Results 1 to 4 of 4

Thread: Năm 1975 Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước

  1. #1
    Member doisoente's Avatar
    Join Date
    10-08-2010
    Posts
    335

    Năm 1975 Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước

    Năm 1975 Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước
    Duyệt lại sự thật lịch sử


    Luật Sư Nguyễn Hữu Thống - Theo sử sách của Đảng Cộng Sản, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương và ngày 3-9-1969 Hồ Chí Minh về chầu tổ Mác-Lê. Ngày nay sự thật lịch sử cho biết Đảng Cộng Sản Đông Dương không tự giải tán năm 1945, và Hồ Chí Minh đă về chầu tổ Mác- Lê ngày hôm trước, 2 tháng 9, 1969.


    Cũng vào ngày 2 tháng 9 (1945) Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập. Thực ra Việt Nam chưa độc lập năm 1945. Và ngày 2 tháng 9 không phải là Ngày Quốc Khánh. Chiếu Công Pháp Quốc Tế, Việt Nam chỉ thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3, 1949 do Hiệp Định Elysee. Trong năm này, 11 quốc gia khác tại Á Châu cũng giành được độc lập bằng đường lối chính trị và ngoại giao, không bạo động vơ trang và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.


    Tháng hai năm 2000, nhà cầm quyền Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong dịp này họ viện dẫn những thành quả đă đạt được trong nửa thế kỷ vừa qua, và tự ban cho ḿnh tư cách độc quyền lănh đạo quốc gia từ trước tới nay và từ nay về sau.


    Gạt bỏ mọi thành kiến và mọi luận điệu tuyên truyền, chúng ta chỉ căn cứ vào những tài liệu lịch sử và những văn kiện pháp lư để đưa ra những nhận định liên quan đến chủ trương đường lối của Đảng Cộng Sản.


    Dưới chiêu bài giải phóng dân tộc, Đảng Cộng Sản chủ trương đấu tranh bạo động vơ trang, vọng ngoại và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trên b́nh diện dân tộc đây là một sai lầm chiến lược khiến 3 triệu thanh niên nam nữ thuộc 3 thế hệ phải hy sinh xương máu trong 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương:


    - Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất chống Pháp và Quốc Gia Việt Nam trong 8 năm (l946-l954)


    - Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai chống Thế Giới Dân Chủ (Việt Nam Cộng Ḥa, Hoa Kỳ và Đồng Minh) trong 20 năm (l955-l975); và


    - Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba tự chống lẫn nhau trong 10 năm, chiến tranh Miên Việt kết thúc năm 1989 do sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc.


    Trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương đă đấu tranh bạo động vơ trang và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trái lại, tất cả 11 quốc gia khác đă đấu tranh ôn ḥa, hợp tác và thương nghị với đế quốc cũ để giành tự trị trong giai đoạn đầu và độc lập trong giai đoạn sau. Cũng v́ vậy họ đă tiết kiệm được nhiều hy sinh xương máu và thời gian giành độc lập được rút ngắn c̣n từ 1 đến 4 năm sau Thế Chiến II, thay v́ 40 năm như trường hợp Việt Nam.


    Năm 1919 tại Hội Quốc Liên (tổ chức tiền thân của Liên Hiệp Quốc), Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đề xướng quyền Dân Tộc Tự Quyết để khuyến cáo các Đế Quốc Tây Phương từng bước trả tự trị và độc lập cho các thuộc địa Á Phi. Từ đó trào lưu tiến hóa tất yếu của lịch sử là sự giải thể tiệm tiến của các Đế Quốc Tây Phương. Cũng trong năm này Đế Quốc Anh đă trả chủ quyền độc lập cho Canada tại Bắc Mỹ và A Phú Hăn tại Nam Á.


    Năm 1941, khi Thế Chiến II c̣n đáng tiếp diễn, theo đề nghị của Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, các Đế Quốc Tây Phương Anh Mỹ Pháp Ḥa Lan đă hội nghị tại Newfoundland Canada để công bố Hiến Chương Đại Tây Dương theo đó các thuộc địa và bảo hộ sẽ được trao trả độc lập khi Chiến Tranh kết thúc.


    Mùa xuân 1945, với sự đầu hàng của Đức Quốc Xă, 50 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc và ban hành Quyền Dân Tộc Tự Quyết trong Điều Thứ Nhất và Điều 55 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.


    Trung thành với Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945, trong 4 năm, từ 1946 đến 1949, các Đế Quốc Tây Phương Mỹ Anh Pháp Ḥa Lan đă lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu:


    Độc lập năm l946: Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ, Syrie và Liban thuộc Pháp.


    Độc lập năm l947: Ấn Độ và Đại Hồi thuộc Anh.


    Độc lập năm l948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine thuộc Anh.


    Độc lập năm l949: Việt Nam, Ai Lao, Cao Miên thuộc Pháp, và Nam Dương thuộc Hoà Lan.


    Như vậy lịch sử đă chứng minh rằng, tại Á Châu, đấu tranh không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản là đường lối khôn ngoan và hữu hiệu nhất để giành tự trị và độc lập cho quốc gia. Ngược lại, đứng vào hàng ngũ Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh vơ trang nhằm lật đổ các Đế Quốc Tây Phương là một sai lầm chiến lược. V́ đây không phải là chiến tranh giành độc lập mà là chiến tranh ư thức hệ giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ. Kinh nghiệm dân gian cho biết nơi nào trâu ḅ húc nhau th́ ruồi muỗi chết: 3 triệu thanh niên nam nữ tại Triều Tiên, 3 triệu tại Việt Nam, 2 triệu tại Miên Lào và 1 triệu tại A Phú Hăn đă hy sinh thân sống, không phải để giành độc lập cho quốc gia, mà để cho Đảng Cộng Sản cướp chính quyền.


    CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP


    Trung thành với chủ nghĩa Quốc Tế Vô Sản, Đảng Cộng Sản Đông Dương phủ định chủ nghĩa dân tộc. Họ không chủ trương đấu tranh giành độc lập v́ quốc gia dân tộc và không quan niệm độc lập quốc gia như một cứu cánh tối hậu, một mục tiêu chiến lược phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái. Lịch sử đă chứng minh rằng Đảng Cộng Sản chỉ sử dụng cuộc đấu tranh giành độc lập như một chiêu bài, một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là Cướp Chính Quyền. Họ đă chống đối và phá hoại bất cứ giải pháp độc lập nào không cho họ độc quyền lănh đạo quốc gia.


    Tại Pháp, tháng 3, l947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier và Hội Đồng các Chính Đảng (lănh đạo Quốc Hội gồm cả Đảng Xă Hội và Đảng Cộng Sản ) công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam theo đó Pháp không chủ trương tái lập thuộc địa tại Á Châu. Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất (ba miền cùng chung một lịch sử, một chủng tộc, một văn hóa và một ngôn ngữ).


    Đặc biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi kư Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đă chính thức đăng kư Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc.(1) (Everyone’s United Nations, ấn bản năm 1986, trang 332).


    Chủ quyền độc lập của Việt Nam được thừa nhận bởi Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949 kư kết giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại.


    Hiệp Định Élysée là một văn kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử ngoại giao của các quốc gia văn minh trên thế giới. Thông thường các hiệp ước và ḥa ước quốc tế đếu do các ngoại trưởng kư. Riêng Hiệp Định Élysée đă được chính Tổng Thống Vincent Auriol tự tay kư, với sự kiến thị của Thủ Tướng Henry Queille, của ngoại Trưởng Schuman, của Bộ Trưởng Quốc Pḥng Ramadier và Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Paul Coste-Floret. Từ đó, chiếu công pháp quốc tế, Việt Nam được ḥan toàn độc lập, các hiệp ước thuộc địa và bảo hộ kư với Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 đă bị Hiệp Định Élysée băi bỏ.


    Cũng trong năm l949 Trung Cộng đă dùng vơ trang thôn tính lục địa Trung Hoa. Theo sách lược của Quốc Tế Cộng Sản, việc cộng sản hóa Trung Hoa sẽ mở đầu cho việc nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Tŕêu Tiên. Trước nguy cơ này, các cường quốc Tây Phương chủ trương giữ vững Việt Nam trong hàng ngũ Thế Giớí Dân Chủ chống lại âm mưu thôn tính của Quốc Tế Cộng Sản.


    Chiếu Hiệp Định Elysée tháng 3, 1949, Việt Nam là một quốc gia liên kết với Pháp trong tổ chức Liên Hiệp Pháp nên giữa Việt Nam và Pháp có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Nay Quốc Gia Việt Nam bị đe doạ về an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm), nên Pháp có nghiă vụ phải mang quân hay điều quân để bảo vệ biên thùy của Việt Nam đồng thời là biên thùy của Liên Hiệp Pháp và của Thế Giới Dân Chủ.


    Mặc dầu vậy Đảng Cộng Sản đă phủ nhận nền độc lập này. Họ tiếp tục chiến đấu vơ trang để được độc quyền yêu nước và độc quyền lănh đạo quốc gia.


    Để vận động toàn dân tham gia kháng chiến, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa. Do đó họ phải chiến đấu vơ trang chống Pháp để giành lại độc lập cho quốc gia.


    Đây là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. V́ từ năm 1947 các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp đă quyết định không tái lập chế độ thuộc địa tại Á Châu và tán thành nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam. Trước đó, năm 1946, Pháp đă trả độc lập cho Syrie và Liban theo chủ trương của Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945.. Và trong năm 1947, như đă tŕnh bầy, Pháp đă đăng kư Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. Tháng 3, 1949, bằng Hiệp Định Elysée, Tổng Thống và Quốc Hội Pháp đă chính thức thừa nhận chủ quyền độc lập và thống nhất của Quốc Gia Việt Nam.


    CUỘC THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC


    Năm l975 Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước. V́ theo quốc tế công pháp, Quốc Gia Việt Nam đă được độc lập và thống nhất từ năm l949 chiếu Hiệp Định Élysée ngày 8-3-l949.


    Một tháng rưỡi sau, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, ngày 23-4-l949, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lănh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất (với 45 phiếu thuận và 6 phiếu chống).


    Tuy nhiên Đảng Cộng Sản đă phủ nhận nền độc lập này và đă phá hoại nền thống nhất này. V́ Hiệp Định Élysée không cho họ độc quyền lănh đạo quốc gia. Do đó họ vẫn tiếp tục chiến đấu vơ trang và đă kư Hiệp Định Genève chia đôi đất nước để cướp chính quyền tại Miền Bắc năm l954. Và rồi, với sự yểm trợ của Quốc Tế Cộng Sản, họ lại tiếp tục chiến đấu vơ trang để thôn tính Miền Nam năm l975.


    Kể từ năm 1955, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Mỹ đă thay thế Pháp để thống trị Miền Nam. Do đó họ phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. V́ quân đội Hoa Kỳ chiến đấu tại Triều Tiên và Việt Nam không phải để thống trị hai quốc gia này mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ.


    Tấm bản đồ Việt Nam ông cha chúng ta đă đổ bao xương máu để tạo lập nên hồi đầu thế kỷ 19. Sau này, v́ yếu thế, chúng ta phải nhượng cho Pháp 6 tỉnh Miền Nam. Năm 1949 đồng bào Miền Nam đă hành sử quyền dân tộc tự quyết để thâu hồi chủ quyền lănh thổ và bồi đắp tấm bản đồ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Tuy nhiên, bằng chiến tranh vơ trang, Hồ Chí Minh đă cầm tay xé đôi tấm bản đồ năm 1954 để cướp chính quyền tại Miền Bắc. Và rồi, năm 1975, cũng bằng chiến tranh vơ trang, Đảng Cộng Sản đă cướp chính quyền tại Miền Nam. Rồi họ lấy băng keo dán 2 mảnh dư đồ lại và tuyên bố rằng: “Đảng Cộng Sản có công thống nhất đất nước!


    Chúng ta đưa ra những nhận định này trên cương vị người nghiên cứu sử học và luật học, chứ không với tư cách cán bộ tuyên truyền cho một chủ thuyết hay một chế độ chính trị nào.


    CÁC PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TẠI Á CHÂU


    Muốn có cái nh́n khách quan và trung thực, chúng ta hăy đối chiếu công cuộc đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc khác tại Á Châu.


    Sau Thế Chiến II, trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương là đă đấu tranh vơ trang, bạo động và liên kết với Quốc Tế Công Sản. Trái lại các đảng quốc gia tại 11 nước Á Châu khác đă chủ trương đấu tranh ôn ḥa, không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.


    Một năm sau Thế Chiến II, từ l946 đến l949, tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh và Hoà Lan đă lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu.


    1946: Phi Luật Tân độc lập


    Hoa Kỳ đi tiền phong trong cuộc giải phóng thuộc địa. Nguyên là một cựu thuộc địa, Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhân dân Hoa Kỳ có cảm t́nh với những phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Á Phi.


    Đầu thập niên 1930, Luật Sư Quezon, lănh tụ Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân đến Hoa Thịnh Đốn vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự trị và độc lập cho Phi Luật Tân. Năm l934 Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật Tydings-McDuffie Act công nhận Phi Luật Tân là một quốc gia tự trị (dominion) từ 1935. Trong đạo luật này có khỏan quy định rằng, 10 năm sau, đúng Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ (4 tháng 7, 1945) Phi Luật Tân sẽ được hoàn toàn độc lập. Tuy nhiên tới ngày đó, Chiến Tranh Thái B́nh Dương chưa kết thúc, nên Phi Luật Tân chỉ được tuyên bố độc lập ngày 4-7-1946 (trễ một năm v́ lư do chiến cuộc).


    Trong thời chiến tranh, Luật Sư Quezon được mời tham gia Ủy Ban Chiến Tranh vùng Thái B́nh Dương, và người phụ tá của ông, Luật Sư Roxas hoạt động t́nh báo cho Tướng McArthur. Khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân là “Độc Lập do Hợp Tác” (Independence through Cooperation).


    1946: Syrie và Liban độc lập.


    Nếu Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc, th́ Pháp cũng là quốc gia có truyền thống Tự Do, B́nh Đẳng, Bác Ái tiến bộ nhất trong lịch sử loài người.


    Tại Syrie và Liban, lănh đạo phong trào giải phóng dân tộc là Đảng Nhân Dân tại Syrie và Luật Sư Dabbas tại Liban. Dabbas đă từng du học tại Paris, nơi đây ông hay biết rằng, bên cạnh các đảng bảo thủ chủ trương duy tŕ thuộc địa c̣n có Đảng Xă Hội Pháp chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa.


    Năm 1936 Mặt Trận B́nh Dân nắm chính quyền, Thủ Tướng Xă Hội Léon Blum kư hiệp ước với Syrie và Liban để trả tự trị cho 2 quốc gia này. Và 10 năm sau, năm 1946 quân đội Liên Hiệp Pháp triệt thoái để trả độc lập cho Syrie và Liban (Thời gian này tại Trung Đông chưa có nguy cơ xâm nhập của Staline).


    1947: Ấn Độ và Đại Hồi độc lập.


    Sau các Đế Quốc Hoa Kỳ và Pháp, đến lượt Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. Tới Thế Chiến II, Anh Quốc đă thành lập được một đế quốc hùng mạnh nhất từ cổ chí kim chạy từ Bắc Mỹ qua Âu Châu, Phi Châu, Á Châu và Úc Châu. Người Anh thường tự hào nói: “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh”. Vậy mà 2 năm sau Thế Chiến II, năm 1947, Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể.


    Tại Ấn Độ, 3 nhà lănh đạo phong trào giải phóng dân tộc là các Luật Sư Gandhi, Nehru và Jinnah. Các vị này đă từng du học tại Anh, nơi đây họ hay biết rằng, bên cạnh Đảng Bảo Thủ chủ trương duy tŕ thuộc địa, c̣n có Đảng Lao Động Anh chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa như Đảng Xă Hội Pháp.


    Năm 1947 Thủ Tướng Lao Động Clement Attlee trả độc lập cho Ấn Độ và Đại Hồi, và qua năm sau, 1948, trả độc lập cho Miến Điện, Tích Lan và Palestine, mặc dầu mọi phản kháng của Churchill, lănh tụ Đảng Bảo Thủ.


    Khác với Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Quốc Hội Ấn Độ chủ trương đấu tranh công khai, ôn ḥa, hợp pháp, không bạo động, không vọng ngoại và nhất là không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.


    Với một dân số quá đông (gần 400 triệu, so với 20 triệu ở Việt Nam năm 1945), trong một xă hội chậm tiến, nghèo đói, thất học, với những mâu thuẫn trầm trọng về tôn giáo, chủng tộc, ngôn ngữ, đẳng cấp và giai cấp, cuộc đấu tranh tại Ấn Độ 10 lần khó hơn tại Việt Nam. Vậy mà, dưới sự lănh đạo của Gandhi, Ấn Độ đă giành được độc lập 2 năm sau Thế Chiến II, trong khi dân tộc ta đă phải hy sinh xương máu ṛng ră trong 40 năm.


    1948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine độc lập.


    Người anh hùng dân tộc Miến Điện là Aung San (thân phụ bà Aung San Suu Kyi hiện lănh đạo phong trào Dân Chủ tại Miến Điện). Cũng như Gandhi, Aung San t́nh nguyện chiến đấu trong Quân Đội Hoàng Gia Anh. Cùng với U Nu, ông thành lập Liên Đoàn Nhân Dân Tự Do Chống Phát Xít để hợp tác với Đế Quốc Anh, chống Nhật...


    Năm l948 Miến Điện được trao trả độc lập.


    Tại Tích Lan Hiến Pháp năm l931 ấn định thời gian tập sự tự trị là 15 năm. Với chủ trương “Thiện Chí và Hợp Tác” (Good Will and Cooperation), Đảng Quốc Gia Tích Lan đă giành được tự trị năm l945 và độc lập năm l948. Cũng trong năm này Palestine thoát quyền giám hộ của Đế Quốc Anh.


    1949: Nam Dương độc lập.


    Sau các Đế Quốc Mỹ, Pháp, Anh đến lượt Đế Quốc Hoà Lan tự giải thể năm l949. Phong trào giải phóng dân tộc Nam Dương được phát động bởi giới trí thức du học Ḥa Lan. Trong khi Đảng Cộng Sản theo sách lược bạo động vơ trang th́ Đảng Quốc Gia Nam Dương chủ trương đấu tranh ôn ḥa bất bạo động bằng canh tân và giáo dục. Sukarno lập Câu Lạc Bộ Văn Hoá Bandung và Hatta lập Hội Giáo Dục Quốc Gia Nam Dương để nâng cao dân trí và chấn hưng dân khí. Hatta du học 10 năm tại Hoà Lan và Luật Sư Sjahrir đă từng gia nhập Đảng Lao Động Hoà Lan trong thời gian du học.


    Năm 1942 Nhật chiếm đóng Nam Dương, Sukarno hợp tác với Nhật. Tháng 8, l945 Nhật đầu hàng Đồng Minh, Sukarno tuyên bố Nam Dương độc lập. Nhưng rồi quân đội Ḥa Lan theo chân quân đội Anh sang giải giới quân đội Nhật, Sukarno chủ trương thương nghị với Hoà Lan.


    Trong những năm l946 và l948, Đảng Cộng Sản Nam Dương phát động chiến đấu vơ trang để phá thương nghị. Thời gian này nước láng giềng Phi Luật Tân đă được độc lập. Tổng Thống Truman vận động Liên Hiệp Quốc áp lực Hoà Lan phải ḥa đàm với chính phủ Sjahrir. Lúc này Hoa Kỳ đang thực thi Kế Hoạch Marshall để tái thiết Âu Châu thời hậu chiến nên tiếng nói của Hoa Kỳ có trọng lượng đối với Ḥa Lan. Hội Nghị Bàn Tṛn La Haye được triệu tập dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Tháng 12-1949, do Hiệp Ước La Haye, Hoà Lan thừa nhận chủ quyền độc lập của Nam Dương. (2)


    STALINE THIẾT LẬP ĐẾ QUỐC SÔ VIẾT


    Như vậy từ 1946 đến 1949 tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh, Hoà Lan đă lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu.


    Trong khi đó tại Đông Âu Staline thiết lập Đế Quốc Sô Viết bằng cách thôn tính 3 nước Baltic là Lithuanie, Lettonie và Estonie. Sau đó Liên Xô dựng “Bức Màn Sắt” tại 7 nước Đông Âu là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Albanie, Bulgarie, và Roumanie. Từ đó, chiến tranh lạnh hay chiến tranh ư thức hệ bộc phát giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ.


    Các nhà lănh đạo phe Thế Giới Dân Chủ như Truman, Churchill và De Gaulle nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương v́ họ không muốn Staline mở rộng bức màn sắt từ Đông Âu qua Đông Á.


    Riêng tại Việt Nam, De Gaulle cũng nhất quyết không trao Nam Kỳ cho Hồ Chí Minh v́ Nguyễn Ái Quốc là cán bộ của Staline tại Đông Dương.


    Cũng v́ vậy hồi tháng 12-1945 De Gaulle đă mời Cựu Hoàng Duy Tân từ đảo Réunion tới Paris thương nghị.


    Nhiều tài liệu lịch sử cho biết De Gaulle đă chấp thuận trên nguyên tắc để Duy Tân về nước đầu năm l946. Trước đó, hai bên sẽ kư một hiệp ước công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Chính Phủ Việt Nam sẽ được toàn quyền quản trị về mặt nội bộ. Tuy nhiên v́ lúc này Đảng Cộng Sản đă cướp chính quyền tại Miền Bắc, nên quân đội Pháp c̣n phải ở lại Việt Nam một thời gian với tư cách quân đội Liên Hiệp Pháp để yểm trợ Việt Nam giải quyết các vấn đề an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm). Theo quy chế Liên Hiệp Pháp, giữa Pháp và Việt Nam có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Do đó quân đội Pháp có nghĩa vụ bảo vệ biên cương của Việt Nam, đồng thời là biên cương của Liên Hiệp Pháp.


    Rất tiếc là mùa Giáng Sinh 1945 Duy Tân đă tử nạn máy bay trên sa mạc Trung Phi trên đường từ Paris về đảo Reunion thăm nhà. Nhiều người cho đây là vụ phá hoại. Nguyên nhân phi cơ phát hỏa là v́ "hết xăng". Đây là một nguyên nhân hy hữu v́ không một phi hành đoàn nào chịu cất cánh nếu máy bay không chứa đủ săng nhớt.


    Việc Duy Tân mất đi là một đại bất hạnh cho Việt Nam cũng như cho Pháp. V́ nếu đầu năm l946 Duy Tân về nước lập chính phủ quốc gia giành tự trị, độc lập và thống nhất cho Việt Nam th́ chiến tranh Việt Pháp sẽ có cơ tránh được. Hồ Chí Minh sẽ không c̣n được độc quyền yêu nước và có lẽ chẳng c̣n ai muốn gia nhập Đảng Cộng Sản nữa (năm 1945 Đảng Cộng Sản chỉ có 5 ngàn đảng viên).


    Lúc này Đảng Cộng Sản Pháp đă thông báo cho Staline và Hồ Chí Minh biết De Gaulle đă có giải pháp quốc gia về Việt Nam. Cũng v́ vậy, ngày 11- 11-1945, Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương. Rồi thành lập chính phủ liên hiệp quốc gia với sự tham gia của Cách Mạng Đồng Minh Hội (với Nguyễn Hải Thần) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (với Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam) để làm b́nh phong thương nghị với Pháp.


    Ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, nhân danh chính phủ liên hiệp, Hồ Chí Minh kư Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và chấp thuận mọi điều khỏan mà De Gaulle đă thỏa thuận với Duy Tân: Việt Nam là một nước tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được đồn trú tại Bắc Kỳ trong thời hạn 5 năm.


    Sau đó ngày 14-9-l946 tại Paris, Hồ Chí Minh đă đến nhà riêng của Moutet để xin kư Thỏa Ước Tạm Thời (Marius Moutet là đồng chí cũ trước khi Hồ Chí Minh bỏ đảng Xă Hội để gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp).


    Tuy nhiên mặc dầu lúc này De Gaulle đă từ nhiệm, các nhà lănh đạo Thế Giới Dân Chủ vẫn nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương.


    Theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản Hồ Chí Minh phát động chiến tranh vơ trang ngày 19-12-1946.


    Bằng hành động gây chiến này Hồ Chí Minh đă vi phạm Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và Thỏa Ước Tạm Thời Moutet.


    Do đó, 3 tháng sau, tháng 3, 1947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier cùng Hội Đồng các Chính Đảng Pháp công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam, theo đó Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất.


    Ngoài ra, cũng trong năm 1947 tại Liên Hiệp Quốc, Pháp đă chính thức đăng kư 3 nước Đông Dương (Việt Miên Lào) là những quốc gia độc lập.


    Như vậy từ năm 1947 Pháp đă quyết định trao trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam và đă đăng kư Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. (Sở dĩ Việt Nam không được gia nhập Liên Hiệp Quốc v́ gặp sự phản kháng của Liên Xô hành sử quyền phủ quyết.)


    Năm 1947, nếu Hồ Chí Minh là người yêu nước, nếu Nguyễn Ái Quốc là nhà ái quốc biết đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi đảng phái, th́ ông ta đă phải ngưng chiến cho phe quốc gia có điều kiện ḥa đàm và kư kết với Pháp một hiệp ước để giành lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam.


    Tuy nhiên Hồ Chí Minh không phải là người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc không phải là nhà ái quốc nên ông ta vẫn tiếp tục đẩy tới chiến tranh vơ trang để phá vỡ mọi giải pháp độc lập quốc gia.


    Mặc dầu vậy các Chính Phủ Pháp kế tiếp vẫn trung thành với Quyết Nghị của các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp năm 1947.


    Tháng 12, 1947, Cao Ủy Bollaert kư Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long với Quốc Trưởng Bảo Đại để thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam. Hiệp Ước Sơ Bộ này được chính thức hóa bởi Thông Cáo Chung Vịnh Hạ Long tháng 6,1948 kư kết giữa Cao Ủy Bollaert và Chính Phủ Quốc Gia Lâm Thời, với sự bối thự của Quốc Trưởng Bảo Đại. Theo Hiệp Ước này Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của Việt Nam và Việt Nam được tự do tiến hành thủ tục thực hiện thống nhất quốc gia chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết.


    Và tại Điện Elysée (Paris) Tổng Thống Vincent Auriol, nhân danh Tổng Thống Cộng Ḥa Pháp và nhân danh Chủ Tịch Liên Hiệp Pháp, đă kư với Quốc Trưởng Bảo Đại Hiệp Định Elysée ngày 8-3-1949 Công Nhận Việt Nam Thống Nhất và Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp.


    Do Quyết Nghị ngày 23-4-1949 Quốc Hội Nam Kỳ đă giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lănh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất.


    Ngày 6-6-1949, theo thủ tục khẩn cấp, Quốc Hội Pháp phê chuẩn Hiệp Định Elysée về khoản giao hoàn Nam Kỳ cho Quốc Gia Việt Nam. Ngày 2-2-1950 Quốc Hội Pháp phê chuẩn toàn bộ Hiệp Định Elysée với 12 Phụ Ước và 30 Đính Ước bổ túc. Cũng trong tháng này Hoa Kỳ, Anh Quốc và Thái Lan chính thức thừa nhận Quốc Gia Việt Nam do Chính Phủ Bảo Đại đại diện.


    Chúng ta không nên có thành kiến cho rằng gia nhập Liên Hiệp Pháp là vi phạm chủ quyền quốc gia. V́ các nước Ấn Độ, Đại Hồi, Canada, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan v.v... cũng là những quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Anh.


    Về mặt an ninh quốc pḥng, nếu năm 1949 Việt Nam không gia nhập Liên Hiệp Pháp th́ quân đội viễn chinh Pháp phải rút khỏi Việt Nam (như tại Syrie và Liban năm 1946). Và chỉ trong một vài tuần lễ (như tại Nam Hàn năm 1950), phe Quốc Tế Cộng Sản sẽ nhuộm đỏ toàn thể bán đảo Đông Dương.


    Khách quan mà xét, năm 1949 độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam. Chúng ta có thể sử dụng các chuyên viên Pháp là những người am hiểu phong tục tập quán, biết rơ dân t́nh nước ta, lại có những kinh nghiệm về khai thác nông lâm súc, công kỹ nghệ thương măi, xây cất cầu cống, đường sá, sông ng̣i, hải cảng, cồn đảo... Ngoài ra họ c̣n có thể cố vấn chúng ta để xây dựng môt nền giáo dục phổ thông, một nền hành chánh hiện đại và một nền tư pháp độc lập để tiến tới tam quyền phân lập và dân chủ pháp trị.


    Về mặt phát triển chúng ta có sẵn thị trường Liên Hiệp Pháp để xuất cảng các hàng hóa và các nông, lâm, khoáng sản... Do đó, năm 1949, độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam.


    Nhưng rồi Đảng Cộng Sản đă đưa dân tộc ta vào con đường chông gai chết chóc trong suốt 40 năm (từ 1949 đến 1989).


    Đại hạnh của Ấn Độ là có Gandhi theo Chủ Nghĩa Dân Tộc.


    Đại bất hạnh của Việt Nam là có Hồ Chí Minh theo Chủ Nghĩa Cộng Sản


    HIỆP ĐỊNH Đ̀NH CHIẾN GENÈVE VÀ HIÊP ĐỊNH H̉A B̀NH PARIS.


    Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất kết thúc bởi Hiệp Định Đ́nh Chiến Genève ngày 20-7-1954 (Geneva Armistice Agreement) giống Hiệp Định Đ́nh Chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-l953 tại Triều Tiên (Panmunjom Armistice Agreement).


    Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần túy quân sự có tác dụng “đ́nh chiến và ấn định một giới tuyến quân sự tạm thời”. Tại vùng giới tuyến thuộc quyền kiểm soát của quân đội bên nào th́ chính quyền bên ấy phụ trách việc quản trị hành chánh.


    V́ là một hiệp ước quân sự, Hiệp Định Genève chỉ mang chữ kư của 2 tướng lănh: Đại diện Quân Đội Bắc Việt là Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu (là người đă kư cả 3 Hiệp Định Geneve với tư cách đại diện cho cả Kmer Đỏ và Pathet Lào). Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương do Thiếu Tướng Henri Delteil đại diện.


    V́ không tham chiến ở Việt Nam nên Hoa Kỳ không kư vào Hiệp Định Genève.


    Quốc gia Việt Nam cũng không kư. Chiếu Hiệp Định Elysée 1949, Việt Nam là một hội viên liên kết của Liên Hiệp Pháp. Khi có chiến tranh, quân đội Việt Nam và quân đội Pháp sẽ cùng chiến đấu dưới danh nghĩa quân đội Liên Hiệp Pháp. Một Bộ Tham Mưu Hỗn Hợp được thành lập với một tướng lănh Pháp làm tư lệnh hành quân và một tướng lănh Việt Nam làm tham mưu trưởng. V́ Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần tuư quân sự, nên về phía Liên Hiệp Pháp chỉ cần có chữ kư của vị tư lệnh hành quân Henri Delteil là đủ.


    Ngày hôm sau, 21-7-1954, một Bản Tuyên Ngôn Sau Cùng khuyến cáo hai miền Nam Bắc tổ chức tổng tuyển cử năm l956. Tuy nhiên tuyên ngôn không phải là hiệp ước. V́ đây chỉ là bản Tuyên Ngôn Ư Định (declaration d’intention) không mang chữ kư của bất cứ phái đoàn nào (kể cả Bắc Việt) nên không có giá trị pháp lư (Cũng như các bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Bảo Đại ngày 11-3-1945, của Hồ Chí Minh ngày 2-9-1945 và của Sukarno ngày 17-8-1945).


    Vả lại cũng trong ngày 21-7-1954, Ngoại Trưởng Quốc GiaViệt Nam Trần Văn Đỗ và Trưởng Phái Đoàn Hoa Kỳ Bedell Smith đă ra tuyên cáo minh thị phản kháng sự áp đặt các giải pháp chính trị trong một hiệp ước quân sự, mà không có sự thỏa thuận của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam.


    Hiệp Định Đ́nh Chiến Genève, theo danh xưng, chỉ là một bản hiệp ước thuần tuư quân sự để định ranh giới ngưng bắn theo một giới tuyến (vĩ tuyến 38 tại Triều Tiên, vĩ tuyến 17 tại Việt Nam). Nó không áp đặt những giải pháp chính trị. Vấn đề thống nhất Nam Bắc là một vấn đề chính trị thuộc quyền dân tộc tự quyết sẽ do hai quốc gia ấn định sau này (như trường hợp Triều Tiên: sau hơn 60 năm vẫn chưa có giải pháp chính trị). Do đó Việt Nam Cộng Hoà không vi phạm Hiệp Định Genève khi khước từ tổng tuyển cử năm 1956.


    Hiệp Định Ḥa B́nh Paris 1973 (Paris Peace Agreement) trái lại, là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị. Trước hết về mặt nghi thức nó mang chữ kư của các đại biểu các quốc gia hay chính phủ kết ước:


    Trần Văn Lắm, Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Ḥa

    Williams Roger, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ

    Nguyễn Duy Trinh, Ngoại Trưởng Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và Nguyễn Thị B́nh, Ngoại Trưởng Chính Phủ Lâm Thời “Nước” Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam.


    Điều 15 Hiệp Định Ḥa B́nh Paris quy định rằng: “Việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà b́nh trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam đồng thỏa thuận” [theo nguyên tắc nhất trí]


    Vậy mà hai năm sau, năm 1975, khi chữ kư của họ c̣n chưa ráo mực, Bắc Việt phát động chiến tranh vơ trang để thôn tính Miền Nam. Hội trường đă nhường chỗ cho chiến trường, thương nghị thỏa thuận đă bị bạo lực cưỡng chế, và phương pháp ḥa b́nh đă bị chiến tranh vơ trang xoá bỏ.


    Đây là một vi phạm thô bạo Hiệp Định Ḥa B́nh Paris.


    Luật pháp văn minh của loài người đă bị thay thế bởi luật rừng xanh.

  2. #2
    Member doisoente's Avatar
    Join Date
    10-08-2010
    Posts
    335
    KẾT LUẬN


    Nói tóm lại:


    1) Phủ nhận chủ nghĩa dân tộc, Đảng Cộng Sản đă phạm sai lầm chiến lược khi theo Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh bạo động vơ trang khiến dân tộc ta phải hy sinh xương máu ṛng ră 40 năm.


    2) Đảng Cộng Sản không có công giành độc lập năm 1954 v́ Việt Nam đă được độc lập từ 1949 chiếu Hiệp Định Elysée.


    3) Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước năm 1975 v́ Việt Nam đă được thống nhất năm 1949 khi Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lănh thổ quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất.


    4) Trên b́nh diện dân tộc 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương là những cuộc chiến tranh vô ích, vô lư và vô nghĩa.


    5) V́ vậy Đảng Cộng Sản không có tư cách và không có tính chính thống để độc quyền lănh đạo quốc gia. Và chế độ CS phải được giải thể để người dân được quyền mưu cầu hạnh phúc trong chế độ Dân Chủ Pháp Trị, trong đó các dân quyền và nhân quyền được tôn trọng, kinh tế quốc gia được phát triển và công bằng xă hội được thực thi.




    Ls Nguyễn Hữu Thống

    danlambaovn.blogspot .com



    ____________________ __________________


    Chú thích:


    (1) Đặc biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi kư Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đă chính thức đăng kư 3 nước Đông Dương Việt Miên Lào là những quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc (Everyone’s United Nations, ấn bản năm 1986, trang 332). Declaration on decolonization. Date in parentheses shows the year of independence: Indochina comprising Cambodia, Laos and Vietnam (1947).


    (2) Hai quốc gia c̣n lại Mă Lai và Tân Gia Ba trong Liên Bang Mă Lai Á. Năm 1948 Đảng CS Mă Lai lập chiến khu chiến đấu vơ trang. Để dẹp nội loạn, chính phủ Anh ban hành t́nh trạng thiết quân luật. Từ năm 1952 Đảng Quốc Gia Mă Lai đưa ra chủ trương “độc lập do hợp tác chủng tộc” kết hợp các sắc dân Mă Lai, Trung Hoa và Ấn Hồi. Luật Sư Abdul Rahman đă từng làm phó chưởng lư tại Anh. Abdul Razah phục vụ trong quân đội Hoàng Gia Anh thời Thế Chiến Hai. Sau 5 năm tự trị, Mă Lai được độc lập năm 1957.



    Năm 1965 đến lượt Tân Gia Ba được giải phóng do chủ trương ‘’độc lập nhờ liên lập’’ (với Mă Lai trong Liên Bang Mă Lai Á). Luật Sư Lư Quang Diệu đă từng gia nhập Luật Sư Đoàn Luân Đôn và Đảng Lao Động Anh trong thời gian du học. In 1963, Singapore joined The Federation of Malaya. Singapore became independent in 1965.

  3. #3
    Member
    Join Date
    09-06-2011
    Posts
    447
    Ai nói là VC không có" công" chứ !

    VC cũng có "công",đó là công CƯỚP NƯỚC và BÁN NƯỚC.

  4. #4
    Member
    Join Date
    13-06-2011
    Posts
    4,171
    Nh́n vào sử Việt các công dân quốc tế có quyền cười khanh khách vào mặt bọn CS hanoi ,tại sao ?

    Tại v́ trước hết chúng "có công" chia cắt nước Vn ra làm hai rồi dùng máu mấy triều đồng bào Việt làm keo crazy clue để "có công" dán dính lẹo lại , vậy thôi ..

    Cũng như một đứa con nít làm bể cái chén Kiểu ra làm hai mảnh rồi lượm lại dùng crazy clue "thống nhất" thành trở lại cái chén Kiểu .

    Ai muốn khen đứa con nít này dán khéo tay hay giơi th́ cứ khen . Chớ con nít hàng xóm khác được quyền nh́n nó mà dạy đời rằng :

    - Đă sơ ư làm bể cái Chén là vướn tội lơ đểnh, lo ra rồi (ngoài đời chỉ cần có một giây phút nào đó lo ra/lơ đểnh khi lái xe là có thể tự lấy đi cái mạng sống chính bản thân ḿnh rồi).... C̣n hà tiên keo kiệt đi lượm lại "thống nhất" dán dính vào thay v́ đi mua cái chén Kiểu mới .Chừng nào giữ kỹ lưởng từ đâu chí cuối sao cho c̣n nguyên vẹn hoài hoài măi măi mới là tài t́nh, là hay .

    CS hanoi thử bỏ công, bỏ sức đi xóa luôn cái vết dán dính lẹo này đi :D..Nhất là dán rất dở ẹt bằng thứ keo"đánh tư sản ngoại bản", thứ keo "đi vùng kinh tế mới", thứ keo "trại căi tạo".....th́ giỏi chổ nào đây ! .. khg bể ra làm 2, ba ,làm bốn lần nữa là xem như CS hanoi có số may mắn rồi đó ..

    Câu hỏi được đặt ra :

    - Có bao giờ thấy người Nhật tự đặt tay xuống kư chấp nhận sự chia hai lănh thổ Nhật khg ? Ngay cả ở thế "bị bại" trên Tàu Missouri .

    Chứng tỏ nước Nhật từ đầu chí cuối vẩn là một nuớc nguyên vẹn một mảnh ..Nh́n vào sử Nhật dù có vết nhơ "bị bại thê thảm ăn Nuke" thời ww2, người ta cũng có quyền kiêu căng, hảnh diên nữa ..

    Đằng này Đảng CS hanoi ở thế "chiến thắng huy ḥang DBP" đi vào bàn hội nghi Genève ăn xin nước Vn ra làm hai mảnh :p.. coi sư nhục đến đâu ...ở đó mà c̣n luận bàn có tài dán dính lẹo hai mảnh VN sau đó . Phải chi dán dính bằng ḥa b́nh khg đổ máu như tụi Đức đi... th́ ai ai cũng giở nón hoan hô ...Đằng này dán bằng cuộc chiến Huynh đê tương tàn th́ thế giới có quyền cười khinh khi măi măi cái đảng CS VN..

    Một cái sử nhục nhả tát vào bản mặt đảng CS Hanoi như vậy mà cứ cái tật tối ngày sáng đêm hể sắp tới mùa cuối tháng Tư mỗi năm cũng ráng ca cho bằng được cái bài :

    "Có công thống nhất" .
    Last edited by Viet xưa; 19-02-2015 at 10:38 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 25-10-2012, 06:38 PM
  2. Replies: 6
    Last Post: 30-03-2012, 09:38 AM
  3. NÀNG - Phim trước năm 1975 miền nam VN sản xuất
    By nguoibatcao in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 3
    Last Post: 10-08-2011, 07:04 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 12-11-2010, 01:14 PM
  5. Replies: 14
    Last Post: 02-10-2010, 11:42 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •