Results 1 to 2 of 2

Thread: Bốn mươi năm Sài G̣n thất thủ - bài của Martin Woollacott trên báo The Guardian, Tuesday 21 April 2015

  1. #1
    Member
    Join Date
    31-03-2011
    Location
    http://letungchau.blogspot.com/
    Posts
    140

    Bốn mươi năm Sài G̣n thất thủ - bài của Martin Woollacott trên báo The Guardian, Tuesday 21 April 2015

    Bốn mươi năm Sài G̣n thất thủ: chứng kiến chiến tranh Việt Nam kết thúc
    bài của Martin Woollacott trên báo The Guardian, Tuesday 21 April 2015 - Lê Tùng Châu dịch- Nguồn: Thư Viện Phạm Văn Thành

    Lời Ṭa soạn The Guardian: 30 Tháng Tư năm 1975 là ngày đánh dấu sự thất bại tan tành trong quân sử Mỹ khi quân Bắc Việt tiến vào thủ đô Sài G̣n. 40 năm sau ngày thực hiện những báo cáo về cơn chính biến cho tờ The Guardian, giờ đây Martin Woollacott suy ngẫm sự kiện đă mang lại tầm ảnh hưởng lớn cho cả hai quốc gia về sau này.


    bài của Martin Woollacott trên báo The Guardian, Tuesday 21 April 2015

    Lời người dịch: Là một kư giả người Anh chứng kiến ngày cuối cùng của Sài G̣n 40 năm trước, Martin Woollacott đă cho chúng ta một cái nh́n khách quan về cuộc chiến Việt Nam và nguyên do cuộc chiến ấy đi đến cái kết cục thua thiệt cho phe quốc gia ở miền Nam, chế độ Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH)

    Một ít dấu ngoặc [...] và vài h́nh ảnh trong bài là do người dịch



    Martin Woollacott (phải) 2006

    Ngày tiếp theo sau khi Bắc Việt lấy được Sài G̣n, người ta đă nghe thấy từ lúc tinh mơ bài hát mừng chiến thắng. Trong đêm các “kỹ sư” của đội quân chiến thắng đă dựng loa phóng thanh lên và từ khoảng 5 giờ sáng phát không ngừng điệu nhạc giải phóng khô khốc. Đó là ngày 30 tháng 4 năm 1975 (1), khi ánh dương quang rực chiếu phố phường gần như trống rỗng của Sài G̣n mà cũng thời khắc đó thường lệ trước kia đă bắt đầu xe cộ rộn rịp và đường phố huyên náo dần lên. Nhưng nay hầu như chẳng ai biết phải làm ǵ- đi làm hay không, chợ búa, cây xăng c̣n bày bán không, hay có khi một cuộc đọ súng khác sẽ vẫn có thể bùng nổ ra nữa.
    Tất nhiên, đâu chỉ nếp sinh hoạt quen thuộc thuờng ngày của Sài G̣n nay đă bị phá vỡ hoàn toàn mà vai tṛ lâu đời của thủ đô phi cộng sản của Việt Nam đă biến mất qua chỉ một đêm, những người lính đă biến mất, và nhiều tướng lănh, các chính trị gia và công chức lúc đó đang bồng bềnh những trên sàn tàu chiến ở Biển Nam Trung Hoa, được Hải quân Mỹ kéo chăn đắp quanh vai.


    Xe tăng T-54 của Việt cộng bị QLVNCH bắn hạ trên đường Trương Minh Giảng - April 1975, đằng xa, phía sau là gác chuông cao của Nhà thờ Ba Chuông

    Qua bao năm tháng tương tranh, chiến cuộc chẳng mấy khi dính tới Sài G̣n, trừ một ít trường hợp ngoại lệ như thỉnh thoảng có vài cuộc pháo kích bằng hỏa tiễn, một số vụ đánh bom nhà hàng, hay vụ xâm nhập nhỏ gây sửng sốt vào thành phố - thậm chí vào ngay khuôn viên Ṭa Đại sứ Hoa Kỳ - trong trận tấn công vào dịp Tết 1968.
    Trong cơn khiếp hăi qua đi Saigon cảm thấy như đă thoát khỏi điều tồi tệ nhất. Thực tế với điệu nhạc giải phóng vang vọng đường phố, một lần nữa Sài G̣n đă thoát dẫu ít người biết rằng Bắc Việt đă chuẩn bị sẵn sàng bắn nát thành phố với pháo binh hạng nặng và chiến đấu theo cách vốn dĩ của họ -theo từng khối- nếu gặp phải hàng pḥng thủ và sức đối kháng mạnh hơn.
    Nếu Tổng Thống cuối cùng của Nam Việt Nam, Tướng Dương Văn Minh, không ban lệnh cho quân đội hạ vũ khí, Sài G̣n có thể lâm vào t́nh trạng rất xấu thực sự. Người Việt đă nói tếu rằng cộng sản lấy Sài G̣n "mà không phạm tới một cái bóng đèn" hay nói sái đi: “Thương vong nặng nề cho cả đôi bên, nhưng giao tranh vừa đến thành phố th́ dừng”.
    Ở trung tâm, có nhiều khả năng lo lắng t́nh trạng vô luật pháp và nạn cướp bóc. Stewart Dalby của tờ Financial Times và tôi đang đi bộ dọc đường Tự Do, một trong những con phố chính của Sài G̣n, th́ một người đàn ông trông vẻ hắc ám mặc áo bỏ ngoài quần đứng chắn lối chúng tôi. Anh ta đưa tay vào dây thắt lưng để lộ ra một khẩu súng, và liền đó thản nhiên nhấc chiếc máy ảnh đắt tiền ra khỏi cổ Dalby. Sự cố như thế đă đủ để thuyết phục mọi người rằng thà những người cộng sản nắm quyền kiểm soát hoàn toàn càng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
    Vào cái ngày đầu của triều đại mới này, chẳng c̣n bóng dáng một người Mỹ nào ở cái Sứ quán trông như pháo đài trên đại lộ Thống Nhất nữa, có chăng là những tàn tích vụn vỡ của cuộc di tản hỗn loạn ngày hôm trước và kế đó là cướp bóc. Chẳng c̣n ai trong ṭa đô chính với lối kiến trúc trang trí tinh vi, chẳng c̣n vị nghị sĩ nào trong nhà hát lớn thời Pháp để lại mà Quốc Hội từng dùng làm trụ sở nghị sự. Và Tổng Thống cũng chẳng c̣n trong dinh. Nguyễn Văn Thiệu đă bỏ nước ra đi. Người kế vị ông đă giữ quyền được một tuần trước khi bàn giao lại cho Minh. Minh nói với các sĩ quan Bắc Việt đầu tiên bước vào dinh rằng ông đă sẵn sàng để bàn giao quyền lực. Họ trả lời: "Ông chẳng có cái ǵ trong tay để mà bàn giao" và rồi bắt ông đi. Ông ta [Minh] đă làm Tổng Thống được chỉ có hai ngày.


    Mẩu tin của Martin Woollacott trên báo The Guardian, April 30, 1975

    Quả là quyền lực mà Minh nắm giữ thực ra chỉ là một ảo tượng, nhưng Sài G̣n đă sống với ảo tượng đó cả tuần. Trong thảo cầm viên, nơi mà cư dân của thành phố thường đưa con trẻ đến dạo chơi cuối tuần, bạn có thể nghe thấy hàng tá tin đồn theo nhiều cách khác nhau: "Pháp đang trở lại với hai sư đoàn," một người nói. "Mỹ sẽ sớm thả bom thôi" một người khác nói. "Đang tiến đến một chính phủ liên minh," người khác nữa…nói. Khi cái kết cục đang đến gần th́ tâm lư phổ biến nhất dường như là "Chúng ta đều là người Việt Nam cả thôi", như một ngụ ư lưng chừng giữa hy vọng và cam chịu. Đó là một ư nghĩ an ủi xoa dịu đối với nhiều người không có chức vị, hoặc không có những liên hệ mật thiết với chính quyền [cũ] hay với Hoa Kỳ. Họ sợ bị trả thù hay, ít nhất, sẽ bị điểm mặt bêu tên bởi đă tận tụy trung thành với chính quyền lúc trước.
    Với một số khác như chúng tôi chẳng hạn, chẳng có lư ǵ phải lo như vậy, những lo âu vốn bắt nhịp với những xung động điên đảo của thời thế đó. "Nỗi sợ Việt Cộng đă làm Sài G̣n mất hết vẻ thông thái vốn có", một phóng viên đă viết thế. Nhiều người t́m cách ra đi, và vào những thời khắc cuối cùng, nhiều người đă ra đi trên những chuyến không vận đầu tiên bằng máy bay trực thăng – đó là những thành viên sớm sủa nhất của cộng đồng đông đảo gần một triệu người Việt đă rời khỏi đất nước sau năm 1975.
    Các sĩ quan Mỹ điều khiển việc di tản đă rất khổ tâm khi lựa chọn. Để không làm yếu đi t́nh trạng mà họ đă bỏ mặc lại cho Nam Việt Nam tự vệ lấy, họ buộc phải lọc lựa những người nào được đi vào những chuyến đầu, đồng thời cũng phải xác quyết lời hứa chắc với những người c̣n ở lại, "nếu việc đó đến" (ngụ ư Nam Việt Nam có thể vẫn c̣n tồn tại dưới một dạng chính thức khác), mọi người sẽ được đưa đi hết vào phút cuối cùng. Đây là một lời hứa mà họ đă không giữ được. "Tiếng hét hoảng loạn của người di tản trên sóng vô tuyến CIA vào ngày cuối cùng giờ đây vẫn c̣n lay động lương tâm tôi," Frank Snepp, một nhân viên của Chi Nhánh CIA tại Sài G̣n, đă viết kể lại vài năm sau đó (2).

    Trước phút cuối một ngày, từ một chỗ ngồi thuận lợi dưới mái ṿm của Caravelle, một trong hai khách sạn sang trọng của thành phố, tôi và các phóng viên khác chứng kiến cảnh hàng người ngày càng dài thêm, đang chờ đợi trong tuyệt vọng tại một điểm rước đi trên nóc của một ṭa nhà gần đó. Như môt vở bi kịch câm không lời, trong ṿng quay đập nḥe đi của cánh quạt máy bay, chúng tôi chợt dần hiểu rơ ra rằng không thể nào có được nhiều máy bay trực thăng Mỹ hơn nữa. Tại Ṭa Đại Sứ Mỹ, sự tuyệt vọng như thể chết lặng đi. Đám đông khóc lóc bao vây nơi này, cầu xin cho nhập cảnh, trong lúc thủy quân lục chiến cố kéo vào một người có trọng quyền - một khuôn mặt trắng bệch cầu cứu - và đẩy ra khỏi những người không được chọn.

    Ngày hôm sau, đoàn xe tăng tiến vào trước, chiếc nào chiếc nấy ṇng súng chĩa dài ra như cái mũi của Pinocchio, hướng đến trung tâm của thành phố và dinh Tổng Thống. Chiến tranh th́ có cái ǵ là quy củ và có một số chiếc bị lạc đường. Chúng tôi đă nh́n thấy một chiếc tăng quay đầu lui lại, bánh xích của nó rít lên ghê tai, sau đó tiến vào một bệnh viện Việt Pháp cũ, một nơi khó có vẻ ǵ là một mục tiêu quân sự được. Nhưng rồi đoàn tăng cũng tập hợp đủ tại các cổng dinh và sau đó băng qua cổng, chiếc di đầu mang theo một James Fenton vừa có vẻ hân hoan vừa bồn chồn, ông ta là một thi sĩ cũng là một kư giả, người có thể được xem như là thông tín viên cuối cùng của tờ Washington Post c̣n ở lại Sài G̣n. Khi đoàn quân mới tiến vào th́ những người lính cũ tản mác đi dần, có khi họ phất tay với vẻ thất vọng cay đắng lần chót. Chúng tôi thấy có một đơn vị binh lính cố t́nh bắn ra tất cả các trái hỏa châu tín hiệu theo đội h́nh các màu xanh lá cây, đỏ, trắng, rồi lại xanh lá cây trước khi giải tán.

    Những người lính mới, mà người ta đă sớm nhận ra cách gọi họ bằng chữ “bo doi” ("người lính đi bộ"), mặc một thứ đồng phục màu xanh lá cây trơn hơi mềm và đội mũ giống như mũ bảo hiểm cũ. Họ trông có vẻ nhẹ nhơm: chiến tranh đă kết thúc, họ đă không chết, và đă góp một phần làm nên chiến thắng vĩ đại. Vài ngày sau có một cuộc diễu binh để rồi sau đó nhiều người trong số họ rời bỏ Sài G̣n. Những người ở lại có vẻ lễ độ nhă nhặn và gần như có cái ǵ đó ngập ngừng do dự. Họ cho rằng hễ cứ người ngoại quốc da trắng th́ là người Nga. Một số có vẻ như được mở mắt trước sự thịnh vượng của Sài G̣n, họ bị cuốn hút bởi đồng hồ -vốn chỉ các cấp tá quân đội Bắc Việt mới có được- và thích nhất là các đồng hồ có hiển thị ngày tháng. Họ gọi chúng là những "đồng hồ có cửa sổ". Nếu đi đôi, họ nắm tay nhau với một ánh nh́n ṭ ṃ cảm xúc. Nhưng họ cũng đă chứng tỏ đă được huấn luyện kỹ. Khi một vài tay súng c̣n kháng cự bắn vào một đơn vị quân đội Bắc Việt gần công viên giữa dinh Tổng Thống và nhà thờ gạch đỏ của Sài G̣n [nhà thờ Đức Bà], các phóng viên đă nh́n thấy một sự sắp xếp lại đội ngũ gần như tức th́. Những người lính một phút trước đó c̣n cười nói, hút thuốc… liền nằm sấp xuống vừa thận trọng bắn lại vừa tổ chức đội ngũ tiến gần đến những kẻ tấn công. Điều đó nhắc ta nhớ tới một thời chiến tranh du kích đảm nhiệm phần lớn và đó cũng là lực lượng chủ lực lực dài ngày. Bắc Việt đổ vào Sài G̣n mọi thứ mà một quân đội hiện đại muốn có. Họ có dồi dào lượng xe bọc thép và pháo binh - tất cả mọi thứ ngoại trừ không lực. Trong khi đó Nam Việt Nam đă hầu như đă chẳng để lại tí không lực nào.

    Việt Nam là một đấu trường quân sự, chính trị và đạo đức trong nhiều năm qua. Cuộc chiến đă choán quá nhiều trong tâm khảm của mọi người đến nỗi đôi khi ta có thể nói tất cả những ǵ không đúng với thế giới th́ lại thành đúng ở đây. V́ vậy, nhiều điều quan trọng sẽ phải được phân định ở nơi này: bên nào sẽ ưu thắng trong mối tương tranh quốc tế giữa cộng sản và không cộng sản; liệu các quốc gia phương Tây có tiếp tục thống trị các nước cựu thuộc địa; liệu các nước nhỏ có thể trỗi dậy thành nước mạnh; liệu du kích chiến có đánh bại quân đội hiện đại. Và cũng vậy, liệu một phong trào quần chúng - phong trào phản chiến ở ngay trong ḷng của chính quốc gia gây chiến- có thể xoay chuyển các chính sách của một cường quốc hay không? Những câu hỏi đơn giản khái quát đó nay vẫn khó giải đáp dù chúng cũng đă từng được đặt ra vào ngày Sài G̣n sụp đổ.
    Thực tế rơ ràng là cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam là một sai lầm và tội lỗi - bởi v́ nó đă đảm trách một cách hời hợt, theo đuổi một cách hung hăng và rồi bỏ rơi một cách phản bội phũ phàng – Đó là những nét hiện rơ của cuộc chiến này.
    Chuyện miền Nam Việt Nam sụp đổ đă vấy tiếng là một biên niên sử của một thất bại được báo trước. Richard Nixon và Henry Kissinger biết cuộc chiến đă hết đường nên đồng t́nh rút quân theo Hiệp định Ḥa b́nh Paris năm 1973. Họ biết điều đó có nghĩa là miền Bắc sẽ giành chiến thắng, nhưng họ muốn thế, theo như lời của Kissinger: một "khoảng lặng vừa đủ" (nguyên văn: “decent interval” (2)) độn vào giữa đủ cho họ rút lui rồi miền Nam Việt Nam mới thua trận. Dù có vẻ đôi lúc họ nuôi ư tưởng rằng nếu được giúp đỡ Nam Việt Nam có lẽ vẫn đứng vững được, nhưng thực ra điều đó có nghĩa là họ mong Nam Việt Nam vẫn chiến đấu tiếp sau khi không c̣n binh lính Mỹ bên cạnh để nước Mỹ sẽ không đến nỗi quá tệ trong con mắt của quốc tế. Mưu đồ đen tối này trộn lẫn vào tương lai chính trị đang trôi tuột của Nixon, cùng với sự mở rộng chiến tranh của Nixon sang Campuchia đă làm dấy lên làn sóng phản đối rộng răi, rồi cú sốc giá dầu năm 1973 đă gây thiệt hại, rồi cái giá phải trả quá lớn cho chiến tranh [Việt Nam] đă như chạm vào chỗ hiểm trong t́nh thế lạm phát tăng cao…tuy nhiên tất cả những điều này cũng không tác động mạnh cho bằng vụ bê bối Watergate bắt đầu hé lộ ra. Quốc hội như bừng tỉnh và nổi loạn bắt đầu xét nét mọi thứ đặc biệt là về chiến tranh, đă đơn phương áp đặt những cắt giảm liên tiếp những khoản viện trợ quân sự cho Sài G̣n như đă hứa.
    Như một sự an bài không hiểu nổi, về phía Nam Việt Nam, cấp số đạn dược, lượng các phi vụ và các phụ tùng cũng như quân trang quân dụng cứ bị cắt giảm từng tháng. Vào cuối tháng Tám năm 1974, Thiếu Tướng John E Murray người có trọng trách giữ nguồn cung cấp cần thiết cho quân đội Nam Việt Nam duy tŕ chiến đấu, đă viết thẳng ra rằng "nếu không c̣n nguồn hỗ trợ đích thực, QLVNCH (Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa) sẽ thua, nếu không tuần tới, tháng tới, th́ sẽ là vào năm tới". Trong khi vấn đề kỹ thuật, quân sự với cuộc chiến này khá đơn giản. Nam Việt Nam là một đất nước với đặc điểm thiên nhiên dài và hẹp, do đó lúc nào cũng bị đối phương tấn công từ mạn sườn. Do buộc phải tự vệ ở mọi nơi mọi điểm, nên họ không thể chống đỡ mà không ứng biến linh hoạt nếu không có hỏa lực được cung cấp bởi viện trợ Mỹ. Nhưng bầu sữa viện trợ mà nay đă bị tắt.
    Tổng Thống Thiệu, người vốn đă chẳng được mấy hậu thuẫn, trong t́nh h́nh này thậm chí c̣n ít được ủng hộ hơn. Kinh tế miền Nam cứ sa sút dần, trong khi ông lại bị mất đi sự hỗ trợ thậm chí của các thế lực Công giáo mà là b́nh thường luôn hậu thuẫn ông, c̣n phía Phật giáo ngày càng lánh xa ra hơn, đó là những người ôn ḥa và Trung Lập trong cái gọi là "lực lượng thứ ba".
    Nhưng nếu Nam Việt đang ở trong một t́nh trạng bấp bênh, th́ Bắc Việt cũng có những âu lo sâu xa của riêng họ. Dù đảng và chính phủ [miền Bắc] lúc nào cũng đóng một vai diễn sặc mùi tuyên truyền rằng họ tin chắc chiến thắng sẽ đến và thống nhất được đất nước, nhưng trong thâm tâm họ lại không chắc như vậy. Họ cũng gặp vấn đề về nguồn viện trợ phụ tùng, vũ khí và quân nhu khi Nga và Trung Quốc cũng đă cắt giảm nguồn cung cấp sau Hiệp định Ḥa b́nh Paris. Và, giống hệt như Nam Việt Nam, họ rất lo về độ tin cậy và động cơ của các đồng minh của họ. Như George J Veith đă viết trong một cuốn sách lịch sử quân sự của ông về những năm cuối cùng của cuộc chiến -“Tháng Tư Đen”, rằng Hà Nội đă cảm thấy rằng họ chỉ có "một cơ hội quá mong manh để giành chiến thắng".
    Một kế hoạch [của miền Bắc] đă h́nh thành cho một chiến-dịch-hai-năm dự trù sẽ mang lại chiến thắng vào năm 1976. Tuy nhiên, những cuộc triệt thoái bỏ trống trận địa ở Tây Nguyên [của miền Nam] đă quá thuận lợi khiến họ đă dẹp bỏ ư định ban đầu, vào năm 1975. Mọi việc đă đi đến kết thúc trong ṿng có hai tháng. Chiến thuật sai lầm của ông Thiệu (3) và thuộc cấp đă gây ra bao điều tồi tệ, nhưng miền Nam bại trận quá sớm chủ yếu vẫn do thiếu nguồn dự trữ và bị cắt giảm hỏa lực.
    Rồi quân Bắc Việt tiến gần về Sài G̣n. Ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng và những nơi khác nữa đă xảy ra những cảnh hoảng loạn và rối loạn khủng khiếp, dù nhiều trường hợp bất tuân thượng lệnh và đào ngũ, nhưng vẫn có nhiều đội quân c̣n chiến đấu dũng cảm và nhiều gương anh hùng, vị quốc vong thân. Nhưng Nam Việt Nam, hoặc là một "con thực thể bù nh́n", hay một quốc gia thực sự, hoặc là bất cứ điều ǵ đi nữa, đă biến mất trong làn khói tan của chiến trận. Cả thế giới vô cùng kinh ngạc.

    Các phóng viên báo chí quyết định ở lại Sài G̣n là chủ yếu là người Pháp và Nhật Bản, cộng với một vài người Anh và ước chừng một hoặc hai người Mỹ giả vờ làm người Canada. Dù không chắc ǵ không gặp nguy hiểm, nhưng trong vai tṛ nhà báo chúng tôi mới tường tŕnh cuộc chiến được dễ dàng hơn. Chúng tôi dễ được ưu tiên chở đi khắp nơi bằng máy bay Mỹ và máy bay trực thăng, được lo chỗ ăn, chỗ ở và được lính Mỹ cũng như (ở mức độ thấp hơn) binh sĩ Nam Việt Nam bảo vệ. Bạn có thể tới mép ŕa của cuộc chiến ở phía bắc, gần một nơi có tên mỉa mai là “Khu Phi Quân Sự” rồi trở lại Sài G̣n tắm mát dưới ṿi sen và uống trà vào buổi chiều…
    Bây giờ đột nhiên chúng tôi thấy ḿnh trong một t́nh trạng lửng lơ. Nguyên một hệ thống hỗ trợ sống c̣n cho chúng tôi với những phi công, những người bảo trợ, các nhân viên phân tích tin người Mỹ, Tùy viên quân sự Đại sứ quán Úc bỗng biến đâu mất. Nhiều mối liên hệ người Việt đă bỏ đi hoặc ẩn mặt. Các luật sư của chúng tôi, người trợ lư, tài xế và người thông dịch cũng thế (trong số đó cũng có một số người hóa ra lại là đặc công cộng sản th́ họ vẫn c̣n đó, nhưng lúc bấy giờ họ lộ diện ra ngay, nghĩ cũng phải thôi)

    Bắc Việt cũng có một ít nhân viên nói thạo tiếng Anh –và Pháp- lắm lúc thật cần nhưng rất hiếm. Có một t́nh thế cần thiết như vậy, ngay sau khi thành phố thất thủ, đó là lúc một đơn vị làm phim của quân đội Bắc Việt xông vào văn pḥng của CBS và yêu cầu thực hiện cho họ một cảnh quay trận đánh cuối cùng tại Cầu Tân Cảng ngay bên ngoài thành phố. Họ vă mồ hôi và giận dữ, dường như họ đă đến cây cầu quá muộn để có được những thước phim riêng cho họ, v́ vậy họ muốn thu đoạt hết những ǵ đoàn làm phim truyền h́nh Mỹ đă quay. Tôi đă chứng kiến cuộc đối đầu đó và xung phong bước ra gặp một đại tá Bắc Việt ôn ḥa hơn mà chúng tôi đă có gặp trước rồi. Ông ta làm dịu t́nh h́nh và ra lệnh cho đồng bào ông bỏ đi. Trưởng văn pḥng nhẹ nhơm và mời ông uống chút ǵ. Ông nhă nhặn từ chối một cách duyên dáng và nói thêm, với nụ cười gượng: "Để sau nhé, chúng ta sẽ c̣n nhiều thời gian vui vẻ". Có lẽ chẳng ngạc nhiên ǵ là chúng tôi chẳng c̣n gặp ông ta để mà vui vẻ, và vội cuốn đi bỏ lại đó các vật dụng chả đáng ǵ.

    Giờ đây cũng chẳng thể nộp các báo cáo v́ bưu điện đă đóng cửa và tất cả các đường điện thoại, điện tín đă không c̣n. Khi nào được chúng tôi sẽ gửi hàng loạt bản sao tường tŕnh về những ngày cuối cùng mà hiện lúc này không thể gởi được. Sau đó, chúng tôi chẳng biết làm ǵ nữa? Chẳng c̣n được làm những ǵ trước đây vốn là việc thường lệ như viết lách chỉ trích chính sách của Mỹ và chính phủ Nam Việt Nam và quân đội. Tất cả đă hết, và những lời chỉ trích của chúng tôi giờ chẳng c̣n quan trọng như đó đă từng. Một số người trong chúng tôi lại có cách làm việc điền thế vào thói quen nghề nghiệp lạ lùng là t́m đến những nơi chốn, những ṭa nhà một thời từng giữ vai tṛ quan trọng và viết bài "Hồi đó và Bây giờ".
    Một nhóm chúng tôi lái xe dọc theo Quốc Lộ 13 hướng về An Lộc, một thị trấn ở phía bắc Sài G̣n từng bị bao vây trong cuộc tổng tấn công năm 1972. Khi chạy xe xuống một bên làn đường quê, trước mắt chúng tôi bày ra một cảnh tượng lạ lùng trông như toàn bộ sản phẩm của một công ty sản xuất giày trận bỗng nằm gọn hết trên mặt đường nhựa, như thể chủ của chúng đă bất ngờ thăng hết lên trời vậy. Quân phục Việt Nam vương văi trên bờ mương mỗi bên đường. Ở những nơi khác cũng có những cảnh tượng tương tự. Nghe nói là do quân đội Bắc Việt đă ra lệnh cho các đơn vị đầu hàng cởi bỏ ra.

    Những ǵ nh́n thấy qua chuyến đi thực địa này quả là mỉa mai lộ liễu. An Lộc đă từng là một chiến thắng của Nam Việt Nam, đă chiến đấu kiên cường với các binh chủng nhảy dù và thiết giáp, và giải quyết trận địa với không lực Mỹ: hầu hết các phi vụ B-52 của Mỹ ở Đông Nam Á đă được gọi đến để dập tắt những kẻ tấn công Bắc Việt. Trong một nghĩa nào đó, chúng tôi đă so đọ với quá khứ, bởi v́ những ǵ bày ra ở hiện tại quả là không hiểu nổi.
    Chúng tôi gọi một thức uống có nước đá ở một quán gần một trại lính bỏ trống và t́m kiếm xem văn pḥng cố vấn Mỹ ở đâu, nhưng không t́m thấy và đành chuẩn bị lên đường, băng qua các dăy nhà nơi vùng quê rậm rạp về lại Sài G̣n.
    Trên đường đi An Lộc, chúng tôi có đi ngang qua Đại sứ quán Anh, và tôi nhận thấy một đội lính canh gác đă hạ lá quốc kỳ Anh xuống và dùng nó làm một tấm bạt để che nắng. Nghẹn ngào - và ngạc nhiên - một cơn giận dữ đột ngột thôi thúc, tôi bước ra khỏi xe, sải bước qua họ, và nhấn mạnh rằng họ nên trả nó trở lại vào cột cờ. Giả như tôi là người Nga hoặc Đông Đức và tưởng tượng tôi có tí quyền, ít nhất tôi cũng gấp lại nó lại.
    "Cái ǵ vậy?" Tôi chợt tự hỏi. Những người lính đă không có ư xúc phạm. Nói cho cùng, nó chỉ là một mảnh vải. Nhưng sự thật là tất cả chúng ta, trong một mức độ nào đó hay v́ một cái ǵ khác đi nữa, vẫn c̣n đọng lại trong tâm khảm cuộc chiến vừa qua và vẫn c̣n thấm nhuần một ư thức về quyền tối thượng ở phương Tây nên sự kiện này đă biểu hiện trái ngược tinh thần đó và gây cảm xúc quá mạnh. Quả là như vậy, mặc dù một vài trong chúng tôi đă từng ủng hộ mạnh mẽ chiến tranh. Trước khi Saigon thất thủ, Philip Caputo, một nhà báo Mỹ -người đă từng là một sĩ quan thủy quân lục chiến tại Việt Nam và đă viết một cuốn sách tuyệt vời về những trải nghiệm của ḿnh- đă mạnh miệng tự hỏi liệu những ǵ đang xảy ra có na ná như việc đoàn quân lê dương rút ra khỏi ṿng ngoài của đế chế La Mă hay không. Liệu thế lực phương Tây chúng ta trải khắp thế giới, mà Mỹ là một hiện thân cuối cùng, có phải sắp kết thúc? Một cái ǵ đó đă bị hạ bệ và cái khác - không phải thuộc về "chúng ta" – sẽ điền thế? Phác họa ra 2 h́nh ảnh song song như thế th́ sáo ṃn khiên cưỡng - một thứ tự huyễn lăng mạn có vẻ khó chịu khi ngoái nh́n lại quá khứ. Người Việt, Bắc và Nam, đang trong khoảnh khắc lịch sử đặc biệt của họ, c̣n chúng tôi th́ ngồi ṿng ngoài và trưng dẫn Edward Gibbon (4)

    Dĩ nhiên chúng tôi cũng vẫn cố tường thuật những ǵ đang diễn ra ở Việt Nam mới sang trang. Có điều ǵ đó ở ngay trước mắt chúng tôi, ngay nơi khách sạn mà chúng tôi đang ở, như là các viên chức nhiều ngành khác nhau được triệu tập đến trong một cuộc họp về “cải tạo”. Hoc Tap, đúng nó đă được gọi thế, rốt cuộc, đă lư đến tất cả mọi người. Cựu sĩ quan được gọi vào lớp này tới lớp khác. Ít nhất có một thời gian đă có một chính phủ miền Nam khác nữa th́ phải? Vậy vai tṛ của chính phủ cách mạng lâm thời đó nay thế nào, vốn chỉ hiện hữu như là 1 công cụ tuyên truyền trong thời chiến? Chẳng chóng th́ chầy tất cả đều sẽ có câu trả lời, nhưng thời giờ của chúng tôi quá ít ỏi trong khi chính quyền mới làm việc ǵ cũng chẳng rơ ràng do đó chúng tôi chỉ có khái niệm lờ mờ về những ǵ đang xảy ra.
    Một thoáng cảm thấy rằng chúng tôi - hay đúng hơn là các nước chúng tôi đại diện - đă bị hạ thấp dù vẫn nh́n nhận rằng đó là một cách trả đũa xứng đáng. Cảm giác đó càng rơ thêm bởi thực tế chúng tôi là những nhà báo chứ đâu phải tù binh hay gián điệp. Chúng tôi chẳng thể tự ḿnh quyết định ǵ dù muốn đi hay ở lại Việt Nam. "Họ" sẽ quyết định hết. Chúng tôi phục họ cũng như tính kỷ luật của họ - về những ǵ chúng tôi nghĩ là thuần khiết cách mạng nơi họ - nhưng thái độ cứng nhắc của họ đă làm chúng tôi cảm nhận ngược lại. Ở đây không hề có một sự ǵ gọi là ḥa giải dân tộc ngay cả một thỏa hiệp nhỏ đi nữa. Nhà báo người Ư Tiziano Terzani đă đặt cảm nghĩ đó trang trọng trong cuốn sách của ông: “Giai Phong!” (Liberation!): Ông thấy cả "một sự ngưỡng mộ lớn lao và một nỗi sợ hăi không diễn tả được" rằng phe cách mạng đă tiến sát đến "ngưỡng của vô nhân đạo".
    Có lúc chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm như thể bị tẩy chay. Hầu như cả nhóm vài phóng viên Anh ẩn náu cả ngày trong một căn biệt thự rộng răi thuộc một ngân hàng Anh. Vị đại diện c̣n ở lại của ngân hàng, một công dân Ấn Độ, vui vẻ cho chúng tôi mượn ở tạm bởi v́ ông nghĩ sự hiện diện của chúng tôi sẽ ngăn nó khỏi bị chiếm dụng. Ở đó có một con chó tốt giống, vóc to lớn, nó tỏ vẻ hớn hở khi gặp mọi người, như loài chó này vốn vậy. Một buổi tối nọ, một nhân viên tuần tra Bắc Việt đến, hỏi lịch sự mấy câu lư do tại sao chúng tôi hiện diện nơi đây, nhưng lại nh́n chằm chằm con chó. "Con này mà làm thịt ăn th́ ngon lắm đây", cuối cùng một trong số họ đă buông một câu như vậy vừa lấy tay xoa xoa lên bụng. Sau khi họ bỏ đi, chúng tôi tức tối nói với nhau: "Lũ con hoang này muốn ăn thịt con chó của bọn ḿnh". Chẳng bao lâu sau, những người Anh chúng tôi cùng với hơn 100 nhà báo vốn đă ở lại từ trước, đă bị lịch sự đưa vào một máy bay chở khách Antonov của Nga để tống ra khỏi đất nước Việt Nam bay sang Vientiane, Lào. Trước khi đi, chúng tôi đă cố sắp xếp để bảo vệ con chó "của chúng tôi", dù trong ḷng chẳng mấy tin điều ǵ tốt đẹp nơi họ.

    Trở về Washington, Gloria Emerson của tờ New York Times, có lẽ là người chống chiến tranh nhiệt t́nh nhất trong số những phóng viên người Mỹ, đă viết ra những mừng vui phấn khởi quá đáng, đốt x́ gà và tự chúc mừng đối với chiến dịch Mayaguez tại Nhà Trắng, và c̣n cường điệu rằng những ǵ nó mang lại đă làm tăng uy tín của chính phủ. Mayaguez vốn là một tàu chở hàng của Mỹ mà thủy thủ đoàn đă bị Khmer Đỏ giữ lại không cho đến Campuchia vài ngày sau khi Sài G̣n thất thủ. Mỹ đă gửi thủy quân lục chiến đến để giải cứu thủy thủ đoàn, nhưng hóa ra hầu như chẳng ai gặp phải bất kỳ nguy hiểm nào hết. Thế rồi thật là lố bịch, sau đó chẳng hiểu sao chiến dịch ấy lại được thổi phồng lên như một trưng dẫn đối nghịch để biện minh cho sự nhục nhă 30 tháng Tư tại Việt Nam và sự sụp đổ của Pnomh Penh trước đó. Thực ra đó là một công vụ ngớ ngẩn và thất bại trong đó người Mỹ đă tổn thất rất nhiều nhân mạng khi tấn công quân Khmer Đỏ - họ đă lường trước t́nh h́nh - và thực tế họ đă chuẩn bị để bảo toàn lănh thổ chống lại các quan thầy mới từ Nam Việt Nam. Thiếu tin tức t́nh báo, lăng phí hỏa lực và phạm sai lầm chết người, thiết tưởng đă quá đủ để nói rằng cuộc chiến vừa kết thúc kia là cả một Sai Lầm.

    Vụ Mayaguez là một chỉ dấu trước hết cho thấy rằng có thể lấy nước Mỹ ra khỏi Việt Nam, nhưng không thể lấy Việt Nam ra khỏi Hoa Kỳ. Trong những thập kỷ tiếp đó, Mỹ không hề ngừng chiến tranh mà vẫn tiếp tục, theo nghĩa dễ thấy nhất, bằng cách cấm vận hiểm nghèo một Việt-Nam-mới về kinh tế và chính trị. Chính sách đó về sau càng thêm cực kỳ quái gở bằng cách hậu thuẫn hữu hiệu cho tàn dư chế độ Khmer Đỏ tiếp tục chống lại chính quyền bù nh́n thân Việt Nam ở Pnomh Penh. Hiện nay 2 nước [Việt Nam và Cambodia] giảo hảo rất tốt như Hồ Chí Minh đă hy vọng thế vào năm 1945, khi Hồ khẩn nài Mỹ giúp dành độc lập từ tay Pháp mà Mỹ đă không đếm xỉa ǵ tới.
    Nhưng nếu cuối cùng Mỹ có ngưng trừng phạt chính Việt Nam đi nữa th́ chiến tranh vẫn diễn ra theo những cách khác. Kể từ đó [chiến tranh Việt nam] tất cả những ǵ Mỹ đă làm ở những nơi khác trên thế giới đều bị liên đới đến một áp lực bức bách phải nỗ lực tái khẳng định sức mạnh quân sự của chính họ. Đó là nỗi sợ về một Việt Nam khác, một sa lầy khác, một thất bại khác. V́ là một bức bách cho nên họ không ngừng t́m kiếm những nơi khác, sao cho một cái ǵ đó giống như Việt Nam để được ra tay một lần nữa, nhưng lần này th́ phải xuôi thuận và chiến thắng. Mỹ nhiều lần đă mưu cầu một chiến thắng bù như thế, gần đây nhất là ở Afghanistan và Iraq. Việt Nam cũng giống như bóng ma của Hamlet, cứ lảng vảng ám ảnh. Trên b́nh diện cốt yếu nhất, chiến tranh luôn đồng hành với Mỹ, v́ chiến tranh như thể là một phép thử cho người Mỹ thấy thế nào là nước Mỹ.

    Các sĩ quan hiện dịch trẻ (5) từng phụng sự ở Việt Nam trở về đă quyết tâm tạo nên một đội quân mới. Nó phải là một lực lượng chuyên nghiệp, t́nh nguyện, và do đó ít chịu áp lực của công chúng về thương vong. Nó phải thủ đắc công nghệ thay cho “boots on the ground” (6). C̣n nếu đă có “boots on the ground” rồi, quân đội mới c̣n cần được trang bị thêm kỹ năng chống du kích chiến vốn đă bị thiếu hồi chiến tranh Việt Nam. Cuối cùng, nó sẽ không tham chiến mà không được bảo đảm rằng sẽ không bị hạn chế quyền tận dụng hết các nguồn lực - những hạn chế đó, theo quan điểm của nhiều người lính, đă biển lận kết cục chiến thắng của quân Mỹ ở Việt Nam. Nhưng tất cả cũng chỉ là vô vọng. Quần chúng Mỹ đă chứng minh là họ hầu như nhạy cảm với những cái chết dù là của quân t́nh nguyện hay với lính quân dịch. Công nghệ mới đă sanh ra nhiều vấn đề mà nó phải tháo gỡ. Chiến lược chống du kích chiến vẫn tỏ ra không hiệu quả. Và việc sử dụng vũ lực cần được bảo đảm sẽ không bị hạn chế th́ hoàn toàn không thể được, bởi chính phủ không có quyền đó.

    Có ít nhất ba cuộc chiến tranh Việt Nam khác đă đua nhau thu hút sự chú ư của người Mỹ, và đua nhau lấp đầy các kệ sách vốn đă nặng về chủ đề các mối tương tranh.

    Thứ nhất, Mỹ có tất cả trừ chiến thắng, cuối cùng đành vứt bỏ chiến thắng trong tầm tay v́ thiếu quyết đoán, v́ bị các phương tiện truyền thông tự do phản đối và v́ sự xuẩn ngốc của Quốc Hội.

    Thứ nh́, nó đă giành chiến thắng, bởi nó nhắm tới cả Trung Quốc và Nga để ngăn ngừa một hiệu ứng domino xô đổ các nước Đông Nam Á khác ngă vào ṿng cộng sản và chiến thắng đó đă đạt được thực sự.

    Thứ ba, sứ mệnh [tham chiến tại Việt Nam] đă được thực thi trong hăm hở nhưng hiểu biết không hoàn bị, tưởng rằng thiết lập một Việt Nam có một vị thế tương đương như Nam Hàn sẽ là tương đối dễ dàng, nhưng rồi sau đó lại chuệch choạng để mất kiểm soát.

    Vậy cuộc chiến nào đă thực sự xảy ra? Cuộc chiến "trung thành với chúng ta vẫn c̣n", lời Tổng Thống George HW Bush phát biểu năm 1988, nhưng "rơ ràng là đă đến điểm dừng bởi những đạo luật hạn định. Bài học cuối cùng là chẳng có quốc gia nào dù hùng mạnh đến mấy mà không bị kư ức của nhân loại soi xét"

    (c̣n tiếp, xin xem tiếp dưới đây)

    Saigon April 28, 2015
    Lê Tùng Châu dịch

  2. #2
    Member
    Join Date
    31-03-2011
    Location
    http://letungchau.blogspot.com/
    Posts
    140

    Bốn mươi năm Sài G̣n thất thủ: chứng kiến chiến tranh Việt Nam kết thúc (tiếp theo và hết)

    (tiếp theo phần trên)

    Nếu có một lời nhắc nhở mộc mạc như thế nào là chiến tranh một ngày kia đă chạm đến gần hết các mái gia đ́nh người Mỹ th́ đó là Buffy. Buffy là những con voi làm bằng gốm cao khoảng hai feet rưỡi, có đỉnh bằng phẳng mà bạn có thể đặt một ly nước hoặc một chậu kiểng nhỏ trên đó. Nó có mặt trên khắp nước Mỹ như một chứng tích thầm lặng rằng đă có một thế hệ nam thanh niên đă ra đi măi măi khi tham chiến ở Việt Nam. Được làm tại Việt Nam với số lượng lớn và được chở về ở mức vài ngàn một ngày vào lúc cao điểm của cuộc tương tranh. Hugh Mulligan của hăng AP (Associated Press) đă viết [về Buffy] vào năm 1983: "Chúng được đặt nghiêm trang một cách khôi hài trên hành lang của West Point" (7) và "sát dọc với các hồ bơi sân sau của vùng ngoại ô hẻo lánh". Chúng có giá chừng vài đô la một cái và thêm ít nữa để giao tới tận nhà luôn nhờ vào sự trợ cấp của Bưu điện Quân đội Mỹ.
    Tên của nó, xuất phát từ những chữ viết tắt của "Bloody Useless Fucking Elephant", do một sĩ quan hậu cần đă phải khó khăn khi t́m chỗ cho chúng trong khi những chỗ trong khoang tải hàng hóa bằng phi cơ của ông vốn đă eo hẹp nay lại bị các món quà lưu niệm gở cuồng này ngốn hết.

    Hầu hết các Buffy có màu sắc ḷe loẹt. Nguyên thủy, chúng được sản xuất tại một nơi có tên gọi là Lái Thiêu, ở mạn bắc Sài G̣n, là một quần thể những vùng dất nhỏ thơ mộng có nhiều đền chùa nghệ thuật được biểu hiện nhiều với 2 màu xanh dương và xanh lá cây dịu nhẹ. Hiện nay, như Linh Anh Moreau - con gái của Ron Moreau, một phóng viên xuất sắc của tờ Newsweek ở Việt Nam - đă viết trong một blogpost 2012 rằng Lái Thiêu thời cũ là đă hết rồi: "Hầu hết các nghệ nhân người Việt gốc Hoa cũ nay đă chết hoặc đă bỏ trốn khỏi xứ, và bí mật nghề nghiệp của nghệ thuật đó cũng đi theo họ. Những trai trẻ mới học nghề, th́ hầu hết đă được gọi vào quân đội miền Nam Việt Nam, hoặc gia nhập quân Việt Cộng, hoặc bị cưỡng bức hoặc tự ư chọn". V́ vậy, câu chuyện của các “Buffies”, ngay ở cái nh́n thoáng qua ban đầu từ một khía cạnh nhẹ nhất đi nữa, trong thực tế, cũng đă là một câu chuyện khơi dẫn sự thất bại và tổn hại rồi.

    C̣n cái nh́n của Gloria Emerson th́ không hề nhẹ. "Mỗi mùa đông đi bộ trên đường phố của các thành phố khác nhau của Mỹ," bà viết trong cuốn sách của ḿnh về cuộc chiến, về bên thắng và bên thua, "Tôi đă từng nh́n vào những người đàn ông trẻ tuổi trong áo khoác quân đội loại tồn kho, một số có các miếng vá mang ḍng chữ mà tôi đă biết quá rơ: the Americal, Screaming Eagle, Tropic Lightning… Có một lúc lâu tôi không chịu nổi những cái áo jacket đó v́ luôn luôn thấy một mối nghi trong ḷng: phải chăng các áo này đă được cởi ra khỏi các xác chết của lính Mỹ ở Việt Nam, tân trang lại, rồi ép hồ cho cứng và bán ra như là những hàng tồn kho?"

    Tội lỗi của những người đă tham gia cuộc chiến tranh nay được kết hợp với tội lỗi của những người ở nhà. Trong một đoạn xưng tội nổi tiếng, James Fallows đă viết ông và các bạn học Harvard đă giả vờ bệnh tật như thế nào để trốn quân dịch. Khi những nam sinh Harvard rời pḥng thi, họ nh́n thấy "các chàng trai đến từ Chelsea, tóc đen, dày, những người vô sản da trắng của Boston ... Họ lần lượt đi qua các luồng kiểm tra như thể đàn gia súc bị lựa ra để giết thịt ... Trong khi có lẽ bốn trong năm trong số bạn bè của tôi từ Harvard đă được hoăn dịch, th́ ngược lại, các chàng trai Chelsea th́ không. Chúng tôi trở về Cambridge chiều hôm đó ... Buổi nói chuyện quả là có nâng cao tinh thần, nhưng lúc ấy có một cái ǵ đó hiện rơ ra rất thực mà không ai trong số chúng tôi muốn đề cập đến. Giờ th́ chúng tôi đă biết ai c̣n ai mất".


    Đi dạo trong thảo cầm viên một lần nữa ngay trước khi Sài G̣n thất thủ, Peter Kann của tờ Wall Street Journal và tôi đă được một cậu bé khoảng 13 bắt chuyện, cậu ta rút từ trong túi ra một vật lạ. Đó là một mô h́nh nhỏ của một máy bay trực thăng quân sự Mỹ được làm từ những thứ vật liệu phế thải – như một miếng thùng trong suốt dùng đựng bút bi, những mảnh của vỏ lon bia và những thứ khác đại loại như vậy. Trong chiếc túi kia c̣n có nhiều thứ khác. Cậu đă rất khéo léo khi giải thích, bằng một thứ tiếng Anh khá đúng, cậu đă làm chúng như thế nào, và đă thành công khi chúng tôi đă mua hai món. Đặc biệt đối với tờ Wall Street Journal, đây là một ví dụ điển h́nh về tài kinh doanh buôn bán – một thứ tài năng không hề được nước Việt Nam mới đồng t́nh. Tôi thấy mắt ḿnh cay cay khi cảm động nh́n cậu bé xếp gọn những tờ bạc, và tôi biết Kann cũng như tôi. Chúng tôi chẳng có lư do ǵ để nghĩ một tương lai không sáng lạn sẽ đến với cậu bé, nhưng tôi nhớ ngay lúc đó trong tâm ḿnh đă nghĩ Việt Nam đă phải chịu đựng một cuộc chiến tranh quá khủng khiếp, cho nên một hành tŕnh khốn khó cho đất nước này đang chờ đón phía trước là không sao tránh khỏi- nói một cách khác, tất cả do Mỹ gây ra. Những tang thương mất mát đă qua như báo biểu rằng sắp tới sẽ c̣n nhiều nữa khi giờ khắc cáo chung của Sài G̣n bắt đầu điểm.

    Saigon April 28, 2015
    Lê Tùng Châu dịch

    Xin xem bản nguyên văn ở Nguồn bài của Martin Woollacott ==> The Guardian Tuesday 21 April 2015

    -----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

    Chú Thích: Toàn bài, Martin Woollacott không có 1 chú thích nào. Các chú thích dưới đây bởi người dịch.

    1- Có lẽ Martin Woollacott viết nhầm, phải là ngày 1/5/1975 mới đúng.


    H́nh trên: Frank Snepp (phải) và Hồi Kư “Decent Interval”

    2- “Decent Interval” cũng là tên của thiên Hồi Kư của Frank Snepp (xuất bản 1977) kể về những ngày cuối cùng của Saigon năm 1975. Frank Snepp là nhân viên CIA chi nhánh Saigon và là Trưởng bộ phận phân tích tin của Ṭa đại Sứ Mỹ tại Saigon, người ở lại cùng với Đại Sứ Martin cho đến chuyến chót trong chiến dịch cầu không vận bằng trực thăng có tên là Operation Frequent Wind (thực hiện không gián đoạn từ khoảng trưa ngày 29/4/1975 -ngay trên nóc Ṭa Đại Sứ Mỹ ở Saigon- cho đến gần 9 giờ sáng ngày 30/4/1975) để đưa người di tản thoát khỏi Saigon trước khi thất thủ)

    3- Xin xem:
    - Ai ra lệnh rút quân khỏi Pleiku-Kontum 1975?
    - V́ Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I? - Tường tŕnh của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng

    4- Edward Gibbon là một sử gia người Anh với công tŕnh quan trọng nhất: The History of the Decline and Fall of the Roman Empire ("Lịch sử suy tàn và sụp đổ của đế chế La Mă") đă được xuất bản 6 lần trong khoảng 1776 đến 1788.

    5- Sĩ quan hiện dịch: thường là những sĩ quan được đào tạo từ một trường vơ bị quốc gia (ở Việt Nam: Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, ở Mỹ: Trường Vơ Bị Quốc Gia West Point) là nơi đào tạo quân nhân chọn đời binh nghiệp vĩnh viễn dù trong thời b́nh hay thời chiến. Đối lại với "hiện dịch" là "trừ bị" (ở Việt nam có Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức) tức những quân nhân có thể giă từ binh nghiệp trong thời b́nh để trở về đời sống dân sự (civil)

    6- Thuật ngữ "boots on the ground" là từ một quá tŕnh quân sự phong phú. Chắc hẳn nó đă có từ thời sĩ quan người Anh Robert Grainger Ker Thompson trở về trước, đó là một chiến lược gia về du kích chiến của Anh trong nỗ lực chống lại quân Giải phóng Dân tộc Mă Lai thời "Malayan Emergency" 1948-1960 [tức thời chiến tranh du kích kéo dài từ 1948-1960 ở Malaya giữa thực dân Anh và lực lượng Giải phóng Dân tộc Malaya (MNLA - quân du kích của đảng Cộng sản Malaya)]. Thuật ngữ này ("boots on the ground") cũng liên quan đến Hoa Kỳ nhất là Tướng William Westmoreland (1914 – 2005, tướng 4 sao, Tư lệnh MACV - lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam- từ 1964 – 1968) khi Mỹ tham chiến tại Việt Nam, đặc biệt với việc gia tăng lực lượng hùng hậu vào 1965-1968.

    7- Trường Vơ Bị Quốc Gia Hoa Kỳ
    Last edited by Lê Tùng Châu; 30-04-2015 at 10:40 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Phi and Me - SYDNEY We are coming!! April 2015
    By Sydney in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 0
    Last Post: 06-04-2015, 05:01 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 25-07-2013, 01:27 AM
  3. Replies: 4
    Last Post: 23-04-2013, 03:54 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 02-01-2012, 01:34 AM
  5. Ngày April 8/1865 của Hoa Kỳ và ngày April 30/1975 của Việt Nam
    By Hoang Tam Hong in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 1
    Last Post: 21-04-2011, 07:38 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •