Page 4 of 6 FirstFirst 123456 LastLast
Results 31 to 40 of 52

Thread: Hãy Chọn Cờ Vàng Chính Nghĩa, Vì Đại Cuộc

  1. #31
    Member
    Join Date
    20-09-2011
    Posts
    1,523

    CỜ DÂN TỘC ĐĂ TRỞ LẠI

    CỜ DÂN TỘC ĐĂ TRỞ LẠI


    Giữa lúc cả dân tộc ta đang chịu thêm những đau đớn v́ giặc Tàu đă có mặt ở hai đầu đất nước, rồi bây giờ là khúc ruột miền trung yêu dấu, đồng thời ngoài hải đảo Hoàng – Trường Sa, giặc đang tăng cường thêm các công tŕnh quân sự. Vậy mà đau đớn thay cho một dân tộc có hơn 4000 năm văn hiến, dựng nước và giữ nước đă phải chứng kiến ông đương kim thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cất cao bài ca "chiến thắng" kiểu AQ chính truyện bên Tàu. Cũng giống như ông tổng bí thư Trọng "lú", ông thủ tướng y tá 3X đă tuyên bố trước Quốc hội của những anh nghị "gật" rằng: "Với Trung Quốc, dù mưa nắng hay băo lũ, Việt Nam cũng là láng giềng, măi măi là láng giềng, nên Việt Nam mong muốn sự chân thành hợp tác để cùng phát triển v́ ḥa b́nh, để thực hiện một cách thực chất, hiệu quả phương châm "16 chữ", tinh thần "4 tốt", để mang lại lợi ích cho cả 2 bên". Và ông thủ tướng "2bao cao su đă qua sử dụng" cũng chẳng quên thêm vào ngôn từ đao to búa lớn"vừa hợp tác vừa đấu tranh".

    Đấu tranh ǵ đây? Hợp tác ǵ đây? khi giặc cướp Hoàng Sa, Trường Sa, giết hại binh lính, ngư dân của chúng ta. Thật chẳng có từ ngữ ǵ khác để diễn tả sự nhu nhược và đểu giả của những kẻ tự xưng "đỉnh cao trí tuệ loài người" đối với dân tộc Việt Nam. Biết nói ǵ đây khi đất nước đă thật sự lâm nguy khi chính những ông bà nghị chỉ biết ăn tiền mồ hôi nước mắt của người dân đă thừa nhận:" Lao động người nước ngoài ở Việt Nam, ngoài lao động tŕnh độ chuyên môn kỹ thuật, vẫn c̣n lao động không có chuyên môn nghiệp vụ. Phần đông trong số đó là người Trung Quốc đi theo con đường du lịch vào Việt Nam". Hợp tác và đấu tranh của đảng phải chăng chỉ là cái cúi đầu tuân phục đến rạp cả người của Trương Tấn Sang ?. Có lẽ là như vậy !. Bởi v́ đảng cộng sản Việt Nam đă và đang bán những phần đất cuối cùng của quê hương Việt Nam cho giặc.
    Nhưng, có lẽ là hồn thiêng sông núi đă không thể nhắm mắt làm ngơ. Song hành cùng các cuộc đấu tranh trên khắp các nẻo đường tổ quốc của dân oan, trí thức, sinh viên, các tôn giáo, các tổ chức đấu tranh đ̣i dân chủ và ngay cả một số đảng viên thức tỉnh th́ hồn thiêng sông núi đă phù trợ cho lá cờ của dân tộc trở lại.

    Người dân tại Sài G̣n đă chụp được ảnh một Người âm thầm mang cờ vàng trên vai giữa phố xá Sài G̣n. Hình ảnh dưới được chụp sáng nay lúc 7g15 phút ngày19/11/2014 tại Cầu Kinh Tẻ Quận 7. Người đàn ông vô danh này đă chợt làm tôi nhớ lại lần 2008 khi ngọn đuốc "ô nhục" của Thế Vận Hội Bắc Kinh do Tàu Cộng đăng cai đi qua Sài G̣n th́ cũng có một người cũng đă phất cờ vàng Dân Tộc bị bắt rồi biệt tăm. Và hôm nay, tôi lại nh́n thấy h́nh ảnh lá Cờ Vàng Dân Tộc của tôi trên ngay mảnh đất quê hương Việt Nam đang điêu tàn dưới ngọn roi của tử thần cộng sản. Tôi nghĩ rằng, lá cờ dân tộc đang âm thầm trở lại. Và sẽ có một ngày nó được tung bay trên khắp ba miền đất nước. V́ đơn giản đó chính là lá cờ chính nghĩa, lá cờ của tự do, lá cờ của dân chủ và trên hết nó là lá cờ của Dân Tộc mà chính tôi và rất nhiều thế hệ đă hănh diện khi được đứng dưới cờ.


    Người đàn ông "Vô danh" th́ nay đă có tên "Anh Hùng"

    Nhưng chúng ta cần nhiều người dũng cảm như người đàn ông vô danh mà tôi đă nh́n thấy trên h́nh mà kể từ giờ phút này, anh đă là người có tên trong ḷng tôi. Đó là cái tên thật giản dị "Anh Hùng". Cho dù anh có bị những kẻ đầu trâu mặt ngựa cướp phá, và cho đến giờ phút này, chúng ta vẫn chưa biết anh sẽ ra sao. Nhưng đơn giản, anh đă đem hồn thiêng sông núi trở lại. Anh là một người Hùng.


    Muốn để cho lá cờ của Dân Tộc trở lại thật sự, chúng ta phải làm nhiều hơn nữa để vạch mặt chính sách "ngậm máu phun người" và xuyên tạc về sự thật lịch sử thật tài t́nh để chống phá tự do, dân chủ của đảng cộng sản. Ngay cả lá cờ vàng của dân tộc trải qua rất nhiều thăng trầm lịch sử cũng bị đảng cộng sản bôi nhọ.Cho đến hôm nay, rất nhiều thế hệ người Việt Nam vẫn bị nhầm về lịch sử của lá cờ Việt Nam Tự Do nền vàng ba sọc đỏ, họ cứ tưởng rằng lá cờ này mới có từ thời chế độ Việt Nam Cộng Ḥa. Và rất nhiều người lầm tưởng như cộng sản tuyên truyền rằng đó là lá cờ "Ngụy". Nhưng thực chất lá cờ vàng 3 sọc đỏ chính là lá cờ xuất phát lâu đời hơn rất nhiều cờ đỏ sao vàng của cộng sản và c̣n là lịch sử của dân tộc. Tuyên truyền chính xác cho người dân về lá cờ sẽ giúp chúng ta có được sự đoàn kết nhất trong việc cùng đứng về phía quốc gia dân tộc để lật đổ cộng sản.

    Trong thời Bắc thuộc, khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Tô Định năm 40, Hai Bà Trưng đă mặc áo giáp vàng cưỡi voi ra trận dưới bóng cờ vàng. Suốt gần một ngàn năm Bắc thuộc, lá cờ dân tộc dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác vẫn xuất hiện trong những cuộc khởi nghĩa chống lại quân Hán như của Bà Triệu, Lư Bôn, Triệu Quang Phục, nhưng phải đợi đến thời Ngô Quyền đánh tan quân Hán trên sông Bạch Đằng gây dựng nền độc lập năm 938, lá cờ dân tộc mới lại phất phới tung bay. Trải qua các triều đại tự chủ tiếp theo như Đinh, Lê, Lư, Trần, nước ta luôn có quốc kỳ h́nh vuông hoặc chữ nhật gồm có nhiều màu viền quanh theo màu của ngũ hành, ngoài cùng là tua răng cưa và có h́nh con rồng hoặc một chữ Hán chỉ tên triều đại ngay chính giữa.Và tất cả các lá cờ từ Hai Bà Trưng đến nay đều là lá cờ có nền vàng. V́ màu vàng là màu quốc thổ và cũng là màu da của giống ṇi Việt Nam.Theo vũ trụ quan của người Việt, màu vàng c̣n thuộc về hành thổ và có vị trí trung ương, tượng trưng cho lănh thổ và chủ quyền của quốc gia. Chính v́ thế mà vua chúa thời xưa thường xưng là Hoàng Đế và mặc áo có tên Hoàng bào.

    C̣n về sọc đỏ, màu đỏ thuộc hành hỏa và là màu của phương Nam. Đây là biểu tượng của một dân tộc bất khuất, anh hùng, và độc lập trong cơi trời Nam, tách biệt hẳn với nước Tàu ở phương Bắc. Ba sọc đỏ c̣n tượng trưng cho ba miền: Bắc, Trung, và Nam. Tuy gọi là ba miền (ba sọc đỏ) nhưng chúng có cùng chung một nhà (nền vàng). Đó là nhà Việt Nam, con dân muôn đời thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Như vậy là lá cờ có nền Vàng có nguồn gốc lịch sử lâu đời của dân tộc; thứ hai đó là lá cờ nền Vàng 3 sọc đỏ xuất hiện chính thức lần đầu từ thời Vua Thành Thái cho đến Khải Định. Và lần thứ hai th́ lá cờ vàng xuất hiện là thời kỳ Vua Bảo Đại cho đến đệ I, Đệ II Cộng Ḥa. Nhưng xen lẫn giữa hai thời kỳ đó cũng có một lá cờ vàng 3 sọc h́nh quẻ ly của chính phủ ông Trần Trọng Kim bị cộng sản cướp đoạt trái phép.

    Màu vàng là da vàng, sọc đỏ là máu đỏ. Màu vàng biểu tượng của vương quyền phương Nam, hành thổ là đất nuôi sống toàn dân. Ba sọc đỏ tượng trưng cho ba ba kỳ (ba miền) là ba anh em Nam Trung Bắc cùng chung sống hài ḥa, an lành trên dải đất Việt Nam. Ba sọc đỏ song song là biểu tượng của ba anh em đồng hành, đồng quyền, tương kính, không được quyền lấn lướt, hà hiếp, hăm hại nhau, cùng chung nhau xây dựng, phát triển, bảo vệ mảnh đất màu vàng Việt Nam để cùng cộng sinh và cộng hưởng. Ba sọc đỏ c̣n là biểu tượng của tam quyền phân lập (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) và là ba biểu tượng của Tự do, Dân chủ, Nhân quyền mà Hoa kỳ và các quốc gia tự do đang áp dụng, kể cả VNCH lúc trước.

    Cờ Việt Nam Tự Do được hun đúc bằng khí thiêng trời đất và tinh thần quật khởi của dân tộc Việt suốt gần hai ngàn năm lịch sử. Nó tượng trưng cho hồn thiêng sông núi, cho vận hội thái hoà, và cho sự thành công vĩnh cửu của giống ṇi Việt Nam. Kể từ năm 40 Tây lịch, thời Hai Bà Trưng, lá cờ Việt Nam Tự Do đă được cải tiến để có h́nh dạng màu sắc như hiện nay. Thật quả là một ư nghĩa cao cả và đáng được hănh diện. Lá cờ Việt Nam Tự Do đă thăng trầm với lịch sử oai hùng của dân tộc, nhuốm khí thiêng sông núi, tượng trưng cho dân chủ tự do nhân quyền, cho ư chí kiêu hùng của ṇi giống Việt, cho thái ḥa thịnh trị của muôn dân, và cho đoàn kết trong việc giữ nước và dựng nước của tổ tiên ta.

    Như vậy có thể thấy Lá cờ Vàng 3 sọc đỏ chính là lá cờ của Việt Nam Tự Do không phải là của riêng một chế độ hay của riêng một chính phủ nào mà là của chung cho cả dân tộc Việt. Lá Cờ Việt Nam Tự Do là linh hồn của cả dân tộc Việt. Lá cờ c̣n, chính nghĩa c̣n. Lá cờ c̣n, tinh thần chiến đấu c̣n, v́ nó là tín bài để chúng ta nhận diện những người Việt Tự Do. Chỗ nào có lá cờ Việt Nam Tự Do th́ chỗ đó có t́nh thương, có dân chủ, có tự do, và có nhân quyền. Giờ này, đa số nhân dân yêu tự do dân chủ, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, mỗi khi nh́n thấy Lá Cờ Việt Nam Tự Do tức là như nh́n thấy vị cứu tinh dân tộc.

    Lá cờ Vàng có một ư nghĩa cao cả, và đă thăng trầm với lịch sử oai hùng của dân tộc Việt. Nó nhuốm khí thiêng sông núi, tượng trưng cho Dân chủ, Tự do, Nhân quyền, cho ư chí kiêu hùng của ṇi giống Việt, cho thanh b́nh thịnh trị của muôn dân, và cho đoàn kết dân tộc trong việc giữ nước và dựng nước của tổ tiên ta. Lá Cờ Vàng Quốc Gia Việt Nam là linh hồn của cả dân tộc Việt. Và với ánh sáng của công nghệ thông tin hiện nay, những luận điệu tuyên truyền của cộng sản sẽ ngày càng bị lột trần, ngày tàn của lá cờ đỏ bán nước sắp đến gần để có tự do, dân chủ thực sự cho dân tộc Việt Nam.

    Ngày hôm nay, đảng cộng sản Việt Nam không c̣n ǵ để biện minh cho những sai lầm, tội ác của ḿnh. Người dân Việt Nam đă hoàn toàn mở mắt khi chứng kiến nước Nhật đổ nát sau năm 1945 khi kết thúc đại chiến thế giới thứ hai đă vươn lên mà cụ thể tuần qua họ đă thử thành công tàu siêu tốc 500 km/h. Trong khi đó th́ báo chí cộng sản vẫn đang tự tô vẽ cho chế độ bằng cái tít trên nhiều báo chí của đảng " Việt Nam hạnh phúc thứ nh́ thế giới". Hạnh phúc ấy được báo đảng lư giải là "không dựa trên sự giàu có mà dựa theo mức tuổi thọ của người dân, độ hài ḷng của người dân và chỉ số môi trường. Theo chỉ số này, Costa Rica là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới 2014 tiếp theo là Việt Nam." Xin thử hỏi, người dân nào hài ḷng với cuộc sống trong khi hàng ngày có cả chục ngàn dân oan trên khắp các miền tổ quốc đang rên xiết trong vô vọng ?. Xin thử hỏi, chỉ số môi trường và tuổi thọ người dân ra sao trong khi cả nước đầy rẫy những "làng ung thư" và kênh nước đen?. Có lẽ chẳng cần phải nói ǵ thêm v́ chẳng một ai có đầu óc tỉnh táo tin vào cái chỉ số "hạnh phúc" ở một đất nước mà đến cái cột đèn cũng muốn ra đi.

    Lúc này đây, Hồn thiêng sông núi đă và đảng hun đúc cho những người dũng cảm hiên ngang ôm lá cờ Vàng Dân Tộc đi giữa phố phường Sài G̣n. Sẽ là quá sớm để nói chúng ta sẽ lật đổ được chế độ cộng sản một sớm một chiều và đem lá cờ Dân Tộc trở lại. Nhưng những tín hiệu vui từ mảnh đất Việt Nam trong gông cùm cộng sản đă cho thấy chúng ta hoàn toàn có thể hi vọng vào một Việt Nam tươi sáng không cộng sản. Ngày đó, chúng ta sẽ siết chặt tay nhau cùng ca vang "Việt Nam quê hương ngạo nghễ" và xung quanh chúng ta là một rừng Cờ Vàng Dân tộc.

    Vâng ! Lá cờ đă trở lại, đang trở lại và sẽ trở lại. Đó chính là Cờ Vàng Dân tộc cũng là hạnh phúc đích thực của cả Dân Tộc Việt Nam !

    Đặng Chí Hùng
    22/11/2014
    (nguồn: báo Thời Mới Canada)

    Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ


    Last edited by SilverBullet; 01-12-2014 at 10:02 PM.

  2. #32
    Member
    Join Date
    30-09-2010
    Posts
    3,083
    Tôi chửi một trí thức trong nước

    Hàn Sĩ Vơ, anh thật sự muốn ǵ nơi những người cờ vàng?
    Tại sao anh chống CS và anh chống CS như thế nào?

    Hăy viết ngắn gọn như trong đối thoại, đừng nói nhiều quá, v́ cho tới giờ này, những vấn đề về cờ vàng hay VNCH đă không cần phải nói nhiều nữa.

    Với tôi hiện nay, các anh phải khẳng định chứng minh các anh là ai và muốn ǵ, đừng lăng quăng, tôi không thích chống Cộng theo kiểu Hồng Lê Thọ, một thứ ấu trĩ và thiếu hiểu biết.
    Các anh muốn mọi người phải công nhận các anh, nhưng các anh không thể cho thấy, chứng minh các anh là ai và muốn ǵ, th́ đó chính là vấn đề với tôi, những kẻ cờ vàng chưa bao giờ thấy cái trách nhiệm của ḿnh đă xong.
    Một trong những bản tính xấu xa nhất của người Việt là phải bị drag đi chứ không tự giác, phát sinh từ bản chất thích ḿnh được xem như một thứ ǵ, không dám đứng chung với tập thể v́ sợ bị lu mờ.
    Tôi dám nói tất cả những người vừa chống Cộng và chống cờ vàng chỉ là những kẻ bi bịnh tâm lư mà thôi.

    Chẳng lẽ tôi lại văng tục, Mẹ kiếp, đă gần 40 năm đất nước của các anh, các anh đă chẳng làm được giống ǵ, chỉ biết cúi đầu chịu nhục, vậy mà khi được người khác giúp đỡ, trân trọng các anh th́ các anh lại chống lại chỉ v́ một chút níu kéo, mà thật ra các anh có giá trị và làm được ǵ đâu,

    Đừng nói với tôi những người như Lê diên Đức hay Đèn cù có 1 giá trị, thật ra mà nói, những ǵ họ viết th́ chỉ có giá trị với những kẻ u mê và trong nước, chứ với những người cờ vàng th́ hoàn toàn không, nên nếu NVHN trân trọng những người đó th́ chỉ v́ người trong nước, v́ công cuộc, chứ hoàn toàn chẳng lợi ích ǵ cho người cờ vàng, v́ chúng tôi đă biết từ lâu, đă hai lần di cư và cái nhận thức về CS của chúng tôi đă được chứng minh bằng hành động, chứ không chỉ bằng lỗ miệng như các anh hiện tại, chống Công kiểu các anh là thứ chống Cộng lải nhải

  3. #33
    Member
    Join Date
    13-06-2011
    Posts
    4,171
    Quoted từ DCH:

    Như vậy có thể thấy Lá cờ Vàng 3 sọc đỏ chính là lá cờ của Việt Nam Tự Do không phải là của riêng một chế độ hay của riêng một chính phủ nào mà là của chung cho cả dân tộc Việt
    Trong mấy tên CS trên thế giới đi cướp hay đi đăo chánh chế độ tiền nhiệm ,chỉ có 1 tên duy nhất F Castro là thông hiểu lá cờ Quốc Gia là cờ Quốc Gia chớ khg phải cờ của riêng một chế độ hay của riêng một chính phủ nào... Nó khác hoàn ṭan sự đánh lân con đen như hồ lấy Đảng kỳ "1- SVPK" làm Quốc kỳ VN hiện nay;

    Đảng kỳ commies của F Catro :




    Sau khi FC đăo chánh chế độ Batista "thân Mỹ" 1959 ,vẩn dùng lại màu cờ xa xưa của Quốc gia Cuba cho tới hiện nay.


    Chính v́ thế tụi Soviet sau khi collapse cũng thông hiểu ra ư nghĩa cờ QG Nga là ǵ ?...Nên mới lấy lại lá cờ xa xưa mà thời Nga Hoàng đă dùng .

    NB :

    F Castro khg xăo trá như hồ, dám đánh lận con đen dùng Đảng kỳ commies của ḿnh để thay thế lá cờ QG Cuba. (có từ thế kỹ 19th)
    Last edited by Viet xưa; 01-12-2014 at 10:55 PM.

  4. #34
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    168

    DUYỆT LẠI SỰ THẬT LỊCH SỬ


    Bài viết của Luật Sư NGUYỄN HỮU THỐNG

    Theo sử sách của Đảng Cộng Sản, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương và ngày 3-9-1969 Hồ Chí Minh về chầu tổ Mác-Lê.
    Ngày nay sự thật lịch sử cho biết Đảng Cộng Sản Đông Dương không tự giải tán năm 1945, và Hồ Chí Minh đă về chầu tổ Mác- Lê ngày hôm trước, 2 tháng 9, 1969.
    Cũng vào ngày 2 tháng 9 (1945) Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập.
    Thực ra Việt Nam chưa độc lập năm 1945. Và ngày 2 tháng 9 không phải là Ngày Quốc Khánh. Chiếu Công Pháp Quốc Tế, Việt Nam chỉ thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3, 1949 do Hiệp Định Elysee. Trong năm này, 11 quốc gia khác tại Á Châu cũng giành được độc lập bằng đường lối chính trị và ngoại giao, không bạo động vơ trang và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.
    Tháng hai năm 2000, nhà cầm quyền Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong dịp này họ viện dẫn những thành quả đă đạt được trong nửa thế kỷ vừa qua, và tự ban cho ḿnh tư cách độc quyền lănh đạo quốc gia từ trước tới nay và từ nay về sau.
    Gạt bỏ mọi thành kiến và mọi luận điệu tuyên truyền, chúng ta chỉ căn cứ vào những tài liệu lịch sử và những văn kiện pháp lư để đưa ra những nhận định liên quan đến chủ trương đường lối của Đảng Cộng Sản.
    Dưới chiêu bài giải phóng dân tộc, Đảng Cộng Sản chủ trương đấu tranh bạo động vơ trang, vọng ngoại và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trên b́nh diện dân tộc đây là một sai lầm chiến lược khiến 3 triệu thanh niên nam nữ thuộc 3 thế hệ phải hy sinh xương máu trong 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương:
    Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất chống Pháp và Quốc Gia Việt Nam trong 8 năm (l946-l954)
    Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai chống Thế Giới Dân Chủ (Việt Nam Cộng Ḥa, Hoa Kỳ và Đồng Minh) trong 20 năm (l955-l975); và
    Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba tự chống lẫn nhau trong 10 năm, chiến tranh Miên Việt kết thúc năm 1989 do sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc.
    Trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương đă đấu tranh bạo động vơ trang và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trái lại, tất cả 11 quốc gia khác đă đấu tranh ôn ḥa, hợp tác và thương nghị với đế quốc cũ để giành tự trị trong giai đoạn đầu và độc lập trong giai đoạn sau. Cũng v́ vậy họ đă tiết kiệm được nhiều hy sinh xương máu và thời gian giành độc lập được rút ngắn c̣n từ 1 đến 4 năm sau Thế Chiến II, thay v́ 40 năm như trường hợp Việt Nam.
    Năm 1919 tại Hội Quốc Liên (tổ chức tiền thân của Liên Hiệp Quốc), Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đề xướng quyền Dân Tộc Tự Quyết để khuyến cáo các Đế Quốc Tây Phương từng bước trả tự trị và độc lập cho các thuộc địa Á Phi. Từ đó trào lưu tiến hóa tất yếu của lịch sử là sự giải thể tiệm tiến của các Đế Quốc Tây Phương. Cũng trong năm này Đế Quốc Anh đă trả chủ quyền độc lập cho Canada tại Bắc Mỹ và A Phú Hăn tại Nam Á.
    Năm 1941, khi Thế Chiến II c̣n đáng tiếp diễn, theo đề nghị của Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, các Đế Quốc Tây Phương Anh Mỹ Pháp Ḥa Lan đă hội nghị tại Newfoundland Canada để công bố Hiến Chương Đại Tây Dương theo đó các thuộc địa và bảo hộ sẽ được trao trả độc lập khi Chiến Tranh kết thúc.
    Mùa xuân 1945, với sự đầu hàng của Đức Quốc Xă, 50 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc và ban hành Quyền Dân Tộc Tự Quyết trong Điều Thứ Nhất và Điều 55 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
    Trung thành với Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945, trong 4 năm, từ 1946 đến 1949, các Đế Quốc Tây Phương Mỹ Anh Pháp Ḥa Lan đă lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu:
    Độc lập năm l946: Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ, Syrie và Liban thuộc Pháp.
    Độc lập năm l947: Ấn Độ và Đại Hồi thuộc Anh.
    Độc lập năm l948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine thuộc Anh.
    Độc lập năm l949: Việt Nam, Ai Lao, Cao Miên thuộc Pháp, và Nam Dương thuộc Hoà Lan.
    Như vậy lịch sử đă chứng minh rằng, tại Á Châu, đấu tranh không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản là đường lối khôn ngoan và hữu hiệu nhất để giành tự trị và độc lập cho quốc gia. Ngược lại, đứng vào hàng ngũ Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh vơ trang nhằm lật đổ các Đế Quốc Tây Phương là một sai lầm chiến lược. V́ đây không phải là chiến tranh giành độc lập mà là chiến tranh ư thức hệ giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ. Kinh nghiệm dân gian cho biết nơi nào trâu ḅ húc nhau th́ ruồi muỗi chết: 3 triệu thanh niên nam nữ tại Triều Tiên, 3 triệu tại Việt Nam, 2 triệu tại Miên Lào và 1 triệu tại A Phú Hăn đă hy sinh thân sống, không phải để giành độc lập cho quốc gia, mà để cho Đảng Cộng Sản cướp chính quyền.
    CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP

    Trung thành với chủ nghĩa Quốc Tế Vô Sản, Đảng Cộng Sản Đông Dương phủ định chủ nghĩa dân tộc. Họ không chủ trương đấu tranh giành độc lập v́ quốc gia dân tộc và không quan niệm độc lập quốc gia như một cứu cánh tối hậu, một mục tiêu chiến lược phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái. Lịch sử đă chứng minh rằng Đảng Cộng Sản chỉ sử dụng cuộc đấu tranh giành độc lập như một chiêu bài, một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là Cướp Chính Quyền. Họ đă chống đối và phá hoại bất cứ giải pháp độc lập nào không cho họ độc quyền lănh đạo quốc gia.
    Tại Pháp, tháng 3, l947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier và Hội Đồng các Chính Đảng (lănh đạo Quốc Hội gồm cả Đảng Xă Hội và Đảng Cộng Sản ) công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam theo đó Pháp không chủ trương tái lập thuộc địa tại Á Châu. Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất (ba miền cùng chung một lịch sử, một chủng tộc, một văn hóa và một ngôn ngữ).
    Đặc biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi kư Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đă chính thức đăng kư Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc.(1) (Everyone’s United Nations, ấn bản năm 1986, trang 332).
    Chủ quyền độc lập của Việt Nam được thừa nhận bởi Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949 kư kết giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại.
    Hiệp Định Élysée là một văn kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử ngoại giao của các quốc gia văn minh trên thế giới. Thông thường các hiệp ước và ḥa ước quốc tế đếu do các ngoại trưởng kư. Riêng Hiệp Định Élysée đă được chính Tổng Thống Vincent Auriol tự tay kư, với sự kiến thị của Thủ Tướng Henry Queille, của ngoại Trưởng Schuman, của Bộ Trưởng Quốc Pḥng Ramadier và Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Paul Coste-Floret. Từ đó, chiếu công pháp quốc tế, Việt Nam được ḥan toàn độc lập, các hiệp ước thuộc địa và bảo hộ kư với Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 đă bị Hiệp Định Élysée băi bỏ.
    Cũng trong năm l949 Trung Cộng đă dùng vơ trang thôn tính lục địa Trung Hoa. Theo sách lược của Quốc Tế Cộng Sản, việc cộng sản hóa Trung Hoa sẽ mở đầu cho việc nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Tŕêu Tiên. Trước nguy cơ này, các cường quốc Tây Phương chủ trương giữ vững Việt Nam trong hàng ngũ Thế Giớí Dân Chủ chống lại âm mưu thôn tính của Quốc Tế Cộng Sản.

    Chiếu Hiệp Định Elysée tháng 3, 1949, Việt Nam là một quốc gia liên kết với Pháp trong tổ chức Liên Hiệp Pháp nên giữa Việt Nam và Pháp có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Nay Quốc Gia Việt Nam bị đe doạ về an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm), nên Pháp có nghiă vụ phải mang quân hay điều quân để bảo vệ biên thùy của Việt Nam đồng thời là biên thùy của Liên Hiệp Pháp và của Thế Giới Dân Chủ.
    Mặc dầu vậy Đảng Cộng Sản đă phủ nhận nền độc lập này. Họ tiếp tục chiến đấu vơ trang để được độc quyền yêu nước và độc quyền lănh đạo quốc gia.
    Để vận động toàn dân tham gia kháng chiến, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa. Do đó họ phải chiến đấu vơ trang chống Pháp để giành lại độc lập cho quốc gia.
    Đây là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. V́ từ năm 1947 các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp đă quyết định không tái lập chế độ thuộc địa tại Á Châu và tán thành nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam. Trước đó, năm 1946, Pháp đă trả độc lập cho Syrie và Liban theo chủ trương của Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945.. Và trong năm 1947, như đă tŕnh bầy, Pháp đă đăng kư Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. Tháng 3, 1949, bằng Hiệp Định Elysée, Tổng Thống và Quốc Hội Pháp đă chính thức thừa nhận chủ quyền độc lập và thống nhất của Quốc Gia Việt Nam.
    CUỘC THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

    Năm l975 Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước. V́ theo quốc tế công pháp, Quốc Gia Việt Nam đă được độc lập và thống nhất từ năm l949 chiếu Hiệp Định Élysée ngày 8-3-l949.
    Một tháng rưỡi sau, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, ngày 23-4-l949, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lănh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất (với 45 phiếu thuận và 6 phiếu chống).
    Tuy nhiên Đảng Cộng Sản đă phủ nhận nền độc lập này và đă phá hoại nền thống nhất này. V́ Hiệp Định Élysée không cho họ độc quyền lănh đạo quốc gia. Do đó họ vẫn tiếp tục chiến đấu vơ trang và đă kư Hiệp Định Genève chia đôi đất nước để cướp chính quyền tại Miền Bắc năm l954. Và rồi, với sự yểm trợ của Quốc Tế Cộng Sản, họ lại tiếp tục chiến đấu vơ trang để thôn tính Miền Nam năm l975.
    Kể từ năm 1955, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Mỹ đă thay thế Pháp để thống trị Miền Nam. Do đó họ phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. V́ quân đội Hoa Kỳ chiến đấu tại Triều Tiên và Việt Nam không phải để thống trị hai quốc gia này mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ.
    Tấm bản đồ Việt Nam ông cha chúng ta đă đổ bao xương máu để tạo lập nên hồi đầu thế kỷ 19. Sau này, v́ yếu thế, chúng ta phải nhượng cho Pháp 6 tỉnh Miền Nam. Năm 1949 đồng bào Miền Nam đă hành sử quyền dân tộc tự quyết để thâu hồi chủ quyền lănh thổ và bồi đắp tấm bản đồ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Tuy nhiên, bằng chiến tranh vơ trang, Hồ Chí Minh đă cầm tay xé đôi tấm bản đồ năm 1954 để cướp chính quyền tại Miền Bắc. Và rồi, năm 1975, cũng bằng chiến tranh vơ trang, Đảng Cộng Sản đă cướp chính quyền tại Miền Nam. Rồi họ lấy băng keo dán 2 mảnh dư đồ lại và tuyên bố rằng: “Đảng Cộng Sản có công thống nhất đất nước!
    Chúng ta đưa ra những nhận định này trên cương vị người nghiên cứu sử học và luật học, chứ không với tư cách cán bộ tuyên truyền cho một chủ thuyết hay một chế độ chính trị nào.
    CÁC PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TẠI Á CHÂU
    Muốn có cái nh́n khách quan và trung thực, chúng ta hăy đối chiếu công cuộc đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc khác tại Á Châu.
    Sau Thế Chiến II, trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương là đă đấu tranh vơ trang, bạo động và liên kết với Quốc Tế Công Sản. Trái lại các đảng quốc gia tại 11 nước Á Châu khác đă chủ trương đấu tranh ôn ḥa, không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.
    Một năm sau Thế Chiến II, từ l946 đến l949, tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh và Hoà Lan đă lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu.
    1946: Phi Luật Tân độc lập
    Hoa Kỳ đi tiền phong trong cuộc giải phóng thuộc địa. Nguyên là một cựu thuộc địa, Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhân dân Hoa Kỳ có cảm t́nh với những phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Á Phi.
    Đầu thập niên 1930, Luật Sư Quezon, lănh tụ Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân đến Hoa Thịnh Đốn vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự trị và độc lập cho Phi Luật Tân. Năm l934 Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật Tydings-McDuffie Act công nhận Phi Luật Tân là một quốc gia tự trị (dominion) từ 1935. Trong đạo luật này có khỏan quy định rằng, 10 năm sau, đúng Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ (4 tháng 7, 1945) Phi Luật Tân sẽ được hoàn toàn độc lập. Tuy nhiên tới ngày đó, Chiến Tranh Thái B́nh Dương chưa kết thúc, nên Phi Luật Tân chỉ được tuyên bố độc lập ngày 4-7-1946 (trễ một năm v́ lư do chiến cuộc).
    Trong thời chiến tranh, Luật Sư Quezon được mời tham gia Ủy Ban Chiến Tranh vùng Thái B́nh Dương, và người phụ tá của ông, Luật Sư Roxas hoạt động t́nh báo cho Tướng McArthur. Khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân là “Độc Lập do Hợp Tác” (Independence through Cooperation).
    1946: Syrie và Liban độc lập.
    Nếu Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc, th́ Pháp cũng là quốc gia có truyền thống Tự Do, B́nh Đẳng, Bác Ái tiến bộ nhất trong lịch sử loài người.
    Tại Syrie và Liban, lănh đạo phong trào giải phóng dân tộc là Đảng Nhân Dân tại Syrie và Luật Sư Dabbas tại Liban. Dabbas đă từng du học tại Paris, nơi đây ông hay biết rằng, bên cạnh các đảng bảo thủ chủ trương duy tŕ thuộc địa c̣n có Đảng Xă Hội Pháp chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa.
    Năm 1936 Mặt Trận B́nh Dân nắm chính quyền, Thủ Tướng Xă Hội Léon Blum kư hiệp ước với Syrie và Liban để trả tự trị cho 2 quốc gia này. Và 10 năm sau, năm 1946 quân đội Liên Hiệp Pháp triệt thoái để trả độc lập cho Syrie và Liban (Thời gian này tại Trung Đông chưa có nguy cơ xâm nhập của Staline).
    1947: Ấn Độ và Đại Hồi độc lập.
    Sau các Đế Quốc Hoa Kỳ và Pháp, đến lượt Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. Tới Thế Chiến II, Anh Quốc đă thành lập được một đế quốc hùng mạnh nhất từ cổ chí kim chạy từ Bắc Mỹ qua Âu Châu, Phi Châu, Á Châu và Úc Châu. Người Anh thường tự hào nói: “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh”. Vậy mà 2 năm sau Thế Chiến II, năm 1947, Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể.

    Tại Ấn Độ, 3 nhà lănh đạo phong trào giải phóng dân tộc là các Luật Sư Gandhi, Nehru và Jinnah. Các vị này đă từng du học tại Anh, nơi đây họ hay biết rằng, bên cạnh Đảng Bảo Thủ chủ trương duy tŕ thuộc địa, c̣n có Đảng Lao Động Anh chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa như Đảng Xă Hội Pháp.
    Năm 1947 Thủ Tướng Lao Động Clement Attlee trả độc lập cho Ấn Độ và Đại Hồi, và qua năm sau, 1948, trả độc lập cho Miến Điện, Tích Lan và Palestine, mặc dầu mọi phản kháng của Churchill, lănh tụ Đảng Bảo Thủ.
    Khác với Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Quốc Hội Ấn Độ chủ trương đấu tranh công khai, ôn ḥa, hợp pháp, không bạo động, không vọng ngoại và nhất là không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.
    Với một dân số quá đông (gần 400 triệu, so với 20 triệu ở Việt Nam năm 1945), trong một xă hội lạc hậu, nghèo đói, thất học, với những mâu thuẫn trầm trọng về tôn giáo, chủng tộc, ngôn ngữ, đẳng cấp và giai cấp, cuộc đấu tranh tại Ấn Độ 10 lần khó hơn tại Việt Nam. Vậy mà, dưới sự lănh đạo của Gandhi, Ấn Độ đă giành được độc lập 2 năm sau Thế Chiến II, trong khi dân tộc ta đă phải hy sinh xương máu ṛng ră trong 40 năm.
    1948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine độc lập.
    Người anh hùng dân tộc Miến Điện là Aung San (thân phụ bà Aung San Suu Kyi hiện lănh đạo phong trào Dân Chủ tại Miến Điện). Cũng như Gandhi, Aung San t́nh nguyện chiến đấu trong Quân Đội Hoàng Gia Anh. Cùng với U Nu, ông thành lập Liên Đoàn Nhân Dân Tự Do Chống Phát Xít để hợp tác với Đế Quốc Anh, chống Nhật...
    Năm l948 Miến Điện được trao trả độc lập.

    (Đọc tiếp)

  5. #35
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    168

    (Tiếp theo)

    Tại Tích Lan Hiến Pháp năm l931 ấn định thời gian tập sự tự trị là 15 năm. Với chủ trương “Thiện Chí và Hợp Tác” (Good Will and Cooperation), Đảng Quốc Gia Tích Lan đă giành được tự trị năm l945 và độc lập năm l948. Cũng trong năm này Palestine thoát quyền giám hộ của Đế Quốc Anh.
    1949: Nam Dương độc lập.
    Sau các Đế Quốc Mỹ, Pháp, Anh đến lượt Đế Quốc Hoà Lan tự giải thể năm l949. Phong trào giải phóng dân tộc Nam Dương được phát động bởi giới trí thức du học Ḥa Lan. Trong khi Đảng Cộng Sản theo sách lược bạo động vơ trang th́ Đảng Quốc Gia Nam Dương chủ trương đấu tranh ôn ḥa bất bạo động bằng canh tân và giáo dục. Sukarno lập Câu Lạc Bộ Văn Hoá Bandung và Hatta lập Hội Giáo Dục Quốc Gia Nam Dương để nâng cao dân trí và chấn hưng dân khí. Hatta du học 10 năm tại Hoà Lan và Luật Sư Sjahrir đă từng gia nhập Đảng Lao Động Hoà Lan trong thời gian du học.
    Năm 1942 Nhật chiếm đóng Nam Dương, Sukarno hợp tác với Nhật. Tháng 8, l945 Nhật đầu hàng Đồng Minh, Sukarno tuyên bố Nam Dương độc lập. Nhưng rồi quân đội Ḥa Lan theo chân quân đội Anh sang giải giới quân đội Nhật, Sukarno chủ trương thương nghị với Hoà Lan.
    Trong những năm l946 và l948, Đảng Cộng Sản Nam Dương phát động chiến đấu vơ trang để phá thương nghị. Thời gian này nước láng giềng Phi Luật Tân đă được độc lập. Tổng Thống Truman vận động Liên Hiệp Quốc áp lực Hoà Lan phải ḥa đàm với chính phủ Sjahrir. Lúc này Hoa Kỳ đang thực thi Kế Hoạch Marshall để tái thiết Âu Châu thời hậu chiến nên tiếng nói của Hoa Kỳ có trọng lượng đối với Ḥa Lan. Hội Nghị Bàn Tṛn La Haye được triệu tập dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Tháng 12-1949, do Hiệp Ước La Haye, Hoà Lan thừa nhận chủ quyền độc lập của Nam Dương. (2)
    STALINE THIẾT LẬP ĐẾ QUỐC SÔ VIẾT

    Như vậy từ 1946 đến 1949 tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh, Hoà Lan đă lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu.
    Trong khi đó tại Đông Âu Staline thiết lập Đế Quốc Sô Viết bằng cách thôn tính 3 nước Baltic là Lithuanie, Lettonie và Estonie. Sau đó Liên Xô dựng “Bức Màn Sắt” tại 7 nước Đông Âu là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Albanie, Bulgarie, và Roumanie. Từ đó, chiến tranh lạnh hay chiến tranh ư thức hệ bộc phát giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ.

    Các nhà lănh đạo phe Thế Giới Dân Chủ như Truman, Churchill và De Gaulle nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương v́ họ không muốn Staline mở rộng bức màn sắt từ Đông Âu qua Đông Á.
    Riêng tại Việt Nam, De Gaulle cũng nhất quyết không trao Nam Kỳ cho Hồ Chí Minh v́ Nguyễn Ái Quốc là cán bộ của Staline tại Đông Dương.

    Cũng v́ vậy hồi tháng 12-1945 De Gaulle đă mời Cựu Hoàng Duy Tân từ đảo Réunion tới Paris thương nghị.
    Nhiều tài liệu lịch sử cho biết De Gaulle đă chấp thuận trên nguyên tắc để Duy Tân về nước đầu năm l946. Trước đó, hai bên sẽ kư một hiệp ước công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Chính Phủ Việt Nam sẽ được toàn quyền quản trị về mặt nội bộ. Tuy nhiên v́ lúc này Đảng Cộng Sản đă cướp chính quyền tại Miền Bắc, nên quân đội Pháp c̣n phải ở lại Việt Nam một thời gian với tư cách quân đội Liên Hiệp Pháp để yểm trợ Việt Nam giải quyết các vấn đề an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm). Theo quy chế Liên Hiệp Pháp, giữa Pháp và Việt Nam có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Do đó quân đội Pháp có nghĩa vụ bảo vệ biên cương của Việt Nam, đồng thời là biên cương của Liên Hiệp Pháp.
    Rất tiếc là mùa Giáng Sinh 1945 Duy Tân đă tử nạn máy bay trên sa mạc Trung Phi trên đường từ Paris về đảo Reunion thăm nhà. Nhiều người cho đây là vụ phá hoại. Nguyên nhân phi cơ phát hỏa là v́ ‘’hết săng’’. Đây là một nguyên nhân hy hữu v́ không một phi hành đoàn nào chịu cất cánh nếu máy bay không chứa đủ săng nhớt.
    Việc Duy Tân mất đi là một đại bất hạnh cho Việt Nam cũng như cho Pháp. V́ nếu đầu năm l946 Duy Tân về nước lập chính phủ quốc gia giành tự trị, độc lập và thống nhất cho Việt Nam th́ chiến tranh Việt Pháp sẽ có cơ tránh được. Hồ Chí Minh sẽ không c̣n được độc quyền yêu nước và có lẽ chẳng c̣n ai muốn gia nhập Đảng Cộng Sản nữa (năm 1945 Đảng Cộng Sản chỉ có 5 ngàn đảng viên).
    Lúc này Đảng Cộng Sản Pháp đă thông báo cho Staline và Hồ Chí Minh biết De Gaulle đă có giải pháp quốc gia về Việt Nam. Cũng v́ vậy, ngày 11- 11-1945, Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương. Rồi thành lập chính phủ liên hiệp quốc gia với sự tham gia của Cách Mạng Đồng Minh Hội (với Nguyễn Hải Thần) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (với Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam) để làm b́nh phong thương nghị với Pháp.
    Ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, nhân danh chính phủ liên hiệp, Hồ Chí Minh kư Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và chấp thuận mọi điều khỏan mà De Gaulle đă thỏa thuận với Duy Tân: Việt Nam là một nước tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được đồn trú tại Bắc Kỳ trong thời hạn 5 năm.
    Sau đó ngày 14-9-l946 tại Paris, Hồ Chí Minh đă đến nhà riêng của Moutet để xin kư Thỏa Ước Tạm Thời (Marius Moutet là đồng chí cũ trước khi Hồ Chí Minh bỏ đảng Xă Hội để gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp).
    Tuy nhiên mặc dầu lúc này De Gaulle đă từ nhiệm, các nhà lănh đạo Thế Giới Dân Chủ vẫn nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương.
    Theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản Hồ Chí Minh phát động chiến tranh vơ trang ngày 19-12-1946.
    Bằng hành động gây chiến này Hồ Chí Minh đă vi phạm Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và Thỏa Ước Tạm Thời Moutet.
    Do đó, 3 tháng sau, tháng 3, 1947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier cùng Hội Đồng các Chính Đảng Pháp công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam, theo đó Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất.

    Ngoài ra, cũng trong năm 1947 tại Liên Hiệp Quốc, Pháp đă chính thức đăng kư 3 nước Đông Dương (Việt Miên Lào) là những quốc gia độc lập.
    Như vậy từ năm 1947 Pháp đă quyết định trao trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam và đă đăng kư Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. (Sở dĩ Việt Nam không được gia nhập Liên Hiệp Quốc v́ gặp sự phản kháng của Liên Xô hành sử quyền phủ quyết.)

    Năm 1947, nếu Hồ Chí Minh là người yêu nước, nếu Nguyễn Ái Quốc là nhà ái quốc biết đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi đảng phái, th́ ông ta đă phải ngưng chiến cho phe quốc gia có điều kiện ḥa đàm và kư kết với Pháp một hiệp ước để giành lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam.

    Tuy nhiên Hồ Chí Minh không phải là người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc không phải là nhà ái quốc nên ông ta vẫn tiếp tục đẩy tới chiến tranh vơ trang để phá vỡ mọi giải pháp độc lập quốc gia.

    Mặc dầu vậy các Chính Phủ Pháp kế tiếp vẫn trung thành với Quyết Nghị của các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp năm 1947.

    Tháng 12, 1947, Cao Ủy Bollaert kư Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long với Quốc Trưởng Bảo Đại để thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam. Hiệp Ước Sơ Bộ này được chính thức hóa bởi Thông Cáo Chung Vịnh Hạ Long tháng 6,1948 kư kết giữa Cao Ủy Bollaert và Chính Phủ Quốc Gia Lâm Thời, với sự bối thự của Quốc Trưởng Bảo Đại. Theo Hiệp Ước này Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của Việt Nam và Việt Nam được tự do tiến hành thủ tục thực hiện thống nhất quốc gia chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết.

    Và tại Điện Elysée (Paris) Tổng Thống Vincent Auriol, nhân danh TổngThống Cộng Ḥa Pháp và nhân danh Chủ Tịch Liên Hiệp Pháp, đă kư với Quốc Trưởng Bảo Đại Hiệp Định Elysée ngày 8-3-1949 Công Nhận Việt Nam Thống Nhất và Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp.
    Do Quyết Nghị ngày 23-4-1949 Quốc Hội Nam Kỳ đă giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lănh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất.
    Ngày 6-6-1949, theo thủ tục khẩn cấp, Quốc Hội Pháp phê chuẩn Hiệp Định Elysée về khoản giao hoàn Nam Kỳ cho Quốc Gia Việt Nam. Ngày 2-2-1950 Quốc Hội Pháp phê chuẩn toàn bộ Hiệp Định Elysée với 12 Phụ Ước và 30 Đính Ước bổ túc. Cũng trong tháng này Hoa Kỳ, Anh Quốc và Thái Lan chính thức thừa nhận Quốc Gia Việt Nam do Chính Phủ Bảo Đại đại diện.
    Chúng ta không nên có thành kiến cho rằng gia nhập Liên Hiệp Pháp là vi phạm chủ quyền quốc gia. V́ các nước Ấn Độ, Đại Hồi, Canada, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan v...v... cũng là những quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Anh.
    Về mặt an ninh quốc pḥng, nếu năm 1949 Việt Nam không gia nhập Liên Hiệp Pháp th́ quân đội viễn chinh Pháp phải rút khỏi Việt Nam (như tại Syrie và Liban năm 1946). Và chỉ trong một vài tuần lễ (như tại Nam Hàn năm 1950), phe Quốc Tế Cộng Sản sẽ nhuộm đỏ toàn thể bán đảo Đông Dương.
    Khách quan mà xét, năm 1949 độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam. Chúng ta có thể sử dụng các chuyên viên Pháp là những người am hiểu phong tục tập quán, biết rơ dân t́nh nước ta, lại có những kinh nghiệm về khai thác nông lâm súc, công kỹ nghệ thương măi, xây cất cầu cống, đường sá, sông ng̣i, hải cảng, cồn đảo ... Ngoài ra họ c̣n có thể cố vấn chúng ta để xây dựng môt nền giáo dục phổ thông, một nền hành chánh hiện đại và một nền tư pháp độc lập để tiến tới tam quyền phân lập và dân chủ pháp trị.

    Về mặt phát triển chúng ta có sẵn thị trường Liên Hiệp Pháp để xuất cảng các hàng hóa và các nông, lâm, khoáng sản ... Do đó, năm 1949, độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam.

    Nhưng rồi Đảng Cộng Sản đă đưa dân tộc ta vào con đường chông gai chết chóc trong suốt 40 năm (từ 1949 đến 1989).
    Đại hạnh của Ấn Độ là có Gandhi theo Chủ Nghĩa Dân Tộc.
    Đại bất hạnh của Việt Nam là có Hồ Chí Minh theo Chủ Nghĩa Cộng Sản
    HIỆP ĐỊNH Đ̀NH CHIẾN GENÈVE VÀ HIÊP ĐỊNH H̉A B̀NH PARIS.
    Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất kết thúc bởi Hiệp Định Đ́nh Chiến Genève ngày 20-7-1954 (Geneva Armistice Agreement) giống Hiệp Định Đ́nh Chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-l953 tại Triều Tiên (Panmunjom Armistice Agreement).
    Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần túy quân sự có tác dụng “đ́nh chiến và ấn định một giới tuyến quân sự tạm thời”. Tại vùng giới tuyến thuộc quyền kiểm soát của quân đội bên nào th́ chính quyền bên ấy phụ trách việc quản trị hành chánh.
    V́ là một hiệp ước quân sự, Hiệp Định Genève chỉ mang chữ kư của 2 tướng lănh: Đại diện Quân Đội Bắc Việt là Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu (là người đă kư cả 3 Hiệp Định Geneve với tư cách đại diện cho cả Kmer Đỏ và Pathet Lào). Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương do Thiếu Tướng Henri Delteil đại diện.
    V́ không tham chiến ở Việt Nam nên Hoa Kỳ không kư vào Hiệp Định Genève.
    Quốc gia Việt Nam cũng không kư. Chiếu Hiệp Định Elysée 1949, Việt Nam là một hội viên liên kết của Liên Hiệp Pháp. Khi có chiến tranh, quân đội Việt Nam và quân đội Pháp sẽ cùng chiến đấu dưới danh nghĩa quân đội Liên Hiệp Pháp. Một Bộ Tham Mưu Hỗn Hợp được thành lập với một tướng lănh Pháp làm tư lệnh hành quân và một tướng lănh Việt Nam làm tham mưu trưởng. V́ Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần tuư quân sự, nên về phía Liên Hiệp Pháp chỉ cần có chữ kư của vị tư lệnh hành quân Henri Delteil là đủ.
    Ngày hôm sau, 21-7-1954, một Bản Tuyên Ngôn Sau Cùng khuyến cáo hai miền Nam Bắc tổ chức tổng tuyển cử năm l956. Tuy nhiên tuyên ngôn không phải là hiệp ước. V́ đây chỉ là bản Tuyên Ngôn Ư Định (declaration d’intention) không mang chữ kư của bất cứ phái đoàn nào (kể cả Bắc Việt) nên không có giá trị pháp lư (Cũng như các bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Bảo Đại ngày 11-3-1945, của Hồ Chí Minh ngày 2-9-1945 và của Sukarno ngày 17-8-1945).
    Vả lại cũng trong ngày 21-7-1954, Ngoại Trưởng Quốc GiaViệt Nam Trần Văn Đỗ và Trưởng Phái Đoàn Hoa Kỳ Bedell Smith đă ra tuyên cáo minh thị phản kháng sự áp đặt các giải pháp chính trị trong một hiệp ước quân sự, mà không có sự thỏa thuận của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam.
    Hiệp Định Đ́nh Chiến Genève, theo danh xưng, chỉ là một bản hiệp ước thuần tuư quân sự để định ranh giới ngưng bắn theo một giới tuyến (vĩ tuyến 38 tại Triều Tiên, vĩ tuyến 17 tại Việt Nam). Nó không áp đặt những giải pháp chính trị. Vấn đề thống nhất Nam Bắc là một vấn đề chính trị thuộc quyền dân tộc tự quyết sẽ do hai quốc gia ấn định sau này (như trường hợp Triều Tiên: sau hơn 60 năm vẫn chưa có giải pháp chính trị). Do đó Việt Nam Cộng Hoà không vi phạm Hiệp Định Genève khi khước từ tổng tuyển cử năm 1956.
    Hiệp Định Ḥa B́nh Paris 1973 (Paris Peace Agreement) trái lại, là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị. Trước hết về mặt nghi thức nó mang chữ kư của các đại biểu các quốc gia hay chính phủ kết ước:
    Trần Văn Lắm, Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Ḥa
    Williams Roger, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
    Nguyễn Duy Trinh, Ngoại Trưởng Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và Nguyễn Thị B́nh, Ngoại Trưởng Chính Phủ Lâm Thời “Nước” Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam.

    Điều 15 Hiệp Định Ḥa B́nh Paris quy định rằng: “Việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà b́nh trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam đồng thỏa thuận” [theo nguyên tắc nhất trí]
    Vậy mà hai năm sau, năm 1975, khi chữ kư của họ c̣n chưa ráo mực, Bắc Việt phát động chiến tranh vơ trang để thôn tính Miền Nam. Hội trường đă nhường chỗ cho chiến trường, thương nghị thỏa thuận đă bị bạo lực cưỡng chế, và phương pháp ḥa b́nh đă bị chiến tranh vơ trang xoá bỏ.
    Đây là một vi phạm thô bạo Hiệp Định Ḥa B́nh Paris.
    Luật pháp văn minh của loài người đă bị thay thế bởi luật rừng xanh.

    KẾT LUẬN
    Nói tóm lại:
    1) Phủ nhận chủ nghĩa dân tộc, Đảng Cộng Sản đă phạm sai lầm chiến lược khi theo Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh bạo động vơ trang khiến dân tộc ta phải hy sinh xương máu ṛng ră 40 năm.
    2) Đảng Cộng Sản không có công giành độc lập năm 1954 v́ Việt Nam đă được độc lập từ 1949 chiếu Hiệp Định Elysée.
    3) Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước năm 1975 v́ Việt Nam đă được thống nhất năm 1949 khi Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lănh thổ quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất.
    4) Trên b́nh diện dân tộc, 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương là những cuộc chiến tranh vô ích, vô lư và vô nghĩa.

    Nguồn: Diễn Đàn VÌ DÂN VIỆT https://groups.yahoo.com/neo/groups/...messages/44156

  6. #36
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022
    Than goi Mai Han chu thot va cac Anh Chi Em Quoc noi va Hai ngoai cua Dien dan Dat Viet - Vietland : Vi tam quan trong cua bai chu se tac dong rat lon den Quoc dan Dong bao Quoc noi va Hai ngoai tren 95 trieu nguoi .

    Biet Dich , Biet Ta tram tran tram thang !
    Chung ta vinh danh co Vang , thi chxhcnvn vinh danh co Do sao vang ,
    Boi mot nguoi cuu si quan Q LVNCH , Tien
    si Vat ly My quoc , Giang su truong Vo bi Lien quan Da lat : Tran Chung Ngoc

    Bao tuoi tre tai chxhcnvn da dang bai viet cua Tien si , cuu Si quan Quan luc Viet nam Cong hoa Tran chung Ngoc
    Moi cac anh chi em phan cong de bao ve bai chu , va Giai doc cho 93 trieu dong bao quoc noi bat hanh .
    , va rua vet nho cho Quan luc Viet Nam Cong Hoa .



    Tran trong

    Nguyen Hung Kiet
    http://tuoitre.vn/tin/theo-guong-bac...nh/338132.html
    Tai but
    Toi thiet tha mong cac Anh Chi Em cua Dien dan Dat Viet - Vietland va dac biet cac anh cuu si quan Quan luc Viet Nam Cong hoa : Ca thon , Phi Long 51 , Hungquan 25 , Tet Mau Than 68 , Nguyen Kien Hung , Pleiku , Ba Bua , Tu do cho Viet Nam ..,.hay len tieng vi La co Vang ma cac Anh da Chien dau va do mau de bao ve Tu do cho mien Nam.
    Cac Anh hay Giai doc cho 93 trieu dong bao Quoc noi , va rua vet nho cho Quan luc V NC H.

    Toi thiet tha mong cac Anh Chi Em :Khong dung tu chuoi boi tho tuc ,vi Dong bao Quoc noi dang nhin cac AC E phan cong de Giai doc ,
    Co nhu vay bai chu moi co gia tri , thuyet phuc dong bao Quoc noi .
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 02-12-2014 at 01:18 PM.

  7. #37
    Member
    Join Date
    02-05-2011
    Location
    Sài-G̣n Việt-Nam
    Posts
    84

    Lại Trần chung Ngọc!

    Anh Nguyễn hùng Kiệt ơi! tưởng anh khám phá ra điều ǵ mới mẻ chứ. Chuyện dài Trần chung Ngọc cùng nhóm Giao điểm, cùng nhau ôm đít bác, là chuyện xưa như ..trái đất, có ǵ mà ầm ỉ!
    Người xưa đă nói, ở đâu có mật, ở đó ruồi, có những con ruồi bự cở Nguyễn cao Kỳ, Đỗ Mậu, Phạm Duy, c̣n vo ve dành chút mật thừa, th́ sá ǵ ba con gịi lẻ tẻ như Trần chung Ngọc, Nguyễn ngọc Lập, Nguyễn phương Hùng anh nhỉ.
    Mà anh có biết tên ấy đă theo bác xuống địa ngục rồi chứ ?

  8. #38
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022
    Cam on Anh Nguyen Sai Gon da gop y rat hay !
    That ra trong cong cuoc dau tranh giai the che do ma fia cs ,chung ta phai lay da so.
    Nguoc lai ma fia Cs Ha noi lay thieu so, nhung ho Ma giao :su dung thieu so vnch phan phuc .
    Trong so nhung nguoi ke tren co 2 nguoi ma dong bao quoc noi men mo la :pho Tong thong Viet Nam Cong Ho a , va thien tai Nhac si Pham Duy
    Vi ho la nhung nhan vat noi tieng VNCH dam đi ve To quoc Dat me yeu dau ,va chet tren Que huong!

    Ong Ky xin chet tai Sai gon , nhung cs khong cho , vi lo so dam tang cua Ong se co hang tram ngan dong bao di du le tang !
    Cuoi cung ong chet tai Malaysia
    Than men
    Nguyen Hung Ket
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 02-12-2014 at 02:21 PM.

  9. #39
    Member
    Join Date
    15-08-2010
    Posts
    1,129

    Ôi thằng tiến sỹ Bác Hồ!!! 1/4

    Ha ha ha tiểu sinh tưởng đứa nào, chứ cái tên trở cờ này làm sao mà khiến Nguyễn Lăo Tiền Bối bấn loạn tinh thần vậy được?

    Tiểu sinh kính Nguyễn Lăo Tiền Bối bài thơ của Thần Thơ SR của Take2Tango thuở trước:


    Con thương chú NGỌC, học cao
    Chữ TRI, chữ TRÍ bỏ vào nơi đâu?
    Chữ LIÊM, chữ SỈ nát nhầu,
    Chú mong được VEM xoa đầu khen: ngoan
    SR -- take2tango


    Nó nè:



    Quote Originally Posted by Nguyen Hung Kiet View Post
    Than goi Mai Han chu thot va cac Anh Chi Em Quoc noi va Hai ngoai cua Dien dan Dat Viet - Vietland : Vi tam quan trong cua bai chu se tac dong rat lon den Quoc dan Dong bao Quoc noi va Hai ngoai tren 95 trieu nguoi .

    Biet Dich , Biet Ta tram tran tram thang !
    Chung ta vinh danh co Vang , thi chxhcnvn vinh danh co Do sao vang ,
    Boi mot nguoi cuu si quan Q LVNCH , Tien
    si Vat ly My quoc , Giang su truong Vo bi Lien quan Da lat : Tran Chung Ngoc

    Bao tuoi tre tai chxhcnvn da dang bai viet cua Tien si , cuu Si quan Quan luc Viet nam Cong hoa Tran chung Ngoc
    Moi cac anh chi em phan cong de bao ve bai chu , va Giai doc cho 93 trieu dong bao quoc noi bat hanh .
    , va rua vet nho cho Quan luc Viet Nam Cong Hoa .



    Tran trong

    Nguyen Hung Kiet
    http://tuoitre.vn/tin/theo-guong-bac...nh/338132.html
    Tai but
    Toi thiet tha mong cac Anh Chi Em cua Dien dan Dat Viet - Vietland va dac biet cac anh cuu si quan Quan luc Viet Nam Cong hoa : Ca thon , Phi Long 51 , Hungquan 25 , Tet Mau Than 68 , Nguyen Kien Hung , Pleiku , Ba Bua , Tu do cho Viet Nam ..,.hay len tieng vi La co Vang ma cac Anh da Chien dau va do mau de bao ve Tu do cho mien Nam.
    Cac Anh hay Giai doc cho 93 trieu dong bao Quoc noi , va rua vet nho cho Quan luc V NC H.

    Toi thiet tha mong cac Anh Chi Em :Khong dung tu chuoi boi tho tuc ,vi Dong bao Quoc noi dang nhin cac AC E phan cong de Giai doc ,
    Co nhu vay bai chu moi co gia tri , thuyet phuc dong bao Quoc noi .

  10. #40
    Member
    Join Date
    15-08-2010
    Posts
    1,129

    Ôi thằng tiến sỹ Bác Hồ!!! 2/4

    Ông “Tiến Sĩ Bác Hồ”

    Lê Minh


    Mỗi khi nói đến Hồ Chí Minh th́ người ta vẫn thường cho rằng đây là một nhân vật có nhiều “huyền thoại”, có viết hoài cũng không bao giờ hết được. Quả thật là đúng vậy, bởi v́ trong khi nhà nước CSVN đang ra sức tô vẽ h́nh tượng HCM và phát động “Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trên diện rộng toàn cả nước, th́ ở hải ngoại cũng xuất hiện cuốn phim tài liệu “Sự thật về Hồ Chí Minh” và cuốn DVD này hiện nay cũng đang được người dân ở trong nước chuyền tay nhau bằng mọi dạng, khiến công an cất công lùng kiếm như hồi cách đây hơn 2 năm về trước khi xuất hiện cuốn phim “Vuợt Sóng”, và đĩa nhạc DVD Asia 54 – “Bước Chân Việt Nam”.

    Cuộc chiến giữa hư và thật đang tiếp diễn th́ hệ thống báo chí “lề phải” được ông Tiến sĩ Mỹ Trần Chung Ngọc tiếp sức bằng hai bài viết có tựa đề hết sức là “ấn tượng”: “Những luận điệu bịa đặt rất rẻ tiền, vô giá trị“ đăng trên báo Hà Nội Mới ngày 2/09/2009 trong mục Chính Trị; và “30 năm tôi t́m hiểu để viết về Hồ Chí Minh“ được trịnh trọng đăng trong mục “Tư tưởng-Văn hóa” của trang báo điện tử Đảng CSVN ngày 16/09/2009.

    Ở hải ngoại, hễ nói đến ông Tiến sĩ Trần Chung Ngọc th́ có ai mà không biết. Ông rất “nổi tiếng” và đ́nh đám nữa là khác. Để hiểu ông tiến sĩ này “nổi tiếng” như thế nào th́ hăy thử gơ vào Google hàng chữ “Tiến sĩ Trần Chung Ngọc” sẽ có vô số links, website, bài viết có liên quan đến ông tiến sĩ này, nhưng xấu th́ nhiều mà tốt lành th́ hiếm.

    Theo tiểu sử cá nhân “chính gốc” trên sachhiem.net, th́ ông tiến sĩ này là “dân Ngụy” thứ thiệt, bởi v́ đă từng đi học, đi lính rồi đi học trở lại, và lại được chính quyền VNCH cho đi du học và lấy bằng tiến sĩ tại Mỹ.

    Tháng 4 năm 1975, ông cũng nhanh chân lên tàu đi tỵ nạn tại Mỹ. Và kể từ ngày đó tại hải ngoại bắt đầu xuất hiện những bài viết kư tên Trần Chung Ngọc, cổ xúy hận thù tôn giáo, đả phá Thiên Chúa Giáo, kể cả những bài viết “tô hồng” đi dần hẳn vào “lề phải”. Phải nói là ông Tiến sĩ này có sức viết rất ghê gớm, viết lung tung, viết loạn cào cào, cho nên hầu hết các bài viết đều tràng giang đại hải, nhất là từ ngày nghỉ hưu. Với gốc gác là dân khoa học, cho nên ông có lối viết rất “khoa học” v́ thường trích dẫn một đoạn ngắn (quote) các bài viết hay lời của các tác giả ngoại quốc rồi bỏ lửng, làm cho đọc giả bị rơi vào mê cung, không biết đâu mà lần, đành phải “bó tay.com”… chịu thua cách lư luận cùn của ông tiến sĩ khoa học này. Trong khi cái không cần thiết th́ ông lại trích dẫn luôn nửa trang giấy

    Mấy năm gần đây, ông tiến sĩ c̣n khoe cái tủ “Sách Hiếm” với rất nhiều thể loại sách khác nhau, những tựu trung vẫn là tôn giáo và chính trị. Mà quả thật, tủ sách của ông tiến sĩ chứa toàn những quyển sách hiếm có… người đọc! Ngoài ra ông tiến sĩ c̣n kết bạn giao du, đăng bài viết của nhiều nhà báo “lề phải”, mà một trong những nhà báo “lề phải” thuộc hàng ăn tục nói bậy phải kể đến nhà báo Chế Trung Hiếu.

    Trở lại với hai bài viết, chúng ta hăy lần lượt thử t́m hiểu xem ông tiến sĩ đă viết ǵ.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 7
    Last Post: 22-04-2013, 07:18 AM
  2. Suy nghĩ về đổi mới Đảng
    By Trungthuc5 in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 27-01-2012, 06:29 PM
  3. Đề nghị BĐH giải thích thắc mắc
    By nguoibatcao in forum Hộp Thư Liên Lạc
    Replies: 3
    Last Post: 08-04-2011, 02:18 AM
  4. Replies: 66
    Last Post: 25-10-2010, 11:31 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •