Page 6 of 18 FirstFirst ... 234567891016 ... LastLast
Results 51 to 60 of 171

Thread: Sự khác biệt giữa chính trị và tôn giáo?

  1. #51
    Member
    Join Date
    30-05-2012
    Posts
    141
    Thế nào là báng bổ, là báng bổ tôn giáo? Cho vài thí dụ cho dễ hiểu đi.
    Và tại sao báng bổ tôn giáo th́ không được?

  2. #52
    Member
    Join Date
    30-05-2012
    Posts
    141
    Có người nói: Tôn giáo là ma tuư...
    Câu nói đó có phải là báng bổ tôn giáo không? Tại sao?
    Đối với những người nghĩ rằng câu nói đó là một lời báng bổ tôn giáo, và cũng không đồng ư với chuyện báng bổ tôn giáo, th́ các vị hăy cho tôi biết là các vị muốn làm ǵ và có thể làm được ǵ đối với người nói câu đó.

  3. #53
    Member Le Thi's Avatar
    Join Date
    14-11-2010
    Posts
    1,278
    Phê b́nh , chỉ trích với thiện ư , trong tinh thần xây dựng th́ thuộc về quyền tự do phát biểu .

    Mạ lỵ , với ư đồ xấu như khích động sự hận thù , sự chia rẽ th́ dỉ nhiên là không được .

    Cái ǵ đưa ra trước quần chúng th́ đương nhiên có sự phê phán của quần chúng , dù xử dụng bạo lực cũng

    không ngăn cản được .

  4. #54
    Wizard of the East
    Khách
    Quote Originally Posted by Mr.K1ng View Post
    Nói thiền, luận đạo được nhưng có ngộ ra được cái ǵ hay không th́ là chuyện khác, khoảng cách c̣n xa vời lắm.
    Lời nói thường là do quan hệ nhân quả từ ư tưởng bên trong h́nh thành nên, có thể quan sát lời nói để truy ngược lại ư của người nói. Hành động cũng là quan hệ nhân quả từ suy nghĩ mới có hành động, như vậy dùng hành động và suy nghĩ, quan sát trong thời gian dài có thể dễ dàng đánh giá phần lớn con người, ngoại trừ loại người được đào tạo đặc biệt để che dấu lời nói và hành động.

    Tuy nhiên loại người được đào tạo để che dấu lời nói và hành động cũng không đáng ngại lắm, bởi v́ con người ta có 24h mỗi ngày, dành thời gian vào việc này th́ sẽ mất việc khác. Nếu một người dành thời gian luyện tập cách thức che dấu lời nói và hành động th́ tự bản thân người đó sẽ bộc lộ ở chỗ không có năng lực chuyên sâu và sẽ rất dễ thể hiện ra mâu thuẫn, nhất là trước khó khăn thử thách. Khó phát hiện nhất có lẽ là loại người có tài nhưng lúc c̣n trẻ hoặc khi khó khăn bị mua chuộc hoặc sa ngă, về sau thành danh hoặc thành công vẫn c̣n sự liên hệ cũ.

    Như vậy có thể thấy đánh giá con người qua bề ngoài dù sao cũng là chuyện khó, phải dựa vào nhiều phương diện như lời nói, hành động trong thời gian lâu ngày. Hành động mà không tương xứng với lời nói th́ có thể dễ dàng kết luật về người nói là con vẹt hay không. Điều này không chỉ đúng với đạo pháp, tôn giáo, mà đúng với cả nh́n nhận nhân viên, cấp dưới, thượng cấp, đối tác,... bởi v́ đó là quy luật nhân quả từ suy nghĩ đến hành động.

    Việc ngộ hay không ngộ chỉ là chuyện cá nhân. Không thể lấy việc ngộ hay không ngộ để đem ra làm thước đo trong quy tắc xă hội, thay cho các quy tắc đă được coi là chuẩn mực lâu đời như là tự do ngôn luận. Đơn giản là không ai đo được một người có ngộ hay không, và phân xử dựa trên điều đó là mơ hồ và cảm tính.

    Thứ nhất là người khác tôn giáo và người vô thần không phục. Thứ hai là tranh chấp và mâu thuẫn. Thứ ba là một việc cá nhân không có tính cách xă hội, người ta có thể nói: anh ngộ đạo hay không th́ anh hưởng thành quả đó, ảnh hưởng quái ǵ đến tôi hoặc những người khác mà lấy tiêu chuẩn ngộ đạo đem ra đo xă hội? Dù có là vị vua theo Thiên Chúa giáo cũng không nên dùng luật hoặc tiêu chuẩn Thiên Chúa để xử người Hồi giáo, nữa là một người thường.

    Như vậy dù anh thực sự ngộ đạo pháp, và anh thực sự đúng, th́ đối với những sự việc thế tục anh vẫn phải đưa ra được căn cứ dựa theo truyền thống thế tục, không phải áp đặt tiêu chuẩn của cá nhân anh lên người khác. Nó c̣n thể hiện sự khoan dung và thấu hiểu của một người thực sự ngộ đạo pháp, bởi v́ đối với người ngộ đạo pháp, không có sự khác biệt giữa cá nhân và xă hội. Anh không thể nói là ngộ đạo nếu anh không thấu hiểu khó khăn và hoàn cảnh của người khác, và không có sự khoan dung đối với hoàn cảnh của họ, trong đạo phật gọi là từ bi hỉ xả, c̣n đạo thiên chúa cũng có t́nh yêu. Kẻ áp đặt tiêu chuẩn của ḿnh lên người khác chỉ thể hiện người đó chưa ngộ ra cái ǵ, nhất là khi áp đặt lên trên một tiêu chuẩn văn minh lâu đời.

    Anh đừng lấy tiêu chuẩn ngộ đạo mà coi thường người phương Tây. Lịch sử loài người có mấy ngàn năm th́ người phương Tây cũng trải qua từng ấy năm. Họ cũng có đủ kinh nghiệm chiến tranh, tôn giáo, chính trị, thủ đoạn, họ cũng nghiên cứu văn hoá Đông Tây kim cổ, không phải ngẫu nhiên mà họ đưa ra việc bảo vệ tự do ngôn luận như là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu và đạt được những thành quả như hiện nay.

    Anyway, nếu chân lư hoặc đạo pháp là đúng th́ việc ǵ phải ra sức bảo vệ nó? Cái ǵ cần bảo vệ, cái đó là yếu ớt, nếu anh cho rằng đạo pháp cần bảo vệ trước miệng lưỡi thế gian, chẳng lẽ anh nghĩ rằng anh là kẻ mạnh có đủ sức bảo vệ đạo pháp? Và đạo pháp là thứ yếu kém cần anh bảo vệ?

  5. #55
    Đồng chí XXX
    Khách

    Đồng bào chú ư

    Quote Originally Posted by Le Thi View Post
    Phê b́nh , chỉ trích với thiện ư , trong tinh thần xây dựng th́ thuộc về quyền tự do phát biểu .

    Mạ lỵ , với ư đồ xấu như khích động sự hận thù , sự chia rẽ th́ dỉ nhiên là không được .

    Cái ǵ đưa ra trước quần chúng th́ đương nhiên có sự phê phán của quần chúng , dù xử dụng bạo lực cũng

    không ngăn cản được .
    Nói như đồng chí th́ đơn giản lắm. Tôi có giải thích đồng chí cũng chẳng hiểu

    Thứ nhất lời nói không thể hiện mục đích của người nói, bởi v́ nếu vậy không ai nói dối được. Không thể dựa vào lời nói để quy kết lời nói này là tinh thần xây dựng hay với ư đồ xấu chống phá Đảng và Nhà nước, chia rẽ người Việt Nam với dân tộc Trung Hoa? Bởi v́ cả hai loại đều có thể được thể hiện ra bên ngoài giống hệt nhau.

    Thứ hai là không thể dựa vào mục đích của người nói được. Nếu một lời nói là với ư đồ xấu chống phá Đảng và Nhà nước, nhưng hệ quả của nó chỉ ra các yếu kếm giúp nhà nước khắc phục, trở nên vững mạnh toàn diện th́ tại sao lại không khuyến khích? Cho nên có câu nói, kẻ thù của ta là thầy ta đấy đồng chí ạ, kẻ thù thường là kẻ giúp ta hoàn thiện để đối phó với hoàn cảnh, nếu ta biết nh́n nhận.

    Thứ ba thuộc về kĩ thuật cai trị. Bọn cầm quyền ở các nước đế quốc thường có xu hướng lạm dụng quyền lực, cho nên khi đặt ra ranh giới là 10m th́ người thực thi có xu hướng lấn tới 9m, 8m để làm lợi cho ḿnh và có hại cho người dân. Luật ra với mục đích bảo vệ điều tốt có thể được lợi dụng để đánh đối thủ chính trị... hoặc bọn cầm quyền sẽ giải thích luật theo hướng có lợi cho ḿnh. Cho nên tự do ngôn luận vẫn tốt hơn là ràng buộc

    Như vậy th́ chấp nhận nghe lời trái tai một chút vẫn tốt hơn là đưa ra các ràng buộc, v́ các ràng buộc sẽ ngày một thiết chặc lại đó.

    Cuối cùng, không phải là bạo lực không ngăn cản được. Bạo lực có ngăn cản được, như Đảng ta vẫn sử dụng bạo lực để trấn áp các thế lực phản động thù địch rất hiệu quả. Vấn đề là sử dụng bạo lực có cần thiết và để nhằm mục đích ǵ? Nếu sử dụng bạo lực để ngăn cản tự do ngôn luận có đáng không và hệ quả của nó sẽ rất tệ hại. Cho nên Đảng ta vẫn cho phép nhân dân tự do chửi bọn phản động đấy thôi?

  6. #56
    Member Le Thi's Avatar
    Join Date
    14-11-2010
    Posts
    1,278
    Với t/v XXX :

    Cái ǵ đồng chí với đồng rận , t/v XXX chưa bao giờ sống trong chế độ tự do dân chủ làm sao biết cái ưu việt của nó , hơn nữa c̣n bị bịt mắt , che tai

    phun thuốc mê muội , năo bộ đăo lộn , luôn luôn nh́n ngược chân lư , thôi th́ hăy im lặng , nghe các người , có quyền làm người , tranh luận với nhau ,

    may ra thức tỉnh đôi chút .

    Với t/v Cindy Ng :

    Cái người nói " tôn giáo là ma tuư " không phải chỉ muốn báng bổ tôn giáo mà muốn tiêu diệt tất cả tôn giáo .

    Lư do là cái người đó muốn đảng của ḿnh trở thành một tôn giáo duy nhất , trong đó dân bị uốn nắn để giống như một tín đồ tuyệt đối vâng lời , tuyệt đối tin tưởng chủ thuyết

    không sai , chỉ có con người sai . ( Trong thực tế , dân châm biếm rằng " sai đâu sửa đó , sai đó sửa đâu , sửa đâu sai đó ... )

    t/v C.N c̣n hỏi , nếu cho là báng bổ tôn giáo th́ các vị muốn làm ǵ và có thể làm ǵ đ/v người nói câu đó .

    Xin trả lời , không phải chỉ có các thành viên trên VL muốn làm ǵ và có thể làm ǵ đ/v người nói câu đó mà CẢ THẾ GIỚI ĐĂ LÀM RỒI , QUẤT SỤM HỆ THỐNG ĐẢNG CỦA HỌ , chỉ c̣n

    sót lại ít nơi , trong đó có VN , sắp sửa mất toàn bộ tính chất cs .

  7. #57
    Member
    Join Date
    30-05-2012
    Posts
    141
    Theo tôi biết, th́ hơi khác đó Le Thi:
    1. Người nói câu đó vẫn chễm chệ chiếm một chỗ ngồi trong hàng ghế của danh nhân thế giới.
    2. Người nói câu đó, đương thời, được Engels, một danh nhân thế giới khác, hết ḷng ngưỡng mộ, kính trọng và giúp đở.
    3. Người nói câu đó, sau khi qua đời, được Lenine, Staline, Mao, đem về thờ. Mà ba tay đó cũng lại là danh nhân thế giới, quyền lực trùm thiên hạ.
    4. Người nói câu đó, ngày nay, vẫn c̣n ngồi trên đầu bác Mao. Bác Mao vẫn c̣n ngồi trên đầu Bắc Kinh. Bắc Kinh vẫn c̣n trên đầu bác Hồ. Bác Hồ vẫn c̣n trên đầu Hà Nội. Hà Nội vẫn c̣n ngồi trên đầu 90 triệu người Việt. Mà 90 triệu người Việt trong ngoài nước, đụng đến một cọng lông của Hà Nội c̣n chưa được.
    5. Người nói câu đó, hiện nay, đang có một follower rất đặc biệt là Đạt Lai Lạt Ma, mà Đạt Lai Lạt Ma lại chính là đương kim giáo chủ của Phật Giáo Tây Tạng, là người có mức độ ảnh hưởng về Phật Giáo đối với thế giới được đánh giá là số một hiện thời, là người đă được trao tặng giải thưởng Nobel hoà b́nh,...
    h**p://en.m.wikipedia.org/wiki/14th_Dalai_Lama

    Đấy, báng bổ tôn giáo đấy. Ai cấm Marx báng bổ tôn giáo? Người đời, ai tôn kính tôn giáo th́ cứ tôn kính. Ai nguyền rủa tôn giáo th́ cứ nguyền rủa. Ai tôn kính Marx th́ cứ tôn kính. Ai nguyền rủa Marx th́ cứ nguyền rủa. Tự do tư tưởng. Tự do ngôn luận.

  8. #58
    Member
    Join Date
    20-09-2011
    Posts
    1,523
    Quote Originally Posted by CindyNg View Post
    Theo tôi biết, th́ hơi khác đó Le Thi:
    1. Người nói câu đó vẫn chễm chệ chiếm một chỗ ngồi trong hàng ghế của danh nhân thế giới.
    2. Người nói câu đó, đương thời, được Engels, một danh nhân thế giới khác, hết ḷng ngưỡng mộ, kính trọng và giúp đở.
    3. Người nói câu đó, sau khi qua đời, được Lenine, Staline, Mao, đem về thờ. Mà ba tay đó cũng lại là danh nhân thế giới, quyền lực trùm thiên hạ.
    4. Người nói câu đó, ngày nay, vẫn c̣n ngồi trên đầu bác Mao. Bác Mao vẫn c̣n ngồi trên đầu Bắc Kinh. Bắc Kinh vẫn c̣n trên đầu bác Hồ. Bác Hồ vẫn c̣n trên đầu Hà Nội. Hà Nội vẫn c̣n ngồi trên đầu 90 triệu người Việt. Mà 90 triệu người Việt trong ngoài nước, đụng đến một cọng lông của Hà Nội c̣n chưa được.
    5. Người nói câu đó, hiện nay, đang có một follower rất đặc biệt là Đạt Lai Lạt Ma, mà Đạt Lai Lạt Ma lại chính là đương kim giáo chủ của Phật Giáo Tây Tạng, là người có mức độ ảnh hưởng về Phật Giáo đối với thế giới được đánh giá là số một hiện thời, là người đă được trao tặng giải thưởng Nobel hoà b́nh,...
    h**p://en.m.wikipedia.org/wiki/14th_Dalai_Lama

    Đấy, báng bổ tôn giáo đấy. Ai cấm Marx báng bổ tôn giáo? Người đời, ai tôn kính tôn giáo th́ cứ tôn kính. Ai nguyền rủa tôn giáo th́ cứ nguyền rủa. Ai tôn kính Marx th́ cứ tôn kính. Ai nguyền rủa Marx th́ cứ nguyền rủa. Tự do tư tưởng. Tự do ngôn luận.
    Hay!!!

    Lập/ lư luận hữu lư ...

    For your information:
    Last edited by SilverBullet; 25-01-2015 at 12:16 AM.

  9. #59
    Member
    Join Date
    20-09-2011
    Posts
    1,523

    CHÍNH TRỊ ...

    Quote Originally Posted by Chí Trịnh View Post
    Trên đây, tôi thấy đa số trong quư vị là Phật tử.

    Mỗi khi đụng đến v/đ Tôn Giáo, Đạo, pháp … là bàn luận thật sôi nổi, nhưng chẳng đi đến đâu cả: “sự lư vô cùng”.

    Mạn phép được tóm tắt như sau:

    Đạo, Pháp, Tín ngưỡng … là 1 phần của Tôn Giáo.

    Chính trị cũng là 1 phần của Tôn Giáo.

    Cả 2 điều trên là 1 phần của Tôn Giáo, chứ ko phải là Tôn Giáo.

    -------------


    "châm biếm tôn giáo?". Ok!

    Nhưng báng bổ Tôn Giáo, là ko được.
    Sai ... và theo "sự thật" (như thấy trước mắt) th́

    Tôn giáo là một phạm trù của "CHÍNH TRỊ" trong bất cứ "XĂ HỘI LOÀI NGƯỜI" nào.
    Nói nôm na, ngay cả việc ăn & ị của một người cũng bị ảnh hưởng và chi phối bởi chính trị (của xă hội đó) và "tôn giáo" (tín ngưỡng...) th́ cũng chẳng là "ngoại lệ".
    Chuyện dài... nên "ngâm & nghiên cứu" về "CHÍNH TRỊ" thêm (nếu muốn thảo luận xa hơn).

    ***
    BÀN LUẬN VỀ "CHÍNH TRỊ"
    (nên xem, không bổ chiều ngang cũng bổ chiều dọc)
    ***

  10. #60
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    Mời đọc :CÁI NH̀N MỚI VỀ TÔN GIÁO

    CÁI NH̀N MỚI VỀ TÔN GIÁO CỦA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

    TS. Phạm Huy Thông

    Do bị ảnh hưởng của khuynh hướng thiên tả của một số nước theo chủ nghĩa xă hội, nên tôn giáo ở nước ta trước đây thường được xem xét dưới góc độ chính trị nên chỉ thấy những mặt tiêu cực. Khoảng độ vài chục năm trở lại đây, với quan điểm đổi mới, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đă có cách đánh giá xem xét khá mới mẻ với vấn đề luôn được coi là “ nhạy cảm và tế nhị”- đó là tôn giáo.

    Tôn giáo tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại nhưng xếp nó vào chỗ nào trong các sản phẩm của tinh thần? GS.TS Hồ Ngọc Đại cho rằng: “ Vương quốc tinh thần chia ra cho khoa học, nghệ thuật, tôn giáo. Khoa học sống bằng khái niệm. Nghệ thuật sống bằng h́nh tượng. Tôn giáo sống bằng đức tin…Khoa học cần có chứng, biện minh bằng chứng. Nhưng chứng này chỉ là cái cớ trong nghệ thuật. C̣n tôn giáo th́ chẳng cần chứng cũng chẳng cần cớ, chỉ cần tin. Mà ai tin th́ tin, không tin th́ thôi”(1). Như vậy, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo là những lĩnh vực khác nhau. Mặc dù đều thuộc lĩnh vực tinh thần nhưng chúng có đối tượng, công cụ tiếp cận khác nhau. Mà như vậy, không thể nhân danh khoa học để bác bỏ hay chứng minh sự tồn tại của tôn giáo như một vài người lầm tưởng.

    Vậy tôn giáo có phải là hiện tượng văn hoá không? Các nhà nghiên cứu trước đây không dám công nhận. V́ như vậy, nói bảo tồn văn hoá là đồng nghĩa với bảo tồn tôn giáo. Ngay cuốn “ Văn hoá Việt Nam – Tổng hợp 1989-1995” ( Ban Văn hoá văn nghệ Trung ương xuất bản 1989), dày 500 trang, liệt kê đủ phong tục, tập quán, các lọai h́nh nghệ thuật nhưng không có một ḍng nào nói đến tôn giáo. Nhưng GS Trần Quốc Vượng khẳng định: “ Nh́n nhận vấn đề tôn giáo trên quan điểm “ văn hoá học” tôi thấy thế này: xét theo lịch sử phát sinh và trưởng thành, tôn giáo vừa là một sản phẩm của văn hoá, vừa là một thành phần hữu cơ, một nhân tố cấu thành của văn hoá” ( 2).

    Cũng đồng quan điềm trên đây, GS Ngô Đức Thịnh- Viện trưởng Viện Văn hoá dân gian cho rằng: “ Xét cho cùng, mọi hệ thống biểu tượng của tôn giáo, tín ngưỡng đều là hệ thống biểu tượng của văn hoá, nó vừa chứa đựng hệ giá trị của dân tộc đồng thời là sự thể hiện bản sắc và các sắc thái của dân tộc trong một thời đại nhát định. Trong hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng đă sản sinh, tích hợp và bảo tồn nhiều hiện tượng văn hoá nghệ thuật mang sắc thái dân tộc độc đáo. Nếu nh́n vấn đề theo phương pháp hệ thống, th́ chính tôn giáo, tín ngưỡng là các yếu tố nhân lơi tạo nên hệ thống ấy. C̣n các hiện tượng văn hoá nghệ thuật chỉ là các yếu tố phát sinh. Điều này cắt nghĩa rằng, không thể cắt rời các yếu tố tín ngưỡng và sinh hoạt văn hoá kèm theo. Bất cứ một thứ tôn giáo, tín ngưỡng nào xét về bản chất của nó không bao giờ hướng tới cái xấu, cái độc ác mà luôn khuyến khích làm điều thiện, vươn tới cái đẹp, cái cao cả v́ lợi ích bản thân và cộng đồng” (3).

    V́ sao tôn giáo lại có tính hướng thiện? GS Trần Quốc Vượng lư giải: “ở trong mỗi tôn giáo lớn đều có hạt nhân triết học, đều có chủ nghĩa nhân đạo là thành tựu văn hoá lớn nhất của loài người. Cái từ bi của Phật, cái bác ái của Chúa Kitô, cái nhân nghĩa của Khổng Nho là những hạt ngọc văn hoá đó” (4).

    Tôn giáo không chỉ là nơi lưu giữ các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể mà c̣n làm cho văn hoá các dân tộc được bảo tồn. PGS.TS Nguyễn Đức Lữ- nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu tín ngưỡng, tôn giáo của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh viết: “ Thông qua sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người mà tín ngưỡng, tôn giáo đă tô đượm cho văn hoá dân tộc nhiều sắc màu. Các cơ sở thờ tự của tôn giáo thường là nơi diễn ra nghi lễ, thờ phụng của tín đồ tôn giáo, đồng thời cũng là nơi lưu giữ văn hoá truyền thống làm cho văn hoá dân tộc có sức sống trường tồn” (5).
    Trước đây có không ít người coi tôn giáo đồng nghĩa với mê tín, lạc hậu và phản khoa học. Song GS. Đặng Nghiêm Vạn- nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu tôn giáo cho rằng: “ Niềm tin tôn giáo không phải là niềm tin mê muội, cuồng tín thiếu suy nghĩ. Người tín đồ tôn giáo trước hết là người hiểu một cách trí tuệ điều ḿnh tin, điều ḿnh coi là thiêng liêng… Niềm tin tôn giáo cũng không thể là những hiện tượng được xem là phản văn hoá, trái với tiến bộ, văn minh” (6). GS. Vũ Khiêu cũng khẳng định: “ Người ta cứ nghĩ rằng, ánh sáng khoa học tiến tới đâu th́ bóng đen tôn giáo sẽ lui tới đó. Nhưng cho đến nay, khoa học vẫn không đẩy lùi được tôn giáo. Những viễn tượng phong phú của thời đại dang kích thích cả khoa học và tôn giáo. Khoa học và tôn giáo không chỉ đối chọi nhau mà c̣n là bạn đồng hành tương đối lâu dài trong cuộc hành tŕnh của nhân loại tiến về chân trời chân lư. Con người ta mỗi bước tiến đến gần chân lư th́ chân lư lại lùi xa thu hút cả khoa học và tôn giáo” (7).

    Đóng góp của tôn giáo đối với văn hoá, xă hội được nhiều nhà nghiên cứu minh chứng trong khá nhiều bài viết gần đây. Chính tâm linh tôn giáo góp phần giữ ǵn đạo đức con người, ổn định trật tự xă hội. Nó đă góp thêm một thiết chế để “giữ xă hội trong ṿng trật tự” cùng với pháp luật, dư luận. GS. Nguyễn Đ́nh Chú viết: “Xin nhớ rằng, hiến pháp có chặt chẽ đến đâu, pháp luật dù có được quy định ngóc ngách đến đâu so với sự sống thiên h́nh vạn trạng vẫn c̣n khe hở. Cảnh sát trần gian dù có đông đủ nghiêm túc đến đâu ( mà thực tế làm ǵ có nghiêm túc cả) vẫn không đủ bao hết sự đời. Phải có thêm cảnh sát cơi âm, loại cảnh sát nằm ngay trong tâm linh mỗi người, không loại trừ ai, kể cả ông vua có quyền uy tối thượng trị v́ trăm họ, mới mong đảm bảo có cuộc sống tốt lành nhiều hơn. Trong điều kiện thiện ác vốn dĩ cứ tranh chấp triền miên cùng nhân loại” (8).

    PGS.TS Nguyễn Hồng Dương- Viện trưởng viện nghiên cứu tôn giáo cũng khẳng định trong một cuốn sách chuyên khảo về tôn giáo: “ Tôn giáo nào cũng khuyên con người- tín đồ, làm lành, lánh dữ, tích đức hành thiện, yêu người, cho người đói ăn, cho kẻ khát uống. Tôn giáo dạy con người tu thân, tề gia, đưa ra những chuẩn mực trong quan hệ vua- tôi, cha – con, vợ- chồng, thày –tṛ. Hầu hết các nội dung trên là những lời răn dạy của các đấng sáng lập tôn giáo ( Chúa Trời, Phật, Thánh Ala…), trở thành quy chuẩn, mô phạm điều chỉnh những hành vi của con người, tín đồ” (9).

    Trước đây, có người phê phán đạo đức tôn giáo là uỷ mỵ, trốn đời chỉ có tác dụng “ bảo vệ chế độ bóc lột” nhưng GSTS Nguyễn Hữu Vui cho rằng: “ Lâu nay, các nhà nghiên cứu Mác xít hai loại đạo đức ( nhân loại và tôn giáo), thường chỉ nhằm mục đích là lên án, phê phán đạo đức tôn giáo, phủ nhận nó một cách triệt để, mà không thấy rằng chính trong sự khác biệt đó lại chứa đựng một mối liên hệ tác động qua lại và nhận thức mối liên hệ đó có ư nghĩa không kém phần quan trọng đối với công cuộc xây dựng xă hội mới của chúng ta” (10).

    Bởi vậy, từ lâu tôn giáo đă trở thành nhu cầu của số đông người dân. Ngay ở Việt Nam, số lượng tín đồ các tôn giáo chiếm hơn 1/4 dân số. Nếu kể cả những người theo đạo tổ tiên, ông bà th́ hầu hết đều có tôn giáo, tín ngưỡng. Cho nên tôn giáo không chỉ là nhu cầu của cá nhân mà c̣n của cả xă hội nữa. Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng viết: “ Xét về mặt đời sống xă hội th́ niềm tin là một trong những nhu cầu cơ bản không thể thiếu đối với con người. Đây là nhu cầu thuộc tâm linh. Nếu bị khủng hoảng hay mất ḷng tin vào cộng đồng th́ sẽ rối loạn hành vi. Một xă hội có niềm tin lành mạnh sẽ tạo sự ổn định trong phát triển” (11).

    Do đó, nếu nhà nước dùng các biện pháp để xoá bỏ tôn giáo là một sai lầm. GS Phạm Như Cương đă gọi sai lầm đó là “ bệnh kiêu ngạo cộng sản”: “Những sai lầm, khuyết điểm của mô h́nh chủ nghĩa xă hội kiểu cũ bao gồm cả những sai lầm trong việc thực hiện chính sách tôn giáo, nổi lên là khuynh hướng muốn xoá bỏ tôn giáo một cách nhanh chóng bằng các biện pháp hành chính và có khi bằng cả trấn áp bạo lực là một thứ chủ nghĩa vô thần cực đoan, thô thiển. Những sai lầm đó không chỉ gây tổn thất cho đời sống tinh thần của xă hội mà c̣n dẫn đến ngưng đọng sự phát triển” (12).

    GS Đặng Nghiêm Vạn- nguyên Chủ nhiệm Uỷ ban tư vấn về tôn giáo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng nhận xét tương tự: “ Thực tế đă h́nh thành trong tư tưởng cán bộ quan niệm rằng, phát triển tôn giáo là không có lợi cho cách mạng. Dó là do sự hiểu biết hạn hẹp của họ chỉ xét tôn giáo qua những hành động tôn giáo phục vụ mục đích chính trị đơn thuần, nên đă vô t́nh gay ra những đối lập không cần thiết giữa nhà nước và các tôn giáo. Do đấy dẫn đến thái độ họ không thấy vai tṛ tôn giáo trong đời sống xă hội, trên cả mặt văn hoá, đạo đức, tâm lư…Thành kiến với tôn giáo đẫn đến thu hẹp nhu cầu chính đáng của các tín đồ tôn giáo, vi phạm ngay những điều nhà nước đề ra” (13).

    Trên thế giới cũng như nhiều triều đại ở nước ta cũng đă từng duy ư chí muốn xoá bỏ tôn giáo bằng cách này hay cách khác nhưng không thành. GS Vũ Khiêu đă giải thích nguyên nhân đó: “ Tôn giáo là một hiện tượng không thể dễ xoá bỏ trước sự tấn công của chủ nghĩa vô thần. Nó là hiện tượng suy thoái lại hồi sinh, nén ép lại vùng lên, dập tắt lại bùng cháy. Duy tŕ nó hay gạt bỏ nó chỉ phụ thuộc vào sự lựa chọn của chính con người bởi nó tồn tại trong tâm linh sâu kín của con người. ở đây không có một sức mạnh nào từ bên ngoài có thể xông vào tiêu diệt nó” (14).

    Dĩ nhiên, nhà nước có thể giải thích rằng, do tôn giáo dễ bị lợi dụng, thao túng cho các mục tiêu chính trị nên phải canh chừng, cảnh giác. Nhưng GS Phạm Như Cương nói: “Dĩ nhiên việc đối phó với âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo là vấn đề quan trọng, lâu dài, cần đề cao cảnh giác nhưng thái độ pḥng thủ, bị động đó làm cho chúng ta không nh́n thấy và sử dụng hết khả năng, sức mạnh của chế độ mới trong việc biến cộng đồng tôn giáo thành một lực lượng tích cực, chủ dộng tham gia xây dựng một xă hội mới không chỉ về mặt kinh tế, vật chất mà cả tinh thần, văn hoá” (15).

    Riêng với đạo Công giáo, các nhà nghiên cứu hiện nay cũng đặc biệt quan tâm và có nhiều khám phá mới mẻ nhất là trong việc chi nhận những đóng góp của tôn giáo này với xă hội, văn hoá Việt Nam.

    Đóng góp đầu tiên được nhiều người khẳng định đó là việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ. GS Trần Quốc Vượng viết: “ Việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ hay việc latinh hoá chữ Việt, về lâu về dài đây là một thành tựu văn hoá lớn và có tác dụng sâu xa đến việc phổ biến tri thức, thông tin đến việc phát triển nền văn hoá giáo dục cận hiện đại Việt Nam. Thành tựu văn hoá này gắn với lịch sử đạo Thiên chúa ở Việt Nam và thật điên rồ khi muốn tách bạch văn hoá và tôn giáo trong đời sống xă hội ngày xưa, chỉ thừa nhận văn hoá là tích cực c̣n tôn giáo là tiêu cực” (16).

    Ngay từ đầu thế kỷ XX, nhiều chí sĩ của nhóm Duy tân, Đông kinh nghĩa thục đă coi học chữ quốc ngữ là một trong sáu kế để mở mang dân trí. Nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm nhận định: “ Các giáo sĩ người Âu đă đặt ra chữ quốc ngữ, chủ ư là để có một thứ chữ để viết tiếng ta cho tiện và dùng cho việc truyền giáo. Không ngờ rằng, vị thế lịch sử xui khiến, chữ ấy nay đă thành văn tự phổ thông của cả dân tộc Việt Nam. Đành rằng cũng như các công tŕnh do con người sáng tạo ra, thứ chữ ấy cũng có vài khuyết điểm, nhưng ta nên nhận rằng ở trên hoàn cầu này không có thứ chữ nào tiện lợi và dễ học bằng thứ chữ ấy”(17).

    Nhà văn Kim Lân c̣n dứt khoát khẳng định: “ Tôi rất biết ơn Alexandre de Rhodes. Hội Nhà văn cần phải dựng tượng ông ấy. Cái chữ nó ghê lắm. Không có ông ấy th́ tôi, bà Anh Thơ, ông Nguyên Hồng …không thể trở thành nhà văn được” (18).

    Chỉ tiếc rằng, cho đến tận hôm nay vẫn có ngựi tố cáo Alexandre de Rhodes là “ gián điệp” cho Pháp và đẻ ra thứ chữ làm mất đi chữ Hán, mặc dù ông mất gần 200 năm sau Pháp mới đến Việt Nam ( 5-11-1660) và quyết định dùng chữ quốc ngữ trong giấy tờ hành chính và thi cử ở nước ta lại do Thống sứ Băc Kỳ kư năm 1910.

    Đạo Công giáo không chỉ có đóng góp cho văn hoá Việt Nam về mặt ngôn ngữ, nó c̣n là chiếc cầu nối giao lưu giữa văn hoá Việt Nam và văn hoá phương Tây. Các tác giả của đề tài nghiên cứu KX.07 do GS Nguyễn Tài Thư làm chủ nhiệm đă nhận xét: “Nếu nói ảnh hưởng của văn hoá tư tưởng phương Tây ở Việt nam th́ chắc chắn đạo Thiên Chúa là nhân tố đầu tiên của sự ảnh hưởng này. Và như vậy, trong lịch sử, tôn giáo luôn luôn đóng vai tṛ là một trong những sứ giả đi đầu trong những cuộc viếng thăm, tiếp xúc giao lưu văn hoá giữa các dân tộc” (19).

    Đạo Công giáo cũng đóng góp cho Việt Nam trong việc truyền bá các thành tựu khoa học văn minh của nhân loại thông qua các nhà truyền giáo buổi đầu. GS Phan Huy Lê viết: “ Trong hàng ngũ giáo sĩ có những người chỉ hoạt động v́ đức tin và cũng góp phần truyền bá một số thành tựu văn minh phương Tây vào Việt Nam. Nhà toán học và thiên văn học Jean Baptisle Sanna (ư), Sebatien Pices ( Bồ), Francoi de Lima ( Bồ), Joseph Neugebeaur ( Đức), nhà y học Sibert ( Tiệp), Chales salemenski ( Hung), Jean Koffler ( Tiệp), Jean de Lourerio ( Bồ)…là những giáo sĩ đă giúp chúa Nguyễn ở Đàng Trong” (20).

    Ngay cả trong lĩnh vực kinh tế, GS Đỗ Quang Hưng cũng tán đồng nhận định của sử gia người Pháp Alain Forest : “ Xét cả trên phương diện kinh tế của vấn đề hiện đại hoá, những nhà truyền giáo phương Tây cũng đem lại những sự thay đổi về tổ chức kinh tế cho cộng đồng Kitô hữu: lối mua sắm đất đai, can dự vào việc phân chia giàu nghèo, lối làm ăn cho vay lấy lăi” (21). Điều này rất đúng với nước ta v́ người Việt Nam trước đây vốn coi trọng nghề nông, xem thường buôn bán theo thang bậc “ sĩ, nông, công, thương”.

    Mặc dù các cơ sở tôn giáo chưa được phép mở các trường phổ thông, đại học nhưng những cơ sở mẫu giáo do các cơ sở tôn giáo đảm nhiệm cũng đă được xă hội ghi nhận. TS. Đinh Thị Xuân Trang viết: “ Rơ ràng hoạt động của các ḍng tu đă góp phần khá quan trọng trong việc chủ trương xă hội hoá giáo dục , y tế…Đối với ngành học mầm non, nội dung và chất lượng nuôi dạy trẻ của các trường nuôi dạy trẻ do các ḍng tu phụ trách hầu hết là đơn vị điển h́nh, chiếm 40 % các trường ngoài công lập” (22).

    Là người có điều kiện đi nhiều nơi khắp đất nước Việt Nam, TS Nguyễn Quang Du- Tổng biên tập Tạp chí Mặt trận Tổ quốc chia sẻ: “Đồng bào Công giáo ở bất kỳ nơi đâu trên đât nước Việt Nam, không kể thành thị hay nông thôn, miền đồng bằng ven biển hay miền núi cao, hải đảo đều đồng hành cùng hoà ḿnh yêu thương lẫn nhau, yêu Tổ quốc, yêu quê hương…Chính cách nghĩ, cách làm như vậy mà đồng bào Công giáo ngày càng có vị trí xứng đáng trong cộng đồng dân tộc Việt Nam” (23).

    Đương nhiên, nếu chỉ có đồng bào các tôn giáo nói chung hay Công giáo nói riêng th́ cũng không thể xây dựng được xă hội này tiến lên mà đ̣i hỏi phải có sự chung tay góp sức của cả cộng đồng. Chẳng hạn vấn đề hội nhập văn hoá dân tộc như nhận xét của PGS.TS Nguyễn Quang Hưng: “ Hội nhập văn hoá dân tộc không chỉ là công việc riêng của người Công giáo mà nó cần sự cổ vũ, khích lệ của phía ngoài Công giáo và từ phía cấp chính quyền. Người ngoài Công giáo không nên nh́n nhận theo lối cũ, coi những yếu tố văn hoá châu Âu Kitô giáo như những ǵ xa lạ với văn hoá truyền thống, mà ngược lại, như một sự bổ sung thêm, làm phong phú văn hoá truyền thống của dân tộc. Cơ sở của cách nh́n mới chính là truyền thống khoan dung, đoàn kết, tương nhân tương ái của dân tộc ta” (24).

    Vâng, chúng ta ước mong có nhiều cái nh́n mới như vậy về tôn giáo cũng như Công giáo để đạo và đời hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn.
    Last edited by CảThộn; 25-01-2015 at 01:01 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 05-03-2013, 01:29 AM
  2. Sự khác biệt giữa Quốc Gia và Cộng Sản
    By nguoibatcao in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 12-07-2011, 12:06 PM
  3. Replies: 4
    Last Post: 14-05-2011, 02:42 AM
  4. Replies: 0
    Last Post: 10-04-2011, 02:51 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 29-01-2011, 12:28 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •