Page 9 of 9 FirstFirst ... 56789
Results 81 to 88 of 88

Thread: Triển Lăm Cải Cách Ruộng Đất : Tưng Bừng Khai Trương , Âm Thầm Đóng Cửa

  1. #81
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Cải Cách Ruộng Đất ( tiếp theo ...)

    Xây Dựng Lực Lượng Để
    Chuẩn Bị Xâm Chiếm Miền Nam

    Ngày 21-7-1954, trong buổi họp kết thúc hội nghị Genève, Phạm Văn Đồng tuyên bố sẽ đạt tới thống nhất như đă chiến thắng nước Pháp. Ngày hôm sau, 22-7-1954, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh sự quyết tâm này bằng cách công khai kêu gọi nhân dân miền Bắc đấu tranh gian khổ và trường kỳ để chiếm cho được miền Nam, mà họ Hồ gọi là "lănh thổ của chúng ta". Để có thể chiếm được miềnNam, Việt cộng phải củng cố ách thống trị trên miền Bắc, một công việc mà Hồ Chí Minh gọi là "Xây Dựng Xă Hội Chủ Nghĩa".

    Sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất, Việt cộng đă đoàn ngũ hóa được khối nhân lực ở nông thôn. Đồng thời cuộc cải tạo tư bản tư doanh, đưa đến công tư hợp doanh, và biến thành quốc doanh cùng hợp tác hóa nông nghiệp, đăng kư hộ khẩu giúp nhà nước cộng sản đoàn ngũ hóa được khối nhân lực thành thị. Tổng cộng trong những năm sau đó, Việt cộng đă động viên được một khối nhân lực lao động lên tới 9.600.000 người dưới sự lănh đạo sản xuất của nhà nước. Họ làm đêm làm ngày, tăng gia sản xuất, "một người làm việc bằng hai" để tăng cường củng cố sức mạnh của chế độc và chuẩn bị xâm chiếm miềnNam. Tất cả các nỗ lực của miềnBắc đều dồn vào việc thực hiện hai mục tiêu trên.

    Tháng 2 năm 1957, Việt cộng triệu tập Đại Hội Trung Ương Đảng Lao Động khóa 12 để thông qua kế hoạch nhà nước năm 1957, và để tăng cường quốc pḥng.

    Tháng 4 năm 1960, quốc hội bù nh́n Việt cộng thông qua đạo luật động viên thanh niên miền Bắc mà Việt cộng gọi là đạo luật về Nghĩa Vụ Quân Sự.

    Đó là những nét đại cương về đường lối chính sách trên phương diện quân sự. Nh́n lại thực tế th́, vào thời điểm 1955 sau khi chiếm được miềnBắc, cuộc chiến tranh chống Pháp đă để lại cho Việt cộng một quân đội tuy háo chiến nhưng c̣n yếu kém về tổ chức và kỹ thuật hiện đại. Muốn xâm lăng miềnNam, Việt cộng cần cải tổ lại quân đội đó. Công tác này được gọi là "công cuộc xây dựng quân đội chính quy miền Bắc" mà ta sẽ nói ở phần sau. Nhưng công tác này không đ̣i hỏi nhiều th́ giờ cho bằng công tác xây dựng kinh tế miềnBắc, v́ muốn vơ vét nhân lực miền Bắc, cộng sản đă lợi dụng luôn lực lượng quân đội làm cái khung cho công việc sản xuất, và chuẩn bị các cơ sở có tính cách phục vụ cho một cuộc chiến tranh lâu dài. Với ư niệm trên, trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu 3 chủ đề chính:

    - Tổng Biên Chế quân đội miền Bắc..
    - Xây dựng các công tŕnh sản xuất chiến lược, cơ sở quân sự và xa lộ chiến lược.
    - Xây dựng lực lượng chính quy Việt cộng trong đó có công tác hiện đại và công tác chính trị hóa quân đội.

    I. Tổng Biên Chế Quân Đội Miền Bắc

    Năm 1956 Phạm Văn Đồng "đệ tŕnh" lên quốc hội bù nh́n Việt cộng dự luật "Giảm Trừ Quân Bị". Nguyễn Ngọc Mai, một hồi chánh viên thuật lại:

    "Theo dự luật này, Việt cộng nói rằng sẽ giảm bớt 80.000 bộ đội chính quy, và tuyên truyền ầm lên rằng miền Nam vi phạm hiệp định Geneve, không chịu Hiệp Thương Tổng Tuyển Cử".

    Thực chất của vấn đề là Việt cộng miền Bắc dùng dự luật Giảm Trừ Quân Bị làm b́nh phong cho chính sách Tổng Biên Chế Quân Đội Miền Bắc.

    Danh từ Tổng Biên Chế có nghĩa là chuyển một cách quy mô số 80.000 quân đội từ công tác chiến đấu sang công tác sản xuất mà vẫn duy tŕ khả năng vơ trang. Danh từ Tổng Biên Chế khác với danh từ Phục Viên của Việt cộng dùng để chỉ việc giải ngũ quân đội cho họ trở thành thường dân. Phục viên có nghĩa là về vườn (mượn của Tàu).

    Điểm chủ yếu của chính sách Tổng Biên Chế quân đội Miền Bắc là quân đội đóng vai tṛ chính trong mọi công tác sản xuất, làm thành phần tiên phong để xây dựng nhất là ngành công nghiệp và nông nghiệp. Sau chiến dịch sửa sai và ổn định t́nh h́nh chính trị, ổn định t́nh h́nh an ninh lănh thổ. Việt cộng đặt một kế hoạch ba năm (1957,1958,1959) ổn định kinh tế với mức yêu cầu là phải đạt được nền kinh tế 1939 (Việt cộng lấy tiêu chuẩn năng suất canh nông của năm 1939 là năm tấn mỗi hectare). Chính sách Tổng Biên Chế quân đội mang phần lớn nhân lực của quân đội Việt cộng ra thực hiện công tác phục hồi kinh tế và chỉ giữ lại một số quân thường trực để đáp ứng t́nh h́nh.


    1. Sự lợi hại của chính sách Tổng Biên Chế

    Chính sách Tổng Biên Chế đă giải quyết một lúc hai vấn đề gai góc:

    * Thứ nhất là các đơn vị Miền Nam ra tập kết ngoài Bắc, sau công tác đàn áp di cư và Cải Cách Ruộng Đất, trở nên dư thừa và có nhiều bộ đội tập kết thất vọng v́ Hồ Chí Minh không thực hiện được sự thống nhất đất nước qua một cuộc tổng tuyển cử như đă hứa hẹn long trọng. Không thống nhất được đất nước, nghĩa là sau 2 năm xa cách miền Nam những bộ đội tập kết ra Bắc nh́n thấy hy vọng được phép về đoàn tụ với gia đ́nh trở nên quá mờ mịt. Trong 5 năm hay 10 năm, chưa chắc đă gặp lại thân nhân c̣n ở lại miền Nam, việc "hội nhập" một số đông đảo thanh niên gốc miền Nam ở đất Bắc là một vấn đề khó khăn, gây nhiều áp lực tâm lư trên tập thể này.

    Đề ra chính sách Tổng Biên Chế, Việt cộng hứa hẹn sẽ xây dựng gia đ́nh cho các anh em bộ đội tập kết bằng cách đưa anh em đi khai phá miền thượng du lập nông trường, nơi mà nhà nước gọi là "quê hương mới". Khi đă đưa anh em tới nơi khai phá nông trường, một mặt nhà nước hứa hẹn xây dựng vợ con cho bộ đội, một mặt ra lệnh cho Tỉnh uỷ địa phương tuyển mộ những thiếu nữ địa phương từ 18 tới 25 tuổi vào làm công nhân trong nông trường. Các nữ công nhân này khi đă vào trong nông trường mới biết rằng ḿnh không được phép ra khỏi nông trường, v́ lệnh trên truyền xuống là bất cứ nữ công nhân nào muốn ra nông trường phải có giấy phép của "chồng" .

    Như vậy họ chỉ c̣n có cách lấy bộ đội tập kết chứ c̣n cách nào khác nữa!

    T́nh trạng này đă đưa đến những sự mâu thuẫn giữa bộ đội tập kết và dân chúng địa phương, v́ trong số những nữ công nhân bị đưa vào nông trường, có nhiều người đă hứa hôn với thanh niên tại địa phương. Do đó nhiều thanh niên địa phương t́m đánh bộ đội tập kết v́ cho rằng các anh em tập kết đă chiếm đất lại c̣n chiếm cả vợ của họ nữa.

    * Vấn đề gai góc thứ hai là tại Việt cộng có nhiều nơi ở đồng bằng dân cư quá đông, mà đất đai cằn cỗi không canh tác được, trong khi ở miền thượng du nhiều nơi đất c̣n nguyên mầu mỡ chưa được khai phá. Những người nông dân Việt Nam rất sợ nơi rừng thiêng nước độc, vả lại công việc phá rừng lấy đất trồng trọt là một công tác cực kỳ gian khổ. Đề ra chính sách Tổng Biên Chế quân đội, đảng và nhà nước có một lực lượng nhân công có sẵn tinh thần kỷ luật, chịu đựng gian khổ.

    Có nhiều nông trường "quê hương mới" được bắt đầu thiết lập từ 1957-1958, mà quan trọng nhất phải kể nông trường Lam Sơn ở Thanh Hóa, nông trường Đồng Vàng ở Phú Thọ, nông trường Gỗ Cao-Bắc-Lạng (thuộc ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn và Lạng Sơn).

    Tại nông trường Lam Sơn, chính sách Tổng Biên Chế sử dụng bộ đội của Sư đoàn 338 tập kết, mỗi tiểu đoàn lấy ra một đại đội xuất sắc. Sự gian khổ cực nhọc của công việc khai phá nông trường có khi c̣n vượt quá mức độ ở nông thôn, nơi giờ lao động hàng ngày là 12 giờ, từ 6 giờ sáng tới 6 giờ tối. Một cán binh tập kết thuộc Sư đoàn 338 đă phải phục vụ tại nông trường Lam Sơn 3 năm từ 1958 đến 1961, kể lại nỗi gian khổ và công tŕnh trồng cà phê, cao su:

    "Công việc khai thác rừng để thành lập nông trường là một công tác cực nhọc vô biên, không tả xiết. Từ nhỏ đến lớn, chưa bao giờ tôi phải làm cực nhọc như thế. Nông trường lấy tên là nông trường Lam Sơn tại huyện Ḥa Lạc, tỉnh Thanh Hóa, quê hương vua Lê Lợi. Chúng tôi đến đây phá rừng để trồng cà phê, cao su và chăn nuôi trâu ḅ gà vịt. Chiến sĩ lúc này trở thành một tên cu-li, đầu đội nón lá tay cầm rựa suốt ngày đi chặt cây đốt rừng, cuốc đất v.v.... Nắng cháy da thịt. Chúng tôi có cảm tưởng như tù khổ sai bị đầy ải..." (Nguyễn Văn Hoài).

    Ngoài Sư đoàn 338 tập kết, tại Nông trường Lam Sơn c̣n có nhiều đơn vị khác nữa v́ tổng số bộ đội tập kết tại đây là 39 đại đội, mỗi đại đội phụ trách một khu rừng và được tăng cường thêm một số công nhân địa phương.

    "Đời sống anh em ḿnh ngày Bắc đêm Nam" đó là câu nói thường xuyên của các anh em tập kết, có nghĩa là ban ngày gian lao khổ cực không c̣n th́ giờ suy nghĩ nhưng đêm xuống là tâm hồn bộ đội tập kết đều hướng về miền Nam nơi gia đ́nh thân yêu đương sống.

    Tại nông trường Đồng Vàng, Phú Thọ, bộ đội tập kết được tổng biên chế để khai khẩn nông trường trồng trà và cà phê. Thượng uư Đặng Anh Kiến thuộc Trung đoàn tập kết 96 từ An Khê ra Bắc và hoạt động tại nông trường Đồng Vàng, cho biết hai phần ba trung đoàn và cơ quan Trung đoàn Bộ được đưa tới nông trường:

    "...Lúc mới đầu tuy sản xuất nhưng vẫn giữ nguyên cách thức tổ chức và điều hành của quân đội, nhưng về sau, khi nông trường đă hoạt động đều, h́nh thức quân đội được xoá bỏ. Anh em bộ đội biến thành công nhân của nông trường, trực thuộc Bộ Nông Trường. Nghĩa là họ chính thức thành công nhân, họ ăn lương theo cấp bậc công nhân nông trường chứ không c̣n ăn lương của quân đội nữa.... Trong thời gian khai phá nông trường Đồng Vàng (lúc ban đầu) chúng tôi vẫn ăn uống theo chế độ cung cấp của quân đội) 1 ngày là 0.70 đồng (tức là 21 đồng một tháng). Ngoài ra chúng tôi không được bồi dưỡng thêm ǵ cả. Có thể nói thời gian này mồ hôi chúng tôi đổ rất nhiều..."

    "... Sau khi các nông trường đă hoàn chỉnh, nghĩa là các nông trường đă bắt đầu hoạt động th́ nhà nước đẩy các chị em phụ nữ chưa chồng vào các nông trường. Và sau đó, anh em bộ đội và chị em phụ nữ xây dựng với nhau thành những cặp vợ chồng. Trong tinh thần đó các nông trường dần dần lớn mạnh và trở thành những trung tâm kinh tế đông dân cư...".

    Chính sách Tổng Biên Chế không phải chỉ đem quân đội vào nông trường, mà nói chung vào tất cả mọi ngành:

    "Nông trường là ngành mà quân đội xây dựng đến 80% hay 90% Về công nghiệp (công trường) quân đội cũng chuyển ngành qua xây dựng, như khu công nghiệp Việt Tŕ là do Trung đoàn 108 thuộc Sư đoàn 305 xây dựng hoàn toàn, hoặc khu Liên Hợp Gang Thép Thái Nguyên là do Sư đoàn 316 xây dựng.... Hoặc công tác cải tạo tư bản tư doanh, công tư hợp doanh ở thành thị cũng đều do cán bộ quân đội đảm trách... "Có thể nói quân đội chiếm trên 90%.Ngay công an dân cảnh Hà Nội bây giờ, các hầm mỏ, cảng Hải Pḥng". (Đăng Anh Kiến).

    Ngoài việc Tổng Biên Chế các đơn vị chiến đấu chính quy để làm công tác sản xuất, Việt cộng bắt bộ đội phải thi hành Lời Thề Thứ 5: "Quân đội làm tṛn trách nhiệm là chiến đấu và sản xuất" . V́ thế các đơn vị chủ lực của các tỉnh, hay các đơn vị công binh, cầu đường sống tại căn cứ, ít di chuyển cũng phải sản xuất để tự túc cung cấp lương thực một tháng mỗi năm. Các đơn vị này c̣n phải chăn nuôi thêm để trực tiếp cung cấp thịt ăn.

    C̣n tiếp...

  2. #82
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    2. Các Nông Trường, Công Trường Do Quân Đội Được Tổng Biên Chế Để Xây Dựng Và Quản Lư

    Mặc dầu các cán binh bị đem vào nông trường và công trường làm công tác sản xuất như một công nhân viên, họ vẫn phải nằm trong khuôn khổ huấn luyện quân sự. Trên toàn miền Bắc có 43 nông trường, th́ 32 cái được gọi là nông trường quân đội, trong đó hàng tuần công nhân được huấn luyện quân sự, và được biên chế vào các đơn vị đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn chiến đấu.

    Một hồi chánh viên cho biết như sau:

    "Mỗi nông trường coi như một trung đoàn tự vệ. Khi cần thiết họ có thể điều động một lúc hàng trăm người ra chiến đấu ngay được, ví dụ cụ thể năm 1961, nông trường Rạng Đông tỉnh Nam Định thuộc Quân khu Hữu Ngạn Sông Hồng điều động một lần được 300 sĩ quan và binh sĩ đi chiến đấu ở chiến trường B (miền Nam) chiến trường C (Lào) và sau đó mỗi quư, mỗi 6 tháng hay một năm lại điều động một loạt cho đến khi hết cựu sĩ quan và binh sĩ ở nông trường mới ngưng lại. Như vậy mục đích họ thành lập nông trường Quốc doanh do bộ đội chuyển ngành sang (Tổng Biên Chế) là để giữ lượng cựu sĩ quan và binh sĩ lại để vừa sản xuất kinh doanh vừa huấn luyện quân sự, và khi cần thiết có thể điều động ngay ra chiến trường chiến đấu...".

    Các nông trường c̣n là nguồn bổ sung lực lượng trừ bị. Đó là các thanh niên được tuyển từ các thành phố, thị xă hoặc các vùng nông thôn vào làm công nhân trong nông trường. Một khi đă vào nông trường, họ bị khép vào kỷ luật quân đội, kỷ luật tập thể, phải học tập chính trị và bị nhồi sọ bằng tư tưởng Mác-xít.

    Trên phương diện an ninh diện địa, các nông trường c̣n có nhiệm vụ pḥng thủ biên giới, bờ biển và các vị trí trọng yếu như ta sẽ thấy dưới đây.


    - Hai tỉnh Sơn La, Lai Châu ở phía Tây-Bắc của Việt cộng có 2 nông trường Điện Biên Phủ và nông trường Mộc Châu do hai trung đoàn thuộc Sư đoàn 305 tập kết và 316 đóng giữ.
    - Tỉnh Sơn Tây có nông trường Xuân Mai do một trung đoàn của Sư đoàn 338 tập kết trấn đóng.
    - Tỉnh Thanh Hóa có nông trường Sao Vàng do một trung đoàn của Sư đoàn 338 quản trị, cùng với nhiều đơn vị khác, tổng cộng 39 đại đội tập kết (tương đương một Sư đoàn).
    - Tỉnh Nam Định có nông trường Rạng Đông do Trung đoàn độc lập 269 quản trị.
    - Tỉnh Ninh B́nh có nông trường B́nh Minh do Trung đoàn độc lập 271 quản trị.
    - Tỉnh Nghệ An có các nông trường Sông Con, Đông Tây Hiếu do một trung đoàn của Sư đoàn 324 tập kết quản trị.
    - Tỉnh Quảng B́nh có nông trường Lệ Thủy do một trung đoàn của Sư đoàn 325 tập kết quản trị.
    - Tỉnh Phú Thọ có nông trường Đồng Vàng do Trung đoàn tập kết 96 (từ An khê ra Bắc) quản trị.
    - Khu công nghiệp Việt Tŕ do Trung đoàn 108 thuộc Sư đoàn 305 tập kết quản trị.
    - Khu Liên Hợp Gang Thép Thái Nguyên do Sư đoàn 316 xây dựng và quản trị.

    3. Hệ Thống Tổ Chức Các Nông Trường, Công Trường

    Mặc dầu các nông trường, công trường quốc doanh là do quân đội xây dựng và quản trị, nhưng các nông trường đều do một bộ nông trường chỉ huy trên phương diện chính quyền, và các Đảng uỷ trong nông trường th́ chịu sự lănh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ chứ không ở dưới sự lănh đạo của Huyện uỷ địa phương, mặc dầu trên phương diện địa dư nó có thể nằm trong phạm vi một huyện. Ví dụ nông trường Rạng Đông thuộc phạm vi địa dư và hành chánh huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, th́ Đảng uỷ nông trường chịu sự điều khiển của tỉnh uỷ Nam Định, mặc dầu trong những vấn đề hành chánh th́ cũng có liên lạc hội ư với cơ quan hành chánh địa phương của huyện Nghĩa Hưng.

    Những nông trường hoặc công trường tùy theo phạm vi lớn nhỏ phải sử dụng ít hoặc nhiều công nhân, hoặc phải dùng cơ giới. Ví dụ khu Liên hợp Gang Thép Thái Nguyên là một công trường đại quy mô có tới 20.000 nhân công. Nông trường Rạng Đông là một nông trường trung quy mô, c̣n gọi là nông trường loại II, sử dụng khoảng 2500 cán bộ và công nhân (từ 2.500 đến 5.000 nhân công là trung quy mô. Theo tài liệu phỏng vấn các hồi chánh viên, hệ thống tổ chức của một nông trường điển h́nh có thể được mô tả theo sơ đồ dưới đây của nông trường Rạng Đông.

    Nông trường trung quy mô nói trên có một Giám đốc và 2 Phó giám đốc, dưới sự lănh đạo của một bí thư Đảng uỷ với cấp bậc Đại úy hoặc Thiếu tá trong quân đội. Quân hàm của Phó giám đốc là Thượng úy.

    Bên công đoàn có một thư kư công đoàn cấp bậc Thượng úy và 2 thư kư công đoàn cấp bậc Trung úy có nhiệm vụ giám sát kiểm tra từ Giám đốc xuống đến công nhân, mặc dầu trên danh nghĩa là để bảo vệ quyền lợi công nhân.


    C̣n tiếp...

  3. #83
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tổ Chức Công Đoàn Trong Nông Trường

    Công đoàn là tổ chức hàng dọc để đoàn ngũ hoá mọi công nhân không phải là đảng viên, và như vậy, không có một công nhân nào thoát ra khỏi màng lưới của đảng và nhà nước.

    Danh từ Công Đoàn khiến nhiều người bên ngoài nhầm lẫn với Công Đoàn của các nước tự do nhằm bảo vệ quyền lợi của công nhân, hoặc trong một số trường hợp bảo vệ quyền lợi riêng của một bọn đầu nậu. Dưới chế độ Việt cộng, bọn đầu nậu chính là đảng, và đảng kiểm soát công nhân một cách chặt chẽ qua Công Đoàn và hệ thống Đảng ủy.

    Tổ Chức Đảng Ủy Trong Nông Trường

    Giống như trong hợp tác xă nông nghiệp hay bất cứ một tổ chức quy mô nào của cộng sản, Đảng ủy giống như hệ thống thần kinh nối liền cấp chỉ huy xuống tới mọi thành phần nhỏ nhất là một đội hoặc một tổ sản xuất. Đảng ủy từ cao xuống thấp có tên gọi là Chi ủy, Chi bộ, Liên tổ đảng và Tổ đảng, có nhiệm vụ lănh đạo, giám sát, làm đầu tàu gương mẫu để thúc đẩy và bắt buộc công nhân lao động sản xuất.

    Cũng giống như trong hợp tác xă nông nghiệp, "làm việc tại đồng, phân công tại sở", trong nông trường quốc doanh cán bộ có nhiệm vụ thi công, tức là thi hành công tác bằng cách chỉ tay năm ngón phân phối công việc, c̣n công nhân đổ mồ hôi và sức lao động xuống nông trường. Về t́nh trạng bóc lột công nhân trong các nông trường và công trường, ta sẽ có dịp nghiên cứu một cách chi tiết trong tương lai, khi nói về những nỗ lực đẩy mạnh chiến tranh của Việt cộng.

    C̣n tiếp...

  4. #84
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    II. Xây Dựng Các Công Tŕnh Sản Xuất Chiến Lược, Cơ Sở Quân Sự Và Xa Lộ Chiến Lược

    Đầu tháng 9 năm 1960, Đại Hội Đảng Lao Động Việt cộng lần thứ III họp tại Hà Nội để thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nhằm xây dựng một nền công nghiệp làm "cơ sở vật chất của xă hội chủ nghĩa", mà căn bản là chiến tranh bành trướng.

    Bắt đầu từ năm 1961 trở đi rất nhiều xí nghiệp kỹ nghệ được thiết lập, và các nhà máy này được xây dựng chung quanh các khu công nghiệp quan trọng nhất sau đây:

    - Khu công nghiệp Hà Nội
    - Khu công nghiệp Hải Pḥng
    - Khu công nghiệp Việt Tŕ (khánh thành ngày 18-1-1962)
    - Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên

    1. Sản xuất chiến lược

    Nằm trong mục tiêu chiến lược dài hạn, ngành công nghiệp nặng được chú trọng đặc biệt. Với sự giúp đỡ của Liên Xô và khối cộng sản, Việt cộng đă đẩy mạnh việc sản xuất điện lực, khai thác than đá và luyện thép.

    Các nhà Máy Điện quan trọng nhất là:

    Nhà máy thủy điện Bàn Thạch, Thanh Hóa (khánh thành ngày 2-1-1962)
    Nhà máy thủy điện Thác Bà, Bắc Kạn
    Nhà máy nhiệt điện Uông Bí, Hồng Quảng
    Nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn, Thái Nguyên
    Nhà máy nhiệt điện Cọc 5, Cẩm Phả
    Nhà máy nhiệt điện Lào Kay
    Nhà máy nhiệt điện Việt Tŕ
    Nhà máy nhiệt điện Hà Nội
    Nhà máy nhiệt điện Vinh

    và một trạm biến điện lớn nhất miền Bắc tại Đông Anh, ngoại thành Hà Nội, với đường giây điện cao thế Đông Anh Thái Nguyên, khánh thành ngày 5-1-1963.

    Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên do Trung Quốc viện trợ là một kỳ vọng của Việt cộng cho nền công nghiệp nặng và nền kinh tế tự túc và chiến lược. Khu gang thép dùng 20.000 công nhân làm việc ngày đêm, và năm 1965 mức sản xuất lên tới 150,000 tấn. Ngày 20-12-1963 Việt cộng khánh thành ḷ luyện thép đầu tiên tại Thái Nguyên. Ngày 23-9-1965, ḷ luyện thép số II được khánh thành.

    Song song với nền công nghiệp gang thép là việc khai thác than đá tại khu vực Ḥn Gay, Đông Triều, Cẩm Phả, Vàng Gianh, Thái Nguyên phần lớn là loại anthracite (năng xuất nhiệt rất cao) và số lượng sản xuất năm 1965 đă lên tới 4.000.000 tấn.

    Vẫn trong phạm vi mục tiêu chiến lược lâu dài, Việt cộng thiết lập những ngành sản xuất có tính chất lưỡng thể, cần thiết trong thời b́nh cũng như thời chiến:

    - Các nhà máy phân đạm Hà-Bắc: Trong thời b́nh, các nhà máy này yểm trợ cho canh nông, c̣n trong thời chiến chỉ cần thay đổi công thức hóa học một chút để sản xuất thuốc nổ.

    - Các nhà máy cơ khí: nhà máy cơ khí Hà Nội, nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, nhà máy cơ khí xe lửa Gia Lâm, nhà máy cơ khí Lương Yên, nhà máy sửa chữa xe hơi "1 tháng 5", nhà máy cơ khí ZK 120. Để phục vụ chiến tranh các nhà máy có thể sản xuất vơ khí, vỏ lựu đạn, vỏ ḿn, một số phụ tùng thay thế cho đại bác, xe tăng v.v....

    2. Sản xuất hàng tiêu thụ

    - Có lẽ Hà Nội nghĩ rằng với sách lược chiến tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng, các nước chống cộng không có lư do can thiệp mạnh tới mức độ oanh tạc Miền Bắc và tàn phá nền kỹ nghệ của cộng sản. V́ thế Hà Nội đă xây dựng hàng loạt những nhà máy sản xuất đồ tiêu thụ (danh từ Việt cộng gọi là hàng tiêu dùng) để cho các cấp cán bộ đảng được ưu đăi sử dụng theo "phiếu cung cấp", c̣n công nhân viên phải là những người xuất sắc trong những người xuất sắc nhất mới được rút thăm (danh từ Việt cộng gọi là "b́nh bầu chiến sĩ thi đua") để mua trong những dịp đặc biệt. Những nhà máy này tập trung ở những khu vực quan trọng dưới đây.

    - Khu Hải Pḥng: Nhà máy len, nhà máy đồ hộp, nhà máy hóa chất, nhà máy thủy tinh.
    -Khu công nghiệp Việt Tŕ: Nhà máy hoá chất, nhà máy ḿ chính, nhà máy giấy, nhà máy đường, nhà máy sấy chuối khô.
    -Khu công nghiệp Hà Nội: Nhà máy phích nước, bóng đèn, nhà máy Cao-Xà-Lá (cao su, xà pḥng, thuốc lá) do Trung Quốc viện trợ và được khánh thành ngày 18-5-1960; nhà máy dệt kim Đồng Xuân (dệt áo lót và bí tất) do Trung Quốc viện trợ, khánh thành ngày 13-4-1959; nhà máy xe đạp Thống Nhất, nhà máy Pin Văn Điển nhà máy in Tiến Bộ, nhà máy diêm Thống Nhất v.v....


    C̣n tiếp...

  5. #85
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    3. Những công tŕnh xây cất chiến lược

    Ngoài những nhà máy sản xuất vơ khí như công trường 14 ở Tuyên Quang (sản xuất súng AK mang nhăn hiệu Trung Quốc, lựu đạn, súng đại bác, ḿn) Việt cộng xúc tiến mạnh mẽ những công tŕnh chiến lược có tính cách quan trọng như sân bay, đường chiến lược với sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc. Tại mỗi tỉnh của miền Bắc ngày nay đều có một phi trường chiến lược dành riêng cho mục tiêu quân sự. Ngoài những phi trường quan trọng có từ trước như sân bay Cát-Bi, sân bay Bạch Mai, sân bay Gia Lâm, được mở rộng, Việt cộng c̣n xây cất thêm các phi đạo quan trọng khác như:

    - Sân bay Đa Phúc (Vĩnh Yên)
    - Sân bay Ḥa Lạc (Sơn Tây)
    - Sân bay Kép (Bắc Giang)
    - Sân bay Sao Vàng (Thanh Hóa)

    Nguyễn Văn Thân, kỹ sư thủy lợi nói về phi trường Đa Phúc tại Vĩnh Yên:

    "...Tôi biết rơ nhất là sân bay Đa Phúc v́ sân bay này ở ngay cạnh đập Đại Lăi. Khi bộ Giao thông Vận tải thiết kế sân bay này cũng có tham khảo ư kiến của tôi. Theo như họ nói th́ sân bay Đa Phúc là sân bay chiến lược lớn nhất Đông Nam Á, có thể chứa được từ 500 tới 700 phi cơ phản lực Mig, tuyệt đối không có máy bay vận tải tại đây. Phi trường này rộng một chiều 12 km và một chiều 9km. Nằm theo trục quốc lộ số 2 và số 3. Đường bay được làm rất kỹ với các lớp đệm cát rất dày và mặt đường bay được lát bằng tấm bê tông dày từ 50 phân tới 70 phân. Bởi v́ làm bằng các tấm bê tông như vậy nên khi bị đánh phá hư hỏng trong các vụ oanh tạc của Mỹ ở miền Bắc, phi trường được sửa chữa và sử dụng lại mau chóng bởi v́ đă có sẵn các tấm bê tông. Hơn nữa phi trường Đa Phúc ở cạnh núi Sóc Sơn nên có nhiều hầm hố kiên cố do Nhật để lại, nay Việt cộng dùng để chứa nhiên liệu hoặc cất dấu máy bay rất kín đáo..." (Nguyễn Văn Thân).

    Về đường bộ có việc xây cất hai con đường chiến lược quan trọng do Trung Quốc thiết kế và thi công:

    "...Đường thứ nhất là đường từ biên giới Trung Quốc qua các tỉnh Bắc Kạn, Bắc-Thái (Bắc Giang và Thái Nguyên) đường rộng từ 18 thước tới 24 thước, không tráng nhựa mà trải đá lớn dầy 50 phân rồi đổ đá dăm và đất Biên Ḥa cán bằng. Nói tóm lại các tỉnh ven biên giới Việt Nam-Trung Quốc đều do Trung Quốc đài thọ. Các đường này đều được mở cấp tốc từ khoảng năm 1961-1962, và có thể chịu đựng được các chiến xa nặng khoảng 70 tấn".
    Con đường chiến lược lớn thứ hai là đường lộ từ Trung Quốc qua biên giới Việt Nam đến Điện Biên Phủ rồi sang Lào tới Cánh đồng Chum, Savanakhet. Đường này đă có từ trước, nay chỉ làm công tác mở rộng và đảm bảo lại cho chắc chắn, kỹ càng hơn..." (Nguyễn Văn Thân).

    Theo kỹ sư Nguyễn Văn Thân th́ con đường chiến lược Điện Biên Phủ tới cánh đồng Chum và Savanakhet đă có từ trước, nhưng đương sự không cho biết có từ bao giờ. Hệ thống này không thể là hệ thống quốc lộ số 13 v́ quốc lộ này nằm trong khu vực quân đội Hoàng gia Lào, khiến cho Việt cộng không thể sử dụng thường xuyên cho những đoàn xe vận tải như thực tế đă chứng tỏ. Ở một đoạn khác, Nguyễn Văn Thân nói rơ con đường chiến lược này song song với đường ṃn thượng đạo (sách báo Tây phương quen gọi là đường ṃn Hồ Chí Minh) v́ trong khi đi đường vẫn nghe thấy tiếng xe ô tô di chuyển gần đó. Nhưng đương sự lại gọi lầm đường đó là đường số 9 đưa đến Khe Sanh bởi v́ đường số 9 băng ngang từ Việt Nam qua Lào tới Savanakhet, chứ không chạy song song với đường ṃn thượng đạo dọc biên giới Việt Lào.
    Ngoài ra Nguyễn Văn Thân không nói đến con đường chiến lược từ Bắc Việt băng qua khu Bắc Lào sang Thái Lan.

    III. Xây Dựng Lực Lượng Chính Quy Bắc Việt

    Năm 1956, sau khi việc chia đôi hai miền Nam Bắc đă dứt khoát, vấn đề an ninh lănh thổ tạm ổn định, Hà Nội bằt đầu bỏ ra nhiều năm xây dựng quân đội chính quy. Lực lượng vơ trang của Việt cộng nói chung có ba ngành: lực lượng chính quy, lực lượng địa phương và dân quân du kích. Tại mỗi xă ngoài Bắc, lực lượng địa phương có một xă đội với ban chỉ huy và lực lượng du kích có từ một trung đội đến một đại đội tùy theo xă lớn hay nhỏ và tùy theo tầm quan trọng. Tại mỗi huyện có một huyện đội và ít nhất một đại đội, c̣n tại mỗi tỉnh có tỉnh đội và một tiểu đoàn. Ngoài ra tại các đô thị, thị xă, xí nghiệp c̣n có các đơn vị tự vệ giữ an ninh, và có một cán bộ cấp Đảng uỷ-viên tại mỗi nơi này phụ trách việc tổ chức, lănh đạo, huấn luyện các lực lượng tự vệ.

    Ở một phần khác ta sẽ nói kỹ về lực lượng địa phương quân và dân du quân kích trong vai tṛ giữ nhà. Ở đây ta chỉ nói về công tŕnh xây dựng quân đội chính quy Việt cộng trong kế hoạch thôn tính Đông Dương, kể từ năm 1956 khi Phạm Văn Đồng đệ tŕnh lên quốc hội Việt cộng dự luật "giảm trừ quân bị".

    Đạo luật "giảm trừ quân bị" được thông qua nằm trong chính sách Tổng Biên Chế quân đội Miền Bắc, và 80.000 quân chính quy giải ngũ gồm một số lớn thương phế binh, số c̣n lại quy tụ các thành phần bị coi là địa chủ, cường hào, ác bá, tư sản v.v... và được đem vào khai thác các nông trường "quê hương mới" cùng với một số lớn các bộ đội tập kết miền Nam (ở những nông trường riêng).

    Những đơn vị Nam Bộ tập kết năm 1954 ra Bắc được tổ chức thành những sư đoàn mang phiên hiệu Việt cộng 305, 324, 325, 330, 338 và một số trung đoàn biệt lập. Như ta đă thấy trong bài trước, một phần của các sư đoàn này được chia ra xây dựng và quản trị các nông trường, phần c̣n lại có nhiệm vụ giữ an ninh, hoặc được huấn luyện tại các quân trường như sẽ được tŕnh bày trong phần dưới đây.

    Theo đạo luật về "Nghĩa vụ quân sự" của Việt cộng năm 1960, tất cả các thanh niên từ 18 đến 28 tuổi đều phải nhập ngũ và phục vụ ít nhất 3 năm. Bằt đầu từ đó, Việt cộng xúc tiến công tác xây dựng quân đội chính quy, mà xuyên qua các tài liệu về Việt cộng, ta có thể nhận định thấy hai nét chính yếu:

    - Hiện đại hóa quân đội
    - Chính trị hóa quân đội

    1. Hiện đại hóa quân đội

    Hiện đại hóa là khuynh hướng chung của bất cứ một nhà cầm quyền mới nào chứ không riêng ǵ Việt cộng. Nhưng việc hiện đại hóa quân đội của Việt cộng có một số đặc điểm làm nổi bật những ưu điểm cũng như khuyết điểm của Hà Nội trong khung cảnh chiến tranh Đông Dương.

    Sau khi đă nằm vững được t́nh h́nh chính trị Miền Bắc, Hồ Chí Minh và cấp đầu lănh Việt cộng có nhiều vấn đề phải giải quyết liên quan đến công tác hiện đại hóa quân đội. Năm 1956, khi dự tính nuốt trôi miền Nam qua âm mưu Tổng Tuyển Cử không thành, viễn ảnh xâm chiếm Miền Nam bằng một cuộc chiến tranh vơ trang đă trở thành một sự lựa chọn chằc chằn. Trong dự tính xâm lăng Miền Nam, Việt cộng cũng nh́n thấy khả năng can thiệp của Hoa Kỳ bằng một lực lượng quân sự hiện đại.

    Mặt khác, trong khi rêu rao rằng "không có ǵ quư hơn độc lập và tự do", Hồ Chí Minh và đảng Việt cộng c̣n nhằm thôn tính Đông Dương và Thái Lan, một công tác phục vụ cho quan thầy được mệnh danh là "nghĩa vụ quốc tế".

    Quân đội Việt cộng Miền Bắc lúc đó c̣n mang tính chất một lực lượng vơ trang của một cuộc chiến tranh du kích, thích hợp với một cuộc chiến tranh phi quy ước, nhưng thiếu những đặc tính cần có trong một cuộc viễn chinh quy ước tại các chiến trường ngoại lai như Kampuchia và Thái Lan, hoặc trong trường hợp phải đương đầu với quân đội Việt Nam Cộng Ḥa và lực lượng yểm trợ của Hoa Kỳ tại miền Nam.

    Cho tới năm 1958, ngay các đơn vị chủ lực của quân đội Việt cộng c̣n được trang bị bằng đủ loại vơ khí hỗn tạp của Pháp và Nhật để lại cùng với vơ khí và trang bị của Trung Quốc. Các sĩ quan và binh lính Việt cộng c̣n mang quân phục của thời kháng Pháp.

    Ngày 20-6-1958, chính quyền Việt cộng kư nghị định số 307/TTG chính thức ấn định quân hàm cho các cấp trong quân đội, và ngày 22 tháng 12, Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng gằn lon cho các cấp Tướng Miền Bắc. Từ ngày các cấp Tướng Tá Việt cộng mang lon, báo chí Việt cộng lại mở một chiến dịch tuyên truyền về sự khác biệt giữa hệ thống "lon tư bản phản cách mạng" và hệ thống "quân hàm tiến bộ" của quân đội nhân dân (bài diễn văn của Nguyễn Chí Thanh đăng trong báo Quân Đội Nhân Dân ngày 9-9-1958).

    Nhưng vấn đề quan trọng nhất của công tác hiện đại hóa là vấn đề tổ chức, huấn luyện và trang bị. Trên phương diện tổ chức một đạo quân hiện đại, Việt cộng Miền Bắc phải thành lập thêm các quân chủng ngoài quân chủng Bộ binh. Đó là các quân chủng Hải quân, Không quân, và các binh chủng Pháo binh, Công binh, Truyền tin và Thiết kỵ. Việc thành lập thêm những binh chủng mới đ̣i hỏi công tác huấn luyện trong nước cũng như gửi các thành phần đảng viên trung kiên hoặc con của các lănh tụ và cán bộ đầu sỏ đi học ở các trường quân sự của các nước cộng sản khác.

    Từ năm 1958, Việt cộng thiết lập các trường huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ quan thuộc mọi quân binh chủng:

    - Trường Bộ binh
    - Trường Hải quân Băi Cháy, Ḥn Gay
    - Trường Hải quân Hải Pḥng
    - Trường Hải quân Vinh
    - Trường Pháo binh Sơn Tây
    - Trường Truyền tin
    - Trường Công binh
    - Trường sĩ quan Thiết kỵ

    Việt cộng đă gửi quân nhân đi các nước cộng sản để được huấn luyện về không quân, ra-đa, tên lửa (hỏa tiễn), hải quân (chủ yếu là tàu ngầm và phóng ngư lôi), công binh, quân giới, đặc công v.v.... Đồng thời các chế độ cộng sản, nhất là Liên Xô và Trung Quốc, đă trang bị vơ khí hiện đại cho Việt cộng. Quan niệm hiện đại hóa quân đội của Việt cộng bị giằng co giữa hai khuynh hướng đối nghịch. Khuynh hướng Vơ Nguyên Giáp chủ trương sử dụng vơ khí hiện đại, kỹ thuật hiện đại. V́ "chiến tranh nhân dân" đă lỗi thời. Dĩ nhiên, trong khối cộng sản chỉ Liên Xô là có khả năng trang bị đầy đủ vơ khí hiện đại cho Việt cộng. Đối nghịch với khuynh hướng Vơ Nguyên Giáp là khuynh hướng Trường Chinh gồm có Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh và Lê Đức Thọ chủ trương lấy "chiến tranh nhân dân" để đánh thắng chiến tranh hiện đại và trong chủ trương "chiến tranh nhân dân", vấn đề tối quan trọng là lănh đạo tư tưởng, là chính trị hóa quân đội, và vơ trang một cách dư thừa bằng vơ khí cổ điển. Quan điểm của Trường Chinh cũng là quan điểm Mao Trạch Đông đă thằng thế trong Bộ chính trị, v́ thế việc hiện đại hóa quân đội Miền Bắc chỉ được thực một cách hạn chế. Hậu quả là Việt cộng nhận tương đối ít vơ khí hiện đại của Liên Xô, mặc dầu tính thành tiền, con số viện trợ của Liên Xô rất lớn v́ vũ khí hiện đại trị giá cao. Mặt khác Việt cộng nhận được rất nhiều vơ khí cổ điển của Trung Quốc từ súng lục súng trường tới tiểu liên, trung liên, súng pḥng không 37, pḥng không 57, đại bác pḥng không v.v....

    Ưu điểm thứ nhất của đường lối hiện đại hóa quân đội Việt cộng là việc thành lập binh chủng đặc công, tượng trưng cho quan điểm trang bị hạn chế vơ khí hiện đại nhưng chú trọng tới chiến thuật, kỹ thuật chiến đấu chuyên biệt và tinh nhuệ. Bộ Tư lệnh Đặc công trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Miền Bắc và Bộ Tổng Tham Mưu. Ban chỉ huy rường cột là Lữ đoàn 305 tức là Lữ đoàn Dù được thành lập từ năm 1958. Nhưng v́ binh chủng Dù không đắc dụng trong cuộc chiến tranh Đông Dương nên bộ Tổng Tư lệnh Việt cộng đă giải tán và lấy toàn thể Bộ Tư lệnh Dù lập thành Bộ Tư lệnh Đặc công, do Đại tá Điều làm Tư Lệnh trưởng và Thượng tá Đạo làm Chính ủy. Đặc điểm về tổ chức là binh chủng này không có cấp trung đoàn, trung đội và tiểu đội, chỉ có cấp tiểu đoàn, đại đội, phân đội và thấp nhất là tổ, gồm từ 3 đến 5 người. Từ 4 tới 5 tổ hợp thành một phân đội và 5 phân đội thành một đại đội. Đặc điểm thứ hai là sự chuyên biệt. Ví dụ Tiểu đoàn 5 chuyên đánh dưới nước, đánh cầu, đánh tàu. Tiểu đoàn 2 chuyên huấn luyện bổ sung miền Nam. Tiểu đoàn 4 chuyên đánh thành phố....

    Ưu điểm của đặc công là lấy chuyên môn đánh không chuyên môn, lấy ít đánh nhiều, và về phương diện này, bộ đội đặc công giống các chiến sĩ biệt kích và các chiến sĩ người nhái của Việt Nam Cộng Ḥa trước đây.

    Ưu điểm thứ hai của đường lối hiện đại hóa hạn chế là ngành pháo binh của Việt cộng. Pháo binh đă dùng hỏa lực cực kỳ ồ ạt phối hợp với việc quan trằc địa h́nh rất kỹ lưỡng. Pháo diện địa cũng như pháo pḥng không của Việt cộng đă nằm ưu thế tại miền Bắc cũng như ở Hạ Lào. Ở Miền Nam, pháo của cộng quân đă nâng đỡ cho chúng rất nhiều trước ưu thế trên không, ưu thế lưu động tính, và ưu thế cơ giới của quân đội Miền Nam và Đồng Minh.

    Mặt khác, đường lối hiện đại hóa hạn chế cũng có một số khuyết điểm. Trước hết, quân chủng Hải quân, mặc dầu với tàu ngầm, với phóng ngư lôi hạm, với tên lửa trang bị cho chiến hạm, đă bị Hạm đội 7 của Hoa Kỳ đè bẹp ngay trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh không tập và Việt cộng đă phải giải tán quân chủng này, chỉ giữ lại một ít tàu tượng trưng để tuần tiểu. Toàn bộ sĩ quan và binh sĩ tàu nổi đều được chuyển sang các quân chủng khác, phần lớn là bộ binh. Riêng quân số tàu ngầm được tăng cường thêm.

    Một khuyết điểm thứ hai là về không quân. Sau 10 năm chiến tranh, không quân Việt cộng hầu như đă không có dịp nào tung hoành trên mặt trận Đông Dương, mà chỉ quanh quẩn trong nội bộ Việt cộng, hơn nữa, c̣n bị đàn áp trước ưu thế của không lực Hoa Kỳ, suốt trong 3 năm không tập từ 1965 tới 1968, Việt cộng đă mất 50% không lực trong các cuộc không chiến cũng như trong các cuộc không tập của Hoa Kỳ. Khuyết điểm thứ ba là về hoả tiễn. Từ 1965 tới tháng 1-1967, Việt cộng đă bằn 1.000 hỏa tiễn SAM mà chỉ hạ 30 máy bay Hoa Kỳ trị giá 60 triệu Mỹ kim.

    Trong khi các loại vơ khí thường hạ được 430 máy bay trị giá hơn 1 tỷ Mỹ kim, th́ trong suốt thời gian chiến tranh không tập, Việt cộng đă bằn hơn 3.500 hỏa tiễn SAM trị giá gần 100 triệu Mỹ kim mà không đạt được kết quả mong muốn.

    C̣n tiếp...

  6. #86
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    2. Chính trị hoá quân đội

    Đường lối hiện đại hoá quân đội một cách hạn chế và khuynh hướng ngả về loại chiến tranh phi quy ước mà Việt cộng mệnh danh là "chiến tranh nhân dân" đă đưa đến việc rập khuôn mẫu tổ chức của Trung Quốc trong công tác "chính trị hóa" quân đội.

    Cấp cao nhất của hệ thống chính quyền trong quân đội Việt cộng là Hội Đồng Tối Cao Quốc Pḥng gồm toàn Ủy viên chính trị bộ và Trung ương đảng: Chủ tịch: là Chủ tịch Nhà nước
    Hồ Chí Minh (chủ tịch đầu tiên)
    và là Tôn Đức Thắng (chủ tịch thứ hai).
    Phó chủ tịch:
    Phạm Văn Đồng (chính trị bộ)
    Vơ Nguyên Giáp (chính trị bộ)
    Ủy viên:
    Nguyễn Chí Thanh (chính trị bộ)
    Văn Tiến Dũng (chính trị bộ)
    Nguyễn Duy Trinh (chính trị bộ)
    Trần Quốc Hoàn (chính trị bộ)
    Nguyễn Văn Trân (Trung ương đảng bộ)
    Chu Văn Tấn (Trung ương đảng bộ)
    Song Hào (Trung ương đảng Bộ)


    Dưới Hội đồng Tối cao Quốc pḥng là Bộ Quốc pḥng rồi đến Bộ Tổng Tư lệnh. Cấp đảng ủy kiểm soát Bộ Tổng Tư lệnh Miền Bắc là Tổng Quân ủy Trung ương, gồm một số Tướng lănh Việt cộng: Vơ Nguyên Giáp (quân hàm Đại tướng), Song Hào (Trung tướng), Phạm Ngọc Mẫu (Thiếu tướng) và một số Ủy viên Trung ương đảng như Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng v.v....

    Đường lối chính trị hóa quân đội, theo sơ đồ, cho thấy mấy đặc điểm chính sau đây:

    - Thủ trưởng (chỉ huy) các cấp đơn vị từ Bộ chỉ huy đến ban chỉ huy đều phải chịu sự lănh đạo của đảng. Sự lănh đạo của đảng đi tới cấp thấp nhất là một tổ trong một tiểu đội. Đơn vị nhỏ nhất của quân đội là "Tổ tam tam", gồm 3 người, trong đó tổ trưởng hoặc phải là một đảng viên, hoặc một thành phần trung kiên cơ bản. Một tiểu đội có ba ba "Tổ tam tam".

    - Cấp chỉ huy quân đội chịu sự kiểm tra của cấp đảng ủy đơn vị, ví dụ Sư đoàn Trưởng chịu sự kiểm tra của Chính ủy sư đoàn là người chấp hành đường lối đảng thi hành các Nghị Quyết do đảng đề ra.

    - Các chức vụ Chính trị viên hay Chính ủy trong quân đội đều do Bí thư Đảng ủy, Đảng bộ cấp đó nằm giữ mà bí thư là nhân vật quan trọng nhất của Đảng ủy, Đảng bộ.

    Dĩ nhiên đường lối chính trị hóa quân đội nói trên cũng được áp dụng cho tất cả các đơn vị vơ trang của Việt cộng ở trong Nam, và đảng của Việt cộng ở trong Nam mang "ngụy danh" là Đảng Nhân Dân Cách Mạng để che dấu sự can thiệp của Việt cộng.

    Tóm lại, với tổ chức chính trị hóa như trên, đảng đă nằm chằc quân đội trong tay, đă nhào nặn cả triệu thanh niên trong một hệ thống "bịt mằt bằt hào quang giải phóng miền Nam ruột thịt", đă lừa bịp và thúc đẩy cả triệu thanh niên miền Bắc chết cho cái ảo vọng đẫm máu của Các-Mác, Lê-nin.

    Cũng theo sơ đồ nói trên, song song với vai tṛ kiểm soát và lănh đạo chính trị của hệ thống Đảng ủy, Tổng cục Chính trị có nhiệm vụ thi hành các công tác chính trị qua các Cục Tuyên huấn, Cục Cán bộ, Cục Tổ chức, Cục Bảo vệ, Cục Địch vận, Cục Dân vận và Cục Văn hoá.

    Chuẩn Bị Xâm Nhập Miền Nam

    Đồng thời với công việc xây dựng lực lượng quân đội Miền Bắc, Việt cộng đă bí mật huấn luyện cán binh để âm thầm xâm nhập miền Nam, thành lập khung cho lực lượng cộng quân ở miền Nam mệnh danh là "Lực lượng vơ trang giải phóng miền Nam". Các cán binh Việt cộng ở miền Nam tập kết ra Bắc được huấn luyện tại các trung tâm sau đây:

    - Trung tâm Mạch Lũng ở làng Mạch Lũng, huyện Đông Anh, tỉnh Hải Dương.
    - Trung tâm Xuân Mai, tỉnh Ḥa B́nh.
    - Trung tâm Sơn Tây.
    - Trung tâm Phú Yên, tỉnh Bắc-Thái (Băc Kạn-Thái Nguyên)
    - Khu vực "Thép" tại Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, huấn luyện bộ binh, pháo binh, cơ giới, công binh, thông tin, hóa học.
    - Trường đặc công, núi Na-Sơn, tỉnh Sơn Tây.
    - Trường đặc công xă Đông Yên, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây.

    Các cán binh thuộc Sư đoàn Nam Bộ tập kết 324 là những cán binh xâm nhập trong đợt đầu tiên vào năm 1960, và được bí mật huấn luyện tại một doanh trại của bản doanh Sư đoàn 338 của Tô Kư.

    Riêng trung tâm Xuân Mai có khả năng huấn luyện mỗi đợt 1.000 người.


    C̣n tiếp...

  7. #87
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tổng Kết

    Những nỗ lực của Hồ Chí Minh và Việt cộng trong việc xây dựng cơ sở vật chất nhằm thôn tính Đông Dương đă làm nổi bật kế hoạch hai mặt của Việt cộng: mặt ch́m và mặt nổi. Mặt nổi là xây dựng và phát triển, mặt ch́m là chiến tranh thôn tính và bành trướng mà Hồ Chí Minh gọi là "nghĩa vụ quốc tế", trong đó Hồ bằt nhân dân Việt Nam đóng vai tṛ tên lính tiền phong cho cộng sản Liên Xô.

    Trong giai đoạn chuẩn bị cơ sở vật chất cho cuộc chiến tranh, một nhà máy phân đạm (chlorure de potassium) được Việt cộng đề cao là để phục vụ cho nông nghiệp, tăng gia năng xuất và nâng cao mức sống nhân dân. Nhưng khi phát động cuộc chiến tranh, nhà máy phân đạm biến thành nhà máy thuốc súng (sản xuất chlorate de potassium) và nhà nước nói là để "giải phóng miền Nam ruột thịt và các nước anh em Miên-Lào".

    Khi nhân dân phải ăn đói để nhà nước xây cất các nhà máy cơ khí, th́ họ hy vọng có máy cày, máy nổ, xe đạp, b́nh thủy, để nâng cao mức sống. Nhưng khi Việt cộng phát động chiến tranh thôn tính, nhân dân mới vỡ lẽ ra rằng nhà máy cơ khí là nơi sản xuất vỏ lựu đạn, ḿn, súng đạn, cơ giới chiến tranh.

    Xây dựng xă hội chủ nghĩa trong mấy chục năm qua đă gằn liền với chiến tranh thôn tính. H́nh thức bề ngoài có khác, nhưng bản chất bên trong nếu có khác th́ cũng chỉ là sự khác biệt giữa chlorure de potassium và chlorate de potassium.

    Chiến tranh thôn tính trong mấy chục năm qua đă đem lại ǵ cho nhân dân, và đă phục vụ cho ai? Nhân dân nghĩ ǵ về cuộc chiến tranh mà Hồ Chí Minh nói là sẽ đem lại Thống Nhất, Độc Lập và Tự Do? Ta hăy đọc những vần thơ dưới đây của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện:


    Không có ǵ quư hơn độc lập tự do!

    Tôi biết nó, thằng nói câu đó.
    Tôi biết nó, đồng bào miền Bắc này biết nó
    Việc nó làm, tội phạm nó ra sao
    Nó đầu tiên đem râu nó bện vào
    H́nh xác lăo Mao lông lá
    Bàn tay Nga đầy băng tuyết giá
    Cũng nhoài qua lục địa Trung Hoa
    Không phải xoa đầu mà túm tóc nó từ xa
    Nó không đứng yên, tất bật điên đầu
    Lúc rụi vào Tàu, lúc rụi vào Nga
    Nó gọi Tàu Nga là cha anh nó
    Và t́nh nguyện làm con chó nhỏ
    Xông xáo giữ nhà gác ngơ cho cha anh
    Nó tận thu từ quả trứng trái chanh
    Học lối hung tàn của cha anh nó
    Cuộc chiến tranh chết vội hết thanh niên
    Đương diễn ra triền miên ghê gớm đó
    Cũng là do Nga giật Tàu co
    Tiếp nhiên liệu gây mồi cho nó:
    -Súng, tăng, tên lửa, tàu bay
    Nếu không, nó đánh bằng tay?
    Ôi đó, thứ độc lập không có ǵ quư hơn của nó!

    +

    Tôi biết rơ, đồng bào miền Bắc này biết rơ
    Việc nó làm, tội phạm nó ra sao
    Nó là tên trùm đao phủ năm nào
    Hồi cải cách đă đem tù, đem bằn
    Độ nửa triệu nông dân
    Rồi bảo là nhầm lẫn
    Đường nó đi trùng điệp bất nhân
    Hâm hấp trời đêm nguyên thủy
    Đói khổ dựng cờ đại súy
    Con cá, lá rau nát nhầu quản lư
    Tiếng thớt tiếng dao vọng từ hồi kư
    Tiếng thở lời than đan họa ụp vào thân
    Nó tập trung hàng chục vạn "ngụy quân"
    Nạn nhân của đường lối "khoan hồng chí nhân" của nó
    Mọi tầng lớp nhân dân bị cầm chân trên đất nó
    Tự do, không thời hạn đi tù!
    Mắt nó nh́n ai cũng hóa kẻ thù V́ ai cũng đói ṃn nhục nhằn cằn răng tạm nuốt
    Hiếm có gia đ́nh không có người bị nó cho đi suốt
    Đất nó thầm câm cũng chẳng được tha!
    Tất cả phải thành loa
    Sa sả đêm ngày ngợi ca nó và đảng nó
    Đó là thứ tự do không có ǵ quư hơn của nó!
    +

    Ôi! Độc Lập! Tự Do
    Xưa cũng chỉ v́ quư hai thứ đó
    Đất Bắc mắc lừa mất vào tay nó
    Nhưng nay mà vẫn c̣n có người mơ hồ nghe nó!
    Nó mới vạn lần cần nguyền rủa thực to!



    http://vlink.com/caicachruongdat/ccrd05.html

  8. #88
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chiến dịch nguỵ biện về lịch sử thất bại,

    Hà Nội vội vă đóng cửa triển lăm Cải cách ruộng đất




    Bà Cát Hạnh Long (Nguyễn Thị Năm) người phụ nữ đầu tiên bị bức tử trong đợt cải cách ruộng đất. Bà cũng là người nuôi giấu Hồ Chí Minh

    Người dân Việt Nam thật sự bất ngờ khi biết được chương tŕnh triển lăm về Cải cách ruộng đất tại Bảo tàng Lịch Sử Quốc Gia ở Hà Nội đă vội vă đóng cửa vào chiều ngày 11 tháng 9, với lư do khó hiểu là “có sự cố về ánh sáng”.

    Khai mạc hôm 8/9, Bảo tàng Lịch Sử Quốc Gia đã trưng bày chuyên đề “Cải cách ruộng đất 1946 – 1957”,và tạo nên một cuộc tranh căi lớn trong ḷng dân chúng. Dự định sẽ triển lăm trong một tuần, thế nhưng vào trưa ngày 11 tháng 9, khi một đám đông nông dân bị cướp đất ở Văn Giang, Dương Nội cùng nhau đi đến xem triển lăm. Họ đă bị chận ở trước cửa triển lăm không lư do, sau đó lại phải buộc chấp hành yêu sách của nhân viên nhà bảo tàng là không được mặc những chiếc áo màu đỏ tranh đấu có nội dung tố cáo chế độ cướp đất của nông dân.

    Thế nhưng ngay cả khi những người nông dân này đồng ư cởi áo để vào xem triển lăm th́ lệnh chấm dứt trưng bày chuyên đề Cải Cách Ruộng Đất được ban ra.

    Như Dân News đă đưa tin về việc CSVN hoảng hốt trước nội dung cuốn sách Đèn Cù do tác giả Trần Đĩnh, một người sống ngay trong hệ thống cung đ́nh của Hà Nội tiết lộ, bao gồm vạch rơ bộ mặt nham hiểm của Hồ Chí Minh. Lập tức những chiến dịch cải chính, nguỵ biện, tô vẽ cho tội ác của Đảng CSVN và họ Hồ được rầm rộ tung ra, nhằm mê mị các thế hệ trẻ sau này.

    Điều mỉa mai là chiến dịch nguỵ biện này, tưởng chừng như dễ thuyết phục của Hà Nội, lại bất ngờ dấy lên một làn sóng phản ứng dữ dội từ nhiều phía, đặc biệt lại là cơ hội cho người dân Việt Nam cũng như quốc tế đào sâu hơn về thảm trạng của chiến dịch đấu tố, cướp tài sản, giết người kéo dài trong suốt 11 năm mà Đảng CSVN thực hiện ở miền Bắc Việt Nam, theo chỉ thị của Trung Cộng.

    Trang t́m kiếm Google cũng ghi nhận trong chỉ trong 3 ngày, từ khoá t́m kiếm “đèn cù trần đĩnh” đă tăng vọt từ 20.000 lên đến gần 800.000 kết quả. Một trong những tài liệu quan trọng vạch trần bộ mặt thật của Hồ Chí Minh được phát tán rộng răi lúc này, đó là thư viết tay của họ Hồ vui mừng gửi cho Satlin, lănh tụ Đảng Cộng sản Nga sô, báo cáo đă tuân phục và thực hiện giỏi chiến dịch cải cách ruộng đất. Bản sách in trên hệ thống sách toàn cầu Amazon cũng được mua, tăng 30%.

    Bức thư được viết bằng tiếng Nga, có nội dung như sau:

    “Đồng chí Stalin thân mến. Xin gửi ngài chương tŕnh Cải Cách Ruộng Đất của Đảng Lao Động Việt Nam. Chương tŕnh hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lu Shao Shi, Van Sha San. Đề nghị ngài xem xét và cho chỉ dẫn. gửi lời chào Cộng sản. Hồ Chí Minh 31/10/1952”. Thư vẫn c̣n được giữ tại Cục lưu trữ quốc gia Nga”

    http://www.rusarchives.ru/evants/exh...tnam1/22.shtml




    Thư báo công và tŕnh xét của ông Hồ, gửi đến Lenin.


    Chỉ trong 2 ngày triển lăm, giới blogger tự do cũng nhanh nhạy tiến hành những cuộc phỏng vấn nhanh những người đến tham dự triển lăm, mở ra một cái nh́n khác so với công cụ tuyên truyền. Một trong những bài phỏng vấn video gây nhiều chú ư, do nhà báo JB Nguyễn Hữu Vinh thực hiện với một người từng là con của “địa chủ”. Người này đă nói rằng ông ta sẳn sàng làm một đao phủ nếu có một cuộc cải cách ruộng đất mới, để giết sạch bọn cướp bóc của cải đất đai của nông dân.

    Một người đến dự triển lăm, nói với cộng tác viên của Dân News tại Hà Nội rằng cuộc trưng bày này có thể là một chỉ dấu sụp đổ của chế độ, v́ ch́ có ngu xuẩn, người ta mới tự giới thiệu tội ác của ḿnh và nhắc lại với vẻ khoan khái như vậy.

    Được biết nhà Bảo tàng Lịch Sử Quốc Gia ở Hà Nội sau khi đóng cửa bất thường, đang vội vă chuẩn bị cho một đề tài khác.

    http://dannews.info/2014/09/12/chien...ach-ruong-dat/

    Dân News

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 11-09-2014, 07:09 AM
  2. Kiểu Cách hành xử cấp lănh đạo CHXHCNVN
    By alamit in forum Tin Việt Nam
    Replies: 83
    Last Post: 05-03-2013, 03:20 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 03-08-2011, 08:56 PM
  4. Replies: 13
    Last Post: 18-03-2011, 10:31 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •