789 LastLast
Results 51 to 60 of 88

Thread: Triển Lăm Cải Cách Ruộng Đất : Tưng Bừng Khai Trương , Âm Thầm Đóng Cửa

  1. #51
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tigon vừa t́m được tập tài liệu sưu khảo rất đầy đủ về cuộc Cải Cách Ruộng Đất , mà Hồ chí Minh và đảng Việt cộng miền bắc đă đề xướng thi hành đẫm máu kinh hoàng hồi thập niên 1959

    Tài liệu này giành cho quư vị nào muốn hiểu thêm về chính sách tàn bạo của Đảng CSVN , cùng các em trẻ quốc nội không có cơ hội để biết .

    C̣n nếu vị nào thấy nó nhàm chán , th́ mời theo Bác Z-28 đi rước Đèn Cù ...

    * * *


    Cải Cách Ruộng Đất

    (của Vơ Trường Sơn)

    Đây là tài liệu nghiên cứu công phu của Vơ Trường Sơn

    Tài liệu mô tả những sự thật rơ ràng về Cải Cách Ruộng Đất
    mà Hồ chí Minh và đảng Việt cộng miền bắc đă đề xướng
    và thi hành đẫm máu kinh hoàng hồi thập niên 1959.
    Theo lệnh của Mao Trạch Đông và đồng bọn cộng sản Tàu,
    qua chính sách cải tạo xă hội tàn bạo ghê rợn: chúng
    cướp tài sản ruộng vườn nhà cửa, giết mấy trăm ngàn
    dân chúng & cán bộ, tàn phá cấu trúc và đạo lư xă hội
    Việt Nam. Một tội ác to lớn, Việt Cộng không thể che dấu!


    KÍNH NHỜ QUƯ VỊ PHỔ BIẾN RỘNG RĂI


    Tóm tắt nội dung :


    Cải Cách Ruộng Đất (của Vơ Trường Sơn)

    Cuộc cải tạo Nông Nghiệp tại miền Bắc

    -Những Vấn đề căn Bản
    -Bối cảnh
    -Chiến lược và sách lược

    Những giai đoạn đấu tranh trước 1954

    -Chính sách thuế nông nghiệp
    -Giai đoạn đấu tranh chính trị
    -Đấu tranh giảm tô

    Giai đoạn đấu tranh sắt máu sau 1954

    -Giai đoạn đấu tranh đẫm máu
    -Phản ứng của nhân dân đưa đến quyết định sửa sai
    -Cuộc đấu tranh tiếp theo của nhân dân miền Bắc

    Mục tiêu của Hợp Tác Hóa Nông Nghiệp

    -Giai Đoạn Tổ Đổi Công
    -Giai Đoạn Hợp Tác Xă Cấp Thấp
    * Nguyên Tắc Căn Bản
    * Chế Độ Đóng Góp
    * Chế Độ Hưởng Thụ
    * Phản Ứng Của Nông Dân

    Xây dựng lực luợng để xâm chiếm miền Nam

    -Tổng Biên Chế Quân Đội Miền Bắc
    -Xây Dựng Các Công Tŕnh Sản Xuất Chiến Lược
    -Cơ Sở Quân Sự và Xa lộ Chiến Lược
    -Xây Dựng Lực Lượng Chính Quy Bắc Việt
    -Xâm Chiếm Miền Nam


    C̣n tiếp ...

  2. #52
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Cuộc Cải CáchNông Nghiệp Tại Miền Bắc

    (Vơ Trường Sơn)

    --------------------------------------------------------------------------------

    Cuộc cải cách Nông Nghiệp tại miền Bắc
    Những giai đoạn đấu tranh trước 1954
    Giai đoạn đấu tranh sắt máu sau 1954
    Mục tiêu của Hợp Tác Hóa Nông Nghiệp
    Xây dựng lực luợng để xâm chiếm miền Nam

    Lời nói đầu:

    Những biến động chính trị đang diễn ra trong nội bộ các nước Cộng sản là những biến cố lịch sử đánh dấu một giai đoạn đấu tranh mới của các dân tộc bị áp bức.

    Một số học giả Tây phương quen giải thích các biến cố trên bằng những lập luận cho rằng các chế độ Cộng sản đang chuyển ḿnh trên tiến tŕnh dân chủ hoá khiến cho các lực lượng đối lập có cơ hội vùng lên chống đối. Lập luận trên mới chỉ là "một nửa của sự thật" (Pseudo-truth), và một nửa của sự thật ở đây là một sự sai lầm, một sự lẫn lộn nguyên nhân với hậu quả.

    Đúng ra, người ta phải nói rằng các lực lượng bị áp bức đă vùng lên đấu tranh và đẩy tập đoàn Cộng sản thống trị tới chỗ phải nhượng bộ từng bước một, tạm thời thoả măn một cách hạn chế những đ̣i hỏi dân chủ của nhân dân bị áp bức và mặc dầu bị bắt buộc phải nhượng bộ, tập đoàn Cộng sản thống trị chỉ chịu lùi bước theo chiến thuật giai đoạn, trong khi đó vẫn luôn luôn t́m cách quật lại đối phương để giành lại ưu quyền chuyên chính, bất cứ khi nào chúng có thể làm được chuyện đó.

    Một khía cạnh đặc biệt thứ hai của các biến động chính trị nói trên làcuộc đấu tranh của các lực lượng bị Cộng sản áp bức đều mang tính chất phi quy ước. Tuy hoàn cảnh đấu tranh của mỗi dân tộc và tŕnh độ ư thức của mỗi lực lượng đấu tranh có khác nhau, nhưng bản chất chỉ là một. Một đặc điểm thứ ba của các biến động nói trên là trong các cuộc đấu tranh phi quy ước ngày nay, các chế độ Cộng sản đang ở thế thụ động, và các lực lượng quần chúng đấu tranh đang ở thế chủ động. Nghĩa là các lực lượng này đang xoáy sâu vào những điểm yếu của Cộng sản để làm cho chúng càng ngày càng suy yếu thêm và cuối cùng bị toàn dân lật đổ. Vấn đề đặt ra ở đây là các thế lực tài phiệt Tây phương vẫn có khuynh hướng chỉ nh́n thấy "một nửa của sự thật", quen lẫn lộn nguyên nhân với hậu quả. Và như thế, liệu họ có nhảy xổ vào để cứu nguy và tiếp sức cho các tập đoàn Cộng sản thống trị phục hồi sức mạnh để tiếp tục củng cố sự đàn áp hay không? Đó là điều mà ta sẽ thảo luận trong một dịp khác.

    Trong phạm vi bài này, những biến động chính trị hiện nay nhắc nhở chúng ta nhớ lại những cuộc khởi nghĩa tại Ponan, Budapest, vụ án Hồ Phong ở Trung Quốc, và vụ "Trăm Hoa Đua Nở" trên đất Bắc cùng thời với cuộc khởi nghĩa của nông dân ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, cách đây 33 năm. Đó là những cuộc đấu tranh phi quy ước của các lực lượng bị áp bức, nhưng, hoàn cảnh đấu tranh thời đó đă đặt các lực lượng chống đối ở thế bị động, cô lập và bị đập tan. Mặt khác, ở Việt Nam lúc đó, Việt cộng cũng sử dụng h́nh thái chiến tranh phi quy ước để đàn áp, tiêu diệt các lực lượng chống đối v́ lúc đó chúng đang nắm ưu thế chủ động.

    Nội dung của bài nghiên cứu này và loạt bài nghiên cứu sắp tới nhằm tŕnh bày h́nh thái chiến tranh phi quy ước mà Việt cộng đă sử dụng để củng cố bộ máy thống trị miền Bắc, mở rộng địa bàn "ỷ dốc" Miên-Lào trong tiến tŕnh xâm chiếm miền Nam.

    Những chủ đề quan trọng mà chúng ta sẽ thảo luận trong loạt bài nghiên cứu sắp tới gồm có:

    - Cuộc Cải cách Nông nghiệp tại Bắc Việt.
    - Cuộc cải cách công thương nghiệp tư bản tư doanh.
    - Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất chuẩn bị xâm chiếm miền Nam.
    - Mặt trận Lào trong chiến lược xâm chiếm miền Nam.
    - Đoàn hậu cần chiến lược 559 trên đường ṃn Hạ Làọ
    - Cuộc chiến tranh không tập tại Bắc Việt.

    V́ khuôn khổ giới hạn của một bài báo, mỗi chủ đề sẽ được tŕnh bày làm hai, ba kỳ. Ví dụ, chủ đề "Cuộc Cải Cách Nông nghiệp tại Bắc Việt" sẽ được tŕnh bày với những tiết mục chính sau đây:

    - Những vấn đề căn bản của cuộc Cải cách Nông nghiệp.
    - Bối cảnh cuộc cuộc Cải cách Nông nghiệp.
    - Chiến lược và sách lược của Việt cộng trong cuộc cải cách Nông nghiệp.
    - Diễn tiến của cuộc Cải Cách Nông nghiệp.
    - Hậu quả của cuộc Cải cách Nông nghiệp.

    Trong bài phân tích này chúng ta sẽ lần lượt điểm qua một cách tổng quát ba tiết mục đầu tiên nói trên.

    C̣n tiếp...

  3. #53
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    I. Những Vấn Đề Căn Bản Của Cuộc Cải Cách Nông Nghiệp

    Vào tháng Mười năm 1987, nông dân tại một số tỉnh thuộc đồng bằng Cửu Long đă biểu t́nh chống đối Việt cộng v́ những hành động tham nhũng và cướp giật ruộng đất do cán bộ Việt cộng chủ xướng nhân cuộc "cải cách ruộng đất năm 1983".

    Ngày 9 tháng 11, 1987, hàng trăm nông dân từ các tỉnh miền Tây đă tổ chức biểu t́nh chống chính quyền Việt cộng ngay tại Sài G̣n. Pháp Tấn Xă tại Sài G̣n mô tả một t́nh trạng náo loạn chưa từng thấy kể từ năm 1975. (Thật ra, kể từ khi Việt cộng trục xuất các phóng viên báo chí và truyền h́nh ra khỏi Việt Nam vào năm 1976 th́ truyền thông Tây phương hầu như mù tịt về t́nh h́nh Việt Nam. Măi cho tới 1986, 1987, khi Nguyễn Văn Linh cho phép báo chí, truyền h́nh Tây phương trở lại Việt Nam trong mục đích ve văn dư luận quốc tế, th́ báo chí mới bắt đầu nh́n thấy một số hiện tượng bề ngoài với một mức độ hạn chế).

    Những biến cố nói trên tương đối ôn hoà nếu ta so sánh với vụ Khởi nghĩa của Nông dân Quỳnh Lưu bị đàn áp đẫm máu vào năm 1956, vụ thanh niên Nam Bộ tập kết đốt phá bót Cảnh sát bờ hồ Hà Nội, vụ đảng viên Việt cộng t́m nhau để chém giết trả thù nhân vụ Cải tạo Nông nghiệp đưa đến biện pháp "sửa sai".

    Lư do chính khiến có sự khác biệt về mức độ bạo động là v́ hoàn cảnh chính trị đă khác nhiều; năm 1983, bạo quyền Việt cộng đă cực kỳ suy yếu, ruỗng nát so với năm 1956, và nhân dân ta ở trong Nam đă được tổ chức và hướng dẫn để đề kháng một cách hữu hiệu hơn thời gian 30 năm trước. Do đó, Việt cộng đă không dám thực hiện các biện pháp mạnh tay trong chính sách ruộng đất. Mặc dầu hai cuộc Cải cách Ruộng đất có khác nhau ở mức độ sắt máu; nhưng, những vấn đề căn bản của cả hai cuộc Cải cách Ruộng đất của Việt cộng chỉ là một: Đó là các vấn đề Bản Chất, Mục Tiêu và Hậu Quả.

    1. Bản Chất Của Cuộc Cải Cách Nông Nghiệp

    Quan niệm Cải cách Ruộng đất không phải là quan niệm mới mẻ. Montesquieu, trong tác phẩm "Espuis des Lois" năm 1748, có viết rằng: "Trong một nền dân chủ tốt, chia đều đất đai chưa đủ; cần phải chia nhỏ ruộng đất như người La Mă đă làm" (xem tác phẩm "Espuis des Lois", quyển V, chương VI). Trong các chế độ dân chủ, bản chất của Cải cách Ruộng đất là hữu sản hoá dân nghèo để giúp họ có cơ hội phát triển và xây dựng đời sống kinh tế bắt đầu từ mảnh đất mà họ làm chủ, dù chỉ là một mảnh đất nhỏ.

    Trong các chế độ Cộng sản, bản chất của Cải cách Ruộng đất là đảo lộn toàn bộ tổ chức xă hội bằng cách phế bỏ quyền tư hữu đối với tất cả ruộng, đất, vườn, ao, hoa màu, trâu ḅ và dụng cụ sản xuất như cày, bừa, cuốc, xẻng, cối xay lúa, cối giă gạo, v.v.... Nói theo ngôn ngữ Việt cộng, đó là tiến hành cuộc Cách Mạng Quan Hệ Sản Xuất trong đó có việc thay đổi quyền làm chủ đất đai, quyền làm chủ tư liệu sản xuất, và thay đổi quan hệ giữa người với người (tức là tương quan chủ - thợ). Có lẽ sự thay đổi tương quan chủ - thợ có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất đối với số phận của tất cả mọi nông dân từ bần nông đến chủ đất, v́ nó biến họ vĩnh viễn thành những người thợ vô sản phục vụ cho chủ nhân ông Cộng sản, trong một tương quan na ná hoặc tệ hơn một nông nô dưới chế độ phong kiến. Một hệ luận quan trọng của việc phế bỏ quyền tư hữu là sự tập trung đất đai vào tay nhà nước trong chế độ Cộng sản, thay v́ chia nhỏ đất đai như trong một chế độ dân chủ. Điều này không phải là điều t́nh cờ phù hợp với mục tiêu của Cải cách Ruộng đất mà ta đề cập dưới đây.

    2. Mục Tiêu Của Cuộc Cải Cách Nông Nghiệp

    Mục tiêu tối hậu của việc phế bỏ quyền tư hữu đất đai là để giành giật khả năng và quyền lực chính trị khỏi tay nông dân, và tập trung quyền lực chính trị đó vào tay chế độ chuyên chính vô sản. Những người thợ và trí thức vô sản bị mất hết quyền lực chính trị v́ họ bị khống chế bởi tên chủ Việt cộng qua hệ thống hộ khẩu và chế độ b́nh công chấm điểm. Họ chỉ được đủ ăn tới một mức... lúc nào cũng c̣n đói, nếu họ tuân theo những quy luật do "tên chủ" Việt cộng đề ra. Trong tay họ không có tài sản, không có tiền, không có vũ khí; họ bị cô lập bởi hệ thống công an, bởi thế; về phương diện quyền lực chính trị, mỗi nông dân là một con số không trong chế độ Cộng sản. Trong một chế độ dân chủ, một nông dân dù nghèo rớt cũng c̣n có một chút vốn kinh tế v́ họ c̣n làm chủ được tấm thân của họ, nghĩa là họ c̣n có một chút quyền lực chính trị. Đem gom góp hàng triệu những quyền lực chính trị nho nhỏ đó, người ta có thể tạo nên một thế lực tương đối lớn để tự bênh vực ḿnh.

    Trong chế độ Cộng sản, nếu đem gom góp một triệu con số không (của quyền lực chính trị của mỗi nông dân), ta cũng vẫn chỉ được một con số không thiệt to. Hiểu được như thế, ta hiểu được hậu quả của cuộc cải cách ruộng đất đối với việc củng cố bộ máy đàn áp kềm kẹp của Việt cộng ở miền Bắc.


    C̣n tiếp...

  4. #54
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    3. Hậu Quả Ngắn Hạn Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp

    Qua sự tập trung đất đai, phương tiện sản xuất và đoàn ngũ hoá nông dân thành giai cấp nông nô sau cuộc Cải tạo Nông nghiệp, Việt cộng hoàn toàn nắm hết tài nguyên, lương thực, khởi sự xây dựng các nông trường quốc doanh, chuẩn bị đạo quân xâm lược Lào và miền Nam Việt Nam (Việt cộng gọi là lấy lương thực phục vụ chiến trường "C" và "B"). Hậu quả trước mắt của cuộc Cải tạo Nông nghiệp là giúp Việt cộng xây dựng cơ sở vật chất để tiến hành chiến tranh. Hậu quả pháp lư của cuộc Cải tạo Nông nghiệp là việc định chế hoá các cơ cấu quyền lực địa phương để tiến hành đấu tranh phi quy ước trong nội bộ chống lại nhân dân miền Bắc. Nói một cách rơ hơn, các hợp tác xă nông nghiệp tại địa phương chính thức trở thành các cơ sở ban phát quyền lợi, thực thi chính sách và Bí thư Hợp tác xă, Bí thư Chi bộ xă là những kẻ có toàn quyền sinh sát tại nông thôn đă biến thành các cường hào ác bá dưới triều đại xă hội chủ nghĩa của "Rợ Hồ". Tóm lại, những hậu quả ngắn hạn và trước mắt là những điều có lợi cho việc củng cố quyền lực chính trị của giai cấp thống trị Cộng sản. Nhưng, hậu quả về lâu về dài là một vấn đề khác.

    4. Hậu Quả Dài Hạn Của Cải Tạo Nông Nghiệp

    Là một vấn đề mà Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh và cấp đầu lănh các Đảng Cộng sản không nh́n thấy, hoặc v́ ảo tưởng trên mây nên đă nh́n sai và tiên đoán sai. Đó là những vấn đề liên quan đến năng suất lao động, năng suất đất đai, cơ cấu sản xuất và thị trường, đưa đến những bế tắc trong nền kinh tế của mọi quốc gia Cộng sản. V́ chủ quan nghĩ rằng quyền lực chính trị có thể giải quyết và "cả vú lấp miệng em" đối với mọi bài toán trong xă hội, các cấp đầu lănh Cộng sản, và Việt cộng nói riêng, đă bị vỡ mặt khi những bế tắc kinh tế vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của Đảng và các cơ cấu quyền lực chính trị địa phương biến thành các "sứ quân" tự chuyên, tự quản nền kinh tế quốc gia. Nhưng, đây là những chi tiết mà ta sẽ thảo luận khi đi sâu vào các bài nghiên cứu sắp tới.

    Một câu hỏi được đặt ra ở đây là cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại Bắc Việt đă diễn ra trong hoàn cảnh nào? Để trả lời câu hỏi này, loạt bài nghiên cứu sắp tới sẽ tŕnh bày về bối cảnh Địa lư, Kinh tế, Xă hội và Chính trị của giai đoạn 1949-1957 được tóm lược trong Phần II dưới đây.


    II. Bối Cảnh Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp

    Cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại miền Bắc có thể được coi như bắt đầu kể từ Sắc luật Giảm tô số 78/SL ngày 14 tháng 7 năm 1949 và chính sách thuế nông nghiệp của chính quyền kháng chiến nằm trong toàn bộ của chính sách thuế khoá gồm cả thuế Công-Thương nghiệp, sát sinh, Lâm-Thổ sản, xuất nhập cảng, v.v... ra đời từ ngày 1 tháng 7 năm 1951 do Sắc luật số 42/SL của Hồ Chí Minh.

    Chính sách thuế Nông nghiệp là phát súng khởi đầu cho các chiến dịch "phân mảnh định hạng" các loại ruộng, "b́nh sản lượng", "b́nh diện tích" mỗi mảnh đất để làm căn bản tính thuế, sau đó tiến lên chiến dịch "chống phản động", "đấu tranh giảm tô" kéo dài tới năm 1954 chỉ được tạm chấm dứt khi chiến trường Điện Biên Phủ bắt đầu nghiêm trọng và đưa đến Hiệp định Genève. Sau đó, Việt cộng miền Bắc đă tạm ngưng cuộc đấu tranh Cải cách Ruộng đất tới cuối năm 1955, đầu năm 1956, v́ ba lư do:

    - Việt cộng c̣n bận lo đón tiếp bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc.
    - Việt cộng c̣n phải đối phó với phong trào di cư và cuộc đàn áp dân Ba Làng v.v....
    - Việt cộng c̣n phải che dấu thủ đoạn tàn bạo để trấn an ḷng dân, che mắt các quan sát viên quốc tế, và ổn định t́nh h́nh nội bộ.

    Giai đoạn thứ hai của đấu tranh Cải cách Ruộng đất bắt đầu từ cuối năm 1955 đầu 1956 trong đợt phóng tay phát động quần chúng đấu tranh Cải cách Ruộng đất và lên đến mức độ tàn bạo nhất trong đợt cải cách Điện Biên Phủ. Để cho cuộc Cải cách Ruộng đất được nhanh chóng và đồng đều, tại những vùng mới tiếp thu và đồng bằng sông Nhị Hà, Việt cộng đă tiến hành hai cuộc "đấu tranh giảm tô" và "đấu tranh Cải cách Ruộng đất" vào một lần. Thể thức đấu tranh cải cách ruộng đất cũng giống như đấu tranh giảm tô, chỉ kháng ở mức độ tàn bạo gia tăng và con số nạn nhân cũng gia tăng do sự "càn đi, quét lại" và "tích tỷ lệ" mà ta sẽ được giải thích trong những bài phân tích sắp tới.

    Điều đáng chú ư là chính sách Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc đă rập khuôn chính sách Cải cách Ruộng đất của Trung Quốc mà không có sự chế biến cho hợp với hoàn cảnh và t́nh trạng nông nghiệp ở nước ta.

    Các cán bộ Việt cộng có nhiệm vụ trong cuộc Cải cách Ruộng đất đă học tập kinh nghiệm của cán bộ Cộng sản Trung Quốc trong cuộc Cải cách Ruộng đất ở Hồ Nam, quê hương của Mao Trạch Đông. Tại Trung Quốc, gia cấp địa chủ điển h́nh c̣n mang nặng tính chất phong kiến lănh chúa. Ngoài đồng ruộng thẳng cánh c̣ bay, một địa chủ điển h́nh c̣n có lâu đài, dinh cơ vàquân lính riêng để bảo vệ sản nghiệp cũng như để đàn áp, bóc lột nhân dân. Trong cuộc Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc, một số lớn những người bị gán là "địa chủ đại gian đại ác" thường chỉ có mấy mẫu ruộng hoặc ít hơn, nhưng thuộc thành phần có uy tín ở nông thôn, và có thể trở thành chống đối Đảng và Nhà nước.

    Vậy, yếu tố giành giật độc quyền chính trị là yếu tố quan trọng nhất của Cải cách Ruộng đất, và do đó, Cải cách Ruộng đất là cơ hội ngàn năm một thuở để Việt cộng đánh quỵ cả thế lực tinh thần của Giáo hội Công giáo. Nhiều vị Linh mục Công giáo cũng bị bắt, bị tra khảo và bị giết, trong đó có Cha Thanh, đă từng là Linh mục giảng huấn tại Tiểu Chủng viện Ba Làng năm 1949-1950, một vị chân tu, hiền lành và đạo đức cũng bị sát hại một cách dă man trong tù.

    Một cuộc cải cách tàn bạo, dă man nhất trong lịch sử Việt Nam từ hồi lập quốc do chính người Việt Nam để đàn áp chính người Việt Nam, tại sao có thể thành công được? Câu trả lời nằm trong chiến lược và sách lược của Việt cộng trong Cải cách Ruộng đất.


    III. Chiến Lược Và Sách Lược Cải Cách Ruộng Đất


    Những cuộc nghiên cứu qua các nhân chứng của cuộc cải cách ruộng đất đă cho người ta một tầm nh́n sâu và rộng đối với quan niệm chiến lược của Việt cộng. Một số cán binh Việt cộng xâm nhập từ Bắc vào Nam và sau đó ra hồi chánh đă cung cấp những dữ kiện vừa phong phú, vừa chi tiết và cụ thể giúp ta nh́n thấy những đường đi, nước bước có lớp lang của Việt cộng, những chuẩn bị rất công phu, những mưu mô lừa bịp tinh vi, che mắt ngay cả những đảng viên Việt cộng từng vào sinh ra tử trong kháng chiến.

    Hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân, Kỹ sư Thuỷ Lợi, thuộc Bộ Thuỷ Lợi Bắc Việt, trước kia đă tham gia cải cách ruộng đất tại Xóm Chuối tỉnh Ninh B́nh, tóm tắt quan niệm chiến lược của Việt cộng như sau:

    "Theo tài liệu của Đại hội Đảng chuẩn bị cho cải cách ruộng đất th́ việc đấu tranh giai cấp giữa địa chủ và nông dân đă được đặt ra ngay từ khi thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Họ nhận xét rằng từ 90% đến 95% dân chúng Việt Nam là nông gia chuyên nghiệp, và trong số này th́ chỉ có khoảng 5% là địa chủ phú nông, c̣n đa số đều là kẻ làm thuê, làm mướn, tá canh, tá điền; do đó, nếu muốn làm cách mạng xă hội, họ phải lôi cuốn được khối đa số đó, phải thỏa măn khối đa số đó bằng quyền lợi để sau này nắm chặt khối đa số đó bằng sắt máu...".

    Lời tiết lộ ở trên chẳng những tóm tắt quan niệm chiến lược mà c̣n phát hiện cả sách lược của Việt cộng. Như ta đă từng định nghĩa:

    Chiến lược là toàn bộ một kế hoạch nhằm vận dụng sức mạnh căn bản để đánh trúng địch bằng những đ̣n chí tử cho tới khi nó gục ngă.

    Và sách lược cũng là toàn bộ một kế hoạch như chiến lược, duy có một điểm khác là để đạt mục tiêu, toàn bộ kế hoạch sử dụng những mưu kế để lừa địch, dụ khị địch và qua mặt địch.

    Khi quan niệm rằng đa số dân Việt Nam là nông dân và đa số nông dân là khối người nghèo và cần phải lôi cuốn được đa số đó, Việt cộng đă nói lên được khía cạnh chiến lược của vấn đề. Sau hết, khi chủ trương phải thỏa măn khối đa số đó bằng quyền lợi để sau này nắm chặt khối đa số đó bằng sắt máu, Việt cộng nói lên khía cạnh sách lược tức là phương án lừa bịp và dụ khị, qua mặt địch. Lừa bịp, dụ khị và qua mặt địch như thế nào th́ đó là những chi tiết kế hoạch sẽ được tŕnh bày trong nhiều bài sắp tới....



    C̣n tiếp...

  5. #55
    Member
    Join Date
    09-06-2011
    Posts
    447


    Cảm ơn chị Tigon

    Cứ post tiếp nhé,v́ vẫn sẽ c̣n không ít người chưa nh́n thấu hết bản chất tàn ác của vẹm.Nhất là với lớp trẻ trong nước đang bị nhồi sọ và bứng bít.

    Cũng v́ lũ vẹm quá NGU,ngu từ tụi chóp bu đến bọn đàn em.V́ nếu nh́n có chiều sâu,th́ có lẽ là đảng vẹm đă không cho ra cái triến lăm quái đản nhất lịch sử.Khi mà đảng vẹm nhận phản ứng ngược.Thay v́ khiến" nhân dân biết ơn đảng",th́ chính lũ vẹm tự tay lột áo cho thiên hạ xem lờp da độc ác của một thời kỳ kinh hoàng đẩm máu và nước mắt của người dân miền bắc.
    Last edited by Ba Trợn; 14-09-2014 at 11:37 PM.

  6. #56
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Những Giai Đoạn "Đấu Tranh" Trước 1954

    Đại Cương:


    Trong kế hoạch nắm vững toàn bộ nông thôn miền Bắc, Cộng sản phải tiến qua nhiều giai đoạn, theo một kỹ thuật tinh vi bắt đầu bằng cuộc Cải cách Ruộng đất được Đảng mệnh danh là "một cuộc cải cách long trời lở đất" mà hậu quả là khiến cho người dân trở thành một đoàn người khiếp sợ Đảng, đến độ bảo sao cắm đầu nghe vậy, không dám oán than ngay cả với người thân trong gia đ́nh.

    Nhưng, bắt đầu một cách rất nhẹ tay, năm 1951, Cộng sản Việt Nam lập ra một thứ thuế nông nghiệp đánh vào tất cả những ai có ruộng, vườn trồng trọt được hoa màu. Đến năm 1952-1953 là giai đoạn áp dụng chính sách giảm tô mà thí điểm là khu Tư như Hoàng Hoá, Phú Thiện và vùng Trung du Bắc Việt như Bắc Giang, Phú Thọ, v.v... Chính sách giảm tô đă làm cho hàng ngũ địa chủ kinh sợ, xuống tinh thần. Các tầng lớp phú nông, trung nông lo lắng, và sốt sắng tham gia cách mạng để cầu an v́ sợ bị xếp hạng vào thành phần địa chủ. Trái lại, các tầng lớp bần nông, cố nông th́ sung sướng, thỏa măn. Đến năm 1954, chính sách được áp dụng ở Nghệ An và Trung du Bắc Việt, mặc dầu ở mức tương đối tàn bạo, nhưng so với năm 1956 hăy c̣n được coi là... ôn ḥa.

    Từ 1954 đến 1955, chính sách Cải cách Ruộng đất tạm ngưng tiến hành v́ Việt cộng đặt nặng vấn đề chống phong trào di cư, tranh thủ quần chúng để giữ dân ở lại.

    Tới giữa năm 1955, cuộc di cư hoàn tất, việc phân chia lănh thổ đă rơ ràng, chính quyền Cộng sản bắt đầu áp dụng chính sách Cải cách Ruộng đất trên toàn lănh thổ Bắc Việt. Việc áp dụng được thi hành theo từng đợt, mỗi đợt từ 1 tới 3 tháng với khẩu hiệu: "dựa vào bần cố nông, đoàn kết trung nông, liên hiệp phú nông, đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ".

    Trong phạm vi bài này, ta sẽ nghiên cứu Thời Kỳ Đấu Tranh Cải Cách Ruộng Đất trước năm 1954, và bài kế tiếp sẽ nghiên cứu chi tiết thời kỳ sau 1954....


    --------------------------------------------------------------------------------

    Dựa theo kinh nghiệm đấu tranh tại Hoa Lục, cuộc Cải cách Ruộng đất tại Bắc Việt lần lượt trải qua các giai đoạn căn bản sau đây:

    - Giai đoạn thi hành chính sách thuế nông nghiệp.
    - Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu tranh chống phản động (đấu tranh chính trị).
    - Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu tranh giảm tô giảm tức.
    - Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu tranh Cải cách Ruộng đất.

    Nếu hiểu như trên th́, trong Kế hoạch Cải cách Ruộng đất, hai giai đoạn đầu là phần ch́m hay là phần chuẩn bị, giai đoạn đấu tranh giảm tô là phần làm thử để rút tỉa kinh nghiệm, và giai đoạn sau chót là phần nổi hay là phần thực hiện. Để nắm vững toàn bộ Kế hoạch Cải cách Ruộng đất của Cộng sản Việt Nam, ta hăy quay trở lại giai đoạn 1951, khi chính sách thuế nông nghiệp mới được ban hành.



    C̣n tiếp...

  7. #57
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Thời Kỳ Trước Hiệp Định Genève 1954

    I. Chính sách Thuế Nông Nghiệp

    Như đă nói trong bài trước, chính sách thuế nông nghiệp của Chính quyền Kháng chiến nằm trong toàn bộ chính sách thuế khoá gồm cả thuế Công nghiệp, Thương nghiệp, Sát sinh, Lâm sản, Thổ sản, Xuất nhập cảng v.v... ra đời từ ngày 1 tháng 7 năm 1951 do sắc lệnh số 40/SL. Nhưng, trong tất cả mọi thứ thuế th́ thuế Nông nghiệp là nguồn lợi căn bản thay thế các loại thuế có từ trước như thuế ruộng đất, đảm phụ Quốc pḥng, công phiếu Kháng chiến, ủng hộ chiến sĩ mùa Đông v.v.... Thuế Nông nghiệp nhằm cung ứng một số lượng lương thực và tài chánh lớn lao cho Việt cộng trong nỗ lực chiến tranh ngày càng cấp bách và nặng nề.

    Hai nữa là, một phần của chính sách Cải cách Ruộng đất, thuế Nông nghiệp là một đ̣n phủ đầu để đánh quỵ những thành phần có nhiều ruộng đất, mà chưa cần dùng tới bạo lực. Một số địa chủ không chịu nổi thuế cao quá, phải tự động hiến ruộng đất cho Đảng và Nhà nước (lúc đó c̣n mệnh danh là "Chính quyền Kháng chiến"). Một số khác, nếu không hiến đất cho Đảng và Nhà nước, dĩ nhiên sẽ không đủ sức nộp thuế theo đúng sự đ̣i hỏi của Nhà nước. Như thế là chính họ đă gián tiếp kết bản án cho ḿnh trong giai đoạn sắp tới.

    Sau hết, trong việc thi hành chính sách thuế Nông nghiệp, Cộng sản để cho dân b́nh nghị lẫn nhau, nghĩa là người nọ ấn định mức lợi tức của người kia để cán bộ dựa vào đó bổ thuế theo tỷ lệ thuế của chính quyền. Khi để cho dân chúng b́nh nghị lẫn nhau, Cộng sản đă tự đề cao là chúng theo chính sách dân chủ, nhưng thực ra, dụng ư của Đảng là mượn tay người để đánh người, gây mầm đấu tranh căn bản theo chiến thuật của Cộng sản là "lấy mâu thuẫn diệt mâu thuẫn".

    Theo tài liệu chính thức, được phổ biến trên tờ Cứu Quốc số 2080 ngày 6-7-1952, th́ tất cả những nông dân nào có mức lợi tức trung b́nh từ 71Kg gạo một năm trở lên đều phải nộp thuế. Thuế Nông nghiệp là thứ thuế lũy tiến, lợi tức càng lớn th́ tỷ lệ thuế càng cao.

    Theo bảng phân hạng thuế này th́, trên lư thuyết, tỷ lệ thuế tối đa là 45% mức lợi tức trung b́nh, nhưng trên thực tế, qua kỹ thuật "b́nh nghị", chính quyền có thể khiến một người khá giả phải đóng thuế tới... 100% lợi tức. Ví dụ: Mức lợi tức trung b́nh của nông dân A là 1800Kg, chính quyền có thể vận động để dân "b́nh nghị", gán cho nông dân A mức lợi tức là... 4000Kg và khi phải đóng theo tỷ lệ 45% thành 4000 X 45/100 = 1800Kg, thế là nông dân A bị phá sản, v́ làm được bao nhiêu phải nộp thuế hết.

    Trước khi b́nh nghị, cán bộ Đảng lănh đạo việc "phân mảnh định hạng" tức là xếp hạng từng mảnh ruộng tùy theo đất cao, thấp, tốt, xấu theo thứ tự A, B, C v.v....

    Kỹ thuật b́nh nghị gồm có "b́nh sản lượng" và "b́nh diện tích". Khi đă "phân mảnh định hạng" xong, cán bộ thuế triệu tập nông dân, gồm tá điền và chủ điền, để "b́nh sản lượng", tức là ấn định mức năng suất của một mảnh ruộng. Điểm cốt yếu của kỹ thuật "b́nh sản lượng" là Đảng dùng những phần tử cốt cán là các tá điền có đảng tịch, hoặc có cảm t́nh với Đảng để "b́nh sản lượng".

    Những người này xác nhận mảnh ruộng do ḿnh canh tác có một sản lượng thật cao. Dĩ nhiên, người chủ điền hay những người có mảnh ruộng kế cận, cùng một hạng, phải chấp nhận mà không có cách ǵ thanh minh; bởi v́, trên danh nghĩa, người tá điền là người trực tiếp cày cấy trên mảnh ruộng và biết được năng suất của mảnh ruộng. Nếu người chủ đất khai báo một năng suất thấp, mọi người dễ dàng tin rằng chủ đất đă khai gian để trốn thuế. "B́nh diện tích" nghĩa là xác định lại diện tích của từng thửa ruộng. Mặc dù trong trích lục của mỗi thửa ruộng đều có ghi diện tích đó, nhưng cán bộ thuế không chấp nhận, viện cớ rằng nhân viên của Chính phủ Bảo hộ thời xưa đă ăn tiền của chủ điền mà bớt diện tích để bớt thuế.

    Dĩ nhiên, khi "b́nh diện tích" th́ bao giờ thửa ruộng cũng bị gán cho một diện tích lớn hơn, mặc dù không có đo lường chính xác. Sau khi đă "b́nh sản lượng" và "b́nh diện tích" th́ tổng số thu hoạch của một thửa ruộng chính là sản lượng nhân với diện tích. Ví dụ: Một thửa ruộng có diện tích 3 mẫu và có sản lượng 2 tấn mỗi mẫu, th́ tổng số thu hoạch của thửa ruộng là 3 mẫu X 2tấn/mẫu = 6 tấn mỗi năm.

    Giai đoạn áp dụng chính sách thuế Nông nghiệp đă hoàn toàn thành công, với kết quả là chính quyền vơ vét được một số lượng tài lực lớn lao, đồng thời gây nên được mầm mống mâu thuẫn "b́nh nghị".

    Tới đây, ta cần ôn lại một số danh từ và lề lối làm ăn sinh sống của nông dân trong giai đoạn Cải cách Ruộng đất của Việt cộng. Những danh từ như tá điền, điền tốt, bần cố nông, bần nông, trung nông, phú nông, địa chủ là những danh từ chỉ các loại nông dân chuyên nghiệp tùy theo mức độ tài sản mà họ có.

    Một bần nông, theo định nghĩa của Việt cộng, là một nông dân nghèo không có đất đai để cày cấy, hoặc chỉ có mấy sào ruộng là tối đa. Một bần cố nông là một người suốt đời chỉ là một nông dân nghèo (vô sản). Một trung nông, theo định nghĩa của Việt cộng, là một người có một vài mẫu ruộng trở lại. Một phú nông là người có cả chục mẫu ruộng trở lên. Một trung nông hay phú nông có thể là một địa chủ nếu người đó không trực tiếp canh tác mà thuê người khác làm cho ḿnh. Một điền tốt là một nông dân đi làm công cho một địa chủ và được trả công như một người thợ. Một tá điền là một nông dân mướn đất của địa chủ với điều kiện phải trả một mức lời nào đó cho địa chủ, theo từng mùa canh tác. Số lời đó được gọi là địa tô và lối làm ăn như thế gọi là "tá canh" hay "làm rẽ". Số lời (địa tô) chia cho chủ đất có thể dưới h́nh thức tiền bạc hoặc hoa màu; ví dụ như trong giai thoại ông Trạng Quỳnh cấy rẽ đất của Bà Chúa (có lẽ thời Vua Lê, Chúa Trịnh). Những nông dân trực tiếp canh tác đất của ḿnh th́ gọi là "trực canh".

    Trong thời kỳ chiến tranh Việt-Pháp, một số đông nông dân bỏ vùng mất an ninh để về Tề, và Việt Minh đă khuyến khích những người khác chiếm hữu đất đai bỏ lại để canh tác. T́nh trạng này được gọi là "chiếm canh", một vấn đề tế nhị về chính trị, đă được chính quyền Quốc gia dưới chế độ Bảo Đại giải quyết bằng cách chấp nhận cho những người chiếm canh được hưởng toàn bộ hoa lợi do họ làm ra, tuy nhiên quyền sở hữu đối với ruộng đất vẫn thuộc chủ đất nếu họ trở về canh tác (Thông điệp đầu Xuân Ân lịch 1951 của Quốc Trưởng Bảo Đại).

    Vấn đề định nghĩa các thành phần bần nông, trung nông, phú nông và địa chủ là vấn đề rất quan trọng đối với Việt cộng trong việc ngầm xác định ai là đối tượng cần liên hiệp và ai là đối tượng cần tiêu diệt trong giai đoạn đấu tranh chính trị sắp tới. Gọi là ngầm xác định v́, trong giai đoạn "Thuế Nông Nghiệp", Việt cộng chưa công khai hoá chủ trương tiêu diệt địa chủ mà chỉ nhắm vào một số nạn nhân có tính cách điển h́nh, và "tội danh" của họ dựa trên "căn bản pháp lư" của Thuế Nông Nghiệp, chứ không phải trên căn bản thành phần giai cấp.



    C̣n tiếp...

  8. #58
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    II. Giai Đoạn Đấu Tranh Chính Trị


    Như đă nói trong giai đoạn thi hành Thuế Nông Nghiệp, Việt cộng đă dùng đảng viên xúi giục một số nông dân, nhất là bần nông làm tá điền, gán cho những thửa ruộng mà họ cày cấy có một năng suất rất cao, khiến cho người chủ đất phải trả một số thuế nhiều khi tới 100% hoặc trên 100% số thu hoạch.

    Người chủ đất nạn nhân chỉ có hai sự lựa chọn, hoặc chịu đầu hàng bằng cách hiến đất cho Đảng và Nhà nước (lúc đó c̣n mệnh danh là "Chính quyền Kháng chiến"), hoặc ỳ ra đấy v́ không đủ sức nộp thuế theo đúng sự đ̣i hỏi của Chính sách Thuế Nông nghiệp. Bằng cách thứ hai, họ đă tự kết bản án cho ḿnh trong Giai đoạn Đấu tranh Chính trị mà Việt cộng gọi là "phát động quần chúng đấu tranh chống phản động".


    Trong giai đoạn "phát động quần chúng đấu tranh chống phản động", Đảng Cộng sản nhắm vào ba mục đích chính yếu.

    * Mục đích thứ nhất là Đảng dùng bạo lực của quần chúng để đánh quỵ bớt một số phần tử lừng khừng chống đối nguy hiểm, trong đó có một số địa chủ, nhưng Đảng chưa để lộ kế hoạch đấu tranh giai cấp hạ địa chủ. Tất cả những phần tử bất măn với chính sách của Đảng, nhất là chính sách Nông nghiệp đều bị quy cho tội "phản động", "thông với giặc".

    * Mục đích thứ hai là Đảng chuẩn bị kỹ thuật đấu tranh bạo lực, luyện tập cho cán bộ quen với các kỹ thuật xâm nhập. khai thác mâu thuẫn, đấu tranh bạo động dành cho cuộc Cải cách Ruộng đất.

    * Mục đích thứ ba là Đảng muốn vơ vét dân công và tân binh, đồng thời làm áp lực thu thuế Nông nghiệp. Đảng đă đạt được mục đích này v́ nhiều người bở vía trước cuộc đấu tranh bạo lực đă xung phong đi dân công hoặc đi tân binh, giúp Đảng giải quyết được nhu cầu cấp bách của chiến tranh.

    Cuộc "phát động quần chúng đấu tranh chống phản động" đă lấy đề tài Thuế Nông nghiệp và Đảng muốn nhóm họp Đại hội Nông dân để nêu câu hỏi: "Tại sao có người chưa thanh toán thuế?".

    Anh Nguyễn Văn Thân, một hồi chánh viên, đă kể lại một cách tóm lược nội dung một buổi Đại hội Nông dân như sau:

    "Chủ tọa của buổi họp là những phần tử nông dân cốt cán, nghĩa là đảng viên hoặc cảm t́nh viên, và họ đă nắm trong tay một danh sách những phần tử cần phải triệt hạ. Khi nêu câu hỏi về việc thiếu thuế Nông nghiệp, chủ tọa đoàn kêu tên một người thiếu thuế và ra lệnh du kích trói nạn nhân lại, treo lên, rồi dùng cực h́nh tra tấn, đánh đập, mớm cung để nạn nhân khai tội "chủ mưu xúi giục" cho những người có tên trong danh sách có sẵn, tức là sổ đen của Đảng. Nhờ kỹ thuật này, Đảng đă bắt đầu bằng một người thiếu thuế Nông nghiệp mà kết tội những phần tử đối lập chính trị nằm trong sổ đen, không nhất thiết phải là những người thiếu thuế. Và, tất cả những tội nhân, sau khi bị đánh đập tra tấn theo kỹ thuật mớm cung, lần lượt từ người này chuyền lan tội lỗi sang người khác, họ bị giam giữ để chờ ngày ra Ṭa án Quân sự Tỉnh".

    Tóm lại, một nông dân thiếu thuế Nông nghiệp được dùng làm đầu nối để triệt hạ những kẻ đối lập bị Việt cộng mệnh danh là "việt gian", "phản động" hay "theo Tây". Đó là điểm mấu chốt của phong trào "phát động quần chúng đấu tranh chống phản động".

    Cuộc "đấu tranh chống phản động" được phát động vào khoảng cuối năm 1952, đầu năm 1953, đă làm nông thôn kinh hoàng nghẹt thở. Và kế tiếp theo đó, Đảng cho phát động "đấu tranh giảm tô" vào khoảng tháng 4 năm 1953.



    C̣n tiếp...

  9. #59
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    III. Đấu Tranh Giảm Tô

    Cuộc "phóng tay phát động quần chúng đấu tranh giảm tô giảm tức" là cuộc thí nghiệm thực sự của kỹ thuật Cải cách Ruộng đất theo phương pháp Cộng sản.

    Để phát động đấu tranh, Đảng tổ chức những "Đội đấu tố", gồm những cán bộ đă được Trung Cộng huấn luyện, và gửi họ xâm nhập vào làng. Những "Đội đấu tố", này về sau trở thành các "Đội Cải cách Ruộng đất", đă giả dạng làm nông dân và được các Uỷ ban Hành chánh làng, xă giới thiệu tới cư ngụ tại những gia đ́nh nghèo nhất trong xă.

    Các Đội này áp dụng một kỹ thuật tâm lư chiến rất tinh vi để mua chuộc cảm t́nh những gia đ́nh nông dân nghèo nơi họ cư ngụ, đó là kỹ thuật tam cùng: cùng ăn (góp phần ăn chung), cùng ở (cùng ở chung một nhà) và cùng làm (mà không lấy công). Đây là giai đoạn chuẩn bị đấu tranh, một giai đoạn quan trọng nhất, gồm ba mục tiêu:

    - Mua chuộc t́nh cảm nông dân nghèo.
    - Gây căm thù giữa các nông dân nghèo đối với địa chủ và xúi giục họ đấu tranh.
    - Điều tra tỉ mỉ các gia đ́nh khác trong làng, xă.

    Kỹ thuật "tam cùng" này rất thành công. Sau khi đă chịu sống cực khổ với bần nông, giúp đỡ tận t́nh trong mọi công việc, mua chuộc được cảm t́nh của bần nông, "cán bộ tam cùng" bắt đầu rỉ rả nhồi sọ, tuyên truyền cho bần nông căm thù địa chủ là chính địa chủ đă gây nên cảnh cùng khổ cho họ. Sau khi gây được căm thù, cán bộ tam cùng phải thuyết phục bần nông đứng lên đấu tranh tiêu diệt địa chủ.

    Khi đă thuyết phục được một bần nông chịu đứng lên đấu tranh với địa chủ, cán bộ gọi là đă "xây dựng được một rễ". Một "rễ" phải ưu tiên là một thân nhân gần nhất của địa chủ có tội, chẳng hạn như là vợ bé, con gái, con nuôi, hoặc gia nhân,... v́ trong trường hợp như vậy, những lời tố cáo (vu oan giá họa) của "rễ" đối với địa chủ sẽ gây được xúc động tâm lư mạnh mẽ hơn.. Nếu không t́m được người có liên hệ gần với địa chủ th́ phải t́m người có liên hệ xa, và nếu cùng quá không t́m được người có liên hệ xa gần th́ mới phải t́m người ngoài để "xây dựng rễ".

    Khi đă xây dựng được một rễ, lại có thể móc nối thêm các rễ khác làm thành một "chuỗi rễ". Trong trường hợp cán bộ không thuyết phục được một "rễ" thuận ư đấu tranh với địa chủ, cán bộ nói là "gặp phải rễ thối". Sau bao nhiêu công lao "tam cùng", họ lại phải đi t́m một "rễ" khác.

    Anh Nguyễn Văn Thân, và một số nhân chứng hồi chánh viên khác, đă kể lại những mẩu giai thoại bi hài về "Đấu tranh Giảm tô" như:


    ".... Cảnh sống tam cùng đă đưa đến nhiều bi-hài kịch: Có khi đội viên là một chàng trai mà gia đ́nh bần cố lại có con gái lớn nên chuyện hủ hóa đă xảy ra; hoặc giả khi người nghèo khổ nhất làng lại là một bà cụ già bị bệnh thần kinh, ăn nói bất nhất, hoặc một người có lương tâm tốt nên dù đội viên Cải cách Ruộng đất có cố gắng đến mấy, họ cũng không thể hoặc không chịu đứng ra tố người địa chủ, nhất là khi họ đă từng chịu ơn của người địa chủ đó. V́ vậy mới có danh từ "rễ thối" để chỉ các loại này...".
    Sau khi đă chuẩn bị xong các nhân vật chính trong cuộc đấu giảm tô, các Đội Cải cách Ruộng đất mới ra mắt công khai tại làng, xă, và lập tức, các cơ cấu tổ chức cũ như Uỷ ban Hành chánh Xă v.v... đều bị giải tán để giao quyền hành lại cho Đội và những phần tử cốt cán đảm nhiệm. Làng xă lúc đó lập tức bị phong tỏa, chỉ riêng Đội Cải cách có thể liên lạc bằng đường dây điện thoại với trung ương hoặc cấp trên của họ là Đoàn Cải cách Ruộng đất. Các địa chủ liền bị cô lập, giam lỏng hoặc bị quản chế thực sự, tài sản của họ bị niêm phong.

    Tất cả gia đ́nh của địa chủ cũng bị cô lập, bị khủng bố tinh thần, bị nhục mạ, trẻ con được xúi giục ném đá, đánh đập gia đ́nh địa chủ mà họ không có quyền phản ứng lại, người lớn được quyền chửi bới gia đ́nh địa chủ mỗi khi gặp mặt. Chẳng những gia đ́nh địa chủ lâm vào cảnh cùng đường, mà thân nhân, bạn bè cũng bị đẩy vào tuyệt lộ. Những người này, nếu c̣n giữ cảm t́nh với gia đ́nh địa chủ, t́m cách ngấm ngầm giúp đỡ hoặc bênh vực địa chủ mà bị Đội Cải cách phát giác là sẽ bị ghép vào tội "Liên quan phản động".

    Phần chính của tấn kịch Đấu Giảm tô là phần "Thoái Tô", "Đấu Địa Chủ" và "Xử án Địa chủ".

    Ta biết rằng việc giảm tô đă được "Chính quyền Kháng chiến" quy định bằng một sắc lệnh số 78/SL ngày 14 tháng 7 năm 1949 ấn định một mức chung là giảm đi 25%. Điều này có nghĩa là ưu đăi các tá điền và theo luật mới, địa chủ phải giảm bớt số lời ("địa tô") đánh trên tá điền.

    V́ lề lối làm việc luộm thuộm ở nông thôn, khi địa chủ giảm tô cho tá điền chẳng hề có việc ghi biên lai làm bằng chứng. V́ thế, 4 năm sau, khi có phong trào Đấu Giảm tô, địa chủ bị coi như không hề giảm tô cho tá điền theo như sắc lệnh, và Đội Cải cách hướng dẫn tá điền "khai nợ" để đ̣i địa chủ phải "Thoái tô" cho tá điền, nghĩa là hoàn trả cho tá điền số địa tô thặng dư mà địa chủ đă lấy một cách trái phép (theo sự "mớm cung" của cán bộ Cải cách và sự khai gian của tá điền). Số nợ "thoái tô" này nhiều hay ít là do Đội ấn định trước, tùy theo số tài sản, nữ trang của địa chủ mà "Đội" đă điều tra biết được.

    Sau khi "xây dựng" xong "chuỗi rễ" và trước khi địa chủ bị đem ra tố khổ, đội viên Cải cách phải nhồi sọ "chuỗi rễ" qua một khóa học về "Tội ác của địa chủ", dạy họ cách nói, cách kể tội... với những bằng chứng ngụy tạo, như lời anh Nguyễn Văn Thân thuật lại dưới đây:


    ".... Chủ yếu là dạy họ tả chân với những chứng tích cụ thể (nhưng gian trá) để làm xúc động quần chúng. Thí dụ như một cái sẹo cũ bị ngă từ hồi c̣n bé sẽ được tŕnh bày là vết dao chém của địa chủ ác ôn, hoặc cặp mắt bị kèm nhèm, mù ḷa v́ bệnh đau mắt hột hay lông quặm (trichiasis) sẽ dùng để tố là địa chủ ác ôn bắt thức khuya, dậy sớm chăn heo, nuôi gà, không cho ngủ.... Hoặc nếu một bà lăo rụng tóc hết v́ già hay v́ bệnh hoạn th́ sẽ dùng chứng tích này để tố địa chủ nắm tóc giựt, đánh đập.... Nếu là phụ nữ th́ sẽ tố rằng bị địa chủ hiếp dâm hàng trăm lần v.v...".
    Sau khi lập xong "bản tội ác" của từng địa chủ, các đội viên Cải cách bắt đầu tập dượt các "chuỗi rễ" cho thuần thục về "Cách tố khổ địa chủ trước quần chúng", y như như công việc của Đạo diễn và Diễn viên trước khi tŕnh diễn. Họ phải học tập từ cách ăn nói, tới điệu bộ... trước một h́nh nộm địa chủ. Tiếp đó, Đội Cải cách mới công bố "Ngày đấu tố".

    ".... Trong thời gian này, dân làng rất sợ sệt và ngoan ngoăn, nhất là các thành phần trung nông và phú nông, bảo họp là họ đi họp, bảo khóc là họ khóc, bởi ai cũng sợ bị "nâng" lên thành phần địa chủ. Đại hội họp mấy đêm liền, mỗi đêm sẽ có một "rễ" chính lên tố khổ kể tội địa chủ với sự phụ họa của một vài "rễ" phụ. Đại hội này được gọi là "ôn nghèo kể khổ". Trước khi lập báo cáo, Đại hội được xem tŕnh chiếu phim "Bạch Mao Nữ" (một nhân vật với cốt truyện của Trung Quốc). Truyện phim nói về một cô gái đi ở cho địa chủ, sau bị tên này hiếp dâm, áp bức, hành hạ, nên cô ta phải trốn lên núi theo "Cách Mạng" cho đến khi Đội Cải cách Ruộng đất về làng, cô mới trở lại th́ tóc cô đă bạc trắng.
    "Ảnh hưởng của cuốn phim đă tác động sâu đậm trong tâm lư quần chúng nông thôn chất phác. Họ đă xúc động, khóc thật sự trước cảnh dă man, tàn ác của tên địa chủ trong phim ảnh vừa chiếu th́, ngay sau đó, Đội Cải cách liền đưa các "rễ" ra tŕnh diện nông dân và kể khổ. Thế là khí thế sắt máu của giai cấp bần cố nông nổi dậy theo tiếng khóc, tiếng kể lể của các "rễ", đă được Đội cho học tập từ trước. Khí thế ghê rợn đó đi từ việc hô các khẩu hiệu "đả đảo địa chủ cường hào" đến việc kư tên vào quyết nghị xin xử tử hoặc kết án tù tên địa chủ cường hào đó. Thư kư Đội Cải cách sẽ lập biên bản phiên Đại hội, lập báo cáo điển h́nh và tŕnh lên Đoàn Uỷ duyệt lại để xin quyết định của Trung ương. Mấy hôm sau, Đoàn gửi công văn xuống chỉ thị rằng Trung ương đồng ư với bản án của... toàn dân đưa ra.

    "Sau đó là việc tổ chức "Pháp trường đấu". Các đội viên Đội Cải cách Ruộng đất sẽ không tham dự nữa mà phải xây dựng (huấn luyện, nhồi sọ) cho các gia đ́nh bần cố "chuỗi rễ" làm việc đấu tố, và lập Ṭa án nhân dân, gồm có: Chủ tịch đoàn và các Uỷ viên Hội đồng Ṭa án là các thành phần "chuỗi rễ" đă được các đội viên "xây dựng", không có Luật sư bào chữa cho bị can, có Đoàn Uỷ và chính quyền địa phương tham dự. Bị can là các địa chủ cường hào đă bị giam từ trước và đến khi đó, bị giải ra "đấu trường" tại sân đ́nh hay sân trường làng, toàn thể dân làng đều phải có mặt và tập trung theo thành phần để tham dự. Trong phiên đấu này, các "chuỗi rễ" đă được huấn luyện cũng lại đứng ra kể tội, tố một cách tóm tắt hơn, và sau đó, v́ không có Luật sư nên "Ṭa" cho phép "bị can" tự bào chữa; tuy có h́nh thức "dân chủ" như thế, nhưng thực ra, bị can chỉ c̣n cách cúi đầu nhận tội, nếu người nào ngoan cố không nhận, hoặc nói sai ư của Chủ tịch đoàn th́ lập tức Chủ tịch đoàn hô khẩu hiệu đả đảo và nông dân tham dự ở dưới hô theo để áp đảo tinh thần bị can và cấm không cho bị can nói tiếp. Sau đó, Chủ tịch đoàn chỉ việc tuyên án bị can theo một bản án đă do Trung ương định sẵn".

    Đoạn dưới đây thuật lại một cuộc đấu tố với những tội nhân điển h́nh tại Xóm Chuối, tỉnh Ninh B́nh, khi Đội Cải cách về làng và anh Nguyễn Văn Thân được cử làm Thư kư Đội:

    ".... Đoàn tôi về thi hành chính sách tại Ninh B́nh. Đoàn trưởng là anh Thu, đă từng là Chính uỷ Trung đoàn và lúc đó đang làm Tỉnh uỷ viên. Tôi thuộc Đội 6. Đội trưởng là chị Văn, lúc đó mới 20 tuổi, mồ côi, đi ở đợ cho địa chủ từ nhỏ và đă tham gia Cải cách Ruộng đất các đợt 1, 2, 3 và 4 với tư cách "rễ". Đợt này là đợt thứ 5 chị được đề cử làm Đội trưởng. Về văn hoá, chị chỉ biết kư tên mà thôi, nhờ chúng tôi dạy cho chị. Đội chúng tôi được cử về Xóm Chuối, tỉnh Ninh B́nh. Xóm này rất nghèo, số gia đ́nh có khoảng trên 100, và thực tế th́ chúng tôi chỉ thấy có 3 gia đ́nh tạm gọi là khá giả, nghĩa là có từ 10 đến 15 mẫu ruộng, có ao, có vườn. Thứ nhất là gia đ́nh ông Quản Năm, có con là Thiếu tá Trung đoàn phó 3/14, có 15 mẫu ruộng, con cháu đông nên chỉ mướn 3 anh tá điền làm công. Chúng tôi về "xây dựng" 3 anh này để đứng ra tố ông Quản Năm, nhưng 3 anh không chịu, nên sau phải vận động cô cháu họ của ông cụ tên là Min đứng ra đấu. Gia đ́nh thứ hai có 10 mẫu ruộng, nhưng lại giao cho người cháu quản lư, c̣n chính gia chủ lại đi buôn bán ở thị xă Hà Nam, có con đi bộ đội chết (tử sĩ); sau, người cháu sợ bị ghép tội "Liên quan phản động" nên đứng ra đấu tố gia đ́nh ông này. Gia đ́nh thứ ba là gia đ́nh bà Quản Hảo, một thành phần địa chủ mới giàu do công khó làm ăn v́ ruộng đất toàn do con cái tự canh tác, không mượn người. Đội tôi đưa cháu gái đứng ra tố bà cô.
    "Sau khi t́m được ba địa chủ, xây dựng được "chuỗi rễ", Đội tôi làm báo cáo điển h́nh về Đoàn xin duyệt y, nhưng Đoàn không chấp nhận v́ chưa đạt tiêu chuẩn tỷ lệ là 5% và Đội tôi phải "cố" làm sao để nâng số gia đ́nh địa chủ lên 5 người. Làm đi làm lại, Đội tôi đành chịu thua nên Đoàn phải cử một anh cố vấn tên Thanh về để giúp giải quyết. Anh Thanh này có thành tích chuyên môn phát hiện địa chủ; nên sau khi có sự giúp đỡ của anh ta, chúng tôi có thêm hai gia đ́nh địa chủ nữa để đấu tố. Hai gia đ́nh này chỉ có một hai mẫu ruộng, nhưng có xe đạp, có con đi học ở Hà Nội, và nhất là một trong hai gia đ́nh địa chủ có lần đi lính cho Pháp trước rồi sau về làm Phó lư tên gọi là Phó Hội Kha.

    "Khi đă xây dựng đủ số 5 gia đ́nh cường hào địa chủ, chúng tôi lập báo cáo và khi đó Đoàn mới duyệt phương án và đ̣i phải có ít ra là 2 cường hào ác bá phải bị xử tử. Chúng tôi định đưa bà Phó Hội Kha ra làm vật hy sinh v́ ông chồng bà trước kia đi lính cho Pháp và làm Phó lư, tuy nay đă chết, nhưng nợ máu vẫn c̣n và bà vợ phải trả. Nhưng, bà Phó Hội Kha nghe được tin này đă thắt cổ tự tử trước khi bị chúng tôi đưa ra đấu trường. Tuy vậy, khi lập Ṭa án Nhân dân, bà Phó Hội Kha vẫn bị xử khuyết tịch và bị tịch biên gia sản để trả lại cho nông dân.

    "Riêng tôi được phân công "bắt rễ" với một bà 55 tuổi, không con, có họ với ông Quản Năm. Bà này bị bệnh thần kinh nhẹ. Tôi đă phải áp dụng kỹ thuật "tam cùng" thật là khổ sở: ăn đói, ngủ thiếu, làm khổ, nên trong thời gian này, tôi bị sút năm, sáu Kí-lô, và điều nản nữa là bà này lại là một "rễ thối", nghĩa là bà ta chẳng nói, chẳng hiểu và chẳng làm ǵ cả. Sau, tôi phải bỏ lờ bà ta để t́m một "rễ" khác để xây dựng, đó là anh Thà, một thanh niên tá điền, cờ bạc, rượu chè nên rất căm thù ông Quản Năm. Rồi cô cháu họ của ông Năm, tức chị Min, tố bị ông hiếp tất cả 17 lần.... Mặc dù các gia đ́nh này có con là bộ đội cũng vẫn bị tố như thường, mà khi con về c̣n bị Đội Cải cách bắt v́ nghi là về liên lạc với địa chủ...".

    Tóm lại, "Đấu giảm tô" chính là một giai đoạn thực tập thí nghiệm cho chiến dịch "Đấu tranh Cải cách Ruộng đất". Phong trào Đấu giảm tô đă thực sự sử dụng đến bạo lực của nông dân, đă thực sự gây chém giết, đổ máu và tỏ ra thành công hơn giai đoạn "Đấu tranh chống phản động" nhờ đă rút tỉa được nhiều kinh nghiệm hơn. Trong giai đoạn đấu tranh chống phản động, qua kỹ thuật "mớm cung" theo dây chuyền, nhiều nạn nhân đă khai lung tung ra ngoài sự dự liệu của cán bộ Đảng khiến cho Đảng không nắm vững được phong trào. Trong giai đoạn đấu tranh giảm tô, những người đứng ra tố cáo đă được cán bộ huấn luyện, giáo dục, nhồi sọ và chuẩn bị rất kỹ lưỡng tới mức hoàn hảo.

    Một điểm rất quan trọng đáng lưu ư ở đây là quy tắc kích tỷ lệ. Đảng đă nhắm đến trong giai đoạn đấu tranh giảm tô là không phải chỉ riêng địa chủ mới bị xử tử mà cà những người có một, hai mẫu ruộng cũng phải lănh những phát đạn kết liễu cuộc đời, v́ bị kết vào những tội phản động, phản quốc, thông đồng với giặc Pháp v.v.... Làm như vậy, Đảng đă gián tiếp cảnh cáo những phần tử phú nông và trung nông khác phải coi chừng, đừng có nho nhoe chống đối.

    Cuộc Đấu tranh Giảm Tô đă kéo dài tới đầu năm 1954 th́ tạm thời được ngưng lại khi Chiến trường Điện Biên Phủ đi vào giai đoạn nghiêm trọng và quyết định.

    Nói tóm lại, cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại miền Bắc bắt đầu vào năm 1951 với chính sách Thuế Nông Nghiệp, trùng hợp với giai đoạn Tổng Phản Công trên phương diện quân sự với các trận đánh lớn như Trận Vĩnh Yên (khai diễn ngày 13 tháng 1, 1951), Trận Mao Khê (khai diễn đêm 23 rạng ngày 24 tháng 3) và Trận Sông Đáy (khai diễn ngày 29 tháng 5). Sự trùng hợp này giải thích nhu cầu cấp bách trên ba phương diện:

    - Động viên nhân lực và tài lực cho chiến tranh.
    - Đánh gục các thành phần Quốc gia yêu nước nhưng không ủng hộ Việt cộng dưới danh hiệu Việt Minh.
    - Chuẩn bị đánh gục các thành phần Quốc gia yêu nước đang tham gia cuộc Kháng Chiến Chống Pháp, nhưng có thể trở thành chống lại Việt cộng khi Kháng Chiến thành công.

    Sự chuẩn bị này dành cho giai đoạn sắt máu sắp tới, mà ta sẽ nghiên cứu trong bài báo kế tiếp; trong đó, các câu hỏi sau đây sẽ được giải đáp:

    - Việt cộng làm cách nào tiêu diệt các thành phần Quốc gia yêu nước tham gia Kháng Chiến?
    - Nhân dân có thái độ như thế nào để chống lại các hành động gian ác của Việt cộng?
    - Việt cộng dùng thủ đoạn ǵ để đối phó với phản ứng của nhân dân?



    C̣n tiếp...

  10. #60
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Giai đoạn đấu tranh sắt máu sau 1954

    Trận Điện Biên Phủ và Hiệp Định Geneve 1954 là hai biến cố chính khiến cho chiến dịch Đấu Tranh Giảm Tô được tạm ngưng.

    Mặc dầu sau Hiệp Định Genève, Việt cộng hoàn toàn làm chủ miền Bắc trong một khí thế đầy phấn khởi, bộ đội Việt cộng về thủ đô với một vinh dự chiến thắng, nhưng Hồ Chí Minh và giới đầu lănh Hà Nội phải đối phó với nhiều vấn đề cấp bách:

    * Phong trào di cư của gần một triệu đồng bào miền Bắc bỏ trốn cộng sản vào Nam,

    * Việc tập kết khoảng 50 ngàn bộ đội và cán bộ cộng sản từ Nam ra Bắc tạo nên nhu cầu ổn định tâm lư quần chúng cũng như củng cố an ninh.

    Do đó, Việt cộng đă dành một thời gian khoảng một năm để chấn chỉnh t́nh h́nh nội bộ và chuẩn bị làm nốt phần tối quan trọng của Cải Cách Ruộng Đất để bắt đầu công việc xây dựng cơ sở vật chất cho công cuộc xâm lược miền Nam.

    Trong phạm vi bài này ta sẽ đi vào các phần chính sau đây:

    - Giai đọan đấu tranh đẫm máu
    - Phản ứng của nhân dân đưa đến quyết định sửa sai
    - Cuộc đấu tranh tiếp theo của nhân dân miền Bắc
    - Những đặc điểm điển h́nh của giai đoạn Cải Cách Ruộng Đất 1951-1956 đưa đến chiến dịch sửa sai.

    C̣n tiếp...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 11-09-2014, 07:09 AM
  2. Kiểu Cách hành xử cấp lănh đạo CHXHCNVN
    By alamit in forum Tin Việt Nam
    Replies: 83
    Last Post: 05-03-2013, 03:20 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 03-08-2011, 08:56 PM
  4. Replies: 13
    Last Post: 18-03-2011, 10:31 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •