Page 1 of 3 123 LastLast
Results 1 to 10 of 26

Thread: Chuyện tàu Việt Nam Thương Tín 2

  1. #1
    Member
    Join Date
    31-03-2011
    Location
    http://letungchau.blogspot.com/
    Posts
    140

    Chuyện tàu Việt Nam Thương Tín 2

    Chuyện tàu Việt Nam Thương Tín 2 - Phần 1



    "'Give Us A Ship': The Vietnamese Repatriate Movement on Guam, 1975" by Jana K. Lipman
    - Tạp Chí American Quarterly Volume 64, Issue 1 (số ra tháng 3 năm 2012)

    Nguồn: Thư Viện Phạm Văn Thành

    Admin: Trong chúng ta hẳn ai cũng biết Chuyện tàu Việt Nam Thương Tín hồi 30 tháng Tư 1975 đă từ Saigon ra đi đến đảo Guam rồi mà quay về lại Việt Nam tháng 10/ 1975 để rồi tất cả gần 1600 người trong đó 80% là sĩ quan và viên chức VNCH bị tống vào trại cải tạo mười mấy năm.
    Từ đó tới nay đă 4 chục năm chẵn, quái lạ thay, tuy khá nhiều người trong số ngàn người lâm nạn nói trên vẫn c̣n sống sót và đang sinh sống tại Hoa Kỳ cũng như nhiều nước Tự Do ở phương Tây...lại chẳng có mấy ai công tâm viết lại Sự Thực tàn nhẫn này cho sử sách được ghi. Thỉnh thoảng có một vài ḍng kể chuyện nhưng hầu hết là những tự sự manh mún riêng tư kể lể than thở trong phạm vi cái tôi nhỏ nhoi riêng tư của những cá nhân...
    Nay chúng tôi được một thân hữu gởi cho tài liệu biên khảo bằng Anh ngữ có tựa "Give Us A Ship" 31 trang của Jana K. Lipman (người Cuba, Phó Giáo sư - Tiến sĩ, Đại Học Yale, 2006) đă công bố trên American Quarterly Volume 64, Issue 1 (ra tháng 3 năm 2012). [American Quarterly là tạp chí chính thức của Hiệp hội Nghiên cứu Hoa Kỳ (American Studies Association)], nhận thấy tài liệu quá hoàn bị, quư báu, nghiêm túc, công phu và khách quan, chứa nhiều chi tiết, diễn biến đáng kinh ngạc...chưa từng công bố nên nay chúng tôi đăng phần Việt dịch (Lê Tùng Châu dịch và gởi đến Thư Viện Phạm Văn Thành) trong loạt bài tưởng niệm 40 năm Tháng Tư Đen và cũng để cống hiến bạn đọc một tài liệu quư.
    V́ bài này khá dài (31 trang) và chia làm 6 tiểu mục, do đó chúng không đăng hết 1 lần mà cứ 2 ngày đăng từng phần một, mong bạn đọc đón theo dơi.
    Bên dưới mỗi phần có văn bản Anh ngữ nguyên văn của phần đó để bạn đọc tiện đối chiếu.
    Một ít dấu ngoặc [...] là do người dịch chú.
    Ở phần cuối (Phần 6 cũng là Phần Kết) chúng tôi sẽ có downloadable link của tài liệu này (dạng .pdf) cho bạn đọc tải về lưu trữ riêng nếu cần.

    -March 28, 2015-



    Jana K. Lipman là một chuyên gia vào thế kỷ 20 của Mỹ, chuyên sâu về lịch sử bang giao, xă hội và chính trị giữa Mỹ với Cuba và Việt Nam.



    Nguyên tác "'Give Us A Ship': The Vietnamese Repatriate Movement on Guam, 1975"
    by Jana K. Lipman - Tạp Chí American Quarterly Volume 64, Issue 1 (số ra tháng 3 năm 2012)


    "‘Hăy để chúng tôi về’: Chuyện những người Việt hồi hương từ đảo Guam, năm 1975"
    Lê Tùng Châu dịch


    Một phóng viên quân đội Mỹ đă ghi ảnh cuộc tọa kháng tuyệt thực của người hồi hương vào tháng 9/ 1975. nguồn ảnh: Cục Lưu trữ Liên bang Mỹ







    Vào tháng 9 năm 1975 một nhóm người Việt với quyết tâm cao đă tham gia một cuộc biểu t́nh chính trị được chuẩn bị và dàn dựng công phu trong một trại tị nạn của Mỹ tại Guam.
    Bốn người đàn ông xung phong cạo trọc đầu trước đám đông nhằm công khai bày tỏ sự phản kháng. Một bục sân khấu nhỏ dựng tạm với đám đông người Việt bu quanh đă chứng kiến nghi thức cạo đầu.
    Một nhân viên quần chúng sự vụ của quân đội Mỹ trên đảo ghi nhận kháng nghị. Ông đứng từ xa quan sát các sự kiện, và h́nh ảnh cuối cùng được ghi nhận là khung dây kẽm gai được khép lại quanh người biểu t́nh Việt để cách ly.
    Phía sau người biểu t́nh là một biểu ngữ, nội dung tuyên thị được viết bằng chữ tiếng Anh tô đậm: "Ba mươi sáu giờ, Bất bạo động, Tọa kháng và Tuyệt thực, để thỉnh cầu được sớm hồi hương" (1)

    Những người này đă được xếp đặt một cách có chủ ư để biểu thị hành động biểu t́nh, thông qua h́nh ảnh nổi bật nói trên, họ muốn đạo đạt thông điệp của họ đến người Mỹ, người đảo Guam, người Việt, và Văn pḥng Cao Ủy Tị Nạn LHQ (UNHCR), nơi quyết định tương lai của họ.

    Trái ngược hẳn với hơn 100.000 người Việt lúc ấy mong t́m cơ hội sao cho nhanh chóng được tái định cư tại Hoa Kỳ, lúc này hơn 1.500 người đàn ông và phụ nữ đă rời Việt Nam trong những tuần cuối cùng của cuộc chiến, lại nằng nặc đ̣i được về nước bất chấp tương lai sẽ ra sao. Họ không muốn tái định cư tại Hoa Kỳ. Họ muốn trở về Việt Nam.
    Chuyện người Việt hồi hương như thế này đưa ra một diễn biến trái ngược hẳn với quan điểm chủ đạo lúc bấy giờ về chuyện người Việt đến Hoa Kỳ. Như Yên Lê Espiritu đă lập luận, chính phủ Hoa Kỳ và các phương tiện truyền thông chính thức đă cố ư xếp đặt người tỵ nạn Việt Nam là một khối dân được nước Mỹ và người Mỹ "cứu vớt", và thông qua việc giải cứu họ, Hoa Kỳ có thể chuộc lỗi và xóa vết tích tham chiến ở Việt Nam. (2)
    Những người hồi hương nhất quyết đ̣i trở về Việt Nam, từ chối viễn cảnh mà người Mỹ đang định xếp đặt cho họ nói trên. Hơn thế nữa, khác với hầu hết các thông tin thu thập được về quá tŕnh lịch sử của người Mỹ gốc Việt vốn từ lâu đă đặt ra một vấn nạn về sự tiếp nhận và biến đổi văn hóa, vấn đề đồng hóa, bản sắc, rồi h́nh thành cộng đồng…ở thời điểm này, những người hồi hương c̣n khiến chúng ta chú ư tới những bất trắc trong tương quan hiện thời giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, cả về không gian lẫn thời gian.
    Trong thời điểm hỗn loạn này ở cuối cuộc chiến, một tính toán dự pḥng có khả năng đạt được một tác động kép đặc biệt. Nó bao gồm một tính toán nước đôi có lợi cho người hồi hương Việt. Một mặt, nó bác bỏ một đặt để gán ép nào đó cho tương lai đồng thời nhấn mạnh khả năng của cả hai điều, tương tác và cơ hội; Trong khi mặt khác, nó khơi gợi sự tin tưởng và các mối tương liên: một sự kiện hay việc làm này diễn biến ra sao tất nhiên c̣n tùy thuộc vào việc tiếp theo.
    Duyệt lại câu chuyện đă đi vào lịch sử về những người Việt hồi hương hồi 1975 khiến ta giật ḿnh kinh ngạc v́ nó hoàn toàn đảo ngược những tường tŕnh đă được công nhận về những cuộc di dân thời chiến tranh lạnh, về chuyện tái định cư người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ (3)
    Những người đàn ông và phụ nữ muốn quay về Việt Nam nhận ra tính linh động của vấn đề và họ hiểu cần phải có một lập trường cứng rắn nếu không muốn được mang đến Hoa Kỳ cùng với đại đa số các đồng hương của họ. Chiến thuật gay gắt của họ bên trong các trại tị nạn (và vào những thời điểm khác, bên ngoài) đă đi ngược lại các quy phạm chiến tranh lạnh vốn đă chi phối tương quan Việt-Mỹ dù đôi bên đă nhất quán hết hay chưa hoàn toàn, ít nhất là từ những năm 1950.
    Nói cách khác, hành động của họ chẳng khớp với một nền chính trị theo cộng sản hay chống cộng, trong khi đó, nhiều hướng đă mở ra cho họ qua - lại giữa Việt Nam, Guam và Hoa Kỳ càng cho thấy khả năng họ coi thường tất cả những kỳ vọng ngay cả trong lúc diễn ra cuộc di tản quy mô do quân đội Mỹ điều khiển.
    Trên một b́nh diện khác, câu chuyện của những người Việt muốn quay về bộc lộ mối liên quan hỗ tương giữa các tổ chức địa phương, quốc gia và quốc tế, bao gồm Guam, chính phủ Mỹ, UNHCR, và hai chính phủ Việt Nam (Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam và chính phủ Dân chủ Cộng hoà ở miền Bắc Việt Nam) (4) Hành động quá khích, các cuộc biểu t́nh và những lời khẩn cầu của những người Việt đ̣i trở về này được hướng tới tất cả các đối tượng khác biệt chính kiến kể trên … nhưng cuối cùng tương lai của tất cả họ lại tùy thuộc vào quyết định của chính phủ Mỹ và chính phủ Việt cộng mới thắng trận.
    Cuối cùng, t́nh huống bất ngờ này cũng đă ghi một dấu mốc trong lịch sử đế quốc của Mỹ với việc thu chiếm các vùng lănh thổ cho dù không được nguyên khối, không tóm thâu hết được ngay một lúc mà từng cái một theo từng lúc một. Như Amy Kaplan đă lập luận, cần phải "nh́n được ư nghĩa của t́nh huống này trong quan niệm về đế quốc, để thấy rằng chủ nghĩa đế quốc là một mạng lưới của các mối tương quan quyền lực" (5) Do vậy, có thể nói rằng những cuộc phản đối ồn ào của người Việt đ̣i trở về đă diễn ra ở Guam, ḥn đảo được xác định bởi di sản thuộc địa của nó với Hoa Kỳ. Trong mạch này, câu chuyện của họ gom cùng những chuyện tương truyền về di cư, về đế quốc, cùng tụ về đảo Guam năm 1975.

    Tọa lạc ở một nơi cách Hawaii gần bốn ngàn dặm dài (và gần sáu ngh́n dặm cách California), Guam cho ta thấy rơ những khó khăn và nhẫn nại của cường quốc Hoa Kỳ.
    Năm 1975, Guam trở thành đầu cầu của người tỵ nạn, tiếp nối dự án mở rộng cường quốc vào thế kỷ XIX, với những mục tiêu không thành thời chiến tranh lạnh của Hoa Kỳ trong khu vực Đông Nam Á.
    Trong thế hệ trước, nhiều học giả đă vạch ra tầm tối trọng của việc nghiên cứu sâu rộng về đề tài đế quốc Hoa Kỳ vốn đă bị "lăng quên"; mặc dù dự án mở rộng đế quốc Hoa Kỳ vẫn tiến triển ngay trong thời cận đại.
    Các học giả như Kaplan, Kris-tin Hoganson, Paul Kramer, Julian Go, Eileen Findley, và Christina Duffy Burnett đă xem xét lại cuộc chiến tranh năm 1898 và các cuộc chiếm đóng của Mỹ ở Cuba, Philippines, và Puerto Rico, thế nhưng Guam vẫn chỉ có phần như một ghi chú nhỏ của lịch sử (6)
    Về nhiều phương diện th́ Guam là một đơn cử cho quan niệm của Ann Laura Stoler về một nơi "bị ám ảnh bởi đế quốc", mà cô định nghĩa như là một thứ di sản kế thừa thời thực dân tuy vô h́nh, quen thuộc, nhưng lắm lúc vẫn đe dọa. Đặc biệt, công tŕnh của Stoler đă buộc các sử gia Hoa Kỳ phải nghiêm túc vượt qua năo trạng đế quốc, đặt ra một thách thức cho các học giả trong việc phân tích cách thế nuôi dạy con cái, giáo dục, trải nghiệm t́nh dục… như là các đầu mối then chốt trong việc kiểm soát thuộc địa và quyền lực.
    Như Stoler đă thừa nhận, công việc của cô cốt ám chỉ chứ nhưng không đào sâu các thuộc tính "hung hăng, bạo hành trong các nhà tù, trại lính, và các trung tâm giam giữ" mà cô đă từng ghi chú "nhấn mạnh để ư nhiều hơn nữa" (7)
    Câu chuyện hồi hương chỉ bộc lộ một chút chính trị vi mô thoáng qua như thế đă diễn ra trong một trại tị nạn nằm bên ŕa cường quốc Mỹ to lớn (8)
    Những nan giải về người hồi hương đă thu hút sự chú ư đến hệ thống các trại tị nạn của Mỹ lâp trên đảo Guam, vốn đă hoàn toàn bị làm ngơ, cả về mặt tin tức thông thường lẫn xem xét mang tính học thuật. Đến nay, trải nghiệm của người hồi hương chỉ c̣n mờ nhạt khắc họa bềnh bồng trong lăng quên của đảo Guam, nhưng qua việc dựng lại câu chuyện của họ, cả di sản thuộc địa của Hoa Kỳ trên đảo Guam lẫn cuộc chiến không có hậu của Mỹ ở Việt Nam mới khả dĩ nổi bật lên.

    Câu chuyện hồi hương cũng làm nẩy ra một đề tài lớn cho các học giả về di trú và tị nạn. Ngày càng nhiều các học giả chuyên lĩnh vực nhập cư Mỹ đă phân tích cách thế nước này mở ra lối vào ra sao cho người lao động, người tị nạn, các trường hợp kết hôn (có thể là giả), và thậm chí mượn đường thông qua trẻ em được nhận làm con nuôi nữa (9)

    Ngược lại, người hồi hương Việt t́m cách thay đổi đà lưu chuyển ḍng người đi từ Hoa Kỳ. Các văn bản và h́nh ảnh lưu trữ gồm cả hồ sơ trước đây chưa được khai thác của quân đội Mỹ, tờ báo Pacific Daily News Guam, và một cuốn hồi kư Việt ngữ độc đáo, gợi ra viễn cảnh đa chiều cho người Việt tị nạn, những mâu thuẫn giữa các quan chức Guam và Mỹ, cùng cảm giác gấp rút và tuyệt vọng về mọi mặt.

    Có lẽ những trường hợp tương đồng nhất với trải nghiệm của người hồi hương Việt là những mẩu chuyện thời Chiến tranh Lạnh: những kẻ đào ngũ, hồi chánh, và tù nhân chiến tranh, mà Susan Carruthers đă rất khéo léo phân tích trong cuốn “Tù nhân Chiến tranh Lạnh: Tù đày, Vượt ngục, và Tẩy năo". Với những trường hợp trốn thoát và bị bắt giữ riêng lẻ vào thập niên 1940 và 1950, Carruthers lập luận rằng "chiến tranh lạnh đă bị thổi phồng ảo khi kê ra 2 mặt của 1 sự thể, nếu không bỏ chạy th́ sẽ bị bắt giam"(10) Kiểu giam cầm cũng như trùng hợp vào t́nh trạng của người hồi hương. Tuy nhiên, ở đây là thay v́ giải pháp vượt thoát cá nhân th́ hành động tập thể là yếu tố vô cùng quan trọng trong chiến dịch tranh đấu của họ và rồi tất cả đă bị giới truyền thông Mỹ làm ngơ hồi năm 1975. Câu chuyện của họ đă góp thêm vào các nghiên cứu ngày càng nhiều về đề tài di trú thời Chiến tranh Lạnh được hoàn bị hơn trong khi nhấn mạnh đến t́nh huống ngẫu nhiên và bản chất đa chiều của cuộc di dân trong thời điểm bất định ấy.

    Rốt cuộc, nếu chuyện sử về người Việt hồi hương mà phủ nhận truyền thuyết người Mỹ cứu vớt người tỵ nạn th́ hoặc cũng không thể được diễn giải là một sự từ khước đáng khen của chủ nghĩa đế quốc Mỹ hoặc xem là một chiến thắng cách mạng đầy tiểu thuyết.
    Trên thực tế, sự kiên cường của người hồi hương và các cuộc biểu t́nh thành công đă đưa đến một trong những kết thúc bi thảm ít được biết đến của cuộc chiến.
    Vào tháng 10 năm 1975, 1.546 người hồi hương đă lên con tàu Thương Tín I, một thương thuyền Việt, và mạo hiểm quay trở lại Việt Nam mà không có sự chấp thuận của Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam (PRG) hay Cộng ḥa Dân chủ ở miền Bắc Việt Nam (DRV).
    Thuyền trưởng tàu hồi hương, Trần Đ́nh Trụ, đă nói rành rẽ trước khi rời đảo Guam rằng: "Tôi cảm thấy nỗi buồn tràn ngập trong ḷng, và không sao cầm được nước mắt, bởi tôi chẳng biết chắc là ḿnh đang trở lại với gia đ́nh và quê hương hay đang làm một chuyến hành tŕnh vào địa ngục." (11) (nguyên văn: "I felt utter sorrow flooding over me, and tears welled up in my eyes, unsure if I was coming back to my family and my homeland or journeying into the nether world"

    Và tôi biết rơ, khi đến Việt Nam, PRG đă tống giam hết thảy người hồi hương vào tù cải tạo. (12)

    Thế là, đoàn người hồi hương đă đi từ một “trại tạm cư” của Mỹ tại Guam để đến với hệ thống nhà tù có tên gọi mỹ miều là "trại cải tạo" (reeducation camps) ở Việt Nam, ở đó họ được hưởng những điều kiện tốt hơn nhiều như lao động nặng, bị bỏ đói, tra tấn... chứ chẳng có ǵ dính dáng đến “giáo dục” (“education”) (13)
    Những yếu tố chính trị mà người Việt hồi hương phải đối mặt được tŕnh bày qua bài tham cứu này đă lộ ra một thế giới chính trị xa biệt vời vợi đầy bất trắc giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, xa biệt hơn cả những yếu tố quốc gia-nhà nước có thể hiểu được.
    Thứ nhất, nó lư giải ngắn gọn quá tŕnh thuộc địa của đảo Guam và đặt Guam làm trung tâm cho các trại tị nạn Mỹ dành cho người Việt chạy loạn vào năm 1975.
    Thứ hai, nó khảo sát nhiều hướng giải thích lư do người Việt cả nam lẫn nữ trưng ra khi chối từ tái định cư tại Hoa Kỳ và chọn đường quay về. Câu chuyện của họ là bằng chứng của t́nh trạng hỗn loạn vào cuối cuộc chiến, tâm trạng hoang mang và và hoàn toàn không có cơ hội chọn lựa của nhiều người đă được di tản.
    Thứ ba, câu chuyện chú ư đến sự tập hợp của những người đ̣i trở về và sử dụng có hiệu quả phương cách bất tuân dân sự, hùng biện, và thậm chí bạo lực và phá hoại nữa để gây xúc tác cho chiến dịch. Từ đó, bài viết này phân tích sự chấp thuận cuối cùng của chính phủ Mỹ cho phép người hồi hương trở về theo nguyện vọng bất chấp sự ngần ngại của UNHCR, điều đă dẫn đến việc Thương Tín I trở lại Việt Nam do chính họ điều khiển.

    Cuộc đấu tranh của đoàn người hồi hương Việt đă gây được tiếng vang thời đó, họ biểu lộ những áp lực phải chịu khi bị giam hăm trong một t́nh thế đầy biến động, như thể nhắm chú mục thiên hạ chú ư tới một kiểu mô thức của một thể chế quyền thế... Đồng thời, câu chuyện của họ cũng chẳng rơi vào một phép tính rành mạch. Chúng không đem lại chút cứu chuộc nào cho cuộc chiến đế quốc của Mỹ ở Việt Nam mà cũng chẳng đưa đến vinh quang cho chính quyền Cách mạng Việt Nam lúc ấy. Thay vào đó, lịch sử về cuộc hồi hương của người Việt chỉ tô đậm sự bấp bênh của t́nh huống lúc ấy và sự lựa chọn ám ảnh suốt đời khi ma đưa lối quỷ đưa đường người tị nạn lại trở về với chính thân phận họ giữa ḷng thù địch của 2 thế quyền sau hơn một thập kỷ chiến tranh.

    -hết trang 5-

    (c̣n tiếp Phần 2: Trại tị nạn trên đảo Guam)

    Bài Liên Quan: Chuyện tàu Việt Nam Thương Tín - Thư Viện Phạm Văn Thành tổng hợp

    --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

    Tài liệu tham khảo liệt kê bởi tác giả

    I would like to thank the U.S. Army Military History Institute’s General and Mrs. Matthew B. Ridg-way Research Grant and Tulane’s School of Liberal Arts Lurcy Grants for their generous support for this research. In addition, I would like to thank Marguerite Nguyen, Bac Hoai Tran, Marline Otte, Michael Wood, Elisabeth McMahon, Wendy Pearlman, Joe McCary, Crystal Parikh, and the NYU Symposium on the Politics and Poetics of Refugees for their insights and commentary on this work.

    1. Bob Cobble, untitled image, September 13, 1975, NARA, RG 319 Records of the Army Staff, Deputy Chief of Staff for Operations and Plans, Records Re: Operations New Life and New Arrivals, 1975–76. Hereafter cited as RG 319, box 19. (All photographic images included in this article can be found in NARA, RG 319, Box 19.)

    2. Yen Le Espiritu, “Toward a Critical Refugee Study: The Vietnamese Refugee Subject in US Scholarship,” Journal of Vietnamese Studies 1.1–2 (2006): 410–33; Espiritu, “The ‘We-Win-Even-When-We-Lose’ Syndrome: U.S. Press Coverage of the Twenty-Fifth Anniversary of the ‘Fall of Saigon,’” American Quarterly 58.2 (2006): 329–52; and Ayako Sahara, “Operation New Life/Arrivals: U.S. National Project to Forget the Vietnam War” (University of California, San Diego, MA thesis, 2009).

    3. For recent key works in Vietnamese American studies, see Sucheng Chan, The Vietnamese American 1.5 Generation: Stories of War, Revolution, Flight, and New Beginnings (Philadelphia: Temple University Press, 2006); Karin Aguilar San Juan, Little Saigons: Staying Vietnamese in America (Minneapolis: University of Minnesota Press, 2009); and Thuy Vo Dang, “The Cultural Work of Anticommunism in the San Diego Vietnamese American Community,” Amerasia Journal 31.2 (2005): 65–86.

    4. The southern PRG and the northern DRV coexisted in concert, but as separate governments until reunification in 1976.

    5. Amy Kaplan, “Violent Belongings and the Question of Empire Today Presidential Address to the American Studies Association, October 17, 2003,” American Quarterly 56.1 (2004): 1–18.

    6. Amy Kaplan, “‘Left Alone with America: The Absence of Empire in the Study of American Culture,” in Cultures of United States Imperialism, ed. Amy Kaplan and Donald Pease (Durham, N.C.: Duke University Press, 1993); Louis Perez Jr., The War of 1898: The United States and Cuba in History and Historiography (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 1998); Kristin Hoganson, Fighting for American Manhood: How Gender Politics Provoked the Spanish-American and Philippine American Wars

    (New Haven, Conn.: Yale University Press, 2000); Paul Kramer, Blood of Government: Race, Empire, the United States, and the Philippines (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2006); Julian Go, American Empire and the Politics of Meaning: Elite Political Cultures in the Philippines and Puerto Rico during U.S. Colonialism (Durham, N.C.: Duke University Press, 2008); Eileen Findlay, Imposing Decency: The Politics of Sexuality and Race in Puerto Rico, 1870–1920 (Durham, N.C.: Duke University Press, 2000); and Christina Duffy Burnett and Burke Marshall, eds., Foreign in a Domestic Sense: Puerto Rico, American Expansion, and the Constitution (Durham, N.C.: Duke University Press, 2001). There is also a growing literature on Guam and the Pacific Islands. See Michael Lujan Bevacqua, “Chamorros, Ghosts, Non-voting Delegates: GUAM! Where the Production of America’s Sovereignty Begins” (PhD diss., University of California, San Diego, 2010); Keith Camacho, Cultures of Commemoration: The Politics of War, Memory, and History in the Mariana Islands (Honolulu: University of Hawai‘i Press, 2011); and The Insular Empire: America in the Marianas, dir. Vanessa Warheit (2010).

    7. Ann Laura Stoler, “Tense and Tender Ties: The Politics of Comparison in North American History and (Post) Colonial Studies,” Journal of American History 88.3 (2001): 829–65; Stoler, ed., Haunted by Empire: Geographies of Intimacy in North American History (Durham, N.C.: Duke University Press, 2006); Stoler, “Intimidations of Empire: Predicaments of the Tactile and Unseen,” in Stoler, Haunted by Empire, 1, 4, 9–10; see also Benedict Anderson, Specters of Comparison: Nationalism, Southeast Asia, and the World (New York: Verso, 1998), 3, 21–22.

    8. There is an extensive literature on “camps,” which has proliferated in response to Giorgio Agamben’s philosophical work and the political reality of detention camps after September 11. For a sampling, see Giorgio Agamben, Homo Sacer: Sovereign Power and the Bare Life (Palo Alto, Calif.: Stanford University Press, 1998); Agamben, State of Exception, trans. Kevin Attell (Chicago: University of Chicago Press, 2005); Peter Nyers, Rethinking Refugees: Beyond States of Emergency (New York: Routledge Taylor and Francis Group, 2006); and A. Naomi Paik, “Testifying to Rightlessness: Redressing the Camp Narra-tives of US Culture and Law” (PhD diss., Yale University, 2009).

    9. Matthew Jacobson, Barbarian Virtues: The United States Encounters Foreign Peoples at Home and Abroad, 1876–1917 (New York: Hill and Wang, 2001); Jorge Duany, Puerto Ricans on the Move: Identities on the Island and in the United States (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2001); Catherine Cezerina Choy, Empire of Care: Nursing and Migration in Filipino American History (Durham, N.C.: Duke University Press, 2003); and Laura Briggs, “Making ‘American’ Families: Transnational Adoption and U.S. Latin American Policy,” in Stoler, Haunted by Empire, 344–65.

    10. Susan Carruthers, Cold War Captives, Imprisonment, Escape, and Brainwashing (Berkeley: University of California Press, 2009), 21.

    11. Tran Dinh Tru, Vietnam Thuong Tin Con Tau Dinh Menh, trans. Bac Hoai Tran (Houston: Liviko Printing, 1994), 299. Vietnam Thuong Tin Con Tau Dinh Menh can be found in the Library of Con-gress. The translation is in the author’s possession.

    12. Larry Clinton Thompson, Refugee Workers in the Indochina Exodus, 1975–1982 (Jefferson, N.C.: McFarland, 2010), 72–73; Chan, Vietnamese American 1.5 Generation, 64–65.

    13. For works on “reeducation camps,” see James Freeman, Hearts of Sorrow: Vietnamese American Lives (Palo Alto, Calif.: Stanford University Press, 1991); Doan Van Toai and David Chanoff, The Vietnamese Gulag (New York: Simon and Schuster, 1986); Nghia M. Vo, The Bamboo Gulag: Political Imprisonment in Communist Vietnam (Jefferson, N.C.: McFarland, 2004); and Andrew Pham, The Eaves of Heaven: A Life in Three Wars (New York: Random House, 2008).
    Last edited by Lê Tùng Châu; 17-04-2015 at 12:24 PM.

  2. #2
    Member
    Join Date
    31-03-2011
    Location
    http://letungchau.blogspot.com/
    Posts
    140

    Văn bản nguyên văn Phần 1 "Give Us A Ship"

    Văn bản nguyên văn:

    “Give us a Ship”: The Vietnamese Repatriate Movement on Guam, 1975

    Jana K. Lipman


    In September 1975 a group of determined Vietnamese men participated in an elaborate and highly choreographed political demonstration in a U.S. refugee camp on Guam. Four men volunteered to have their heads shaved in a public performance of dissent. A makeshift platform served as a stage, and dozens of Vietnamese men witnessed the ritual head-shaving. A U.S. military public affairs officer documented the protest. He observed the event from a distance, and the final image was framed by barbed wire and attested to the Vietnamese protesters’ confinement. In the background, a banner proclaimed boldly in English, “Thirty-Six Hours, Hunger Sit-In, Quiet, Hair Shaving Off, To Pray for a Soon Repatriation.”1 The men were organized and purposeful in their actions, and through striking visuals they directed their message to the American, Guamanian, Vietnamese, and the United Nations High Commission on Refugees (UNHCR) officials who controlled their future. For in contrast to the more than 100,000 Vietnamese who sought and soon gained resettlement in the United States, more than 1,500 men and women who left Vietnam in the final weeks of war insisted in no uncertain terms on being repatriated. They did not want to resettle in the United States. They wanted to return to Vietnam.

    The story of Vietnamese repatriates provides an unsettling counternarrative to the dominant story of Vietnamese immigration to the United States. As Yen Le Espiritu has argued, the U.S. government and the mainstream media consciously positioned Vietnamese refugees as a population to be “saved” by America and Americans, and through their rescue, the United States could redeem and erase its imperial war in Vietnam.2 The repatriates’ consistent demands to return to Vietnam rejected this U.S.-scripted fantasy. Furthermore, unlike most accounts of Vietnamese American history, which have emphasized questions of acculturation, assimilation, identity, and community formation, the repatriates turn our attention to contingency at the moment in between Vietnam and the United States both temporally and spatially.
    The politics of contingency possesses a special resonance in this chaotic moment at the end of a war. Contingency encompasses a doubleness that became acute for Vietnamese repatriates. On the one hand, contingency refutes a preordained future and emphasizes the possibility of both agency and chance, while on the other hand, contingency implies dependence and interrelationship—on e event or action is of course contingent on the next. The history of the Vietnamese repatriates startles and surprises because it so thoroughly upends accepted narratives of Cold War migration and Vietnamese Americans’ resettlement in the United States.3 The men and women who wanted to return to Vietnam recognized the moment’s fluidity and the need to take an aggressive stand if they did not wish to be couriered to the United States with the vast majority of their conationals. Their strident tactics inside (and at times, outside) the refugee camps contradicted the Cold War norms that had governed U.S.-Vietnam relations consistently, yet consistently imperfectly, since at least the 1950s. Their actions simply did not fit a politics of communism or anticommunism. Instead, repatriates’ multidirectional routes back and forth between Vietnam, Guam, and the United States demonstrated their ability to defy all expectations even in the midst of a mass evacuation directed by the U.S. military.
    On yet another level, Vietnamese repatriates’ stories reveal the interde-pendent relationships between local, national, and international institutions, including Guam, the U.S. government, the UNHCR, and two Vietnamese governments (the southern Provisional Revolutionary Government and the northern Democratic Republic of Vietnam).4 Repatriates’ militant actions, protests, and pleas found an audience with these diverse political entities, yet ultimately their futures depended on the decisions of the U.S. government and the revolutionary Vietnamese government. Finally, contingency also marks the history of American empire, for the U.S. acquisition of territories was neither monolithic nor all-encompassing but specific and time bound. As Amy Kaplan has urged, it is necessary to “bring a sense of contingency to this idea of empire, to show that imperialism is an interconnected network of power relations.”5 Thus it seems telling that repatriates’ most vocal and active protests took place on Guam, an island defined by its colonial legacy with the United States. In this vein, their stories bring together contingent narratives of migration and contingent narratives of empire, all coming to a head on Guam in 1975.

    Located almost four thousand miles from Hawai‘i (and almost six thousand miles from California), Guam illuminates the tensions and tenacity of American empire. In 1975 Guam became the primary staging ground for refugees, thus juxtaposing the United States’ nineteenth-century imperial project with its failed Cold War objectives in Southeast Asia. Over the past generation, scholars have argued for the critical importance of making American empire visible and excavating sites, which have been “forgotten,” even as the U.S. imperial project evolves in the contemporary moment. Such scholars as Kaplan, Kristin Hoganson, Paul Kramer, Julian Go, Eileen Findley, and Christina Duffy Burnett have revisited the War of 1898 and the U.S. occupations of Cuba, the Philippines, and Puerto Rico, yet Guam has remained little more than a footnote.6 In many ways, Guam epitomizes Ann Laura Stoler’s conception of a place “haunted by empire,” which she defines as a colonial legacy, which is alternately invisible, familiar, and at times threatening. In particular, Stoler’s work compels historians of the United States to take the intimacies of empire seriously, challenging scholars to analyze child rearing, education, and sexual encounters as key sites of colonial control and power. As she recognizes, her work alludes to, but does not delve into, the “pungent, violent intimacies of prisons, barracks, and detention centers,” which she notes are “pressing for fur-ther attention.”7 Repatriates’ stories reveal just such a moment of micropolitics in a refugee camp on the edge of American empire.8 Repatriates’ predicament draws attention to the network of U.S. camps in Guam, which have been all but ignored by popular and academic accounts. To date, the invisibility of the repatriates’ experiences has mapped onto the forgetting of Guam, yet through reconstructing their stories, both the United States’ colonial legacy on Guam and the fraught closure of the U.S. war in Vietnam come into relief.

    Repatriates’ stories also raise potent questions for scholars of migration and refugees. Increasingly, scholars of U.S. immigration have analyzed how empire has created pathways for workers, refugees, spouses, and even adopted children.9 In contrast, Vietnamese repatriates sought to change the momentum and the flow of people away from the United States. The textual and visual archives, including previously untapped U.S. military records and photographs, Guam’s Pacific Daily News, and a singular Vietnamese memoir, elicit multiple Vietnamese perspectives, conflicts between Guamanian and U.S. officials, and a sense of urgency and desperation on all sides. Perhaps the cases that best parallel the Vietnamese repatriates’ experiences are the stories of Cold War defectors, returnees, and prisoners of war, which Susan Carruthers has so artfully analyzed in Cold War Captives: Imprisonment, Escape, and Brainwashing. In these cases of individual escape and capture in the 1940s and 1950s, Carruthers argues that “the cold war imaginary was . . . profoundly informed by the dichotomy between mobility and captivity.”10 The paradigm of captivity resonates in the repatriates’ stories; however, rather than individual escape, collective action was essential to their campaign, and the repatriates were all but ignored by the American mass media in 1975. Their stories contribute to this growing scholarship on Cold War migration while emphasizing the contingency and multidirectional nature of migration in this moment of uncertainty.

    Finally, if the history of the Vietnamese repatriates refuted an American rescue narrative of Vietnamese refugees, it also cannot be read as a triumphant rejection of U.S. imperialism or a romanticized revolutionary victory. In fact, repatriates’ tenacity and successful protests resulted in one of the war’s lesser-known tragedies. In October 1975, 1,546 repatriates boarded the Thuong Tin I, a Vietnamese ship, and ventured back to Vietnam without the approval of the southern Provisional Revolutionary Government (PRG) or the northern Democratic Republic of Vietnam (DRV). As the repatriate ship captain, Tran Dinh Tru, articulated on leaving Guam, “I felt utter sorrow flooding over me, and tears welled up in my eyes, unsure if I was coming back to my family and my homeland or journeying into the netherworld.”11 On arrival in Vietnam, to the best of my knowledge, the PRG placed the repatriates in reeducation camps.12 Thus the repatriates traveled from a U.S. detention camp on Guam to the network of euphemistically named “reeducation camps” in Vietnam, which were better characterized by hard labor, starvation, and torture than any “education.”13
    This article argues that repatriates’ political challenges revealed a far more contingent political space between the United States and Vietnam than either nation-state was able to fathom. First, it briefly explains Guam’s colonial history and situates Guam as the central location for U.S.-run Vietnamese refugee camps in 1975. Second, it explores the multiple explanations men and women articulated for choosing repatriation over resettlement in the United States. Their stories attest to the chaos at the end of the war, confusion, and the stark absence of choice for many of those who had “evacuated.” Third, the story turns to repatriates’ mobilization and their effective use of civil disobedience, rhetoric, and even violence and vandalism to catalyze their campaign. From there, the article analyzes the U.S. government’s eventual acquiescence to the repatriates’ wishes, despite the UNHCR’s reservations, which led to the launching of the Thuong Tin I back to Vietnam under repatriates’ own skill and manpower.

    Vietnamese repatriates’ struggles resonate in the contemporary moment, as they reveal the tension between mobility and confinement and underscore the architecture of empire. At the same time, their stories do not fall into a neat binary. They neither provide some salvation to the U.S. imperial war in Vietnam nor redeem the revolutionary Vietnamese government. Instead, the history of the Vietnamese repatriates underscores the slipperiness of contingency and the haunting choices facing refugees who found themselves in between hostile states after more than a decade of war.


    [From page 1 to page 5]

    (continue...)

  3. #3
    Member
    Join Date
    25-05-2011
    Posts
    257
    Cái TÔI của người Việt lớn lắm, nhất là cái TÔI của những đứa ngu.

    Sợ nói ra người ta cười v́ ḿnh vừa dại mà vừa hại cả nhà. Khác với Tây phương người ta bộc trực, chia xẻ tất cả xấu lẫn tốt để mọi người cùng biết để tránh, hoặc xây dựng cho tốt hơn th́ người Á châu, ngược lại, nhất là người Việt dấu rất kỹ những khiếm khuyết, sai sót để cùng nhận diện và tránh xa như là một bài học kinh nghiệm cho mọi người (và thế hệ mai sau).

  4. #4
    Member
    Join Date
    30-09-2010
    Posts
    3,083
    Có lẽ hiểu biết của tôi quá nhỏ nên không đọc được nhiều tài liệu, nên đây là bài viết liên quan tới những vấn đề miền Nam VN đầu tiên mà tôi cho rằng thẳng thẳng, rơ ràng và trung dung nhất so với tất cả những bài của người nước ngoài viết về VN từ trước tới giờ tôi đọc được.

    Người viết không phân tích vấn đề bằng nh́n vào bản chất người Việt, mà chỉ phân tích sự việc và con người trong hoàn cảnh hỗn loạn kết thúc 1 chiến tranh theo góc nh́n nghiên cứu chính trị.

    Riêng tôi khi đọc bài này một nỗi buồn rưng rưng dâng lên trong ḷng, không biết tôi thương dân tôi hay tôi thương cho bản thân tôi, những con người trong cùng hoàn cảnh, không biết đi về đâu hay làm ǵ cho đúng, để rồi dẫn tới những quyết định mang tính thay đổi số mệnh cả 1 đời.

    Không có ai sai và đúng ở đây, mà cũng không ai khôn hay dại ở đây, chỉ có con người với tấm ḷng trong suy nghĩ và hành động, đă dẫn tới những hậu quả cho thân phận, theo tôi đẹp như thơ nhưng khó nói lên bằng lời, v́ những oan trái nghịch cảnh làm hoen ố cho những quyết định mang tính người, th́ đó chính là lư do đă không có người Việt nào muốn nhắc tới.
    Last edited by pheng; 15-04-2015 at 11:08 PM.

  5. #5
    Member
    Join Date
    31-03-2011
    Location
    http://letungchau.blogspot.com/
    Posts
    140

    Chuyện tàu Việt Nam Thương Tín 2 - Phần 2

    Nguồn: Thư Viện Phạm Văn Thành

    (tiếp theo Phần 1)

    Nguyên tác "'Give Us A Ship': The Vietnamese Repatriate Movement on Guam, 1975"
    by Jana K. Lipman - Tạp Chí American Quarterly Volume 64, Issue 1 (số ra tháng 3 năm 2012)


    "‘Hăy để chúng tôi về’: Chuyện những người Việt hồi hương từ đảo Guam, năm 1975"
    Lê Tùng Châu dịch






    từ trang 5 - trang 8

    Trại tị nạn trên đảo Guam

    Trong tháng 4 năm 1975 người tị nạn Việt Nam không đi du lịch trực tiếp bằng đường biển hay đường hàng không từ Sài G̣n hoặc Thái B́nh Dương đến lục địa Hoa Kỳ. Chính phủ Mỹ đă giữ 111.919 người Việt-Nam tại Guam trước khi cho phép họ nhập vào lục địa Hoa Kỳ hoặc Hawai'i. (14) điều vốn thường bị che đậy trong các sử liệu phổ thông.
    Độ một vài tuần, lượng người tị nạn tăng hơn gấp đôi dân số địa phương Guam, nơi vốn chỉ chưa tới 100.000 cư dân vào năm 1975 (15)
    Đối với Guam th́ cuộc di cư của người Việt chỉ có thể được mô tả là khổng lồ. Thống đốc đảo Guam ông Ricardo (Ricky) Bordallo công khai hỗ trợ các chiến dịch người tị nạn Việt, và bất chấp sự phản đối của một số cư dân địa phương, máy bay quân sự và tàu chiến Mỹ bắt đầu hạ cánh xuống Guam mang theo người tị nạn vào cuối tháng tư năm 1975.
    B́nh luận về quyền tự trị tối thiểu của Guam, Thượng nghị sĩ Carl Gutierrez ghi nhận, "Tại sao chúng ta c̣n phải tranh căi về điều này? Tất cả đă được chính phủ dàn xếp và chúng ta phải thực thi tốt nhất có thể" (16)
    Quân đội xây dựng một ṿng đai tự nhiên đánh dấu bằng dây thép gai, hàng rào và canh gác cẩn mật. Những người tị nạn Việt Nam không được phép rời khỏi trại, cũng như người bản xứ nếu không phận sự cũng không được phép vào trại.
    Dù cuộc chiến Việt Nam đă qua rồi, thực tế đế quốc Mỹ lại phơi bày rơ hơn trong sử kư và địa lư của đảo Guam. Vị thế đảo và thuộc địa của Guam được vận dụng làm khu vực đệm giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, nơi người hồi hương bỗng chiếm chỗ với t́nh trạng pháp lư không rơ ràng và quân đội Mỹ bỗng hùng hậu có mặt.
    Bị Tây Ban Nha chiếm hữu từ năm 1565, rồi trở thành lănh thổ của Mỹ theo Hiệp Ước Paris 1898, và khá giống trường hợp Puerto Rico, Guam chưa từng trải qua nền chính trị độc lập đương đại. Trong ṿng kiểm soát tuyệt đối của quân đội Mỹ từ năm 1898 cho tới năm 1950 (tránh được hàng chục năm chiếm đóng của Nhật Bản trong Đệ Nhị Thế Chiến), rồi Hải quân Mỹ đă làm chủ và kiểm soát ngót nửa thế kỷ, nền móng tổ chức và cấu trúc thể chế của Guam dần được chuyển hóa và quân sự hóa từ bối cảnh xă hội đến văn hóa của các cộng đồng bản địa Chamorro tại đây. Với đạo luật Organic năm 1950, chính phủ Hoa Kỳ đă chuyển giao quyền lực lại cho Bộ Nội Vụ. Nhưng ngay cả khi quyền hành đă chuyển về dân sự, quân đội Mỹ vẫn c̣n tiếp tục kiểm soát hơn 36 phần trăm lănh thổ của Guam. (17) Đạo luật Organic công nhận người đảo Guam là công dân Hoa Kỳ, dù Guam không có đại diện của Quốc Hội hay thủ tục biểu quyết của Tổng Thống, hay Hiến Pháp bảo hộ đầy đủ. Trên thực tế, dân Guamanians không đi bầu trực tiếp để chọn Thống đốc cho tới năm 1970 (18)
    Bởi tỉ lệ công dân được tuyển mộ nhập ngũ cao nên Guam cũng chẳng vui ǵ với cái vinh dự có tỉ lệ thương vong cao hơn các bang khác vùng khác trong chiến tranh Việt Nam. Cơ cấu chính quyền của Guam được cân đối giữa cộng đồng bản địa tượng trưng kém năng lực và cộng đồng địa phương, và phụ thuộc phần lớn vào chính phủ và quân đội Hoa Kỳ.
    Năm 1975, quân đội Mỹ kết hợp các căn cứ quân sự với các phương tiện sẵn có của liên hợp công ty cho thuê để thành lập một quần thể 12 trại tị nạn trên đảo Guam. Mấy trại lớn nhất tọa lạc trong phần đất của quân đội Mỹ. Trên căn cứ không quân Andersen, mười ṭa cao ốc đă được lên lịch phá hủy mau lẹ, được dọn sạch và tân trang lại, và Orote Point, vốn là một phi trường thời Thế chiến II, đă trở thành bàn đạp cho trung tâm "Tent City." Thêm vào nữa là một số cơ sở quân sự nhỏ hơn, các công ty tư nhân như Công ty xây dựng Black, J & G, Công ty Nạo vét Hawaii, và Tokyu Hotel cũng trở thành trại tị nạn tạm thời (19)
    Trớ trêu hơn cả là việc Seabees đă biến 14 ṭa cao ốc tại Camp Asan thành một trại tạm cư cho người tị nạn Việt Nam trên cùng chính cái nơi đă được sử dụng để bỏ tù những kháng chiến quân Phi Luật Tân thời chiến tranh Mỹ-Phi Luật Tân (20)
    Ngôn từ mô tả sự gia tăng mau lẹ các trại tị nạn trên đảo Guam cũng thiếu xác định, cả chữ “tị nạn” và “trại tạm cư” đều là những ư niệm vừa mới ùa tới đây cùng với một hành trang lịch sử nặng nề. Trong nhiều văn bản chính thức đề cập đến các trại này cũng dùng cách nói uyển ngữ khi gọi đó là những "trung tâm tiếp nhận," có lẽ là để tránh cái t́nh trạng “giam giữ người” ngoài ư muốn (21)
    Thượng nghị sĩ Edward Kennedy thậm chí ghi nhận rằng một chiến dịch do quân đội đảm đương lại mang những cái tên không hay như "Operation New Life," trong đó có “một tập ngữ khó chịu v́ gợi lên cái tên cũ 'New Life Hamlets' hoặc 'ấp chiến lược' của những năm ông Diệm nắm quyền” (22)
    Việc bố trí nhân viên quân sự và giăng dây kẽm gai sang một bên, có lẽ chính phủ Mỹ muốn phân biệt các trại tạm cư ấy với quần thể các trại tị nạn khác được thả lỏng. Như một trong phát ngôn nhân của quân đội giải thích, dây thép gai không phải là "giam người mà để ngăn người nào muốn bỏ ra khỏi đó". Thoạt tiên, quân đội dùng chữ của người Việt “tản cư” rồi chữ “tị nạn” cũng được dùng dần sau đó. Có lần một nam quân nhân binh nh́ nói nhát gừng: "Tôi biết họ là người tản cư mà. . . . Tôi biết thế v́ vị Tướng đă nói thế." (23)
    Dùng chữ tản cư không những thiếu xúc cảm và ḷng trắc ẩn (mà chữ tị nạn vốn đă mang ư nghĩa bao hàm) mà c̣n tước mất của họ quyền được hưởng những quyền lợi từ trách vụ quốc gia và quốc tế bởi chẳng có công ước quốc tế nào về người tản cư cả. Trong khi báo chí, viên chức quân sự, thậm chí nơi các báo cáo chính thức người ta đă sớm vô t́nh dùng chữ tản cư thay cho chữ tị nạn v́ thế chữ tị nạn dường như chẳng c̣n được dùng trong cách nói chung, sự thể ấy như nhắc nhở rằng những người Việt hiện không phải là người tị nạn hợp lệ theo luật pháp Hoa Kỳ. Thay vào đó, các ngành của hành pháp lại đă thừa nhận người Việt nhập cảnh vào Hoa Kỳ có quy chế “tạm dung” một phát minh về ngôn ngữ trong Đạo luật 1952 McCarran-Walter, trong đó cho phép "tạm nhập" người nước ngoài không thuộc phạm vi luật di trú Hoa Kỳ (23)
    Mặc dù có vài vặn vẹo về ngữ học và pháp lư, hầu hết các văn bản nhà nước và phi nhà nước hầu như nhắc đến người Việt Nam là "người tị nạn" và các căn cứ quân sự là "trại tị nạn"
    Một điểm son mà quân đội đă ghi được trong suốt chiến dịch này là đă chớp thời cơ tranh thắng được cảm t́nh công luận và giúp hóa giải h́nh ảnh thất bại quân sự của Mỹ ở Việt Nam. Một viên chức quân sự đă phân giải rằng chủ đích của chiến dịch là để "bảo tồn h́nh ảnh đẹp cho quân đội", và trong một chừng mực nhất định quân đội đă làm tṛn trọng trách một cách "chuyên nghiệp, tận tâm, và nhân đạo" (25)
    Do vậy, dù bỗng nhiên bị đứng ngoài cuộc chiến tranh Việt Nam –vốn là nguyên nhân tiên khởi tạo ra cuộc khủng hoảng người tị nạn- quân đội đă tái xác định giá trị của chính ḿnh khi chứng tỏ một cách đẹp mắt vài tṛ không thể thiếu như là một cánh tay đắc lực của chính phủ vào những giờ phút cấp bách.


    Trại Orote Point nơi dung chứa người hồi hương Việt Nam trong suốt cuộc khủng hoảng người tị nạn. nguồn ảnh: Cục Lưu trữ quốc gia Hoa Kỳ






    Tuy vậy những viên chức Hoa Kỳ ở Guam hầu như không thể theo kịp với các dịch vụ hậu cần; họ phải đối mặt với những khó khăn về máy tính c̣n bỡ ngỡ lúc ấy, thủ tục lấy chi tiết nhân thân để cấp số căn cước, và thậm chí làm sao liệt kê hồ sơ với tên của người Việt. Qua hơn chục năm tham chiến ở Việt Nam mà chính phủ Mỹ vẫn c̣n lúng túng trước một thực tế về cách ghi tên Việt: họ th́ viết trước c̣n tên lại viết sau (26)
    Đa số người tị nạn Việt trải qua chưa tới hai tuần trên Guam, cũng có một số khác phải chờ như thế tới ba tháng. Trong thời gian lưu trú họ cũng phải qua các thủ tục hành chánh, kiểm tra y tế rồi sau đó được chuyển vào đất liền, hoặc được một người đỡ đầu đón hoặc nhập vào trại tị nạn liên bang như Fort Chaffee, Camp Pendleton, Fort Indiantown Gap, hoặc Air Force Eglin. Chuyến bay cuối cùng chở người tị nạn rời Guam đến Hiệp chủng Quốc là vào Tháng Tám 26, 1975 (27)
    Tuy nhiên, trong khi hiện trạng cứu tế người tị nạn đang suông sẻ và lạc quan th́ vào lúc cao điểm nhất bỗng xảy ra một việc gây rối ren đó là áng chừng 2000 người tị nạn lại cương quyết đ̣i trở về lại Việt Nam. Họ nói dù đang ở trong lănh thổ Hoa Kỳ nhưng họ cho rằng, ở Guam chưa hẳn là đă ở Hoa Kỳ. Họ sớm nhận ra t́nh trạng thuộc địa cũng như hiện trạng đang c̣n trong thời kỳ chuyển tiếp của Guam có thể có ích cho họ. Viện cớ đảo Guam chỉ là 1 di sản thuộc địa của đế quốc Mỹ, không hẳn thuộc Mỹ cũng không hẳn ngoài lănh địa Hoa Kỳ, người hồi hương Việt cố thủ trên phần đất của họ trên đảo.


    (c̣n tiếp Phần 3: Di cư, gia đ́nh tan vỡ, và bắt cóc)

    Tài liệu tham khảo liệt kê bởi tác giả

    14. K. J. Carroll, Operation New Life, After Action Report, Guam, 1975.
    15. U.S. Department of Health, Education, and Welfare, Vital Statistics of the United States, 1975, http:// www.cdc.gov/nchs/data/statab/mort75_2a_ta.pdf (accessed July 21, 2010).
    16. Leanne McLaughlin, “Legislature Nixes Funds,” Pacific Daily News (PDN), April 24, 1975.
    17. Robert F. Rogers, Destiny’s Landfall (Honolulu: University of Hawai‘i Press), 230.
    18. In contrast, the United States permitted direct elections for governor of Puerto Rico beginning in 1948. Guam also gained a nonvoting delegate in Congress in 1972.
    19. History of Pacific Command Support to Operation New Life, 1 April–1 November 1975, NARA RG 319, box 3; “Where They Are,” PDN, April 28, 1975. In addition, the United States established refugee camps at U.S. military bases in Thailand, the Philippines, the Marianas, and Wake Island.
    20. Rogers, Destiny’s Island, 252; Benedict Anderson, Under Three Flags: Anarchism and the Anti-Colonial Imagination (London: Verso, 2005), 205, 224.
    21. Comptroller General Report to the Congress, “US Provides Safe Haven for Indochinese Refugees,” June 16, 1975; and Interagency Task Force for Indochinese Refugees Report to the Congress, September 15, 1975, Military History Institute (MHI), Vietnamese Refugee Project Papers (VRPP), box 14.
    22. Senator Kennedy Releases Report on President’s Program to Resettle Refugees from Cambodia and South Vietnam, June 9, 1975, p. 17, MHI, VRPP, box 14.
    23. Susan Guffey, “Evacuee Flood Flows On,” PDN, April 25, 1975.
    24. Gil Loescher and John A. Scanlan, Calculated Kindness: Refugees and America’s Half-Open Door, 1945 to the Present (New York: Free Press, 1986); Carl Bon Tempo, Americans at the Gate: The United States and Refugees during the Cold War (Princeton, N.J.: Princeton University Press, 2008); and Stephen Porter, “Defining Public Responsibility in a Global Age: Refugees, NGOs, and the American States” (PhD diss., University of Chicago, 2009).
    25. Message, May 5, 1975, Folder—Incoming Message Reference Files 3–4 May 1975, MHI, VRPP, box 7; Message November 7, 1975, File Guam 1975 (228-01), MHI, VRPP, box 6; and Sahara, “Opera-tion New Life/Arrivals.”
    26. Carroll, Operation New Life, 32–35.
    27. Ibid., iii.
    Last edited by Lê Tùng Châu; 17-04-2015 at 12:21 PM.

  6. #6
    Member
    Join Date
    31-03-2011
    Location
    http://letungchau.blogspot.com/
    Posts
    140
    Văn bản nguyên văn:

    “Give us a Ship”: The Vietnamese Repatriate Movement on Guam, 1975 - By Jana K. Lipman

    Refugee Camps on Guam

    In April 1975 Vietnamese refugees did not travel by ship or plane directly from Saigon or the Pacific to the mainland United States. Often glossed over in popular and historical accounts, the U.S. government held 111,919 Vietnamese in Guam before authorizing their entrance into the continental United States or Hawai‘i.14 In a matter of weeks, the refugees more than doubled the Guamanian local population, which numbered just shy of 100,000 residents in 1975.15 For Guam, the Vietnamese exodus could only be described as massive. Guam governor Ricardo (Ricky) Bordallo openly supported the Vietnamese refugee operation, and despite some local objections, U.S. military planes and ships began landing on Guam with refugees at the end of April 1975. Commenting on Guam’s minimal autonomy, Guam senator Carl Gutierrez noted, “Why are we arguing about this? It’s all been settled by the U.S. government and we have to make the best of it.”16 The military constructed a physical environment marked by barbed wire, chain-link fences, and armed guards. The Vietnamese refugees were not allowed to leave the camps, nor were unauthorized Guamanians allowed into the camps.

    Although the U.S. war in Vietnam was over, the reality of American empire was more than apparent in Guam’s geography and history. Guam’s colonial and island space served as a liminal zone between Vietnam and the United States, where repatriates possessed ambiguous legal status and the U.S. military loomed large. A Spanish possession since 1565, Guam became a U.S. territory under the 1898 Treaty of Paris, and much like Puerto Rico, it has not experienced modern political independence. Under absolute U.S. military control from 1898 through 1950 (save for the years of Japanese occupation during World War II), the U.S. Navy owned and controlled Guam for half a century, and its institutions and installations fundamentally transformed and militarized the environment and culture of the indigenous Chamorro communities. With the 1950 Organic Act, the U.S. government transferred power to the Department of the Interior. Even with this civilian handover, the U.S. military continued to control more than 36 percent of Guam’s territory.17 The Organic Act granted Guamanians U.S. citizenship, albeit without presidential voting rights, congressional representation, or full constitutional protections. In fact, Guamanians did not have direct elections for governor until 1970.18 Because of high rates of military enlistment, Guam also bore the distinction of having the highest per capita casualty rate of any state or territory in the war in Vietnam. Guam’s political apparatus balanced between poorly represented indigenous and local communities and extreme dependence on the U.S. government and military.

    In 1975 the U.S. military established a constellation of twelve refugee camps on Guam through a combination of military bases and leased corporate facilities. The largest camps were located on U.S. military property. On Andersen Air Force Base, ten buildings that had been scheduled for demolition were quickly cleaned out and refurbished, and Orote Point, a former World War II airfield, became the central staging ground for “Tent City.” In addition to several smaller military facilities, private companies such as Black Construction, J&G Construction, the Hawaiian Dredging company, and the Tokyu Hotel became temporary refugee camps.19 Perhaps most hauntingly, the Seabees converted fourteen buildings at Camp Asan into a camp for Vietnamese refugees on the very same ground that had been used to jail Filipino insurrectionists during the U.S.-Philippine War.20
    The language describing the proliferation of refugee camps on Guam could be elusive, as both the terms refugee and camp came with substantial historical baggage. Many official documents referred to the camps in euphemisms, calling them “reception centers,” presumably to avoid the undercurrent of involuntary confinement.21 Senator Edward Kennedy even noted the unfortunate connotations of the military operation’s official name, “Operation New Life,” which had “an uncomfortable ring with the old ‘New Life Hamlets’ or ‘strategic hamlets’ of the Diem years.”22 Barbed wire and military personnel aside, the U.S. government hoped to distinguish its camps from refugee camps at large. As one military spokesman explained, the barbed wire was “not to confine the people, but to keep [other] people out of there.” The word refugee was also loaded, and at first, the military made a point of calling the Vietnamese “evacuees.” As one enlisted man cracked, “I know they’re evacuees. . . . I know it because the general said it’s so.”23 Not only did evacuee lack the drama and compassion that refugee connoted, it also was bereft of international or national rights or obligations; there were no international conventions on evacuees. While newspapers, military personnel, and even official reports soon dropped evacuee for refugee seemingly out of simple common usage, the fact remained that the Vietnamese were not legally refugees according to U.S. law. Instead, the executive branch admitted Vietnamese into the United States as “parolees,” a linguistic invention in the 1952 McCarran-Walter Act, which allowed for “temporary admission” for foreigners who fell outside U.S. immigration law.24 Despite these linguistic and legal contortions, most of the state and nonstate documents almost universally referred to the Vietnamese as “refugees” and the military bases as “camps.”
    The military’s goal throughout the operation was to seize a public relations “win” and counteract the images of U.S. military failure in Vietnam. As one military official explained, the goal was to “preserve a good army image,” and by most measures, the military succeeded in handling the mission with “professionalism, dedication, and humanitarianism.”25 Thus the military disconnected itself from the war in Vietnam that had created the refugee crisis in the first place, and rhetorically and materially redefined itself as an effective and life-affirming arm of the government. It soon became clear, however, that the U.S. personnel on Guam could barely keep up with the logistics; they faced basic difficulties with computers, providing individuals with ID numbers, and even mastering Vietnamese naming practices. After more than ten years of military fighting in Vietnam, the U.S. government was still flummoxed by the Vietnamese practice of surnames coming before given names.26 The majority of Vietnamese refugees spent less than two weeks on Guam, although some waited on Guam for up to three months. Their stays were met with bureaucracy, medical exams, and then transit to the mainland United States either with a sponsor or to a stateside refugee camp on Fort Chaffee, Camp Pendleton, Fort Indiantown Gap, or Eglin Air Force base. By August 26, 1975, the last flight of refugees departed from Guam to the United States.27

    Yet complicating this efficient and “feel good” narrative, at its high point, as many as two thousand refugees remained unwavering in their determination to return to Vietnam. Although they were in U.S. territory, Vietnamese repatriates recognized that Guam was not quite the United States. They also soon realized that Guam’s colonial and liminal status might be of some value to them. Underscoring the legacies of empire, neither fully inside nor fully outside the United States, Vietnamese repatriates held their ground on Guam.

    [From page 5 to page 8]

    (continue...)

  7. #7
    Member
    Join Date
    17-06-2011
    Posts
    1,526

    Thoả niềm ước mơ nhá - chúc mừng con chau' "boac" đại giác ngộ hồi hương

    Đă có anh nào vượt biên hoặc đi đường bảo lănh quay lại Mỹ, và rồi lại quany trở về VN làm ăn lẫn nữa không ?
    Last edited by Mau_Than_68; 16-04-2015 at 02:38 AM.

  8. #8
    Member philong51's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    161
    Quote Originally Posted by VuSJ View Post
    Cái TÔI của người Việt lớn lắm, nhất là cái TÔI của những đứa ngu.

    Sợ nói ra người ta cười v́ ḿnh vừa dại mà vừa hại cả nhà. Khác với Tây phương người ta bộc trực, chia xẻ tất cả xấu lẫn tốt để mọi người cùng biết để tránh, hoặc xây dựng cho tốt hơn th́ người Á châu, ngược lại, nhất là người Việt dấu rất kỹ những khiếm khuyết, sai sót để cùng nhận diện và tránh xa như là một bài học kinh nghiệm cho mọi người (và thế hệ mai sau).
    T/v VuSJ không nằm trong hoàn cảnh của những người nầy nên không hiểu họ. Xin đừng vội trách cứ hay phê b́nh. Họ chỉ nặng t́nh cảm với gia đ́nh nên chấp nhận mọi bất trắc sẻ xảy ra khi họ về VN. Hầu hết những người nầy bị đám Việt Gian khuyến dụ đi vào cực đoan, đốt phá doanh trại v...v...Nhưng họ không ngờ bọn CSBV lại tàn độc dă man như vậy.
    Sở dĩ tôi không theo họ v́ tôi không thể chấp nhận cuối đầu, bưng bô dưới bức h́nh của tên cáo già bán nước hại dân họ Hồ mà tôi chọn con đường khác qua ngả Châu Âu.
    Last edited by philong51; 16-04-2015 at 04:00 AM.

  9. #9
    Member
    Join Date
    25-05-2011
    Posts
    257
    Hai anh hiểu sai ư của tôi rồi hoặc là câu tôi viết không rơ nghĩa.

    Ư của tôi là từ sau sự việc ấy chúng ta đă không có hoặc rất ít thông tin của những người trong cuộc nói ra hoặc viết lại cho mọi người hiểu như một kinh nghiệm xương máu cho thế hệ tương lai về hiểm hoạ và sự tàn ác của vc. Một người bạn của tôi cũng nằm trong số những người trở về trong chuyến tàu định mệnh này và hắn không bao giờ hở môi cũng như không hề muốn nói đến chuyện này bất kể lúc nào.

    Ư tôi không phải trách cứ quyết định của họ trong hoàn cảnh đó mà là 40 năm hẳn cũng đủ để những người trong cuộc nói lên, viết lại để đúc kết một chương thuộc về sử liệu cho thế hệ mai sau.

  10. #10
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    831
    Tôi tin chắc là trong số người vô phúc này (quay đầu trở lại) không có ai là dân di cư 9 nút (1954).

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 3
    Last Post: 31-08-2014, 03:12 AM
  2. Replies: 1
    Last Post: 12-08-2013, 05:12 AM
  3. Chuyện Người, Chuyện Vượn, Chuyện Vẹm
    By Nỉwana in forum Tin Việt Nam
    Replies: 0
    Last Post: 30-07-2013, 08:27 PM
  4. Chuyện: Những con chó tṛ chuyện với nhau!
    By Lehuy in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 3
    Last Post: 10-12-2012, 09:41 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 02-11-2010, 11:33 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •