Cải Cách Ruộng Đất ( tiếp theo ...)
Xây Dựng Lực Lượng Để
Chuẩn Bị Xâm Chiếm Miền Nam
Ngày 21-7-1954, trong buổi họp kết thúc hội nghị Genève, Phạm Văn Đồng tuyên bố sẽ đạt tới thống nhất như đă chiến thắng nước Pháp. Ngày hôm sau, 22-7-1954, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh sự quyết tâm này bằng cách công khai kêu gọi nhân dân miền Bắc đấu tranh gian khổ và trường kỳ để chiếm cho được miền Nam, mà họ Hồ gọi là "lănh thổ của chúng ta". Để có thể chiếm được miềnNam, Việt cộng phải củng cố ách thống trị trên miền Bắc, một công việc mà Hồ Chí Minh gọi là "Xây Dựng Xă Hội Chủ Nghĩa".
Sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất, Việt cộng đă đoàn ngũ hóa được khối nhân lực ở nông thôn. Đồng thời cuộc cải tạo tư bản tư doanh, đưa đến công tư hợp doanh, và biến thành quốc doanh cùng hợp tác hóa nông nghiệp, đăng kư hộ khẩu giúp nhà nước cộng sản đoàn ngũ hóa được khối nhân lực thành thị. Tổng cộng trong những năm sau đó, Việt cộng đă động viên được một khối nhân lực lao động lên tới 9.600.000 người dưới sự lănh đạo sản xuất của nhà nước. Họ làm đêm làm ngày, tăng gia sản xuất, "một người làm việc bằng hai" để tăng cường củng cố sức mạnh của chế độc và chuẩn bị xâm chiếm miềnNam. Tất cả các nỗ lực của miềnBắc đều dồn vào việc thực hiện hai mục tiêu trên.
Tháng 2 năm 1957, Việt cộng triệu tập Đại Hội Trung Ương Đảng Lao Động khóa 12 để thông qua kế hoạch nhà nước năm 1957, và để tăng cường quốc pḥng.
Tháng 4 năm 1960, quốc hội bù nh́n Việt cộng thông qua đạo luật động viên thanh niên miền Bắc mà Việt cộng gọi là đạo luật về Nghĩa Vụ Quân Sự.
Đó là những nét đại cương về đường lối chính sách trên phương diện quân sự. Nh́n lại thực tế th́, vào thời điểm 1955 sau khi chiếm được miềnBắc, cuộc chiến tranh chống Pháp đă để lại cho Việt cộng một quân đội tuy háo chiến nhưng c̣n yếu kém về tổ chức và kỹ thuật hiện đại. Muốn xâm lăng miềnNam, Việt cộng cần cải tổ lại quân đội đó. Công tác này được gọi là "công cuộc xây dựng quân đội chính quy miền Bắc" mà ta sẽ nói ở phần sau. Nhưng công tác này không đ̣i hỏi nhiều th́ giờ cho bằng công tác xây dựng kinh tế miềnBắc, v́ muốn vơ vét nhân lực miền Bắc, cộng sản đă lợi dụng luôn lực lượng quân đội làm cái khung cho công việc sản xuất, và chuẩn bị các cơ sở có tính cách phục vụ cho một cuộc chiến tranh lâu dài. Với ư niệm trên, trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu 3 chủ đề chính:
- Tổng Biên Chế quân đội miền Bắc..
- Xây dựng các công tŕnh sản xuất chiến lược, cơ sở quân sự và xa lộ chiến lược.
- Xây dựng lực lượng chính quy Việt cộng trong đó có công tác hiện đại và công tác chính trị hóa quân đội.
I. Tổng Biên Chế Quân Đội Miền Bắc
Năm 1956 Phạm Văn Đồng "đệ tŕnh" lên quốc hội bù nh́n Việt cộng dự luật "Giảm Trừ Quân Bị". Nguyễn Ngọc Mai, một hồi chánh viên thuật lại:
"Theo dự luật này, Việt cộng nói rằng sẽ giảm bớt 80.000 bộ đội chính quy, và tuyên truyền ầm lên rằng miền Nam vi phạm hiệp định Geneve, không chịu Hiệp Thương Tổng Tuyển Cử".
Thực chất của vấn đề là Việt cộng miền Bắc dùng dự luật Giảm Trừ Quân Bị làm b́nh phong cho chính sách Tổng Biên Chế Quân Đội Miền Bắc.
Danh từ Tổng Biên Chế có nghĩa là chuyển một cách quy mô số 80.000 quân đội từ công tác chiến đấu sang công tác sản xuất mà vẫn duy tŕ khả năng vơ trang. Danh từ Tổng Biên Chế khác với danh từ Phục Viên của Việt cộng dùng để chỉ việc giải ngũ quân đội cho họ trở thành thường dân. Phục viên có nghĩa là về vườn (mượn của Tàu).
Điểm chủ yếu của chính sách Tổng Biên Chế quân đội Miền Bắc là quân đội đóng vai tṛ chính trong mọi công tác sản xuất, làm thành phần tiên phong để xây dựng nhất là ngành công nghiệp và nông nghiệp. Sau chiến dịch sửa sai và ổn định t́nh h́nh chính trị, ổn định t́nh h́nh an ninh lănh thổ. Việt cộng đặt một kế hoạch ba năm (1957,1958,1959) ổn định kinh tế với mức yêu cầu là phải đạt được nền kinh tế 1939 (Việt cộng lấy tiêu chuẩn năng suất canh nông của năm 1939 là năm tấn mỗi hectare). Chính sách Tổng Biên Chế quân đội mang phần lớn nhân lực của quân đội Việt cộng ra thực hiện công tác phục hồi kinh tế và chỉ giữ lại một số quân thường trực để đáp ứng t́nh h́nh.
1. Sự lợi hại của chính sách Tổng Biên Chế
Chính sách Tổng Biên Chế đă giải quyết một lúc hai vấn đề gai góc:
* Thứ nhất là các đơn vị Miền Nam ra tập kết ngoài Bắc, sau công tác đàn áp di cư và Cải Cách Ruộng Đất, trở nên dư thừa và có nhiều bộ đội tập kết thất vọng v́ Hồ Chí Minh không thực hiện được sự thống nhất đất nước qua một cuộc tổng tuyển cử như đă hứa hẹn long trọng. Không thống nhất được đất nước, nghĩa là sau 2 năm xa cách miền Nam những bộ đội tập kết ra Bắc nh́n thấy hy vọng được phép về đoàn tụ với gia đ́nh trở nên quá mờ mịt. Trong 5 năm hay 10 năm, chưa chắc đă gặp lại thân nhân c̣n ở lại miền Nam, việc "hội nhập" một số đông đảo thanh niên gốc miền Nam ở đất Bắc là một vấn đề khó khăn, gây nhiều áp lực tâm lư trên tập thể này.
Đề ra chính sách Tổng Biên Chế, Việt cộng hứa hẹn sẽ xây dựng gia đ́nh cho các anh em bộ đội tập kết bằng cách đưa anh em đi khai phá miền thượng du lập nông trường, nơi mà nhà nước gọi là "quê hương mới". Khi đă đưa anh em tới nơi khai phá nông trường, một mặt nhà nước hứa hẹn xây dựng vợ con cho bộ đội, một mặt ra lệnh cho Tỉnh uỷ địa phương tuyển mộ những thiếu nữ địa phương từ 18 tới 25 tuổi vào làm công nhân trong nông trường. Các nữ công nhân này khi đă vào trong nông trường mới biết rằng ḿnh không được phép ra khỏi nông trường, v́ lệnh trên truyền xuống là bất cứ nữ công nhân nào muốn ra nông trường phải có giấy phép của "chồng" .
Như vậy họ chỉ c̣n có cách lấy bộ đội tập kết chứ c̣n cách nào khác nữa!
T́nh trạng này đă đưa đến những sự mâu thuẫn giữa bộ đội tập kết và dân chúng địa phương, v́ trong số những nữ công nhân bị đưa vào nông trường, có nhiều người đă hứa hôn với thanh niên tại địa phương. Do đó nhiều thanh niên địa phương t́m đánh bộ đội tập kết v́ cho rằng các anh em tập kết đă chiếm đất lại c̣n chiếm cả vợ của họ nữa.
* Vấn đề gai góc thứ hai là tại Việt cộng có nhiều nơi ở đồng bằng dân cư quá đông, mà đất đai cằn cỗi không canh tác được, trong khi ở miền thượng du nhiều nơi đất c̣n nguyên mầu mỡ chưa được khai phá. Những người nông dân Việt Nam rất sợ nơi rừng thiêng nước độc, vả lại công việc phá rừng lấy đất trồng trọt là một công tác cực kỳ gian khổ. Đề ra chính sách Tổng Biên Chế quân đội, đảng và nhà nước có một lực lượng nhân công có sẵn tinh thần kỷ luật, chịu đựng gian khổ.
Có nhiều nông trường "quê hương mới" được bắt đầu thiết lập từ 1957-1958, mà quan trọng nhất phải kể nông trường Lam Sơn ở Thanh Hóa, nông trường Đồng Vàng ở Phú Thọ, nông trường Gỗ Cao-Bắc-Lạng (thuộc ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn và Lạng Sơn).
Tại nông trường Lam Sơn, chính sách Tổng Biên Chế sử dụng bộ đội của Sư đoàn 338 tập kết, mỗi tiểu đoàn lấy ra một đại đội xuất sắc. Sự gian khổ cực nhọc của công việc khai phá nông trường có khi c̣n vượt quá mức độ ở nông thôn, nơi giờ lao động hàng ngày là 12 giờ, từ 6 giờ sáng tới 6 giờ tối. Một cán binh tập kết thuộc Sư đoàn 338 đă phải phục vụ tại nông trường Lam Sơn 3 năm từ 1958 đến 1961, kể lại nỗi gian khổ và công tŕnh trồng cà phê, cao su:
"Công việc khai thác rừng để thành lập nông trường là một công tác cực nhọc vô biên, không tả xiết. Từ nhỏ đến lớn, chưa bao giờ tôi phải làm cực nhọc như thế. Nông trường lấy tên là nông trường Lam Sơn tại huyện Ḥa Lạc, tỉnh Thanh Hóa, quê hương vua Lê Lợi. Chúng tôi đến đây phá rừng để trồng cà phê, cao su và chăn nuôi trâu ḅ gà vịt. Chiến sĩ lúc này trở thành một tên cu-li, đầu đội nón lá tay cầm rựa suốt ngày đi chặt cây đốt rừng, cuốc đất v.v.... Nắng cháy da thịt. Chúng tôi có cảm tưởng như tù khổ sai bị đầy ải..." (Nguyễn Văn Hoài).
Ngoài Sư đoàn 338 tập kết, tại Nông trường Lam Sơn c̣n có nhiều đơn vị khác nữa v́ tổng số bộ đội tập kết tại đây là 39 đại đội, mỗi đại đội phụ trách một khu rừng và được tăng cường thêm một số công nhân địa phương.
"Đời sống anh em ḿnh ngày Bắc đêm Nam" đó là câu nói thường xuyên của các anh em tập kết, có nghĩa là ban ngày gian lao khổ cực không c̣n th́ giờ suy nghĩ nhưng đêm xuống là tâm hồn bộ đội tập kết đều hướng về miền Nam nơi gia đ́nh thân yêu đương sống.
Tại nông trường Đồng Vàng, Phú Thọ, bộ đội tập kết được tổng biên chế để khai khẩn nông trường trồng trà và cà phê. Thượng uư Đặng Anh Kiến thuộc Trung đoàn tập kết 96 từ An Khê ra Bắc và hoạt động tại nông trường Đồng Vàng, cho biết hai phần ba trung đoàn và cơ quan Trung đoàn Bộ được đưa tới nông trường:
"...Lúc mới đầu tuy sản xuất nhưng vẫn giữ nguyên cách thức tổ chức và điều hành của quân đội, nhưng về sau, khi nông trường đă hoạt động đều, h́nh thức quân đội được xoá bỏ. Anh em bộ đội biến thành công nhân của nông trường, trực thuộc Bộ Nông Trường. Nghĩa là họ chính thức thành công nhân, họ ăn lương theo cấp bậc công nhân nông trường chứ không c̣n ăn lương của quân đội nữa.... Trong thời gian khai phá nông trường Đồng Vàng (lúc ban đầu) chúng tôi vẫn ăn uống theo chế độ cung cấp của quân đội) 1 ngày là 0.70 đồng (tức là 21 đồng một tháng). Ngoài ra chúng tôi không được bồi dưỡng thêm ǵ cả. Có thể nói thời gian này mồ hôi chúng tôi đổ rất nhiều..."
"... Sau khi các nông trường đă hoàn chỉnh, nghĩa là các nông trường đă bắt đầu hoạt động th́ nhà nước đẩy các chị em phụ nữ chưa chồng vào các nông trường. Và sau đó, anh em bộ đội và chị em phụ nữ xây dựng với nhau thành những cặp vợ chồng. Trong tinh thần đó các nông trường dần dần lớn mạnh và trở thành những trung tâm kinh tế đông dân cư...".
Chính sách Tổng Biên Chế không phải chỉ đem quân đội vào nông trường, mà nói chung vào tất cả mọi ngành:
"Nông trường là ngành mà quân đội xây dựng đến 80% hay 90% Về công nghiệp (công trường) quân đội cũng chuyển ngành qua xây dựng, như khu công nghiệp Việt Tŕ là do Trung đoàn 108 thuộc Sư đoàn 305 xây dựng hoàn toàn, hoặc khu Liên Hợp Gang Thép Thái Nguyên là do Sư đoàn 316 xây dựng.... Hoặc công tác cải tạo tư bản tư doanh, công tư hợp doanh ở thành thị cũng đều do cán bộ quân đội đảm trách... "Có thể nói quân đội chiếm trên 90%.Ngay công an dân cảnh Hà Nội bây giờ, các hầm mỏ, cảng Hải Pḥng". (Đăng Anh Kiến).
Ngoài việc Tổng Biên Chế các đơn vị chiến đấu chính quy để làm công tác sản xuất, Việt cộng bắt bộ đội phải thi hành Lời Thề Thứ 5: "Quân đội làm tṛn trách nhiệm là chiến đấu và sản xuất" . V́ thế các đơn vị chủ lực của các tỉnh, hay các đơn vị công binh, cầu đường sống tại căn cứ, ít di chuyển cũng phải sản xuất để tự túc cung cấp lương thực một tháng mỗi năm. Các đơn vị này c̣n phải chăn nuôi thêm để trực tiếp cung cấp thịt ăn.
C̣n tiếp...
Bookmarks