Page 26 of 27 FirstFirst ... 16222324252627 LastLast
Results 251 to 260 of 264

Thread: MIỀN TRUNG THƯƠNG NHỚ

  1. #251
    tran truong
    Khách

    Giải Khăn Sô Cho Huế

    Một vài tiếng súng bắn lẻ tẻ trong xóm. Cậu Giáo nói dân vệ đi tuần họ bắn. Tôi hỏi ở đây Việt cộng có về tới nơi không, mợ Giáo nói:

    “Đêm họ về hoài, mà kệ họ, ḿnh ở trong nhà, đêm đừng mở cửa. Họ đi ngoài vườn kệ họ.”

    “Họ có soát không?”

    “Ở xóm dưới họ có về bắt, ở đây th́ không. Đây gần đồn, có lính gác mà sợ chi.”

    Nhưng cậu Giáo cẩn thận:

    “Kể ra ḿnh cũng phải để tâm chớ. Đêm tuyệt đối đừng có nói chuyện, cựa ḿnh chi hết. Họ vô đó.”

    Thái đề nghị đào thêm hầm. Tối hôm đó, mọi người lăng xăng sửa lại hầm. Nhà dựng được thêm một cái hầm nổi nữa. Trời chạng vạng là cậu Giáo bắt mọi người không được ra sân hay lấp ló ngoài cửa. Ngoài đường không c̣n một bóng người đi lại, kể cả lính Việt và Mỹ cũng rút vào những nơi an toàn. Tôi bỗng linh cảm như sắp có chuyện ǵ xảy ra. Giữa cảnh yên lặng như đang lắng ḷng chờ đợi một chuyện ǵ đó.

    Nhưng đêm đầu tiên ngủ ở Thủy Dương Hạ không có chuyện ǵ xảy ra hết. Sáng sớm hôm sau, ngủ dậy, tôi nghe tiếng chim hót. Tôi lần ra sân rửa mặt súc miệng, rồi cùng với người con dâu của cậu Giáo đi ra ngơ coi t́nh h́nh. Mọi sinh hoạt vẫn b́nh thường, trước cửa nhà, bên kia đường, nơi đ́nh, chợ vẫn đông. Nhưng sự đông đúc có một vẻ ǵ khác thường. Lài kéo tôi sang phía chợ, nơi hàng bán cháo ḷng, người đứng người ngồi, họ ăn uống xô bồ.
    Bên cạnh đoàn người đang ngồi đứng đó, c̣n những đống đồ cao ngất, những thúng gióng. H́nh như họ mới tản cư về sáng nay. Tôi lại hỏi thăm. Nhưng ai cũng chỉ biết chuyện người đó. Nhiều người ở An Cựu, nhiều người ở tận dốc cầu Nam Giao, nhưng họ cũng chả cho tôi biết ǵ hơn ngoài những tin tức đă nhận được. Một người nói cho tôi biết là ở trên kia, c̣n nhiều người bị thương.

    Lài kéo tôi bảo lên coi. Cô nàng chưa bị chạy loạn, từ hôm Tết đến nay, ở Thủy Dương Hạ yên ổn quá, chả biết sợ là ǵ. Nhưng tôi th́ khác, một tiếng súng, một tiếng động lạ cũng làm tôi giật ḿnh. Má tôi đứng trong sân, thấy chúng tôi đi xa th́ gọi lại bảo đừng có đi. Tôi nói vài câu cho má tôi an tâm. Câu mà má tôi bằng ḷng nhất là khi tôi nói may ra ở trên đó có người ở Từ Đàm về.

    Trời vẫn mưa bay, nếu không phải chạy loạn, những ngày đầu xuân mưa phùn thế này thật tuyệt diệu. Nhưng lúc này tôi không c̣n đủ sức để ngắm phong cảnh nữa. Những đoàn người từ Huế tản cư về vẫn là cảnh chính đập vào mắt tôi. Tôi nôn nao, gặp ai cũng hỏi thăm , dù biết là những câu trả lời của họ giống nhau hết.

    “Bác ở mô về đó?”

    “Ở An Cựu.”

    “Bến Ngự.”

    “Ở cầu Nam Giao.”

    “Trên đó ra răng rồi chị? rồi mệ? rồi bác? rồi anh?”

    “Tan nát hết. Tan hết rồi.”

    Câu nói chạy vút theo những bước chân. Đoàn người nào cũng vừa đi vừa chạy ... như sợ tiếng súng sẽ theo kịp. Lài kéo tay tôi:

    “Thôi đi, hỏi ai cũng như nhau hết.”

    Tôi đi theo Lài, nhưng hễ gặp là hỏi. Kẻ trả lời, kẻ không buồn mở miệng. Kệ, tôi như nhiễm một thói quen khó bỏ và dù những câu trả lời rất giống nhau mà mỗi lần nghe tôi vẫn c̣n bỡ ngỡ, lạ lùng như khám phá thêm một điều lạ nữa.

    Chúng tôi đi qua một khoảng đất trống, cái quán nhỏ và khu đồn binh hiện ra. Ở đây thật là một cảnh hỗn độn, người ngồi người nằm la liệt bên đường, trong sân, trước quán. Mấy anh lính, mấy anh dân vệ lăng xăng soát giấy người này, hỏi thăm người nọ. Mấy người Mỹ đứng ngắm đoàn người rồi nhe răng cười vô duyên, chả hợp t́nh hợp cảnh chút nào. Những người bị thương được sắp một nơi và đă có mấy y tá trong vùng ra băng bó. Hỏi thăm mới biết là đoàn người này từ nhiều nơi đổ về. Họ cho biết cầu Tràng Tiền đă sập, cầu An Cựu cũng đă sập. Có người ở bên phố thoát được nhờ mạo hiểm đi đ̣. Mỗi chuyến đ̣ chở một người sang sông phải trả trên năm ngàn đồng.



    refugees fled from communist-controlled areas of the city by manhhai, on Flickr



    Nhờ hỏi thăm những người mới về sáng nay, mà tôi biết Huế đă đánh nhau khắp nơi, bên phía Quốc gia chưa chuyển quân mà mới bắn đại bác và thả bom. Máy bay liệng suốt ngày. Máy bay c̣n kêu gọi dân chúng cố dồn về phía hữu ngạn để thoát tay Việt cộng nữa.
    Tôi được biết là ở trường Đồng Khánh, Quốc Học và trường Kiểu Mẩu đă trở thành những nơi tạm cư cho đồng bào. Họ ở những nơi này cũng như đùa giỡn với tử thần v́ những trái đại bác bất chừng hoặc bị kẹp giữa hai phe đánh nhau, ngày nào cũng có người chết. Tôi cố hỏi thăm tin tức vùng anh tôi ở, nhưng họ lắc đầu hoặc cố ṃ đoán trả lời th́ cũng càng bi quan hơn, chả hạn như:

    “Trên đó nát hết rồi, thành b́nh địa rồi.”

    Có người c̣n nói y như ḿnh đă chứng kiến tận mắt:

    “Trên đó th́ chỉ có Việt cộng chớ dân th́ c̣n ai nữa. Nội đại bác bắn ngày đêm, mười mấy ngày nay cũng đủ chết rồi, đừng nói súng đạn, đừng nói chuyện họ đấu tố. Tui ở Bến Ngự mà thấy mùi hôi bốc xuống ń. Chó nó lên tha cả cánh tay, cả khúc chân c̣n đầy thịt, rùng rợn lắm.”

    Một người c̣n thêm:

    “Trên nớ chết không ai chôn, không c̣n cái nhà mô nguyên vẹn. Mấy hôm trước có người trốn về nói cho tui nghe rứa đó.”

    Thôi, như vậy tôi c̣n hy vọng ǵ gia đ́nh anh tôi c̣n sống nữa. Cả cô em gái mà khi ba tôi từ giă cơi đời, mắt vẫn dán chặt vào khuôn mặt nó như muốn gởi gắm những người ở lại. Mấy đứa cháu nhỏ nữa, mấy năm nay tôi mới về, bận việc tang chưa kịp bế kịp bồng.

    Nước mắt tôi muốn trào ra, và ḷng tôi không c̣n chút hy vọng nào nữa. Nhưng lúc đó, tôi lại nghe một giọng khác trả lời một người nào đó đang hỏi.

    “Trên Từ Đàm hả? Cũng có người thoát chớ. Họ đi lên ngả Tây Thiên, trên đó yên lắm, nhưng khổ là ở đó lại đầy quân giải phóng. Bộ chỉ huy của họ mà. Nhiều người mắc kẹt nhưng mần răng chẳng có người thoát được.”

    “Bà đừng có lo. Tui ở dưới dốc mà cũng thoát được ń, cái nhà của tui không c̣n ḥn gạch mô c̣n nguyên hết.”

    Tôi lại hy vọng:

    “Nhất định là gia đ́nh anh tôi sẽ thoát được.”

    Nhưng nghĩ tới bà chị dâu yếu đuối, một bầy cháu nhỏ với đứa em gái thơ dại, tôi lại lo lắng. Ông anh tôi cũng yếu đuối lắm, cuối năm, cái tang lớn làm anh tôi chết đi sống lại mấy lần. Cả mấy ngày đám, anh tôi không ăn được một bát cơm và hôm đưa đám tang ba tôi, anh đă ngất xỉu trước mộ.

    Thấy tôi đứng lặng người, Lài kéo tay tôi:

    “Thôi ḿnh về đi, ở đây trông ớn quá trời.”

    Giữa đường tôi gặp vợ chống Bé, nó nói là nó ở lại đây đến ngày mai nó sẽ đi xuống Phù Lương, ở đây mà yên ổn ǵ. Tôi không trả lời. Thật ra, tôi cũng không c̣n có thể đoán ra nơi nào yên ổn hơn nơi nào nữa.

    Má tôi đợi tôi ở đầu cổng, bà hỏi:

    “Có tin ǵ không?”

    Tôi nói cho má tôi yên ḷng:

    “Có người cho biết trên Từ Đàm họ tản cư lên Tây Thiên, Trúc Lâm nhiều lắm.”

    “Rứa anh con răng không tản cư, đi lên Trúc Lâm rồi ṿng ngả núi Ngự B́nh về An Cựu được chớ.”

    “Chắc anh c̣n kẹt chuyện chi đó.”

    Má tôi thắc mắc:

    “Người ta tản cư hết, răng nó chưa đi.”

    Rồi bà nhất định ở lại đây để chờ. Khi vào nhà, mợ Giáo mua cho tôi một tô cháo ḷng.

    Tô cháo ḷng nóng hổi, thơm phức, nhưng khi nuốt miếng cháo vào cổ họng, tôi lại thấy đắng ngắt.

    Lúc này mà tôi c̣n muốn ăn ngon, muốn sung sướng, quả tôi là một người ích kỷ. Tôi đang nhớ con tôi, chồng tôi. Tôi đang lo cho anh chị tôi, em gái tôi cùng lũ cháu nhỏ. Tôi có thật được sống rồi không? Và sống có mỗi ḿnh. Nước mắt tôi trào ra. Lài hỏi:

    “Răng không ăn đi, nóng há. Ừ, tô của ḿnh nhiều tiêu quá, ăn nóng chảy cả nước mắt đây ń.”

    Lài lại cười. Tôi quay đi dấu đôi gịng lệ. Má tôi vẫn c̣n ngồi ngẩn ngơ trước tô cháo. Tôi lau nước mắt nói:

    “Ăn đi má.”

    Má tôi nói:

    “Con ăn đi con. Tội nghiệp con quá, mười mấy ngày nhịn đói nhịn khát.”

    Tôi chớp mắt, màn nước mỏng nḥa dần và tôi nh́n thấy rơ khuôn mặt má tôi. Bà đang nh́n tôi chằm chặp. Bát cháo c̣n đặt trước mặt và làn khói đă mỏng dần, sắp nguội lạnh. Mấy miếng huyết heo nổi lều bều.

    Tôi bỗng rùng ḿnh, miếng huyết heo giống những vết máu bầm mà tôi đă nh́n thấy. Tôi đẩy tô cháo ra xa. Má tôi ôm mặt ̣a khóc:

    “Ḿnh thoát về đây ăn sung sướng, c̣n con cháu ra răng hở trời?”

    Má tôi lại kêu trời. Không biết đă bao người nhớ tới ông trời để mà kêu ... trong những ngày biến loạn. Lài an ủi:

    “Thôi bác, bác có khổ sở th́ chuyện đă xảy ra. C̣n có may rủi mà bác.”

    Thái đă ăn hết tô cháo của nó. Nó lại đẩy tô cháo về phía tôi:

    “Ăn đi chị. Có mà ăn, người ta chết về súng đạn, chết đói đầy đường.”

    Tôi cố nuốt vài muỗng cháo cho má tôi và Thái vui ḷng. Nhưng mỗi miếng cháo nuốt vào cổ, tôi nuốt theo cả sự xót xa bất nhẫn. Lúc ở ngoài đường, tôi đă nh́n thấy một đứa bé nh́n chằm chằm vào bà hàng cháo, nó đ̣i ăn nhưng bà mẹ cứ gạt đi, bế chạy về phía con đường dài. Đứa bé cḥi đạp hai chân và khóc nhưng tiếng nó đă khản đặc, không c̣n ra hơi nữa.

    Mợ Giáo kể chuyện ngóng được ở những người chạy loạn cho cả nhà nghe. Cậu Giáo lo lắng:

    “Không biết ḿnh có lấy lại Huế được không. Trên đó mất th́ dưới ni ḿnh cũng không sống nổi!”

    Mợ Giáo nguưt dài:

    “Cái miệng của ông coi chừng đó. Túi qua họ về họ bắt đi mấy người đó tề. Có một hai người chỉ ở trên Huế về trốn họ cũng bắt. Người ta điềm chỉ đó nghe, cứ tin mà chết khi mô không biết.”

    Má tôi lo lắng:

    “Rứa ḿnh ở nơi ni không được rồi.”

    Thái tin tưởng:

    “Bác cứ yên trí đi, họ không biết ḿnh là ai mô. Chạy đi mô cũng rứa hết, ở mô cũng có họ rồi.”

    Thái cố làm cho má tôi yên trí mà ở lại đây, chớ đọc qua đôi mắt nó tôi hiểu là nó đă quá mệt mỏi, liều đến đâu hay đó. Cậu Giáo mắng nó ăn mặc sạch sẽ, biểu lấy quần áo nhà quê mà mặc. Mợ Giáo cũng đưa cho tôi bộ đồ đen rộng thùng th́nh. Má tôi dặn tôi phải bối tóc kiểu Huế lên cho cao, lỡ đêm họ có vào hỏi th́ nói là dân làm rẫy. Tôi soi người trong tấm kiếng và bỗng thấy ḿnh xa lạ hẳn, tôi nh́n tôi cũng không c̣n nhận được nét quen thuộc nữa.

    Từ giờ phút đó cho tới trưa chiều, tôi không rời mắt khỏi đường cái. Những đoàn người chạy loạn về càng lúc càng đông. Có hỏi ... họ chỉ khoát tay chỏ lại đàng sau với một câu nói vội vàng: Đánh nhau sau nớ, chết hết. Đến trưa chiều th́ tôi thấy có người chở cả xác chết trên xe đạp mà chạy về.

    Một gia đ́nh ông bác sĩ ở đâu dưới dốc Nam Giao chạy về được Thủy Dương Hạ, họ đem theo được một chiếc xe Honda để tải đồ. Mấy cô con gái mặt không c̣n hột máu, ngơ ngơ ngác ngác ngồi nghỉ chân bên lề đường. Ông bác sĩ gọi gánh cháo ḷng, mỗi người ăn tới bốn năm bát, vừa ăn vừa thở, nét mặt đang khổ đau rạng rỡ dần.

    Một gia đ́nh khác cũng chạy về tới đây th́ kiệt sức, họ dọn dẹp một góc đ́nh để ở tạm qua đêm. Bà mẹ lên cơn suyễn, chiều hôm đó bà chết. Người ta bu lại coi đông như kiến. Xác người đàn bà to béo nằm ch́nh ́nh trên chiếc chiếu, mắt trợn ngược, hai tay c̣n nắm chặt gỡ không ra.
    Người chồng ngồi bên xác vợ thở ra thở vô, lâu lâu lại nh́n về phía thành phố Huế, những đụn khói cao ngất , đang đùn măi lên bầu trời màu ch́ như chiếc lưỡi xám của con quái vật.

    Xế chiều họ dọn đi đâu mất, khi tôi trở ra th́ thấy nơi góc đ́nh chỉ c̣n bỏ lại có chiếc chiếu. Tức th́ một gia đ́nh khác thay ngay vào chỗ đó. Chiếc chiếu thành nơi nằm ngồi của cả một gia đ́nh mười mấy mạng người.
    Lài kể cho tôi nghe một chuyện đă trông thấy. Hắn nói, vẻ mặt vừa cảm động vừa tức cười:

    “Hồi chiều có một cô gái mặc đồ cao bồi, ôm cái áo măng tô mà khóc sướt mướt. Cô ta đi vô xóm, giơ áo măng tô ra đổi lon gạo mà không ai đổi. Cô khóc. Ḿnh hỏi chuyện cô nói cái áo măng tô của bồ cô mua bên Mỹ, gửi về tặng. Cô đói quá, muốn đổi lon gạo mà không ai đổi. Ḿnh định vô lấy gạo đổi mà mạ ḿnh không cho. Nói để cái áo nớ trong nhà lỡ họ vô họ nói ḿnh thân Mỹ, họ bắn luôn. Cô nớ đi gạ hoài, vừa khóc vừa năn nỉ mà chả ai đổi hết.”

    Thời buổi này cả vàng bạc, châu báu, ngọc ngà cũng không quư giá ǵ hơn, miếng đất c̣n có ích để chôn xác chết chớ vàng bạc đâu có no được. Hột gạo lúc này là hột châu, quư giá hơn tất cả mọi thứ trên đời. Mợ Giáo đă dặn ḍ là nấu cơm phải cho nhiều nước để ăn mau no và nhớ hà tiện gạo.

    Ngay chiều hôm đó, Thái đi vận động bà con mua hoặc xin mỗi nhà năm ba lon, nó kiếm được gần nửa bao gạo. Thấy Thái vác gạo về, mắt má tôi sáng rỡ:

    “Thằng ni tài quá.”

    Thái vất bao gạo xuống đất:

    “Ăn hết chừng ni mà chưa yên là chết đói luôn. Không ai dám cho hay bán thêm một hột thóc.”

    D́ Vạn của Thái chạy tới hỏi:

    “Có ai mua vàng không? Ngoài đường, đoàn người tản cư về, họ bán một lượng vàng có mấy trăm bạc hoặc đổi lấy gạo.”

    Mợ Giáo cười cay đắng:

    “Một cục vàng đổi một hột gạo cũng không được. Có mà điên.”

    Thái nh́n làn mưa bụi, than thở:

    “Mưa ri khó đánh lắm. Bên ḿnh có hơi cay nhưng mưa như ri làm răng mà thả được, nước mưa sẽ làm trôi hết.”

    Cậu Giáo lắc đầu:

    “Thôi, có người ta có ḿnh, mi than thở làm chi.”

    Mấy đứa con nít bỗng từ ngoài đường chạy ùa vào, mặt mày hớt hơ hớt hải. Rồi tiếng cả một đoàn xe rầm rộ kéo tới. Tôi nh́n ra đă thấy một đoàn xe Mỹ chạy từ phía Phú Bài lên. Nhiều người Mỹ nhảy xuống xe, nằm sát hai bên đường và bắn chỉ thiên ṛn ră. Họ bắn cả vào rẫy, vào núi. Cậu Giáo hét mọi người vô hầm. Tất cả các cửa ngơ đều được đóng chặt lại.

    Tiếng súng nổ như bắp rang từng loạt rồi xa dần. Đoàn xe rần rật chạy qua, có nhiều người chạy vào nhà, không kịp nằm mọp ngoài sân nơi chiếc bể cạn đợi đoàn xe chạy qua hết, tiếng súng xa dần mới đập cửa rầm rầm. Má tôi th́ thầm:

    “Má thấy ở nơi ni cũng không yên chi hết. Răng mà má lo quá con ơi.”

    Má tôi lại có ư định đi tản cư nữa. Lần này th́ chính má tôi đề nghị. Nhưng tôi đổi ư. Tôi biết là có chạy đi đâu th́ t́nh cảnh cũng chả khá hơn. Má tôi làm thinh.
    Ngoài đường đă hoàn toàn vắng vẻ. Bóng tối ập xuống rất nhanh. Mưa bụi dày dần và không khí lạnh toát. Má tôi ngồi bó gối trong góc phản gỗ, nh́n ra ngoài bầu trời đang đen dần. Bữa cơm hồi chiều tôi ăn được lưng một bát, c̣n má tôi ăn xong một bát th́ lại khóc, những giọt nước mắt lăn xuống bát cơm và má tôi vội vàng bỏ đũa.



    BE082134 - Huế, Nam VN 01/02/1968 by manhhai, on Flickr



    Hai chiếc hầm nổi đầy nhóc người, không có chỗ cựa quậy nữa. Tôi muốn qua bên o U ngủ nhờ, nhưng không dám bước ra sân. May quá, Hiền gơ cửa và gọi. Tôi theo Hiền qua nhà bên cạnh. Hiền là một sinh viên mỹ thuật, bà con bên ngoại của Thái. Căn nhà của Hiền ở khuất mặt đường hơn và đă đào được cái hầm sâu xuống nhà khá rộng. Hiền đốt ngọn đèn chỉ cho tôi coi mấy bức tranh mới vẽ. Nhưng tôi chả thưởng thức được ǵ, chả nhận được ǵ, đầu óc tôi căng thẳng tột độ. Tôi đang lo sợ nay mai tiếng súng sẽ tới đây, và chắc chúng tôi không c̣n sức để chạy nữa.

    Hiền nói:

    “Có mấy thanh niên t́m chị, họ hỏi em mà không biết ư chị ra răng!”

    Tôi mỉm cười: Thôi, em tha cho chị, bây giờ mặt mũi chị thế này, quần áo rách bươm thế này. Để một dịp khác, nếu c̣n được sống. Thủy Dương Hạ là nơi chị ghi ơn trong những ngày chạy loạn.
    Tôi nhớ tới những hột vịt lộn Hiền bỏ trong túi giấm dúi đưa cho tôi ăn, tôi nhớ một vài khuôn mặt trẻ nh́n tôi nửa thương hại nửa buồn cười. Phải, tôi buồn cười lắm. Nhưng điều đó đâu có quan trọng ǵ, miễn là tôi sống được.

    Đêm đó, tôi không nằm hầm mà nằm nơi chiếc giường rộng với o U, với cô con dâu của o U và đứa cháu nhỏ. Trời lạnh buốt, tôi trùm chăn kín đầu. Chiếc áo măng tô của ba tôi, tôi vẫn mang kè kè bên ḿnh, kể cả lúc ngủ.

    Thôn xóm im vắng một cách khác thường, không có cả tiếng chó sủa. Không có một tiếng súng nhỏ. Chỉ có tiếng đại bác trên ngọn đồi nhỏ bắn đi đều đều và tiếng ́nh ́nh một nơi xa vọng lại. Nơi xa đó là thành phố Huế, là Thành Nội, Từ Đàm, An Cựu, Nam Giao... Mỗi tiếng ́nh như xoáy tim tôi, tôi biết rằng, khi tôi được nằm yên ổn ở nơi đây th́ trong thành phố đó, bao nhiêu người đang chết súng , chết đạn, chết đói chết khát. Bao nhiều lồng ngực muốn vỡ tung, bao nhiêu giọt nước mắt ḥa lẫn với máu.

    Thao thức măi rồi tôi cũng thiếp đi. Tôi ch́m vào một cơn mơ dữ dội. Tôi thấy tôi chạy loạn cùng khắp các ngả đường trong thành phố. Những khuôn mặt các anh giải phóng như những người khổng lồ, luôn luôn muốn nuốt chửng tôi. Những trái đạn rơi đằng sau lưng, rơi đằng trước mặt. Và tôi cứ chạy, y hệt như những cảnh tôi sống qua. Sau lưng tôi những xác chết bật tiếng khóc đuổi theo, cả những bàn tay, khúc chân cũng chạy theo níu nữa.
    Dưới chân tôi máu chảy như suối. Nào xác Việt cộng, xác trẻ em, xác lính, xác Mỹ, xác bà già nằm ngổn ngang bít kín đường. Mặc, tôi bước qua xác họ và chạy tới đằng trước. Nhưng tôi bị kẹt giữa hai đụn khói khổng lồ. Trước mặt tôi cháy, sau lưng tôi cháy. Những đoàn người chạy loạn xuôi ngược, đạp bừa lên nhau. Tôi nhận ra trong đoàn người có cả đoàn người cầm cờ trắng chạy qua sông một ngày nào. Có cả má tôi, em Thái, anh Lễ, bé Hà chạy tít đằng xa và bỏ cách tôi.

    Ở bên này cầu, một anh lính giải phóng bắc tay làm loa: Đồng bào hăy ở trong nhà, đừng ra đường. Ở bên kia, một anh lính quốc gia gào lớn: Hăy về phía hữu ngạn. Tản cư về phía hữu ngạn. Tôi không c̣n nhận ra phương hướng nào nữa. Nơi nào là hữu ngạn? Nơi nào là tả ngạn?

    Những ḍng máu đă chảy ra tới bờ sông và mặt nước lạnh buốt có những làn chỉ hồng. Đống khói đằng sau lớn dần, đống khói trước mặt lớn dần. Khói bao bọc tôi, che kín mắt tôi, rồi những tiếng súng lớn nhỏ bắt đầu thi nhau nổ. Đoàn người kêu khóc, kẻ vượt chạy, người ngă xuống. Tôi cũng chạy theo. Nhưng không kịp nữa rồi. Một tiếng nổ lớn. Cả thành phố nổ tung theo. Người tôi như tan trong những mảnh gạch cát. Tôi c̣n kịp nghe tiếng kêu của tôi rú lên, bay vút lên bầu trời màu ch́ xậm.

    Có bàn tay kéo tôi dúi xuống đất: Chạy vô hầm. Mau lên. Tôi chợt tỉnh. Một tiếng nổ rất gần rung chuyển cả căn nhà, mấy cánh cửa sổ bị bật tung cứ đánh ra đập vào liên tiếp. Tôi lăn tṛn dưới đất mấy ṿng th́ tới miệng hầm.


    Mai tiếp ....

  2. #252
    tran truong
    Khách
    Có lẽ tôi là người xuống hầm chậm nhất. Một tiếng nổ nữa tiếp theo. Mái nhà kêu rạt rạt như muôn ngàn mảnh vụn đang trút xuống trên mái tôn. Th́ ra tiếng nổ trong cơn mơ của tôi kéo đổ một thành phố trùng hợp với tiếng nổ giữa đêm nơi làng quê này. Bàn tay ai bên sườn tôi run lập cập.
    Một tràng súng nhỏ nổi lên khắp nơi. Họ đánh nhau tới nơi rồi. Tôi nắm chặt lấy tay o U. Tay o U cũng run lập cập. Tôi nghĩ tới má tôi, chú tôi và Thái ở bên nhà cậu Giáo. Chắc má tôi cũng đang run lên như chúng tôi ở đây. Giọng Hiền nói nhỏ:

    “Chắc đánh nhau rồi.”

    Có tiếng đập cửa. Mọi người im lặng, nín thở. O U bỗng càu nhàu: Tổ cha con chó, nó ra sân rồi. Tiếng con chó sủa lên từng hồi, tiếng súng nổ lẻ tẻ rồi tiếng chân chạy khắp vườn. Tôi nằm rạp xuống sát mặt hầm. Họ đi lùng bắt dân làng rồi. Số phận tôi rồi sẽ ra sao? Tôi nhớ tới lời Hiền bảo lúc tối là có mấy thanh niên đă nh́n ra tôi. Không, tôi đă sợ quá rồi nghi ngờ bậy, không thể ai c̣n đủ sức để hại ai lúc này. Tuy vậy, ḷng tôi không xua đuổi hết sự ngờ vực.

    Tiếng chân chạy ngang vườn rầm rầm rồi có tiếng hú, tiếng gọi nhau: Khai hỏa rồi. Quới ở đầu non. Lục ở cuối sông. Tiếng hô bắn. Đó là những ám hiệu. Nhưng không biết họ có soát nhà không. Đó là mối quan tâm nhất của tôi lúc này. Tiếng chân dừng lại ở sân. Rồi tiếng chân lại chạy đi. Tiếng hô xa dần rồi im lặng hẳn. Lúc này những tiếng súng lại nổi lên. Tiếng Hiền gắt gỏng một ḿnh:

    “Đợi đi hết mới bắn. Thiệt đồ ngu.”

    Một lát sau, có tiếng dân vệ la hét ngoài đường: Đuổi theo, anh em ơi. Nhưng chỉ mấy phút sau lại hoàn toàn im lặng. O U bắt chúng tôi ngồi suốt đêm dưới hầm, không cho lên nhà ngủ nữa.

    Sáng sớm, tôi chạy sang nhà cậu Giáo trong lúc chưa có một nhà nào hé cửa. Tôi đập cửa th́nh thịch. Bên trong nghe ngóng một hồi rồi cánh cửa hé ra chỉ vừa một người lách vô rồi gài chặt lại ngay. Mọi người vẫn c̣n ở trong hầm. Má tôi đưa tay ôm chặt lấy tôi khóc vùi.

    Thái th́ thầm:

    “Đêm qua bác lo cho chị quá, bác khóc cả đêm.”

    Tôi ôm chặt má tôi hơn và không biết nói một lời nào để má tôi yên ḷng. Chắc má tôi chẳng c̣n phút nào yên ḷng nữa. Thái chỉ cánh cửa sổ bay mất từ bao giờ:

    “Túi qua nổ mấy tiếng, mấy cái cửa bay hết rồi.”

    Tiếng d́ Vạn:

    “Th́ bom nó rơi đâu sát nhà ḿnh ń. Tao nghe một cái rạt, tưởng cái hầm bay luôn. Tao cứ ôm cái đầu, tưởng cái đầu cũng tiêu luôn rồi.”

    Mợ Giáo gắt:

    “D́ răng hay noái bậy rứa thê.”

    Túc, con trai cậu Giáo, đùa:

    “Bay đầu c̣n hai chưn c̣n chạy được mà d́.”

    “Nói răng mà nói tào lao tứ đế. Ở nơi súng đạn mà cái miệng chạch chạch.”

    Một lát sau thấy không có ǵ lạ và ngoài đường đă có người đi. Cậu Giáo mở cửa. Một mảnh bom nằm ch́nh ́nh ở trước sân. Mọi người chạy ra coi ngó một hồi. Thái đi ra đường một lúc rồi về cho biết là tối hôm qua Việt cộng đă giật cái cầu vực nơi cống. Nhưng giật luôn hai ba quả ḿn mà không sập hẳn, chỉ lủng một lỗ lớn, xe không đi được nhưng đi bộ và xe gắn máy qua được.

    Thái nói thêm:

    “Túi qua họ về làng nhưng rồi rút đi hết. Chắc họ tưởng cầu sập rồi.”

    Ngoài ngơ có tiếng gọi. Chúng tôi nh́n ra. Vợ chồng con cái Bé đang gánh gồng bồng bế nhau đứng ở đó. Tôi chạy ra:

    “Đi mô vậy?”

    “Đi xuống Phù Lương, ở đây không yên rồi.”

    “Xa không?”

    “Xa, người ta đi được ḿnh đi được chớ.”

    “Biết ở dưới đó có yên không?”

    “Người ta đi rần rần.”

    Bé nói:

    “Hỏi bác với chị có đi th́ đi, không tụi em đi.”

    Thái lắc đầu:

    “Ở mô cũng rứa, biết mô ra răng mà đi.”

    “Anh xuống dưới nớ, anh t́m đồn lính tŕnh diện luôn. Tức quá.”

    Thái làm thinh một lúc, suy nghĩ rồi hỏi:

    “Anh có tin tức chi không?”

    “Nghe nói thằng đồn trưởng của mi bị cắt cổ rồi. Cô cán bộ chạy về nói lại.”

    Thấy Thái yên lặng, Bé tiếp:

    “Mi ở đây răng họ cũng về lùng họ bắt. Họ biết là nhiều người tản cư về đây rồi.”

    Má tôi đă ra tới nơi. Chú tôi đ̣i đi theo vợ chồng Bé. Thế là gia đ́nh tôi lại chia thêm một lần nữa. Thái đứng nh́n vợ chồng Bé đi khuất khỏi cầu vực, thở dài:

    “Ḿnh vô đi bác.”

    “Thái nhất định ở đây?”

    Thái mím môi:

    “Ở đây.”

    Má tôi rưng rưng nước mắt:

    “Dù răng đi nữa, ở nơi ni cũng gần An Cựu. Không biết trên ra răng rồi...”

    Tôi biết má tôi đang nhớ tới căn nhà, tới bàn thờ ba tôi và ngôi mộ mới trên núi Tam Thái. Hôm đi tản cư xuống Thủy Dương Hạ, ngang qua đồng, má tôi nh́n lên phía núi hoài. Nhưng cũng như tôi, má tôi không thể phân biệt được mộ nào là mộ ba tôi. Nơi sườn núi là khu vực của người chết, và ngôi mộ nào cũng giống nhau như hệt.

    Mấy ngày đầu ở Thủy Dương Hạ thật yên ổn. Nhưng từ hôm bắt đầu có tiếng nổ ở cầu vực th́ ban đêm đại bác lại câu tới làng này. Tối nào chúng tôi cũng chui vào hầm thật sớm. Qua đêm thứ hai th́ mấy tiếng nổ tiếp nữa, cầu vực hư hại hoàn toàn. Ban ngày Mỹ lên làm cầu, nhưng ban đêm th́ họ rút về hết, nhường phần cho mấy anh giải phóng. Đến ngày sau nữa th́ trong làng đă có vài nhà bị trúng đạn đại bác.
    Sáng nào cũng nghe người ta bàn tán xôn xao về những trái đại bác bắn ra ngoài sông, rơi vào nhà dân cư. Một hai nhà đă bị trọn. Ban đêm các anh giải phóng về lục soát bắt dân. Phía cầu vực đă bị chận lại, lính canh gác không cho dân đi về Phù Lương nữa. Chúng tôi bị kẹt ở Thủy Dương Hạ và lại chờ đợi sự rủi may.

    Một vài người trên Huế tản cư về cho biết là ở An Cựu đă được giải tỏa. Quân Mỹ và lính quốc gia đă chiếm đóng, làm chủ hoàn toàn. Vài người trở lên để chở của nhưng họ trở về khóc lóc thảm thiết. Nhà cửa nào không bị sập th́ cửa đă bị mở tan hoang và đồ đạc không c̣n ǵ hết.
    Cầu An Cựu đă bị giật sập ngay khoảng giữa, sự qua lại hết sức khó khăn. Má tôi hỏi thăm kỹ càng lắm, họ cho biết tuy đă giải tỏa được, nhưng lính quốc gia và Mỹ chỉ lên có ban ngày, ban đêm rút trở lại Phú Bài hết. Trong làng lại có tin giặc sắp tới đây, ở trên phố thua, thế nào họ cũng rút về quê. Người ta sửa soạn để tản cư. Má tôi và Thái quyết định trở lại An Cựu.

    Mấy ngày liền, tôi nh́n thấy những đoàn xe chở đầy xác chết và binh sĩ bị thương chạy trở về, qua làng. Nhưng người ta vẫn ùn ùn kéo nhau trở lại Huế.
    Nhưng đồng thời, cũng có đoàn người ùn ùn từ Huế kéo về. Kẻ chạy lên, người chạy xuống. Má tôi cho Thái đi ḍ đường trước. Nó đi khoảng chừng nửa buổi th́ trở về:

    “Nhiều người về An Cựu rồi bác. Ḿnh về đi.”

    Vậy là chúng tôi sửa soạn lên An Cựu. Má tôi dặn ḍ cậu Giáo nếu ở đây đại bác dữ quá th́ lên trên đó. Mợ Giáo chia thêm cho má tôi ít gạo: Dù răng đi nữa ở dưới ni cũng c̣n có thóc, giă ra mà ăn, trên nớ kẹt là chết đói. Mợ Giáo, cậu Giáo và cả nhà đưa chúng tôi ra một khoảng đường rồi mới trở lui. Thấy nhiều đoàn người gồng gánh kéo nhau về Phù Lương, má tôi lại do dự. Thái phải nói măi má tôi mới thở dài: Th́ thôi cũng đành. Thái nói ở lại Thủy Dương Hạ hết sức nguy hiểm, nó nghe phong thanh: đêm, Việt cộng đă vô xóm bắt những thanh niên đi.

    Tôi thấy hơi yên tâm khi thấy có nhiều người đi trở lên, họ mang theo những thúng, gióng không. Tôi hỏi, họ cho biết là quân Quốc gia đă chiếm An Cựu họ đang kiểm soát trên đó, lên xem c̣n chi th́ chở đi không bị trộm cắp lấy hết.

    Tiếng đại bác vẫn nổ ́nh ́nh nơi phía thành Huế. Mặt má tôi tái xanh, môi bà run rẩy:

    “Mần răng chừ, trên đó c̣n bắn nhau.”

    Thái quả quyết:

    “An Cựu về phía ta rồi, đại bác bắn lên miệt Bến Ngự, Từ Đàm.”

    Quả đúng như lời Thái nói, lên tới Mù U, tôi nh́n thấy bóng những quân nhân thấp thoáng. Họ vác súng đi thành từng hàng, hoặc lẻ tẻ đứng gác ở hai bên đường. Lên tới đồn Trường Bia th́ tôi càng vững ḷng hơn nữa. Lính ở trong đồn rất nhiều. Phía ngoài, họ đứng gác cẩn thận lắm. Khi chúng tôi đi ngang qua, bắt gặp những tia mắt họ nh́n, tôi muốn cười mà không cười nổi. Tôi chắc họ cũng thế, những đôi mắt nh́n chúng tôi cho tới khi chúng tôi đi xa. Một vài nhà hai bên đường hé cửa. Vài người tḥ đầu ra hỏi:

    “Về lại hả?”

    Má tôi gật gật đầu, hỏi lại:

    “Yên chưa?”

    “Ồ, được rồi. Đào hầm trốn đạn. May rủi biết mô bác ơi.”

    Một tiếng nổ lớn như xé rách màng tai. Chúng tôi vội vă nằm dạt xuống đường.

    Một tiếng nói trong sân nhà nào nói vọng ra:

    “Đạn ḿnh bắn đó. Sau đồn Trường Bia bắn đi mà.”

    Tôi đứng dậy, ngượng nghịu phủi đất rồi kéo má tôi đứng dậy theo. Bà nh́n quanh nh́n quất:

    “Vắng quá, chưa có mấy người về.”

    Rồi bà hỏi một đầu người trong một cửa nhà vừa ló ra:

    “Mới về?”

    “Không, tui ở nơi ni từ mấy bữa ni.”

    “Không can chi hả?”

    Người đàn bà tḥ đầu ra nhiều hơn, giơ hai ngón tay rồi chỉ về phía góc sân:

    “Chết hai người.”

    Tôi nh́n theo tay người đàn bà chỉ. Hai nấm mộ đất đắp sơ sài nơi góc sân lạnh lẽo không có một que hương. Tôi kéo chặt hai vạt áo măng tô rồi quay mặt đi nơi khác. Người đàn bà vẻ mặt choắt lại, không biết sự khắc khổ từ lâu hay mới biến đổi khuôn mặt bà ta. Nhưng bà không có vẻ ǵ bi thảm hết. Tôi rùng ḿnh, mười mấy ngày rồi, họ chừng như đă quen với máu, với sự chết chóc bi thương.

    Gần đến nhà, chân tay tôi run rẩy quá. Tôi vừa mừng vừa sợ. Tôi tỏ ư lo lắng ngôi nhà đă đổ nát, không c̣n toàn vẹn nữa. Hôm đi xuống Thủy Dương tránh nạn, ngang qua đường cái, tôi đă cố nh́n vào ngôi nhà, nhưng đạn đằng sau lưng như xô tôi chạy tới, và những hàng cây loáng thoáng che khuất khu vườn. Trong những ngày ở Thủy Dương, biết đâu ngôi nhà đă sập.
    Người ta chả đồn đăi vài câu chuyện hết sức thương tâm và khôi hài là ǵ. Đoàn quân Mỹ lên An Cựu thấy ngôi nhà nào c̣n nguyên lành hoặc t́nh nghi là bắn bừa vào, bất kể bên trong có người hay không. Hoặc họ tràn vào nhà, đứng ở miệng hầm mà bắn tràn vào hầm. Họ sợ Việt cộng núp trong đó. Càng gần nhà, chân tôi càng bước mau hơn. Thái và má tôi cũng thế. Khi đi th́ gia đ́nh tôi thật đông, khi về chỉ c̣n má tôi, tôi với Thái. D́ Vạn với cô con gái đang sửa soạn, nói sẽ lên sau. Vợ chồng Bé về Phù Lương rồi. Thu cũng bỏ đi theo.

    Khi sắp bước vô ngơ, khu vườn của chúng tôi khuất ở đằng sau một khu nhà khác và con ngơ đi vào dẫn tới cổng trồng hoa cẩn và chè tàu, tôi bỗng nghe tiếng gọi đằng sau. Th́ ra chú tôi đang tất tả đi theo. Vợ chồng Bé bàn tính như thế nào mà bỏ ông ở lại.
    Tôi đẩy cánh cổng sắt khép hờ. Ngôi nhà bỗng bừng sáng lên như chào mừng chúng tôi với những dấu hiệu mới mẻ. Mái ngói bị trụt hoặc lủng lỗ v́ đạn rốc két, v́ bom chơm. Trước nhà, bức tường nứt một khoảng lớn và những cánh cửa sổ bị sức dội của bom đạn mở toang hoang. Tuy vậy, hai cánh cửa chính vẫn đóng. Thái nhảy lên thềm trước tiên. Nó đặt bao gạo xuống, quay lại nh́n má tôi rồi móc túi lấy ch́a khóa.

    Tôi thấy tay nó run rẩy và mặt nó tái đi. Cánh cửa mở, ánh sáng tràn vào căn nhà. Những đèn nến thắp dở, những liễn đối, những bông hoa cườm đập vào mắt tôi. Tôi chạy ào vào nhà, gục đầu nơi bàn thờ ba tôi. Má tôi ngồi bệt xuống đất cất tiếng khóc. Và Thái, tuy đă theo công giáo và rửa tội từ lâu, nó vẫn t́m hương thắp lên bàn thờ ba tôi ở gian trên, rồi cầm nắm hương c̣n lại thắp các lư hương ông bà, những người thân đă chết. Tôi nh́n lên bàn thờ ba tôi, tấm ảnh phủ vải đỏ cùng tất cả lư trầm, bàn nến đều phủ một lớp bụi dày. Mắt tôi chợt bắt gặp những lỗ thủng trên mái nhà và má tôi đang gọi Thái, tay cầm một mảnh bom hay đạn ǵ đó, sần sùi, xám ngoét màu kẽm.

    Một lát, chúng tôi đi lục soát xem có mất mát ǵ không. May quá, những thứ chúng tôi bỏ lại đều c̣n nguyên, chỉ những thứ đem đi mới mất. Thái quả quyết là chưa ai vô nhà. Kể ra cũng chả ai thèm vào ngôi nhà này làm ǵ, ba tôi vừa mới chết xong, khu nhà lại bỏ hoang không người ở từ lâu, hôm đám ba tôi xong, liễn đen trắng hoa cườm, vàng hương đầy nhà, trông vào như một khu nhà mồ. Nếu ai lạc vào khung cảnh tang tóc, tiêu điều thế này, chắc cũng hoảng lắm. Nhưng v́ đây là nhà chúng tôi, nơi kia là bàn thờ tổ tiên, nơi nọ là bàn thờ vừa thiết riêng cho ba tôi, tôi mới có được cảm giác ấm cúng và b́nh yên như thế này.

    Má tôi bảo đóng bớt cửa sổ lại, cửa lớn cứ khóa bên ngoài trừ khi có việc ǵ cần đi ra ngoài, để họ lầm tưởng là nhà bỏ không. Tôi nh́n ra cửa sổ quan sát xung quanh hàng xóm. Bên khuôn tịnh độ Nam An thật vắng vẻ, những nhà xung quanh đó cũng thật vắng vẻ. Nhưng một lát, tôi thấy một ông già đi ra trước sân, dừng lại nơi cột cờ thường treo cờ Phật giáo khi lễ lạc, ông đứng ngó ra con đường vắng vẻ, hai tay chắp sau lưng. Tôi muốn gọi ông già hỏi chuyện nhưng má tôi đă kéo tôi trở vào. Thái nói:

    “Ḿnh phải làm hầm lại. Hầm này có chắc chi mô.”

    Hai chị em tôi cùng với ông chú phụ nhau sửa lại hầm. Ngay chiều hôm đó, Túc và Lài từ dưới Thủy Dương Hạ lên. Túc cho biết dưới đó không yên và lên đây ở tạm. Một lát Hiền cũng đi xe Honda vào. May thay, chúng tôi vừa bỏ Thủy Dương đúng lúc. Cũng trong chiều hôm đó vợ chồng Bé trở lại nữa. Đi giữa đường chúng nó đă bị chặn lại, nghe đâu dưới xa kia có xe bị bắn và tấn công, đoàn xe Mỹ bị kẹt lại, đêm nay chưa chắc đă về dưới Phú Bài được.

    Nhờ đông người, chúng tôi mở cửa bếp. Dưới bếp, hồi trước ba tôi có cho một ông giáo viên thuê. Hôm Tết, vợ chồng con cái về quê ăn Tết và khóa cửa lại. Dưới bếp có sẵn một cái hầm nổi bằng bao cát, chúng tôi khuân tạm lên nhà làm một cái hầm nổi ở phía sau bàn thờ. Thái vừa làm vừa hỏi tôi có thấy chi lạ không. Tôi nói không. Thái nói khi hồi đi vô nhà, ngay qua cổng nhà đằng trước xây mặt ra hẻm vô nhà chúng tôi, Thái thấy nơi nhà đằng trước có một ngôi mộ trước sân. Trên mộ có nén hương và một nải chuối xanh. Tôi nhớ lại nhà hàng xóm đằng trước đă bị đạn và bốc cháy ngay sáng mồng hai, có mấy người bị thương chắc một người đă chết. Thái nói nhỏ:

    “Bác gái đằng trước chết chôn ở đó. Họ đi mô hết rồi, nhà bỏ không.”

    “C̣n mấy người bị thương nữa mà.”

    Thái lắc đầu nói: Em chịu. Thái cũng như tôi, làm sao biết thêm ǵ hơn nữa. Chúng tôi lại lăng xăng làm hầm. Ở trước khuôn có hiệu đồ mộc, Thái ra khiêng được mấy tấm ván khá tốt, đem vào kê hầm.

    Chiếc hầm coi cũng tạm được, nó chia làm hai ngăn. Ngăn trong dành cho má tôi và mấy chị em. Ngăn ngoài dành cho đàn ông. May thay, nhà tôi vừa xong đám ma, có rất nhiều đèn cầy, thắp tới mấy tháng chắc cũng không hết. Thái lại t́m ra một thùng dầu hỏa. Ba tôi dạo c̣n sống vẫn ưa tích trữ đồ, ông sắp về hưu và định dùng khu vườn cùng nhà thờ họ này làm nơi an dưỡng tuổi già.

    Chiều tối hôm đó, chúng tôi ăn cơm rất ngon. Cơm gạo giă tay, ăn với thịt kho mặn. Món ăn này do mợ Giáo đài thọ từ lúc c̣n ở dưới Thủy Dương. Chúng tôi ăn thật nhiều cơm. V́ làm việc mệt và đói nữa, chắc má tôi phải nhường mất một nửa phần của bà.

    Đêm đến, trước khi gài cửa ngơ cẩn thận và chui vào hầm, d́ Vạn đốt hương trên bàn thờ ba tôi, lâm râm khấn nguyện. Rồi đi ra sân thắp hương vái bốn phương. Cây mai nơi bể nước vẫn c̣n lơ thơ mấy bông, d́ đem hương cắm ở gốc cây mai đó.
    Chúng tôi nằm đất, lèn sát nhau mà vẫn không đủ chỗ. Lài với Túc không chịu nằm hầm, trải chiếu nằm ngoài nhà. Má tôi lo lắng bàn tính chuyện những ngày sắp đến. D́ Vạn càu nhàu nói, dù sao đi xuống dưới Phù Lương vẫn yên hơn là ở đây. Nhưng má tôi nói chạy đông chạy tây đă hết rồi, giờ về đây có chết cũng không c̣n tiếc chi nữa. Ở đây c̣n mong được biết tin con cháu.

    Vợ chồng Bé và chú tôi th́ lên nhà của họ phía trên đường rầy từ chiều. Bé cho biết trên đó người ta về cũng đông lắm rồi. Nhiều gia đ́nh khi chạy c̣n nguyên lành, khi về thiếu mất vài mạng. Họ đă chết dọc đường. Má tôi dặn: ban đêm ai gọi cửa đừng mở. Thái khôn khéo ra ngoài khóa cửa lại rồi leo cửa sổ mà vào. Nó nghĩ rằng làm như thế có ai gọi họ tưởng là nhà bỏ không. Mà đúng như vậy, nửa đêm có nhiều tiếng súng nổ nhỏ, rồi tiếng chân đi ngoài vườn. Tiếng chân đi mạnh bạo không thèm dấu diếm ǵ hết. Tiếng chân dừng lại ở trước cửa nhà rồi có tiếng gơ cửa. Tiếng đàn ông nói:

    “Có ai không. Mở cửa. Mở cửa.”

    Có tiếng khác gắt:

    “Đồng chí chỉ hoài công, tối nào cũng gơ. Họ bỏ nhà hoang mà.”

    “Khu vực này người ta về đông lắm rồi. Biết đâu chủ nhà đă về.”

    “Nhưng nhà này có tên trong danh sách không đă chớ?”

    “Có tên, nhưng ông già làm công chức đó đă chết rồi.”

    “Vậy th́ thôi. Con cháu họ ở kệ họ. Tôi đoán chắc chưa có ai về đâu. Nhà này ai mà dám ở.”

    Tiếng chân xa dần. Có tiếng chó sủa trong xóm ra. Một lát có tiếng đại bác nổ gần. Lài chui tọt vào hầm. Chúng tôi phải ngồi dậy mới đủ chỗ. Tiếng đại bác rơi đều đều, xa có, gần có. Có tiếng quá gần, dội tức ngực làm chúng tôi co rúm người lại. Lài nắm tay tôi hỏi: Vân ngồi mô. Đây ń. Ở nơi ni dễ sợ rứa hỉ. Tiếng d́ Vạn nói:

    “Im đi, đừng có ŕ rào.”

    Xa xa tiếng súng lại nổ ran. Đánh nhau ở đâu có vẻ lớn lắm. Chúng tôi thao thức lo lắng một vài giờ rồi cũng mệt quá ngủ thiếp đi.
    Sáng ngày, d́ Vạn dậy trước nhất. D́ ngóng ở cửa nghe động tĩnh rồi mới mở hé cửa. Ngoài đường vắng ngắt, nh́n nhà nào cũng hoang vắng đến dễ sợ. Thái chui ra sân trước tiên, rồi tới tôi, tới Lài.
    Buổi sáng trời vẫn lất phất mưa và lá cây trong vườn xanh một cách kỳ lạ. Qua những đám mây lam sà thấp, tôi bỗng h́nh dung được phía sau một bầu trời xanh lơ và ánh mặt trời rực rỡ.
    Má tôi, d́ Vạn cũng chạy ra: Nam mô A Di Đà Phật, một đêm yên ổn đă qua. D́ Vạn chấp tay vái bốn phương trời. Chúng tôi nh́n nhau, mừng mừng tủi tủi. Lâu nay chúng tôi vẫn sát nhau kề cận bên những nguy hiểm mà không nh́n thấy nhau hay sao mà bây giờ, đứng trước sân lại mừng tủi như sau bao ngày gian nguy mới gặp nhau, thấy nhau vẫn c̣n lành lặn.






    Mai tiếp ....

  3. #253
    tran truong
    Khách

    Giải Khăn Sô Cho Huế

    Nhưng cơn mừng tủi chưa dứt, ngoài quốc lộ, một đoàn xe Mỹ chạy từ Phú Bài lên, súng bắn rát vào hai bên ruộng. Chúng tôi không ai bảo ai đều chạy vào nhà đóng chặt cửa. Đoàn xe Mỹ qua một lúc th́ Thái lại nói:

    “Có lính ḿnh lên.”

    Nó đứng bên cánh cửa sổ hé mở và nh́n ra ngoài. Má tôi nói:

    “Phải sửa lại cái hầm. Thằng Thái nhớ đào thêm đất đổ lên cho dày nghe.”

    Mặc dù cố gắng hy vọng , nhưng chúng tôi chưa thấy dấu hiệu ǵ chứng tỏ ḿnh là người sẽ sống sót trong thành phố này, sau biến cố.
    Đêm thứ nhất trở lại thành phố, mặc dù có tiếng đại bác, có tiếng súng nổ ran ở xa xa, chúng tôi vẫn ngủ yên được mấy tiếng đồng hồ trong chiếc hầm chật hẹp.

    Không may cho chúng tôi, chiếc hầm được sửa sang mới ba bốn hôm th́ người thuê căn nhà bếp là một giáo viên tiểu học dạy trường An Cựu trở về.

    Thấy cửa bếp bị mở tung, ông có vẻ không bằng ḷng. Ông vội vàng bỏ hết đồ đạc vào mấy cái giỏ lớn, ngỏ ư đ̣i mấy bao cát lại để xây hầm đưa vợ con về tạm trú, xong ông ta lại lên xe Honda đi mất. Sáng sớm hôm sau chúng tôi lại dỡ hầm, mang bao cát xuống bếp trả lại, rồi cùng nhau làm tạm một cái hầm mới không lấy ǵ làm kiên cố lắm. Người thuê căn nhà bếp trở về sửa sang lại cái hầm, nhưng ông chỉ đưa vợ con về có một hôm để lo thu dọn chở đồ đi nơi khác. Chiếc hầm dưới bếp bỏ không, Thái lại ṃ xuống lấy thêm bao cát lên chất cho dày.

    Mấy ngày sau, quốc lộ một nối vào An Cựu có vẻ tấp nập hơn trước, người tản cư đi, người hồi cư về có vẻ đông đúc hơn. Một vài gia đ́nh tạm trú lại một buổi hoặc một ngày nơi sạp mộc, rồi họ lại tiếp tục đi về Phù Lương, Phú Bài.

    Mỗi ngày, vợ chồng Bé xuống cho chúng tôi ít tin tức. Nào đêm qua Việt cộng về đầy ở ngoẹo Hàng Xay. Nào sáng nay quân ḿnh đi gỡ cờ treo trước đồn vận tải. Hoặc: Bác ơi, sắp đánh tới nơi rồi. Họ sắp đánh chiếm lại An Cựu.

    Tôi không thể nào hiểu được việc ǵ sẽ xảy ra nữa. Nhưng khu vực An Cựu th́ có vẻ b́nh yên hơn. Một hai ngày đầu, chúng tôi không thấy ǵ lạ, nhưng vợ chồng Lài th́ đêm nào cũng nghe tiếng chân đi qua vườn.
    Vài ba hôm, Hiền, Lài và Túc về dưới Phù Lương. Nhiều gia đ́nh tản cư về dưới đó v́ nghe dưới Phù Lương, Phú Bài có lập trại tỵ nạn. Vợ chồng Bé gan ĺ ở lại cho tới một hôm có mấy quả đại bác không hiểu v́ tính sai tọa độ hay cố ư rơi trúng vùng An Cựu vào đêm khuya. Lúc đó chúng tôi đang nằm trong hầm, mọi người đều bị dội bật lên và túm chặt lấy nhau.
    Hai ba tiếng nổ liên tiếp thật gần rồi im lặng hẳn. Sáng ra Thái đi ngóng t́nh h́nh, thấy ngoài đường người ta khiêng mấy người bị thương đặt bên đường, t́m cách đưa đi bệnh viện Mỹ. Gần chín giờ sáng, một đoàn xe lính đi lên, nhưng không chiếc nào dừng lại. Rồi tới mười giờ, những người lính biệt động quân, nhảy dù, từ dưới Phú Bài đi bộ lên. Không có phương tiện nào nữa, mấy người bị thương đă chết.

    Hai căn nhà hoàn toàn hư hại, mái tôn của nhà trúng đạn văng tuốt ra tận sau đường rầy. Rồi đêm hôm sau lại nổ nữa, lần này xa hơn một chút, và sáng hôm sau, vợ chồng Bé hớt hơ hớt hải bế bồng nhau xuống nhà chúng tôi:

    “Không ở được rồi. Lính ḿnh ở Sài G̣n ra, đánh lớn lắm. Đang chiếm lại nhà bưu điện. Dân dồn về hết nơi trường kiểu mẫu. Đêm qua bom chơm rơi trên xóm con, mấy cái nhà nữa bị sập.”

    Má tôi thở dài. Thái lo lắng:

    “Có ai bị thương không?”

    “Không, may người ta đều ở hầm hết. Đêm qua anh tưởng nguy rồi chớ.”

    Và không đợi hỏi ư kiến ai, vợ chồng Bé, Thu cùng mấy đứa nhỏ gồng gánh, bồng bế đưa nhau về Phù Lương.
    Má tôi thấy t́nh h́nh gay go quá, nửa muốn đi nửa muốn không. Má tôi vẫn ngóng đợi tin tức ở Nam Giao, Từ Đàm. Nhưng có được chút tin tức nào th́ chỉ toàn là những tin tức làm chúng tôi thêm tuyệt vọng.

    Trong những ngày trước, dân chúng Huế chết v́ đại bác, v́ bom máy bay, v́ bị đấu tố, điềm chỉ. Chúng tôi ở An Cựu, coi như giáp với ngoại ô thành phố, có chạy loạn th́ cũng chạy v́ sợ bị Việt cộng bắt, hoặc bị trúng đạn chết oan.
    Nhưng lần này, ác chiến đă diễn ra khắp cùng thành phố. Một vài nơi quân quốc gia đă chiếm lại được, những lá cờ giải phóng đă được gỡ xuống. Ở đồn Trường Bia đă thấy thấp thoáng lính ra vào, nhưng ở đồn vận tải vẫn bỏ không.



    A US Marine carries a seriously wounded Vietnamese child from the ruins of a home in Hue. by manhhai, on Flickr
    Em bé gầy trơ xương vừa bị thương vừa nhịn đói ... vì gạo bị VC tịch thu (mượn khéo ) để nuôi quân ! Mạng người dân như cỏ rác !



    Cầu An Cựu ban ngày được Mỹ lên canh gác và sửa chữa. Phải nối xong mấy cái cầu, quân đội mới dàn qua bên phố được. Phía bên hữu ngạn mới chỉ yên ổn có mấy vùng. Tin tức đưa về thành nội, phố Trần Hưng Đạo vẫn do họ chiếm giữ. Ở Nam Giao, Bến Ngự, Từ Đàm vẫn là nơi họ đóng quân.

    Chúng tôi về lại thành phố đúng lúc phe quốc gia cố giành lại từng tấc đất , thật là một tṛ đùa nguy hiểm. Nhưng chạy thoát thân một ḿnh để một nửa gia đ́nh bị kẹt lại, quả trong ḷng chúng tôi không ai muốn thế.

    Giữa lúc chúng tôi được trú ngụ ở một phần đất tương đối ít nguy hiểm th́ thành phố Huế rơi vào ... lút ngập súng đạn, máu đổ. Và nhờ có một người thoát từ phố về, chúng tôi biết được những tin tức kinh hoàng bên kia sông Hương.



    ARVN Forces and civilians aid a woman wounded in Hue during the communist Tet offensive in the imperial city by manhhai, on Flickr


    Civilians run to escape enemy fire during the 26-day battle for Hue Citadel by manhhai, on Flickr



    Một buổi sáng, Thái thấy một đoàn xe đi lên, tới cầu rẽ lên phía Phú Cam, rồi rất nhiều đoàn lính dù, biệt động quân đi bộ từ dưới Phú Bài lên. Một lúc sau lại thấy Mỹ tới sửa tiếp cầu An Cựu. Thái kêu tôi ra đường:

    “Người ta đi lại nhiều rồi chị.”

    Má tôi dặn:

    “Đừng có ra đường nghe tụi bây. Quân ḿnh lên là sắp đánh nhau lớn rồi đó.”

    Quả như lời má tôi đoán. Chỉ chừng nửa tiếng đồng hồ sau khi đoàn lính đi qua, là tiếng súng lớn nhỏ nổi lên ở miệt Phú Cam, Bến Ngự. Và một số dân chúng bồng bế nhau chạy loạn về An Cựu để xuống Phù Lương.

    “Đánh nhau lớn rồi.”

    Má tôi kêu chúng tôi chui vào hầm hết. Nhưng gần tới trưa chúng tôi mới nhớ ra là nhà chưa có ǵ ăn, chỉ c̣n ít gạo. Thái nói:

    “Hồi năy con thấy dưới Mù U có bán thịt heo. Dưới đó với chỗ ḿnh ở yên rồi, thuộc vùng quốc gia rồi.”

    Má tôi làm thinh. Thái lại nói:

    “Để con với chị Vân đi mua thịt. Họ bắn nhau ở trên Bến Ngự lận mà bác.”

    Tôi cũng muốn ra đường coi t́nh h́nh nên nói vô giúp Thái:

    “Con với nó chạy ra mua một chút về liền mà má.”

    Má tôi thở dài:

    “Ừ, mà đi mau nghe.”

    Tôi theo Thái chui ra khỏi hầm. Má tôi dặn:

    “Tránh đạn mà đi nghe con.”

    Câu nói của má tôi làm tôi vừa thương vừa buồn cười. Làm sao tránh đạn được. Nhưng tôi cứ dạ cho má tôi yên ḷng. Tôi với Thái không đi xuống Mù U mà rủ nhau đi ra thẳng phía cầu An Cựu.

    Thiệt chúng tôi đă gan cùng ḿnh. Ngoài đường không có một người đi, lính Mỹ lính Việt xuôi ngược tíu tít chuyển quân.
    Họ chả buồn chú ư tới chúng tôi nữa. Chúng tôi ra tới cầu An Cựu, thấy cầu nổi đang được công binh Mỹ làm gần xong, chúng tôi không dám đi đường cái mà ṿng lối sau đi theo con đường nhỏ sau ruộng mà về nhà. Nhiều hố bom đào những hầm lớn, trời mưa, nước đọng thành từng vũng. Ngang qua một khu vườn bỏ không, chúng tôi nghe thấy tiếng động sau một bụi tre.
    Thái kéo tôi:

    “Đi nhanh chị.”

    Tôi ṭ ṃ ngoái lại nh́n qua những nhánh tre thưa, tôi nh́n thấy những ngôi mộ đất đắp vội vàng, ở trên mộ cắm thẻ kiểm tra và cạnh đó, một chiếc hầm cá nhân, một xác lính Bắc Việt đang nằm vắt nửa trên nửa dưới miệng hầm, không biết bị thương hay đă chết, cạnh đó một hố bom và những cành cây khô, những nhánh tre ngă găy tả tơi. Qua mấy ngôi vườn bỏ hoang, chúng tôi tới một thửa ruộng nhỏ vuông vắn, ruộng bỏ không và nước lúp xúp.
    Tôi không biết đường nên cứ đi sau Thái. Có tiếng máy bay tới gần, Thái kéo tôi nằm mẹp xuống đường, đợi cho máy bay khuất mới tiếp tục đứng lên đi lần về nhà. Khi tôi đứng dậy, tôi bỗng nghe tiếng rên rỉ.

    Tôi dừng lại th́ Thái đă kéo tay tôi:

    - Đi chị. Thái nói nhỏ:

    “Bọn họ bị thương, không khéo họ bắn ḿnh. Đi ngả tắt ni thiệt dại hết sức.”

    Thái cầm chặt tay tôi và lôi tôi đi theo nó. Nhưng tiếng rên một lúc một rơ và một van nài hơn. Cứu tôi với. Cứu tôi với. Cứu tôi với. Tôi không thể làm ngơ được, rơ ràng là tiếng người sắp chết. Tôi nh́n quanh quất và chợt nhận ra một thanh niên đang gục bên một chiếc hố nông, h́nh như người ta đào rồi bỏ dở nửa chừng, hay một miếng bom nào cày lên cũng nên. Thanh niên mặc một chiếc áo măng tô màu xám, dính đầy máu. Thái nh́n thấy và nó biết không phải quân giải phóng. Tôi kéo Thái lại gần:

    “Chắc là sinh viên hay học sinh chi đây.”

    Chúng tôi đă đứng bên cạnh. H́nh như nhận ra tiếng chân người, khuôn mặt bê bết đất ngẩng lên, một gịng máu rỉ chảy bên mép. Thanh niên đưa tay ôm ngực và muốn gục xuống. Thái vội nhảy xuống hố đỡ thanh niên dậy:

    “Tôi chết mất,” người thanh niên rên rỉ.

    “Anh ở mô tới?”

    Thái cúi tai sát người thanh niên. Anh ta cố gắng đưa tay chỉ về phía, phía trước là những vườn cây. Tôi không hiểu. Thái hỏi:

    “Anh ở bên phố thoát sang?”

    Thanh niên gật đầu.

    Vừa lúc đó lại có tiếng máy bay tới gần. Lần này h́nh như tới mấy chiếc và bay liệng ngay trên đầu chúng tôi. Người thanh niên ra dấu chúng tôi nên lánh đi và cho biết Việt cộng c̣n ẩn núp trong nhiều khu vườn nơi này , nên Thái đưa tay ra dấu cho tôi đi trước rồi d́u thanh niên đứng lên. Tiếng máy bay như sắp hạ xuống trên đầu, Thái hét lớn:

    “Chạy vô nhà trước mặt.”

    Tôi chạy thẳng vào chiếc ngơ mở sẵn, Thái đă tới sát lưng. Chúng tôi bước qua mấy bực thềm là vào nhà. Căn nhà bỏ không, có một hầm cát nhưng Thái vừa nh́n vào đă bụm miệng lùi lại:

    “Có người chết.”

    Tôi định chạy ra nhưng bên ngoài đă có tiếng súng nổ. Một loạt đạn trên máy bay bắn xuống. Tiếng rốc két như rơi ngay trên đỉnh đầu. Thái đành kéo tôi chạy xuống bếp, ở đây có chiếc bể cạn. Thái đặt thanh niên ngồi dựa nơi bể nước rồi kéo tôi bắt nằm sấp xuống đất.

    “Đừng có ngẩng đầu lên. Có đạn ngoài vườn đó.”

    Tôi nằm sát xuống đất, hai tay ôm lấy đầu. Thái b́nh tĩnh hơn, nó xé áo lau vết thương cho thanh niên và băng bó lại. Người thanh niên đă bớt sợ và tỉnh táo hơn. Anh cho biết anh ta tên là Khâm, ở trong thành nội. Anh đă thoát được bằng cách giả làm đàn bà, chạy theo đoàn người tràn ra cửa thành và vét hết tiền đem theo để thuê một chuyến đ̣ qua sông. Anh mở hé chiếc áo măng tô ra, bên trong là vạt áo dài màu xanh nhuộm đầy máu. Chiếc khăn trùm trên đầu đă rơi mất tự bao giờ.

    Tiếng máy bay vẫn lượn ṿng, mặc tiếng đạn từ dưới đất bắn lên như mưa, và cứ mỗi ṿng tṛn lượn trở lại là những loạt rốc két bắn xuống xối xả. Tim chúng tôi đập liên hồi. Chắc giờ này má tôi ở nhà lo lắng lắm, theo phương hướng th́ tôi đoán ở phía nhà tôi không việc ǵ, mé này gần Phủ Cam. Nằm ở nơi đây tôi thấy bấp bênh quá, có thể trúng đạn bất cứ lúc nào. Tôi nghĩ tới chiếc hầm ở trên nhà nhưng Thái cho biết là có người chết. Tôi ṭ ṃ hỏi Thái:

    “Em thấy ǵ trong hầm vậy?”

    “Có một người chết ở trong đó. Dễ sợ lắm, em nh́n vô thấy một người nằm ngửa, tay chân khô queo, hai mắt như c̣n mở và hướng về miệng hầm. Bên cạnh đó có những vũng máu đặc, em nh́n thấy mấy con chuột đang chạy lui chạy tới lăng xăng, có con đang ngậm vào đầu ngón tay ngón chân của xác chết.”

    Tôi rùng ḿnh, muốn bỏ ngôi nhà chạy ra ngay. Nhưng bên ngoài lúc này đầy rẫy sự nguy hiểm. Tiếng súng dưới đất nhỏ dần rồi rút về miệt xa hơn. H́nh như họ đă bỏ những hố cá nhân để chạy thoát khi tiếng máy bay c̣n lượn ṿng. Và khi tiếng máy bay quành trở lại th́ không c̣n nghe tiếng bắn trả ở xung quanh nơi chúng tôi núp nữa. Khâm có vẻ tỉnh táo hơn, anh đă tựa được lưng vào thành bể cạn, Thái lấy cái lon múc nước ở bể cạn cho Khâm nhấp nháp.
    Anh ta mất máu nhiều quá, khuôn mặt xanh lè và hai mắt sâu, chứng tỏ nhiều đêm mất ngủ. Mặc dù tiếng đạn dưới đất không c̣n bắn lên nữa, nhưng máy bay vẫn lượn ṿng trên đầu, chúng tôi biết là chưa thể thoát ra khỏi ngôi nhà này được. Khâm nói, giọng yếu ớt:

    “Mấy ngày trước chỉ sợ bị giải phóng bắt, xử tử. Chỉ sợ chết bom. Nhưng lúc này sao tự nhiên tôi chẳng sợ ǵ nữa. Tan nát hết rồi.”

    Và Khâm bắt đầu kể cho chúng tôi nghe về cuộc chạy trốn của Khâm. Chuyện của những người kẹt ở bên kia ḍng sông Hương.


    HUE 1968 - Khóc trên cầu Trường Tiền đă găy by manhhai, on Flickr


    Mai tiếp ....

  4. #254
    tran truong
    Khách
    Chuyện từ thành nội

    Không hiểu do một phép lạ nào mà ngôi nhà vẫn c̣n nguyên vẹn.

    Chúng tôi sống chật hẹp trong chiếc hầm đào sâu xuống đất, trên miệng hầm, xung quanh chất toàn bao cát, như vậy là đă mười mấy hôm.

    Chuyện ǵ? À, mấy ngày đầu. Mấy ngày đầu th́ đâu có ǵ kinh hoàng. Cũng như các vùng khác, đêm mồng một, chúng tôi nằm lăn sát đất, chui cả xuống gầm giường v́ tiếng súng bắn khắp mọi phía. Sáng ngày ra là Việt cộng đă đầy nhà, đầy vườn.
    Họ đi lại ngoài đường đông nghẹt. Đồng phục à? Không. Họ vận đủ các thứ quần áo. Có tốp mặc áo ka ki hẳn hoi, nhưng phần đông họ mặc quần đùi. Đặc biệt là người nào cũng có đeo băng màu nơi tay, hoặc quàng khăn nơi cổ.

    Chuyện ǵ xảy ra vậy? Huế mất rồi sao?



    LIFE Magazine Feb 16, 1968 (1) - Một ngày đặc biệt ở Huế - Quân địch cho phép tôi chụp h́nh họ by manhhai, on Flickr



    Chúng tôi nh́n nhau ḍ hỏi, muốn chạy qua hàng xóm hỏi thăm tin tức cũng không được nữa. Ai ở yên nhà nấy. Và họ ra lịnh mỗi nhà phải tự đào hầm lấy, bắt đầu tập chịu đựng gian khổ để chiến thắng. Chúng tôi đă lấy được Huế, các nơi đang đánh nhau, đợi toàn quốc chiếm được hết là thắng lợi. Quân giải phóng nói vậy.

    Mấy ngày đầu vui lắm. Họ nấu cơm, ăn uống trong nhà chúng tôi. Nghe nói họ sẽ tổ chức liên hoan nữa. Rồi họ chở đâu tới thiệt nhiều mứt bánh, nhất là bánh tét, và họ ăn uống lu bù. Ăn như chưa bao giờ được ăn.


    Hôm đầu tiên tôi sợ lắm, gia đ́nh tôi cũng sợ cho tôi nữa. Tôi là con một, lỡ có chuyện ǵ chắc mạ tôi không chịu nổi. Nhưng mấy ngày đầu thiệt êm thắm. Tôi c̣n được nghe họ nói chuyện nữa chớ. Họ nói chuyện vui lắm. Em tôi hỏi cả chuyện ngoài Bắc, họ nói đời sống ngoài Bắc no đủ. Nhưng nhiều anh cán binh Bắc Việt nh́n mấy cô gái mặc quần ống chật, áo sơ mi hoa ḥe th́ tỏ vẻ ngạc nhiên. Tôi nghe họ x́ xào với nhau:

    "Con gái ở trong này đẹp quá, ăn mặc đầy đủ quá."

    Mấy chị nữ cán bộ th́ ghét ra mặt. Bởi vậy, qua ngày thứ hai, các cô gái Huế trong thành nội biết được sự không ưa thích đó và thay đổi lối ăn mặc liền. Mấy ngày đầu êm ru, thỉnh thoảng lắm mới nghe tiếng súng nổ xa thiệt xa, đâu phía bên hữu ngạn, mà tận vùng ngoại ô, không ai để ư nữa.

    Có mấy nữ cán bộ vác xe của thiên hạ ra tập. Nhiều nhà đă trốn ra Gia Hội được từ hôm đầu, ngay tờ mờ sáng. Họ đi thật là dại, ban đầu chúng tôi nghĩ thế. Nhà họ bỏ không, mấy cô nữ cán bộ tha hồ mà vào lục lọi. Vật mà các cô ưa thích nhất là xe đạp và xe Honda. Nh́n thấy các cô cán bộ xăn áo xăn quần đến háng mà tập xe đạp th́ không nín cười được. Nhưng buồn cười mà đâu có dám cười, chúng tôi lo sợ cho tương lai lắm. Chưa biết rồi sẽ ra sao.
    Mấy anh lính Việt cộng có vẻ lạc quan. Toàn quốc thắng trận, đồng bào yên tâm. Họ báo tin cho biết vậy. Và ở trong thành nội, chúng tôi ngạc nhiên thấy họ tràn vào khơi khơi, tôi không thấy có vẻ ǵ là đụng độ, đổ máu cả. Chắc tại tôi không ra khỏi nhà. Ngay từ sáng tinh sương ngày mồng hai, má tôi đă đóng chặt cửa lại, chúng tôi chỉ được nh́n ra đường qua kẽ hở.

    Nhưng dù qua một kẽ hở rất nhỏ, tôi cũng nh́n thấy ngoài đường rất đông người đi lại. Các anh lính Việt cộng đều mang băng xanh hoặc băng trắng nơi cánh tay áo.



    LIFE Magazine Feb 16, 1968 (3) A tense interlude with the enemy in Hué by manhhai, on Flickr



    Không khí đường phố thay đổi thật đột ngột, bên cạnh những khuôn mặt lo lắng núp sau những cánh cửa, có những bộ mặt tươi cười, ra chiều hết sức hớn hở. Nhà ông giáo Kê, một người đàn ông đứng tuổi đă bỏ nhà đi tập kết hơn mười năm, bỗng xuất hiện.
    Ông ta có một bà vợ hàng ngày đi bán chè và một cậu con trai khoảng chừng 17, 18 tuổi. Sự xuất hiện của ông giáo Kê làm mọi người lo lắng. Mạ tôi nói giọng run run:

    "Thôi chết rồi, ông nớ về là ông biết hết trong vùng ni, thế nào ông cũng bắt bớ lung tung cho coi."

    Tuy lo vậy, nhưng nhân vật ông giáo Kê cũng chưa làm cho chúng tôi kinh hoàng bằng hai căn nhà ngay ở đầu đường Nguyễn Hiệu bỗng trở thành nơi ra vào tấp nập của các anh cán binh Việt cộng.
    Người ta đồn với nhau , có hai nữ sinh viên là cán bộ nằm vùng. Hai cô ở ngay căn nhà đầu đường, có người trông thấy hai cô mặc quần tây, áo sơ mi, đội nón lá đi đi lại lại trên đường, lưng đeo súng lục kiểu Tiệp Khắc. Tôi không biết được tên của các cô, nhưng người ta cho biết hai cô là sinh viên trước ở Sài G̣n. Tôi đoán một vài tên trong số bạn cũ quen thuộc, nhưng chưa có ǵ làm bằng cớ chắc chắn.

    Cũng nơi đường Nguyễn Hiệu, một ông thợ mă trước theo Việt cộng, đă trở về hồi chánh nay trở thành cán bộ nằm vùng. Người ta lo nhất là bộ mặt này. Anh ở đây đă lâu, và thế nào anh cũng lập công, chỉ điểm một số thường dân.
    Má tôi lo lắng hỏi tôi có làm chi cho ông ta thù oán không. Tôi suy nghĩ măi không t́m ra chuyện ǵ, tuy nhiên tôi cũng không an tâm. Mấy ngày liền tôi không dám ra đường. Má tôi hễ thấy mặt tôi ló nh́n ra khe cửa là lôi lại, kéo tuốt vô trong buồng, đóng cửa kín mít.

    Nhưng mấy ngày qua, tôi chưa thấy chuyện ǵ lạ xẩy ra, ngoài việc các người lính Việt cộng vào từng nhà bắt đi học tập. Tôi lại được mạ tôi đem dấu trên trần nhà. Con em gái tôi phải đi học tập. Khi về, nó cho biết là lớp học được tổ chức ở nhà ông giáo Kê. Tôi hỏi học những ǵ, nó cho biết là người ta yêu cầu các cô vào từng ban, ban cổ động, ban cứu thương, ban tiếp tế.
    Tôi hỏi nó chọn ban ǵ th́ nó chỉ cười lắc đầu:

    "Em run bất chết. À, em có gặp..."

    Tôi hỏi nó gặp ai th́ nó làm thinh, mặt lộ vẻ sợ hăi. Tôi gạn hỏi thêm mấy lần, nó vẫn không dám nói. Nó c̣n tiết lộ cho tôi biết là thanh niên sinh viên bị bắt đi học tập đông lắm.

    Cả ngày hôm đó, tôi không ăn cơm được, tôi cảm thấy cổ họng khô đắng. H́nh như tôi sắp cảm nặng. Câu nói nửa úp nửa mở của đứa em gái làm tôi không an tâm. Tối hôm đó, tôi rời khỏi trần nhà xuống đất nằm, tôi hỏi lại nó. Lần này giọng nó run run như sắp khóc:

    "Em gặp cô Đoan, cô Đoan ở đầu đường ḿnh đó anh."

    "Hai cô lận mà?"

    "Th́ cô Đoan với cô Kim ở đối diện nhà nhau đó."

    "Nó có nh́n ra em không?"

    "Có, nó hỏi anh đi mô mà không tới học tập, em nói anh đi về quê hôm hăm tám Tết. Nó cười, nói ngày mồng một nó gặp anh đi ra cửa Đông Ba với anh Hạo, anh Toàn. Em lo quá."

    "Rồi em trả lời răng?"

    "Em làm thinh."

    "Nó nói chi nữa không?"

    "Có, nó khuyên em nên gia nhập mặt trận liên minh, ḥa b́nh chi đó. Em cứ làm thinh. Nó nói em giúp nó được. Nó hẹn sẽ gặp em sau."

    "Em thấy thầy Đóa đi họp không?"

    "Em không thấy thầy mô hết."

    "C̣n ông giáo Kê về ra răng?"

    "Ông giáo Kê diễn thuyết hăng lắm. Em sợ quá chả nghe ǵ hết, mà có nghe cũng không hiểu. Anh ń, ông đi tập kết về râu dài tới ngực, coi dễ sợ quá. À anh, em thấy h́nh như có anh Đắc nữa."

    "Đắc?"

    Tôi kêu lên sửng sốt. Thôi chết rồi, Đắc đă trở về. Nhưng tôi không tin Đắc có thể là một người cộng sản được. Ngày trước, tôi cũng có chân trong nhóm tranh đấu với Đắc. Đắc thường tâm sự là anh không thể chấp nhận cộng sản. Rồi một thời gian sau, v́ bị theo dơi, ruồng bắt, Đắc trốn đi.



    sông Đông Ba nh́n từ cầu Gia Hội by manhhai, on Flickr



    Có người nói Đắc với Đoan với Ngọc cùng trốn một lượt. Lần này Đắc trở về, chắc Ngọc và Phan cũng trở về rồi. Tôi thầm lo ngại, ngày trước Phủ có một cô nhân t́nh cũng ở trong thành nội này, sau khi Phủ đi ít lâu, cô t́nh nhân đă vội thay ḷng đổi dạ theo một người khác.
    Ngoài việc bị khổ sở v́ trốn tránh, Phủ c̣n mất luôn người yêu nữa. Lần này nếu trở về, chắc Phủ sẽ đau khổ ghê lắm. Liệu chuyện ǵ sẽ xảy ra? Tôi hỏi gặng măi em gái tôi có nh́n thấy Phủ không. Có ai nh́n thấy Phủ không? Nó quả quyết là nó không thấy, cả bạn bè của nó đi họp cũng nói không thấy. Tôi hơi yên tâm và mừng thầm cho kẻ phản bội. Nếu Phủ trở về, thêm một mối thù hận nữa, cô bé thay ḷng kia chắc cũng không tránh được hậu quả thương tâm. Nhưng em gái tôi cười gượng:

    "Anh tưởng về tới Phủ mới biết răng! Em tin là Phủ không chấp nhận mô. Nhưng Phủ và Ngọc không có mặt ở nội thành."

    Tôi không khỏi bùi ngùi nhớ lại bạn bè cũ. Dù Đắc, dù Ngọc, dù Phủ có bỏ đi, có theo lư tưởng nào nữa, dù thù nghịch với tôi, tôi cũng vẫn c̣n giữ những kỷ niệm về họ. Tôi tự tin tôi, tôi tin bạn bè.



    Hue 1968 - Sampan village near Perfume River. Xóm vạn đ̣ trên sông Đông Ba, bên kia là Hàng Bè (đường Huỳnh Thúc Kháng) by manhhai, on Flickr



    Trước đây, Đắc đă bị dồn đến bước đường cùng, phải trốn theo bên kia, nhưng sự có mặt của Đắc không c̣n làm tôi lo sợ nữa, mà nghĩ tới Đắc, tôi bỗng cảm thấy yên ổn hơn một chút. Tôi định bụng là phải gặp cho được Đắc. Tôi không tin là có chuyện ǵ sứt mẻ trong t́nh bè bạn. Ngày hôm nay, hay ngày mai, thế nào tôi cũng có dịp gặp lại Đắc. Tôi phải gặp. Tôi hỏi em gái:

    "Em có nói chuyện với anh Đắc không?"

    "Em thấy một người giống như anh Đắc thôi chớ em chưa dám nh́n. Anh ấy đeo băng xanh, có súng nữa."

    "Em coi bộ anh ra răng?"

    "Có vẻ trầm ngâm chớ không hách dịch như mấy tên cán bộ nằm vùng khác. Anh biết xóm ḿnh chán chi cán bộ nằm vùng, rứa mà ḿnh biết chi mô."

    Tôi hỏi tiếp:

    "Rứa họ học tập cái chi?"

    "Th́ như anh nằm trên nhà khi mai anh nghe đó. Họ tới nhà họ nói mời đi họp, em định trốn nhưng cô Đoan cô đứng đầu ngơ gọi ngay tên em nên phải đi. Họ nói đi họp mà họ c̣n bắt học tập nữa. Rồi họ diễn thuyết, tuyên truyền về thắng lợi."

    "Họ tuyên truyền răng?" Tôi nôn nao.

    "Họ nói chiến thắng lấy được Huế là nhờ sự đóng góp của nhân dân. Vậy các trẻ em về nhà t́m những khúc tre, khúc gậy ngắn rồi sơn đen, khi mô nghe tiếng máy bay quân Mỹ ngụy tới th́ đem ra chĩa lên trời để bọn Mỹ ngụy tưởng là súng, phải khiếp đảm trước tinh thần chống đế quốc, tay sai của nhân dân Huế. Họ c̣n nói là đồng bào đừng để cho một tên Mỹ ngụy, một tên Việt gian nào trốn trong nhà. Gặp trường hợp đó phải báo cáo cho giải phóng biết ngay."

    Tôi kinh hoàng:

    "Việc xúi con nít sơn khúc tre giả làm súng có thiệt há?"

    "Em nghe rơ ràng ń. Họ c̣n tuyên truyền nhiều lắm. Ń anh, trước khi họp, các anh giải phóng c̣n đọc khẩu hiệu, rồi đến 7 nhiệm vụ của đảng viên, rồi lời của "bác" Hồ, em nhớ như ri th́ phải: Trung với đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Họ hô lớn mà hô nhiều lần, em bắt thuộc làu."

    Tôi gắt: Kệ xác họ. Tôi đâu cần phải biết, phải nghe những khẩu hiệu trung thành với bác với đảng. Chính những người lính Bắc Việt đi vô Nam, họ thuộc làu những khẩu hiệu đó, nhưng chắc cũng có người không hiểu tại sao phải trung thành, phải chết.

    Nhưng lời tuyên truyền đó đă gây một hậu quả tai hại. Về sau, khi các trận đánh diễn ra, không hiểu v́ những tiếng súng ở các hố cá nhân bắn lên, hay v́ những dùi, gậy của các em nhỏ bị bắt ra chĩa lên trời mà máy bay bắn xuống xối xả.

    Suốt đêm đó, tôi không ngủ được. Sáng ngày ra đă phải lên trần nhà nằm. Em gái tôi vẫn chạy qua hàng xóm ḍ tin tức, nhưng tôi không dám chường mặt xuống nhà , chớ đừng nói ra đường. Tôi sợ họ biết mặt. Nhất là ông thợ mă hồi xưa là Việt cộng, nay về hồi chánh đă trở thành một cán bộ nằm vùng. Ông không ưa bọn sinh viên như tôi.
    Rồi c̣n nhà ông giáo Kê nữa, cả cậu con mười bảy mười tám chi đó, ít khi nói chuyện với tôi đàng hoàng. Em gái tôi đă nói dối là tôi bị kẹt lại ở dưới quê, tôi sợ em tôi mang vạ v́ sự có mặt của tôi nữa.



    Thư Viện ĐH Huế by manhhai, on Flickr


    Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế. Ṭa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères by manhhai, on Flickr


    Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế. Ṭa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères by manhhai, on Flickr
    Huế 1966 (32) - đường Lê Lợi, phía trước KS Morin Frères có từ thời thuộc địa



    Mai tiếp ....

  5. #255
    tran truong
    Khách

    Giải Khăn Sô Cho Huế

    Ngay sáng hôm đó, trước nhà tôi, sau vườn tôi nghe có tiếng cuốc đất. Rồi một lúc sau có tiếng lao xao dưới nhà. Tôi nín thở nằm yên nghe ngóng. Một giọng nói đàn ông lớn tuổi, giọng Quảng B́nh th́ phải, và h́nh như nói chuyện với mạ tôi:

    "Mẹ phải cho đào hầm. Chúng ta c̣n phải đương đầu với rất nhiều khó khăn. Quân Mỹ ngụy có thể đem máy bay tới thả bom để giết nhân dân. Nhưng không sao, chúng sẽ thất bại nặng nề."

    Tiếng chân đi rảo quanh nhà. Tiếng mạ tôi năn nỉ:

    "Dạ nhà tui đơn chiếc, ba chúng nó khuất núi lâu rồi, chúng tui mạ góa con côi... Dạ, bánh tét trong nhà làm... Dạ bánh cúng..."

    "Ở ngoài Bắc nhân dân ta ăn Tết vui lắm."

    "Dạ."

    "Năm nay, Bác cho chúng tôi được vào đây ăn Tết với nhân dân trong này. Gặp các mẹ, các chị, chúng tôi sung sướng lắm."

    "Dạ."

    "À, tôi quên, giá gạo của bọn Mỹ ngụy bán bao nhiêu một bao?"

    "Dạ, mỗi tạ mấy ngh́n, ba ngh́n có, hai ngh́n có."

    "Bọn Mỹ ngụy bán cắt cổ, uống máu nhân dân. Đợi khi giải phóng xong, gạo chỉ bán năm trăm đồng một tạ."

    "Dạ."

    "Nhà mẹ có ai giúp đỡ đào hầm không?"

    "Dạ mạ con tui đào. Ngoài tui với con nhỏ, với thằng con trai lên mười ni c̣n mấy đứa cháu. C̣n có bà d́, bà ngoại. Dạ không dám làm phiền mấy ông."

    Tiếng chân đi vào phía bàn thờ. Tôi đoán ra bước chân mạ tôi vội vă như muốn ngăn lại:

    "Dạ mấy hôm nơi bàn thờ dọn rồi."

    Giọng đàn ông cười giả lả:

    "Không, mẹ cứ việc cúng chớ."

    "Dạ, cúng... Mà mấy hôm ni ai c̣n ḷng dạ mô mà cúng. Hôm mồng một tưởng chết rồi, nhờ ơn ông bà... Dạ thưa ở trong nớ không có chi hết. Dạ có bánh, bánh tét. Dạ mời, mời ông... à mời... đồng chí."

    "Cám ơn mẹ. Nhân dân miền Nam tốt với giải phóng quá. Chúng con hết sức ghi ơn mẹ giải phóng..."

    Tiếng chân đi ra khỏi nhà rồi xa dần. Đợi một lúc tôi ló đầu xuống, tấm cạc tông che miệng trần nhà vừa hé ra, tôi đă thấy mặt mạ tôi nh́n lên, hai tay bà chấp trước ngực:

    "Tui lạy ông, ông ở trên đó cho tui nhờ. Chúng vừa vơ vét hết bánh trái rồi."

    Tôi sợ má tôi lo lắng, vội rụt đầu lên và kéo miếng cạc tông lại. Suốt ngày hôm đó, tôi nằm bẹp trên trần nhà. Đợi lúc nào thật vắng, em gái tôi đưa cơm lên hoặc rót cho ly nước lạnh.
    Mấy hôm sau, họ ít vào nhà, có lẽ họ không c̣n hồ nghi ǵ gia đ́nh chúng tôi nữa. Cô em gái tôi vẫn cứ phải đi họp, đi học tập. Nó về mách với tôi:

    "Đúng anh Đắc anh ơi."

    "Nó có nh́n ra em không?"

    "Có. Anh cười nói: Con Hường em Khâm đây phải không? Mới đây mà lớn quá hí." Em nhớ ngày trước anh Đắc hay xoa đầu em lắm.

    "Vậy em có sợ không?"

    "Không, anh hiền lắm anh ơi. Anh hỏi thăm anh, rồi hỏi thăm mạ nữa. Anh nói rảnh anh tới thăm mạ."

    "Trời ơi, em có khai anh trốn trong nhà không?"

    Hường cười:

    "Em mô có dại. Anh ấy cũng không hỏi riết bắt bí em chi hết. Anh chỉ nói: Khâm có sao không? Em nói dạ không. Rồi em nhớ ra nói liền: Tại anh Khâm về mắc kẹt dưới nhà quê. Anh hỏi quê ở Bao Vinh phải không? Em gật đầu, anh hơi giật ḿnh. Anh có vẻ lo sợ cho anh nữa."

    Tôi cảm động và tự thẹn thầm. Th́ ra Đắc vẫn c̣n là bạn tôi. Đắc không hề thay đổi ǵ hết. Vậy tại sao Đắc trở về? Về với nhiệm vụ ǵ? Ḷng tôi càng nôn nao muốn gặp Đắc hơn. Tôi ngỏ ư với Hường là muốn dự một buổi họp. Hường nói:

    "Không được mô. Anh Đắc th́ hiền lành nhưng có mấy người khác dữ lắm. Họ nói chuyện hung hăng thiệt dễ sợ."

    Rồi Hường th́ thầm vào tai tôi:

    "Anh ń. Khi hồi ngang qua ngă ba em thấy ai như anh Tư. Anh ấy ôm áo quần như muốn đi trốn xuống đường Mai Thúc Loan."

    "Ủa, thằng Tư. Nó dám chạy trốn hả?"

    "Không biết anh ơi. Nhưng em thấy hắn cũng đeo băng trắng nơi cánh tay. Hay là hắn cũng theo Việt cộng rồi."

    "Cái thằng đó dám lắm. Ai chớ nó th́ việc chi mà không dám làm."

    Tôi hậm hực. Nhưng đồng thời cũng lo sợ nữa. Nếu nó theo giải phóng, nó dám t́m bắt tôi hoặc điểm chỉ cho bắt tôi lắm. Tôi nói với Hường:

    "Em đừng có cho nó gặp, nó hỏi lôi thôi."

    Tôi sợ nó nh́n thấy em gái tôi rồi nhớ ra tôi. Có thể v́ nhiều việc, nó đang quên tôi cũng nên, nhưng gặp mặt một ai liên quan tới tôi, có thể nhắc nó nhớ. Thường ngày tôi không ưa nó, kể cả khi c̣n trong nhóm tranh đấu, tôi đă nhiều lần nói với bạn bè:

    "Thằng Tư không tin được. Nhưng nó dám có mặt trong đám quyết tử, nó đă lường lọc bao nhiêu anh em."

    Thấy tôi trầm ngâm, Hường vội nói:

    "Em thấy anh Tư là em tránh liền, em sợ bất chết."

    "Em con gái việc chi mà sợ hắn?"

    "Em sợ anh nớ bắt em. Em thấy mấy đứa bạn cùng đi họp với em thấy anh nớ là núp hết."

    Tôi cười, cố trấn an con bé:

    "Kệ nó, ḿnh có mần chi mà sợ."

    "Anh không biết đó, dưới đường Ông Ích Khiêm, họ bắt hết rồi. Công chức, quân nhân bị bắt đi hết. Nhất là mấy người làm sở Mỹ."

    "Ḿnh có làm sở Mỹ mô mà sợ. Cũng không công chức nữa mà."

    "Dưới nớ bị bắt thiệt nhiều. Nhiều người cũng có làm chi mô mà cứ bị bắt như thường."

    Đúng như lời em gái tôi đoán, qua ngày sau, xóm tôi ở, các thanh niên, công chức và quân nhân bị bắt đi hết. Một vài người trốn chạy bị bắn tại chỗ. Nhà chúng tôi đă làm xong được một cái hầm khá kiên cố bằng bao cát và những tấm ván lấy ở bộ ngựa gỗ quư từ mấy đời để lại.

    Tuy vậy, ban ngày tôi vẫn trốn trên trần nhà, ban đêm mới dám xuống hầm ngủ. Tôi đă bắt đầu chán nản và mệt mỏi. Giữa lúc đó th́ mọi người hoảng hốt v́ đại bác câu tới nơi. Nằm áp tai xuống đất, tôi nghe tiếng rầm ŕ liên hồi như xe tăng chạy ở đâu bên ngoài thành nội, đôi lúc tôi mơ hồ nghe tiếng máy bay.

    Một vài nhà đă trúng đại bác. Người ta cho biết đại bác trúng nhiều nhất là các bờ thành. Người ta c̣n cho biết là lá cờ ở Phú Văn Lâu đă bị hạ xuống và treo cờ giải phóng rồi. Nhưng khi đại bác câu tới thành nội, ai nấy đều hoảng sợ ra mặt. Thêm những cuộc bắt bớ gắt gao của Việt cộng làm không khí càng kinh hoàng hơn.

    Một buổi tôi đang nằm trong hầm nhai mấy miếng bánh ḿ khô th́ nghe phía đầu ngơ có tiếng chân rượt đuổi. Tiếng hô:

    "Đứng lại. Đứng lại."

    Tiếng chân chạy ṿng đằng sau vườn chúng tôi. Tiếng chân đuổi rầm rập, có vẻ nhiều người và hối hả. Một tiếng nổ, một tiếng kêu rú lên. Tôi bịt chặt hai tai lại. Mạ tôi ôm chặt lấy Hường và mấy đứa em nhỏ của tôi đứa nằm sát xuống mặt hầm, đứa ôm chân má tôi, đứa ôm chân Hường mếu máo.

    Một lúc sau, tiếng chân từ ngoài vườn đi vào giữa sân. Tôi nghe tiếng lao xao:

    "Tại nó chạy. Nó đúng là quân tay sai cho Mỹ ngụy."

    "Nó chết hẳn chưa đó?"

    "Chưa chết rồi cũng chết. Mà có thiệt nó làm cho Mỹ không?"

    "Nó làm cho Mỹ mà. Ngày thường tui thấy nó có nhiều đô la lắm."

    "Vậy th́ đúng rồi."

    "Không có tui th́ nó trốn được rồi. Trong xóm ni ai chạy trốn đàng trời tui cũng biết. Tụi nó phải trả nợ máu, phải không, thưa đồng chí tổ trưởng."

    "Đồng chí tích cực lắm."

    Tôi nghe giọng người điểm chỉ viên quen quen. H́nh như bác ta ở đâu trong xóm trong. Hường cũng định lên tiếng th́ mạ tôi đă gắt nhỏ:

    "Im đi, nó nghe nó vô chừ."

    Chúng tôi im lặng. Nhưng rồi có tiếng xô cửa rồi tiếng chân đi vào nhà:

    "Nhà đi đâu vắng hết rồi. Chúng tôi mời lên có chút chuyện."

    Mạ tôi lật đật chui ra. Rồi Hường cũng chui ra.

    "Dạ."

    "Có người mới bị bắn sau vườn. Chúng tôi sẽ cho người tới đem chôn. Chúng tôi muốn dặn lại là đừng có chứa chấp bọn Mỹ ngụy. Xin bác hăy giúp chúng tôi, tức là giúp đảng, giúp nước nhà độc lập."

    Má tôi dạ dạ luôn miệng. Một giọng khác nói:

    "Nhà này chỉ có mấy người đàn bà con nít mà."

    "Bởi vậy chúng tôi mới dặn. Để chúng vào, chúng giết cả nhà, chúng tôi không kịp cứu."

    Hường ngây thơ hỏi:

    "Dạ thưa các anh, các anh vừa bắn ai đó?"

    Giọng người điểm chỉ viên quen quen:

    "Thằng cha Minh. Hồi chưa được giải phóng, nó hách nhất xóm nhà ta phải không? Cô xác nhận cho các đồng chí đàn anh đây biết."

    Tôi nghe Hường dạ rất nhỏ. Tiếng người điểm chỉ hỏi:

    "Cậu Khâm mô không có ở nhà?"

    Tim tôi đập mạnh. Thôi chết rồi, hắn đă nhắc tới tôi. Tôi đoán không lầm, đúng là người nấu bún ở trong xóm. Thường ngày hắn chỉ ở nhà xay bột làm bún, vợ hắn đem bán sỉ bán lẻ cho bạn hàng. Hắn cũng ít nói chuyện với ai lắm. Giọng Hường cố thản nhiên:

    "Dạ anh cháu bị kẹt dưới Bao Vinh rồi. Hôm nớ xuống mừng ông bác rồi chưa kịp lên th́ xảy ra..."

    "Dưới đó th́ khỏi lo, hoàn toàn thuộc về quân giải phóng và nhân dân rồi."

    Hường khôn khéo vuốt đuôi:

    "Dạ th́ ở đây cũng thuộc về giải phóng rồi."

    "C̣n một chút trong sư đoàn nữa, chưa thanh toán xong. Nhưng chúng sẽ chết đói hết bây chừ. Nay mai ḿnh có thêm quân tiếp quản từ Quảng Trị, từ Bắc vô nữa, lo chi."

    Hắn c̣n đứng ba hoa tán tụng dài ḍng nữa rồi mới cùng mấy đồng chí đàn anh bỏ đi. Tôi thở phào nhẹ nhơm, coi như là vừa mới may mắn thoát chết. Em gái tôi chui xuống hầm, nói nhỏ cho tôi nghe:

    "Tên bán bún trong xóm đó anh. Hắn ĺ ĺ rứa mà ai ngờ."

    "Hắn bắn ai rứa?"

    "Ông Minh. Ông chết rồi."

    "Hắn đi với ai?"

    "Th́ với mấy người Việt cộng chớ ai nữa. Khi đang nói chuyện, em thấy chị Đoan và chị Kim đi ngoài đường."

    "Có thấy em không?"

    "Có, họ có vẫy tay chào em nữa."

    "Em hết sợ chưa?"

    "Sợ chớ hết chi được. Hồi hôm qua họp, gặp em hai chị ĺ ĺ có chào hỏi chi mô. Anh ń, bữa ni có vẻ lùng xét bắt bớ dữ lắm rồi đó. Anh cẩn thận một chút."

    "Người ta có số mạng cả mà em."

    "Gặp anh Đắc, chắc anh không việc chi anh hí?"

    Tôi thở ra, không mấy tin tưởng:

    "Anh mần răng biết được."

    Má tôi đă trở vào:

    "Ông Bèo bán bún mà Việt cộng đó tụi mi ơi."

    "Con nghe giọng nói con cũng đoán ra."

    "May mà nhà ḿnh không thù oán chi với hắn."

    "Không thù oán mà hắn c̣n nợ ḿnh nữa chớ má," Hường nói : "Hôm mụ vợ đẻ, hắn có tới vay mạ mấy trăm. Hôm trước Tết mạ biểu con đi đ̣i, may con quên chớ không chừ sinh ra thù oán rồi."

    Vừa lúc đó chúng tôi nghe nhà bên cạnh có tiếng đàn bà kêu khóc. Má tôi ra dấu chúng tôi yên lặng rồi lắng tai nghe"

    "Bên nhà ông B́nh."

    "Giọng bà B́nh la đó chớ ai vô nữa."

    Hường cầm chặt tay tôi:

    "H́nh như họ bắt người."

    Tiếng la khóc nhà bên mỗi lúc một lớn:

    "Lạy các ông, chồng tui vô tội, con tui đi học mà."

    Giọng đàn ông thản nhiên:

    "Không can ǵ đâu mẹ. Mời bác với anh đi họp rồi về mà... Đi họp rồi về, mẹ cứ an tâm. Chúng con tới đây là để giải phóng Huế, chúng con nhờ sự giúp đỡ của nhân dân thành phố Huế mà."

    Tiếng kêu khóc yếu dần. Một lát sau có tiếng đập cửa. Hường mở cửa thấy Tịnh đi vào, mặt mày tái mét:

    "Tụi nó bắt anh Định đi rồi. Ba tui cũng bị bắt."

    Mạ tôi hỏi:

    "Chừ cháu tính răng?"

    "Mạ cháu nói cháu chạy sang đây nhờ bác cho cháu trốn đỡ. Bên nớ thế nào họ cũng trở lại bắt cháu đi."

    Má tôi thở dài sườn sượt:

    "Thôi cũng được. Xuống dưới hầm đi."

    Tịnh đem tới cho tôi nhiều tin lạ lắm. Nào ngoài cửa thành có nhiều Việt cộng chết v́ trúng đạn đại bác, bom chơm. Nào nghe ngoài Gia Hội đấu tố ghê lắm. Nào chuyện xử tử mấy người nghi làm cho Mỹ rồi chôn xác trong mấy khu vườn phía đường dưới.
    Tôi hỏi tại sao bác bên nhà đă già mà họ c̣n bắt đi. Tịnh cho biết là họ vào trong nhà, cùng đi có ông Bèo làm bún trong xóm. Ông nói nhỏ ǵ đó rồi mấy người giải phóng mời đi luôn. Lúc đó Tịnh trốn dưới bếp, chắc ông Bèo quên Tịnh, không điểm chỉ.
    Má tôi nói:

    "May mà ḿnh không thù oán chi."

    "Bên cháu h́nh như cha thù lắm. Trước Tết cha tới vay tiền mạ cháu không cho. Cha vay mấy lần không có trả. Với lại hồi cha say rượu chửi bóng chửi gió ǵ đó, anh Định cháu có nói phải trái, chắc thằng cha nó thù rồi chừ nó hại."

    Tịnh lắng nghe tiếng khóc c̣n nỉ non bên nhà, nhăn mặt:

    "Má cháu lạy nó mà cháu bắt nóng mặt. Ước ǵ cháu có khẩu súng, cháu ria cho một tràng rồi cùng chết cũng cam."

    Tôi an ủi:

    "Chắc không can chi mô, bác già rồi. Họ bắt đi rồi cũng thả về chớ can chi mà lo."

    "Dạ."

    "Dưới xóm nghe nói có nhà trúng bom rồi phải không?"

    "H́nh như rứa. Hồi năy bên nhà em, ông Bèo hăm dọa là nhà nào dung túng Mỹ ngụy dễ bị bom nhứt, v́ họ nghi là Việt cộng chiếm những nhà đó."

    "Nói như c... vậy mà cũng nói." Má tôi lầm bầm.

    Đêm đó, tiếng đại bác chưa tới khu tôi ở, nhưng thỉnh thoảng cũng có vài trái rơi lạc, trúng vào một vài khu vườn, làm bay ngói, rung nhà. Ngoài đường, lính Việt cộng đă bớt đi lại. Họ rút vào những hầm trú ẩn kiên cố. Nếu có gác đường th́ họ cũng đào những hố cá nhân.

    Từ hôm đó, em gái tôi vẫn thường bị mời đi họp, học rồi được thả về. Lần nào tôi cũng hỏi thăm về Đắc. Bữa nó nói có trông thấy, bữa nó nói không. Nhưng bỗng một hôm, tôi nghe được giọng nói của Đắc.

    Hôm đó, trong lúc cả nhà đang ăn cơm dưới hầm th́ có tiếng gơ cửa. Má tôi lật đật bảo chúng tôi nằm sát vào tận cùng hầm cát, rồi leo lên mở cửa. H́nh như chỉ có một người và má tôi chào hỏi, giọng hơi vui mừng:

    "Ủa, cậu đó hả? Cậu về khi mô?"

    Tôi hồi hộp chờ đợi giọng trả lời:

    "Dạ, cháu về cùng với anh em ở khu vực nội thành ni mà."

    Tôi không nghe má tôi hỏi ǵ nữa. Im lặng một lát, giọng trẻ lại hỏi:

    "Bác đă đào hầm chắc chắn chưa? Phải trường kỳ chống đỡ lâu đó bác. T́nh h́nh coi bộ mệt rồi."

    "Dạ."

    "Trời, bác làm cháu dị quá. Cháu vẫn là thằng Đắc như hồi trước mà bác. À, Khâm mô rồi?"

    Má tôi giả vờ sụt sùi:

    "Khổ lắm anh ơi. Nó đi từ hôm mồng một, về dưới quê ở Bao Vinh rồi có thấy tăm hơi nó nữa mô. Tui đang lo quá, sợ nó nóng ruột đi trở lên t́m ... dọc đường bị bắt bớ cũng nên. Tui chỉ có ḿnh nó, anh biết đó, nếu nó mệnh hệ nào th́ tui sống không nổi..."

    Đúng là Đắc rồi. Tôi muốn lên hầm để gặp bạn, nhưng Hường đă nắm chặt tôi lại:

    "Đừng anh, anh điên đó hả?"

    Giọng Đắc:

    "Bác đừng có lo. Ai có tội phải đền. Khâm với cháu vẫn là t́nh bạn..."

    "Anh thương th́ tui biết vậy, nhưng giữa đường giữa sá, nó đâu có gặp anh..."

    Đắc có vẻ trầm ngâm một lát, giọng hơi bớt tin tưởng:

    "Chết có số mà bác. Cháu có số chết th́ đă chết từ lâu rồi. Bác đừng gọi cháu bằng anh nữa, cháu buồn lắm. À, bác, nghe thằng Tịnh nó sang đây hả bác?"

    Tôi giật ḿnh. Tịnh nằm bên tôi mà run lập cập. May má tôi đỡ lời:

    "Nó có sang rồi đi rồi. Nó đi họp rồi có về mô nữa."

    "Ủa, vậy ai giữ nó. Được, để cháu hỏi rồi thả nó về. Cháu vừa gặp thằng Định anh nó. Thằng Định phải đi học tập, chắc người ta sẽ đưa nó sang bên kia Gia Hội hoặc xuống dưới băi dâu."

    "Đi chi mà xa rứa."

    Đắc không trả lời má tôi mà hỏi:

    "Hường mô rồi bác?"

    Má tôi không dám dấu:

    "Em nó sợ quá suốt ngày chui trong hầm hoặc trốn dưới gầm giường, con nớ nó sợ súng đạn bất thần."

    "Bác gọi Hường lên đi, cháu chớ ai mô mà sợ."

    Sợ Đắc xuống hầm, Hường vội vă ḅ lên khỏi miệng hầm. Tôi nghe tiếng Đắc cười lớn:

    "Bộ Hường tưởng tui lên núi rồi về thành cọp ăn thịt người răng mà nghe tiếng tui sợ dữ rứa?"

    Hường cố gượng cười khổ sở:

    "Em mô có sợ anh, nhưng mấy hôm ni em sợ chết quá."

    Đắc ngồi nói chuyện với má và em gái tôi rất lâu. Đắc kể cho má tôi và Hường nghe những nỗi cực khổ trước khi lên núi. Đắc nói nửa khôi hài, nửa mỉa mai:

    "Hồi cháu chỉ tranh đấu mà bị bắt, bị đánh đập quá sức tưởng tượng. Bác biết không, chúng nó đập nát cả hai bàn tay của cháu. Người cháu c̣n đầy thẹo, cháu chết đi sống lại. Ân đền oán trả chớ bác. Cháu lên núi tầm sư học đạo, nay thành tài trở về cho chúng biết mặt. Cháu không muốn hại ai, nhưng nợ máu phải trả chớ bác."

    Không biết khuôn mặt má tôi ra sao mà Đắc lại cười:

    "Nói có rứa mà bác tái mét mặt. Đùa cho vui chứ cháu cũng bị ép buộc quá phải lên núi. Cháu đi mô cũng không dứt được Huế. Cháu c̣n căm lắm bác ơi."

    Vừa lúc đó có tiếng chân nhiều người đi vào. Tôi nghe nhiều tiếng nói chuyện và chính Đắc kể lại vụ vừa bắt người ở mấy nhà bên cạnh. Có giọng lè nhè:

    "Thằng cha trốn tài thiệt, không có đồng chí Đắc th́ biết đâu mà kiếm cho ra."

    Một giọng khác cười:

    "Tôi biết nó trốn dưới nệm giường. Thằng cha đó trong xóm ni ai mà lạ cái mặt hắn nữa chớ."

    Có lẽ một nhóm cán bộ nằm vùng. Họ nói chuyện lớn tiếng và cười đùa vui vẻ. Tịnh hích vào tay tôi định nói, nhưng tôi bịt miệng nó lại. Tôi sợ ở trên miệng hầm họ nghe tiếng. Hường lại hỏi về Ngọc và Phủ. Đắc trả lời:

    "Có về hết. Phủ với Ngọc ở ngoài Gia Hội."

    "Em không nghe ai nói gặp hai anh nớ hết."

    "Hường th́ có đi mô mà nghe, mà thấy. Con gái chi mà nhát quá trời."

    Rồi Đắc nói với má tôi:

    "Tiếc thằng Khâm nó kẹt dưới quê, có nó, cháu bắt nó đi làm việc với cháu." Rồi Đắc chợt ngẫm nghĩ, "Nhưng chắc cháu cũng không ép nó mô. Khi bác gặp nó, bác nói là cháu với nó khi mô cũng là bạn."

    Đắc ở lại nói chuyện lâu lắm. Đắc hỏi má tôi nhà c̣n đủ gạo ăn không. Rồi Đắc hứa sẽ đem gạo tới tiếp tế cho cả nhà. Thấy Đắc vui vẻ, má tôi và Hường có vẻ bớt sợ hăi. Má tôi hỏi thăm t́nh h́nh, ban đầu giọng Đắc có vẻ khả quan, nhưng về sau sự tin tưởng cũng có vẻ giảm sút. Đắc dặn ḍ nên làm hầm cẩn thận, xóm ngoài và xóm trong đă có nhiều nhà trúng đại bác.
    Đắc c̣n cho biết quân Mỹ đă tiến vào quốc lộ 1, ban ngày đă lên tới An Cựu. Nhưng Phủ Cam, Từ Đàm, Bến Ngự vẫn c̣n là khu vực của quân giải phóng. Má tôi không dằn được than thở: Chắc dân chúng chết nhiều lắm. Tôi không nghe Đắc trả lời câu đó, và tiếng cười vui cũng im bặt một lúc lâu.









    Mai tiếp ....

  6. #256
    tran truong
    Khách

    Giải Khăn Sô Cho Huế

    Trước khi về, Đắc c̣n hứa là sẽ trở lại thăm. Đắc dặn ḍ Hường một vài điều nào đó mà tôi nghe không rơ. Chỉ có tiếng Hường dạ nhịp. Đắc và mấy người giải phóng, cán bộ vừa ra khỏi nhà một lúc th́ tiếng đại bác lại tiếp tục.
    Má tôi, Hường lại chui xuống hầm. Hường kể lại chuyện vừa gặp Đắc mặc dù tôi đă nghe gần hết. Hường nói trong số tới nhà, có một người c̣n trẻ, đeo gương cận, chắc cũng cán bộ nằm vùng. Má tôi dặn tôi phải cẩn thận v́ Đắc hẹn sẽ trở lại. Bà nhắc tới chuyện Đắc hứa là sẽ tiếp tế gạo và bảo Hường nếu cần ǵ th́ cứ t́m Đắc tới. Tôi nghe và thấy cảm động. Thật ra không chủ nghĩa nào, không lư tưởng nào chia rẽ t́nh người, t́nh bạn được.
    Tôi nghĩ vậy cũng quá nông cạn chăng. Nhưng mấy ngày hôm sau th́ Đắc không có th́ giờ tới thăm chúng tôi nữa, mặc dù tôi biết nhiều lần Đắc vẫn đi ngang qua nhà.

    Một lần tiếng đại bác vừa ngớt, tiếng súng lớn nhỏ bên ngoài thành cũng đă đến lúc nghỉ xả hơi, tôi bỗng nghe tiếng quát tháo ở ngoài đường. Em gái tôi đă dạn lắm, nó dám ḅ lên hé cửa nh́n ra đường coi. Tôi nghe tiếng quen quen và nhận ra tiếng của Đắc. Hường ló đầu xuống hầm nói nhỏ:

    "Chết cha. Anh Đắc bắt gặp anh Tư rồi."

    Tôi chưa kịp hỏi thêm th́ Hường đă trở lên, tiếp tục lén nh́n ra đường. Giọng của Đắc vang từ phía ngoài:

    "Các đồng chí để tôi xử tên này. Để tôi quyền ưu tiên. Trước kia nó làm chúng tôi khổ sở điêu đứng bao phen. Nó phải trả tội ác."

    Giọng Tư rên rỉ:

    "Lạy anh tha cho em. Chừ em cũng theo giải phóng rồi. Em đeo băng đây anh ń ... anh .... em đeo băng ń. Mấy ngày hôm ni em hoạt động cho giải phóng, em điềm chỉ bắt nhiều tên Mỹ ngụy rồi. Em xin lấy công chuộc tội."

    Đắc cười gằn, giọng cay độc:

    "Mày mà cũng biết ăn năn. Không, tao phải xử mày. Mày xuống đứng dưới cái hố tao hỏi tội."

    Có tiếng xô đẩy rồi tiếng kêu thét của Tư:

    "Ối, lạy anh, xin anh tha cho em."

    "Tha cho mày. Hồi trước tao đă lấy t́nh bạn xử với mày mà mày có tha cho tao mô. Tao bị bắt, bị tù tội, bị đánh đập "

    Đắc cười gằn, khôi hài thêm:

    "Hừ, tao lên núi tầm sư học đạo về đây, chuyến ni mi đừng có ḥng."

    Giọng Tư như đang khóc:

    "Em lạy anh, tha cho em. Em lạy anh, em biết lỗi rồi. Bởi rứa em theo giải phóng ngay từ đầu."

    "Mày có tài theo mau lắm. V́ rứa tao mới bị đánh đập giam cầm. Mày đứng xuống hố cong lưng xuống, nghe tao hỏi đây."

    "Ư, lạy anh, đừng bắn em chết. Em, em... ư trời, anh... anh..."

    Đắc bật cười ṛn ră:

    "Bắn mày? Không, mày đâu có được chết mau lẹ rứa. Mày phải chết dần chết ṃn, chết đau đớn khổ sở. Trong đời tao, tao đă bị oan ức, chứ tao không muốn xử oan ức ai hết."

    Tôi rùng ḿnh. Giọng Đắc hằn học, quyết liệt lắm rồi. Tôi nghe một giọng người nào đó nói:

    "Thôi đồng chí, nó đă ăn năn tội lỗi, đă về với giải phóng với nhân dân. Đồng chí nên..."

    "Nên gác lại hận thù riêng? Không, hận thù riêng của tôi cũng là hận thù chung của bè bạn tôi nữa. Các đồng chí xin đừng xía vô trường hợp này, xin đồng chí. Chỉ xin các đồng chí trường hợp này mà thôi."

    Giọng Đắc đột nhiên quát lớn:

    "Đứng yên đó. Tao chưa bắn đâu, đừng ḥng."

    "Lạy anh, thôi, thà anh bắn em chết đi, cho em bớt khổ sở."

    "Không."

    Giọng Tư kêu lớn như gào bể cổ họng:

    "Em lạy anh, em lạy anh..."

    Tiếng Đắc cười ran. Tiếng cười đầy uất hận xói vào đầu tôi làm tôi choáng váng. Rồi một tiếng súng nổ. Một tiếng thét lớn. Xong rồi. Nhưng không, một tiếng nổ nữa, một tiếng thét nữa. Cứ tiếp tục như thế. Tôi mấy lần thót cả tim, rồi thở phào nhẹ nhơm cho kẻ bị tội. Chết là hết. Nhưng lạ chưa, mỗi tiếng súng là mỗi tiếng thét, thêm một tràng cười điên dại của Đắc.

    Tiếng súng ngừng hẳn sau một tiếng kêu hăi hùng của Tư. Lần này th́ tôi yên tâm cho Tư rồi.

    Bây giờ tiếng súng ở đâu ngoài thành, xa hơn nữa, h́nh như ở phía chợ, phía cầu Tràng Tiền chi đó lại nổ nữa, rồi tiếng đại bác. Má tôi gọi Hường mau vô hầm. Nhưng Hường như c̣n hăi hùng với cảnh đă chứng kiến, nó đứng sững ở cánh cửa hé mở. Má tôi phải chạy ra lôi nó vào hầm. Tôi hỏi mày thấy ǵ. Nó cà lăm, cà cặp, run rẩy măi mới kể lại cho tôi nghe lại cảnh đă chứng kiến.
    Đắc đă t́m gặp được Tư. Hắn bắt Tư đứng dưới một hố cá nhân rồi bắt đầu hỏi tội và hành hạ. Đắc xin các đồng chí giải phóng có mặt ở đó được giải quyết mối thù riêng và các đồng chí giải phóng đă không ai can thiệp. Tư đứng dưới hố, cứ mỗi lúc Đắc đưa súng lên nhắm vào trán Tư mà bóp c̣, Tư lại nhắm mắt, khuôn mặt lạnh lùng chờ đợi. Nhưng rồi phát súng chờ đợi không nổ. Đến khi phát súng chờ đợi nổ th́ Tư vẫn không chết. Mỗi phát đạn cứ lướt qua màng tang, qua đầu, qua bên vai và mỗi lần như thế Tư cứ tưởng là đă lưu lại thế gian tiếng thét cuối cùng của nó. Sau đó, Đắc kéo Tư lên rồi dẫn đi.

    Chiếc hố bỏ trống đó, mấy ngày sau, Hường kể cho tôi nghe, có một người lính giải phóng chết gục trong đó, đầu kê lên miệng hố và mặt quay vào phía nhà tôi. Tôi đoán chắc trước khi chết, anh c̣n kịp nh́n thấy những bông mai vàng trong sân và một phần mái nhà bị sập đổ v́ mảnh đạn hay những phát B40 của đêm đầu tiên khai hỏa.

    Tôi không c̣n nhớ những ngày sau đó là mồng mấy hay mười mấy nữa. Mặt trận đă lan tới nội thành rồi. Tiếng đại bác ngày đêm rơi không ngớt. Bờ thành sập nhiều chỗ. Người ta đồn cửa Đông Ba, cửa Thượng Tứ, cửa Sập đều bị bắn đổ xuống, chắn hết lối ra vào.
    Mấy ngày đầu chúng tôi c̣n ra khỏi hầm nấu ăn được. Nhưng mấy hôm sau, tiếng đại bác rơi không ngớt, rồi tiếng súng bắn ra ngoài thành như mưa. Má tôi và Hường phải kéo bao gạo xuống hầm và chúng tôi nhai gạo sống cho đỡ đói.

    Nhai gạo sống, uống nước lạnh, trời lại rét như cắt ruột gan, hơi đất thấm vào người, cả nhà bị đau bụng. Chúng tôi phải canh chừng tiếng đại bác, leo lên hầm tiểu tiện ngay ra nhà. Đôi lúc đang nửa chừng, nghe đánh ́nh một tiếng, không chạy mà cũng tự động rơi tọt xuống hầm như bị ai nắm quăng xuống hố.

    Cứ sống như thế mấy hôm, người chúng tôi xanh mướt. Hường không chịu nổi nữa, nó khóc rấm rứt suốt ngày. Vậy mà đâu được yên thân. Mặc tiếng đạn đại bác, mặc máy bay, các anh lính giải phóng vẫn t́m cách tới trước cửa từng nhà, kêu gọi đồng bào góp sức chiến đấu với mặt trận. Khẩu hiệu là: Không dung giặc Mỹ, không chứa chấp Việt gian, không sờn ḷng trước áp lực súng đạn. Nếu cần, tất cả đồng bào lớn bé tràn ra hết ngoài đường chiến đấu với Mỹ ngụy.



    Hue 1968 - Vietcong soldiers climbing onto a US tank abandoned on a road in Hue in 1968 during the Tet general offensive. by manhhai, on Flickr
    Chiến lợi phẩm từ máu , chết chóc , đổ nát ....và hoang tàn ...



    Mỗi lần nghe như thế, chúng tôi run như cầy sấy. Những người chung quanh chết mỗi ngày mỗi nhiều. Ngay ở đàng sau vườn nhà chúng tôi, có ba bốn xác chết bỏ lại, không biết dân hay giải phóng. Ban đêm, đôi khi chúng tôi nghe tiếng la thét ở đàng sau vườn. Hoặc họ bắt người dẫn ngang qua nhà, tiếng van lạy kêu khóc đến năo người.

    Một ngày nữa trôi qua, chúng tôi vẫn c̣n sống. Nhưng ngôi nhà bên cạnh bị một quả đại bác câu tới tan tành. Nhà sát đó bị miểng rơi tung cả mái tôn và chiếc hầm đang ở trong nhà thành hầm lộ thiên. Ánh sáng chiếu vào hầm làm mọi người sợ hăi. Vậy là họ liều chết chạy ra đường, sang nhà tôi xin trú ngụ.

    Mặc dù chật chội, hôi hám hơn, nhưng sự có mặt của nhiều người làm chúng tôi yên ḷng hơn. Những người mới tới cho biết đă có nhiều đoàn người tản cư ra ngoài bờ sông, mặt Gia Hội. Nhưng Hường quả quyết rằng, chính Đắc nói trường Gia Hội là nơi trú đóng của bộ chỉ huy Việt cộng, nơi đó c̣n dùng để làm ṭa án nhân dân nữa. Tôi can má tôi. Tản cư ra đó, khác nào đút đầu vào miệng cọp.

    Chỉ có một tạ gạo mà thêm bao miệng người ăn, chúng tôi phải ăn cầm chừng. May gia đ́nh tản cư tới không có trẻ con, nên nhịn đói nhịn khát được. Mỗi sáng chúng tôi nhai một nắm gạo, trưa một nắm, chiều một nắm.

    Chỉ có vậy mà bao gạo vơi đi một cách đáng sợ. Có lẽ hết bao gạo này, chúng tôi chưa chết v́ bom đạn th́ cũng chết v́ đói khát. Mỗi ngày mọi người nh́n nhau, thở dài hoặc ứa nước mắt. Không ai c̣n đủ sức bàn vô tán ra nữa.

    Một buổi trưa, mọi người đang ngồi trong hầm nhai gạo sống th́ có tiếng xô cửa rồi tiếng gọi:

    "Mợ ơi, mợ ơi."

    Má tôi nghe và nhận ra tiếng đứa cháu trai ở đường Mai Thúc Loan. Bà mừng rú lên:

    "Đây ń, dưới hầm ń con ơi, xuống mau."

    Một cái đầu ló vào. Thằng Tam. Nó run lập cập, mặt mày tái mét. Má tôi kéo nó sát vào người:

    "Mạ với ba mô rồi. Răng đi một ḿnh?"

    Tam ̣a khóc:

    "Mạ chết khi chạy ra đường với cháu rồi. Mạ biểu cháu cứ chạy đi, mạ hoa tay trợn mắt. Cháu không chịu đi. Khi mạ chết cháu mới đi."

    Mạ tôi khóc ̣a:

    "Trời đất ơi. C̣n ba mô? Ba mô nói cho mợ biết."

    "Ba bị bắt đi rồi. Ba bị bắt trói dẫn đi cùng với nhiều người khác nữa. Nghe nói bị đưa lên cửa thành cho đại bác bắn xuống. Mợ ơi, mợ ơi..."

    Tam khóc ngất. Má tôi cũng khóc ngất. Tôi nổi gai ốc đầy người. Tại sao lại đưa dân lên cửa thành cho máy bay bắn xuống chết. Những người này có tội t́nh ǵ? Lại mấy thằng cha cán bộ địa phương tư thù tư oán đây mà. Cḥm xóm láng giềng mà giết nhau đây mà. Tôi giận căm gan, muốn hét lớn một tiếng cho đỡ tức. Tam vẫn nức nở:

    "Họ ác lắm mợ ơi, họ bắt mấy người t́nh nghi đem lên thành trói lại cho máy bay Mỹ tưởng là Việt cộng bắn xuống. Hôm qua mười mấy người, hôm ni mấy chục người. Chắc có ba cháu rồi."

    Má tôi đập tay đập chân. Giọng Hường yếu ớt:

    "Khóc mần chi má. Trước sau cũng chết. Thà chết trước c̣n sướng hơn. Con muốn chạy ra đường cho máy bay bắn chết cho rồi. Sống như ri khác chi chết đày chết đọa."

    Có tiếng súng nhỏ nổ ran trước mặt đường. Má tôi và Tam ngừng bặt tiếng khóc. H́nh như quân giải phóng dẫn một đoàn tội nhân đi qua. Có tiếng kêu khóc, có tiếng la lớn. Má tôi ôm lấy ngực. Con Hường há hốc mồm rồi ngă vật xuống đất. Tôi sờ tay nó thấy lạnh ngắt. May người hàng xóm tới ở nhờ có chai dầu xoa khắp người Hường. Một lát sau nó hơi tỉnh, rên rỉ:

    "Ghê quá mạ ơi. Ghê quá anh ơi..."

    Rồi nó khóc. H́nh như nó đang khóc trong cơn mê sảng. Tôi cầm chặt tay em gái. Tội nghiệp cho nó. Nó ăn gạo sống lâu ngày không chịu nổi, cái bụng căng ph́nh như bị báng. Miệng nó trào bọt mép. Một lúc sau nó tỉnh hẳn. Nó ôm chặt má tôi:

    "Con không chịu được nữa. Chắc con chết."

    Giữa cơn bom đạn như mưa bên ngoài, má tôi vừa khóc vừa ḅ lên khỏi miệng hầm. Bà lục lọi ǵ lâu lắm. Tôi sốt ruột cứ tḥ đầu lên gọi:

    "Má, má xuống hầm liền đi."

    Măi má tôi mới xuống. Trên tay bà cầm đ̣n bánh tét mốc meo. Bà lột lớp lá và đưa cho Hường, lúc đó đang nằm bẹp xuống đất mà thở như sắp đứt.

    Bắt đầu từ đó, hết đêm kinh hoàng này nối tới ngày kinh hoàng khác. Tôi không tài nào ngủ được. Không c̣n một ai dám lên miệng hầm nữa. Thức ăn cạn dần.
    Bao gạo gần hết mà chúng tôi lại thêm một miệng ăn. Tam kẹt lại luôn. Không dám một ḿnh trở về nhà nữa.

    Hường bịnh nặng, nằm bẹp một chỗ. Má tôi cứ ngóng bước chân đi trên mặt đất, hy vọng Đắc trở lại. Nếu Đắc c̣n trở lại, chúng tôi c̣n nhờ vả được. Một buổi chiều, chúng tôi nghe tiếng chân đi nhẹ vào nhà, rồi tiếng người ngă phịch xuống.
    Một lát sau nhiều tiếng chân khác đuổi tới. Một tiếng súng nổ. Một tiếng kêu thét lên. Nhiều tiếng lao xao nói cười: Có chạy đằng trời. Một giọng khác có vẻ ngạc nhiên: Nhà ni chắc không có người ở. Có hầm, chắc họ ở dưới hầm. "Lục soát coi, đôi khi ngụy quân trốn trong đó." "Ôi cứt đái tùm lum, chắc chẳng có ai. Thúi quá, đi ra."



    Vietnam War - Hue 1968 - Two US Marines Helping Another Walk by manhhai, on Flickr



    Tiếng chân xa dần. Má tôi mừng rỡ tới ứa nước mắt. Đống phân rác dơ dáy bừa băi giữa nhà đă cứu chúng tôi. Má tôi hít một hơi dài, gật đầu: Bây giờ mới thấy quư đống phân. Tôi cũng vậy, không c̣n ghê sợ mùi hôi thối xông xuống nữa.

    Chắc họ đi, bỏ lại một xác chết ngay giữa nhà chúng tôi nữa. Tôi thắc mắc không biết xác của ai. Tôi nghĩ tới Tư. Cũng không có thể là Tư. Đắc đă bắt đi, không dễ dàng ǵ cho hắn trả nợ nhẹ nhàng thế. Nhưng tôi chỉ thắc mắc một chút rồi thôi, nỗi lo sợ nhất của tôi là vài hôm nữa xác chết sẽ śnh thúi, và chắc chắn mùi xác chết trộn với phân người sẽ không dễ ngửi như mùi tôi đang ngửi.

    Rồi bao gạo cạn dần, cạn cho tới đáy. Buổi sáng hôm đó, má tôi báo động hết thức ăn. Gia đ́nh tới tạm trú có vẻ băn khoăn v́ họ cho là có trách nhiệm trong vụ đói khát cận kề. Nhưng dù không có họ th́ gạo cũng sẽ hết và chúng tôi cũng sẽ chết đói. Hết nhanh hay cầm cự thêm hai ba hôm nữa cũng thế thôi. Má tôi khóc:

    "Khổ chưa ń, không chết bom đạn mà chết đói mới khổ thân chớ."

    Rồi bà ôm Hường khóc vùi. Sau đó chúng tôi nhai những hạt gạo cuối cùng một cách thận trọng như sợ một vài hạt sẽ rơi văi mà không có cách ǵ t́m thấy lại được.

    Gia đ́nh hàng xóm nhất định nhịn, nhưng má tôi vẫn chia: Ôi, có chết th́ cùng chết. Ăn đi rồi chết. Mọi người khóc lóc, nhưng không ai dám khóc to, sợ có người nào trên mặt đất nghe thấy.

    H́nh như nhiều căn nhà chung quanh chúng tôi đă sập đổ. Nhiều tiếng nổ thật lớn làm dội tức cả ngực. Đôi khi chúng tôi tưởng như tiếng nổ đă cày xới mất căn nhà ở và nhắm mắt chờ chết, một lúc sau những tiếng nổ dịu bớt, chúng tôi mới biết là ḿnh vẫn chưa hề hấn ǵ.

    Tiếng súng lẻ nổ đă gần hơn, h́nh như đă cận kề ở miệt phố. Tôi bỗng nẩy ra một ư định:

    "Má, ḿnh đi trốn đi, ở đây chắc thế nào cũng chết."

    "Tao không c̣n biết chi nữa. Tùy mày định liệu đó."


    Chúng tôi lại nhịn đói thêm hai ngày nữa. Hường mệt lả. Hai gia đ́nh chúng tôi bàn soạn việc đi trốn. Tam cố ḅ lên miệng hầm, mặc tiếng súng đạn, hắn lần ra cửa xem xét ngoài đường. Một lúc sau, hắn chui xuống hầm, giọng có vẻ mừng rỡ:

    "Ngoài đường người ta đi đông lắm. Lâu lâu lại có một tốp người chạy về phía cổng thành."

    Má tôi bật dậy:

    "Ḿnh đi theo họ."

    Nhưng Tam gạt đi:

    "Không, chỉ đàn bà và người già. Không thấy đàn ông. Đàn ông họ đi đâu hết rồi."

    Má tôi bàn việc giả dạng. Mấy người đàn bà bế Hường chạy trước, c̣n tôi giả mặc quần áo đàn bà, đội khăn đi theo sau. Tôi hỏi:

    "C̣n Tam làm răng. Vô lư cũng giả dạng nữa."

    Tam buồn rầu:

    "Sống chết có số mạng. Anh cứ lo phần anh."

    Ngay xế trưa hôm đó, chúng tôi bồng bế, d́u dắt nhau lên khỏi miệng hầm. Vật đập ngay vào mắt tôi là xác một người đàn ông śnh to nằm sấp, máu me đă đặc khô lại. Hai tay hắn dang ra như ôm mặt đất. Chúng tôi không nh́n rơ mặt hắn. Tam bận rộn việc hóa trang cho tôi. Tôi mặc quần áo của Hường, đầu trùm khăn kín mít. Má tôi thu xếp một ít thứ lặt vặt gói vào một cái bọc rồi giục giă mọi người ra đường.

    Cánh cửa bật mở. Tôi chói mắt lảo đảo muốn té. Khi quen với ánh sáng rồi tôi mới nhận ra mọi cảnh vật đổi thay. Không c̣n một h́nh dạng cũ nào được giữ lại. Lạ lùng, căn nhà của tôi chưa trúng đại bác vẫn trơ vơ giữa những khu vườn xơ xác, những ngôi nhà đă tan thành đống gạch vụn.
    Đâu cũng có người chết, trong sân, đầu ngơ, ngoài đường. Những vũng máu đă khô hoặc c̣n mới. Tiếng đại bác vẫn câu đều đều từ phía trong thành nội, những tốp người tiếp tục chạy ra. Họ vừa chạy vừa la khóc rền trời. Không ai hỏi ai, không ai nh́n ai.

    Ngay giữa đường, hai bên đường, những miệng hố lớn do người đào, do bom đạn đào cũng có. Vừa chạy tới đường Mai Thúc Loan th́ một loạt súng nhỏ ngoài thành bắn vào như mưa. Đoàn người chạy đằng trước có vài người ngă xuống. Tức th́ họ quay đầu trở lại, một đàn ong tan bầy. Tôi vội kéo mọi người chạy trốn vào một căn nhà đổ nát ngay lề đường. Nhà đă sập, chỉ c̣n mấy bức tường trơ vơ.
    Chúng tôi chui vào đàng sau bức tường, leo qua đống gạch lớn. Nhà này có một cái hầm cát nhưng hầm cũng bị trúng đại bác tan tành, bao cát vỡ tứ tung, các cây gỗ gẫy văng la liệt. Và giữa những bao cát bị đào lên, giữa những thanh gỗ lớn, xác một người Mỹ nằm sấp, mặt nh́n ra ngoài đường. Tay anh ta đưa ra trước mặt và nắm chặt lại.

    Tôi ṭ ṃ nh́n kỹ, th́ ra đó là một bức ảnh nhỏ in h́nh một người đàn bà tây phương đang áp má bên một đứa bé gái bụ mẫm. Cả hai mẹ con cùng cười, tươi thắm giữa vườn cây trái tươi tốt. Người Mỹ c̣n trẻ lắm, anh ta chưa tới ba mươi tuổi, mái tóc vàng hoe dính bê bết máu. Xung quanh xác chết của anh ta, chiếc ví da xổ tung, giấy tờ, thư từ rơi vung văi cùng chiếc bật lửa và những giây đạn c̣n mới nguyên, bị đứt ra từng đoạn.
    Tam ṭ ṃ hơn, nó nh́n sát vào tay người Mỹ và đọc được gịng chữ nhỏ đằng sau bức ảnh. Hắn lẩm nhẩm: Lạy Chúa, cho con gửi lời cầu xin năm mới sang Việt Nam cho chồng con. Chiến tranh chấm dứt và gia đ́nh đoàn tụ. Lẫn trong đống thư từ rơi văi, Tam lượm được một chiếc ảnh nữa, cũng người đàn bà, gần như không có mảnh vải che thân đang nằm sấp trên chiếc giường rộ̣ng trống trải với một lời đề đằng sau, tả nỗi nhớ chồng thê thiết.




    Hue 1968 - U.S. Marines drag away a wounded Marine during a street battle in Hue. by manhhai, on Flickr


    Mai tiếp ....

  7. #257
    tran truong
    Khách

    Giải Khăn Sô Cho Huế

    Không biết ngày thứ mười mấy hay hai mươi mấy , mà người Mỹ đă vào được tới đây. Có lẽ họ đă đến và bị đẩy lui. May mà chúng tôi đă t́m ra tới được đây. Khi chúng tôi ra tới đường, h́nh như nơi con đường chúng tôi ở không c̣n một gia đ́nh nào nữa. Họ đă chết hoặc đi từ lâu rồi. Hường ngồi ủ rũ dựa lưng vào đống gạch, nó giơ tay che mắt không dám nh́n xác chết.

    Người đàn bà lớn tuổi nhất ở nhà hàng xóm trú ngụ nhà tôi ḅ ra ngoài nh́n rồi ngoắc chúng tôi:

    "Ngoài đường có người đi rồi. Đi đi thôi."

    Chúng tôi lại dắt d́u bồng bề nhau đi. Nhưng cứ một đoạn, chúng tôi lại chạy ào t́m chỗ tránh đạn hoặc nằm mọp xuống đất khi nghe trên đầu có tiếng rạt rạt. Mỗi lần có tiếng rạt rạt trên đầu là có tiếng nổ của đại bác. Đằng trước chúng tôi có người trúng đạn, đằng sau chúng tôi có người trúng đạn.
    Đoàn người chạy loạn bỗng dưng tụ tập hết gần nơi cửa thành. Người tôi run lên. Họ kiểm soát chắc. Chúng tôi đến gần. Có một toán quân giải phóng đang ngồi ở đó. Họ không ngăn chận nhưng đoàn người tự động dừng lại trước những mũi súng gờm gờm như sẵn sàng nhả đạn. Tôi kéo vuông khăn che đầu tóc, che mặt cho thấp xuống.

    Má tôi vội nhét vào túi áo trong của tôi một gói tiền nhỏ rồi bà bế xốc Hường lên.

    "Đàn bà được đi qua. Đàn ông thanh niên đi trở lại."

    Một giọng cứng rắn từ trong toán giải phóng đang ngồi dựa lưng bên cửa ra lệnh. Tam tái mặt, nó cố lẩn trong đám đàn bà trẻ nít. Tôi nín thở đi qua. Mấy đôi mắt gườm gườm nh́n thẳng vào mặt. Bỗng có tiếng nói:

    "Anh kia đứng lại."

    Tôi giật thót cả người, không dám nh́n lại. Họ nói tôi hay nói ai. Nhưng tay ai đă đẩy lưng tôi đi thẳng tới phía trước. Tiếng Hường rên rỉ như đau đớn lắm. Tôi biết một phần nó đau đớn thật và một phần nó làm bộ kêu la. Bỗng Tam vùng chạy về phía trước. Một tràng súng đuổi theo nhưng h́nh như súng chỉ bắn lên trời. Đoàn người tràn ra cửa thành đông quá. Tam nhờ đó cứ vừa lách vừa chạy.
    Nghe tiếng súng, ở bên ngoài có tiếng súng đáp trả. Hai bên lại bắn nhau loạn xạ. Chúng tôi lạc bầy nhau chạy bán sống bán chết. Một tràng đạn réo bên tai. Tôi vội nằm xuống đất, và khi đứng dậy được th́ má tôi, em tôi, Tam và những người hàng xóm đă chạy lạc đâu mất rồi. Tôi chết điếng người, má tôi, em tôi, có mặt trong đoàn người chạy phân tán các ngả hay đă nằm trong đống xác vừa mới ngă đằng sau lưng đang c̣n nóng hổi, tràn trề sự sống kia? Tôi muốn quay lại nhưng không được nữa. Súng đạn xô tôi chạy măi về phía trước. Tôi đă ra tới phố Phan Bội Châu.

    Lúc năy, rơ ràng tôi nghe nhiều tiếng súng bắn vào cửa Đông Ba, và quân Việt cộng bên trong bắn trả lại. Nhưng ra tới đây, sao tôi không thấy bóng một người nào hết. Chỉ có những xác chết. Xác Việt cộng chết từ lâu hoặc c̣n tươi, xác dân chúng đi tản cư. Tôi nh́n thấy nhiều cảnh thương tâm lắm.
    Những chị đàn bà chết trong tay c̣n ôm chặt con. Những người đàn bà bụng chửa chết ḷi con ra ngoài. Thấy chạy ở ngoài đường nguy hiểm quá, tôi xô cửa vào một căn phố gần đó.

    Căn phố bỏ trống. Tôi ngạc nhiên khi nh́n thấy những lỗ hổng lớn đục nơi bức tường cứ tiếp tục thông từ nhà này sang nhà khác. Tôi nghĩ là Việt cộng họ dùng lối này để di chuyển chăng. Nhưng tôi không dám mạo hiểm leo sang những căn nhà khác.

    Căn phố này chưa sập đổ hoàn toàn, nhưng tôi kiếm hoài không ra được một chút thức ăn nào hết. Cực chẳng đă tôi phải t́m sang nhà khác, kiếm bất cứ cái ǵ ăn cho đỡ đói. Khi tôi nhặt được một túi bánh ḿ khô bên cạnh xác một em bé chết đă lâu mặt mũi śnh thối, th́ tôi cũng bị trúng một viên đạn vào tay. Tôi tự băng bó bằng áo của em bé đă chết, và viên đạn đến bây giờ vẫn c̣n mắc cứng trong thịt, có lẽ tôi đau nhức hơn cả là v́ vết thương này.

    Tôi không hiểu làm thế nào mà tôi c̣n sống sót được khi chạy tới bờ sông. Tôi không biết, không nhớ rơ khúc sông nào. Lúc nh́n thấy mặt nước, tôi khát cháy cổ họng, người khô quắt không c̣n một giọt mồ hôi. Sau lưng tôi, trên đầu tôi, tiếng súng nổ. Tôi bỗng cảm thấy đau nhức khắp người và h́nh như máu trong người tôi đang chảy ra như suối.

    Mặc, gịng sông xanh trước mặt êm ả quá, màu xanh ban đầu làm mắt tôi dịu lại, rồi tất cả gịng sông chụp lấy tôi, nhận ch́m tôi xuống. Tôi đă lết tới sát bờ sông, tôi vục cả mặt ḿnh xuống, trườn cả người xuống, gịng nước mát lạnh như muốn đóng tôi thành một tảng băng. Rồi có tiếng la chới với: Cứu người ta với, cứu người ta với. Tôi bị nhấc bổng lên một con thuyền, và tôi thiếp đi.

    Khi tôi tỉnh dậy th́ thuyền đă qua sông. Tôi bị mấy vết thương khá nặng. Có bao nhiêu tiền, tôi dốc cho người lái đ̣ đă cứu sống tôi hết. Tôi từ giă người lái đ̣ rồi cố gắng vừa ḅ vừa lết lên đường.

    H́nh như tôi ḅ ngang qua nhiều xác chết lắm. Tôi đến được trường Kiểu Mẫu. Ở đây, người ta tị nạn đông lắm, đông đến nỗi tôi không c̣n có chỗ nằm.

    Tôi được băng bó sơ sài, được ăn uống. Người ta khuyên tôi nên đi về phía An Cựu, ở đó đă yên, may gặp quân đội, họ chở về Phú Bài mới có thuốc thang băng bó. Tôi đă đi qua bao nhiêu con đường nhỏ, tôi có ngang qua bưu điện nữa th́ phải, cứ ở chỗ này có tiếng súng, tôi ḅ tránh sang chỗ khác.

    Nơi bưu điện, tôi thấy có mấy xác Việt cộng bị xích chân nơi khẩu đại liên. Họ đă chết. Một nơi khác tôi cũng thấy tương tự như thế. Khi tới cầu An Cựu, tôi thấy có lính ḿnh và người Mỹ. Tôi chưa kịp đi tới th́ xẩy ra tiếng súng, tôi vội lết vào con đường nhỏ để tránh đạn. Khi đi qua đoạn đường hồi năy anh cứu tôi, tôi bị một phát súng trong vườn bắn ra. Tôi ngă ngay xuống đất.
    Dù vậy, tôi cũng cố lết tới cái hố bom để tránh đạn lạc. Khi ở trường Kiểu Mẫu, tôi thấy có nhiều ngôi mộ mới. Người ta nói: mỗi ngày có mấy người chết. Hoặc bị thương từ trước, hoặc trúng bom. Tôi tưởng qua tới đây th́ có thể về Phú Bài được. Nhưng giờ th́ tôi hết hy vọng rồi. Tôi không hiểu sao tôi c̣n tỉnh táo tới phút này để kể cho anh, cho chị nghe chuyện của tôi được. Có lẽ máy bay đă xa rồi.

    Thôi anh chị để mặc tôi, chạy đi, không họ tràn tới bây giờ. Xin dựng tôi nơi cánh cửa, không, nơi cái cột kia cũng được. Tôi c̣n nh́n thấy mưa, thấy cỏ cây. Bụi cây trước mặt chưa có một vết đạn nào tới phá, mưa gội sạch hết để tôi nh́n...

    Thái dựng người thanh niên nơi chiếc cột ngó ra góc vườn. Ở đó có một chậu cây. Mấy chậu hoa thược dược trắng và tím vẫn nở. Xa hơn là một bụi cây lớn đang nằm nghe mưa vỗ về. Có lẽ máy bay sẽ trở lại thật. Thái ngỏ ư muốn đi và đem người thanh niên theo, nhưng anh ta mỉm cười lắc đầu. Tay anh bắt đầu run, môi anh ta tím bầm lại và đôi mắt chớp nhanh như muốn thu hút hết bầu trời và cảnh vật trước mắt.
    Đôi mắt dại dần như có một cái màng mỏng kéo tràn qua. Thái cầm chặt tay anh ta. Nơi khóe mắt sắp tàn lụi bỗng rỏ xuống hai giọt nước mắt và miệng anh mấp máy. Anh cố nhướng lên như muốn thâu hết mọi h́nh ảnh rồi đứng tṛng.

    Thái lắc đầu. Tôi thụt lùi lại , đứng đằng sau lưng Thái. Thái nhẹ nhàng vuốt mắt cho người thanh niên, rồi đặt xác anh ta nằm thẳng bên chiếc bể cạn.

    Trời mưa nặng hạt hơn. Tôi thờ thẫn theo Thái ra ngơ. Trước ngơ, mấy xác Việt cộng nữa vừa mới chết. Họ nằm sấp có, ngửa có. Thái vuốt mắt cho từng người rồi kéo tay tôi đi. Tôi bỗng hoảng kinh muốn vọt chạy tới đằng trước. Thái hỏi:

    "Chi rứa chị?"

    Tôi nói không ra hơi, đưa tay chỉ lui. Xác một Việt cộng vừa mới được Thái vuốt mắt xong đă nhắm, bỗng lại mở trừng trừng ra, như nh́n theo chúng tôi. Thái xô tôi tới trước:

    "Thôi kệ, đi đi chị. Đi đi mau."

    Chính chân Thái cũng quưnh lại. Hai chị em dắt díu nhau chạy thoát con đường nhỏ. Một lúc sau tới đồn An Cựu, thấy có thúng hột vịt của ai bị đổ rơi văi đầy đường, Thái nhặt được ít quả c̣n nguyên bỏ vào túi.

    H́nh ảnh người thanh niên tên Khâm vừa mới chết trong một căn nhà lạ cứ ám ảnh tôi măi. Hắn kể tỉnh táo vậy .... tại sao lại chết chóng vánh như thế? Cái chết thiệt dễ dàng và đôi khi không giải thích nổi. Hắn đă ở nơi bom đạn trong suốt bao nhiêu ngày, bị bao nhiêu vết thương. Trốn chạy măi sang gần tới nơi b́nh yên th́ lại chết v́ một viên đạn nào đó trong vườn, từ sau một bụi tre bắn đi. Cái chết thật như sự bỡn cợt.

    Vậy số phận tôi, số phận gia đ́nh tôi lấy ǵ bảo đảm. Tôi đă chạy cùng khắp, về nhà quê, lộn lại lên Huế. Ở nhà quê cũng có người chết v́ đại bác rơi lạc. Về thành phố, t́m nơi an ổn nhất cũng có những viên đạn đi lạc , hết sức vô t́nh.
    Tôi bỗng bàng hoàng cả người khi nghĩ tới những ngày ở nhà thờ, ở Cung An Định, những ngày chạy từ Tân Lăng về miệt đường rầy. Ở đâu cũng đầy cái chết mà chúng tôi chưa biết, chưa chết, chớ không phải là không thể chết.

    Ban đầu tôi nghe đồn là Việt cộng ở chơi ba ngày, rồi tăng lên bảy ngày. Rồi tin cụ Hồ vào thăm dân. Cụ chưa vào mà thành phố đă chết đứt một nửa, đă tan nát sụp đổ gần hết. Ngày cụ vào, chắc ǵ con cháu c̣n sống để hoan hô cụ. Nh́n đồng bào chết, ḷng tôi không khỏi xót xa, nhưng nh́n những xác Việt cộng tôi cũng không thể căm thù họ. Họ cũng chết la liệt cho bác Hồ vô Huế. Thái nói:

    "Răng tự nhiên chị khóc?"

    Tôi phải nói là tôi sợ lắm. Chắc Thái cũng đang nghĩ ǵ mà tôi nh́n thấy mắt nó buồn hiu. Về tới nhà, má tôi đang đứng lấp ló ở cửa. Bà chạy xổ ra kéo chúng tôi vào nhà, vừa mắng vừa khóc:

    "Tụi bây thiệt. Tụi bây thiệt làm tao hết hồn hết vía."

    Rồi bà kéo chúng tôi vào nhà. Trên bàn thờ ba tôi, mùi nhang bay thơm phức. D́ Vạn đang thổi cơm bằng chiếc bếp nấu dầu hôi ở một góc nhà. D́ nói:

    "Trưa ni ăn cơm có đu đủ kho nghe bây. Dưới Thủy Dương vừa mang lên, của cậu mợ Giáo gửi cho đó."

    Thái ngơ ngác:

    "Ai lên, lên khi mô? Mới đánh nhau mà."

    "Th́ nó lên rồi bị kẹt ở Mù U. Nó phóng xe như bay tới đây, ngớt súng là về liền."

    Tôi hiểu d́ Vạn nói nó đây là ai rồi. Chắc con trai của cậu Giáo.

    Má tôi nói:

    "Đừng có mở cửa nghe. Có nhiều nhà người ta về rồi. Mở cửa sợ Việt cộng biết."

    Trưa đó, chúng tôi đang ăn cơm th́ nghe một tiếng nổ như sét trên đầu. Cả nhà lại vất hết bưng đầu chui vào hầm. Lại đánh nhau chăng? Nhưng chỉ có một tiếng nổ lớn rồi thôi. Hai cánh cửa sổ đang đóng bật ra, thêm một ít ngói trụt để lộ những mảnh da trời màu ch́. Mấy tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới biết là một toán lính Mỹ đi ngang gần đồn An Cựu, ngồi nghỉ chân tại bên đường, kiểm lại thấy mất một cây súng. Vậy là họ kéo vào một căn nhà lầu đẹp nhất bỏ trống, đặt ḿn giật nổ cho hả giận.

    Trở về ngôi nhà cũ

    Nhà ở đằng trước đă trở về. Trước Tết, tôi thấy nhà này đông lắm, con cháu ra vô đầy sân. Khi ba tôi mất, ông chủ nhà cũng có qua thăm viếng nữa. Vậy mà bây giờ chỉ có hai người con trai trở về. Họ mặc quần áo đại tang và đội mũ trắng trên đầu.

    Tôi biết được họ về là nhờ nghe được tiếng khóc. Một buổi xế trưa, khi vừa chui ra khỏi miệng hầm để giúp d́ Vạn lấy nước vo gạo, tôi bỗng nghe tiếng khóc ai oán ở nhà trước mặt ngơ. D́ Vạn khoát tay:

    “Im, ai khóc mà dễ sợ rứa. Ai khóc như ma khóc rứa hề.”

    Tôi nói:

    “Con nghe chừng như tiếng đàn ông.”

    Thái ḅ ra:

    “Tiếng khóc bên nhà trước ḿnh, h́nh như nhà bác Năm th́ phải chị hỉ!”

    “Chắc vậy.”

    “Để em ra sân nghe thử coi.”

    Thái thoát ra sân. Tôi vội vă chạy theo nó. Đúng tiếng khóc ở nhà trước ngơ thật. Ngôi mộ trước sân ai đă thắp hương, làn khói mỏng manh bay là là sát mặt đất rồi tan loăng rất mau. Thái đứng trước cây dừa nh́n vào. Một cái đầu rồi hai cái đầu ló ra. Hai người con trai lớn của gia đ́nh này. Mặt mũi đỏ hoe và mắt chưa ráo lệ. Thái hỏi thăm:

    “Mấy anh về rồi đó à?”

    “Không, tụi tui về rồi đi liền. Về coi nhà cửa ra răng.”

    Thái chỉ ngôi mộ:

    “Mộ bác gái đấy phải không? Hôm nớ mà chôn được, kể bác gái cũng có phước lắm.”

    “Mạ tui chết ngay tại nhà mà. C̣n con em tui chưa chết, v́ chưa chết mới mang họa.”

    “Ủa, chắc cô đă bị thương nặng lắm.”

    “Nó cũng chết rồi.”

    Người em đưa tay lên trời, chỉ về phía thành phố đang bốc khói:

    “Tui thề không đội trời chung với chúng nó. Anh thử coi, con em gái tui bị thương sáng đầu tiên, nhà cháy. Ba tui với em tui chở nó đi nhà thương. Khi nớ mô đă biết Việt cộng chiếm hết thành phố. Rơ ràng là Mỹ với Việt cộng bắn nhau rồi nhà tui cháy. Đạn trúng mạ tui không phải B40 mà là đạn của Mỹ ở ngoài đường bắn vô. Mạ tui chết v́ đạn Mỹ chớ không phải của Việt cộng. Rồi ba tui chở em tui, chị gái tui cũng đi theo, đi giữa đường bị trúng bom đạn chi đó chết luôn. Chôn ngoài trường Kiểu mẫu. Trời ơi, tụi tui tới nơi chỉ c̣n thấy mấy cái thẻ kiểm tra và cái b́nh thủy đựng nước sôi đă nguội ngắt đặt bên mấy ngôi mộ vùi nông.”

    “Mấy anh t́m ra mộ bác rồi?”

    Cả hai người cùng sụt sùi. Họ chùi nước mắt:

    “Mấy ngày trước lận. Tui nghe họ chỉ chạy ra tới nơi tưởng chết. Rồi tui về đây núp đạn đầu tiên hết. Trong xóm mô có ai. Rứa mà ghê quá, một quả bom chi đó không biết nữa rơi sụp mái nhà, chui tọt vào miệng hầm, cái đầu chổng ngược như một mũi tên, mà nó không nổ. Anh em tui nhắm mắt chờ nó nổ, nó không nổ. Về sau chạy ra được khỏi hầm. Chừ trở về nó vẫn c̣n mà chưa nổ. Đi tản cư tui cứ lo nó nổ th́ tan tành sự nghiệp.”

    Tôi sợ tái người. Té ra mấy ngày nay trở về, chúng tôi sống bên một ngôi nhà chứa một đầu bom lớn. Nếu nó nổ, bên nhà chúng tôi không khỏi bị họa lây.

    “Bây giờ mấy anh đi mô?” Thái hỏi.

    “Chừ tụi tui về Phù Lương. Ở đây sợ lắm.”

    Hai người con trai sửa soạn ít thứ cần dùng, ra thắp nhang thêm nơi mộ người mẹ rồi chào chúng tôi, đi ra đường. Thái chạy theo hỏi:

    “Mấy anh đi bộ.”

    “Không, xuống khỏi Mù U có xe Lam rồi. Xe lên tới rồi.”

    Tôi mừng như bắt được vàng:

    “Thế hả. Anh làm ơn cho hỏi, xe có qua Thanh Lam không.”

    Tôi sực nhớ tới một nơi mà tôi có thể nhờ cậy được. Ở Thanh Lam có một cơ sở nhỏ, chi nhánh của nơi tôi làm việc. Nếu có xe Lam, tôi sẽ đi xuống đó để nhờ họ giúp đỡ trở lại Sài G̣n. Một trong hai người vừa đi vừa trả lời tôi:

    “Có, có.”

    Tôi chạy một mạch vào nhà. Má tôi hỏi ai khóc đó. Tôi không trả lời câu hỏi của má tôi mà tíu tít khoe:

    “Con sắp đi Sài G̣n được rồi.”

    “Hí. Mi đi Sài G̣n.”

    “Đường đi về Thanh Lam được rồi. Con sẽ về đó xin phương tiện về Sài G̣n.”

    Má tôi chưng hửng:

    “Thiệt không? Tao không tin được.”

    Tôi kể chuyện hai anh em con trai nhà đằng trước ngơ cho má tôi nghe. Má tôi hiểu ra và mừng rỡ. Miễn là thoát được vô với chồng con. Tôi bỗng tím lịm người. Chồng con tôi ở Sài G̣n liệu có c̣n yên ổn không? Sài G̣n cũng đánh nhau, cũng chạy loạn, cũng chết chóc như Huế. Các con tôi. Các con có đợi má trở về? Nước mắt tôi bỗng chảy gịng gịng. Má tôi nạt:

    “Nghĩ tầm bậy. Chắc không can chi mô.”

    Câu nói của má tôi vẫn không an ủi tôi được chút nào hết. Nếu gia đ́nh tôi ở Sài G̣n có chuyện ǵ, thà tôi chết ở đây với Huế. Nhưng sợ má tôi phiền muộn thêm, tôi vội chùi nước mắt.

    Buổi chiều hôm đó, Thái đưa tôi về Mù U để chờ xe Lam. Nhưng xe Lam không có.



    Hue 1968 - US Marines Approaching Movie Theater Displays by manhhai, on Flickr
    17 Feb 1968, Hue, South Vietnam --- An ironic combination of fact and fiction is captured in this scene of U.S. Marines approaching a one-story tall cardboard figure of a Western gunfighter. The figure was displayed outside a movie theater in Hue, where Allied Forces fought Viet Cong and North Vietnamese troops.


    Vietnam War - Hue 1968 - Marine Driving on a Motorcycle by manhhai, on Flickr
    06 Feb 1968, Hue, Vietnam --- 2/6/1968-Hue, Vietnam- Picture shows a US Marine driving on a motorcycle out of a town that was under attack by the Vietcong.


    Huế 1968 - Bà già Huế mời cơm hai người lính Mỹ trong trận chiến Tết Mậu Thân - Photo by Kyoichi Sawada by manhhai, on Flickr



    Tôi lại nghe phía cầu Bực bị giựt ḿn, xe cộ không đi lại được. Nhưng đến xế chiều, nhiều đoàn xe Mỹ chạy lên. Rồi nhiều đoàn xe Mỹ chạy về. Cứ mỗi đoàn xe chạy lên, họ chở theo một ít gia đ́nh về hồi cư, đoàn xe trở xuống họ cho thêm vài gia đ́nh đi tản cư. Vẫn cứ cảnh người đi người về, không ai c̣n biết được ở chỗ nào yên thân hơn chỗ nào nữa. Người ta cứ chạy, c̣n chạy được là c̣n biết ḿnh chưa chết.

    Xế chiều hôm đó, Túc lên thăm. Túc cho biết là đường quốc lộ một ban ngày yên lắm v́ có Mỹ gác. Ban đêm, Mỹ rút về, Việt cộng từ trong núi tràn ra và đi lục soát từng nhà, bắt thanh niên lên núi theo họ.


    Mai tiếp ....

  8. #258
    tran truong
    Khách

    Giải Khăn Sô Cho Huế

    Tối hôm đó Thái bàn với tôi, ngày mai, hai chị em đi bộ về Thủy Dương rồi mượn xe của Túc đi về Thanh Lam. Đêm đó, tôi không tài nào chợp mắt được.

    Ḷng tôi nôn nao một cách khó tả. Lúc này tôi mới thấy ḷng con người ích kỷ nhỏ nhen hết sức. Giữa sự chết chóc đầy rẫy, v́ một chút hy vọng chưa đâu vào đâu, tôi đă vui sướng một ḿnh.
    Má ơi, má. Nhiều lúc, giữa tiếng đại bác câu ́nh ́nh trong đêm, tôi thoáng nghe mơ hồ như có tiếng con trẻ, trong kư ức bật ra hay trong sự nhớ thương vọ̣ng tới.

    Trận đánh đến bao giờ mới tàn đây. Và thành phố đến hôm nay nữa có bao nhiêu xác chết. Nằm im một chỗ trong bóng tối, dưới hầm sâu, tôi không có thể h́nh dung ra sự đổ nát, tang thương của thành phố.
    Chừng đó tiếng súng, chừng đó đại bác, chừng đó bom cũng đă đủ rách nát cả thành phố nhỏ bé, quê hương thân yêu của tôi rồi. Tôi ngạc nhiên khi nghĩ rằng tại sao tất cả súng đạn, từ Mỹ, từ Nga, từ Tiệp Khắc bỗng nằm trên tay người Bắc Việt, người Nam Việt, đổ xuống một thành phố nhỏ bé, hiền lành như thành phố Huế. Bom đạn từ những nước nào thật xa xôi, với danh nghĩa giúp đỡ miền Nam, viện trợ miền Bắc, bỗng dưng cùng tập trung vào một thành phố nhỏ, banh thịt trẻ thơ, cắt ĺa tay chân, mặt mũi bao người.

    H́nh ảnh những khúc tay khúc chân tôi nh́n thấy dọc đường. Những cảnh ái ân vụng trộm giữa tiếng súng, trong một góc khu giáo đường trang nghiêm đầy rẫy tiếng kêu, tiếng khóc. H́nh ảnh một xác hài nhi bọc trong áo bà mẹ, ôi sự sống, dù sao sự sống vẫn phải tiếp tục. Như tôi c̣n thở được trong đêm kinh hoàng này đây. Không, không phải chỉ một ḿnh Huế, mà h́nh như trên bao nhiêu tỉnh khác, cả Sài G̣n, nơi các con tôi, nơi chồng tôi đang sống cũng có những h́nh ảnh này nữa. Cũng bom đạn, nhà cháy, tan nát, chết chóc. Nhưng tôi bỗng nhiên cứ tin chắc rằng không có nơi nào chịu cảnh khổ cùng cực như Huế, nơi chúng tôi đang chịu.


    Trời bên ngoài h́nh như mưa nặng hạt hơn. Nhưng tiếng mưa đang cố dệt bức màn êm ái mát lạnh cũng đang bị rách nát v́ hỏa châu, v́ súng đạn, v́ máu lệ nữa. Tôi nghĩ tới những ngôi mộ mới lấp đất vội vàng, đêm nay mưa sẽ thấm xuống, mưa sẽ mở mắt cho người chết, hút thêm chút sinh lực của sự sống chưa kịp tan trong thân thể bởi cái chết quá bất ngờ. Mưa cũng sẽ rửa tai cho họ nghe nữa, tiếng thở của đất, tiếng rung chuyển của bom đạn.
    Đêm nay, c̣n bao nhiêu xác chết chưa kịp chôn, chưa ai vuốt mắt, hoặc nằm sấp, hoặc nằm ngửa. Bao đôi mắt sẽ mở trợn trừng với một h́nh ảnh nào đó c̣n dán chặt trên mặt đất, hoặc c̣n trong ṿm trời cao xám xịt. Thành phố có bao nhiêu con đường hoặc bao nhiêu nhánh rẽ như tay chân, những cánh tay đó đă chết rách bung, không c̣n đủ sức để vỗ về người t́m tới nữa.

    Và trong đêm nay, đoàn người gồm các cha, các sư, dân chúng, bồng bế nhau cầm cờ trắng chạy xuôi chạy ngược đă tản mát nơi nào? Có bao nhiêu người ở lại dọc đường, có bao nhiêu khúc chân khúc tay chới với? Vậy mà tôi c̣n nằm đây. Lạy Phật. Lạy Chúa. Xin Phật, xin Chúa phù hộ tôi. Tôi chợt hổ thẹn quá. V́ đă bao năm rồi, có bao giờ tôi nghĩ tới Phật, tới Chúa đâu. Nhưng vô ích, đừng có hy vọng hăo huyền nữa. Tại sao Phật Chúa chỉ cứu một ḿnh tôi, chỉ thương xót tôi mà không thương xót bao người khác?

    Sáng ra, khi thức dậy, tôi bỗng cảm thấy một sự yên tĩnh đến rợn người. Tôi ṃ mẫm trong bóng tối. Ngọn đèn dầu vặn tim thật nhỏ đặt trong góc hầm đă khô dầu tắt từ lúc nào. Tôi đụng phải những cánh tay, những bàn chân lạnh ngắt. Sao thế nầy? Không c̣n ai thở nữa hết sao? Không, tôi vừa đụng phải ngực của ai đó c̣n nóng hổi.

    “Sáng rồi, dậy.”

    Tôi đánh thức mọi người. Má tôi mệt nhọc:

    “Tối qua không ngủ được, sáng ra ngủ chẳng biết trời trăng chi hết.”

    Th́ ra cả đêm qua ai cũng thức. Thái vùng dậy chui ra khỏi hầm và mở cửa sổ. Có chút ánh sáng tràn vào làm mờ nhạt bớt bóng tối nhưng chúng tôi vẫn chưa nh́n ra được nhau. Khi ra khỏi hầm rồi, tôi vẫn c̣n cảm thấy bị bọc trong một sự im lặng dầy đặc. Hết đánh nhau rồi sao? Không có tiếng súng nhỏ, không có cả súng lớn nữa. Thái ra dấu cho tôi dừng lại ở cửa rồi chạy ra đường. Một lát nó chạy vào:

    “Chị, người ta lại đi tản cư. Răng lạ rứa hè?”

    “Đi mô?”

    “Họ đi về phía dưới, chắc về chợ Mai, Phù Lương.”

    Tôi reo lên:

    “Ḿnh về dưới Hương Thủy đi.”

    “Chị t́m về sở?”

    “Ừ.”

    Tôi ngỏ ư ấy với má tôi. Lúc đầu bà cản, nhưng về sau, thấy nhiều người đi về lối Phù Lương quá, bà bằng ḷng để cho chúng tôi đi. Ra đến ngơ, má tôi c̣n dặn:

    “Coi đường đi không được th́ trở lui nghe con.”

    Tôi phải hứa đi hứa lại cho má tôi yên ḷng. Chúng tôi theo đoàn người tản cư đi bộ về Thủy Dương. Về tới chợ, chúng tôi ghé vào nhà cậu Giáo mượn xe gắn máy. Nhưng xe hết xăng, không t́m ra xăng ở đâu để mua nữa. Chúng tôi đành phải tiếp tục đi bộ. Đi được một đoạn, chúng tôi theo kịp đoàn người phía trước. Cũng có vài gánh hàng từ dưới đi lên, những gánh rau xà lát xanh non.
    Th́ ra ở đây, chợ búa vẫn họp như thường. Các vùng này, chỉ có ban đêm, Việt cộng mới tràn về bắt bớ, chớ ban ngày hoàn toàn an ninh. Tuy vậy, nh́n vào những thôn xóm, tôi vẫn cảm thấy như có một sự ǵ ghê gớm, sẵn sàng bùng nổ.

    Thêm một đoạn đường nữa, ngang qua cánh đồng rộng, chúng tôi phải đi sát vào bờ đường để nhường lối cho một đoàn xe đang hối hả chạy ngược trở lên. Trên xe đầy lính Mỹ. Thái kéo tay tôi rạt xuống sát bờ ruộng bỏ không, xấp nước. Đoàn xe này chắc lên Huế tiếp viện.
    Chúng tôi đang ở giữa đoàn xe th́ một tiếng nổ lớn, như tiếng súng cối khai hỏa, rồi th́ những tràng súng lớn nhỏ bắn từ trong những cḥm cây xanh phía sau ruộng ra như mưa. Đoàn xe đi trước vừa bắn trả vừa tiếp tục chạy. Đoàn xe sau dừng lại và tất cả binh sĩ Mỹ đều xuống xe, tràn xuống hai bên bờ ruộng. Chúng tôi vội lăn xuống ruộng, một nửa người dầm dưới nước lạnh ngắt, đầu kê trên một bờ cỏ ướt. Thái luôn miệng giục tôi:

    “Cúi đầu thiệt sát chị. Cứ nằm yên, đừng có chạy.”

    Tiếng súng hai bên bắn trả nhau như mưa băng qua đầu chúng tôi. Chúng tôi đang ở giữa hai lằn đạn. Tôi vừa lo sợ vừa hối hận quá. Khi ra đi, má tôi đă can ngăn vậy mà tôi không nghe. Bây giờ lỡ chết ở đây thiệt là lăng nhách. Nhưng may quá, tiếng súng phía trong những lùm cây xa dần rồi im hẳn. Họ đă rút. Không ai bị thương hết, đoàn xe Mỹ chỉ bị hư hại nhẹ và năm phút sau họ đă tiếp tục lên đường được.

    Chờ cho đoàn xe Mỹ đi khuất thật xa, chúng tôi mới leo lên đường cái. Phía bờ ruộng bên kia cũng có nhiều người lóp ngóp ḅ dậy. Họ cũng là những người đi tản cư. Đi được một đoạn, chúng tôi gặp một người đàn bà gánh xà lát đang bị thương nặng bên cạnh gánh rau của bà rơi vương văi. Chúng tôi dừng lại xem xét vết thương của bà và chưa biết làm thế nào th́ may quá, một chiếc xe Lam từ dưới Phù Lương đi lên. Người tài xế thấy đám đông nhảy xuống hỏi:

    “Mới đụng độ khúc ni phải khôn?”

    “Vừa mới tức th́ ń. Xe Mỹ ngang qua là họ bắn.”

    “Xe chạy qua được hết rồi há? Bà ni bị thương răng đây?”

    “Nặng lắm. Bác làm phước chở bà ta xuống Phú Bài, nằm nhà thương Mỹ may ra sống được.”

    “Th́ tui cũng đoán rứa, tui đang núp dưới nớ, nghe trên ni yên tiếng súng mới lái xe lên coi bà con có ai bị chi không. Trời, t́nh cảnh ni ḿnh không thương ḿnh th́ ai thương.”

    Bác tài cùng vài người khác khiêng người đàn bà bị thương lên xe. Bác nói:

    “Coi ai đi được th́ cứ quá giang tui chở. Không lấy tiền nong chi mô. Ngồi chật chật một chút.”

    Thái nói:

    “Cho chúng tôi tới đằng nớ. Nơi Thanh Lam đó.”

    “Lên đi.”

    Chiếc xe chạy băng băng. Tôi nh́n lui lại chỗ vừa giao chiến, không c̣n dấu vết ǵ, ngoài gánh rau xà lát rơi vung văi. Những đồng ruộng vẫn loang loáng nước và những cḥm cây xa vẫn im ĺm ôm kín niềm bí mật.
    Người tài xế kể chuyện oang oang, tiếng ông lẫn trong tiếng máy xe nổ nghe khi được khi mất. Đại để ông cho biết là từ hôm xảy ra đánh nhau, ông đă chở bao nhiêu người bị thương về Phú Bài rồi. Giữa đường có nhiều người chịu không nổi đau đớn đă chết, ông chở về làng, ông đem chôn luôn.

    Chúng tôi phải hét to rát cả cổ, người tài xế mới nghe và dừng xe lại, thả chúng tôi xuống Thanh Lam. Tôi vào sở một ḿnh. Lúc đứng trong chiếc pḥng rộng, tôi mới thấy người tôi ướt lạnh, nước không phải chỉ ứ ra từ quần áo mà như thoát ra từ trong da thịt tôi nữa. Người tôi cứng lại như một khối nước đá.

    Người coi chi nhánh nhỏ của sở chạy ra:

    “Trời ơi. Mấy hôm ni quay quắt không biết mần răng mà t́m chị. Mần răng mà chị về đây được. Ngồi đây, ngồi xuống đây...”

    Tôi không đủ sức để ngồi xuống nữa. Tay chân tôi đi đâu mất trọi. Chỉ c̣n khối óc chưa đông đặc, ra lệnh cho tôi phát thành lời...

    “Anh V, anh biết tin tức chi ở Sài G̣n?”

    “À, chị lo cho anh với các cháu há? Không răng, không răng. Mới túi qua trong nớ gọi ra hỏi tin chị. Ngày mô anh cũng tới sở đợi tin chị. Chị yên trí đi.”

    “Anh nghe chi về gia đ́nh tôi không, các con tôi...”

    “Các cháu vẫn khỏe mà. Trong đó đánh nhau cũng lớn nhưng yên rồi. Chỗ chị ở trong nớ b́nh an vô sự. Tôi bảo đảm với chị đấy. Đừng lo.”

    Một hơi ấm bỗng bừng lên từ ngực và lúc này h́nh như quả tim tôi vừa đập vừa toát ra lửa, ra không khí nóng ấm. Làn khí ấm áp đó chạy rất nhanh truyền qua mạch máu, tôi đă chợt nhận ra tay chân của ḿnh. Tôi mấp máy đôi môi:

    “Anh nói thật?”

    “Tôi cam đoan với chị là gia đ́nh trong nớ yên ổn hết. Ngày bữa qua trong nớ gọi ra, bắt đi t́m chị mà. Mà mần răng chị xuống dưới ni được.”

    “Tui đi bộ.”

    “Chừ chị ở luôn dưới ni để tui t́m cách cho chị vô Sài G̣n.”

    Tôi nhớ Thái đang đứng đợi tôi ngoài đường. C̣n má tôi, em tôi, anh chị và các cháu tôi nữa. Không, tôi phải ở lại, tôi không thể bỏ đi một ḿnh lúc này được. Mà chắc ǵ ở lại đây tôi đă yên ổn t́m được phương tiện đi. Ban đêm, ở những đồn, những sở vẫn là những mục tiêu, những miếng mồi ngon của họ, ở đây cũng nguy hiểm lắm. Tôi nói:

    “Mai tôi trở lại. Bây giờ tôi phải lên An Cựu.”

    Chần chờ một lát để nghe chuyện Sài G̣n, tôi trở ra, mang theo một lít xăng để khi tới Thủy Dương mượn xe gắn máy mà về Huế cho sớm. Thái vẫn đứng chờ tôi ở một cái quán nhỏ xế cửa sở. Hai chị em lại đi bộ đến Thủy Dương.

    May dọc đường không có chuyện ǵ xảy ra. Tới Thủy Dương, hai chị em tôi vào cậu Giáo. Mợ Giáo đă để sẵn cho chúng tôi một ít rau váng, khoai lang và ít thịt heo. Đổ xăng vào xe, chúng tôi chở thức ăn về An Cựu.

    Tôi kể chuyện về Thanh Lam cho cả nhà nghe. Khi biết tin mấy đứa cháu ngoại không hề hấn ǵ, má tôi mừng đến phát khóc. Nhưng bà vừa mừng cho cháu ngoại đến phát khóc th́ sau đó lại khổ sở lo lắng khóc cho đám cháu nội c̣n kẹt trên Từ Đàm.

    Buổi xế chiều hôm đó, bỗng ở căn nhà bỏ không bên kia đường có hai người đàn ông lạ mặt tới ở. Trông họ xanh xao ốm yếu lắm. Họ lần ṃ sang nhà chúng tôi và xin ở tạm. Má tôi vừa trông thấy họ đi vào ngơ đă kéo Thái dấu tuốt vào trong góc hầm. Hai người đàn ông vừa nói chuyện vừa nh́n quanh nhà bằng con mắt láo liên. Họ cố sửa giọng nói, tôi không đoán được giọng nói b́nh thường của họ như thế nào, nhưng những lời họ nói h́nh như chưa được quen miệng lắm:

    “Thưa bác, chúng cháu chạy loạn về đây, bác cho chúng cháu ở tạm ít bữa.”

    Má tôi vội vàng nói lấp:

    “Dạ nhà chỉ có mấy mạ con. Dạ ở dưới ni ban ngày lính quốc gia kiểm soát, ban đêm mấy ông giải phóng về kiểm soát. Nhà lại trống trải, xin mấy anh t́m chỗ khác yên hơn.”

    “Sao bác không chạy mà về làm chi?”

    Má tôi giả vờ chùi mắt, chỉ vào bàn thờ ba tôi:

    “Dạ, ba cháu mới mất xong, mạ con tui cũng không muốn đi mô nữa hết, thôi th́ phó mặc cho số mạng.”

    “Chị đây là con bác?”

    “Dạ.”

    “Chắc chị làm công chức?”

    “Dạ không. Vợ chồng nó thợ may. Nó về chịu tang, c̣n chồng nó kẹt lại ở trong Quảng.”

    “Chị may đồ đầm hay đồ Việt chị?”

    Một tên vừa cười cười vừa hỏi tôi. Tôi trả lời bừa:

    “Dạ đầm Việt chi mô. May mấy đồ bà ba cho bà con lối xóm mà mấy ông.”

    Một người chỉ một căn nhà phía bên kia đường:

    “Tụi cháu ở bên kia bác. Có chuyện chi cần bác sang gọi chúng cháu sẽ sang đỡ đạn cho bác.”

    “Dạ, cám ơn mấy anh.”

    Hai người đàn ông đi vào nhà, nh́n quanh quất và tiến dần đến miệng hầm. Má tôi vội chạy theo:

    “Dạ, các anh ngồi chơi uống nước. Dạ trong hầm nớ hôi hám lắm. Mấy ngày không ra ngoài được, mấy đứa cháu nhỏ ỉa đái hôi ŕnh. Mấy anh ngồi chơi.”

    Nhưng hai người đàn ông lạ mặt chào chúng tôi rồi đi thẳng ra ngơ. Họ đi vào căn nhà trước mặt. Đến chiều tối chúng tôi không c̣n thấy họ đâu nữa.

    Đêm đến, tiếng súng miệt Phủ Cam, Bến Ngự nổ ṛn ră. Đại bác câu về phía đó liên tiếp. Chúng tôi nằm trong hầm, nghe tiếng đại bác dội lại muốn ù tai. Rồi hai ba tiếng nổ ầm ầm như căn nhà đă bị văng đi đâu hết rồi. Gạch ngói rơi trên nóc hầm rào rào. Chúng tôi nằm sát vào nhau, quờ quạng t́m nhau, lúc nào cũng có cảm tưởng như một người thân yêu nữa sẵn sàng bỏ đi trong đêm tối.





    Mậu Thân tan tác phân ly .... biết em phương nào ? Sống , chết .... mất còn .... ???


    Mai tiếp ....

  9. #259
    tran truong
    Khách

    Giải Khăn Sô Cho Huế

    Sáng ra, chúng tôi mới biết là những cánh cửa sổ được Thái đóng chặt lại, cột bằng giây thép cũng đă bị văng ra, rơi sau hè nhà. Căn nhà lại sụt ngói, lụi tường thêm một ít nữa. Chúng tôi ra vườn quan sát chỗ nổ. Hai ba căn nhà cách căn nhà phía sau hè bị đại bác câu trúng. Chúng tôi phải đi ṿng ra đường, vào hẻm mới tới căn nhà bị đạn.

    Căn nhà đă hoàn toàn sụp đổ, một lỗ hổng lớn ngay giữa nền nhà. Cây dứa trước sân bị cắt đứt và mái nhà bên cạnh bị mấy tấm tôn quạt sang, hư hại một phần ba mái nhà. Không ai chết, chỉ có vài người bị thương nhẹ v́ người chủ nhà này đào hầm ở ngoài sân.

    Nhà bên cạnh có một ông già ở lại giữ nhà, con cháu đă đi chạy loạn hết. Ông già quá, chắc đến trên tám chục, không đi được nữa. Ông chả đào hầm hố, cứ ngủ trên tấm phản gỗ nhưng chưa hề hấn ǵ. Thái và tôi vào căn nhà của ông cụ , coi mảnh đạn văng qua phá nát một vách tường phía mặt. Ông cụ hấp hem nh́n chúng tôi:

    “Răng về rồi hí? Khôn chạy ở đây trúng đạn hết răng?”

    Tôi hỏi:

    “Thưa ôn, trong nhà đi mô hết rồi?”

    “Xuống âm phủ rồi chớ đi mô. Tổ cha nó, nói đừng có chạy, cả nhà chạy hết, nghe chết mô ở gần trường Kiểu mẫu hết rồi. Tui c̣n một ḿnh, già mà không chết, con cháu chết hết ở với ai.”

    Ông đưa mắt nh́n lên bàn thờ, b́nh hoa vạn thọ đă héo tàn, mấy bát nhang bỏ không và chén nước trà ... đâu từ tối mồng một đă gần cạn , đọng một lớp bụi dầy trên màu vàng đặc quánh đă sắp hóa đỏ. Ông già ngồi trên phản gỗ, cứ đưa tay dụi mắt hoài, tôi không biết ông bị bụi vào mắt hay đang khóc. Ông ngồi quay lưng ra phía chúng tôi lầm bầm hoài ǵ đó. Căn nhà điêu tàn hoang vắng rợn người. Ông già như một bóng người chết khô chết héo. Trên bàn thờ, bức ảnh một cụ già móm mém cười, hai mắt đă mất hết màu thiếc ảnh, trắng dă như mắt ma... Thái và tôi không ai bảo ai, đều thụt lùi đi ra cửa.



    U1583572-11 by manhhai, on Flickr
    February 1968, Hue, South Vietnam --- Looking down from the Hue Citadel, this is the war-torn scene in the once beautiful city where about 70 percent of the houses have been destroyed during a continuous battle for control of South Vietnam's second most important city.



    Đám đông vẫn c̣n bu đầy trong ngoài căn nhà bị trúng đại bác. Th́ ra xóm này dân chúng đă trở về khá đông, nhưng chả ai dám chường mặt ra ngoài, họ đào hầm và sống lẩn lút bên trong. Thái nói là có những gia đ́nh ở chỗ khác tản cư tới đây, rồi ở luôn không đi nữa.

    Đám đông đang bàn tán , bỗng chạy ào ra đường. Một đám đông khác đang tụ tập đầu hẻm. Thái kéo tôi chạy ra. Đám đông này đang bu quanh một cô gái nhỏ bị thương nặng. Cô gái được đặt nằm trên tấm bố cũ, trải trên lề cỏ ướt.

    Theo người ta bàn tán, nhà cô nhỏ này ở trên đường rầy. Tảng sáng, một trái đại bác đă rơi trúng sau vườn và mảnh đạn ghim vào người cô. Một mảnh đạn đă trúng bụng và đám ruột ḷng tḥng chảy ra ngoài. Cả người cô được bao kín bằng tấm mền cũ nhưng máu thấm ra ướt mèm tưởng vắt thành giọt được. Mặt cô bé tái xanh, hai mắt mở lờ đờ. Người cha ngồi xổm bên đứa con gái vừa khóc vừa lạy van:

    “Lạy bà con cô bác, làm ơn kiếm xe dùm chở con tui xuống Phú Bài cho bệnh viện Mỹ nó cứu.”

    Nhưng đường sá chẳng có chiếc xe nào, trừ những đoàn người tản cư không biết từ mạn nào, kéo về và cứ đi thẳng theo quốc lộ 1. Thái cúi xuống xem xét vết thương của cô gái rồi lắc đầu. Một người nói:

    “Cứu liền may ra kịp.”

    Nhưng cô gái vẫn nằm chờ bên đường cho tới trưa, cố nhướng đôi mắt đă lạc thần lên nh́n người cha, nấc lên một tiếng rồi trợn ngược mắt.

    Người cha khóc ầm ĩ, ôm lấy xác con và cứ thế, ông chạy miết dọc theo quốc lộ, vừa chạy vừa la khóc thê thảm. Mấy người lính gác đồn Trường Bia chạy ra ngăn ông lại, nhưng không c̣n ai ngăn nổi ông nữa. Chạy được một quăng, ông ta ngồi lại bên lề đường đợi chờ từng phút hơi thở con gái yếu dần. Thái nói:

    “Thôi vô nhà đi chị.”

    Chúng tôi đi trở về, dọc đường, Thái hỏi một đoàn người chạy lại:

    “Ở mô về đó bác?”

    “Từ Đàm.”

    “Bác ở mô?”

    “Bến Ngự.”

    Thái reo lên và cầm chặt tay tôi kéo chạy. Vào tới nhà. Thái la lớn:

    “Trên Từ Đàm tản cư về. Có người về.”

    Nhưng khi má tôi chạy ra được th́ đoàn người đă đi xa. Những đoàn người khác tiếp tục kéo về. Họ ở những vùng khác. Bên phố, trên Bến Ngự, trên ga, Phú Cam. Một người ở Bến Ngự cho biết là trên Từ Đàm kẹt lắm, bộ chỉ huy Việt cộng vẫn đóng ở đó. Và quân Mỹ đă dàn tới bên kia cầu Bến Ngự.

    Má tôi lại thất vọng. Buổi trưa, dù có đồ ăn ngon dưới Thủy Dương gửi lên, không ai cảm thấy ngon. H́nh ảnh cô bé với đống ruột ḷng tḥng chờ chết từng giây từng phút bên lề đường làm tôi xốn xang.



    42-15436496 by manhhai, on Flickr
    February 1968, Hue, Vietnam .... Tải thương về từ mặt trận



    Khi chúng tôi ăn cơm xong, ở ngoài đường lại thấy từng tốp lính từ phía quốc lộ đi vào thành phố, qua An Cựu. Họ mang ba lô, súng ống, người này cách người kia chừng nửa thước, và hoàn toàn im lặng. Họ không ngó ngang hai bên nhà cửa đường phố. Thái nhận ra là lính Biệt động quân, rồi một đoàn nữa là lính Nhảy dù, rồi Thủy quân lục chiến. Dù má tôi ngăn mấy , hắn cũng chạy ra đường, giơ tay vẫy. Tôi cũng chạy theo Thái.
    Ở một vài sân nhà khác, cũng có nhiều người ra đứng giơ tay vẫy và hỏi thăm. Những người lính này như ở xa đến, người họ c̣n đầy bụi và có vẻ lo lắng mệt mỏi. Họ mỉm cười trả lời những bàn tay vẫy, những lời thăm hỏi. Thái ra sát đường:

    “Anh ơi, anh ở mô tới đó?”

    “Tụi này ở Sè g̣ng mới ra.”

    Một người vừa trả lời vừa đi. Người đi tiếp theo tḥ tay vào ba lô lấy ra hai hộp nhỏ liệng vào chân Thái:

    “Biếu bạn. Mừng bạn c̣n sống.”

    Người đi tiếp theo lôi ra một gói thuốc, người tiếp theo nữa lại liệng thêm ít đồ hộp. Tôi chạy theo trả lại:

    “Các anh cầm đi mà ăn, c̣n đánh nhau nhiều mà.”

    “Thôi cô cầm đi. Chúng tôi biết có sống mà ăn không! Đi quyết tử mà.”

    Vài nụ cười, vài cái nhún vai. Tôi đứng sững người nh́n theo. Mấy hôm nay có nhiều tin tung ra: lính tới vùng nào an ninh là vơ vét, chở đồ của dân bỏ lại chạy loạn. Người ta hối hả trở về để giữ của, và v́ sự vội vàng mà nhiều người chết oan. Nhưng đoàn quân này sao khác hẳn. Một thỏi kẹo nữa văng tới chân tôi. Tôi không c̣n đủ sức cúi xuống nhặt nữa.

    “Mừng các bạn c̣n sống.”

    Mấy người lính đi sau tiếp tục la hét. Những bàn tay vẫy đưa trả lại, những nụ cười chào nhau tiếp theo. Đoàn lính đi qua dần, tôi đă cúi xuống được, cầm chặt thỏi sô cô la trong tay và bóp vụn nát lúc nào không biết nữa. Chưa bao giờ tôi nh́n thấy những người lính dễ thương như thế. Họ là lính miền xa đến để chết ở Huế.
    Họ người Sài G̣n, người Bắc di cư, người các tỉnh miền Nam, miền Trung, miền Bắc. Họ đến để chết với Huế. Trời ơi, tôi nghĩ tới những người lính địa phương, một số đă bỏ đồn chạy về ngay từ hôm đầu, một số đợi hơi yên là xổ ra, đi vác gạo, đi vào những căn nhà bỏ không lấy đồ.

    Những món ăn béo bở Việt cộng đă khuân đi từ mấy ngày đầu xẩy ra biến loạn, những món cặn thừa c̣n lại dành cho kẻ thừa nước đục thả câu. Tôi đă thấy hai người lính khiêng chiếc xe Honda, vài người khác khiêng tủ, khiêng ghế, hoặc bọc những vật dụng lấy trong các nhà đổ nát, c̣n hôi ŕnh xác chết. Thái đă ôm mấy hộp đồ lên tay và giục tôi trở vào. Khi nghe kể chuyện, má tôi cảm động muốn khóc.

    “Tội nghiệp, lấy của họ mần chi, để họ ăn cho có sức mà đánh.”

    D́ Vạn cứ suưt soa hoài:

    “Họ tốt quá hí. Rứa mới biết là họ dễ thương ... chớ mô có như mấy thằng mắc dịch ở trong xóm, ăn cắp, thừa nước đục thả câu mà. Tụi nó lại sống nhăn mà mấy anh đó lại cực khổ dầm vào chỗ tên đạn mới tội chớ.”

    Có tiếng súng ở xa xa vọng lại rồi. Chắc lại đánh nhau. Tôi nghĩ tới những người lính vừa liệng cho chúng tôi những hộp thịt, những thỏi kẹo. Họ cười đó, nhưng lúc này đă có người ngă xuống. Huế sẽ làm ǵ cho họ trong những ngày sắp tới.
    Không, Huế cũng đă trơ xương da rồi, tan nát hết rồi. Nhưng chắc chắn Huế sẽ c̣n, dù bằng tàn lửa, bằng tro nguội, bằng xương người. Các anh sẽ có người c̣n sống c̣n trở về lại quê nhà và c̣n trở lại để giữ Huế.

    Thái đă đốt một điếu thuốc. Nó thả khói thành những ṿng tṛn, đốm lửa đầu thuốc lập ḷe khi thu nhỏ, khi bùng lớn, như nỗi hy vọng đang dần dà phấn khởi rồi thắt lại trong hồn tôi.
    Đúng lúc ấy, tôi bỗng bàng hoàng v́ có tiếng động ngoài sân. Rồi có tiếng gọi:

    “Má ơi.”

    Giọng con gái. Má tôi ngồi rột dậy. Cả nhà túa ra miệng hầm. Má ơi, má ơi, má ơi, má ơi... Tiếng gọi má ơi không dứt. Cánh cửa mở tung. Chiếc xe đạp rơi bịch xuống đất và Hà nhảy xổ vào nằm gọn trong ḷng má tôi: Má, má, má...

    “Con, con... Ui cha con Hà. Ba hồn bảy vía con Hà... Con về được, con về được.”

    Tôi chợt nh́n ra sân, một ông già mặc áo dài đen, đang đứng cầm ghi đông xe đạp nh́n vào nhà mà mỉm cười.

    Má tôi kêu lên:

    “Ôn Minh. Ôn về răng rứa?”

    Rồi má tôi khóc, khóc sung sướng, khóc ồn ào:

    “Ôn ơi, ôn vô đây. Ôn vô đây ôn.”

    Ông già b́nh tĩnh dựng xe đạp, vuốt lại vạt áo dài đen rồi bước lên từng bực cấp đi vào nhà. Má tôi vẫn c̣n ôm chặt cứng Hà trong tay. Ông già mà má tôi gọi là ôn Minh chỉ vào Hà:

    “Tui đem con lỏi xuống cho bác đó. Mấy hôm ni hắn đ̣i đi, hắn hành tui bất tội thân mà.”

    “Ông đem con xuống đó má.”

    Ông Minh vừa ngồi xuống ghế vừa nh́n quanh nhà:

    “May phước, nhà không bị hư hại chi nặng hết.”

    Má tôi vừa giục tôi pha nước vừa hỏi:

    “Ôn ơi, tụi c̣n ở trên ra răng ôn?”

    “Không răng. Tụi nó c̣n ở trên. Thầy Lễ thầy nóng ḷng lắm, cứ nhất định đ̣i đi xuống dưới ni t́m bác. Tui phải cản. Hai ôn con tui ngày mô cũng t́m cách đi xuống dưới ni mà đi khôn được đó chớ.”

    “Có đứa mô bị...”

    Má tôi dừng lại, mặt tái xanh chờ đợi. Ôn Minh uống một ngụm nước:

    “Không răng. À, chỉ có con Hy bị trúng một miểng đạn vô chân. Mà không răng, trên đó có mấy tên y khoa, hắn băng bó cho rồi.

    Nhờ có ông già mặc áo the đen và Hà thuật lại, tôi biết thêm rất nhiều về t́nh h́nh trên Từ Đàm. Gia đ́nh anh tôi phải bỏ sang lánh nạn bên nhà thờ cụ Phan. Xung quanh đă gần tan tành hết. Chùa Từ Đàm nơi chính diện cũng sập mái, nhà giảng th́ bị đại bác câu tới tấp, tan tành. Mấy ngày đầu, Việt cộng chiếm chùa để trú ngụ và tạm thương, nhưng về sau họ rút dần lên phía trên núi, chỉ có cắt quân canh gác và đào hầm chiến đấu.

    Ôn Minh cho biết hiện ở chùa có hàng trăm người tỵ nạn và xung quanh đó, nhiều nhà đă sập hoàn toàn. Con đường từ nhà thờ cụ Phan xuống tới cầu Bến Ngự, hai bên nhà cửa không c̣n một căn nguyên vẹn. Gia đ́nh anh tôi chạy qua hết bên nhà cụ Phan cùng với nhiều gia đ́nh và những người tỵ nạn khác. Hà chỉ vào ông già:

    “Chị biết ai đây không? Ông Vơ Thành Minh đó.”

    Thấy tôi ngơ ngác, nó nói thêm:

    “Ông là người thổi sáo bên hồ Genève phản đối chia đôi đất nước hồi 54 tề, chị.”

    Tôi nh́n ông già, ông đang bận kể chuyện cho má tôi nghe. Hà nói tiếp:

    “Ông Minh mà chị không biết há? Ông c̣n tên là Vơ Song Thiết đó.”

    Tôi hỏi nhỏ:

    “Bây giờ ông làm ǵ?”

    “Ông giữ nhà thờ cụ Phan, ông là đồng chí của cụ Phan mà chị. Mấy ngày đánh nhau, nhờ có ông mà nhiều người khỏi chết đó nghe. Vui lắm.”

    Tôi trợn mắt:

    “Mày nói vui? Trời ơi, chết như vậy mà mày nói vui sao?”

    “Ông Minh nói ở hoàn cảnh mô, ḿnh cũng cố gắng vui sống. Ông Minh có sợ chết mô. Ông đi hoài cả ngày chị. Ông đi phát gạo, đi tải thương, đi thăm các nơi...”

    Tôi nh́n kỹ ông già. Ông mặc áo the đen, quần vải trắng, đầu đội chiếc mũ bê rê đen.

    Không biết má tôi kiếm đầu ra trầu mà bà đem ra mời ông nhai trầu bỏm bẻm. Khuôn mặt ông thông minh, hiền lành. Nh́n ông, người ta dễ bắt nhạy cảm t́nh hơn là nghi kỵ, ḍ xét. Hai chiếc xe đạp vẫn c̣n ngoài sân. Mưa phùn vẫn chưa dứt và tiếng súng vẫn vọng xa xa. Má tôi lại hỏi:

    “Ôn đi ngả mô xuống đây?”

    “Hai ôn con tui đi cùng các đường. Mấy bữa ni rồi. Có bữa đi xuống quá Lầu Đua Ra lại thấy đánh nhau, bắn nhau quá phải trở về. Con Hà nó nóng ruột lắm.”

    Má tôi đưa đôi mắt đầy trách móc nh́n em gái tôi. Nó cúi đầu và hơi mỉm cười.

    Ông Minh tố thêm:

    “Biểu nó ở nhà đố nghe đi. Ôn đi là con đi với, con đi với ôn. Mấy ngày trước, hai ôn con lên núi Ngự B́nh coi đánh nhau, định t́m đường về dưới ni nữa. Gặp lúc họ đánh nhau, đại bác câu lên núi yểm trợ ầm ầm, hai ôn con lăn từ giữa lưng chừng núi lăn xuống, rồi nằm vùi nơi một hố bom. Khiếp thiệt. Rứa mà con Hà hắn thích lắm. Con ni gan nó là gan cách mạng mà.”

    Má tôi chăm chú nghe ông Minh kể, khuôn mặt lúc tái lúc vui. Bà thở ra khi nh́n Hà đang nh́n bà mà cười:

    “Mi thiệt á!”

    “Ừ, hai ôn con lên Lầu Đua Ra, lấy được đôi giày c̣n mới nguyên.”

    “Dễ sợ quá ôn hí. Cả Lầu Đua Ra toàn máu khôn à.”

    “Khỉ, rứa mà cứ đi. Con ni thiệt...”

    Có lẽ sợ má tôi lo lắng, Hà nói lơ sang chuyện khác:

    “Ôn ń, chị con đây ôn ń.”

    Tôi lại phải gật đầu chào ông Minh. Vừa gặp ông, tôi đă có cảm t́nh ngay. Nhớ những lời lẽ do người thanh niên tránh nạn về kể lại bữa trước, tôi không thấy xa lạ với ông chút nào hết.

    “Hà nó noái chuyện về chị luôn đó.”

    Tôi cười:

    “Ôn ơi, ôn đừng gọi con bằng chị nữa. Coi con như Hà rứa.”

    Ông Minh gật đầu:

    “Phải đa. Rứa cho nó dễ gọi. Tội nghiệp, con ra đây mắc kẹt phải không?”

    “Dạ.”

    “Mấy con rồi?”

    “Dạ hai.”

    “Tội nghiệp.”

    Hà chen vào:

    “Ông Minh nghệ sĩ lắm nghe chị. Ở trên Từ Đàm đánh nhau, bắn nhau rầm rầm mà ôn cứ họp thanh niên trốn trong nhà thờ cụ Phan lại đàn hát cả ngày.”

    Tôi hỏi:

    “Quân giải phóng để yên cho ôn làm ồn vậy răng?”

    “Mấy ngày đầu cơ chớ. Về sau th́ lo mà trốn cho kỹ. Ôn noái mấy anh thanh niên xuống cầu Bến Ngự đ̣i tuyệt thực phản đối chiến tranh.”

    Tôi tức cười:

    “Ôn nói chơi.”

    Hà nháy mắt ra dấu bảo tôi đừng nói nữa. Rồi nó quay sang ông Minh:

    “Ông cho chị con coi cái giấy do Mặt trận giải phóng cấp cho ông đi đường.”

    Ông cười hiền ḥa:

    “Hà, mi noái tầm bậy. Giấy đó ăn thua chi. Tao đi bên mô cũng được v́ tao có làm nô lệ cho ai mô. Tao chống hết, chiến tranh là tao chống.”

    Hà mách tiếp:

    “Ôn c̣n viết thư phản đối Hồ Chí Minh, cả tổng thống Mỹ và kêu gọi thế giới nữa.”

    “Tao mần một ḿnh mà ăn nhằm chi. Rứa nhưng cũng cứ mần, phải không con?”

    Ông đưa mắt sang tôi và mỉm cười. Tôi gật đầu. Ông nói tiếp:

    “Con có dám ra cầu ngồi phản đối chiến tranh với ôn không?”

    “Ôn nói dỡn hoài.”

    Má tôi lại chen vào:

    “Ôn làm răng đưa Lễ với vợ con nó về dưới ni giùm đi ôn!”

    “Th́ ôn con tui đang ḍ đường đi đây ń. Khó thoát lắm. Bữa ni phải đi ṿng Lầu Đua Ra, rồi ṿng xuống ngă đường rầy không được. Hai ôn con lại ṿng ngă Tây Thiên. Trên rứa, đại bác như mưa rứa, đi miết lên Tây Thiên mới ngớt tiếng nổ.”

    Thấy nước mắt má tôi chảy dài, ông an ủi:

    “Có người ta có ḿnh. C̣n tui th́ không lo chi hết nghe.”

    Hà thêm:

    “Chị đi ra ngoài xe đạp ôn a tề. Đó, có cái bị đựng gạo. Bao nhiêu gạo tốt, ôn đem phát hết rồi, đó toàn là tấm khôn đó thôi. Thôi th́ cả ngày ôn đi phát gạo, đi tải thương. Ôn chỉ có cái xe đạp đó.”

    Chiếc xe đạp của ông được dựng bên cái cột bằng giàn hoa, trên ghi đông treo lủng lẳng một cái bị bằng vải căng tṛn. Tôi nh́n lại ông, ông bỏ cái mũ ra rồi lại vội vàng đội lên đầu:

    “Thôi, chắc tui phải đi. Phải lên lại Từ Đàm.”

    Má tôi nài nỉ:

    “Ôn ở lại ăn cơm đă rồi lên. Chừ nghe mô đang đánh nhau mà ôn.”

    “Đánh nhau kệ cha chúng. Tui lên. Coi chiều ni c̣n đi tải thương nữa. Đi tải thương ń, đi kiếm thức ăn ń, trên nớ tụi nó hết đồ ăn rồi.”

    Hà nói:

    “Khi mô ôn xuống?”

    “Mơi.”

    “Mơi ôn xuống, con lên lại với ôn hỉ.”

    Má tôi nạt:

    “Mi tưởng chuyện giỡn há, răng mà đ̣i đi.”

    Ông Minh bênh Hà:

    “Can chi, sống chết có số cả mà bác. Con ni dạn lắm nghe. Tui mà c̣n làm cách mạng, tui cho nó theo liền.”

    Má tôi nể ôn Minh, làm thinh. Hà dặn đi dặn lại: mai ôn nhớ về. Tôi và Hà đưa ông ra tận ngoài ngơ:

    “Thôi bây vô đi. Đứng ở ngoài nguy hiểm lắm.”

    “Ôn ơi, lên tới, nói cho anh con biết kẻo anh con lo nghe ôn. Noái má con với cả nhà ở dưới ni yên lành hết.”

    “Ừ.”

    “Ôn nhớ mai xuống nhe ôn!”

    “Ừ.”

    Ông leo lên xe đạp và đạp đi, chiếc áo đen khuất dần nơi nghẹo. Hà ngẩn ngơ. Tôi nói:

    “Thôi vô.”

    “Dưới ni yên quá chị hỉ!”

    “Ừ yên.”

    Tôi không nỡ kể cho em tôi nghe về những trái đại bác câu lạc lúc gần sáng. Tôi cũng dấu luôn chuyện đụng độ mỗi ngày xảy ra trên quốc lộ.



    U1582474 by manhhai, on Flickr
    06 Feb 1968, Hue, South Vietnam --- U.S. Marines hold a Viet Cong flag they ripped down from atop the Thua Thien Province headquarters, and then replaced it with the stars and stripes. The leathernecks recaptured the Communist stronghold after seven days of street fighting

    Mai tiếp ....

  10. #260
    tran truong
    Khách

    Giải Khăn Sô Cho Huế

    Chỉ cần sau ruộng, sau xóm có một vài phát AK, hay vài quả B40 bắn ra là cả con đường này có thể tan tành hết. Ngay ngày đầu tiên nổ súng, quân Mỹ cũng lên được tới An Cựu coi t́nh h́nh để rồi sau đó về nằm yên một nơi cho Việt cộng hoành hành.

    Khi đi ngang qua khỏi nghẹo, một phát súng ở đâu phía sau Miểu Đại Càng bắn ra. Đoàn quân Mỹ dừng lại, một vài người Mỹ đi vào nhà gần nhất lôi ra một thanh niên. Anh này biết nói tiếng Anh, là một giáo sinh trường sư phạm Quy Nhơn về thăm nhà. Anh đưa giấy tờ, nói chuyện với người Mỹ. Nhưng họ đâu cần biết. Một phát súng nổ, người thanh niên tội nghiệp ngă xuống đất, co dúm người lại. Người Mỹ leo lên xe lái về Phú Bài. Trong căn nhà gần đó, mọi người đổ túa ra ôm lấy xác thanh niên khóc lóc. Một vài anh giải phóng đang đóng quân trong những nhà mặt sau tiến ra:

    “Đả đảo quân Mỹ tàn ác giết dân.”

    “Chúng tôi xin chia buồn. Đây là một cái chết anh dũng, một người v́ dân v́ nước.”

    Một lá cờ máu mạ̣ nhỏ được đắp lên mặt người chết. Một lúc sau mọi người rút đi hết. Chỉ c̣n thân nhân của xác chết vẫn chưa ngớt gào khóc, nhưng rồi tiếng khóc của họ cũng ch́m dần trong tiếng súng nổ ran bốn phía.
    C̣n nhiều nữa, làm sao tôi có thể kể cho em tôi nghe hết. Mới mấy ngày trước đây, quân Mỹ mất một khẩu súng đă giật đổ một căn nhà lầu. Mới mấy ngày trước đây, dăy nhà bên kia đường có một gia đ́nh mới về. Đêm hôm đó quân giải phóng về bắt người chủ gia đ́nh đi mất. Người này làm gác dan hay giữ xe ǵ đó cho một chi nhánh cảnh sát. Ông ta đă già và chắc tới nay đă ra người thiên cổ.

    Hà vẫn đi bên tôi trở vào nhà. Nó hỏi:

    “Nhà ḿnh đào hầm chưa?”

    “Không đào hầm th́ chết rồi. Ngày nào cũng có đạn lạc, có đại bác rơi gần. Ở đây mới yên có mấy ngày nay.”

    “Trên nớ dễ sợ lắm. Chị biết không, đại bác rơi như không ngừng, rồi máy bay. Bữa trước có mấy người chết, người ta sợ quá đem ra vườn chôn. Máy bay bắn xuống như mưa, sợ quá.”

    Má tôi đă đón ở cửa. Khi chúng tôi vừa lọt vào cửa là bà đóng chặt cửa lại. Thái cũng ở trong hầm ḅ ra:

    “Chào chị Hà.”

    “Ủa, khi hồi tới chừ mi ở mô?”

    “Trốn ở trong hầm.”

    “Răng mi không ra?”

    “Ra sợ lắm. Biết chị ra răng mà ra. Lỡ chị là người của giải phóng th́ răng.”

    “Đồ con khỉ. Tao về mà mi không mừng.”

    “Em nói chơi đó chớ. Nghe tiếng chị là em mừng bất chết. Nghe có tiếng đàn ông, em tưởng nhiều người em sợ. Mấy hôm ni, túi họ về bắt người dữ lắm nghe chị. Cứ có tiếng cú rúc là họ về.”

    “Ủa, răng giống trên nớ rứa? Trên nớ đêm mô cũng nghe toàn tiếng cú rúc. Dễ sợ lắm.”

    “Mật hiệu của họ đó.”

    Má tôi vẫn chưa hết thắc mắc:

    “Mà răng họ để cho con đi?”

    “Mấy bữa đầu họ cấm, về sau đại bác bắn lên quá, họ để ai đi th́ đi. Đàn ông thanh niên đi, họ mới bắt.”

    Tối hôm đó, mấy chị em nằm cạnh nhau, Hà kể chuyện Từ Đàm, cho biết tất cả chùa đều bị sập. Quân giải phóng treo cờ làm trụ sở chính ở chùa Linh Quang, và tổ chức những buổi học tập tại đó.
    Mấy ngày đầu không ai được ra khỏi nhà. Ở trong nhà làm hầm, ở ngoài quân giải phóng đào hố cá nhân, không khí có vẻ khẩn cấp lắm. Nhưng mấy ngày đầu hoàn toàn được yên tĩnh, không ai lo sợ mấy, đến khi đại bác câu tới, dân chúng mới hoảng hốt đi tản cư. Nhưng ra đường là chết.

    Tôi hỏi họ có treo cờ đỏ sao vàng không. Hà nói chỉ có cờ máu mạ̣. Ngay ngày đầu, họ đă hô hào hạ hết “cờ ba que” xuống và kiếm vải may cờ máu mạ̣. Thái hỏi thăm về đoàn cán bộ xây dựng nông thôn đóng ở trường học mấy hôm trước Tết.
    Hà ngao ngán: Tụi đó nó chạy đâu mất hết từ khi có tiếng súng nổ, vất đồ lại lung tung. Khi em lên tới th́ không có chi nữa. Hà tả cho tôi nghe những cô nữ cán bộ. Các cô này đi thăm dân, vào từng nhà hỏi han, nhưng các cô vào nhà ai là làm cho trẻ con, bà già sợ rụt lưỡi lại. Hà kể cho tôi nghe chuyện bà xếp Mập. Nó nói:

    “Buồn cười lắm chị. Mấy người giải phóng bầu cho bà xếp làm mẹ giải phóng. Chút chi họ cũng gọi mẹ giải phóng. Bà sợ họ lắm. Cứ mỗi lần gặp họ vô nhà là bà tíu tít: Mẹ giải phóng, mẹ giải phóng. Các con xức chút dầu với mẹ. Bao nhiêu chai dầu Nhị thiên đường bán nơi quán của bà, bà cho hết. Cứ thấy mặt họ là bà ngă lên ngã xuống , sứt mặt sứt mày hết.”

    Tôi hỏi Hà có sợ không, nó nói sợ th́ có sợ, nhưng mấy ngày đầu, nhờ có ông Minh nên vui lắm. Ông họp thanh niên lại hát hỏng đờn ca ở nhà thờ cụ Phan. Ông đ̣i viết thư phản đối chiến tranh. Mấy ngày đầu không có tiếng súng, ông ngồi đánh máy chữ lóc cóc rồi tổ chức hát. Ông nói rằng hát như thế mới bớt th́ giờ trống để lo sợ. Hà cho biết là khi qua bên nhà thờ cụ Phan th́ gặp bà vợ ông giáo sư Lê Văn Hảo, người được quân giải phóng đưa ra làm thị trưởng Huế.

    Tôi ṭ ṃ hỏi thăm. Hà cho biết là bà ta nói là trước Tết, ông Hảo bảo bà mua ít gạo thức ăn dự trữ, chứ không cho bà biết ǵ hết. Trái với lời của người thanh niên thuật lại, Hà nói bà Hảo rất dễ thương, bà c̣n có đứa con tên Nai. Ông Minh hết ḷng giúp đỡ bà ta. Bà Hảo cũng như những người đàn bà sợ súng đạn và nhát gan. Bà chẳng rơ ǵ công việc của chồng hết.

    Má tôi nói làm thế nào cũng phải đưa anh Lễ và gia đ́nh về dưới này. H́nh như Mỹ đă tiến tới cầu Nam Giao. Hai bên đang hầm hè nhau và cùng giữ thế thủ. Nếu để họ đánh nhau th́ bao nhiêu dân c̣n lại sẽ chết hết.
    Hà nói:

    “Mai ôn Minh về, con lên Từ Đàm.”

    Má tôi làm thinh. Hà nói:

    “Chị lên với em không?”

    Tôi không hứa với Hà, tôi đang ở trong t́nh trạng vô cùng nguy hiểm. Nếu họ biết tôi, họ t́m ra tôi, chắc chắn tôi cũng sẽ bị bắt đi như bao nhiêu người công chức khác. Thái hỏi:

    “Đi ngả mô?”

    “Đi ngả núi Ngự B́nh. Trên đó trống không, họ rút cả rồi. Bữa trước em với ôn Minh đi lên thấu núi Ngự B́nh đứng coi hai bên bắn nhau. Đại bác câu tới, sợ quá lăn xuống núi, c̣n đầy dấu nơi tay em đây ń chị. Em đi với ôn tới Lầu Đua Ra nữa. Toàn máu là máu, có xác chết thúi ŕnh...”

    “Chị đi rứa có thấy xác Mỹ không?”

    “Phía sau Lầu Đua Ra, tao có thấy một hai xác chi đó. Nó trương lên rồi, coi dễ sợ lắm.”

    Hà đưa tay sờ vào tường hầm, nói:

    “Hầm như ri dễ sợ lắm. Làm lại hầm đi. Ở đây yên rồi nhưng sợ đại bác câu lạc trúng th́ chết hết.”

    Má tôi nhớ lại mấy trái đại bác hồi tảng sáng làm sập nhà, chết người, bà thở dài:

    “Lấy chi ra mà làm hầm.”

    Hà nói:

    “Mai con lên trên nớ, con mua bao cát về cho. Trên nớ bán thiếu chi.”

    Thái cũng chen vô:

    “Trên bác con c̣n một ít, để mai con lên trên, con hỏi anh Bé.”

    Chúng tôi lại bàn việc đào hầm. Hà nói không nên làm hầm trong nhà, nguy hiểm lắm. Nhỡ nhà sập, hầm không sập cũng không thể có lối ra, dám bị chết nghẹt lắm. Cuối cùng, chúng tôi bàn mai sẽ đào hầm ở ngoài sân. Má tôi nói: Thôi chị em bây ngủ đi. Hà ôm lấy tôi, tôi cũng ṿng tay ôm lấy nó. Thật là may mắn, trong khi bao nhiêu người chết, bao nhiêu gia đ́nh tan nát, chị em tôi c̣n được nằm cạnh bên nhau. Mải nói chuyện, chúng tôi quên cả tiếng súng vẫn ỳ ầm khi gần khi xa. Một lúc sau, Thái nói:

    “Bắn dữ quá chị.”

    Hà góp:

    “Dữ chi mà dữ. Trên đó cứ nổ ́nh ́nh bốn phía, lúc nào cũng như sắp nổ trên đầu ḿnh.”

    “Rứa Việt cộng có chết không?”

    “Có chớ răng không. Ḿnh ở trong nhà, trong hầm tốt mà c̣n chưa chắc yên, huống chi họ ở trong cái hố nhỏ xíu. Trước nhà ḿnh c̣n có một tên giải phóng gác.”

    “Có nói chuyện với em không?”

    Hà làm thinh. Má tôi gắt nhỏ:

    “Ngủ đi chớ bay, nói chuyện hoài răng. Ngủ đi, sáng mai lấy sức mà đào hầm mới.”

    Tôi nghĩ tới anh tôi, lúc này đang cùng vợ con ở trong căn hầm tối tăm, và biết đâu đêm nay, quân Mỹ Việt sẽ tấn công lên Từ Đàm. Chỉ một giờ, một phút qua, mọi sự có thể thay đổi hết. Biết đâu ngày mai em tôi không c̣n trở lên trên đó được nữa. Cũng như tôi, biết đâu bây giờ đang ở vùng đă yên, mà sẽ không c̣n được trở vào Sài G̣n để gặp chồng con nữa.

    Nhưng rồi tôi cũng chẳng c̣n đủ sức để nghĩ tiếp. Tôi nhắm mắt và ngủ êm trong tiếng đại bác đang nổ tới tấp, cày nát một thành phố thơ mộng, đẹp đẽ.

    Con chó giữa ḍng

    Chỉ một đêm ngủ dậy, sáng ra, đường sá bỗng náo nhiệt hẳn. Lính từ dưới Phú Bài theo quốc lộ 1 lên nhiều lắm. Họ đi bộ và vẫn cứ đi dọc từng người, đeo ba lô. Họ vừa đi vừa nh́n xung quanh, hai bên đường, và mỉm cười chào những người đang đứng nh́n theo họ. Không biết dự trữ từ bao giờ , mà một bà già đă bày một rổ giá đựng thuốc lá ra bán ở góc nghẹo Đường Nay. Vài anh lính dừng lại:

    "Mẹ bán cho con một gói Ru by đi mẹ."

    "Các anh muốn gói mô cứ lấy. Tui có biết Ru by là thuốc chi mô."

    Một giọng hỏi:

    "Vậy thuốc đâu mà mẹ bán vậy mẹ?"

    "Há ? Thuốc mô há ? Th́ tui tản cư về đây, tui thấy người ta bỏ lại có cái giá bán thuốc ni dưới gầm giường. Thấy mấy anh đi qua, tui bày ra bán kiếm ăn."

    "Mẹ lấy bao nhiêu?"

    "Biết chi mô. Mấy cũng được."

    Người lính móc ví lấy ra tờ giấy hai trăm đưa hết cho bà già. Bà ta ngẩn ngơ:

    "Nhiều ri! Mấy chục mà."

    "Mẹ cầm hết mà tiêu."

    "Khôn, khôn. Mấy anh đi đánh giặc, cầm lấy mà mua thức ăn. Tui biếu không đó..."

    Vài người dừng lại, họ vất ra một trăm, hai trăm lấy thuốc. Chỉ một lát, thuốc lá hết sạch. Bà già cầm một nắm tiền toàn giấy trăm chạy theo mấy anh lính:

    "Mấy anh ui, tui không lấy tiền. Cho chi mà diều ri ń..."

    Mấy cái đầu quay lại, cười:

    "Mẹ giữ mà mua thức ăn. Tụi con biết sống chết ra sao."

    "Đi tới đầu đạn mà mẹ."

    "Chúc mẹ may mắn..."

    Đoàn đi trước đă bỏ bà già quá xa, đoàn lính sau tiếp tục đi đến, thấy một bà già vừa chạy vừa kêu, không hiểu chuyện ǵ. Họ lại móc trong ba lô ra những đồ hộp nhỏ, liệng tới chân bà già:

    "Bà đói hả? Đây, cầm lấy mà ăn."

    "Bà c̣n con cái chi không?"

    Nhiều tiếng thăm hỏi. Nhiều hộp nhỏ rơi tới chân bà. Bà chưa kịp nhặt th́ có mấy đứa trẻ con ở đâu chạy ra nhặt hết. Mấy anh lính nạt đùa:

    "Ê nhường cho người già cả với tụi bây."

    Bọn trẻ ù té chạy. Mấy cái hộp được trao tận tay bà già. Vài anh ân cần:

    "Thôi bà trở về nhà đi, đừng chạy theo mà nguy hiểm lắm."

    Đoàn lính lại tiếp tục đi. Thái và tôi đứng ngóng xem có đoàn người nào tản cư về không. Nhưng chắc thấy lính Mỹ lên nhiều quá, họ không dám đi nữa. Má tôi rối rít giục làm hầm, bà quên là chúng tôi chưa có một bao cát nào.
    Đoàn lính đi tới gần trưa mới hết. Chúng tôi yên tâm dọn ra bàn ăn. Lâu lắm mới có một bữa ăn đàng hoàng như thế. Dưới mợ Giáo vẫn tiếp tế thức ăn lên đều đều. Hôm nay chúng tôi có món thịt kho với đu đủ sống. D́ Vạn hà tiện thức ăn, kho thiệt mặn, nhưng chúng tôi ăn vẫn thấy ngon như thường.
    Má tôi hỏi thăm ở trên Từ Đàm ăn uống ra sao , th́ Hà nói nhờ có ông Minh nên ăn uống sướng lắm. Ôn đi về là có thịt có rau. Nhưng mấy hôm nay đánh nhau quá, ông bận đi tải thương, nhà lại hết thức ăn, mấy đứa nhỏ đă bắt đầu khóc.

    Ăn cơm xong, Thái đi bộ xuống tận Mù U, nghe nói dưới này có họp chợ. Nhưng chỉ mới tới Trường Bia th́ đă bị lính đuổi lên.
    Ông Minh giữ đúng lời hứa, ông về lại thật. Ăn cơm xong, chúng tôi sửa soạn nghỉ trưa th́ ông dắt xe đạp vào sân. Cả nhà ùa ra đón ông vào nhà:

    "Sao ôn, tụi trên nớ răng?"

    "Yên hết, không răng hết. Thầy Lễ nghe t́m được ra bác với cả nhà, thầy mừng lắm."

    Hà lăng xăng:

    "Con lên với ôn. Đường ra răng ôn?"

    "Th́ vẫn đi ngả núi. Bắn nhau quá chừng. Tao phải cột hai vạt áo lên vác xe mà chạy."

    Hà có vẻ hứng khởi:

    "Con đi với. Con sửa soạn đi với ôn nghe má."

    Má tôi lo lắng:

    "Liệu đi được không con?"

    "Được, được mà."

    "Rứa răng Lễ nó chưa về?"

    "Đi được là người tay không chân rời, chớ nó vợ con đùm đề, lại con Hy bị thương mần răng mà đi."

    Rồi ông nói tiếp:

    "Hà sửa soạn đi. Vân rót cho ôn chút nước."

    D́ Vạn hỏi:

    "Ôn có đem gạo theo phát không?"

    "Có chớ. Có cái túi đó."

    Hà đă sửa soạn xong, nó dắt xe đạp ra rồi cùng với ôn Minh đi lên Từ Đàm. Má tôi lấy một ít thức ăn bắt Hà đem lên trên đó. Hà nói tối về thế nào cũng có bao cát. Vậy là Thái với tôi kiếm chỗ đào hầm. Chúng tôi định đào ngay trước sân. Thái bắt đầu công việc. Chúng tôi phá cái hầm cũ làm thành cái hầm mới khác.

    Buổi chiều hôm đó, Hà về một ḿnh, không có ông Minh, nó cũng không đem theo xe đạp. Đi theo nó có hai người sinh viên, mặt mày xanh xao, tóc tai rối bù như người sống từ một nơi thiếu ánh sáng mặt trời đă lâu. Hà nói:

    "Đây là mấy anh sinh viên, anh Chữ với anh Hát."

    Má tôi hỏi:

    "Làm răng mấy anh đi được mà Lễ chưa chịu đi."

    Hà kể:

    "Trốn đi đó chớ má. Họ canh dữ lắm. Anh Lễ đi th́ họ biết liền. Con phải giả vờ đi vô đi ra cả chục lần, rồi mới đem mấy anh đi được."

    Thái hỏi:

    "Rứa họ không thấy hay răng?"

    "Có, có cái tên gác trước cửa trông thấy. Tao sợ bất chết, sợ nó bắn. Nhưng thấy nó không nói chi cả. Nó nh́n theo."

    Thái đùa:

    "Chị có nháy mắt với hắn không?"

    "Khỉ, sợ bất chết c̣n chọc. Mà tên đó c̣n trẻ, hắn tử tế lắm."

    "Hắn có khi mô nói chuyện với chị không?"

    "Không, ít lắm."

    "Nó nh́n chị không?"

    "Khỉ."

    "Rứa là nó mê chị rồi."

    Hai sinh viên gượng cười. Má tôi mời:

    "Mời vô trong nhà, đừng đứng ngoài ni mà họ ḍm ngó."

    Hà đi dẫn đầu:

    "Vô đi, vô nhà nghỉ đi."

    Hai người sinh viên khệ nệ ôm mỗi người một bao cát to tướng. Gần năm trăm cái bao. Làm hầm đủ rồi. Hà nói. Má tôi hỏi sao ông Minh không đưa xuống. Hà nói ông bận đi tải thương. Mỹ tới cầu Bến Ngự rồi, nhờ Mỹ tới cầu nên quân giải phóng rút bớt lên ngả núi mà nhiều người mới chạy thoát được. Hà cho biết trên Từ Đàm, đại bác câu như mưa, càng ngày càng dữ dội.



    Huế đẹp mộng mơ , Huế với áo dài khoe gió .... Huế mang nặng vết hằn Mậu Thân năm nào , không sao gột rửa !!!



    Mai tiếp ....

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •